Document
stringlengths
162
259k
Topic
int64
-1
616
Name
stringclasses
560 values
Representation
listlengths
10
10
Representative_Docs
listlengths
3
3
Top_n_words
stringclasses
560 values
Probability
float64
0
1
Representative_document
bool
2 classes
Moresnet () là nước nhỏ nhất thuộc châu Âu với diện tích cỡ khoảng 3,5 km²; chỉ tồn tại vì hai quốc gia bên cạnh không thể nào thỏa thuận về việc ai có quyền chiếm hữu vùng đất này. Vì vậy họ quyết định biến vùng đất này thành vùng trung lập, hai bên có quyền như nhau. Nó cách Aachen khoảng 7 km về phía tây nam, thẳng về phía nam của chỗ mà biên giới của ba nước Đức, Bỉ, và Hà Lan gặp nhau trên núi Vaalserberg. Lịch sử hình thành và phát triển. Sau khi Napoléon thất bại trong cuộc viễn chinh khắp châu Âu vào năm 1815 thì biên giới giữa các quốc gia châu Âu được thiết lập lại. Biên giới giữa Vương quốc Phổ và Vương quốc Hà Lan cũng không phải là ngoại lệ. Khi đó khu vực xung quanh làng Kelmis (thuộc Moresnet) là khu vực mà cả Phổ và Hà Lan đang tranh chấp do ở đó có một mỏ kẽm. Hai quốc gia này đàm phán với nhau trong khoảng 1 năm và cuối cùng vào năm 1816 đã quyết định chia vùng đất này (Mairie Moresnet) thành ba phần theo hiệp ước biên giới Aachen (ký năm 1816 và được phê chuẩn bởi hai bên năm 1823). Moresnet thuộc về Hà Lan, vùng Neu-Moresnet ngày nay thuộc về Phổ, còn vùng đất xung quanh làng Kelmis và mỏ kẽm là vùng đất trung lập thuộc quyền quản lý của các Cao ủy Hà Lan và Phổ. Đây là Moresnet trung lập ("Neutraal Moresnet"). Năm 1830, dân cư vùng đất phía nam Hà Lan tách ra đòi quyền độc lập và trở thành nước Bỉ ngày nay. Từ thời điểm này thì Moresnet thuộc về Bỉ và quyền quản lý của Hà Lan đối với vùng Moresnet trung lập cũng rơi vào tay Bỉ. Một điều cần lưu ý là Hà Lan chưa bao giờ chính thức chuyển quyền quản lý vùng đất trung lập này cho Bỉ. Năm 1914, Thế chiến thứ nhất nổ ra và vùng Moresnet trung lập rơi vào tay Đức. Người Bỉ mất quyền kiểm soát vùng đất trung lập này. Năm 1919 sau thất bại của người Đức thì vùng đất này lại thuộc quyền quản lý của người Bỉ. Điều 32 Hiệp ước Versailles (1919) quy định như sau: Từ đó Moresnet trung lập biến mất khỏi bản đồ thế giới.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
KDE là một cộng đồng quốc tế nhằm phát triển ứng dụng mã nguồn mở. Là một trung tâm phát triển trung tâm, nó cung cấp các công cụ và nguồn lực cho phép làm việc hợp tác trên loại phần mềm. Các sản phẩm nổi tiếng bao gồm Plasma Desktop, KDE Frameworks và một loạt các ứng dụng đa nền tảng như Krita hay digikam được thiết kế để chạy trên các desktop Unix và tương tự Unix, Microsoft Windows và Android. Là một trong những dự án được tín nhiệm nhất của KKDE, Plasma Desktop là desktop chính thức/mặc định trên nhiều bản phân phối Linux, như openSUSE, Manjaro, Mageia, OpenMandriva, Chakra, Kubuntu, KaOS và PCLinuxOS, và cũng chạy được trên Microsoft Windows và Mac OS thông qua Cygwin và Fink. Tổng quan. Cộng đồng KDE và công việc của mình có thể được đo bằng những chủ điểm sau đây: KDE Software. Có nhiều dự án phần mềm tự do được phát triển và duy trì bởi cộng đồng KDE. Dự án trước đây gọi là KDE hoặc "KDE SC (Software Compilation)" hiện nay bao gồm ba phần: KDE Plasma. KDE Plasma là một công nghệ giao diện người dùng có thể dễ dàng điều chỉnh để chạy trên các yếu tố hình thức khác nhau như desktop, netbook, tablet và smartphone hay thậm chí các thiết bị nhúng. Nhãn hiệu Plasma cho không gian làm việc đồ họa đã được giới thiệu từ KDE SC 4.4 trở đi. Trong loạt thứ tư, đã có hai không gian làm việc bổ sung bên cạnh Plasma 4 Desktop được gọi là Plasma Netbook và Plasma Active. KDE Plasma 5 mới nhất có các không gian làm việc sau: KDE Frameworks. KDE Frameworks cung cấp hơn 70 thư viện mã nguồn mở và miễn phí được xây dựng dựa trên Qt. Chúng là nền tảng cho KDE Plasma và hầu hết các ứng dụng KDE, nhưng có thể là một phần của bất kỳ dự án nào muốn sử dụng một hoặc nhiều mô-đun của nó. Kirigami. Kirigami là một framework ứng dụng Qml phát triển bởi Marco Martin cho phép các nhà phát triển viết các ứng dụng chạy tự nhiên trên Android, iOS, Plasma Mobile và bất kỳ desktop Linux cổ điển nào mà không cần điều chỉnh mã. Có một danh sách ngày càng tăng các ứng dụng như Linus Torvalds và Dirk Hohndels ứng dụng lặn biển Suburface, trình nhắn tin Banji, trình nhắn tin Kaidan hoặc trung tâm phần mềm KDE Discover. Ràng buộc. Mặc dù chủ yếu được viết bằng C++, có nhiều ràng buộc cho các ngôn ngữ lập trình khác có sẵn, ví dụ: cho các ngôn ngữ lập trình sau: Chúng và các ràng buộc khác sử dụng các công nghệ sau đây: Lịch sử. Trong KDE SC 4, còn được gọi là KDE Platform bao gồm tất cả các thư viện và dịch vụ cần thiết cho KDE Plasma và các ứng dụng. Bắt đầu với Qt 5, nền tảng này đã được chuyển đổi thành một tập hợp các mô-đun mà bây giờ được gọi là KDE Frameworks. Các mô-đun này bao gồm: Solid, Nepomuk, Phonon, vv. và được cấp phép theo giấy phép LGPL, BSD, Giấy phép MIT hoặc giấy phép X11. KDE Applications. KDE Applications là một gói phần mềm là một phần của bản phát hành KDE Applications. Tương tự Okular, Dolphin hay KDEnlive,chúng được xây dựng dựa trên KDE Frameworks và được phát hành theo lịch trình 4 tháng với số thứ tự phiên bản bao gồm YY.MM (e.g. 18.12). Các dự án khác. Extragear. Các phần mềm không phải là một phần chính thức của KDE Applications có thể được tìm thấy trong phần "Extragear". Chúng phát hành theo lịch trình riêng và có số hiệu phiên bản riêng của mình. Có nhiều ứng dụng độc lập như KTorrent, Krita hay Amarok hầu hết được thiết kế để có thể di động giữa các hệ điều hành và có thể triển khai độc lập với không gian làm việc hoặc môi trường desktop cụ thể. Một số thương hiệu bao gồm nhiều ứng dụng, chẳng hạn như Calligra Office Suite hay KDE Kontact. KDE neon. KDE neon là kho lưu trữ phần mềm sử dụng Ubuntu LTS làm lõi. Nó nhằm mục đích cung cấp cho người dùng phần mềm Qt và KDE được cập nhật nhanh chóng, đồng thời cập nhật phần còn lại của các thành phần hệ điều hành từ kho lưu trữ Ubuntu với tốc độ bình thường. KDE duy trì rằng đó không phải là "bản phân phối KDE", mà là một kho lưu trữ cập nhật của các gói KDE và Qt. Có một phiên bản "User" và hai phiên bản "Developer" của KDE Neon. WikiToLearn. WikiToLearn, viết tắt WTL, là một trong những nỗ lực mới hơn của KDE. Nó là một wiki (dựa trên MediaWiki, tương tự Wikipedia) cung cấp một nền tảng để tạo và chia sẻ giáo trình nguồn mở. Ý tưởng là có một thư viện giáo trình đồ sộ cho bất cứ ai và mọi người được sử dụng và sáng tạo. Nguồn gốc của nó nằm ở University of Milan, nơi một nhóm chuyên ngành vật lý muốn chia sẻ ghi chú, sau đó quyết định rằng nó dành cho tất cả mọi người chứ không chỉ nhóm bạn nội bộ của họ. Họ đã trở thành một dự án KDE chính thức với một số trường đại học ủng hộ nó. Người đóng góp. Giống như nhiều dự án tự do nguồn mở, việc phát triển phần mềm KDE chủ yếu là các nỗ lực tình nguyện, mặc dù các công ty khác nhau, như Novell, Nokia, hay Blue Systems sử dụng hoặc thuê các nhà phát triển để làm việc trên các phần khác nhau của dự án. Vì một số lượng lớn các cá nhân đóng góp cho KDE theo nhiều cách khác nhau (ví dụ: code, dịch thuật, thiết kế), việc tổ chức một dự án như vậy rất phức tạp. Phát triển. Hiện tại, cộng đồng KDE sử dụng hệ thống kiểm soát sửa đổi Git. Trang web KDE Projects và QuickGit cung cấp tổng quan về tất cả các dự án được lưu trữ bởi hệ thống kho lưu trữ Git của KDE. Phabricator được sử dụng để đánh giá bản vá. Commitfilter sẽ gửi email với mỗi cam kết cho các dự án bạn muốn xem, mà không nhận được hàng tấn thư hoặc nhận thông tin không thường xuyên và dư thừa. English Breakfast Network (EBN) là tập hợp các máy thực hiện kiểm tra chất lượng nguồn gốc KDE tự động. EBN cung cấp các tài liệu xác thực KDE API, tài liệu xác thực người dùng, kiểm tra mã nguồn. Nó được vận hành bởi Adriaan de Groot và Allen Winter. Commit-Digest cung cấp tổng quan hàng tuần về hoạt động phát triển. LXR lập chỉ mục các lớp và phương thức được sử dụng trong KDE. Ngày 20 tháng 7 năm 2009, KDE đã thông báo rằng cam kết thứ một triệu đã được thực hiện cho kho lưu trữ Subversion của nó. Ngày 11 tháng 10 năm 2009, Cornelius Schumacher, nhà phát triển chính trong KDE, đã viết về chi phí ước tính (sử dụng mô hình COCOMO với SLOCCount) để phát triển gói phần mềm KDE với 4.273.291 LoC, có giá khoảng 175.364.716 USD Ước tính này không bao gồm Qt, Calligra Suite, Amarok, Digikam, và các ứng dụng khác không phải là một phần của lõi. The Core Team. Định hướng tổng thể được thiết lập bởi "KDE Core Team".Đây là những nhà phát triển đã đóng góp đáng kể trong KDE trong một thời gian dài. Nhóm này liên lạc bằng cách sử dụng mailinglist "kde-core-devel", được lưu trữ công khai và có thể đọc được, nhưng việc tham gia cần phải có sự chấp thuận. KDE không có một lãnh đạo trung tâm duy nhấtcó thể phủ quyết các quyết định quan trọng. Thay vào đó, KDE core team bao gồm vài chục người đóng góp đưa ra quyết định. Các quyết định không bỏ phiếu chính thức, nhưng thông qua các cuộc thảo luận. Các nhà phát triển cũng tổ chức cùng với các nhóm chuyên đề. Ví dụ, "nhóm KDE Edu" phát triển phần mềm giáo dục miễn phí. Mặc dù các nhóm này hoạt động chủ yếu độc lập và không phải tất cả đều tuân theo lịch phát hành chung. Mỗi đội có các kênh nhắn tin riêng, cả trên IRC và trên mailinglist. Và họ có chương trình cố vấn giúp người mới bắt đầu. Các nhóm khác. Cộng đồng KDE có nhiều nhóm nhỏ hơn làm việc hướng tới các mục tiêu cụ thể. "Nhóm trợ năng" giúp KDE có thể truy cập được đối với tất cả người dùng, kể cả những người có khuyết tật vật lý. "Nhóm nghệ thuật" đã thiết kế hầu hết các tác phẩm nghệ thuật được sử dụng bởi phần mềm như biểu tượng, hình nền và theme. Họ cũng đã sản xuất đồ họa cho áo phông và trang web. Các cuộc thảo luận của nhóm hoạt động tích cực nhất trên kênh IRC. Nhóm "Bugsquad" theo dõi các lỗi đến. Họ xác minh rằng có một lỗi tồn tại, rằng nó có thể tái tạo và reporter đã cung cấp đủ thông tin. Mục tiêu là giúp các nhà phát triển nhận thấy các lỗi hợp lệ nhanh hơn và tiết kiệm thời gian của họ. Nhóm "Documentation team" viết các tài liệu cho ứng dụng. Nhóm sử dụng định dạng DocBook và các công cụ tùy chỉnh để tạo tài liệu. "Nhóm Bản địa hóa" dịch các phần mềm KDE sang nhiều ngôn ngữ khác nhau. Nhóm này làm việc cùng với Documentation team. "Nhóm Tiếp thị và Quảng bá" quản lý tiếp thị và quảng bá. Nhóm viết bài báo, thông báo phát hành và các trang web khác trên các trang web KDE. Các bài viết của KDE.News được gửi bởi nhóm. Nó cũng có các kênh tại các trang truyền thông xã hội để truyền thông và quảng bá. Họ cũng tham dự các sự kiện hội nghị. "Nhóm Nghiên cứu" "Research" cải thiện sự hợp tác với bên ngoài để đạt được nhiều nghiên cứu được tài trợ hơn. Họ hỗ trợ các thành viên cộng đồng bằng cách cung cấp thông tin, điều hướng các cơ quan và các đối tác nghiên cứu phù hợp. "Nhóm usability team" viết Hướng dẫn giao diện con người (HIG) cho các nhà phát triển và họ thường xuyên đánh giá các ứng dụng KDE. HIG cung cấp một bố cục tiêu chuẩn. Nhóm "Web team" duy trì trang web của KDE. "KDE Women" giúp phụ nữ đóng góp và khuyến khích phụ nữ nêu ý kiến tại các hội nghị. Nhóm phát hành định nghĩa và thực hiện các bản phát hành phần mềm chính thức. Nhóm chịu trách nhiệm thiết lập lịch phát hành cho các bản phát hành chính thức. Điều này bao gồm ngày phát hành, thời hạn cho các bước phát hành riêng lẻ và hạn chế thay đổi mã. Nhóm phát hành phối hợp ngày phát hành với các nỗ lực tiếp thị và báo chí của KDE. Nhóm phát hành bao gồm các Điều phối viên mô-đun, người liên lạc của nhóm tiếp thị và những người thực sự làm công việc gắn thẻ và tạo các bản phát hành. KDE Patrons. Một KDE Patron là một cá nhân hoặc tổ chức hỗ trợ cộng đồng KDE bằng cách quyên góp ít nhất 5000 Euro (tùy thuộc vào quy mô của công ty) cho KDE e.V. Tính đến tháng 10 năm 2017, có sáu patrons như vậy: Blue Systems, Canonical Ltd., Google, Private Internet Access, SUSE, và The Qt Company. Cấu trúc cộng đồng. Mascot. Konqi. Mascot của cộng đồng KDE là một chú rồng xanh có tên là Konqi. Konqi có một người bạn tên là Katie. Kandalf là linh vật trước đây của cộng đồng KDE trong các phiên bản 1.x và 2.x. Sự giống nhau của Kandalf với nhân vật Gandalf dẫn đến suy đoán rằng linh vật đã được chuyển sang Konqi do lo ngại vi phạm bản quyền, nhưng điều này chưa bao giờ được KDE xác nhận, đơn giản chỉ nói rằng Konqi đã được sử dụng do vẻ ngoài quyến rũ của anh ta. Sự xuất hiện của Konqi đã chính thức được thiết kế lại với sự xuất hiện của Plasma 5, với mục nhập của Tyson Tan(Xem bên phải) chiến thắng trong cuộc thi thiết kế lại trên KDE Forums. Katie. Katie là một con rồng cái. Nó được trình bày vào năm 2010. Được bổ nhiệm làm linh vật cho cộng đồng phụ nữ KDE. Những con rồng khác. Những con rồng khác với màu sắc và ngành nghề khác nhau đã được thêm vào Konqi như một phần của concept thiết kế lại của Tyson Tan. Mỗi con rồng có một cặp gạc hình chữ cái phản ánh vai trò của chúng trong cộng đồng KDE. Ví dụ: Tổ chức. Các vấn đề tài chính và pháp lý của KDE được xử lý bởi KDE e.V., một tổ chức phi lợi nhuận của Đức có trụ sở ở Berlin. Tổ chức này cũng hỗ trợ các thành viên cộng đồng trong việc tổ chức các hội nghị và cuộc họp của họ. KDE e.V. giúp chạy các máy chủ cần thiết bởi cộng đồng KDE. Nó sở hữu nhãn hiệu KDE và logo tương ứng. Nó trả chi phí đi lại cho các cuộc họp và trợ cấp cho các sự kiện. Các nhóm làm việc được thành lập được thiết kế để chính thức hóa một số vai trò trong KDE và để cải thiện sự phối hợp trong KDE cũng như liên lạc giữa các bộ phận khác nhau của KDE. KDE e.V. không ảnh hưởng đến sự phát triển phần mềm. Logo của KDE e.V. được đóng góp bởi David Vignoni. Ba lá cờ trên đầu logo đại diện cho ba nhiệm vụ chính của KDE e.V.: Hỗ trợ cộng đồng, đại diện cho cộng đồng và quản lý cộng đồng. Các cuộc họp, máy chủ và các sự kiện liên quan đến nhà phát triển của cộng đồng KDE thường được tài trợ bởi các cá nhân, trường đại học và doanh nghiệp. Các "thành viễn hỗ trợ" của KDE e.V. là những thành viên phi thường hỗ trợ KDE thông qua đóng góp tài chính hoặc vật chất. Các thành viên hỗ trợ được quyền hiển thị logo "Member of KDE" trên trang web hoặc trong các tài liệu in ấn của họ. "Patron of KDE" là thành viên hỗ trợ cao nhất. Patrons of KDE cũng được quyền hiển thị logo "Patron of KDE" trên trang web hoặc trong các tài liệu in ấn của họ. Ngày 15 tháng 10 năm 2006, it was announced that Mark Shuttleworth đã trở thành "Patron of KDE" đầu tiên. Ngày 7 tháng 7 năm 2007, Intel Corporation và Novell cũng đã trở thành patrons of KDE. Tháng 1 năm 2010, Google đã trở thành một thành viên hỗ trợ. Vào ngày 9 tháng 6 năm 2010, KDE e.V. đã phát động chiến dịch "Join the Game". Chiến dịch này thúc đẩy ý tưởng trở thành thành viên hỗ trợ cho các cá nhân. Nó được cung cấp cho những ai muốn hỗ trợ KDE, nhưng không có đủ thời gian để làm điều đó. Georg Greve, người sáng lập Free Software Foundation Europe (FSFE) là người đầu tiên 'join the game'. Các cộng đồng bản địa. Tại nhiều quốc gia, KDE có các chi nhánh địa phương. Đây là các tổ chức không chính thức (KDE India) hoặc giống như KDE e.V., được cung cấp một hình thức pháp lý (KDE France). Các tổ chức địa phương tổ chức và duy trì các trang web khu vực, và tổ chức các sự kiện địa phương, chẳng hạn như hội chợ, các cuộc họp cộng tác viên và các cuộc họp cộng đồng xã hội. KDE–AR (KDE Argentina) là hội nhóm của các nhà phát triển và người dùng KDE tại Argentina, và được chính thức khai trương vào ngày 22 tháng 11 năm 2008 tại một cuộc họp trong một kênh IRC. Họ tổ chức các bữa tiệc phát hành vào các ngày lễ để chào mừng việc phát hành các phiên bản mới của KDE SC kể từ 4.2. KDETHER AR có mailing list và kênh IRC riêng. KDE Brasil được sáng lập bởi một số nhóm địa phương ở Brazil, như KDE–MG, Live Blue, KDE Piauí, và KDE–RS. Mục tiêu chính của các nhóm địa phương là thúc đẩy khu vực và định hướng đóng góp của các thành viên, và vẫn duy trì sự hài hòa với cộng đồng KDE Brazil. KDE–MGlaf nhóm bản địa tại Minas Gerais. Ý tưởng về việc cấu trúc nhóm đã nảy sinh trong FISL (Fórum Internacional Software Livre) 10. Live Blue là một nhóm làm việc KDE ở Bahia. KDE Piauí à một nhóm người dùng và người đóng góp của KDE tại Piauí. Ý tưởng đã ra đời tại Software Freedom Day Teresina 2009 và đã được cụ thể hóa trong Akademy–Br 2010, nơi nhóm được chính thức tạo ra. KDE–RS là một nhóm người dùng KDE từ Rio Grande do Sul. KDE Lovelace là một nhóm người dùng và cộng tác viên người Brazil ở KDE. KDE España đã được đăng ký như một hiệp hội theo luật pháp Tây Ban Nha vào năm 2009. Mục đích là kích thích sự phát triển và sử dụng phần mềm KDE ở Tây Ban Nha. Cơ quan quản lý tối cao của nó là hội đồng chung. Thông thường cũng như các hội đồng chung bất thường có thể được tổ chức. Một hội nghị chung thông thường được tổ chức ít nhất một lần một năm. Hội đồng chung bất thường được tổ chức khi cần thiết. Hội đồng bao gồm chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký, thủ quỹ và các thành viên. Trong hội đồng hiện tại có Aleix Pol i Gonzàlez (chủ tịch), Alejandro Fiestas Olivares (phó chủ tịch), Víctor Blázquez Francisco (thư ký), và José Millán Soto (thủ quỹ). Ngoài ra, KDE España là đại diện chính thức của KDE e.V. tại Tây Ban Nha. KDE.in (KDE India), thành lập năm 2005,cung cấp cho người dùng và nhà phát triển KDE Ấn Độ một trung tâm cộng đồng để phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau. Bên cạnh những nỗ lực trong việc quốc tế hóa và bản địa hóa, mục tiêu chính là thúc đẩy việc tạo và điều chỉnh các ứng dụng KDE theo nhu cầu cụ thể của Ấn Độ. là nhóm KDE của người dùng bản địa Nhật Bản. Các loại thành viên của hiệp hội là và . Khoảng 15 thành viên hình thành các thành viên tích cực. Các nhận sự chính bao gồm một , hai và một kế toán. Hiện tại, chủ tịch là , phóa chủ tịch là và . Hiệp hội tổ chức một đại hội thường niên vào tháng 12. Các hoạt động của nó bao gồm dịch thông điệp sang tiếng Nhật, tạo các bản vá cho đa ngôn ngữ và trao đổi thông tin về KDE/Qt. KDE GB là một cộng đồng KDE có điều lệ tại Anh. Tại cuộc họp vào tháng 10 năm 2010, họ đã đồng ý đăng ký làm từ thiện. KDE-ir (فارسی KDE)là một cộng đồng KDE của người Iran Korean KDE Users Group được bắt đầu vào năm 1999. Công việc của nhóm chủ yếu là dịch thuật. KDE România thành lập ở Romania năm 2013. Truyền thông. Truyền thông trong cộng đồng diễn ra thông qua mailing lists, IRC, blogs, forums, thông báo tin tức, wikis và các hội nghị. Cộng đồng có Quy tắc ứng xử ("Code of Conduct)" cho hành vi được chấp nhận trong cộng đồng. Mailing lists là một trong số các kênh truyền thông chính. "Kde" list dành cho thảo luận người dùng và "Kde-announce" để cập nhật phiên bản, bản vá bảo mật và các thay đổi khác. Các danh sách phát triển chung là "Kde-devel", kết nối các nhà phát triển, và "Kde-core-devel", được sử dụng để thảo luận về sự phát triển của KDE Platform. Nhiều ứng dụng cũng có mailing lists riêng. KDE Community Forums đang được tích cực sử dụng. "KDE Brainstorm", cho phép người dùng gửi ý tưởng cho nhà phát triển. Yêu cầu sau đó có thể được xem xét bởi người dùng khác. Cứ sau vài tháng, các tính năng được bình chọn cao nhất sẽ được gửi cho các nhà phát triển. Các bot IRC thông báo các chủ đề và bài đăng mới trên các kênh IRC, bằng cách biên tập các bài đăng trên diễn đàn vào các tin nhắn trong danh sách gửi thư và bằng cách cung cấp các nguồn cấp RSS. KDE có ba wikis: UserBase, TechBase và Community Wiki. Chúng được dịch bởi phần mở rộng MediaWiki Translate. UserBase cung cấp các tài liệu cho người dùng cuối: thủ thuật, liên kết trợ giúp và danh sách các ứng dụng. Logo của nó được thiết kế bởi Eugene Trounev. TechBase cung cấp các tài liệu kỹ thuật cho nhà phát triển và quản trị hệ thống. Community Wiki hối hợp các nhóm cộng đồng. Nó được sử dụng để xuất bản và chia sẻ thông tin nội bộ cộng đồng. Kênh IRC cung cấp các thảo luận thời gian thực. Planet KDEđược tạo từ blog của những người đóng góp của KDE. KDE.News là trang web của các thông báo tin tức văn phòng. KDE Buzz theo dõi identi.ca, Twitter, Picasa, Flickr và YouTube để hiển thị hoạt động truyền thông xã hội liên quan đến KDE. KDE Pastebin cho phép đăng đoạn mã nguồn và cung cấp tô sáng cú pháp để dễ dàng xem lại mã. Các phần có thể được bảo vệ bằng mật khẩu. RSS thông báo về bài viết mới. KDE Bug Tracking System sử dụng Bugzilla để quản lý các báo cáo và sửa lỗi. "Behind KDE" cung cấp các phỏng vấn những người đóng góp KDE. Nhận dạng. KDE có hướng dẫn nhận dạng cộng đồng (CIG) cho các định nghĩa và khuyến nghị giúp cộng đồng thiết lập một thiết kế độc đáo, đặc trưng và hấp dẫn. Logo chính thức của KDE hiển thị hình dạng K-Gear được đăng ký nhãn hiệu màu trắng trên hình vuông màu xanh với các góc được giảm nhẹ. Việc sao chép Logo KDE phải tuân theo LGPL. Một số logo cộng đồng địa phương là dẫn xuất của logo chính thức.Các nhãn phần mềm KDE được các nhà sản xuất phần mềm sử dụng để cho thấy rằng họ là một phần của cộng đồng KDE hoặc họ sử dụng KDE Platform.Có ba nhãn có sẵn. Nhãn "Powered by KDE" được sử dụng để cho thấy rằng một ứng dụng có được sức mạnh từ cộng đồng KDE và từ nền tảng phát triển KDE. Nhãn "Built on the KDE Platform" cho biết ứng dụng sử dụng KDE platform. Nhãn "Part of the KDE family"được sử dụng bởi các tác giả ứng dụng để tự nhận mình là một phần của cộng đồng KDE. Nhiều ứng dụng KDE có một chữ "K" trong tên gọi, chủ yếu là một chữ cái đầu tiên. Chữ K trong nhiều ứng dụng KDE có được bằng cách thay thế một từ bắt đầu bằng C hoặc Q khác nhau, ví dụ Konsole và Kaffeine. Ngoài ra, một số chỉ tiền tố một từ thường được sử dụng với "K", ví dụ như KGet.Tuy nhiên, trong số các ứng dụng và công nghệ, xu hướng không có tên K nào cả, chẳng hạn như Stage and Dolphin. Hợp tác với các tổ chức khác. Wikimedia. Ngày 23 tháng 6 năm 2005, chủ tịch của Wikimedia Foundation đã thông báo rằng cộng đồng KDE và Wikimedia Foundation đã bắt đầu nỗ lực hợp tác. Thành quả của sự hợp tác đó là tô sáng cú pháp của MediaWiki trong Kate và truy cập nội dung Wikipedia trong các ứng dụng KDE, như Amarok và Marble. Ngày 4 tháng 4 năm 2008 KDE e.V. và đã mở văn phòng chia sẻ tại Frankfurt. Tháng 9 năm 2009 KDE e.V. chuyển đến văn phòng chia sẻ với Free Software Foundation Europe tại Berlin. Free Software Foundation Europe. Tháng 5 năm 2006, KDE e.V. trở thành Thành viên liên kết của Free Software Foundation Europe (FSFE). Ngày 22 tháng 8 năm 2008, KDE e.V. và FSFE cùng tuyên bố rằng sau khi làm việc với N FSFE's Freedom Task Forctrong một năm rưỡi KDE thông qua FSFE's Fiduciary Licence Agreement. Sử dụng điều đó, các nhà phát triển KDE có thể - trên cơ sở tự nguyện - gán bản quyền của họ cho KDE e.V. Tháng 9 năm 2009, KDE e.V. và FSFE chuyển đến văn phòng chia sẻ tại Berlin. Doanh nghiệp thương mại. Một số công ty đóng góp tích cực cho KDE, như Collabora, Erfrakon, Intevation GmbH, Kolab Konsortium, Klarälvdalens Datakonsult AB (KDAB), Blue Systems, và KO GmbH. Nokia đã dùng Calligra Suite làm cơ sở cho ứng dụng "Office Viewer" của họ cho Maemo/MeeGo. Họ cũng đã ký hợp đồng với KO GmbH để mang các bộ lọc định dạng fiel MS Office 2007 lên Calligra. Nokia cũng sử dụng trực tiếp một số nhà phát triển KDE - để sử dụng phần mềm KDE cho MeeGo (ví dụ "KCal") hoặc làm tài trợ. Các công ty tư vấn và phát triển phần mềm Intevation GmbH của Đức và Swedish KDAB dùng phần mềm Qt và KDE – đặc biệt là Kontact và Akonadi cho Kolab – cho các dịch vụ và sản phẩm của họ, do đó cả hai đều sử dụng các nhà phát triển KDE. Khác. KDE thanh gia vào freedesktop.org, một nỗ lực để chuẩn hóa khả năng tương tác của desktop Unix. Năm 2009 và 2011, GNOME và KDE đã đồng tổ chức các hội nghị của họ Akademy và GUADEC dưới tên goi "Desktop Summit". Tháng 12/2010 KDE e.V. trở thành người được cấp phép của Open Invention Network. Nhiều bản phân phối Linux và cá hệ điều hành tự do khác có liên quan đến việc phát triển và phân phối phần mềm, và do đó cũng hoạt động trong cộng đồng KDE. Chúng bao gồm các nhà phân phối thương mại như SUSE/Novell hay Red Hat nhưng cũng có các tổ chức phi thương mại do chính phủ tài trợ như Scientific and Technological Research Council of Turkey với bản phân phối Pardus của họ. Tháng 10/2018, Red Hat tuyên bố rằng KDE Plasma không còn được hỗ trợ trong các bản cập nhật trong tương lai của Red Hat Enterprise Linux, mặc dù nó vẫn tiếp tục là một phần của Fedora. Thông báo này được đưa ra ngay sau khi công bố mua lại Red Hat của IBM với giá trị gần 43 tỷ USD.
65
65_windows_microsoft_linux_phin
[ "windows", "microsoft", "linux", "phin", "office", "mm", "firefox", "explorer", "kde", "duyt" ]
[ "Windows NT 5.0 (tên cũ) là một dòng hệ điều hành của Microsoft dùng cho máy tính cá nhân, máy tính văn phòng, máy tính xách tay và máy chủ, Ra mắt ngày 17/2/2000, Windows 2000 là sản phẩm kế tiếp Windows NT 4.0. Theo sau là Windows XP cho máy tính để bàn vào tháng 10/2001 và Windows Server 2003 cho máy chủ vào tháng 4/2003. Windows Me được phát hành 7 tháng sau Windows 2000 và 1 năm trước Windows XP, nhưng không phải là sản phẩm kế tiếp Windows 2000. Windows Me dành cho gia đình, trong khi Windows 2000 được thiết kế dành cho công việc.\nCó bốn bản Windows 2000 từ thấp đến cao: \"Professional\", \"Server\", \"Advanced Server\", và \"Datacenter Server\". Microsoft còn phát hành Windows 2000 \"Advanced Server Limited Edition\" và Windows 2000 \"Datacenter Server Limited Edition\" vào năm 2001 để chạy trên nền tảng Intel x64.\nLịch sử.\nWindows 2000 được xây dựng dựa trên hệ điều hành Windows NT. Ban đầu nó được gọi là Windows NT 5 nhưng Microsoft đổi tên thành Windows 2000 vào ngày 27/10/1998. Nó cũng là phiên bản Windows đầu tiên không có tên mã. Phiên bản thử nghiệm đầu tiên được ra mắt ngày 27/9/1997. Nhiều phiên bản thử nghiệm nữa cũng được ra mắt cho đến bản Beta 3 ngày 29/4/1999. Microsoft ra mắt ba phiên bản nữa từ tháng 7 đến tháng 9/1999. Microsoft phát hành Windows 2000 cho các đối tác ngày 12/12/1999. Phiên bản đầy đủ được phát hành vào 17/2/2000 và được xem là phiên bản Windows chạy ổn định nhất. Vào ngày 29/2/2000, Microsoft phát hành Windows 2000 Datacenter. Microsoft phát hành Service Pack 1 (SP1) vào ngày 15/8/2000, Service Pack 2 (SP2) vào ngày 16/5/2001, Service Pack 3 (SP3) vào ngày 29/8/2002 và Service Pack 4 (SP4) vào 26/6/2003. Microsoft nói rằng họ sẽ phát hành Service Pack 5, nhưng thay vào đó, họ đã phát hành một bản cập nhật cho Service Pack 4. \nMicrosoft đã thay thế Windows 2000 Server bằng Windows Server 2003, và Windows 2000 Professional bằng Windows XP Professional. Windows Neptune được phát triển từ 1999. Nó đáng lẽ ra là phiên bản gia đình của Windows 2000. Tuy nhiên, chỉ một bản trước thử nghiệm (alpha) được tạo ra. Thay vào đó, Microsoft phát hành Windows Me và dự án Windows Neptune được nhập vào dự án Windows XP. Chức năng duy nhất của Neptune được tích hợp trong Windows 2000 là khả năng nâng cấp Windows 95, Windows 98, và hỗ trợ hệ thống quản lý tập tin FAT32.\nNhiều lỗ hổng bảo mật đã được phát hiện ra trong Windows 2000. Code Red và Code Red II là 2 sâu máy tính nổi tiếng nhất thông qua lỗi dịch vụ định vị tập tin của IIS trong Windows 2000 để tạo ra một lỗi bảo mật. Vào tháng 8/2003, hai sâu máy tính là Sobig và Blaster tấn công hàng triệu máy tính dùng Microsoft Windows và gây rất nhiều phiền toái cho những người quản trị mạng dùng Windows 2000. Điều này khiến cho nhiều đối tác của Microsoft và các chính phủ nghiên cứu cẩn thận về các lỗi bảo mật của Microsoft.\nWindows 2000 được phát triển dựa trên toàn bộ mã nguồn của Windows NT 4.0 và bộ giao diện của Windows 98. Đi kèm với NTFS 3.0 và các thay đổi lớn. Bản build đầu tiên của Windows 2000 là Build 1515, với số mã là NT 5.00.1515, tiếp nối bản Build 1381 của Windows NT 4.0.", "Windows 11 là một hệ điều hành của Microsoft được công bố vào ngày 24 tháng 6 năm 2021, là một phần của họ hệ điều hành Windows NT. Windows 11 được phát hành rộng rãi vào ngày 5 tháng 10 năm 2021 dưới dạng bản nâng cấp miễn phí thông qua Windows Update cho các thiết bị đủ điều kiện chạy Windows 10.\nMicrosoft phổ biến Windows 11 sẽ được cải thiện hiệu suất và dễ sử dụng hơn Windows 10; và có những thay đổi lớn đối với Windows Shell của Windows 10X, bao gồm cả Start menu được thiết kế lại, thay thế các \"live tiles\" bằng các ô riêng biệt chứa các biểu tượng ứng dụng. \"Widget\" là tính năng được kế thừa từ tính năng \"News and Interest\" có thể được truy cập từ thanh tác vụ, khả năng tạo nhóm cửa sổ xếp gạch có thể được thu nhỏ và khôi phục từ thanh tác vụ dưới dạng một nhóm và các công nghệ chơi game mới được kế thừa từ Xbox Series X và Series S, chẳng hạn như Auto HDR và DirectStorage trên phần cứng tương thích. Internet Explorer được thay thế hoàn toàn bằng Microsoft Edge, trong khi Microsoft Teams được tích hợp vào Windows shell. Microsoft cũng đã công bố kế hoạch cung cấp hỗ trợ cho ứng dụng Android để chạy trên Windows 11, với hỗ trợ cho Amazon Appstore cũng như cài đặt thủ công thông qua tệp APK.\nWindows 11 có các yêu cầu phần cứng nghiêm ngặt hơn Windows 10, trong đó Microsoft chỉ hỗ trợ hệ điều hành này với các bản cập nhật trên các thiết bị sử dụng CPU thế hệ thứ tám Intel Core hoặc mới hơn, AMD Ryzen CPU dựa trên vi kiến ​​trúc Zen+ hoặc mới hơn, hoặc Qualcomm Snapdragon 850 và ARM. Secure Boot và Trusted Platform Module (TPM) 2.0 cũng được yêu cầu. Ngoài ra, Windows 11 không còn hỗ trợ kiến ​​trúc 32-bit x86 hoặc các hệ thống sử dụng BIOS cũ.\nPhát triển.\nSau khi phát hành Windows 10, Microsoft tuyên bố phiên bản này sẽ là \"phiên bản Windows cuối cùng\". Hệ điều hành được định hướng là một dịch vụ, với việc bản dựng và bản cập nhật mới sẽ được phát hành theo thời gian. Tuy nhiên, những đồn đoán về một phiên bản mới hoặc thiết kế lại của Windows đã xuất hiện sau khi một danh sách công việc đề cập đến việc \"trẻ hóa toàn diện\" Windows được Microsoft đăng tải. Có tên mã được biết đến là \"Sun Valley\", việc thiết kế lại được thực hiện để hiện đại hóa hệ thống giao diện người dùng.\nCông bố.\nTại hội nghị dành cho các nhà phát triển Microsoft Build 2021, CEO Satya Nadella đã đề cập thế hệ tiếp theo của Windows trong bài phát biểu quan trọng của hội nghị. Theo Nadella, ông đã tự tổ chức bài phát biểu trong vài tháng. Ông ấy cũng trêu chọc rằng một thông báo chính thức sẽ đến rất sớm. Chỉ một tuần sau bài phát biểu quan trọng của Nadella, Microsoft bắt đầu gửi lời mời tham gia sự kiện dành riêng cho Windows lúc 11 giờ sáng giờ ET vào ngày 24 tháng 6 năm 2021. Sự kiện bắt đầu lúc 11 giờ sáng, thời gian khá bất thường đối với một sự kiện của Microsoft. Nhiều người tin rằng đây là một hàm ý. Microsoft cũng đăng một video âm thanh khởi động Windows dài 11 phút lên YouTube vào ngày 10 tháng 6, được cho là tham chiếu đến tên của hệ điều hành Windows 11. Thực tế, video âm thanh khởi động Windows đều chậm xuống ở tốc độ 4000%, chỉ có 3 âm thanh khởi động của Windows là Windows 95, Windows XP và Windows 7.\nVào ngày 24 tháng 6 năm 2021, Microsoft chính thức công bố Windows 11. Theo Nadella, Windows 11 là \"sự phát triển lại hệ điều hành\". Các chi tiết khác dành cho nhà phát triển là bản cập nhật cho Microsoft Store, ứng dụng mới Windows App SDK (có mã \"Project Reunion\"), thiết kế Fluent Design và hơn thế nữa đã được thảo luận về một sự kiện khác dành cho nhà phát triển cùng ngày.\nPhát hành.\nWindows 11 đã được phát hành trong một tài liệu hỗ trợ chính thức của Microsoft vào tháng 6 năm 2021. Hình ảnh về bản dựng alpha 21996.1 có chủ đích của Windows 11 đã bị rò rỉ trực tuyến sau đó vào ngày 15 tháng 6 năm 2021, sau đó là sự rò rỉ của bản dựng nói trên vào cùng ngày. Ảnh chụp màn hình và bản dựng bị rò rỉ cho thấy một giao diện giống với giao diện của Windows 10X đã bị khai tử, cùng với trải nghiệm ngoài hộp (OOBE) và thương hiệu Windows 11 được thiết kế lại. Microsoft sau đó đã xác nhận tính xác thực của bản beta bị rò rỉ, với Panay nói rằng đó là một \"bản dựng kỳ lạ ban đầu\".\nTại sự kiện truyền thông ngày 24 tháng 6, Microsoft cũng thông báo rằng Windows 11 sẽ được phát hành chính thức vào \"Holiday 2021\" (cuối năm 2021) nhưng không đưa ra ngày cụ thể. Bản phát hành sẽ có sẵn dưới dạng bản nâng cấp miễn phí cho các thiết bị Windows 10 đủ điều kiện thông qua Windows Update. Vào ngày 28 tháng 6, Microsoft đã công bố phát hành bản dựng xem trước và SDK đầu tiên của Windows 11 cho các thành viên Windows Insider.\nVào ngày 31 tháng 8 năm 2021, Microsoft thông báo rằng Windows 11 dự kiến ​​sẽ phát hành vào ngày 5 tháng 10 năm 2021. Việc phát hành sẽ được triển khai theo từng giai đoạn, với các thiết bị đủ điều kiện mới hơn sẽ được cung cấp bản nâng cấp đầu tiên. Microsoft dự kiến ​​việc triển khai sẽ hoàn thành vào giữa năm 2022. Kể từ khi Windows 10 được phát hành vào ngày 29 tháng 7 năm 2015, thì hơn 6 năm trước đó là khoảng thời gian dài nhất giữa các bản phát hành liên tiếp của hệ điều hành Microsoft Windows, vượt cả khoảng thời gian giữa Windows XP (phát hành vào ngày 25 tháng 10 năm 2001) và Windows Vista (phát hành vào ngày 30 tháng 1 năm 2007).\nCác tính năng.\nWindows 11, bản phát hành Windows lớn đầu tiên kể từ năm 2015, được xây dựng dựa trên phiên bản tiền nhiệm bằng cách cải tiến giao diện người dùng để tuân theo các nguyên tắc Fluent Design. Việc thiết kế lại tập trung vào tính dễ sử dụng và tính linh hoạt, đi kèm với các tính năng mới và hiệu suất cũng như các bản cập nhật về bảo mật và khả năng truy cập, giải quyết một số thiếu sót của Windows 10.\nMicrosoft Store, đóng vai trò như một cửa hàng thống nhất cho các ứng dụng và nội dung khác, cũng được thiết kế lại trong Windows 11. Microsoft hiện cho phép các nhà phát triển phân phối Win32, các ứng dụng web nội bộ và các công nghệ đóng gói khác trong Microsoft Store, cùng với các ứng dụng Universal Windows Platform tiêu chuẩn.\nNền tảng cộng tác Microsoft Teams được tích hợp vào giao diện người dùng Windows 11 và có thể truy cập thông qua thanh tác vụ. Skype sẽ không còn được cài đặt cùng với hệ điều hành theo mặc định.\nMicrosoft đã thúc đẩy các cải tiến về hiệu suất như kích thước bản cập nhật nhỏ hơn, duyệt web nhanh hơn trong \"bất kỳ trình duyệt nào\", thời gian đánh thức nhanh hơn từ chế độ ngủ và xác thực Windows Hello nhanh hơn.\nỨng dụng Xbox được cập nhật đi kèm với Windows 11. Công nghệ Auto HDR và DirectStorage được phát triển bởi Xbox Series X và Series S sẽ được tích hợp vào Windows 11; thứ hai yêu cầu một card đồ họa hỗ trợ DirectX 12 và một ổ cứng SSD.\nGiao diện người dùng.\nGiao diện được thiết kế lại hiện diện trong toàn bộ hệ điều hành, với việc độ mờ, bóng, bảng màu mới và các góc bo tròn đều xuất hiện trong toàn bộ hệ thống. Các nút trên thanh tác vụ được căn giữa theo mặc định, và nút \"Tiện ích\" mới hiển thị một bảng có các tiện ích cùng với nguồn cấp tin tức do Microsoft News cung cấp (thay thế cho bảng \"tin tức và sở thích\" được giới thiệu trong các phiên bản Windows 10 mới hơn). Thanh tác vụ được cố định vĩnh viễn vào cạnh dưới của màn hình và không thể di chuyển lên các cạnh trên cùng, trái hoặc phải của màn hình trong Windows 11 (mặc dù các biểu tượng ở giữa có thể được chuyển sang bên trái).\nMenu Start đã được thiết kế lại đáng kể, thay thế các \"live tiles\" được giới thiệu trong Windows 8.x và 10 bằng một lưới các ứng dụng \"được ghim\" và danh sách các ứng dụng và tài liệu gần đây.\nTask View, một tính năng được giới thiệu trong Windows 10, có thiết kế được làm mới và hỗ trợ cung cấp các hình nền riêng biệt cho từng màn hình ảo. Chức năng chụp cửa sổ đã được cải tiến với hai tính năng bổ sung; \"snap layouts\" cho phép người dùng chọn một bố cục được xác định trước mà họ muốn sử dụng để xếp nhiều cửa sổ lên màn hình. Việc sắp xếp các cửa sổ theo kiểu lát gạch có thể được thu nhỏ và khôi phục từ thanh tác vụ dưới dạng \"snap group\".\nWindows 11 có phông chữ mới, Segoe UI Variable. Phông chữ được thiết kế để mở rộng tỷ lệ tốt hơn với màn hình có số lượng điểm trên inch cao hơn, điều mà giao diện người dùng Segoe cũ không có. Các thay đổi khác đối với hệ thống bao gồm các biểu tượng hệ thống mới, hoạt ảnh, âm thanh và tiện ích. Phần lớn giao diện và menu start được lấy cảm hứng từ Windows 10X đã bị khai tử. Windows 11 cũng có các thiết kế mới cho ứng dụng File Explorer và Windows Settings.\nWindows Subsystem cho Android.\nWindows 11 cũng sẽ cho phép người dùng cài đặt và chạy các ứng dụng Android trên thiết bị của họ bằng \"Windows Subsystem for Android (WSA)\" và Dự án nguồn mở Android (AOSP). Người dùng có thể cài đặt các ứng dụng Android từ Microsoft Store thông qua Amazon Appstore. Tính năng này sẽ yêu cầu tài khoản Microsoft, tài khoản Amazon và bản cài đặt một lần cho ứng dụng khách Windows Amazon Appstore. Người dùng cũng có thể cài đặt ứng dụng Android thông qua bất kỳ nguồn nào bằng cách sử dụng gói ứng dụng Android (APK).\nHệ thống bảo mật.\nLà một phần của các yêu cầu hệ thống tối thiểu, Windows 11 chỉ hoạt động trên các thiết bị có bộ đồng xử lý bảo mật Trusted Platform Module 2.0. Theo Microsoft, bộ đồng xử lý TPM 2.0 là một \"yếu tố quan trọng\" để bảo vệ khỏi các cuộc tấn công phần mềm và tấn công mạng. Ngoài ra, Microsoft hiện yêu cầu các thiết bị chạy Windows 11 phải bao gồm bảo mật dựa trên ảo hóa (VBS), tính toàn vẹn của mã được bảo vệ bởi siêu giám sát (HVCI), và Secure Boot được bật theo mặc định. Hệ điều hành cũng có tính năng bảo vệ ngăn xếp được thực thi bằng phần cứng cho các bộ xử lý Intel và AMD được hỗ trợ để bảo vệ chống lại lỗ hổng zero-day.\nGiống như phiên bản tiền nhiệm, Windows 11 cũng hỗ trợ xác thực đa yếu tố và xác thực sinh trắc học thông qua Windows Hello.\nYêu cầu hệ thống.\nYêu cầu hệ thống tối thiểu của Windows 11 cao hơn nhiều so với Windows 10. Windows 11 chỉ hỗ trợ các hệ thống 64-bit, chẳng hạn như các hệ thống sử dụng x86-64 hoặc ARM64; hỗ trợ cho bộ xử lý IA-32 đã bị loại bỏ. Yêu cầu về RAM và bộ nhớ trong tối thiểu cũng được nâng lên; Windows 11 hiện yêu cầu ít nhất 4GB RAM và 64GB dung lượng lưu trữ. Chế độ S chỉ được hỗ trợ cho phiên bản Home của Windows 11. Kể từ tháng 6 năm 2021, chỉ Intel Core thế hệ thứ 8 (Coffee Lake, Whiskey Lake) trở lên, AMD Zen + (ngoại trừ phiên bản Ryzen 1st Gen \"AF\") trở lên và Qualcomm Snapdragon 850, cũng như các bộ xử lý mới hơn được hỗ trợ.\nLegacy BIOS kế thừa không còn được hỗ trợ; thay vào đó là hệ thống UEFI kết hợp với Secure Boot và bộ đồng xử lý bảo mật TPM 2.0. Yêu cầu TPM nói riêng đã dẫn đến nhiều tranh cãi vì nhiều bo mạch chủ không hỗ trợ TPM, cũng như yêu cầu về mô đun TPM tương thích được cài đặt bo mạch chủ hoặc có TPM tích hợp trên CPU hay phần cứng bị tắt theo mặc định, có thể giải quyết bằng cách thay đổi cài đặt trong UEFI của máy tính để kích hoạt.\nCác phiên bản xem trước của Windows 11 có thể được cài đặt trên các hệ thống có BIOS cũ, không có Secure Boot hoặc TPM 2.0. Đã có nhiều chỉ trích đáng kể về tác động môi trường của việc Microsoft bỏ rơi hàng triệu máy tính cũ, hay nhiều máy tính vẫn đáp ứng được nhu cầu của người dùng nhưng không đáp ứng được yêu cầu của Windows 11 khi Windows 10 bị loại bỏ dần.\nĐón nhận.\nPhiên bản xem trước.\nPhần lớn Windows 11 đều nhận được các phản hồi tích cực vì các thiết kế mới. Tuy nhiên, Windows 11 cũng gây ra nhiều tranh cãi đối với các yêu cầu hệ thống tối thiểu. Mặc dù vậy, các yêu cầu hệ thống được nâng lên (so với yêu cầu của Windows 10) do Microsoft công bố ban đầu có thể khiến 60% PC chạy Windows 10 hiện tại không thể nâng cấp lên Windows 11. Windows 11 Home cũng yêu cầu tài khoản Microsoft khi thiết lập thiết bị nhưng một số người dùng không muốn. Quá trình thiết lập cũng yêu cầu kết nối Internet trong phiên bản Home để đáp ứng việc bắt buộc phải đăng nhập bằng tài khoản Microsoft.\nCác sự cố về hiệu suất và trải nghiệm người dùng.\nKể từ khi Microsoft ra mắt Windows 11, hệ điều hành này đã nhận được nhiều báo cáo từ người dùng là hệ điều hành chưa hoàn thiện và vẫn còn tồn đọng nhiều lỗi, nhiều trang công nghệ lớn đã cho rằng Microsoft đã quá vội vàng khi lên kế hoạch phát triển Windows 11 và phát hành đến tay người dùng quá nhanh dẫn đến đội ngũ phát triển không có đủ thời gian để kiểm tra và sửa các lỗi tồn đọng bên trong hệ điều hành, dẫn đến khi phát hành Windows 11 thì hệ điều hành gặp rất nhiều lỗi nghiêm trọng. Một số lỗi nghiêm trọng được phát hiện và báo cáo là lỗi rò rỉ bộ nhớ RAM, lỗi giảm hiệu năng trên các vi xử lý AMD Ryzen lên đến 15% so với Windows 10, do sự cố độ trễ của bộ nhớ cache L3 và sự cố UEFI không chủ động giao nhiệm vụ cho các lõi xử lý có hiệu năng cao nhất (CPPC2). Ngoài ra, Windows 11 còn gặp một số vấn đề tương tích với trình điều khiển như trình điều khiển Intel Smart Sound Technology, gặp các vấn đề tương tích đối với phần mềm máy ảo Oracle VirtualBox, trình duyệt Cốc Cốc, lỗi rò rỉ bộ nhớ trong File Explorer khiến cho lượng RAM sử dụng bị tăng đột biến lên đến 70 - 90%, lỗi rò rỉ bộ nhớ trên tiến trình Windows Desktop Manager khiến cho lượng RAM sử dụng bị tăng đột biến, lỗi giảm hiệu năng trên các ổ cứng SSD NVMe và ổ cứng HDD, thường xuyên gặp lỗi màn hình xanh chết chóc, gặp các vấn đề về hiển thị đồ họa, vấn đề về hiển thị thanh tác vụ, lỗi hiển thị sai các biểu tượng hệ thống. Một số người dùng không thể mở được Start Menu (nhấn vào biểu tượng Start trên Windows 11 nhưng máy tính không có phản hồi gì), hay một số người dùng không thể nhấn chuột phải trên màn hình Desktop, lỗi quạt tản nhiệt trên máy tính (kể cả laptop) luôn chạy với tốc độ cao, nhưng nhiệt độ trên máy vẫn tăng cao lên đáng kể so với Windows 10 sau khi nâng cấp lên Windows 11. Một vài người dùng khác cho biết sau khi cài đặt Windows 11, máy tính hoạt động rất nhẹ và mượt, nhưng một thời gian lại rơi vào tình trạng giật, lag, chạy chậm bất thường. Đặc biệt một số người dùng máy tính của 2 hãng HP và Dell đã báo cáo rằng sau khi họ nâng cấp máy tính lên Windows 11 thì máy tính của họ bị đột tử và không thể khởi động, nguyên nhân ban đầu được xác định là do Windows Update của Windows 11 bắt người dùng cài đặt bản cập nhật BIOS và làm hỏng BIOS của máy tính, một số người dùng khác báo cáo rằng máy tính của họ đã khởi động được trở lại sau khi để yên máy tính khoảng 15 - 20 phút. Tất cả các trường hợp trên đều rơi vào máy tính đã được Windows kiểm tra và đáp ứng các yêu cầu phần cứng cho bản cập nhật Windows 11. Windows 11 hiện tại vẫn còn tồn tại nhiều lỗi chưa được khám phá và Microsoft đang trong quá trình lên kế hoạch sửa hết tất cả những lỗi tồn đọng thông qua bản cập nhật lớn Sun Valley 2. Nhiều người dùng cho rằng Windows 11 sẽ tiếp tục dính lời nguyền vòng lặp thất bại của Microsoft, sẽ trở thành phiên bản Windows 8 thứ hai. Lời nguyền được ví như rằng có 1 bản Windows thành công và được người dùng đón nhận thì sẽ nối tiếp là 1 phiên bản Windows thất bại và không được người dùng ưa chuộng.", "Windows XP là một hệ điều hành do Microsoft phát triển, là một phần của họ hệ điều hành Windows NT, hướng tới các máy tính để bàn dành cho gia đình và doanh nghiệp, máy tính xách tay, máy tính bảng và máy tính trung tâm đa phương tiện. Đây là hệ điều hành kế nhiệm của cả của Windows 2000 cho người dùng doanh nghiệp và Windows Me cho người dùng gia đình. Windows XP được phát hành cho nhà sản xuất vào ngày 24 tháng 8 năm 2001, với doanh số bán lẻ bắt đầu vào ngày 25 tháng 10 năm 2001.\nSự phát triển của Windows XP bắt đầu vào cuối những năm 1990 với tên gọi \"Neptune\", một hệ điều hành (OS) được xây dựng trên nhân Windows NT và được thiết kế đặc biệt cho người tiêu dùng phổ thông. Phiên bản cập nhật của Windows 2000 cũng được lên kế hoạch ban đầu cho thị trường doanh nghiệp; tuy nhiên, vào tháng 1 năm 2000, cả hai dự án đều bị hủy bỏ để chuyển sang một hệ điều hành duy nhất có tên mã là \"Whistler\" sẽ phục vụ như một nền tảng hệ điều hành cho cả thị trường tiêu dùng và doanh nghiệp. Do đó, Windows XP là phiên bản dành cho người tiêu dùng đầu tiên của Windows không dựa trên nhân Windows 95 và MS-DOS.\nSau khi phát hành, Windows XP đã nhận được những phản hồi tích cực vì hiệu suất và độ ổn định (đặc biệt là so với Windows Me), giao diện người dùng trực quan hơn, cải thiện hỗ trợ phần cứng và mở rộng khả năng đa phương tiện. Tuy nhiên, một số nhà đánh giá đã lo ngại về mô hình cấp phép mới và hệ thống kích hoạt sản phẩm. Windows XP và Windows Server 2003 được kế nhiệm bởi Windows Vista và Windows Server 2008 được phát hành lần lượt vào tháng 1 năm 2007 và tháng 2 năm 2008.\nHỗ trợ chính cho Windows XP kết thúc vào ngày 14 tháng 4 năm 2009, và hỗ trợ mở rộng kết thúc vào ngày 8 tháng 4 năm 2014. Vào thời điểm này, hệ điều hành không còn nhận được các bản cập nhật bảo mật hoặc hỗ trợ. Windows Embedded POSReady 2009, dựa trên Windows XP Professional đã nhận được các bản cập nhật bảo mật cho đến tháng 4 năm 2019. Các phương pháp không chính thức đã được cung cấp để áp dụng trên bản cập nhật cho các phiên bản Windows XP khác. Microsoft không khuyến khích điều này vì các vấn đề không tương thích.\n, có 0,58% PC chạy Windows XP (trên toàn thế giới, tỉ lệ này là 1%), và có 0,18% các thiết bị trên tất cả các nền tảng chạy Windows XP. Mặc dù vậy, Windows XP vẫn rất phổ biến ở nhiều quốc gia, chẳng hạn như Armenia có hơn 50% máy tính sử dụng Windows XP.\nPhát triển.\nVào cuối những năm 1990, sự phát triển ban đầu của Windows XP ban đầu được tập trung vào hai sản phẩm riêng lẻ: \"Odyssey\" sẽ kế nhiệm Windows 2000; và \"Neptune\", hệ điều hành hướng đến người tiêu dùng sử dụng kiến trúc Windows NT, phiên bản sau của Windows 98 dựa trên MS-DOS.\nCuối cùng, các dự án đã trở thành bế tắc phát triển. Ngay trước khi phát hành chính thức Windows 2000, nhà văn công nghệ Paul Thurrott cho rằng Microsoft đã bỏ qua cả Neptune và Odyssey để ủng hộ một sản phẩm mới có tên mã \"Whistler\" được đặt theo tên của Whistler, British Columbia, nơi nhiều nhân viên của Microsoft trượt tuyết tại khu nghỉ mát Whistler-Blackcomb. Mục tiêu của tên mã Whistler là hợp nhất cả dòng Windows dành cho người tiêu dùng và doanh nghiệp dưới một nền tảng duy nhất là Windows NT. Và vì Neptune và Odyssey là cùng một cơ sở mã, nên việc kết hợp chúng thành một dự án duy nhất là rất hợp lý \".\nTại hội nghị PDC vào ngày 13 tháng 7 năm 2000, Microsoft thông báo sản phẩm Whistler sẽ được phát hành trong nửa cuối năm 2001, đồng thời tiết lộ bản dựng xem trước 2250, trong đó có việc triển khai hệ thống kiểu trực quan của Windows XP và các thay đổi giao diện cho Windows Explorer và Control Panel.\nMicrosoft đã phát hành phiên bản thử nghiệm 2296 ngày 31 tháng 10 năm 2000. Các bản dựng tiếp theo giới thiệu các tính năng mới cho người dùng Windows XP, chẳng hạn như Internet Explorer 6.0, Trình kích hoạt bản quyền sản phẩm Microsoft và ảnh nền \"Bliss.\"\nSản phẩm Whistler chính thức được công bố trong một sự kiện truyền thông vào ngày 5 tháng 2 năm 2001 dưới tên Windows XP, trong đó XP là viết tắt của \"eXPerience\".\nPhát hành.\nVào tháng 6 năm 2001, Microsoft có kế hoạch cùng với Intel và các nhà sản xuất PC khác, chi ít nhất 1 tỷ đô la Mỹ cho việc tiếp thị và quảng bá Windows XP. Khẩu hiệu \"Yes You Can\", được thiết kế để nhấn mạnh khả năng tổng thể của nền tảng. Microsoft ban đầu dự định sử dụng khẩu hiệu \"Prepare to Fly\", nhưng đã bị thay thế vì các vấn đề nhạy cảm sau Sự kiện 11 tháng 9.\nVào ngày 24 tháng 8 năm 2001, Windows XP build 2600 đã được phát hành cho các nhà sản xuất (RTM). Trong một sự kiện truyền thông tại Microsoft Redmond Campus, các bản sao của bản RTM đã được trao cho đại diện của một số nhà sản xuất PC lớn trong những chiếc cặp, sau đó họ sẽ lên những chiếc trực thăng được trang trí. Các nhà sản xuất PC có thể phát hành các thiết bị chạy hệ điều hành này bắt đầu từ ngày 24 tháng 9 năm 2001, thì XP dự kiến sẽ có mặt trên thị trường bán lẻ nói chung vào ngày 25 tháng 10 năm 2001. Cùng ngày, Microsoft cũng công bố giá bán lẻ cuối cùng của hai phiên bản chính của XP là \"Home\" (thay thế cho Windows Me cho người dùng gia đình) và \"Professional\" (thay thế cho Windows 2000 cho người dùng khác).\nTính năng mới và cập nhật.\nGiao diện người dùng.\nMặc dù vẫn có một số điểm tương đồng với các phiên bản trước, nhưng giao diện của Windows XP đã được đại tu với giao diện trực quan mới, với việc tăng cường sử dụng các hiệu ứng tổng hợp alpha, đổ bóng và kiểu trực quan. Điều này đã thay đổi hoàn toàn diện mạo của hệ điều hành. Số lượng hiệu ứng do hệ điều hành xác định dựa trên khả năng xử lý của máy tính và có thể được bật hoặc tắt tùy theo từng trường hợp. XP cũng bổ sung ClearType, một hệ thống kết xuất subpixel mới được thiết kế để cải thiện các phông chữ trên màn hình tinh thể lỏng. Một bộ biểu tượng hệ thống mới cũng được giới thiệu. Hình nền mặc định \"Bliss\", là ảnh chụp phong cảnh ở thung lũng Napa, California, với những ngọn đồi xanh và bầu trời xanh với tầng mây và mây ti.\nStart menu đã được đại tu lần đầu tiên trong XP, chuyển sang bố cục hai cột với khả năng liệt kê, ghim và hiển thị các ứng dụng thường dùng, các tài liệu được mở gần đây và menu \"All Programs\" xếp tầng truyền thống. Thanh tác vụ hiện có thể nhóm các cửa sổ được mở thành một nút trên thanh tác vụ, với menu bật lên liệt kê các cửa sổ riêng lẻ. Khu vực thông báo cũng ẩn các biểu tượng \"không hoạt động\" thường xuyên theo mặc định. Danh sách \"common tasks\" đã được thêm và thanh bên của Windows Explorer đã sử dụng thiết kế dựa trên tác vụ mới với danh sách các hành động phổ biến; các tác vụ được hiển thị có liên quan theo ngữ cảnh với loại nội dung trong thư mục (ví dụ: thư mục có màn hình nhạc để phát tất cả các tệp trong thư mục hoặc ghi vào đĩa CD).Tính năng chuyển đổi người dùng cho phép người dùng khác đăng nhập vào Windows XP nhanh chóng mà không cần người dùng hiện tại phải đóng chương trình của họ và đăng xuất. Mặc dù chỉ một người dùng tại thời điểm này có thể sử dụng bảng điều khiển (tức là màn hình, bàn phím và chuột), thì những người dùng trước có thể tiếp tục phiên của họ sau khi họ quay lại bảng điều khiển.\nHệ thống.\nWindows XP sử dụng tính năng tìm nạp trước để cải thiện thời gian khởi động và khởi chạy ứng dụng. Nếu trình điều khiển được cập nhật làm kết quả không như mong muốn thì có thể hoàn nguyên cài đặt trình điều khiển thiết bị được cập nhật.\nHệ thống bảo vệ bản quyền hay còn được gọi là trình kích hoạt bản quyền sản phẩm Microsoft đã được giới thiệu cùng với Windows XP và phiên bản máy chủ Windows Server 2003. Tất cả các giấy phép Windows phải được đi kèm với một ID duy nhất bằng cách sử dụng thông tin từ phần cứng máy tính, được kích hoạt qua internet hoặc đường dây nóng qua điện thoại. Nếu Windows không được kích hoạt trong vòng 30 ngày kể từ ngày cài đặt, hệ điều hành sẽ ngừng hoạt động cho đến khi được kích hoạt. Windows cũng xác minh định kỳ phần cứng để kiểm tra các thay đổi. Nếu hệ điều hành phát hiện thấy các thay đổi phần cứng đáng kể, quá trình kích hoạt sản phẩm sẽ bị vô hiệu và Windows sẽ buộc phải kích hoạt lại.\nKết nối mạng và chức năng internet.\nWindows XP ban đầu được bao gồm Internet Explorer 6, Outlook Express 6, Windows Messenger và MSN Explorer. Các tính năng mạng mới bao gồm Internet Connection Firewall, Internet Connection Sharing với UPnP, API truyền tải NAT, tính năng Quality of Service, IPv6 và Teredo, Background Intelligent Transfer Service, tính năng fax mở rộng, bắc cầu mạng, mạng ngang hàng, hỗ trợ cho hầu hết các modem DSL, kết nối IEEE 802.11 (Wi-Fi) với cấu hình tự động và chuyển vùng, TAPI 3.1, kết nối mạng qua FireWire. Tính năng mới Remote Assistance và Desktop Services cho phép người dùng kết nối với máy tính chạy Windows XP thông qua Internet, truy cập các ứng dụng, tệp, máy in và thiết bị hoặc yêu cầu trợ giúp. Các tính năng của \"IntelliMirror\" như Offline Files, Roaming user profiles and Folder redirection cũng được cải tiến.\nTương thích ngược.\nĐể bật phần mềm đang chạy nhắm mục tiêu hoặc khóa các phiên bản Windows cụ thể, \"Chế độ tương thích\" đã được thêm vào. Tính năng này cho phép giả mạo phiên bản Windows trước đó đã chọn sang phần mềm, bắt đầu từ Windows 95.\nMặc dù khả năng này lần đầu tiên được giới thiệu trong Windows 2000 Service Pack 2, nó phải được kích hoạt thông qua \"đăng ký máy chủ\" và chỉ có sẵn cho người dùng quản trị viên, trong khi Windows XP đã kích hoạt nó cho người dùng thông thường.\nTính năng bị loại bỏ.\nMột số chương trình và tính năng là một phần của các phiên bản trước của Windows không được đưa vào Windows XP. Các lệnh MS-DOS khác nhau có sẵn trong Windows 9x đã bị loại bỏ, cũng như hệ thống con POSIX và OS/2.\nĐối với mạng, NetBEUI, NWLink và NetDDE không còn được thiết lập theo mặc định. Các thiết bị mạng không tương thích (như modem và card mạng) không còn được hỗ trợ.\nGói dịch vụ 2 và Gói dịch vụ 3 cũng đã loại bỏ các tính năng khỏi Windows XP, nhưng ở mức độ ít hơn. Ví dụ: hỗ trợ cho các kết nối TCP bị loại bỏ khỏi Service Pack 2, và thanh địa chỉ trên thanh tác vụ bị loại bỏ trên Service Pack 3.\nThị trường.\nCác phiên bản dành cho các thị trường nhất định.\nWindows XP Starter Edition là một phiên bản giá thấp của Windows XP dành cho các thị trường Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia, Indonesia, Nga, Ấn Độ, Colombia, Brasil, Argentina, Peru, Bolivia, Chile, México, Ecuador, Uruguay và Venezuela. Nó tương tự như Windows XP Home, nhưng giới hạn cho những phần cứng cấp thấp, chỉ có thể chạy 3 chương trình một lúc, và có một số tính năng khác được mặc định tắt hoặc gỡ bỏ. Các phiên bản của mỗi quốc gia cũng được đình chỉnh dành riêng cho quốc gia đó, trong đó có hình nền là địa điểm nổi tiếng tại quốc gia đó, các tính năng trợ giúp được bản địa hóa để giúp đỡ những người không biết tiếng Anh, và các thiết lập mặc định khác giúp dễ dùng hơn so với khi cài đặt Windows XP thông thường. Ví dụ như phiên bản Malaysia có hình nền là khung cảnh của Kuala Lumpur.\nVào tháng 3 năm 2004, Ủy ban châu Âu đã phạt Microsoft 497 triệu euro và ra lệnh cho công ty này phải cung cấp một phiên bản Windows không có Windows Media Player. Ủy ban kết luận rằng Microsoft \"đã vi phạm luật cạnh tranh của Liên minh châu Âu bằng cách đẩy sự độc quyền trong thị trường hệ điều hành dành cho máy tính để bàn sang thị trường dành cho hệ điều hành máy chủ phục vụ nhóm làm việc và trình chơi nhạc\". Sau khi kháng án không thành vào năm 2004 và 2005, Microsoft đã có thỏa thuận với Ủy ban sẽ phát hành một phiên bản thể theo bàn án của tòa, Windows XP \"Edition N\". Phiên bản này không có Windows Media Player, thay vào đó, nó khuyến khích người dùng tự chọn và tải về trình chơi nhạc của riêng họ. Microsoft muốn đặt tiên cho phiên bản này là \"Reduced Media Edition\", nhưng tổ chức thi hành của EU đã phản đối và đề nghị tên \"Edition N\", với chỉ \"N\" có nghĩa là \"not with Media Player\" (không có Media Player) cho cả phiên bản Home và Professional của Windows XP. Vì nó được bán ngang giá với phiên bản có Windows Media Player, Dell, Hewlett-Packard, Lenovo và Fujitsu Siemens đã không dùng nó trong sản phẩm. Tuy nhiên, Dell có đưa ra hệ điều hành này một thời gian ngắn. Tỷ lệ người dùng hệ điều hành này thấp, với chỉ 1.500 đơn vị được bán cho OEM, và không thấy có báo cáo về số lượng bán cho người tiêu dùng.\nVào tháng 12 năm 2005, Ủy ban Thương mại Công bằng Hàn Quốc đã yêu cầu Microsoft bán các phiên bản Windows XP và Windows Server 2003 không có Windows Media Player hoặc Windows Messenger.\nCũng cùng năm đó, Microsoft cũng phát hành hai phiên bản Windows XP Home Edition nhắm tới mô hình ra giá dựa trên thuê bao và trả tiền khi xài. Các phiên bản này, được phát hành như một phần của sáng kiến FlexGo của Microsoft, được dùng kèm với một thành phần phần cứng để hạn chế thời gian sử dụng Windows. Thị trường mục tiêu là những nền kinh tế đang nổi như Brasil hay Việt Nam.\nNgôn ngữ.\nWindows XP có nhiều phiên bản ngôn ngữ. Ngoài ra, gói MUI và Language Interface Pack dùng để dịch giao diện người dùng cũng có ở một số ngôn ngữ hoặc người dùng có thể tải về hoặc dùng bộ gõ UniKey..\nGiao diện người dùng.\nWindows XP phân tích tác động của các hiệu ứng hình ảnh lên hiệu năng và dùng nó để xác định có nên kích hoạt chúng không, do đó ngăn ngừa các tính năng mới ngốn quá nhiều tài nguyên xử lý. Người dùng cũng có thể điều chỉnh các thiết lập này. Một số hiệu ứng, như trộn alpha (trong suốt rồi giảm dần), được xử lý hoàn toàn bởi các loại card đồ họa mới. Tuy nhiên, nếu card đồ họa không có khả năng trộn alpha, hiệu năng có thể bị ảnh hưởng đáng kể, và Microsoft khuyến cáo nên tắt tính năng này bằng tay. Windows XP thêm các khả năng để Windows có thể sử dụng \"Kiểu Thị giác\" để thay đổi giao diện người dùng. Tuy nhiên, các kiểu thị giác phải được Microsoft ký tên mã hóa thì mới chạy được. \"Luna\" là tên của kiểu thị giác mới đi kèm với Windows XP, và được kích hoạt mặc định đối với các máy có bộ nhớ RAM video hơn 64 MiB. \"Luna\" dùng để chỉ một kiểu thị giác cụ thể, chứ không phải tất cả các tính năng giao diện mới của Windows XP. Một số người dùng \"vá\" tập tin uxtheme.dll hạn chế khả năng sử dụng kiểu thị giác trên Windows XP.\nNgoài các chủ đề đi kèm với Windows XP, có một chủ đề trước đó không được phát hành với thanh tác vụ màu xanh đen và thanh cửa sổ tương tự với Windows Vista có tên \"Royale Noir\" có sẵn để tải về, mặc dù nó không chính thức. Microsoft đã chính thức phát hành một phiên bản chỉnh sửa của chủ đề này với tên chủ đề \"Zune\", để chào mừng sự ra mắt máy chơi nhạc bỏ túi Zune vào tháng 11 năm 2006. Sự khác nhau duy nhất là cảm giác bóng như gương kèm với một thanh tác vụ màu đen thay vì màu xanh đen và nút Start màu cam thay vì màu xanh lá cây. Ngoài ra, chủ đề \"Royale\" của Media Center, được kèm trong các phiên bản Media Center, cũng có sẵn để tải về và có thể dùng trên mọi phiên bản Windows XP.\nHình nền mặc định, Bliss, là ảnh phong cảnh ở Thung lũng Napa bên ngoài Napa, California theo định dạng BMP, có những ngọn đồi và bầu trời xanh với các đám mây tầng tích và mây ti.\nCác gói dịch vụ.\nMicrosoft thỉnh thoảng phát hành các service pack dành cho hệ điều hành Windows cũng hãng để sửa các lỗi và thêm tính năng. Mỗi service pack là một gói lớn gồm tất cả các service pack trước đó cùng với những bản vá, do đó chỉ cần cài đặt những service pack mới nhất. Bạn cũng không cần phải gỡ bỏ các service pack cũ hơn trước khi cài một bản service pack mới.\nGói dịch vụ 1.\nGói dịch vụ 1 (SP1) dành cho Windows XP được phát hành vào ngày 9 tháng 9 năm 2002. Nó có các bản sửa lỗi bảo mật hậu-RTM và bản sửa lỗi khẩn cấp, các cập nhật tương thích, hỗ trợ tùy chọn .NET Framework, kích hoạt các công nghệ dành cho thiết bị mới như máy tính bảng, và một phiên bản Windows Messenger 4.7 mới. Tính năng mới đáng chú ý nhất là hỗ trợ USB 2.0 và tiện ích \"Set Program Access and Defaults\" nhắm đến những sản phẩm ẩn nằm ở giữa. Người dùng có thể điều khiển ứng dụng mặc định sẽ sử dụng cho các hoạt động như lướt web và tin nhắn nhanh, cũng như ẩn truy cập đến một số chương trình đóng gói của Microsoft. Tiện ích này lần đầu tiên xuất hiện trong hệ điều hành Windows 2000 Service Pack 3. Bản Service Pack này mặc định hỗ trợ SATA và ổ cứng có dung lượng hơn 137GB (hỗ trợ LBA). Máy ảo Java của Microsoft, không có trong phiên bản RTM, đã xuất hiện trong bản Service Pack này.\nVào ngày 3 tháng 2 năm 2003, Microsoft phát hành Service Pack 1a (SP1a). Lần phát hành này bỏ đi máy ảo Java của Microsoft do kết quả vụ kiện với Sun Microsystems.\nGói dịch vụ 2.\nGói dịch vụ (SP2) (tên mã \"Springboard\") được phát hành vào ngày 25 tháng 8 năm 2004 sau một vài lần trì hoãn, tập trung vào tính bảo mật.\nService Pack 2 cũng thêm các cải tiến bảo mật mới, bao gồm chỉnh sửa lớn đối với trình tường lửa đi kèm được đổi tên thành Windows Firewall và đã được kích hoạt mặc định, Data Execution Prevention, hỗ trợ phần cứng tốt hơn trong NX bit có thể ngăn được một số dạng tấn công tràn bộ đệm. Ngoài ra, hỗ trợ socket thô cũng bị loại bỏ (để hạn chế thiệt hại do máy tính ma tạo ra). Hơn thế, bản service pack này đã cải tiến một số tính năng bảo mật cho email và duyệt web. Windows XP Service Pack 2 đưa vào Windows Security Center, hiển thị tổng quan tình trạng bảo mật của hệ thống, trong đó có tình trạng của phần mềm diệt virus, Windows Update, và Windows Firewall mới. Các ứng dụng diệt virus và tường lửa của bên thứ ba có thể giao tiếp với Security Center mới này.\nVào ngày 10 tháng 8 năm 2007, Microsoft thông báo một cập nhật nhỏ cho Service Pack 2, có tên Service Pack 2c (SP2c). Bản cập nhật này sửa vấn đề có quá ít khóa sản phẩm cho Windows XP. Bản cập nhật này chỉ dành cho các nhà xây dựng hệ thống từ nhà phân phối của họ cho Windows XP Professional và Windows XP Professional N. SP2c phát hành vào tháng 9 năm 2007.\nGói dịch vụ 3.\nWindows XP Gói dịch vụ 3 (SP3) được phát hành cho nhà sản xuất vào ngày 21 tháng 4 năm 2008 và cho công chúng thông qua Microsoft Download Center và Windows Update vào ngày 6 tháng 5 năm 2008.\nBộ service pack này bắt đầu tự động yêu cầu người dùng cập nhật thông qua \"Automatic Update\" vào ngày 10 tháng 7 năm 2008. Microsoft đã đăng một bản tổng quan về các tính năng trong đó liệt kê chi tiết các tính năng mới có thể tải độc lập như các bản cập nhật cho Windows XP, cũng như các tính năng backporting từ Windows Vista. Trong SP3, có tổng cộng 1.174 lỗi được sửa. Service Pack 3 có thể cài đặt trên hệ thống bằng Internet Explorer 6 hoặc 7, và Windows Media Player phiên bản 9 trở lên.\nInternet Explorer 7 không đi kèm trong SP3.\nCác bản cập nhật đã phát hành trước đó.\nService Pack 3 cũng đưa vào một số bản cập nhật quan trọng trước đó dành cho Windows XP, nhưng đã không kèm trong SP2 gồm:\nMặc dù đến nay các bản service pack đều mang tính tích lũy, khi cài đặt SP3 trên hệ điều hành Windows XP có sẵn vẫn yêu cầu máy tính ít nhất đã phải cài đặt Service Pack 1.\nService Pack 3 có các bản cập nhật cho các thành phần hệ điều hành của phiên bản Windows XP Media Center Edition (MCE) và Windows XP Tablet PC Edition, và cập nhật bảo mật cho.NET Framework phiên bản 1.0, được kèm trong những SKU của Windows XP này. Tuy nhiên, nó không kèm theo các cập nhật cho ứng dụng Windows Media Center trong Windows XP MCE 2005, SP3 cũng bỏ đi các cập nhật bảo mật cho Windows Media Player 10, mặc dù trình duyệt này được kèm trong Windows XP MCE 2005. Address Bar DeskBand trên Thanh tác vụ không còn kèm trong SP3 do hạn chế về pháp lý.\nYêu cầu hệ thống.\nGiới hạn dung lượng RAM.\nDung lượng RAM tối đa mà Windows XP có thể hỗ trợ khác nhau tùy thuộc vào phiên bản sản phẩm và kiến ​​trúc bộ xử lý. Hầu hết các phiên bản 32-bit của XP đều hỗ trợ tối đa 4GB, ngoại trừ Windows XP Starter, bị giới hạn ở 512MB. Phiên bản 64-bit hỗ trợ lên đến 128 GB.\nGiới hạn bộ xử lý.\nWindows XP Professional hỗ trợ tối đa hai bộ xử lý; và Windows XP Home Edition chỉ hỗ trợ một bộ xử lý.\nTuy nhiên, XP hỗ trợ nhiều bộ xử lý logic hơn: các phiên bản 32-bit hỗ trợ tối đa 32 bộ xử lý logic, trong khi phiên bản 64-bit hỗ trợ lên đến 64 bộ xử lý logic.\nKhả năng nâng cấp.\nMột số thành phần Windows XP có thể được nâng cấp lên các phiên bản mới nhất, bao gồm các phiên bản mới được giới thiệu trong các phiên bản Windows mới hơn và các ứng dụng chính khác của Microsoft có sẵn. Các phiên bản mới nhất này dành cho Windows XP bao gồm:\nVòng đời hỗ trợ.\nHỗ trợ cho bản phát hành ban đầu của Windows XP (không có gói dịch vụ) đã kết thúc vào ngày 30 tháng 8 năm 2005. Cả Windows XP gói dịch vụ 1 và 1a đã ngừng hỗ trợ vào ngày 10 tháng 10 năm 2006, và cả Windows 2000 và Windows XP SP2 đều ngừng hỗ trợ vào ngày 13 tháng 7 năm 2010, khoảng 24 tháng sau khi Windows XP gói dịch vụ 3 dược ra mắt. Công ty đã ngừng cấp phép chung Windows XP cho các OEM và chấm dứt việc bán lẻ hệ điều hành này vào ngày 30 tháng 6 năm 2008, 17 tháng sau khi phát hành Windows Vista. Tuy nhiên, một ngoại lệ đã được công bố vào ngày 3 tháng 4 năm 2008, đối với các OEM sản xuất thứ mà họ định nghĩa là \"máy tính cá nhân chi phí cực thấp\", đặc biệt là netbook, cho đến một năm sau khi Windows 7 ra mắt vào ngày 22 tháng 10 năm 2009. Các nhà phân tích cho rằng động thái này chủ yếu nhằm cạnh tranh với các netbook chạy hệ điều hành Linux, mặc dù Kevin Hutz tuyên bố rằng quyết định này là do nhu cầu thị trường rõ ràng đối với máy tính đời thấp chạy Windows.\nCác biến thể của Windows XP dành cho hệ thống nhúng có các chính sách hỗ trợ khác nhau: Windows XP Embedded SP3 và Windows Embedded for Point of Service SP3 lần lượt được hỗ trợ cho đến tháng 1 và tháng 4 năm 2016. Windows Embedded Standard 2009, được kế nhiệm bởi Windows Embedded Standard 7 và Windows Embedded POSReady 2009, và kế nhiệm của Windows Embedded POSReady 7 lần lượt được hỗ trợ cho đến tháng 1 và tháng 4 năm 2019. Các bản cập nhật dành cho các phiên bản nhúng cũng có thể được tải xuống trên phiên bản Windows XP tiêu chuẩn sử dụng bản hack Registry, cho phép các bản vá không chính thức cho đến tháng 4 năm 2019. Tuy nhiên, Microsoft đã khuyến cáo người dùng Windows XP không nên cài đặt các bản sửa lỗi này, với lý do các vấn đề không tương thích.\nKết thúc hỗ trợ.\nVào ngày 14 tháng 4 năm 2009, Windows XP đã ngừng hỗ trợ chính và bước vào giai đoạn hỗ trợ mở rộng; Microsoft tiếp tục cung cấp các bản cập nhật bảo mật hàng tháng cho Windows XP, tuy nhiên, hỗ trợ kỹ thuật miễn phí, yêu cầu bảo hành và thay đổi thiết kế đã không còn được cung cấp nữa. Hỗ trợ mở rộng kết thúc vào ngày 8 tháng 4 năm 2014, hơn 12 năm sau khi phát hành Windows XP; mặc dù thông thường các sản phẩm của Microsoft có vòng đời hỗ trợ chỉ 10 năm. Ngoài các bản cập nhật bảo mật cuối cùng được phát hành vào ngày 8 tháng 4, không có thêm bản vá bảo mật hoặc thông tin hỗ trợ nào được cung cấp miễn phí cho XP; nhưng \"các bản vá quan trọng\" sẽ vẫn có sẵn và chỉ cung cấp cho những khách hàng đăng ký gói \"Custom Support\" trả phí. Vì là một thành phần của Windows nên tất cả các phiên bản của Internet Explorer dành cho Windows XP cũng không được hỗ trợ.\nVào tháng 1 năm 2014, người ta ước tính rằng hơn 95% trong số 3 triệu máy rút tiền tự động trên thế giới vẫn đang chạy Windows XP (phần lớn thay thế OS/2 của IBM làm hệ điều hành chủ yếu trên các máy ATM); máy ATM có vòng đời trung bình từ 7 đến 10 năm, nhưng một số máy đã có vòng đời dài tới 15 năm. Một số nhà cung cấp ATM và khách hàng đã có kế hoạch chuyển sang các hệ thống dựa trên Windows 7 trong suốt năm 2014, trong khi các nhà cung cấp cũng đã xem xét khả năng sử dụng các nền tảng dựa trên Linux trong tương lai để mang lại cho họ sự linh hoạt hơn trong các vòng đời hỗ trợ, và Hiệp hội Công nghiệp ATM (ATMIA) kể từ đó đã xác nhận Windows 10 là một sự thay thế tiếp theo. Tuy nhiên, các máy ATM thường chạy phiên bản nhúng của Windows XP, được hỗ trợ đến hết tháng 1 năm 2016. Tính đến tháng 5 năm 2017, khoảng 60% trong số 220.000 máy ATM ở Ấn Độ vẫn chạy Windows XP.\nHơn nữa, ít nhất 49% tổng số máy tính ở Trung Quốc vẫn chạy XP vào đầu năm 2014. Những cổ phiếu này bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố; giá của các bản sao chính hãng của các phiên bản Windows mới hơn ở nước này cao, trong khi Ni Guangnan thuộc Viện Khoa học Trung Quốc cảnh báo rằng Windows 8 có thể khiến người dùng bị chính phủ Hoa Kỳ giám sát, và chính phủ Trung Quốc sẽ cấm mua các sản phẩm Windows 8 cho mục đích sử dụng của chính phủ vào tháng 5 năm 2014 để phản đối việc Microsoft không thể cung cấp hỗ trợ \"được đảm bảo\". Chính phủ cũng lo ngại rằng việc hỗ trợ sắp kết thúc có thể ảnh hưởng đến các sáng kiến chống vi phạm bản quyền của họ với Microsoft, vì người dùng chỉ đơn giản là vi phạm bản quyền các phiên bản mới hơn thay vì mua chúng một cách hợp pháp. Do đó, các quan chức chính phủ đã chính thức yêu cầu Microsoft gia hạn thời gian hỗ trợ cho XP vì những lý do này. Trong khi Microsoft không tuân theo yêu cầu của họ, thì một số nhà phát triển phần mềm lớn của Trung Quốc, chẳng hạn như Lenovo, Kingsoft và Tencent, sẽ cung cấp hỗ trợ và tài nguyên miễn phí cho người dùng Trung Quốc chuyển từ XP. Một số chính phủ, đặc biệt là của Hà Lan và Vương quốc Anh, đã chọn đàm phán kế hoạch \"Custom Support\" với Microsoft để họ tiếp tục sử dụng Windows XP nội bộ; thỏa thuận của chính phủ Anh kéo dài một năm và cũng bao gồm hỗ trợ cho Office 2003 (ngừng hỗ trợ cùng ngày) và có giá £5,5 triệu.\nVào ngày 8 tháng 3 năm 2014, Microsoft đã triển khai bản cập nhật cho XP, vào ngày 8 hàng tháng sẽ hiển thị thông báo bật lên để nhắc nhở người dùng về việc kết thúc hỗ trợ; tuy nhiên, những thông báo này có thể bị vô hiệu hóa bởi người dùng. Microsoft cũng hợp tác với Laplink để cung cấp một phiên bản \"tốc hành\" đặc biệt của phần mềm PCmover nhằm giúp người dùng di chuyển các tệp và cài đặt từ XP sang máy tính có phiên bản Windows mới hơn.\nMặc dù hỗ trợ sắp kết thúc, vẫn có những phần mềm đáng chú ý đã không di chuyển trong quá khứ XP; và nhiều người dùng đã chọn tiếp tục sử dụng XP vì Windows Vista kém tiếp nhận, doanh số bán máy tính mới hơn với phiên bản Windows mới hơn đã giảm do cuộc đại suy thoái và ảnh hưởng của Vista, đồng thời việc triển khai các phiên bản Windows mới trong môi trường doanh nghiệp đòi hỏi một lượng lớn số lượng lập kế hoạch, bao gồm việc thử nghiệm các ứng dụng về khả năng tương thích (đặc biệt là những ứng dụng phụ thuộc vào Internet Explorer 6, không tương thích với các phiên bản Windows mới hơn). Các nhà cung cấp phần mềm bảo mật lớn (bao gồm cả chính Microsoft) đã lên kế hoạch tiếp tục cung cấp hỗ trợ và định nghĩa cho Windows XP sau khi hết hỗ trợ ở các phạm vi khác nhau, cùng với các nhà phát triển trình duyệt web Google Chrome, Mozilla Firefox và Opera; bất chấp những biện pháp này, các nhà phê bình cũng cho rằng người dùng nên chuyển từ XP sang một nền tảng được hỗ trợ. Nhóm Sẵn sàng Khẩn cấp Máy tính của Hoa Kỳ đã đưa ra một cảnh báo vào tháng 3 năm 2014 khuyến cáo người dùng về việc sắp hết hỗ trợ và thông báo cho họ rằng việc sử dụng XP sau ngày 8 tháng 4 có thể khiến họ không đáp ứng được các yêu cầu bảo mật thông tin của chính phủ Hoa Kỳ. Microsoft tiếp tục cung cấp phần mềm diệt virus Security Essentials và bản cập nhật Malicious Software Removal Tool (MSRT) cho XP đến ngày 14 tháng 7 năm 2015. Khi kết thúc hỗ trợ mở rộng đến gần, Microsoft bắt đầu ngày càng thúc giục khách hàng XP chuyển sang các phiên bản mới hơn như Windows 7 hoặc 8 vì lợi ích bảo mật, cho thấy rằng những kẻ tấn công có thể thiết kế ngược các bản vá bảo mật cho các phiên bản Windows mới hơn và lợi dụng chúng để nhắm mục tiêu các lỗ hổng trong XP. Windows XP có thể bị khai thác từ xa bởi nhiều lỗ hổng bảo mật đã được phát hiện sau khi Microsoft ngừng hỗ trợ.\nTương tự, các thiết bị chuyên dụng chạy XP, đặc biệt là thiết bị y tế, phải có bất kỳ bản sửa đổi nào đối với phần mềm của chúng — thậm chí là các bản cập nhật bảo mật cho hệ điều hành cơ bản — được các cơ quan quản lý có liên quan phê duyệt trước khi chúng có thể được phát hành. Vì lý do này, các nhà sản xuất thường không cho phép bất kỳ bản cập nhật nào đối với hệ điều hành của thiết bị, khiến chúng bị khai thác bảo mật và phần mềm độc hại.\nMặc dù đã ngừng hỗ trợ cho Windows XP, Microsoft vẫn phát hành ba bản cập nhật bảo mật khẩn cấp cho hệ điều hành này để vá các lỗ hổng bảo mật lớn:\nDư luận.\nHiệu năng của giao diện người dùng.\nTheo những lời bình luận từ báo chí cho rằng giao diện người dùng mặc định của Windows XP (Luna) đã tăng thêm sự hỗn loạn về hình ảnh và hao phí không gian màn hình trong khi không đưa ra chức năng nào mới và khiến cho hiệu năng của máy đã giảm dần. Một số người dùng than phiền như vậy có thể chuyển lại về chủ đề Windows Classic.\nƯu điểm chính hãng của Windows.\nTrong nỗ lực nhằm kiềm chế vi phạm bản quyền dựa trên các khóa cấp phép theo gói bị rò rỉ hoặc tạo ra trên mạng, Microsoft đã cho mắt Windows Genuine Advantage (WGA). WGA bao gồm hai phần, một công cụ xác minh phải dùng khi tải một số thứ từ Microsoft và một hệ thống thông báo người dùng. WGA dành cho Windows được tiếp nối bằng các hệ thống xác minh dành cho Internet Explorer 7, Windows Media Player 11, Windows Defender, và Microsoft Office 2007. Gần đây Microsoft đã gỡ bỏ xác minh WGA ra khỏi bản cài đặt Internet Explorer 7 nói rằng mục đích của sự thay đổi này là để đưa IE7 đến với mọi người dùng Windows.\nNếu khóa giấy phép bị đánh giá là không thật, nó sẽ hiển thị một màn hình mè nheo thường xuyên yêu cầu người dùng mua giấy phép từ Microsoft. Thêm vào đó, người dùng bị hạn chế khi truy cập vào Microsoft Update để tải các bản cập nhật bảo mật, và như vậy, các bản cập nhật nâng cao mới và các sản phẩm Microsoft khác sẽ không thể được tải về hoặc cài đặt nữa.\nVào ngày 26 tháng 8 năm 2008, Microsoft đã phát hành chương trình kích hoạt WGA mới hiển thị một màn hình nền màu đen nếu máy tính không vượt qua được cuộc xác minh. Hình nền có thể được đổi, nhưng sẽ quay về đen sau 60 phút.\nNhững chỉ trích phổ biến đối với WGA gồm có việc Microsoft miêu tả nó là \"Bản cập nhật bảo mật tối quan trọng\", khiến cho Automatic Updates mặc định tải nó về mà người dùng không tài nào can thiệp được, hành vi của nó giống như một phần mềm gián điệp liên tục \"gọi về\" Microsoft mỗi khi máy tính kết nối vào Internet, việc không thông báo cho người dùng cuối viết WGA đang thực sự làm cái gì sau khi được cài đặt (đã được sửa trong bản cập nhật 2006), không cung cấp một phương cách gỡ bỏ hợp lý trong suốt bản thử nghiệm beta (người dùng được cung cấp hướng dẫn gỡ bỏ bằng tay nhưng không hoạt động cho đến bản chính thức), và sự nhạy cảm của nó đối với sự thay đổi hệ thống phần cứng dẫn đến đòi tái kích hoạt liên tục đối với một số nhà phát triển.\nNói một cách thẳng thắn, việc tải về hay cài đặt Thông báo đều không phải bắt buộc; người dùng có thể thay đổi thiết lập của Automatic Updates của họ để cho phép họ chọn tải về và cài đặt bản cập nhật nào. Nếu bản cập nhật đã được tải về rồi, người dùng có thể chọn không chấp nhận EULA bổ sung đi theo Thông báo. Trong cả hai trường hợp đó, người dùng cũng có thể yêu cầu bản cập nhật không được hiển thị nữa. Các Cập nhật Bảo mật Tối quan trọng mới hơn vẫn có thể cài đặt mà không hiển thị yêu cầu WGA nữa. Tuy nhiên thiết lập này sẽ chỉ có tác dụng trên phiên bản hiện tại của Thông báo, do đó nó có thể xuất hiện lại nếu có phiên bản mới. Vào năm 2006, Microsoft đã có dính líu tới một vụ kiện ở California, về việc công ty đã vi phạm các luật chống phần mềm gián điệp của tiểu bang với chương trình Windows Genuine Advantage Notifications của nó.\n'Bẻ khóa' bảo vệ.\nNhững chương trình \"tạo khóa\", thường được gọi là \"keygen\", hiện có để tạo ngẫu nhiên các khóa sản phẩm của Windows XP (do đó, không còn các khóa thường dùng để có thể cấm) rồi sau đó kích hoạt Windows mà không cần phải liên hệ với Microsoft. Những khóa này có thể có hoặc không cho phép người dùng nhận được các bản cập nhật mặc dù Microsoft đã cho phép tải về và cài đặt các bản cập nhật bảo mật quan trọng thông qua Windows Update và trang tải về của nó, thậm chí trong các bản ăn cắp bản quyền và không thật của Windows.\nRò rỉ mã nguồn.\nVào ngày 23 tháng 9 năm 2020, mã nguồn của Windows XP Service Pack 1 và Windows Server 2003 đã bị rò rỉ trên 4chan bởi một người dùng không xác định. Những người dùng ẩn danh đã biên dịch mã, cũng như một người dùng Twitter đã đăng video về quy trình trên YouTube để chứng minh rằng đoạn mã là chính xác. Video sau đó đã bị Microsoft xóa vì lý do bản quyền. Bản rò rỉ này không hoàn chỉnh vì thiếu mã nguồn Winlogon và một số thành phần khác. Bản thân vụ rò rỉ ban đầu đã được lan truyền bằng cách sử dụng các liên kết magnet và các tệp torrent ban đầu bao gồm mã nguồn Server 2003 và XP, sau đó được cập nhật với các tệp bổ sung, trong số đó là những rò rỉ trước đó về các sản phẩm của Microsoft, bằng sáng chế của hãng, các phương tiện truyền thông về các thuyết âm mưu về Bill Gates bởi các phong trào chống tiêm chủng và một loạt các tệp PDF về các chủ đề khác nhau.\nMicrosoft đã đưa ra một tuyên bố rằng họ đang điều tra vụ rò rỉ." ]
windows - microsoft - linux - phin - office - mm - firefox - explorer - kde - duyt
1
false
Người Tày, với các nhóm địa phương là Pa dí, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam, là dân tộc lớn thứ hai sau người Kinh. Người Tày nói tiếng Tày, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái của hệ ngôn ngữ Kra-Dai. Người Tày sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi thấp phía bắc Việt Nam. Người Tày trước đây hay được gọi là người Thổ (tuy nhiên tên gọi này hiện nay được dùng để chỉ người Mường Nghệ An, xem bài người Thổ). Người Tày có dân số đông thứ 2 ở Việt Nam. Người Tày, Nùng có nguồn gốc và mối quan hệ gần gũi với người Tráng tại Quảng Tây, Trung Quốc. Dân số và địa bàn cư trú. Người Tày chủ yếu cư trú tại các tỉnh trung du và miền núi phía bắc (1.400.519 người năm 1999). Bên cạnh đó, trong thời gian gần đây, người Tày còn di cư tới một số tỉnh Tây Nguyên như Đắk Lắk và Lâm Đồng. Theo điều tra dân số năm 2019, người Tày ở Việt Nam có dân số 1.845.492 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 2 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Tày cư trú tập trung tại các tỉnh: Tổ chức cộng đồng. Bản của người Tày thường ở chân núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nhà. Bản lớn chia ra nhiều xóm nhỏ. Trang phục. Người Tày mặc các bộ trang phục có màu. Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, được nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Phụ kiện trang trí là các đồ trang sức làm từ bạc và đồng như khuyên tai, kiềng, lắc tay, xà tích... Ngoài ra còn có thắt lưng, giày vải có quai, khăn vấn và khăn mỏ quạ màu chàm đồng nhất. Trang phục dân tộc Tày có thể được coi là một trong những bộ trang phục đơn giản nhất của 54 dân tộc anh em. Bộ trang phục tuy đơn giản nhưng có ý nghĩa với họ. Âm nhạc. Hát then, hát lượn, hát sli được dùng vào các mục đích sinh hoạt khác nhau, các thể loại dân ca nổi tiếng của người Tày. Bộ nhạc cụ chính như Đàn tính, Lúc lắc. Đàn tính là loại nhạc cụ có mặt trong tất cả những sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Tày, như linh hồn trong nghệ thuật dân ca dân vũ Tày. Bao đời nay đàn tính có vai trò như một phương tiện giao tiếp mang đậm bản sắc. Nhà ở. Những nhà truyền thống thường là nhà sàn, nhà đất mái lợp cỏ gianh và một số vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong nhà phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở trong buồng. Phổ biến là loại nhà đất 3 gian, 2 mái (không có chái), tường trình đất hoặc thưng phên nứa, gỗ xung quanh, mái lợp cỏ tranh, người Tày sống định cư, quây quần thành từng bản khoảng 15 đến 20 hộ. Tín ngưỡng và tôn giáo. Người Tày chủ yếu theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, trong ngôi nhà của họ bàn thờ luôn được đặt ở nơi trang trọng nhất của ngôi nhà. Đồng bào quan niệm: “Vạn vật hữu linh” nên họ coi mọi thứ đều có linh hồn, người chết đi về thế giới bên kia và vẫn theo dõi mọi hoạt động của người trần. Trong gia đình có bất cứ công việc gì xảy ra thì gia chủ đều phải khấn báo với gia tiên. Khách và phụ nữ có thai, mới sinh không được phép ngồi hay nằm trên ghế, giường trước bàn thờ. Trong tôn giáo của người Tày, ngày tảo mộ (3/3 âm lịch) là ngày lễ quan trọng nhất của người Tày (Có một số nơi người Tày đi tảo mộ trước Tết Nguyên Đán (1/1 âm lịch) khoảng 2-5 ngày, và coi Tết Nguyên Đán như là ngày lễ quan trọng nhất của trong năm). Tuy nhiên ngoài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Tày còn chịu ảnh hưởng của tôn giáo như Phật, Đạo, Nho mặc dù họ không theo một tôn giáo nào. Ngôn ngữ. Tiếng Tày là tiếng nói của người Tày, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Tiếng Tày có quan hệ gần gũi với tiếng Nùng, tiếng Tráng ở mức trao đổi trực tiếp được, và giao tiếp được với người nói tiếng Lào, tiếng Thái. Người Tày có vùng cư trú truyền thống là Bắc bộ Việt Nam và tỉnh Quảng Tây Trung Quốc. Tại Việt Nam người Tày có mặt ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Bắc Giang, Quảng Ninh, Lào Cai, Hòa Bình. Từ thế kỷ 20 đã di cư vào phía nam, cư trú nhiều ở Đắk Lắk, Lâm Đồng. Tại Trung Quốc người Tày được xếp chung trong mục người Tráng. Trước đây tiếng Tày sử dụng chữ viết là chữ Nôm-Tày, dạng chữ này hiện giờ không còn được sử dụng và chỉ một số ít người còn biết viết loại chữ này Ngày nay tại Việt Nam chữ quốc ngữ (chữ Latinh) được sử dụng viết tiếng Tày, và vấn đề phát âm của tiếng Tày theo chữ quốc ngữ không có sai là bao nhiêu. Ngày nay người Tày di cư vào Tây Nguyên, nhiều phần phát âm theo người Việt vẫn bị pha trộn ít nhiều. Ẩm thực. Cuộc sống của người Tày thường gắn bó với thiên nhiên, do đó, nguồn lương thực, thực phẩm chính của người Tày là phong phú và đa dạng, những sản phẩm thu được từ hoạt động sản xuất ở vùng có rừng, sông, suối, đồi núi bao quanh. Một số món ăn nổi tiếng là: thịt trâu xào măng chua, thịt lợn chua, cá ruộng ướp chua; canh cá lá chua và tất cả các loại quả chua như khế, sấu, trám, tai chua...; xôi trứng kiến, xôi ngũ sắc, măng chua, nhộng ong đất, khâu nhục, lạp xưởng, thịt lợn hong khô, trám đen, cơm lam, lợn vịt quay, coóng phù (trôi tàu). Lễ hội. Người Tày có các lễ hội như Lễ cưới (người Tày) Lễ hội Lồng tồng, Lễ hội Nàng Hai, Lễ hội rước Đất, rước Nước... Trong gia đình có các Lễ cầu an, Lễ cưới, Lễ mừng thọ...
24
24_ting_ngn_nhm_ngi
[ "ting", "ngn", "nhm", "ngi", "digan", "nhnh", "lo", "ni", "ng", "vit" ]
[ "Người Khương (, Hán-Việt: Khương tộc) là một nhóm sắc tộc tại Trung Quốc. Họ tạo thành một trong số 56 dân tộc tại Trung Quốc, được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận, với dân số khoảng 306.000 người (ước tính năm 2002), sinh sống chủ yếu tại miền tây tỉnh Tứ Xuyên, bao gồm miền đông châu tự trị dân tộc Tạng-Khương A Bá, địa cấp thị Miên Dương (các huyện Bắc Xuyên, Bình Vũ). Hiện nay, người Khương chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ của dân cư Trung Quốc, nhưng nói chung người ta tin rằng dân tộc này rất cổ đại, từng có thời đủ mạnh và đông đúc, với lịch sử có thể dò vết ít nhất là từ thời kỳ nhà Thương và các hậu duệ của họ được cho là tạo thành một bộ phận nhất định của người Tạng hiện đại, một bộ phận nhất định của người Hán hiện đại và nhiều sắc tộc thiểu số tại Miền Tây Trung Quốc.\nLịch sử.\nSơ kỳ.\nTrong các thư tịch Trung Hoa cổ đại, các cụm từ như \"người Khương, Tây Khương, rợ Khương\" thường được sử dụng như là thuật ngữ chung để chỉ các sắc tộc không phải người Hoa Hạ tại miền tây Trung Quốc ngày nay. Các dân tộc này thường xuyên gây chiến với các cư dân trong lưu vực sông Hoàng Hà. Phải cho đến thời Tần Mục công khi nước Tần nổi lên thì sự bành trướng lãnh thổ của người Khương mới bị ngăn chặn có hiệu quả.\nVào thời Tam quốc người Khương cũng đã nổi lên như một thế lực biên cương hùng hậu và gây áp lực cho nhà Hán, họ thường liên kết với các thế lực quân phiệt cát cứ ở phía Tây Bắc để tạo thêm thế lực. Đặc biệt, họ đã từng hưởng ứng và tham chiến trong hàng ngũ thuộc lực lượng quân sự của Mã Siêu trong các trận Đồng Quan và trận Ký Thành để chống lại triều đình.\nMột thủ lĩnh của người Khương là Diêu Trường sau này lập ra vương quốc Hậu Tần (384-417) trong thời kỳ Thập lục quốc tại Trung Quốc. Nhưng một điều cần lưu ý là người Khương không phải một dân tộc riêng biệt cho tới khoảng 20-30 năm trước đây. Thuật ngữ \"Khương\" (羌, chữ Hán gợi ý đó là những người chăn cừu) được sử dụng trong các thư tịch cổ Trung Hoa để nói chung tới các sắc tộc du mục khác nhau sinh sống tại miền tây và không có liên quan trực tiếp gì tới người Khương ngày nay. Chỉ trong vài thập niên gần đây thì các sắc tộc này mới tự nhận chính mình là người Khương.\nCấu trúc của ký tự 羌 cũng phản ánh quan điểm này. Nó bao gồm 2 thành phần: 人 (nhân: người) và 羊 (dương: dê, cừu), gợi ý rằng họ là những người chăn dê, cừu. Trong thời kỳ Đông Hán (25-220) và Ngụy-Tấn (220-420), người Khương sinh sống rộng khắp dọc theo các sườn núi ở miền bắc và đông cao nguyên Thanh Tạng, từ khu vực dãy núi Côn Lôn (崑崙山) trong tỉnh Tân Cương và miền đông Thanh Hải, tới miền nam tỉnh Cam Túc, miền tây tỉnh Tứ Xuyên và miền bắc tỉnh Vân Nam, tạo ra cái gọi là vành đai người Khương, theo thứ tự từ bắc xuống nam là Tham Lang Khương, Bạch Mã Khương, Bạch Cẩu Khương, Bạch Lang Khương, Thanh Y Khương, Mao Ngưu Khương v.v. Thời kỳ này, các thư tịch Trung Hoa cũng có các cố gắng nhằm tách một số sắc tộc ra khỏi khái niệm chung này. Vì thế mà có các tộc người như Hồ, Đê, Di v.v. Tuy nhiên, sự phân biệt không phải luôn rõ ràng. Cũng trong thời kỳ này những cuộc nổi dậy của người Khương dọc theo biên giới với Trung Quốc đã dẫn tới sự xâm nhập quy mô lớn của họ vào lãnh thổ Trung Quốc. Đây cũng là một yếu tố quan trọng trong việc phân rã cuối cùng của triều đại Đông Hán.\nTrong thời kỳ từ Nam Bắc triều (420-589), tới nhà Tùy (589-619) và nhà Đường (620-907), một vài thể chế chính trị tương đối lớn đã xuất hiện tại miền tây Trung Quốc, như các liên minh bộ lạc Đãng Xương, Đặng Chí, Đảng Hạng, Thổ Cốc Hồn và Thổ Phồn. Trong sử sách Trung Hoa, phần lớn dân của các chế độ này là người Khương hay chư Khương.\nSự nổi lên của Thổ Phồn trong thế kỷ 7 đặc biệt đáng chú ý. Sự bành trướng nhanh chóng sang hướng đông của vương quốc này đã gây ra một loạt vụ đối đầu với nhà Đường dọc theo sườn đông cao nguyên Thanh Tạng; một vành đai kéo dài từ miền nam Cam Túc về phía nam tới bắc Vân Nam, với dân cư của vành đai này được người Hán gọi là Khương. Từ giữa thế kỷ 7 tới thế kỷ 8, Thổ Phồn xâm chiếm gần như toàn bộ vành đai này và nhiều liên minh bộ lạc của người Khương, như Đảng Hạng, Dương Đồng, Đãng Xương và Đặng Chí trở thành nạn nhân của vương quốc này.\nSau sự sụp đổ của Thổ Phồn trong thế kỷ 9 và ngay cả sau khi nổi lên cũng như sụp đổ của vương quốc Tây Hạ (1038-1227) với cư dân của nó chủ yếu là người Đảng Hạng Khương, thì ảnh hưởng của văn hóa Tạng vẫn còn tồn tại trong vành đai ngoại biên này. Điều này không chỉ do phần lớn khu vực này vẫn còn được các thủ lĩnh địa phương, các hậu duệ của giới quý tộc hay tướng lĩnh Thổ Phồn, kiểm soát và cai trị mà còn do Lạt ma giáo đã trải rộng khắp khu vực ngoại biên này trong thời kỳ nhà Nguyên (1271-1368) và nhà Minh (1368-1644). Kết quả là, từ nhà Tống (960-1279) trở đi, đặc biệt là thời Minh-Thanh, nhãn sắc tộc phổ biến nhất mà người Hán gán cho các cư dân bản địa của khu vực này đã trở thành Phiên (番). Nhãn sắc tộc này được gán cho cư dân của Thổ Phồn trước kia cũng như của các dân tộc \"man di mọi rợ\" miền tây.\nTừ thế kỷ 14 tới thế kỷ 19, trong các trường hợp hiếm hơn thì các thuật ngữ Khương Nhung (rợ Khương), chư Khương (các bộ lạc Khương), và thường xuyên hơn là các thuật ngữ Phiên và Di, vẫn được áp dụng cho một phạm vi rộng các sắc tộc phi Hán ở miền tây theo ý nghĩa chung, nhưng chỉ có người Phiên sống tại thượng nguồn sông Dân và khu vực Bắc Xuyên cận kề mới được ghi chép là \"Khương, Khương dân\". Đáng chú ý là trong thời kỳ này người Hán luôn dùng thuật ngữ Khương dân để chỉ cư dân bản địa đã Hán hóa nhiều hơn từ châu Mậu tới huyện Quán, những người đã đăng ký các quyền công dân với chính quyền của người Hán địa phương, trong khi họ sử dụng các thuật ngữ Phiên, Sinh Phiên và Phiên Khương để chỉ những người ít Hán hóa hơn tại Tùng Phan, Điệp Khê và Hắc Thủy cận kề. Tuy nhiên, trong các sử liệu Minh-Thanh thì Phiên chắc chắn là sự nhận dạng phổ biến nhất đối với các sắc tộc sống tại thượng nguồn sông Dân và khu vực Bắc Xuyên.\nGần đây.\nHiện tại, người Khương tự nhận chính mình là Khương tộc (羌族) hay \"Nhĩ Mã\" (尔玛). Có khoảng 306.000 người Khương sinh sống tại miền tây Tứ Xuyên, chủ yếu trong 4 huyện Mậu, Vấn Xuyên, Lý và Hắc Thủy của châu tự trị dân tộc Tạng-Khương A Bá cũng như 2 huyện Bắc Xuyên và Bình Vũ của địa cấp thị Miên Dương. Ngày 12 tháng 5 năm 2008, khu vực sinh sống của người Khương hứng chịu ảnh hưởng nặng nề của trận động đất lớn, với chấn tâm trong huyện Vấn Xuyên.\nNgười Khương ngày nay là các cư dân miền núi. Một làng phòng thủ hay \"trại\" (寨), bao gồm 30 tới 100 hộ gia đình nói chung là đơn vị xã hội cơ bản phía trên hộ gia đình. Trung bình từ 2 tới 5 làng phòng thủ nằm trong một thung lũng nhỏ dọc theo các con suối chân núi, gọi là \"câu\" (溝), tạo ra một cụm làng (hay \"thôn\", 村). Các cư dân của các làng phòng thủ hay cụm làng có quan hệ gần gũi trong đời sống xã hội. Trong các thung lũng nhỏ này, người dân gieo trồng trên các mảnh ruộng bồi tích hẹp dọc theo các con suối hay các địa hình miền núi, săn bắt động vật hoặc thu nhặt nấm ăn và các loại thảo vật (làm thức ăn hay thuốc trị bệnh) trong các cánh rừng cận kề, chăn thả bò Tây Tạng và ngựa trên các bãi cỏ đỉnh núi, đồi. Trong quá khứ, tranh giành bạo lực giữa các làng cũng hay xảy ra.\nTừ quan điểm của ngôn ngữ học, mọi người Khương hiện đại đều nói một trong hai thứ tiếng của ngữ chi Khương, các thứ tiếng của ngữ tộc Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng. Tuy nhiên, các phương ngữ này là quá khác biệt đến mức giao tiếp giữa các nhóm Khương khác nhau thường sử dụng tiếng Trung làm ngôn ngữ giao tiếp trung gian. Do không có chữ viết riêng nên người Khương cũng sử dụng chữ Hán trong các giao dịch. Bắt đầu từ thập niên 1980, những người Khương có học thức đã bắt đầu xây dựng hệ thống chữ viết riêng (sử dụng bảng chữ cái Latinh) và soạn từ điển tiếng Khương, dựa trên phương ngữ Khúc Cốc (曲谷) chuẩn hóa. Từ năm 1994, có thêm nhiều giáo viên biết tiếng Khương và hệ thống chữ viết này đã được gửi tới các vùng làng quê để giảng dạy.\nTập quán.\nXã hội Khương theo chế độ mẫu hệ thông thường chủ yếu có quan hệ một vợ-một chồng, mặc dù tập quan đa phu và các cuộc hôn nhân anh em con bác-con cô hay con bá-con cậu cũng được chấp nhận. Do phần lớn những người phụ nữ già hơn chồng của họ và điều phối các công việc nhà nông nên họ thường cũng đóng vai trò chủ gia đình và xã hội.\nTình yêu lãng mạn được coi là quan trọng và tự do tình dục thì thịnh hành. Người Khương coi hôn nhân là quan trọng. Trong quá khứ, các cuộc hôn nhân do cha mẹ sắp xếp tổ chức, với sự chấp thuận của những người sẽ trở thành vợ chồng này. Điều bất thường là các cô dâu sống tại nhà cha mẹ họ trong một năm hay hơn thế sau lễ cưới. Trong quá khứ, con cái thường ra ở riêng sau lễ cưới, ngoại trừ người con trai cả. Tuy nhiên, thói quen này đã dần dần bị loại bỏ từ năm 1949, khi Trung Quốc trở thành một nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.\nNgười Khương cũng có hệ thống cấm kỵ cứng nhắc liên quan tới sinh và tử. Trước khi sinh đứa trẻ, người phụ nữ mang thai không được ra bờ sông hay bờ giếng, không được tới các lễ cưới hay đứng trong tháp canh.\nKhi sinh, một pháp sư gọi là Đoan công (端公) được mời đến để giúp đỡ bà mẹ sinh con, và những người lạ mặt không được phép than khóc hay bước chân vào nhà. Điều này được ngăn ngừa bằng cách treo một chiếc néo đập lúa lên trên cổng trong một tuần nếu đứa trẻ sinh ra là con trai và một cái thúng tre nếu đứa trẻ sinh ra là con gái.\nTrong vòng một tháng sau khi sinh con, sản phụ không được vào bếp. Nếu làm trái đi thì bị coi là hành động tội lỗi đối với các vị thần bếp và nhà. Sản phụ này cũng không được ra khỏi nhà và gặp bất kỳ người lạ nào trong vòng 40 ngày sau khi sinh con. Người ta tin rằng các rủi ro ma quỷ hay bệnh tật sẽ theo về nhà và làm hại người mẹ. Một lễ cúng tế gia súc được thực hiện tại bàn thờ gia đình, nơi đứa trẻ được đặt tên.\nNhững đứa trẻ chết lưu hay chết non không được người Khương coi là con người. Thay vì thế, những đứa trẻ bất hạnh này bị coi là ma quỷ làm cho người phụ nữ mang thai để gây tai họa cho gia đình. Thi thể chúng được ném vào trong các hốc trong lòng đất và phủ đất lên.\nVăn hóa và lối sống.\nDo sự đa dạng sắc tộc của mình nên văn hóa Khương có ảnh hưởng tới các nền văn hóa khác và chịu ảnh hưởng từ các nền văn hóa này. Nói chung, những người sống gần người Tạng thì chịu ảnh hưởng của văn hóa Tạng, trong khi phần lớn người Khương chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ phía người Hán, với các liên kết chặt chẽ với lịch sử sắc tộc của dân tộc này.\nCả đàn ông và đàn bà đều mặc áo choàng làm từ vải đay, bông hay lụa với áo vét bằng len không tay. Tuân theo các truyền thống lâu đời, tay và chân của họ được bó. Phụ nữ mặc quần áo có dây buộc với cổ áo trang trí, bao gồm các đồ trang trí màu bạc hình quả mận. Giày thêu nhọn mũi, thắt lưng thêu và khuyên tai, vòng cổ, trâm cài đầu và phù hiệu bằng bạc cũng phổ biến.\nKê, đại mạch cao nguyên, khoai tây, lúa mì và kiều mạch là các nguồn lương thực ổn định của người Khương. Việc tiêu dùng rượu vang và hút thuốc làm từ lá lan cũng phổ biến trong số những người Khương.\nNgười Khương sống trong các ngôi nhà xây cất bằng đá granit và gỗ, nói chung có 2-3 tầng. Tầng một dùng làm nơi nhốt gia súc và gia cầm, trong khi tầng hai làm nơi ngủ nghỉ và tầng ba là nơi lưu giữ thóc lúa. Nếu không có tầng ba thì lương thực được lưu giữ tại tầng một hay tầng hai.\nKhéo tay trong việc xây dựng đường sá và cầu cống bằng tre nên người Khương có thể xây dựng chúng trên các vách núi đá và trên các con sông hay suối chảy nhanh. Chỉ sử dụng các cột trụ và các bản bằng gỗ, những cây cầu này có thể kéo dài tới 100 m. Những người Khương khác lại là các thợ nề giỏi việc đào giếng. Những khi mùa màng thất bát, họ thường đi nhiều nơi để đào giếng hay chạm trổ.\nThêu thùa được thực hiện tùy hứng mà không có các mẫu thiết kế. Các bài dân ca liên quan tới các chủ đề như rượu vang và núi đồi luôn được kèm theo là các điệu nhảy và âm nhạc từ các nhạc cụ truyền thống, như trống.\nTôn giáo, tín ngưỡng.\nPhần lớn người Khương theo tín ngưỡng đa thần, gọi là Ruism, một tín ngưỡng với niềm tin vào các viên đá trắng, được thờ phụng như là tượng trưng cho thần Mặt Trời sẽ đem lại điều may mắn cho các mặt của cuộc sống thường nhật của người Khương. Những người sống gần người Tạng thì theo Phật giáo Tây Tạng (Lạt ma giáo). Cũng có các nhóm nhỏ theo Hồi giáo và Đạo giáo.\nNgười Khương thờ phụng 5 vị đại thần, 12 vị tiểu thần, một số vị thần cây, và nhiều viên đá được thờ phụng trong vai trò đại diện cho các vị thần. Một vị thần đặc biệt được thờ phụng tại mỗi làng, được nói tới bằng tên gọi trong các bài thánh ca của các tu sĩ người Khương. Mubyasei hay Abba Chi là vị thần trên trời và được coi là vị thần tối cao. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để nói tới vị thần tổ tiên của đàn ông, Abba Sei. Tại một số nơi, Sơn vương, vị thần núi, lại được coi là vị thần tối cao. Người Khương cũng tuân theo nhiều thực tiễn của Đạo giáo.\nĐối với một số người Khương, phần lớn viên đá trắng được đặt tại các góc của mái nhà hay trên các tháp chùa, như là biểu tượng may mắn của mặt trời. Tại mỗi làng đều có một tháp chùa bằng đá nằm tại rìa làng trên đỉnh đồi cận kề. Tháp chùa này thường cao trên 2 m và phần trên cùng nhất của nó được dát bằng một vòng tròn các viên đá trắng nhỏ. Các viên đá trắng lớn hơn cũng được đặt trên chóp nhọn.\nCác tháp nhỏ đôi khi cũng được xây dựng trên mái nhà, với bình gốm sứ chứa ngũ cốc được đặt trong tháp. Trên đỉnh tháp, một viên đá trắng được đặt cùng sừng bò và cừu. Theo truyền thống, của nhà của người Khương quay mặt về phía nam và tháp nhỏ này được xây ở mặt bắc của mái nhà, thẳng hàng với của nhà. Mỗi buổi sáng, gia đình người Khương sẽ đốt hương trong tháp và khấu đầu trước tháp, cầu nguyện thần đá trắng che chở cho gia đình.\nTuy nhiên, với quá trình hiện đại hóa, việc thờ phụng thần đá trắng gần như không còn phổ biến như trước kia.", "Người Lô Lô (theo cách gọi ở Việt Nam và Thái Lan) hay người Di theo cách gọi ở Trung Quốc (), Mùn Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn, người Yi trong nhiều văn liệu quốc tế, là một sắc tộc có vùng cư trú truyền thống là tiểu vùng nam Trung Quốc - bắc bán đảo Đông Dương.\n\"Người Lô Lô\" là một trong số 54 dân tộc ở Việt Nam với số dân 4.827 người theo Điều tra dân số 2019.\nNgười Lô Lô cũng là một trong số các dân tộc thiểu số ở Thái Lan, Lào và Trung Quốc.\nTên gọi Lô Lô (Lolo) ở Trung Quốc có khi được coi là mang sắc thái không hay, nhưng lại là tên tự gọi ở Việt Nam và Thái Lan.\nDân số và địa bàn cư trú.\nNguồn sống chủ yếu của người Lô Lô là trồng ngô hoặc lúa nương. Người Lô Lô có nhiều dòng họ. Người trong dòng họ thường cộng cư với nhau thành một làng.\nỞ Trung Quốc, với số dân 7.762.286 người, người Di (tên tự gọi theo phiên tự: \"Nuosu\") là dân tộc đông thứ 7 trong số 56 dân tộc được công nhận chính thức của Trung Quốc. Họ sống chủ yếu ở các vùng nông thôn, vùng núi thuộc các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.\nNgười Lô Lô Tại Việt Nam.\nỞ Việt Nam, năm 1999 có 3.307 người Lô Lô, cư trú chủ yếu ở các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang), Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai).\nNgười Lô Lô tại Việt Nam nói tiếng Mantsi (là một ngôn ngữ Lô Lô-Miến thuộc nhóm Mondzi), có nét văn hóa đặc trưng riêng biệt với nhóm Di/Lô Lô tại Trung Quốc. Người Lô Lô phân thành các nhóm như Lô Lô Hoa ở Mèo Vạc, Đồng Văn. Lô Lô Đỏ, Lô Lô Trắng ở Mèo Vạc, Yên Minh. Riêng nhóm Lô Lô Đen tập trung ở Bảo Lạc, Cao Bằng.\nTheo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lô Lô ở Việt Nam có dân số 4.541 người, cư trú tại 30 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Lô Lô cư trú tập trung tại các tỉnh: \nCao Bằng (2.373 người, chiếm 52,3% tổng số người Lô Lô tại Việt Nam), \nHà Giang (1.426 người), \nLai Châu (617 người).\nNgôn ngữ.\nNgười Lô Lô nói tiếng Lô Lô (hay tiếng Di), là một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng. Tiếng Lô Lô có chữ viết riêng theo vần (âm tiết). Chữ viết của người Lô Lô trước kia là chữ tượng hình, nhưng hiện nay ít khi sử dụng; một số bài hát dân ca Lô Lô hay chương trình dạy tiếng Lô Lô trên truyền hình ở Trung Quốc đều chứa cả phụ đề tiếng Trung. Theo Ethnologue, nhóm các ngôn ngữ Di tại Trung Quốc bao gồm 29 ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với nhau.\nKhoảng thế kỷ 14, người Lô Lô đã có chữ tượng hình với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được ghi trên các tấm gỗ mỏng, trên da thú hoặc loại giấy dày, thô. Tới nay chỉ có một số gia đình còn giữ lại được một vài mảnh có ghi lại loại chữ đó mà ít ai đọc được.\nLịch sử.\nTruyền thuyết nói rằng người Di bắt nguồn từ tộc người Khương cổ (古羌) ở miền Tây Trung Quốc. Người Khương cổ được coi là thủy tổ của các dân tộc Tạng, Nạp Tây và Khương (羌 \"Qiang\") ở Trung Quốc ngày nay. Người Di đã di cư từ vùng đông nam Tây Tạng qua Tứ Xuyên xuống Vân Nam, là nơi ngày nay họ tập trung đông nhất. Người Lô Lô còn có tên là Di có lẽ là do họ sống ở nam Trung Quốc.\nHôn nhân gia đình.\nHôn nhân theo tục Lô Lô là hôn nhân một vợ một chồng, cư trú nhà chồng.\nPhong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán với việc thách cưới cao (bạc trắng, rượu, thịt...). Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy con gái cậu song không được ngược lại.\nVăn hóa.\nVăn hóa dân gian Lô Lô đa dạng, đặc sắc thể hiện qua các điệu nhảy múa, hát ca, truyện cổ... Cách bố trí hoa văn trên khăn áo, váy, quần có nét riêng biệt\nLịch của người Lô Lô chia một năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với tên một con vật.\nNgười Lô Lô có trống đồng, được bảo quản bằng cách chôn xuống đất và chỉ khi nào sử dụng mới đào lên. Tộc trưởng của mỗi họ là người được giữ trống. Trống chỉ được dùng trong các đám tang hoặc đánh để giữ nhịp cho các điệu nhảy múa. Họ là một trong số ít các dân tộc ở Việt Nam hiện nay còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền thống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn hồng thủy. Theo huyền thoại thì ngày xưa có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu để chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi lên mặt nước. Hết lụt họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là thủy tổ của loài người tái sinh.\nQuan niệm về âm dương, sự sinh sôi nảy nở có lẽ còn được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực và cái cùng một lúc. Trống treo trên giá đặt ở phía chân người chết; mặt của hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng ở giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ những người đàn ông chưa vợ hoặc có vợ không ở trong thời kỳ thai nghén mới được đánh trống.\nTrống đồng không những là một tài sản quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính chất tôn giáo. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên.\nNhiều người Di ở tây bắc Vân Nam còn giữ một hình thức phức tạp của chế độ nô lệ. Người Di trắng và một vài nhóm tộc khác còn bị giữ làm nô lệ. Những nô lệ \"đẳng cấp cao\" thì được phép canh tác trên ruộng đất của họ, lại có nô lệ của mình và dần dần có thể \"mua\" tự do cho mình.\nTín ngưỡng.\nNgười Lô Lô thờ tổ tiên là chính. Họ theo tín ngưỡng coi mọi vật đều có linh hồn. Đứng đầu dòng họ là \"Thầu chú\" (Bimaw). Ông này phụ trách việc cúng bái và duy trì tục lệ của dòng họ. Họ vẫn còn giữ được một vài văn bản tôn giáo cổ viết bằng một thứ chữ tượng hình của họ. Tôn giáo của họ cũng mang nhiều yếu tố của Đạo giáo và Phật giáo.\nTang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hoá trang, nhảy múa, đánh lộn... Dấu vết của tục săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay quả bầu có vẽ mặt người trong tang lễ.\nCộng đồng, nhà cửa.\nNgười Lô Lô có nhiều dòng họ. Người trong dòng họ thường cộng cư với nhau thành một làng. Người Lô Lô thường lập làng ở lưng chừng núi, nhưng gần nguồn nước. Nhà cửa ở khá tập trung, mỗi làng từ 20 đến 25 nóc nhà. Người Lô Lô có ba loại nhà khác nhau: nhà đất, nhà sàn nửa đất và nhà sàn.\nTrang phục.\nPhong phú về chủng loại, kỹ thuật tạo dáng áo và độc đáo về phong cách mỹ thuật, khó lẫn lộn với bất cứ tộc người nào. Có nhiều nhóm địa phương.\nTrang phục nam.\nNam giới Lô Lô thường mặc áo xẻ nách năm thân dài tới gối, màu chàm. Quần cũng là loại xẻ dùng màu chàm. Trong đám tang mặc áo dài xẻ nách, trang trí hoa văn sặc sỡ theo từng chi và dòng họ.\nTrang phục nữ.\nPhụ nữ Lô Lô để tóc dài quấn ngang đầu. Bên cạnh đó họ còn dùng khăn quấn thành nhiều lớp trên đầu hoặc đội. Khăn cũng được trang trí các mô típ hoa văn và các tua vải màu sắc sặc sỡ. Ngoài ra còn có loại mũ khăn trang trí hoa văn theo lối ghép vải - một phong cách mỹ thuật khá điển hình của cư dân Tạng - Miến (mà Lô Lô là tộc biểu hiện khá tập trung và điển hình). Các nhóm Lô Lô ăn mặc khác nhau. Xưa người Lô Lô phổ biến loại áo dài cổ vuông, tay dài, chui đầu (vùng Bảo Lạc, Cao Bằng), hoặc loại áo ngắn thân cổ vuông, ống tay áo nối vào thân, có thể tháo ra. Cạnh đó còn có loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, cổ cao, tròn cài cúc. Nhóm Lô Lô trắng có áo dài lửng ống tay rộng, xẻ nách cao, theo kiểu đuôi tôm, cổ áo gấu áo trước và sau được trang trí hoa văn trên nền sáng; hoặc còn có loại tương tự màu chàm nhưng ít trang trí hoa văn. Váy là loại kín (hình ống). Cạp váy chỉ dùng để dắt váy, dưới cạp được chiết ly, thân váy được thêu, ghép hoa sặc sỡ. Bên ngoài còn có tấm choàng váy, hai mép và phía dưới được trang trí hoa văn. Có nhóm mặc quần, đi giày vải.", "Người Hoa () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là người Minh, người Trung Hoa, người Minh Hương, người Bắc, người Thanh, Khách nhân, họ cũng được gọi là người Đường (), người Trung Quốc, người Hán, hoặc dân tộc Hoa ().\nDân tộc Hoa cùng với dân tộc Ngái và Sán Dìu đều được xếp vào nhóm ngôn ngữ Hán. Thông thường, người Hoa ở Việt Nam được gọi là người Việt gốc Hoa để tránh trường hợp gây tranh cãi về thuật ngữ và thái độ kỳ thị. Người Hoa không gồm người Hán có quốc tịch Trung Quốc đang sống ở Việt Nam.\nDân tộc Hoa có dân số 749.466 người theo Điều tra dân số chính thức của Chính phủ Việt Nam năm 2019, chiếm 0,78% dân số Việt Nam.\nTên gọi.\nNhững người có nguồn gốc từ Trung Quốc (gọi chung là người Trung Quốc) đã qua lại để làm ăn, sinh sống, và hòa nhập với người Việt (người Kinh) bản địa ở Việt Nam vốn từ lâu đời, tùy theo từng các thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh tiếp xúc hoặc nguyên nhân di cư mà người Trung Quốc đã tự xưng về tên dân tộc của mình khác nhau. Người Trung Quốc thường tự gọi mình là dân của các triều đại mà họ cho rằng văn minh, tự hào hoặc cho rằng nó phổ biến và được người bản xứ biết rõ, hoặc đã biết từ lâu như \"người Đường\" (\"tong4 jan4\", Thoòng dzằn), \"người Thanh\", \"người Bắc\" (quốc). Người Hoa còn tự gọi họ theo quê quán: người Quảng Đông (Quảng Đông), người Tiều (Triều Châu), người Khách Gia, người Hải Nam (Hải Nam), người Phúc Kiến (Phúc Kiến)... Người Việt còn có lệ gọi người Hoa là \"người Ngô\". Lệ này bắt nguồn từ lịch sử thời Xuân Thu có \"nước Ngô\" và \"nước Việt\", bản thân đây là 2 quốc gia phi Hán nhưng sau thì vùng này đã bị Hán hóa hoàn toàn từ phương Bắc. Điển hình là bản \"Bình Ngô đại cáo\" của Nguyễn Trãi vào thế kỷ XV sau khi Bình Định Vương Lê Lợi đuổi được giặc nhà Minh, do nhà Minh có tiền thân tự xưng là \"Ngô\".\nTừ phổ thông người Việt hay dùng để gọi người Hoa là \"người Tàu\"; \"chệt\"; từ \"cắc chú\", đọc trại từ chữ \"khách trú\" vì lúc đấy người Hoa không được nhìn nhận là cư dân mà chỉ là dân ở trú mà thôi. Bản báo sau đây đưa ra nguồn gốc khác cho \"cắc chú\" nhưng không có cơ sở:\n\"Theo Gia Định báo, đăng trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16 tháng 2 năm 1870: phần tạp vụ (một bài thuộc vào loại phiếm luận ngày nay)\"\"Người bên Tàu thường gọi là người Trung-Quốc nghĩa là nước ở giữa vì thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng-đế ở lại vô ở giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc. Người bên Tàu thường kêu mình là Đường-nhơn hay Thanh-nhơn, nghĩa là người nhà Đường nhà Thanh. An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v...\"\n\"Người Bắc thì kêu là \"Ngô\", nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắt nghĩa rằng vì bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi. Từ này không còn phổ biến nữa.\"\n\"Kêu \"Các-chú\" là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy.\"\n\"Còn kêu là \"Chệc\" là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc.. Nay không còn phổ biến nữa.\" \nTừ Ba Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là 3 vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù lao Phố (Đồng Nai), Chợ Lớn (Sài Gòn), Hà Tiên; từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam. Còn có cách giải thích khác: Người Việt thường xưng hô theo thứ tự như anh Hai (con cả) anh Ba (con thứ)... Vì lý do đó mà người Tàu thường lễ phép gọi thân mật người Việt đang làm ở các cơ quan Pháp thời đó là anh Hai (cậu Hai) và xem mình là em (anh Ba).\nNgười Hoa Việt Nam thường tự gọi mình là Đường nhân 唐人 (\"Tong4 jan4\" theo tiếng Quảng Đông, \"Deung7 nang5\" theo tiếng Triều Châu, \"Tángrén\" theo tiếng Phổ Thông).\nMột danh từ để chỉ người Trung Quốc được chấp nhận và sử dụng phổ biến trên khắp thế giới là \"người Hoa\" (華人).\nNếu xếp theo phân loại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì người Hoa là người Hán.\nLịch sử.\nTrước năm 1945.\nCó ý kiến cho rằng những người Trung Quốc đầu tiên bắt đầu đi vào Việt Nam là từ thời nhà Tần vào Tượng Quận nhưng lần di dân đầu tiên được ghi nhận rõ ràng là từ năm 43 vào thời nhà Hán tức thời Bắc thuộc lần 2; người Trung Hoa di dân đến Việt Nam đến thời Trung Hoa Dân Quốc, gồm: binh lính, quan chức, thường dân, nhà buôn..., thậm chí là tội phạm (lý do thì đa dạng); người Trung Quốc di cư đến Việt Nam rất đông nhưng phần lớn họ kết hôn và \"nhập gia tùy tục\" với người bản xứ rồi con cháu họ cũng dần dần hòa tan vào xã hội Việt Nam xưa để thành người Kinh, hiện Việt Nam chính thức chỉ sót lại số ít người Hoa là còn giữ được bản sắc mà ta đang đề cập.\nVào thế kỷ XVII tại Trung Quốc, sự xâm lược Trung Quốc của người Mãn Châu (1618-1683) dẫn đến làn sóng người Hoa ở miền Nam Trung Quốc trung thành với nhà Minh (Trung Quốc) và không thần phục nhà Thanh (Mãn Châu) bỏ quê hương di dân sang vùng Đông Nam Á, ngoài ra sau này cho đến khi Mãn Thanh sụp đổ thì cũng có những người Hoa có tư tưởng trung lập di cư đến nhưng vẫn có những người bất mãn với triều đình, trong đó, phần lớn người Hoa chọn đến Việt Nam vì gần gũi về địa lý cũng như văn hóa, phong tục tập quán. Họ sang Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng nhiều nhất là bằng thuyền buồm nên họ được người bản địa gọi là người Tàu hay Tàu Ô vì đặc trưng thuyền của người Hoa vượt biên sang Việt Nam là phần buồm của chúng có màu đen đặc như than tro.\nNăm 1671, Mạc Cửu và gia đình ông đến vùng đất Mang Khảm (nay là Hà Tiên), khi đó vẫn thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Chân Lạp. Mạc Cửu đã mở rộng quyền kiểm soát ra các vùng lân cận, và sau đó quy thuận chúa Nguyễn.\nSách \"Đại Nam Thực lục (Tiền biên)\" chép:\nNhững cộng đồng người Hoa này được gọi là \"người Minh Hương\". Chữ \"hương\" ban đầu dùng chữ 香 có nghĩa là \"thơm\" khi kết hợp với chữ Minh 明 có nghĩa là \"hương hỏa nhà Minh\" (明香), đến năm 1827 thì vua Minh Mạng cho đổi chữ Hương 香 sang chữ Hương 鄉 nghĩa là \"làng\" để tránh đụng chạm với nhà Thanh, từ đó Minh Hương (明鄉) có thể hiểu là \"làng của người Minh\" và cũng có thể hiểu là \"làng sáng sủa\".\nNăm 1698, ở vùng Phiên Trấn - Bến Nghé - Sài Gòn đã hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, Chợ Lớn cũ. Từng có câu ca dao nói về phong hóa làng Minh Hương:\nTuy thu được nguồn lợi từ những người Hoa định cư tại Việt Nam, nhưng các vị vua chúa Việt Nam chưa bao giờ cảm thấy yên tâm về lòng trung thành của họ. Tại thời điểm xấu nhất của quan hệ giữa hai bên, 10 ngàn người Hoa vùng cù lao Phố đã bị Nguyễn Nhạc của nhà Tây Sơn tàn sát vào thế kỷ XVIII, và người Hoa cũng là lực lượng ủng hộ nhà Nguyễn chống Tây Sơn. Những khi khác, người Hoa rất có khiếu làm ăn, được hưởng tự do và sự giàu có nhưng họ luôn bị người bản xứ kỳ thị.\nSau khi nhà Nguyễn ban hành quy chế thành lập các Bang Hoa Kiều, người Hoa sinh sống ở Việt Nam có tất cả là 7 bang: Quảng Triệu (còn gọi là Bang Quảng Đông), Khách gia, Triều Châu, Phước Kiến, Phước Châu, Hải Nam và Quỳnh Châu. Trụ sở của 7 Bang (giống như Văn phòng Đại diện) thường được gọi là \"Thất Phủ công sở\" hoặc \"Thất Phủ hội quán\".\nĐến thế kỷ XIX, người Pháp tạo điều kiện cho người Hoa vào định cư ở Sài Gòn, Chợ Lớn ở miền Nam cũng như Hà Nội, Hải Phòng ở miền Bắc. Thời kì này người Hoa sang Việt Nam theo các đợt mộ phu khai thác đồn điền, hầm mỏ của các ông chủ tư bản người Pháp. Tháng Giêng năm 1885, Pháp ra lệnh sáp nhập Bang Phước Châu vào trong Bang Phước Kiến; sáp nhập Bang Quỳnh Châu vào trong Bang Hải Nam. Vì vậy mà từ đó về sau, người Hoa chỉ còn 5 bang.\nNgoài ra, riêng đối với Bang Khách gia ở Việt Nam thì không chỉ có người Hẹ. Theo lệnh của Thực dân Pháp, những người Trung Quốc sinh sống ở Việt Nam nhưng có nguyên quán (Tổ tịch) không thuộc 4 Bang kia, tất cả đều phải chịu sự quản lý của Bang Khách gia. Vì vậy mà trong Bang Khách gia Việt Nam có những người gốc Giang Tô, Thượng Hải, Chiết Giang, Hồ Bắc, Hồ Nam...\nKhoảng thời gian từ năm 1937-1945, có một số lượng không nhỏ người Hoa từ các khu vực bị phát xít Nhật chiếm đóng ở Trung Quốc chạy xuống Việt Nam lánh nạn.\nNăm 1949, sau khi Trung Quốc Quốc dân Đảng thua trận và bị mất quyền kiểm soát ở đại lục trước Đảng Cộng sản Trung Quốc thì có thêm rất nhiều người Hoa vượt biên sang Việt Nam lánh nạn. Họ chủ yếu là ông chủ của các hãng buôn, các xí nghiệp, các tiểu tư sản, trí thức, ... những người được coi là \"mầm họa tư bản cần phải được loại bỏ\" của Đảng Cộng sản Trung Quốc.\nTrước 1945, tại Việt Nam, chính quyền thuộc địa Pháp giành độc quyền buôn bán 3 mặt hàng quan trọng nhất là gạo, muối và rượu. Đặc biệt là thuốc phiện được Pháp công khai buôn bán, khuyến khích người Việt sử dụng chứ không bị cấm như ở chính quốc. Lợi nhuận từ thuốc phiện đã đóng góp tới 25% vào ngân sách của Pháp ở Đông Dương. Tổng ngân sách năm 1905 là 32 triệu đồng Đông Dương, trong số này nguồn thu từ độc quyền việc chế biến và kinh doanh thuốc phiện là 8,1 triệu đồng Đông Dương. Việc phân phối bán lẻ thuốc phiện được Pháp dành cho tư nhân, đa số là người Hoa Người Hoa thu được những món lợi lớn từ việc buôn thuốc phiện cho Pháp trong thời kỳ này, từ đó tạo nguồn lực cho việc họ khống chế kinh tế miền Nam cho tới thập niên 1980.\nTới trước năm 1949, người Hoa ở Việt Nam vẫn giữ quốc tịch Trung Quốc. Chính quyền Trung Hoa Dân quốc tuyên bố rằng tất cả người Hoa ở nước ngoài đều là công dân Trung Quốc, có nghĩa là Trung Quốc có quyền bảo vệ công dân của mình. Đến thập niên 1950, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới chính thức thu hồi lời tuyên bố trên.\nGiai đoạn 1954-1976.\nỞ miền Bắc.\nỞ miền Bắc, năm 1955, hai chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thống nhất rằng người Hoa ở Việt Nam sẽ do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý và họ được hưởng đầy đủ quyền lợi như là công dân Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ước tính rằng quá trình bỏ dần quốc tịch Trung Quốc để thành công dân chính thức của Việt Nam với người Việt gốc Hoa sẽ kéo dài nhiều năm. Trong thời gian Chiến tranh Việt Nam diễn ra thì người Hoa ở miền Bắc được hưởng tất cả các quyền của công dân Việt Nam, kể cả quyền bầu cử, nhưng họ lại không phải chịu nghĩa vụ quân sự. Trong thập niên 1960, do ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, một số người Hoa bắt đầu các hoạt động \"Hồng Vệ binh\" của mình và tố cáo Đảng Cộng sản Việt Nam đang đi theo chủ nghĩa xét lại. Đối phó với việc này, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gia tăng áp lực trong việc chuyển đổi quốc tịch của người Hoa sang quốc tịch Việt Nam. Nếu không chuyển đổi quốc tịch đúng hạn thì lực lượng thi hành pháp luật của Việt Nam sẽ dùng biện pháp mạnh cưỡng chế tài sản và bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Bước sang thập niên 1970, đặc biệt là sau khi Giải phóng miền Nam, để giảm khả năng thao chính quyền Trung Quốc đại lục lợi dụng người Hoa ở Việt Nam để tiến hành thao túng nền kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam thì chính phủ Việt Nam đã bắt đầu giảm các bài học sử Trung Quốc và tiếng Trung Quốc tại các trường học của con cháu người Hoa tại Việt Nam. Từ vài năm trước đó, các biển hiệu bằng tiếng Trung bắt đầu biến mất và thay bằng tiếng Việt tại các thành phố lớn tập trung đông người Hoa ở miền Bắc như Hà Nội hay Hải Phòng.\nNgười Hoa ở miền Nam.\nTheo một số tài liệu, từ đầu thế kỷ XX, Thiên Địa hội đã phát triển khá mạnh ở thành thị và thôn quê 6 tỉnh Nam Kỳ, nơi tiếp nhận rất nhiều Hoa kiều sang làm ăn mua bán (mặt hàng nông sản, lúa gạo). Xu thế này vẫn tiếp diễn trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và Việt Nam cộng hòa trước năm 1975. Các hoạt động ngầm của giới tội phạm gốc Hoa tại Việt Nam có liên hệ chặt chẽ với hội Tam Hoàng tại Hồng Kông, Đài Loan, Macau. Những hoạt động bất hợp pháp như tổ chức cờ bạc, mại dâm, bảo kê, cho thuê nặng lãi, buôn bán thuốc phiện... diễn ra bán công khai và được chính quyền thời bấy giờ nhắm mắt cho qua, vì những khoản tiền khổng lồ mà các tổ chức này nộp về chính quyền qua những thỏa thuận ngầm. Khu Đại Thế giới (Chợ Lớn) từng là địa bàn cát cứ hoạt động rất mạnh của giới xã hội đen gốc Hoa và là một điểm nóng trong các địa bàn hoạt động mạnh của Hội Tam Hoàng Trung Hoa tại Đông Nam Á dưới sự bảo trợ của Bảy Viễn, Thiếu tướng Quân đội Quốc gia, thủ lĩnh Lực lượng Bình Xuyên (Vừa là quân đội, vừa là băng đảng xã hội đen) kiêm Tổng trấn Sài Gòn-Chợ Lớn, và cũng là một người gốc Hoa (Triều Châu). Họ thậm chí còn mua chuộc được một số tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa, quận trưởng, tỉnh trưởng, để có thể giành được những hợp đồng đầu tư. Thực tế hội Tam Hoàng Trung Hoa đã bén rễ rất sâu và phức tạp vào xã hội và kinh tế miền Nam trước 1975.\nMột đặc điểm phổ biến của các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á là tính biệt lập của họ. Người Hoa tạo nên những \"xã hội\" nhỏ, những \"khu tự trị\" trong quốc gia mà họ cư trú. Người Hoa sống tập trung lại với nhau thành từng khu (như là khu Chợ Lớn ở miền Nam), mỗi địa phương có bang trưởng được cử ra trong số người giàu có, thạo việc làm ăn để thay mặt cộng đồng giao thiệp với bên ngoài, hoặc giải quyết tranh chấp không qua sự can thiệp của chính quyền sở tại. Người Hoa cũng nổi tiếng là biết dùng tiền để mua chuộc quan chức trong chính quyền sở tại. Ý thức biệt lập dựa trên sự nuôi dưỡng tinh thần nước lớn, tổ chức nội bộ chặt chẽ, cơ sở kinh tế mạnh, có nhiều mưu mẹo, thêm vào đó là hậu thuẫn mạnh mẽ của tư sản Hoa kiều ở các nước khác, đó là những đặc điểm và cũng là điều kiện cho phép tư sản gốc Hoa thao túng hầu như toàn bộ nền kinh tế miền Nam trước năm 1975.\nViệt Nam bị chia cắt vào năm 1954, ở miền Nam, từ năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm đề ra chính sách buộc tất cả người Hoa phải nhập quốc tịch Việt Nam hoặc bị trục xuất. Một sắc luật bổ túc (Số 52) ban hành ngày 29 tháng 8/1956 đòi hỏi tất cả người Hoa phải lấy tên tiếng Việt trong thời hạn 6 tháng nếu không sẽ bị phạt. Ngày 6 tháng 9 lại ban hành sắc luật Số 53 cấm người nước ngoài hoạt động trong 11 ngành nghề, kể cả buôn gạo và bán hàng tạp hóa, những ngành mà người Hoa chiếm ưu thế. Những người Hoa đang hoạt động trong khu vực kinh tế này có 6 tháng đến 1 năm để bán hay sang nhượng lại thương nghiệp cho công dân Việt Nam, nếu không sẽ có thể bị trục xuất hay phạt 5 triệu đồng. Chính phủ Ngô Đình Diệm cũng bắt các trường học của người Hoa trong vùng Sài Gòn − Chợ Lớn phải dùng tiếng Việt trong giảng dạy và bổ nhiệm Hiệu trưởng người Việt Nam. Đây là những chính sách nhằm thẳng vào khối 1 triệu người Hoa sinh sống ở miền Nam. Tháng 5 năm 1957, Bắc Kinh phản đối rằng đây là \"sự xâm phạm tàn nhẫn các quyền hợp pháp của người Hoa\".\nNgười Hoa xuống đường gây bạo động, phản đối chính sách của Ngô Đình Diệm. Đến mùa hè 1957, người Hoa đóng cửa gần hết trường học, hoạt động thương mại, và rút tiền ra khỏi ngân hàng. Khoảng 800 triệu đến 1,5 tỉ đồng − gần 17% tiền tệ đang lưu hành ở miền Nam − biến mất khỏi thị trường, thương mại bất chợt ngưng trệ. Đến khoảng giữa tháng 5/1957, có khoảng 6.000 cửa hàng của người Hoa đã đóng cửa, 200.000 người mất công ăn việc làm. Hoa kiều còn phản đối bằng việc ngừng vận tải hàng hóa (các hãng vận tải lớn đều do họ nắm giữ). Với sự hỗ trợ của giới buôn lớn, chủ ngân hàng Hoa kiều ở Đông Nam Á và chính quyền Đài Loan, người Hoa nhất loạt đình chỉ hoạt động, tẩy chay không bốc dỡ gạo Việt Nam đã cập bến cảng nước ngoài. Do ngừng mọi vận chuyển, nông sản ứ đọng ở vùng quê, trong khi Sài Gòn – Chợ Lớn lại rất khan hiếm. Nền kinh tế miền Nam Việt Nam gần như sụp đổ.\nNhận thấy ảnh hưởng không thể thay thế của người Hoa trong nền kinh tế, Chính phủ Ngô Đình Diệm nhượng bộ. Cuối tháng 7/1957, người Hoa được quyền ghi danh cửa hàng bằng tên của bà con sinh tại Việt Nam, hoặc nhập tịch Việt Nam theo thủ tục đơn giản. Hiệu trưởng các trường học chỉ cần là người Hoa sinh tại Việt Nam. Tiếng Hoa được sử dụng lại trong trường học trừ các môn lịch sử, địa lý và văn học. Người Hoa cũng được đối xử mềm mỏng khi áp dụng luật thi hành quân dịch. Đến năm 1961, theo một báo cáo của Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa, hơn 1 triệu người Hoa sống ở miền Nam chỉ còn chừng 2.000 người là không chịu đổi quốc tịch, phần lớn là những người đã già.\nTrong 15 năm tiếp theo, người Hoa ít khi bị động tới, tự trị tự quản về nhiều mặt, các khu người Hoa giống như vùng tự trị ngay trên đất nước Việt Nam. Cùng lúc chiến tranh leo thang, người Hoa đã góp phần không nhỏ vào tình trạng tham nhũng, hối lộ, trốn thuế, trốn quân dịch, gây bất ổn định chính trị trong xã hội miền Nam thời đó.\nThời điểm năm 1965, có khoảng 200 nghìn người Hoa, phần lớn sống tập trung ở quanh Sài Gòn, chia thành 5 bang, gồm Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hẹ (hay còn gọi là Khách gia, Hà Cá) và Hải Nam. Đa số các xưởng cơ khí, chế tạo máy móc, dệt may ở Chợ Lớn đều do người Quảng Đông làm chủ. Người Phúc Kiến giỏi về giao thương với hàng loạt các công ty vận tải đường thủy, đường bộ. Người Triều Châu làm ăn nhỏ lẻ bằng cách mở tiệm ăn, tiệm tạp hóa, người Hẹ chuyên về tiểu thủ công nghiệp như lập lò rèn, nhà máy nước đá, đóng giày, làm bánh. Người Hải Nam chuyên kinh doanh thủy hải sản. Trong một bản tường trình gửi Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ có đoạn: \"Họ (những con buôn người Hoa) chi phối giá cả từ trên xuống dưới. Vàng chẳng hạn, cứ mỗi tối họ điện thoại sang Hồng Kông để nắm giá rồi sáng hôm sau, họ thông báo giá vàng trong ngày cho tất cả những đầu mối ở Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây. Phân bón cũng vậy, qua tin mật báo của cảm tình viên Tổng đoàn, trong 6 kho ở bến Chương Dương, bến Hàm Tử, bến Bình Đông hiện vẫn còn trên dưới 50 nghìn tấn nhưng trên thị trường, họ ra lệnh cho các đại lý chỉ bán nhỏ giọt vì họ nắm được thông tin là phân sẽ lên giá…\".\nNăm 1973, thành phố Sài Gòn có 36 rạp chiếu bóng thì 17 rạp là của người Hoa. 25 trong tổng số 30 nhà nhập khẩu phim truyện của nước ngoài là Hoa, họ đồng thời là chủ các rạp chiếu bóng. Trong tổng số 35 rạp đăng quảng cáo có tới 23 rạp chiếu phim Đài Loan. Báo Sóng thần số ra ngày 14/6/1974 đăng quảng cáo cho 39 rạp phim vùng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định thì 28 rạp chiếu phim của Đài Loan, còn lại là của các nước khác, không một rạp nào chiếu phim Việt Nam. Trong tổng số 31 ngân hàng hoạt động ở miền Nam trước năm 1975, Đài Loan có 3, 7 ngân hàng khác là của người Hoa mang quốc tịch Việt. Ước lượng hàng năm các ngân hàng của người Hoa chiếm khoảng 80% tổng số tín dụng dành cho thương mại. Người Hoa làm chủ 42 trong tổng số 60 công ty có doanh số hàng năm trên 100 triệu đồng tiền cũ.\nTuyệt đại bộ phận lượng thóc gạo lưu thông ở miền Nam về cơ bản nằm trong tay tư sản Hoa kiều hoặc người Việt gốc Hoa. Chế độ Sài Gòn có lần định trực tiếp nắm việc phân phối lương thực, ít nhất là trong khu vực bán buôn, nhưng mọi cố gắng đều không đưa lại kết quả. Sau một thời gian, đầu năm 1970, chính quyền Sài Gòn tuyên bố \"trao trả việc phân phối lúa gạo lại cho tư nhân\", nhà nước chỉ đóng vai trò \"kiểm soát về giá cả và tham gia vận chuyển\". Thực tế đây là một sự đầu hàng trước tư sản người Hoa. Tháng 3 năm 1971, trả lời phỏng vấn của một tờ báo, chủ tịch Nghiệp đoàn Mễ cốc Việt Nam (Sài Gòn) đổ lỗi sở dĩ phải làm vậy là vì \"bảy thương gia hoạt động mạnh nhất và coi như đã nắm gần trọn hệ thống thu mua phân phối lúa gạo\", hầu hết đều là người Hoa.\nVề đường biển, đội thuyền buôn theo kiểm kê năm 1972, có 35 chiếc trọng tải từ 650 – 2.500 tấn, trong đó gần một nửa thuộc sở hữu tư nhân hoặc do tư nhân thuê của nước ngoài, tư nhân ở đây cũng toàn là người Hoa. Tháng 11 năm 1970, một tờ nguyệt san xuất bản tại Sài Gòn viết: \"Cho đến nay, ngành chuyên chở hàng hóa vẫn còn nằm dưới sự độc quyền của người Việt gốc Hoa, chưa có một hãng vận tải người Việt nào xen vào cạnh tranh nổi. Các doanh nhân thủ đô gởi hàng đi và các nhà nông từ các nơi đưa nông phẩm về Sài Gòn – Chợ Lớn đều phải nhờ các hệ thống vận tải của người Việt gốc Hoa. Riêng về ngành này, người Việt gốc Hoa có khoảng 170 hãng hoặc công ty vận tải.\"\nĐộc quyền vận tải cũng là phương sách để người Hoa ngầm khống chế thị trường. Người Hoa không bao giờ chở hàng của người Việt, nếu có mặt hàng đó cùng loại với hàng hóa do người gốc Hoa sản xuất. Nói cách khác, hệ thống vận chuyển và phân phối của người Hoa chỉ phục vụ lợi ích của người Hoa. Hàng do người Việt sản xuất nếu bị hệ thống vận tải độc quyền của người Hoa từ chối lưu thông thì sẽ tồn ứ ở trong kho, doanh nghiệp chỉ chờ phá sản\nCuối năm 1973, kiểm kê cho biết, trong số gần 10.000 xí nghiệp lớn nhỏ được kiểm kê, 80% là tài sản của tư sản gốc Hoa. Hai công ty nhập khẩu và chế biến bột mì lớn nhất là Sakybomi và Viflomico cung ứng 60% nhu cầu bột mì cho toàn miền, thì tư sản người Hoa làm chủ cả hai, ngoài ra họ còn làm chủ luôn 10 công ty nhỏ khác thuộc ngành này. Họ chiếm 90% số vốn của năm công ty và 182 cơ sở sản xuất mì gói. Công ty sản xuất mạch nha duy nhất với số vốn 200 triệu đồng là của tư sản người Hoa. Với sự góp vốn của Đài Loan, họ kiểm soát hoàn toàn 4 công ty sản xuất bột ngọt (mì chính). 30 trong tổng số 40 cơ sở sản xuất rượu ở miền Nam là của người Hoa. Ngoài ra, họ giữ 60% vốn của 14 công ty khai thác hải sản. Sài Gòn có 4 công ty dệt lớn là Sicovina, Vimytex, Vinatexco và Vinatefinco, thì ba công ty sau là của tư sản người Hoa, chiếm khoảng 70% sản lượng toàn ngành.\nTrong công nghiệp hóa chất, tư sản người Hoa là chủ của 14 trong tổng số 17 công ty. 55% vốn của các cơ sở sản xuất đệm mút, giày dép, đồ dùng bằng cao su; 50% vốn của các ngành sản xuất nến, diêm, phấn viết… là của người Hoa. Họ tổ chức 4 trong tổng số 5 công ty luyện kim. 60% vốn của khoảng 100 xưởng đúc gang, làm đinh… do tư sản người Hoa kiểm soát. Về sản phẩm cơ khí, đồ dùng điện và điện tử, tư sản người Hoa nắm từ 60 – 70% tổng số vốn, rải ra trên hàng trăm cơ sở. Người Hoa chiếm khoảng 50% doanh số bán lẻ của toàn miền Nam, về bán buôn (tiếng miền Nam gọi là \"buôn sỉ\") thì tư sản người Hoa gần như nắm độc quyền. Tư sản người Hoa cũng làm chủ khoảng một nửa số khách sạn lớn và 90% số khách sạn nhỏ, nhà trọ ở vùng Sài Gòn.\nNgười Hoa có có kỹ năng kinh doanh tốt, có truyền thống kinh doanh, khéo lợi dụng quan hệ huyết thống và tinh thần nước lớn (con dân nước Trung Hoa vĩ đại), cộng vào đó là những mưu mẹo, tính thích ứng với mọi hoàn cảnh, sự nhẫn nhục và cần cù. Người Hoa cũng giỏi móc ngoặc với tư bản quốc tế và lợi dụng guồng máy chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Có đủ căn cứ để cho rằng tổng số các nghiệp vụ tín dụng công khai hoặc ngấm ngầm của giới tư sản ngân hàng Hoa Kiều ở miền Nam trước năm 1975 là không dưới 150 tỷ đồng Sài Gòn cũ, trong đó khoảng 100 tỷ được dùng vào việc thu mua lúa gạo. Số tiền đó bằng 1/3 tổng số tiền lưu hành ở miền Nam thời đó, nên rất dễ hiểu tại sao một nhóm nhỏ người Hoa giàu có lại có thể thao túng nền kinh tế.\nTrong khi ở miền Bắc, Hoa kiều không đóng vai trò đặc biệt trong nền kinh tế nhà nước quản lý tập trung, thì ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường.\nSau năm 1976.\nSau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào năm 1975, khoảng 4% dân số Việt Nam là người Việt gốc Hoa, trong đó có hơn 1,5 triệu Hoa kiều sinh sống chủ yếu ở khu vực Chợ Lớn, Sài Gòn, và chỉ có khoảng 300.000 người Việt gốc Hoa sống ở miền Bắc.\nVấn đề về người Hoa càng thêm phần trầm trọng khi họ treo Quốc kỳ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn. Tháng 1 năm 1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lệnh cho người Hoa ở miền Nam đăng ký quốc tịch. Đa số đăng ký là quốc tịch Trung Quốc mặc dù họ đã chuyển sang quốc tịch Việt Nam từ những năm 1956-1957. Tháng 2 năm đó, người Hoa được lệnh đăng ký lại theo quốc tịch đã nhận thời Việt Nam Cộng hòa. Những người vẫn tiếp tục đăng ký là quốc tịch Trung Quốc sau đó bị mất việc và giảm tiêu chuẩn lương thực. Cuối năm đó, tất cả các tờ báo tiếng Trung bị đóng cửa, tiếp theo là các trường học của người Hoa. Chính sách của Việt Nam năm 1976 (là năm Việt Nam tái thống nhất) (đánh tư sản những người Hoa và tịch thu tài sản của họ) đã bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhanh chóng của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, với nỗi e ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng Hoa kiều để ép Việt Nam theo các chính sách của mình. Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản.\nNăm 1977, lạm phát 80% cùng với vấn đề tiếp diễn của sự thiếu thốn và nạn đầu cơ lương thực, Chính phủ Việt Nam sợ rằng Hoa kiều có thể bị lôi kéo theo các mục tiêu của Trung Quốc. Kèm theo đó là sự ngừng trệ nghiêm trọng của các vùng kinh tế phía Tây Nam do các xung đột tại biên giới với Campuchia. Người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc. Những điều này làm cho chính phủ Việt Nam lo lắng về nguy cơ đất nước bị rối loạn cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài và coi Hoa kiều là một lực lượng ở Việt Nam và sẵn sàng tiếp tay với Trung Quốc để phá hoại. Mặc dù không có bằng chứng cụ thể về các hoạt động phá hoại, nhưng sự giàu có của cộng đồng Hoa kiều bị xem là mối đe dọa đối với chính quyền Việt Nam. Trong các tháng 3, 4 năm 1978, khoảng 30.000 doanh nghiệp lớn nhỏ của Hoa kiều bị quốc hữu hóa. Vị thế kinh tế của đa số tư sản Hoa kiều bị hủy bỏ, nhà nước thắt chặt kiểm soát nền kinh tế. Chính quyền cũng tiếp quản cơ sở tổng hội quán người Hoa, bệnh viện Sùng Chính (đầu năm 1976) và 5 bệnh viện khác của 5 bang vào tháng Giêng 1978, đóng cửa 11 tờ báo Hoa ngữ. Khối lãnh đạo người Hoa ở Việt Nam xem như không còn hiện hữu, và việc người Hoa kiểm soát nhiều ngành công nghiệp bị xóa bỏ.\nQuan hệ ngày càng xấu đi giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng làm tăng thêm số người Hoa rời Việt Nam. Phía Trung Quốc tố cáo Việt Nam đã xua đuổi người Hoa sống ở phía Bắc về Trung Quốc. Đầu tiên là những vụ di cư nhỏ lẻ, sau đó là trào lưu ồ ạt người di tản đi đến những bờ biển của các nước láng giềng. Kết quả là số người di tản từ Việt Nam tăng gấp đôi trong 6 tháng đầu năm 1979, trong những người di tản trong những năm 1978-1979, Hoa kiều chiếm đa số. Cộng thêm vào đó là khoảng 250.000 Hoa kiều sang Trung Quốc qua biên giới phía Bắc từ tháng 4 năm 1978 đến mùa hè năm 1979. Trung Quốc đã gọi đây là vấn đề \"nạn kiều\". Đến năm 1982, do khó khăn kinh tế và quan hệ chính trị thù địch giữa Việt Nam với Trung Quốc, người Hoa ở miền Nam đã vượt biên qua đường biển, đường bộ để trốn qua nước thứ ba. Khoảng 2/3 trong số nửa triệu người vượt biên từ Việt Nam là người gốc Hoa.\nĐến năm 1989, số người gốc Hoa tại Việt Nam đã giảm từ 1,8 triệu năm 1975 xuống còn 900.000. Người gốc Hoa không còn là thế lực kiểm soát nền kinh tế Việt Nam như trước nữa, và các phong tục, ngôn ngữ gốc Hoa của họ về mặt hình thức không còn phổ biến như trước. Đây là một ngoại lệ hiếm hoi so với những nước Đông Nam Á khác: người gốc Hoa về mặt cư trú, ngôn ngữ, giáo dục... đã gần như bị đồng hóa bởi người Việt Nam. Và cũng khó phân biệt giữa một người gốc Hoa và một người Việt về mặt hình thức dù họ vẫn giữ một số phong tục tập quán của tổ tiên mình. Mặc dù người Việt có thể phản đối hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông hoặc các chính sách của chính quyền Trung Quốc, nhưng không ai nghĩ đến việc trả thù những gia đình người gốc Hoa ở địa phương họ sinh sống.\nTừ năm 1986 đến nay.\nSau khi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thực thi chính sách Đổi Mới vào năm 1986, sự kỳ thị chống người Hoa đã giảm rõ rệt, và kéo theo đó là chính sách khoan hòa với người Hoa để giảm xung đột với Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam chủ động ngỏ lời muốn hòa giải chính trị và bình thường hóa quan hệ với chính phủ Trung Quốc . Đi kèm theo đó, chính phủ Việt Nam đã bắt đầu chính sách hỗ trợ và đảm bảo văn hóa của người Hoa tại Việt Nam được giữ gìn. Cùng với đó, người Hoa cũng dần lấy lại ảnh hưởng kinh tế ở Việt Nam. Về mặt tư tưởng – nhận thức, cho đến cuối thế kỷ 20 – đầu thế kỷ 21, người gốc Hoa đã hòa nhập sâu sắc vào xã hội Việt Nam đến mức họ tự xem mình là người Việt Nam và mang gốc gác văn hóa thuộc dân tộc Hoa (được công nhận trong 54 dân tộc Việt Nam), chứ không phải là Hoa kiều sinh sống trên nước Việt Nam. Và về mặt tâm lý – tình cảm, người Việt gốc Hoa có khuynh hướng ủng hộ lập trường và quan điểm của phía chính phủ Việt Nam nơi họ đang sống hơn trong việc xử lý các sự vụ bất đồng - tranh chấp (nếu có phát sinh, với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa), hoặc chí ít là có thái độ ôn hòa và trung hòa nên không thể hiện ý kiến phản đối hay ủng hộ chính phủ Việt Nam trong các sự vụ xung đột và khác biệt với Trung Quốc.\nSự kiện biến động ở Hồng Kông 1997.\nTính cho đến thời điểm trước, trong, và sau năm 1997, có nhiều nguồn dư luận trong cộng đồng dân cư Hồng Kông rằng họ sẽ có thể phải rời bỏ Hồng Kông để sang một nước thứ ba lánh nạn, khi Hồng Kông được trao trả từ tay nước Anh về cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Viễn cảnh một nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hà khắc sẽ tiếp quản và cai trị mọi mặt từ chính trị đến đời sống của người dân Hồng Kông vốn đã quen với các giá trị kiểu phương Tây, đã khiến một số lượng dân cư tại đây cảm thấy bất an và tìm đường sang một nước thứ ba để tránh xáo trộn và không bị đàn áp. Một trong những nơi có thể tiếp nhận được làn sóng người di cư Hồng Kông là Việt Nam. Thực tế, có một số nhà đầu tư đã nhạy bén và đón đầu xu thế này, một số công trình dân cư được đầu tư tài chính xây dựng nên tại Thành phố Hồ Chí Minh (chủ yếu là Chợ Lớn), tiêu biểu là Thuận Kiều Plaza, công trình này được thiết kế theo đúng kiểu mẫu của dạng cao ốc căn hộ tại Hồng Kông (trần nhà thấp và không gian mỗi căn hộ là rất nhỏ) để đón làn sóng di dân Hồng Kông sang.\nTuy nhiên, làn sóng ồ ạt người di cư Hồng Kông sang Việt Nam đã không xảy ra, chỉ có một số lượng ít di dân Hồng Kông chọn sang Mỹ hoặc Canada - nơi có cộng đồng Hoa kiều đông đảo hơn, một số chọn lựa ở lại Hồng Kông đánh cược với thời cuộc thay vì phải di cư sang một nước thứ ba và khởi nghiệp từ đầu. Vì thế đã không có thêm một làn sóng di dân mới nào nữa từ Trung Hoa sang Việt Nam thời điểm cuối thế kỷ XX. Nay quan hệ Việt-Trung rất tốt đẹp; rất nhiều khách du lịch, doanh nhân, và di dân CHNDTH đến Việt Nam.\nDân số, nơi cư trú và ngôn ngữ.\nTheo thống kê của cuộc điều tra dân số năm 1999, tổng số người Hoa ở Việt Nam là 862.371 (1,13% dân số ở Việt Nam), được xếp hạng thứ 6, trong đó có khoảng 50% người Hoa sinh sống tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh. Họ tập trung đông nhất ở các quận như Quận 5, Quận 11 (khoảng 45% dân số mỗi quận), Quận 6, Quận 8, Quận 10 với năm nhóm ngôn ngữ chính: tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu, tiếng Phúc Kiến, tiếng Hải Nam và tiếng Khách Gia (Hakka, đôi khi còn gọi là tiếng Hẹ). Một thực tế là đối với cộng đồng người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh đa phần giao tiếp bằng tiếng Quảng Đông là chủ đạo (so với các nhóm ngôn ngữ còn lại), và tiếng Quảng Đông là ngôn ngữ gần như chiếm chủ đạo trong các giao dịch làm ăn nội bộ của cộng đồng người Hoa Chợ Lớn, các nhóm cộng đồng phương ngữ khác (Triều Châu, Phúc Kiến, Khách Gia, Hải Nam) cũng tùy biến sử dụng tiếng Quảng Đông trong giao dịch làm ăn ở vùng Chợ Lớn do tính phổ dụng của nó. Nhiều ngôi đền và nhà cửa của người Hoa ở khu Chợ Lớn đã được khôi phục và xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia và quốc tế, giờ đây mỗi năm đón hàng triệu lượt khách du lịch. Kể từ năm 2007, chính quyền Tp. Hồ Chí Minh đã cho tổ chức Lễ hội Văn hóa Người Hoa định kỳ hàng năm.\nSố người Hoa còn lại sinh sống ở các tỉnh toàn quốc, mà hầu hết là ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh Đông Nam Bộ như Tây Ninh, Bình Dương, Bình Thuận, Đồng Nai (Hoa Nùng) và Khánh Hòa. Cộng đồng người Hoa ở Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh và Bạc Liêu phần lớn là người Triều Châu, đến từ Triều Sán. \nCộng đồng người Hoa tại miền Bắc Việt Nam hiện tập trung ở các tỉnh Bắc Giang, Quảng Ninh nói tiếng Pạc Và (Bạch Hỏa, một phương ngữ tiếng Quảng Đông) và tiếng Khách Gia. Người Ngái là cư dân bản địa sống rải rác ở vùng ven biển và trên các đảo phía bắc Bắc bộ, nói tiếng Ngái, một phương ngôn trong tiếng Khách Gia. \nTrong những khía cạnh quan trọng, người Việt gốc Hoa đã trở nên không thể phân biệt được khi sinh sống trong cộng đồng, và họ đã thành công đến mức, mặc dù các đám đông có thể phản đối những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng không ai nghĩ đến việc trả thù nhằm vào các gia đình người gốc Hoa sống cạnh nhà mình.\nTheo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hoa ở Việt Nam có dân số 823.071 người, có mặt tại tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Hoa cư trú tập trung tại: Thành phố Hồ Chí Minh (414.045 người, chiếm 50,3% tổng số người Hoa tại Việt Nam), Đồng Nai (95.162 người), Sóc Trăng (64.910 người), Kiên Giang (29.850 người), Bạc Liêu (20.082 người), Bình Dương (18.783 người), Bắc Giang (18.539 người).\nNgôn ngữ và văn hóa.\nNgôn ngữ.\nĐa phần người gốc Hoa thế hệ sau này ở Việt Nam đã có thể giao tiếp và sử dụng tiếng Việt một cách khá hoàn chỉnh và trôi chảy nhờ những nỗ lực của chính quyền trong việc quảng bá và cập nhật tiếng Việt đối với cộng đồng người gốc Hoa. Người Việt gốc Hoa hiện nay vừa giao tiếp thành thạo tiếng Việt với người bản xứ, trong khi vẫn sử dụng tiếng Hoa trong giao tiếp với cộng đồng người Hoa, là điều rất khó tìm thấy ở các thế hệ người Hoa trước đây. Việc sử dụng tiếng Việt không làm mất hẳn tiếng Hoa trong các thế hệ trẻ người Hoa, nhiều người trong số họ vẫn sử dụng và thực hành tiếng Hoa tại gia đình hoặc trong các giao tiếp trong cộng đồng người Hoa.\nVăn hóa.\nVề văn hóa, người Hoa và Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng trong tập quán, tín ngưỡng, các quy chuẩn khuôn khổ đạo đức, và trong nhân sinh quan xã hội nói chung. Do đó, người Hoa hòa nhập rất dễ dàng vào xã hội người Việt. Điều này là rất khác nếu so với các cộng đồng người Hoa ở những đất nước như Malaysia, Indonesia hoặc Thái Lan, vốn có một nền văn hóa và tư tưởng khác hoàn toàn với văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên chính vì có rất nhiều điểm tương đồng giữa văn hóa Việt Nam và Trung Hoa mà có sự nhầm lẫn rằng người Hoa tại Việt Nam đang dần bị đồng hóa với người Việt và đánh mất bản sắc. Thực tế, thì ngoài những điểm rất tương đồng trong văn hóa và tư tưởng, người Hoa vẫn có những bản sắc riêng mà có thể khác biệt đôi chút với người Việt, như các ngày lễ hội riêng trong tập quán tín ngưỡng của người Hoa (lễ Nguyên Tiêu, lễ Đông Chí, lễ vía Quan Công, lễ vía bà Thiên Hậu...). Và một số quy chuẩn ứng xử của người Hoa trong một số tình huống cũng có thể sẽ khác đôi chút với người Việt .\nẨm thực.\nVề ẩm thực, có thể thấy người Hoa đã có sự giao lưu rất lớn với nền ẩm thực bản địa Việt Nam. Một số ý kiến cho rằng món \"ngưu nhục phấn\"() của người Hoa sinh sống ở Hà Nội đầu thế kỷ XX, vốn làm từ sợi bánh gạo nấu với thịt bò hầm, là khởi nguồn để người Việt biến tấu thành món \"phở bò\" quốc hồn quốc túy của Việt Nam , tuy nhiên qua khảo sát từ các nhà chuyên môn thì khẩu vị và cách thức chế biến của hai loại món ăn này cũng có khác nhau về cơ bản. Bên cạnh đó, người Hoa ở Chợ Lớn (Thành phố Hồ Chí Minh) cũng đã mang theo nền ẩm thực Hoa đến quảng bá ở mảnh đất này từ rất lâu và mặc nhiên được xem là nét đặc sắc của văn hóa ẩm thực địa phương (Sài Gòn) . Các món hấp, chiên, xào chảo, chưng, hầm, tiềm... theo phong cách Hoa đã được người gốc Hoa giới thiệu và đã hòa nhập rất sâu vào nền ẩm thực tại địa phương (Sài Gòn) . Ở chiều ngược lại, những sản vật đặc thù tại địa phương đã được thêm vào các thành phần nguyên liệu chế biến món ăn, thay thế cho các thành phần nguyên liệu vốn cần để chế biến món ăn đó mà ở địa phương lại không có. Song song đó, những món ẩm thực của người Việt gốc Hoa cũng được tùy biến điều chỉnh về hương vị cho phù hợp hơn với khẩu vị của người Việt bản địa, nhưng vẫn giữ căn bản đặc trưng của món ăn đó. Do đó, đơn cử một món ăn \"cơm xào thập cẩm\" của người Việt gốc Hoa tại Việt Nam sẽ có thể khác biệt với món \"cơm xào thập cẩm\" nguyên bản Trung Hoa về thành phần và hương vị. Các phương pháp chế biến món ăn của người Việt và người Hoa cũng lại rất giống nhau, đơn cử như cách chế biến nước dùng (nước lèo) từ xương heo hầm (hoặc xương gà); các loại cơm hoặc món sợi (mì, hủ tiếu, miến, bún) cũng khá tương đồng trong chế biến và các nguyên liệu chính (thịt thái nhỏ, thịt băm, và đồ lòng động vật).\nTruyền thông.\nHiện tại ở Thành phố Hồ Chí Minh có một ấn bản Hoa văn của tòa báo Sài Gòn Giải Phóng là tờ \"Sài Gòn Giải Phóng nhật báo\" () xuất bản hàng ngày nhằm phục vụ cho cộng đồng người Việt gốc Hoa. Về phát thanh, Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (VOH) có mục tin tức bằng tiếng Quảng Đông và tiếng Quan thoại phát thanh hàng ngày trong tuần phục vụ cộng đồng người Việt gốc Hoa, và một chương trình ca khúc tiếng Hoa phát thanh định kỳ.\nNhững người Việt gốc Hoa nổi tiếng (đương đại).\nNgười Việt gốc Hoa ở Việt Nam do nguyên nhân khách quan nên rất ít hoặc không tham gia chính trị ở nước sở tại; ngược lại người Việt gốc Hoa lại đóng góp rất đáng kể trong các lĩnh vực kinh doanh, văn hóa, giải trí, thể thao... Một số lượng đáng kể những doanh nghiệp do người Việt gốc Hoa làm chủ đã đóng góp một phần rất lớn cho nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới, trong đó chủ đạo là cộng đồng doanh nghiệp của người Việt gốc Hoa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) nắm giữ vai trò kinh doanh quan trọng trên thị trường. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), trong số lượng hàng trăm ngàn doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, thì số doanh nghiệp gốc Hoa đã chiếm đến 30% tổng số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Có thể đơn cử một số người Việt gốc Hoa tiêu biểu:" ]
ting - ngn - nhm - ngi - digan - nhnh - lo - ni - ng - vit
1
false
Sinh học hay sinh vật học (gọi tắt là sinh) là một môn khoa học nghiên cứu về thế giới sinh vật. Nó là một nhánh của khoa học tự nhiên, có phạm vi rộng nhưng có một số chủ đề thống nhất gắn kết nó với nhau thành một lĩnh vực duy nhất, mạch lạc. Ngành tập trung nghiên cứu các cá thể sống, mối quan hệ giữa chúng với nhau và với môi trường, miêu tả những đặc điểm và tập tính của sinh vật (ví dụ: cấu trúc, chức năng, sự phát triển, môi trường sống), cách thức các cá thể và loài tồn tại (ví dụ: nguồn gốc, sự tiến hóa và phân bổ của chúng). Trao đổi chất quan trọng đối với sinh vật giúp chúng phát triển, di chuyển và sinh sản. Cuối cùng, tất cả các sinh vật đều có thể điều chỉnh môi trường bên trong của chính nó. Sinh học bao hàm nhiều ngành học khác nhau được xây dựng dựa trên những nguyên lý riêng. Có 4 nguyên lý tạo thành nền tảng cho sinh học hiện đại: lý thuyết tế bào, tiến hóa, di truyền và cân bằng nội môi. Các môn học này có mối quan hệ qua lại với nhau, giúp ta hiểu về sự sống với các mức độ, phạm vi khác nhau. Sự ra đời của sinh học bắt đầu từ thế kỉ 19, khi các nhà khoa học tìm thấy được các đặc điểm chung cơ bản giữa các loài. Ngày nay, sinh học trở thành một môn học chuẩn và bắt buộc tại các trường học và Đại học trên khắp thế giới. Rất nhiều bài báo được công bố hằng năm ở trên khắp các tạp chí chuyên ngành về y và sinh. Việc phân loại các ngành con của sinh học rất đa dạng. Ban đầu, chúng được phân loại theo chủng loại các cá thể làm đối tượng nghiên cứu. Ví dụ: thực vật học, nghiên cứu về cây; động vật học, nghiên cứu về động vật; và vi sinh học, nghiên cứu về các vi sinh vật. Tiếp đến, chúng lại được chia nhỏ dựa trên quy mô của các cá thể và phương pháp nghiên cứu chúng: hóa sinh nghiên cứu về hóa cơ bản của sự sống; sinh học phân tử nghiên cứu các tương tác phức tạp giữa các hệ thống của các phân tử sinh học; sinh học tế bào tìm hiểu các cấu trúc cơ bản tạo thành mọi sự sống. Như vậy, sự sống ở mức độ nguyên tử và phân tử được nghiên cứu thông qua sinh học phân tử, hóa sinh và di truyền phân tử. Ở mức độ tế bào, nó được hiểu biết thông qua sinh học tế bào và mức độ đa bào thì thông qua sinh lý học, giải phẫu học và mô học. Sinh học phát triển nghiên cứu sự sống ở các giai đoạn phát triển khác nhau hoặc phát triển cá thể của sinh vật. Với mức độ lớn hơn, di truyền học quan tâm đến tính di truyền giữa cha mẹ và con cái. Phong tục học nghiên cứu nhóm hành vi của một tập hợp cá thể. Di truyền học quần thể xem xét toàn bộ quần thể và hệ thống học quan tâm đến sự tiến hóa của nhiều loài thuộc các nhánh tiến hóa. Mối quan hệ qua lại giữa các quần thể với nhau và với ổ sinh thái của chúng là đối tượng của sinh thái học và sinh học tiến hóa. Một lĩnh vực tương đối mới là sinh học vũ trụ nghiên cứu về khả năng tồn tại sự sống ngoài Trái Đất. Lịch sử sinh học. Từ "sinh học" trong tiếng Anh được gọi là "biology", có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp với βίος, bios, "sự sống" và hậu tố -λογία, -logia, "môn học." Thuật ngữ Latinh này lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1736: nhà khoa học Thụy Điển Carl Linnaeus (Carl von Linné) đã sử dụng từ "biologi" trong quyển "Bibliotheca botanica" (Từ điển thực vật) của ông. Nó được sử dụng lại vào năm 1766 trong một tác phẩm có tựa "Philosophiae naturalis sive physicae: tomus III, continens geologian, biologian, phytologian generalis" (Triết học tự nhiên và vật lý: Tập III) viết bởi Michael Christoph Hanov, học trò của Christian Wolff. Thuật ngữ tiếng Đức, "biologie", xuất hiện lần đầu một bản dịch tác phẩm Linnaeus năm 1771. Năm 1797, Theodor Georg August Roose sử dụng thuật ngữ trong lời nói đầu của cuốn sách với tựa "Grundzüge der Lehre van der Lebenskraft" (Các đặc điểm chính của học thuyết về sự sống). Karl Friedrich Burdach đã sử dụng thuật ngữ này vào năm 1800 trong một nghiên cứu về con người dưới các góc độ hình thái học, sinh lý học và tâm lý học "(Propädeut zum Studien der Gesammten Heilkunst"). Thuật ngữ ở dạng ngày nay xuất hiện trong cuốn luận án sáu tập: "Biologie, oder Philosophie der lebenden Nature" (Sinh học, hoặc triết học về bản chất sống)(1802-22) của Gottfried Reinhold Treviranus, người đã tuyên bố: Các đối tượng nghiên cứu của chúng tôi sẽ là các hình thức và biểu hiện khác nhau của sự sống, các điều kiện và quy luật theo đó các hiện tượng này xảy ra, và các nguyên nhân mà chúng đã được thực hiện. Khoa học liên quan đến những vấn đề này chúng tôi sẽ chỉ ra với cái tên "sinh học" ["biologie"] hoặc học thuyết về sự sống ["Lebenslehre"].Mặc dù sinh học hiện đại là một phát triển trong thời gian tương đối gần đây, các ngành khoa học liên quan và bao gồm nó đã được nghiên cứu từ thời Cổ đại. Triết học tự nhiên đã được nghiên cứu sớm nhất tận các nền văn minh cổ đại như Lưỡng Hà, Ai Cập, tiểu lục địa Ấn Độ và Trung Hoa. Tuy nhiên, nguồn gốc của sinh học hiện đại và cách tiếp cận đối với việc nghiên cứu về tự nhiên dường như lại bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại. Trong khi nghiên cứu chính thức về thuốc bắt đầu từ thời Hippocrates (khoảng 460-370 TCN), chính Aristotle (384-322 TCN) lại đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của sinh học. Đặc biệt quan trọng là cuốn "Lịch sử Động vật" của ông cùng các công trình khác, tác phẩm cho thấy những khuynh hướng thiên về lịch sử tự nhiên; sau đó là những công trình thực nghiệm hơn tập trung vào các nguyên nhân sinh học và đa dạng của sự sống. Người kế vị của Aristotle là Theophrastus xứ Lyceum, ông đã viết một loạt sách về thực vật học. Tập sách vẫn tồn tại như đóng góp quan trọng nhất của thời Cổ đại cho ngành khoa học thực vật, thậm chí đến tận thời Trung Cổ. Các học giả của thế giới Hồi giáo thời Trung cổ đã viết về sinh học có thể kể đến al-Jahiz (781-869), Al-Dīnawarī (828-896), viết về thực vật học, và Rhazes (865-925), viết về giải phẫu học và sinh lý học. Dược học được nghiên cứu đặc biệt kỹ lưỡng bởi các học giả Hồi giáo, với nguồn khai thác từ các truyền thống triết học Hy Lạp. Lịch sử tự nhiên lại đặt nặng tư tưởng của Aristotle, đặc biệt là tư tưởng: trật tự sự sống là cố định, bất biến. Sinh học bắt đầu nhảy vọt với sự cải tiến vượt bậc kính hiển vi bởi Anton van Leeuwenhoek. Nhờ đó, các học giả đã khám phá và quan sát tinh trùng, vi khuẩn, trùng cỏ. Họ đã tìm ra thế giới hiển vi thật phong phú. Các cuộc điều tra của Jan Swammerdam đã dẫn tới mối quan tâm mới trong côn trùng học và giúp phát triển các kỹ thuật cơ bản về giải phẫu và nhuộm vi mẫu. Những tiến bộ trong kính hiển vi cũng có một tác động sâu sắc đến tư duy sinh học. Vào đầu thế kỷ 19, một số nhà sinh học đã chỉ ra tầm quan trọng của tế bào. Sau đó, vào năm 1838, Schleiden và Schwann bắt đầu truyền bá những ý tưởng mà rất phổ quát hiện nay rằng (1) đơn vị cơ bản của sinh vật là tế bào và (2) các tế bào riêng biệt có tất cả các đặc tính của sự sống, mặc dù họ phản đối ý tưởng rằng (3) tất cả tế bào đến từ sự phân chia các tế bào khác. Nhờ vào công trình của Robert Remak và Rudolf Virchow vào những năm 1860 hầu hết các nhà sinh vật học đã chấp nhận cả ba nguyên lý, nay được gọi là học thuyết tế bào. Trong khi đó, phân loại học ("taxonomy" và "classification") đã trở thành tâm điểm của các nhà sử gia tự nhiên. Carl Linnaeus xuất bản một hệ thống phân loại cơ bản cho thế giới tự nhiên vào năm 1735 (biến thể của những hệ thống đã được sử dụng từ lâu), và trong những năm 1750 ông đã đặt tên khoa học cho tất cả các loài vào thời của ông . Georges-Louis Leclerc, bá tước Buffon, đã đưa các loài vào các phân loại và coi các dạng sống là "mềm dẻo", thậm chí còn đưa ra khả năng có tổ tiên chung. Mặc dù ông đã phản đối tiến hóa, Buffon là một nhân vật chủ chốt trong lịch sử các ý niệm về tiến hóa; tác phẩm của ông cũng ảnh hưởng đến các lý thuyết tiến hóa của Lamarck và Darwin . Ý niệm tiến hoá đầy đủ và nghiêm túc có nguồn gốc từ các tác phẩm của Jean-Baptiste Lamarck, ông là người đầu tiên đưa ra một học thuyết tiến hoá rõ ràng. Ông cho rằng sự tiến hoá là kết quả của áp lực môi trường đối với đặc tính của động vật, có nghĩa là nếu sử dụng một cơ quan thường xuyên và chặt chẽ hơn, nó sẽ trở nên phức tạp và hiệu quả hơn, do đó động vật sẽ "thích nghi" với môi trường của nó. Lamarck tin rằng những đặc điểm có được sau đó có thể được chuyển sang cho hậu duệ của chúng, bọn hậu duệ sẽ tiếp tục phát triển và hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, nhà tự nhiên học lỗi lạc người Anh Charles Darwin, kết hợp cách tiếp cận địa lý học của Humboldt, lý thuyết địa chất thống nhất của Lyell, các bài luận của Malthus về tăng trưởng dân số, với chuyên môn về hình thái học và các quan sát tự nhiên rộng lớn, đã tạo ra một lý thuyết tiến hóa "hợp lý" hơn dựa trên chọn lọc tự nhiên; lý luận và bằng chứng tương tự đã dẫn Alfred Russel Wallace đi đến những kết luận tương tự Mặc dù nó là chủ đề gây tranh cãi xung quanh lý thuyết tiến hóa này (vẫn tiếp tục cho đến ngày nay), lý thuyết của Darwin đã nhanh chóng lan rộng khắp cộng đồng khoa học và sớm trở thành một tiên đề trung tâm của khoa học sinh học đang phát triển nhanh chóng. Khám phá về sự biểu hiện vật lý của di truyền đã đến cùng với các nguyên tắc tiến hoá và di truyền quần thể. Trong những năm 1940 và đầu những năm 1950, các thí nghiệm đã chỉ ra DNA là thành phần của nhiễm sắc thể với chức năng mang các tính trạng đã được biết đến với tên gọi là gen. Tập trung vào các loại dạng sống mới như vi khuẩn và virus, cùng với việc khám phá ra cấu trúc chuỗi xoắn kép của DNA năm 1953, sinh học đã tiến sang thời kỳ di truyền phân tử. Từ những năm 1950 đến nay, sinh học đã được mở rộng rất nhiều trong lĩnh vực phân tử. Mã di truyền đã được khám phá bởi Har Gobind Khorana, Robert W. Holley và Marshall Warren Nirenberg sau khi DNA được biết là chứa các codon-bộ ba mã hóa. Cuối cùng, "Dự án Hệ gen Con người" đã được đưa ra vào năm 1990 với mục đích lập bản đồ bộ gen chung của toàn thể con người. Dự án này đã được hoàn thành vào năm 2003, với những phân tích tiếp tục được xuất bản. "Dự án Hệ gen Con người" là bước đầu tiên trong nỗ lực toàn cầu hoá để tích hợp kiến ​​thức về sinh học với một định nghĩa chức năng, phân tử cho cơ thể con người và của các sinh vật khác. Tế bào học. Học thuyết tế bào. Học thuyết tế bào phát biểu rằng: tế bào là đơn vị cơ bản của sự sống, rằng tất cả các sinh vật sống cấu tạo từ một tế bào (đơn bào) hoặc nhiều tế bào (đa bào), và tất cả các tế bào đều sinh ra từ các tế bào trước đó thông qua sự phân bào. Trong các sinh vật đa bào, mỗi tế bào trong cơ thể của cơ thể xuất phát từ một tế bào hợp tử duy nhất. Tế bào cũng được coi là đơn vị cơ bản liên quan đến nhiều quá trình bệnh lý. Ngoài ra, dòng năng lượng diễn ra ở các tế bào trong các quá trình khác nhau là một phần của chức năng quan trọng: trao đổi chất. Cuối cùng, các tế bào chứa thông tin di truyền (DNA), được truyền từ tế bào sang tế bào trong quá trình phân bào. Nghiên cứu về nguồn gốc của sự sống, thuyết tự phát sinh ("abiogenesis"), là những nỗ lực lớn để khám phá nguồn gốc của các tế bào khởi nguyên. Cấu trúc của tế bào. Mỗi tế bào được bao bọc trong một màng tế bào ngăn cách tế bào chất của nó với không gian ngoại bào. Màng tế bào bao gồm một lớp lipid kép, bao gồm các cholesterol nằm giữa các phospholipid để duy trì tính lỏng của màng của chúng ở các nhiệt độ khác nhau. Màng tế bào là một màng bán thấm, cho phép các phân tử nhỏ như oxygen, carbon dioxide và nước đi qua trong khi hạn chế chuyển động của các phân tử lớn hơn và các hạt tích điện như ion. Tiến hóa. Một khái niệm đóng vai trò trung tâm trong sinh học là sự sống thay đổi và phát triển thông qua quá trình tiến hóa, và cho rằng tất cả các dạng sống đều có nguồn gốc chung. Lý thuyết tiến hóa phát biểu rằng tất cả các sinh vật trên Trái Đất, dù còn tồn tại hay đã tuyệt chủng, đều có nguồn gốc từ một tổ tiên chung hoặc vốn gen chung. Tổ tiên chung nhất "(last universal common ancestor" viết tắt là LUCA) này của tất cả các sinh vật được cho là xuất hiện vào khoảng 3,5 tỷ năm trước. Các nhà sinh học coi tính phổ biến của mã di truyền là bằng chứng thuyết phục để ủng hộ lý thuyết tổ tiên chung nhất cho tất cả các vi khuẩn, cổ khuẩn, và các sinh vật nhân thực (Xem: Nguồn gốc của sự sống). Thuật ngữ "tiến hóa" đã bước vào từ điển thuật ngữ khoa học nhờ Jean-Baptiste de Lamarck năm 1809, và năm mươi năm sau, Charles Darwin đã đưa ra một mô hình khoa học về chọn lọc tự nhiên là động lực cho tiến hóa. (Alfred Russel Wallace cũng được coi là người đồng khám phá ra khái niệm này khi ông giúp nghiên cứu và thử nghiệm với ý tưởng tiến hóa, xem: Nguồn gốc các loài) Sự tiến hóa bây giờ được sử dụng để giải thích những đa dạng lớn của sự sống được tìm thấy trên Trái Đất. Darwin đã giả thuyết rằng các loài sinh sôi hoặc diệt vong chịu tác dụng của chọn lọc tự nhiên hoặc giao phối chọn lọc. Phiêu bạt di truyền được coi là một cơ chế bổ sung cho sự phát triển của lý thuyết tiến hóa hay thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại. Lịch sử tiến hóa của loài - mô tả các đặc tính của các loài khác nhau mà từ hậu duệ loài đó - cùng với mối quan hệ gia phả của nó với mọi loài khác được gọi là phát sinh chủng loại ("phylogeny") loài đó. Các phương pháp tiếp cận khác nhau trong sinh học cho ta các thông tin về phát sinh chủng loại. Có thể bao kể đến như so sánh trình tự DNA (đặc biệt là so sánh bộ gen), thuộc lĩnh vực sinh học phân tử, và so sánh hóa thạch hoặc các di chỉ khác của sinh vật cổ đại, thuộc về cổ sinh vật học. Các nhà sinh học tổ chức và phân tích mối quan hệ tiến hóa thông qua nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm phát sinh chủng loài học ("phylogenetics"), phân loại theo ngoại hình ("phenetics") và phân loại theo nhánh ("cladistics"). (Để tóm tắt các sự kiện lớn trong sự tiến hóa của sự sống theo như các nhà sinh vật học hiện đại, xem Tiến trình tiến hóa) Sự tiến hoá có liên quan đến việc hiểu về lịch sử tự nhiên của các dạng sống và sự hiểu về tổ chức của các dạng sống hiện tại. Tuy nhiên, sự tổ chức này chỉ có thể hiểu được bằng cách hiểu chúng đã trải qua quá trình tiến hóa như thế nào. Do đó, tiến hóa là trung tâm của mọi lĩnh vực sinh học. Mặc dù thuyết tiến hóa được phổ biến rộng rãi, nhưng vẫn chưa có chắc chắn một bằng chứng thuyết phục nào cho lý thuyết này (thậm chí có những bằng chứng làm giả), và có nhiều ý kiến trái chiều, phản đối thuyết tiến hóa. Di truyền học. Di truyền. Di truyền học là khoa học nghiên cứu về sự di truyền, về gene, tính di truyền và biến dị ("variation") của sinh vật. Gene mã hóa thông tin cần thiết của tế bào cho quá trình tổng hợp các protein. Protein là nhóm phân tử đóng vai trò quan trọng (nhưng không phải là hoàn toàn) quy định kiểu hình của sinh vật. Di truyền học cũng cấp các phương pháp nghiên cứu các chức năng của một gene nhất định, hoặc phân tích tương tác di truyền. Mọi sinh vật đều lưu giữ thông tin di truyền ở trong nhiễm sắc thể dưới dạng trình tự các nucleotide của phân tử DNA hoặc lưu giữ ở RNA. Cụ thể, năm 1865 Gregor Mendel đã tiến hành thí nghiệm lai giống thực vật và được phát hiện lại vào năm 1900, khai sinh ra Di truyền học. Gen là nhân tố cơ bản của di truyền ở tất cả các sinh vật. Gen là một nhân tố di truyền và tương ứng với một đoạn DNA có ảnh hưởng đến hình thái hoặc chức năng của một cơ thể theo những cách cụ thể. Tất cả các sinh vật, dù là vi khuẩn hay động vật, chia sẻ cùng một bộ máy cơ bản sao chép và 'dịch' DNA thành các protein. Các tế bào sẽ phiên mã một gen DNA thành một phiên bản RNA của gen, và một ribosome sau đó dịch mã RNA thành một chuỗi các amino acid trước khi uốn gấp thành một protein. Mã để dịch từ RNA đến amino acid là khá giống nhau đối với hầu hết các sinh vật. Chẳng hạn, một dãy trình tự DNA mã hóa cho protein insulin ở người cũng mã hóa cho insulin nếu chèn vào các sinh vật khác, ví dụ như thực vật. DNA được tìm thấy là ở dạng các sợi thẳng nhiễm sắc thể trong sinh vật nhân thực và các vòng nhiễm sắc thể trong sinh vật nhân sơ. Một nhiễm sắc thể là một cấu trúc được tổ chức bao gồm DNA và protein histone. Bộ nhiễm sắc thể định vị trong tế bào và bất kỳ thông tin di truyền nào tìm thấy trong ty thể, lục lạp, hoặc tại các địa điểm khác được gọi chung là bộ gen của tế bào. Trong sinh vật nhân thực, DNA mang gen nằm trong nhân tế bào, và có một lượng nhỏ nằm trong ti thể và lục lạp. Trong sinh vật nhân sơ, DNA được giữ trong hình dạng không cố định ở tế bào chất gọi là chất nhân. Thông tin di truyền của một bộ gen lưu giữ bên trong các gen và tập hợp hoàn chỉnh của bộ thông tin này ở một sinh vật được gọi là kiểu gen của nó. Sinh thái học. Sinh thái học là nghiên cứu về sự phân bố và sự phong phú của sự sống, sự tương tác giữa các sinh vật và môi trường của chúng. Loài. Loài là một nhóm các cá thể sinh vật có những đặc điểm sinh học tương đối giống nhau và có khả năng giao phối với nhau và sinh sản ra thế hệ tương lai. Còn theo định nghĩa của Ernst Mayr, loài là nhóm các quần thể tự nhiên có khả năng giao phối với nhau và tương đối cách ly sinh sản với các nhóm khác. Ernst Mayr nhấn mạnh về cách li sinh sản nhưng cũng giống như các quan điểm khác về loài, vấn đề này rất khó hoặc thậm chí không thể kiểm tra. Hệ sinh thái. Quần xã các sinh vật sống (thành phần hữu sinh) kết hợp với các thành phần vô sinh (ví dụ: nước, ánh sáng, bức xạ, nhiệt độ, độ ẩm, khí quyển, độ pH và đất) của môi trường của chúng được gọi là hệ sinh thái. Các mối quan hệ hữu sinh. Sinh thái học nghiên cứu sự phân bố và sinh sống của các sinh vật sống và mối quan hệ qua lại giữa các sinh vật với nhau và với môi trường sống. Môi trường sống của một sinh vật bao gồm các yếu tố vô sinh như khí hậu và địa chất cũng như các yếu tố hữu sinh là các sinh vật sống trong cùng một ổ sinh thái. Các hệ sinh thái thường được nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau từ cá thể ("individual") và các quần thể cho đến các hệ sinh thái và sinh quyển. Sinh thái học là môn khoa học đa ngành, nghĩa là dựa trên nhiều ngành khoa học khác nhau. Năng lượng. Sự sống còn của một sinh vật sống phụ thuộc vào tiếp nhận liên tục dòng năng lượng. Các phản ứng hóa học chịu trách nhiệm về cấu trúc và chức năng của sinh vật được điều chỉnh để lấy năng lượng từ các chất trong thức ăn của chúng và biến đổi các chất này giúp hình thành các tế bào mới cũng như duy trì các tế bào này. Trong quá trình này, các phân tử của các chất hóa học trong thức ăn đóng hai vai trò; thứ nhất, chúng chứa năng lượng có thể biến đổi và tái sử dụng trong các phản ứng sinh học, hóa học của sinh vật đó; thứ hai, thức ăn có thể được biến đổi thành các phân tử với cấu trúc mới (các phân tử sinh học mới) và sẽ sử dụng cho sinh vật đó. Các sinh vật chịu trách nhiệm về việc đưa năng lượng vào một hệ sinh thái được gọi là các sinh vật sản xuất hoặc các sinh vật tự dưỡng. Gần như tất cả các sinh vật như vậy lấy năng lượng ban đầu của chúng từ mặt trời. Thực vật và một số sinh vật quang dưỡng khác sử dụng năng lượng mặt trời thông qua một quá trình gọi là quang hợp để chuyển đổi nguyên liệu thô thành các phân tử hữu cơ, như ATP, phân tử có liên kết có thể bị phá vỡ để giải phóng năng lượng. Tuy nhiên, một số hệ sinh thái phụ thuộc hoàn toàn vào năng lượng do sinh vật hóa dưỡng lấy từ ​​mêtan, sunfit, hoặc các nguồn năng lượng khác ngoài ánh sáng. Một số năng lượng do đó, được giữ lại tạo sinh khối và năng lượng giúp cho sự sinh trưởng và phát triển của các dạng sống khác. Đa số phần còn lại (tức "không" được chuyển thành sinh khối và năng lượng) bị mất đi dưới dạng các phân tử thừa thải và nhiệt năng. Các quá trình quan trọng nhất để chuyển đổi năng lượng dự trữ trong các chất hoá học thành năng lượng hữu ích để duy trì sự sống là sự trao đổi chất và hô hấp tế bào. Sinh học phân tử. Sinh học phân tử là một môn khoa học nghiên cứu giới sinh vật ở mức độ phân tử. Phạm vi nghiên cứu của môn này có sự giao thoa với các ngành khác trong sinh học đặc biệt là di truyền học và hoá sinh. Sinh học phân tử chủ yếu tập trung nghiên cứu mối tương tác giữa các hệ thống cấu trúc khác nhau trong tế bào, bao gồm mối quan hệ qua lại giữa quá trình tổng hợp của DNA, RNA và protein và tìm hiểu cách thức điều hòa các mối tương tác này. Tiến tới phạm vi lớn hơn, tế bào học nghiên cứu các cấu trúc và đặc tính sinh lý của tế bào, bao gồm các hành xử bên trong, tương tác với các tế bào khác, và với môi trường mà chúng ở. Nghiên cứu được thực hiện ở cấp độ hiển vi lẫn cấp độ phân tử, đối với các sinh vật đơn bào như vi khuẩn, cũng như đối với các tế bào chuyên biệt của sinh vật đa bào như ở con người. Thành phần cấu tạo nên tế bào và cách thức tế bào vận hành là một trong những hướng nghiên cứu chính của khoa học sự sống. Sự giống nhau và khác nhau giữa các loại tế bào cũng được nghiên cứu trong sinh học phân tử và tế bào học. Những sự giống và khác nhau cơ bản tạo nên một bộ khung kiến thức chung mà người ta có thể áp dụng cho các loài tế bào khác cũng như quy nạp cho tất cả các loại tế bào. Sinh học phát triển. Sinh học phát triển nghiên cứu quá trình sinh vật sinh trưởng ("growth") và phát triển ("development"). Có nguồn gốc từ bộ môn phôi học, sinh học phát triển ngày nay nghiên cứu sự điều khiển về mặt di truyền các quá trình sinh trưởng tế bào ("cell growth"), biệt hóa tế bào ("cellular differentiation") và tạo hình ("morphogenesis"). Quá trình này tiếp diễn ở mức lớn hơn tạo thành các mô, cơ quan, hệ cơ quan. Sinh vật mô hình dùng trong sinh học phát triển bao gồm giun tròn "Caenorhabditis elegans", ruồi giấm "Drosophila melanogaster", cá ngựa "Danio rerio", chuột "Mus musculus" và cây "Arabidopsis thaliana". (Sinh vật mô hình là một loài được nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm tìm hiểu những hiện tượng sinh học đặc biệt, với hy vọng rằng các khám phá ở trên sinh vật này mang lại hiểu biết cho nghiên cứu những sinh vật khác.) Giải phẫu học. Giải phẫu học là một bộ môn quan trọng của hình thái học và quan tâm đến cấu trúc và tổ chức của các hệ cơ quan trong cơ thể động vật. Đó là hệ thần kinh, hệ miễn dịch, hệ nội tiết, hệ hô hấp và hệ tuần hoàn... Sinh lý học. Sinh lý học nghiên cứu các quá trình cơ học, vật lý và hoá sinh xảy ra trong cơ thể các sinh vật sống bằng cách xem xét hoạt động của tất cả các cấu trúc, bộ phận trong sinh vật hoạt động như thế nào. Sinh lý học được phân chia thành 2 bộ môn nhỏ là sinh lý học thực vật và sinh lý học động vật nhưng các nguyên lý về sinh lý học mang tính tổng quát đối với tất cả các loài sinh vật. Ví dụ, nhưng kiến thức về sinh lý tế bào nấm cũng có thể áp dụng đối với các tế bào người. Lĩnh vực sinh lý học động vật sử dụng các công cụ và phương pháp cho cả sinh lý học người cũng như các động vật khác. Sinh lý học thực vật cũng sử dụng một số kỹ thuật nghiên cứu của các bộ môn trên. Sinh lý học nghiên cứu tương tác làm thế nào mà, ví dụ, hệ thần kinh, hệ miễn dịch, hệ nội tiết, hệ hô hấp và hệ tuần hoàn. hoạt động và tương tác với nhau. Kiến thức từ việc nghiên cứu các hệ này được sử dụng trong các bộ môn định hướng chữa trị như thần kinh học và miễn dịch học. Cân bằng nội môi. Cân bằng nội môi là khả năng của một hệ thống mở điều chỉnh môi trường bên trong của nó nhằm duy trì các điều kiện ổn định. Chúng làm được điều này bằng cách thông qua các điều chỉnh cân bằng động được điều khiển bởi các cơ chế điều hòa tương quan. Tất cả các sinh vật sống, dù là đơn bào hoặc đa bào, đều có sự cân bằng nội môi. Để duy trì trạng thái cân bằng động-cân bằng nội môi và thực hiện một cách hiệu quả các chức năng nhất định, một hệ thống phải phát hiện và đáp ứng các thay đổi, kích thích. Sau khi phát hiện các thay đổi hoặc kích thích, một hệ thống sinh học thường phản ứng thông qua vòng phản hồi âm tính nhằm ổn định các điều kiện bằng cách làm giảm hoặc tăng hoạt động của cơ quan hoặc hệ cơ quan. Một ví dụ là việc phóng glucagon giúp phân giải glycogen thành đường khi lượng đường huyết quá thấp. Sinh lý học so sánh. Liên quan tới sinh lý học tiến hóa và sinh lý học môi trường, sinh lý học so sánh xem xét tính đa dạng về các đặc điểm chức năng giữa các sinh vật. Sinh lý học tiến hóa là nghiên cứu về tiến hóa sinh lý, nghĩa là cách thức mà các đặc điểm chức năng của các cá thể trong quần thể sinh vật đã đáp ứng với sự lựa chọn qua nhiều thế hệ trong lịch sử của quần thể. Sinh học tiến hóa. Sinh học tiến hóa nghiên cứu nguồn gốc và tổ tiên của các loài, cũng như các thay đổi của chúng theo thời gian. Sinh học tiến hóa là một lĩnh vực sinh học đa ngành vì rằng nó bao gồm các nhà khoa học từ nhiều chuyên môn khác nhau theo định hướng phân loại học. Ví dụ, thông thường mỗi nhà phân loại học thường chuyên về một nhóm sinh vật nhất định như là động vật có vú, chim ("ornithology"), hoặc bò sát ("herpetology"). Mặc dù nghiên cứu trên các đối tượng khác nhau nhưng các nhà phân loại học vẫn cùng giải quyết những vấn đề chung trong tiến hóa. Sinh học tiến hóa cũng bao hàm cả lĩnh vực cổ sinh vật học. Các nhà cổ sinh vật học thường sử dụng các mẫu vật để lý giải về mô hình và hiện trạng của sự tiến hóa, cũng như các thuyết tiến hóa hoặc thuyết về di truyền quần thể. Vào thập niên 1990, sinh học phát triển cũng trở thành một phần của sinh học tiến hóa để phát triển thành một ngành có tên là sinh học phát triển trong tiến hóa ("evolutionary developmental biology"). Ngoài ra, một số ngành liên quan đến sinh học tiến hóa là phát sinh chủng loài học ("phylogenetics"), hệ thống học và phân loại học. Tập tính học. Tập tính học nghiên cứu các hành vi của động vật (đặc biệt trong xã hội của loài vật như ở khỉ và chó sói, do đó đôi khi bộ môn này được coi là một nhánh của động vật học. Các nhà tập tính học nghiên cứu chủ yếu quá trình tiến hóa của hành vi và kiến thức về tập tính học tuân theo thuyết chọn lọc tự nhiên. Một trong những người đặt nền móng cho tập tính học hiện đại là nhà tập tính học Charles Darwin với cuốn sách mang tựa đề "Sự bộc lộ cảm xúc ở động vật và người". Phân loại học. Phân loại của Carl Linnaeus hiện là hệ thống phân loại chính, bao gồm các cấp bậc phân loại và danh pháp 2 phần. Tên của một loài sinh vật được thống nhát thông qua các Hệ thống mã danh pháp quốc tế cho thực vật ("International Code of Botanical Nomenclature, ICBN"), Hệ thống mã danh pháp quốc tế cho động vật ("International Code of Zoological Nomenclature, ICZN") và Hệ thống mã danh pháp quốc tế cho vi khuẩn ("International Code of Nomenclature of Bacteria, ICNB"). Hiện nay, người ta đang cố gắng chuẩn hóa 3 chuẩn quốc tế trên trong BioCode. Tuy nhiên hệ thống mã phân loại và danh pháp của virus ("International Code of Virus Classification and Nomenclature, ICVCN") vẫn nằm ngoài BioCode. Nhiều sự kiện biệt hóa tạo ra một hệ thống có cấu trúc cây về các mối quan hệ giữa các loài. Vai trò của hệ thống học là nghiên cứu các mối quan hệ và sự khác biệt và tương đồng giữa các loài và các nhóm loài. Tuy nhiên, các hệ thống học đã từng là một lĩnh vực nghiên cứu năng động trong thời gian dài trước khi những tư tưởng tiến hóa học trở nên phổ biến. Theo truyền thống, các sinh vật sống được chia thành 5 giới: Monera, Protista, Fungi, Plantae, Animalia. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học hiện xem cách phân loại 5 giới này đã lỗi thời. Các hệ thống phân loại học hiện đại ban đầu với 3 vực: Archaea (vi khuẩn cổ); Bacteria (vi khuẩn Eubacteria) và Eukaryota (bao gồm sinh vật nguyên sinh, nấm, thực vật và động vật) Các vực này phản ánh liệu các tế bào có nhân hay không có nhân, cũng như sự khác biệt về thành phần hóa học của lớp bên ngoài tế bào. Tiếp theo, các giới được chia thành các đơn vị nhỏ hơn theo thứ tự: Trong phân loại học, người ta thường chia thành hai bộ môn lớn là thực vật học và động vật học. Động vật học. Động vật học là ngành học liên quan đến các loài động vật, bao gồm sinh lý học, giải phẫu học và phôi học. Các cơ chế phát triển và di truyền chung của cả động vật và thực vật được nghiên cứu trong sinh học phân tử, di truyền phân tử và sinh học phát triển. Sinh thái học về động vật được nghiên cứu bởi sinh thái học tập tính ("behavioral ecology") và các ngành khác. Thực vật học. Thực vật học là môn học về cây cối. Thực vật học bao hàm nhiều lĩnh vực nghiên cứu về thực vật như quá trình sinh trưởng, sinh sản, trao đổi chất, phát sinh hình thái ("morphogenesis development"), bệnh học thực vật và tiến hóa. Phân ngành. Sinh học ngày nay đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu lớn, phức tạp bao gồm nhiều chuyên ngành hẹp. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến 4 nhóm ngành chính trong Sinh học. Tuy nhiên, các ranh giới và phân chia chuyên ngành trên chỉ có tính ước lệ. Trong thực tế, các ranh giới này là không rõ ràng và thường xuyên có sự vay mượn về kỹ thuật, thuật ngữ, nguyên lý chung giữa các chuyên ngành. Sinh học bao gồm rất nhiều các phân ngành nhỏ khác nhau, dưới đây liệt kê tương đối đầy đủ các ngành này:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Tế bào là một đơn vị cấu trúc cơ bản có chức năng sinh học của sinh vật sống. Tế bào là đơn vị nhỏ nhất của sự sống có khả năng phân chia độc lập, và các tế bào thường được gọi là "những viên gạch đầu tiên cấu tạo nên sự sống". Bộ môn nghiên cứu về các tế bào được gọi là sinh học tế bào. Tế bào bao gồm tế bào chất bao quanh bởi màng tế bào, trong đó có nhiều phân tử sinh học như protein và axit nucleic. Các sinh vật sống có thể được phân thành đơn bào (có một tế bào, bao gồm vi khuẩn) hoặc đa bào (bao gồm cả thực vật và động vật). Trong khi số lượng tế bào trong các thực vật và động vật ở các loài là khác nhau, thì cơ thể con người lại có hơn 10 nghìn tỷ (1012) tế bào. Phần lớn tế bào động vật và thực vật chỉ có thể nhìn thấy dưới kính hiển vi, với kích thước từ 1 đến 100 micromét. Tế bào được phát hiện bởi Robert Hooke vào năm 1665, người đã đặt tên cho các đơn vị sinh học của nó. Học thuyết tế bào, lần đầu tiên được nghiên cứu vào năm 1839 của Matthias Jakob Schleiden và Theodor Schwann, phát biểu rằng tất cả các sinh vật sống được cấu tạo bởi một hay nhiều tế bào, rằng các tế bào là đơn vị cơ bản tạo nên cấu trúc và chức năng của các cơ quan, tổ chức sinh vật sống, rằng tất cả các tế bào đến từ các tế bào đã tồn tại trước đó, và các tế bào đều chứa thông tin di truyền cần thiết để điều hòa chức năng tế bào và truyền thông tin đến các thế hệ tế bào tiếp theo. Các tế bào xuất hiện trên trái Đất khoảng 4 tỷ năm trước. Tổng quan. Các đặc tính của tế bào. Mỗi tế bào là một hệ thống mở, tự duy trì và tự sản xuất: tế bào có thể thu nhận chất dinh dưỡng, chuyển hóa các chất này thành năng lượng, tiến hành các chức năng chuyên biệt và sản sinh thế hệ tế bào mới nếu cần thiết. Mỗi tế bào chứa một bản mật mã riêng hướng dẫn các hoạt động trên. Mọi tế bào đều có một số khả năng sau: Các dạng tế bào. Người ta có thể phân loại tế bào dựa vào khả năng có thể tồn tại độc lập hay là không. Các sinh vật có thể bao gồm chỉ một tế bào (gọi là sinh vật đơn bào) thường có khả năng sống độc lập mặc dù có thể hình thành các khuẩn lạc. Ngoài ra, sinh vật cũng có thể bao gồm nhiều tế bào (sinh vật đa bào) thì mỗi tế bào được biệt hóa và thường không thể sống sót khi bị tách rời. Trong cơ thể con người có đến 220 loại tế bào và mô khác nhau. Nếu xét về cấu trúc nội bào, các tế bào có thể chỉ làm 2 dạng chính. Các thành phần tế bào. Mọi tế bào (bất kể sinh vật nhân chuẩn hay nhân sơ) đều có màng tế bào hay màng sinh chất, dùng để bao bọc tế bào, cách biệt thành phần nội bào với môi trường xung quanh, điều khiển nghiêm ngặt sự vận chuyển vào và ra của các chất, duy trì điện thế màng và nồng độ các chất bên trong và bên ngoài màng. Bên trong màng là một khối tế bào chất đặc (dạng vật chất chiếm toàn bộ thể tích tế bào). Mọi tế bào đều có các phân tử DNA, vật liệu di truyền quan trọng và các phân tử RNA tham gia trực tiếp quá trình tổng hợp nên các loại protein khác nhau, trong đó có các enzyme. Bên trong tế bào, vào mỗi thời điểm nhất định tế bào tổng hợp nhiều loại phân tử sinh học khác nhau. Phần dưới đây sẽ miêu tả ngắn ngọn các thành phần cơ bản của tế bào cũng như chức năng của chúng. Màng tế bào - Tấm áo ngoài. "Bài chính:" Màng tế bào Vỏ bọc bên ngoài của một tế bào sinh vật nhân chuẩn gọi là màng sinh chất. Màng này cũng có ở các tế bào sinh vật nhân sơ nhưng được gọi là màng tế bào. Màng có chức năng bao bọc và phân tách tế bào với môi trường xung quanh. Màng được cấu thành bởi một lớp lipid kép và các protein. Các phân tử protein hoạt động như các kênh vận chuyển và bơm được nằm khảm vào lớp lipid một cách linh động (có thể di chuyển tương đối). Bộ khung tế bào - Hệ vận động. "Bài chính:" Bộ khung tế bào Bộ khung tế bào là một thành phần quan trọng, phức tạp và linh động của tế bào.nó là hệ thống mạng sợi và ống protein (vi ống, vi sợi, sợi trung gian đan chéo nhau). Nó cấu thành và duy trì hình dáng tế bào; là các điểm bám cho các bào quan; hỗ trợ quá trình thực bào (tế bào thu nhận các chất bên ngoài); và "cử động" các phần tế bào trong quá trình sinh trưởng và vận động. Các protein tham gia cấu thành bộ khung tế bào gồm nhiều loại và có chức năng đa dạng như định hướng, neo bám, phát sinh các tấm màng. Tế bào chất - Không gian thực hiện chức năng tế bào. "Bài chính:" Tế bào chất Bên trong các tế bào là một không gian chứa đầy dịch thể gọi là tế bào chất ("cytoplasm"). Nó bao hàm cả hỗn hợp các ion, chất dịch bên trong tế bào và cả các bào quan. Các bào quan bên trong tế bào chất đều có hệ thống màng sinh học để phân tách với khối dung dịch này. Chất nguyên sinh ("cytosol") là để chỉ riêng phân dịch thể, chứ không có các bào quan. Đối với các sinh vật nhân sơ, tế bào chất là một thành phần tương đối tự do. Tuy nhiên, tế bào chất trong tế bào sinh vật nhân chuẩn thường chứa rất nhiều bào quan và bộ khung tế bào. Chất nguyên sinh thường chứa các chất dinh dưỡng hòa tan, phân cắt các sản phẩm phế liệu, và dịch chuyển vật chất trong tế bào tạo nên hiện tượng dòng chất nguyên sinh. Nhân tế bào thường nằm bên trong tế bào chất và có hình dạng thay đổi khi tế bào di chuyển. Tế bào chất cũng chứa nhiều loại muối khác nhau, đây là dạng chất dẫn điện tuyệt vời để tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động của tế bào. Môi trường tế bào chất và các bào quan trong nó là yếu tố sống còn của một tế bào. Vật liệu di truyền - Yếu tố duy trì thông tin giữa các thế hệ. Vật liệu di truyền là các phân tử nucleic acid (DNA và rRNA). Hầu hết các sinh vật sử dụng DNA để lưu trữ dài hạn thông tin di truyền trong khi chỉ một vài virus dùng RNA cho mục đích này. Thông tin di truyền của sinh vật chính là mã di truyền quy định tất cả protein cần thiết cho mọi tế bào của cơ thể. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây cho thấy có thể một số RNA cũng được sử dụng như là một bản lưu đối với một số gen đề phòng sai hỏng. Ở các sinh vật nhân sơ, vật liệu di truyền là một phân tử DNA dạng vòng đơn giản. Phân tử này nằm ở một vùng tế bào chất chuyên biệt gọi là vùng nhân. Tuy nhiên, đối với các sinh vật nhân chuẩn, phân tử DNA được bao bọc bởi các phân tử protein tạo thành cấu trúc nhiễm sắc thể, được lưu giữ trong nhân tế bào (với màng nhân bao bên ngoài). Mỗi tế bào thường chứa nhiều nhiễm sắc thể (số lượng nhiễm sắc thể trong mỗi tế bào là đặc trưng cho loài). Ngoài ra, các bào quan như ty thể và lục lạp đều có vật liệu di truyền riêng của mình (xem thêm thuyết nội cộng sinh). Ví dụ, một tế bào người gồm hai bộ gen riêng biệt là bộ gen của nhân và bộ gen của ty thể. Bộ gene nhân (là thể lưỡng bội) bao gồm 46 phân tử DNA mạch thẳng tạo thành các nhiễm sắc thể riêng biệt. Bộ gene ty thể là phân tử DNA mạch vòng, khá nhỏ và chỉ mã hóa cho một vài protein quan trọng. Các bào quan. "Bài chính:" Bào quan Cơ thể con người cấu tạo từ nhiều cơ quan như tim, phổi, thận. Mỗi cơ quan đảm nhiệm một chức riêng. Các tế bào thường chứa những "cơ quan nhỏ" gọi là bào quan, được thích nghi và chuyên hóa cho một hoặc một vài chức năng sống nhất định. Các bào quan thường chỉ có ở các tế bào sinh vật nhân chuẩn và thường có màng bao bọc. Giải phẫu tế bào. Tế bào sinh vật nhân sơ. Sinh vật nhân sơ là nhóm tế bào không có màng nhân. Đây là đặc điểm chính để phân biệt với các tế bào sinh vật nhân chuẩn. Sinh vật nhân sơ cũng không có các bào quan và cấu trúc nội bào điển hình của tế bào sinh vật nhân chuẩn. Hầu hết các chức năng của các bào quan như ty thể, lục lạp, bộ máy Golgi được tiến hành trên màng sinh chất. Tế bào sinh vật nhân sơ có 3 vùng cấu trúc chính là: Các đặc trưng: Tế bào sinh vật nhân chuẩn. Tế bào sinh vật nhân chuẩn thường lớn gấp 10 lần (về kích thước) so với tế bào sinh vật nhân sơ do đó gấp khoảng 1000 lần về thể tích. Điểm khác biệt quan trọng giữa sinh vật nhân sơ và sinh vật nhân chuẩn là tế bào sinh vật nhân chuẩn có các xoang tế bào được chia nhỏ do các lớp màng tế bào để thực hiện các hoạt động trao đổi chất riêng biệt. Trong đó, điều tiến bộ nhất là việc hình thành nhân tế bào có hệ thống màng riêng để bảo vệ các phân tử DNA của tế bào. "Eukyryote" là chữ Latin có nghĩa là có nhân thật sự. Tế bào sinh vật nhân chuẩn thường có những cấu trúc chuyên biệt để tiến hành các chức năng nhất định, gọi là các bào quan. Các đặc trưng gồm: Các quá trình chức năng của tế bào. Sinh trưởng và trao đổi chất của tế bào. Giữa những lần phân bào, các tế bào thực hiện hàng loạt quá trình trao đổi chất nội bào nhằm duy trì sự tồn tại cũng như sinh trưởng của mình. Trao đổi chất là các quá trình mà tế bào xử lý hay chế biến các phân tử dinh dưỡng theo cách riêng của nó. Các quá trình trao đổi chất được chia làm 2 nhóm lớn: Một trong các con đường trao đổi chất quan trọng là đường phân (glycolysis), con đường này không cần oxy. Mỗi một phân tử glucose trải qua con đường này sẽ tạo thành 4 phân tử ATP và đây là phương thức thu nhận năng lượng chính của các vi khuẩn kị khí. Đối với các sinh vật hiếu khí, các phân tử pyruvat, sản phẩm của đường phân, sẽ tham gia vào chu trình Kreb (hay còn gọi là chu trình TCA) để phân huỷ hoàn toàn thành CO2, đồng thời thu nhận thêm nhiều ATP. Ở sinh vật nhân chuẩn, chu trình TCA tiến hành trong ty thể trong khi sinh vật nhân sơ lại tiến hành ở ngay tế bào chất. Hình thành các tế bào mới. "Bài chính:" Phân bào Phân bào là quá trình sinh sản từ một tế bào (gọi là "tế bào mẹ") phân chia thành hai tế bào non. Đây là cơ chế chính của quá trình sinh trưởng của sinh vật đa bào và là hình thức sinh sản của sinh vật đơn bào. Những tế bào sinh vật nhân sơ phân chia bằng hình thức phân cắt hoặc nảy chồi (budding). Tế bào sinh vật nhân chuẩn thì sử dụng hình thức phân bào là nguyên phân (mitosis) (một hình thức phân bào có tơ). Những tế bào lưỡng bội thì có thể tiến hành giảm phân để tạo ra tế bào đơn bội. Những tế bào đơn bội đóng vai trò giao tử trong quá trình thụ tinh để hình thành hợp tử (lưỡng bội). Trong phân bào, quá trình tự nhân đôi DNA (dẫn đến nhân đôi nhiễm sắc thể) đóng vai trò cực kỳ quan trọng và thường diễn ra tại kỳ trung gian giữa các lần phân chia. Sinh tổng hợp protein. "Bài chính:" Sinh tổng hợp protein Sinh tổng hợp protein là quá trình tế bào tổng hợp những phân tử protein đặc trưng và cần thiết cho hoạt động sống của mình. Quá trình phiên mã là quá trình tổng hợp những phân tử RNA thông tin dựa trên trình tự khuôn của DNA. Trên khuôn RNA thông tin mới được tạo ra, một phân tử protein sẽ được tạo thành nhờ quá trình dịch mã. Bộ máy tế bào chịu trách nhiệm thực hiện quá trình tổng hợp protein là những ribosome. Ribosome được cấu từ những phân tử RNA ribosome và khoảng 80 loại protein khác nhau. Khi các tiểu đơn vị ribosome liên kết với phân tử RNA thông tin thì quá trình dịch mã được tiến hành. Khi đó, ribosome sẽ cho phép một phân tử RNA vận chuyển ("tRNA") mang một loại amino acid đặc trưng đi vào. RNA vận chuyển này bắt buộc phải có bộ ba đối mã có trình tự bổ sung với bộ ba mã sao trên RNA thông tin. Các amino acid lần lượt tương ứng với trình tự các bộ ba nucleotide trên RNA thông tin sẽ liên kết với nhau để tạo thành một chuỗi polypeptide. Nguồn gốc tế bào. "Bài chính": Nguồn gốc sự sống Nguồn gốc tế bào cũng chính là nguồn gốc sự sống, và là những bước quan trọng nhất trong quá trình tiến hóa sự sống. Sự xuất hiện tế bào chính là bước đánh dấu chuyển biến từ thế giới hóa học vô sinh để bắt đầu sự sống sinh vật. Tế bào đầu tiên. Sự xuất hiện tế bào đầu tiên (giọt coaseva) được đánh dấu bởi việc hình thành lớp màng tế bào bao quanh những phân tử nucleic acid. Điều này tạo ra hai lợi thế chọn lọc là:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Hóa phân tích là bộ môn của ngành hóa học nghiên cứu về "các phương pháp xác định" thành phần cấu tạo và hàm lượng các thành phần của những mẫu khảo sát. Hóa phân tích thường được chia thành Hóa phân tích định tính và Hóa phân tích định lượng nhưng cũng hay được chia thành Hóa phân tích vô cơ và Hóa phân tích hữu cơ. Phương pháp. Các phương pháp của hóa phân tích có thể được chia thành hai loại: định tính và định lượng. Ngoài ra còn được phân loại thành các phương pháp hóa học và các phương pháp vật lý. Hóa phân tích thực chất là ngành phân tích đóng vai trò quan trọng trong khoa học, kỹ thuật, trong nghiên cứu khoa học; điều tra cơ bản để phát triển tiềm năng, khai thác tài nguyên khoáng sản; đánh giá chất lượng sản phẩm. Kỹ thuật. Hiện nay có rất nhiều kỹ thuật để tách, xác định và đo lường các hợp chất hóa học. Các phương pháp tách hóa chất dùng để đo trọng lượng hay thể tích của các hóa chất được tách ra. Những phương pháp tách cổ điển có thể đòi hỏi nhiều kiên nhẫn nhưng lại là bước đầu tiên cần thiết khi làm việc với các hỗn hợp hóa chất nhất định, ví dụ như với các chiết suất từ sinh vật. Các kỹ thuật tách hóa chất hiện đại như sắc ký lỏng hiệu năng cao thường tìm cách tách và xác định hàm lượng hay nhận dạng chất trong cùng một bước bằng cách dùng đầu dò tích hợp. Chuẩn độ là phương pháp dùng để xác định lượng của một chất có trong một dung dịch hay xác định tính chất vật lý của một phân tử ví dụ như một hằng số cân bằng. Có thể phân tích các hóa chất bằng những dụng cụ dùng quang phổ. Khi đo sự hấp thụ hay phát xạ ánh sáng của một chất có thể tính được lượng hay xác định được tính chất của hóa chất mà thường là không cần phải dùng các phương pháp tách. Các phương pháp mới bao gồm phổ hấp thụ nguyên tử, phổ cộng hưởng từ hạt nhân và phân tích kích hoạt neutron. Phương pháp phổ khối lượng được dùng để xác định phân tử lượng, nguyên tố cấu thành, cấu tạo và đôi khi ngay cả lượng của các hóa chất trong một mẫu bằng cách ion hóa các phân tử và quan sát phản ứng của chúng trong từ trường và điện trường. Rất nhiều kỹ thuật kết hợp hai hay nhiều phương pháp phân tích, ví dụ như phương pháp phổ khối lượng plasma cảm ứng (ICP-MS, "Inductively-Coupled Plasma - Mass Spectrometry"). Trong bước đầu tiên mẫu phân tích được làm bay hơi và sau đó là đo nồng độ trong bước thứ hai. Bước thứ nhất có thể bao gồm một kỹ thuật tách như sắc ký và các máy dò hay đo có thể được dùng trong bước thứ hai. Các kỹ thuật dùng phương pháp làm bay hơi nhằm mục đích là tạo nên nguyên tử tự do từ những nguyên tố trong mẫu phân tích để có thể đo nồng độ thông qua mức độ chúng hấp thụ hay phát xạ tại một tần số quang phổ đặc trưng. Các phương pháp này có nhược điểm là phá hủy toàn bộ mẫu phân tích và tất cả những chất có trong đó. Các kỹ thuật này bao gồm quang phổ hấp thụ nguyên tử và phổ phát xạ plasma cảm ứng. Mặc dù vậy, các kỹ thuật này vẫn có thể được sử dụng trong nghiên cứu về hình thành loài bằng cách liên kết với một phương pháp tách trước khi làm bay hơi. Cách thức. Các phương pháp phân tích đều dựa vào sự thận trọng và sạch sẽ khi làm việc, chuẩn bị mẫu, đúng đắn và chính xác. Nhiều nhà thực nghiệm luôn giữ các dụng cụ thủy tinh trong axít để tránh bị làm bẩn, các mẫu được đo nhiều lần và các thiết bị được rửa sạch trong các dung môi tinh khiết đặc biệt. Một phương pháp thường được sử dụng rộng rãi khi phân tích nồng độ là thành lập một đồ thị chuẩn. Nếu nồng độ của nguyên tố hay hợp chất trong mẫu cao hơn phạm vi đo của kỹ thuật được sử dụng thì có thể đơn giản là pha loãng mẫu trong một dung môi tinh khiết. Nếu nồng độ trong mẫu dưới phạm vi đo, có thể cho thêm vào mẫu một lượng nhất định nguyên tố hay hợp chất đang phân tích và hiệu số giữa nồng độ cho thêm vào và nồng độ đo được chính là lượng có trong mẫu. Xu hướng. Động lực chính thúc đẩy nghiên cứu trong hóa phân tích là hiệu suất (độ nhạy, độ chọn lọc, tính bền, phạm vi tuyến đo, đúng đắn, chính xác và thời gian phân tích) và phí tổn (giá mua, phí tổn sử dụng, huấn luyện, thời gian và chỗ). Một xu hướng mới là cố gắng thu nhỏ các kỹ thuật phân tích lại để chúng có kích thước như chip. Mặc dù hiện nay chỉ có một số ít hệ thống có thể cạnh tranh được với những kỹ thuật phân tích cổ điển nhưng chúng vẫn có các ưu điểm về kích cỡ, tính di động, vận tốc và phí tổn (xem hệ thống phân tích toàn bộ). Nhiều nỗ lực khác hướng về phân tích các hệ thống sinh học. Các ví dụ cho những chuyên ngành đang phát triển nhanh chóng trong lãnh vực này là:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Hóa vô cơ liên quan đến tổng hợp và hành vi của các hợp chất vô cơ và cơ kim. Lĩnh vực này bao gồm tất cả các hợp chất hóa học ngoại trừ vô số các hợp chất hữu cơ (hợp chất dựa trên carbon, thường chứa liên kết CH), là các đối tượng của hóa học hữu cơ. Sự khác biệt giữa hai ngành không phải là tuyệt đối, vì có nhiều sự chồng chéo trong phân ngành hóa học cơ kim. Nó có ứng dụng trong mọi khía cạnh của ngành hóa chất, bao gồm xúc tác, khoa học vật liệu, chất màu, chất hoạt động bề mặt, lớp phủ, thuốc, nhiên liệu và nông nghiệp. Khái niệm chính. Nhiều hợp chất vô cơ là các hợp chất ion, bao gồm các cation và anion được nối bằng liên kết ion. Ví dụ về muối (là hợp chất ion) là magiê chloride MgCl 2, bao gồm các cation magiê Mg2+ và anion chloride Cl-; hoặc natri oxit Na2O, bao gồm các cation natri Na+ và các anion oxit O2−. Trong bất kỳ loại muối nào, tỷ lệ của các ion sẽ làm các ion dương và âm trung hòa, do đó hợp chất khối là trung hòa về điện. Các ion được mô tả bởi trạng thái oxy hóa của chúng và sự dễ hình thành của chúng có thể được suy ra từ tiềm năng ion hóa (đối với cation) hoặc từ ái lực điện tử (anion) của các nguyên tố gốc. Các lớp quan trọng của các hợp chất vô cơ là các oxit, cacbonat, sunfat và halide. Nhiều hợp chất vô cơ được đặc trưng bởi các điểm nóng chảy cao. Muối vô cơ thường là chất dẫn kém ở trạng thái rắn. Các tính năng quan trọng khác bao gồm điểm nóng chảy cao của chúng và dễ dàng kết tinh. Trong đó một số muối (ví dụ NaCl) rất hòa tan trong nước, một số khác (ví dụ FeS) thì không. Phản ứng vô cơ đơn giản nhất là sự dịch chuyển kép khi trộn hai muối, các ion bị tráo đổi mà không thay đổi trạng thái oxy hóa. Trong các phản ứng oxy hóa khử, một chất phản ứng, "chất oxy hóa", làm giảm trạng thái oxy hóa của nó và chất phản ứng khác, "chất khử", có trạng thái oxy hóa tăng. Kết quả cuối cùng là sự trao đổi điện tử. Trao đổi điện tử cũng có thể xảy ra gián tiếp, ví dụ trong pin, một khái niệm quan trọng trong điện hóa học. Khi một chất phản ứng có chứa các nguyên tử hydro, một phản ứng có thể xảy ra bằng cách trao đổi các proton trong hóa học axit-base. Trong một định nghĩa chung hơn, bất kỳ phân tử hóa học nào có khả năng liên kết với các cặp electron đều được gọi là axit Lewis; ngược lại, bất kỳ phân tử nào có xu hướng tặng electron đều được gọi là base Lewis. Là một sàng lọc của các tương tác axit-base, lý thuyết HSAB tính đến độ phân cực và kích thước của các ion. Các hợp chất vô cơ được tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng khoáng chất. Đất có thể chứa sắt sulfide dưới dạng pyrite hoặc calci sulfate dưới dạng thạch cao. Các hợp chất vô cơ cũng được tìm thấy đa nhiệm dưới dạng các phân tử sinh học: dưới dạng điện phân (natri chloride), trong dự trữ năng lượng (ATP) hoặc trong xây dựng (xương sống polyphosphate trong DNA). Hợp chất vô cơ nhân tạo quan trọng đầu tiên là ammoni nitrat để bón cho đất thông qua quy trình Haber. Các hợp chất vô cơ được tổng hợp để sử dụng làm chất xúc tác như vanadi (V) oxit và titan (III) chloride, hoặc làm thuốc thử trong hóa học hữu cơ như nhôm lithi hydride. Phân ngành hóa học vô cơ là hóa học cơ kim, hóa học cụm và hóa học sinh học vô cơ. Những lĩnh vực này là lĩnh vực nghiên cứu tích cực trong hóa học vô cơ, nhằm vào các chất xúc tác mới, chất siêu dẫn và liệu pháp y học. Hóa vô cơ công nghiệp. Hóa vô cơ là một lĩnh vực thực tiễn cao của khoa học. Theo truyền thống, quy mô của nền kinh tế của một quốc gia có thể được đánh giá bằng năng suất axit sunfuric của họ. 20 hóa chất vô cơ hàng đầu được sản xuất tại Canada, Trung Quốc, Châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ (dữ liệu năm 2005): nhôm sunfat, amonia, ammoni nitrat, ammoni sulfat, muội than, clo, axit hydrochloric, hydro, hydro peroxide, axit nitric, nitơ, oxy, axit phosphorric, natri cacbonat, natri clorat, natri hydroxide, natri silicat, natri sunfat, axit sunfuric và titan dioxide. Sản xuất phân bón là một ứng dụng thực tế khác của hóa học vô cơ công nghiệp. Hóa học vô cơ mô tả. Hóa học vô cơ mô tả tập trung vào việc phân loại các hợp chất dựa trên tính chất của chúng. Một phần phân loại tập trung vào vị trí trong bảng tuần hoàn của nguyên tố nặng nhất (nguyên tố có trọng lượng nguyên tử cao nhất) trong hợp chất, một phần bằng cách nhóm các hợp chất bởi sự tương đồng về cấu trúc của chúng. Phân loại hóa học vô cơ: Hợp chất phối hợp. Các hợp chất phối trí cổ điển có các kim loại liên kết với " các cặp đơn độc " của các electron nằm trong nhóm nguyên tử chính của các phối tử như H 2 O, NH 3, Cl - và CN -. Trong các hợp chất phối hợp hiện đại, hầu hết các hợp chất hữu cơ và vô cơ có thể được sử dụng làm phối tử. "Kim loại" thường là kim loại từ các nhóm 3-13, cũng như các nguyên tố lanthan và actini, nhưng từ một góc độ nhất định, tất cả các hợp chất hóa học có thể được mô tả là phức hợp phối hợp. Cấu trúc lập thể của các phức hợp phối hợp có thể khá phong phú, như được gợi ý bởi sự phân tách của Werner của hai chất đối kháng của [Co((OH)2Co (NH3)4)3] 6+, một minh chứng ban đầu rằng tính chirality không phải là hợp chất hữu cơ. Một chủ đề trong chuyên ngành này là hóa học phối hợp siêu phân tử. Ví dụ: [Co (EDTA)] -, [Co (NH3)6] 3+, TiCl 4 (THF) 2. Hợp chất nhóm chính. Những hợp chất này có các yếu tố từ các nhóm I, II, III, IV, V, VI, VII, 0 (không bao gồm hydro) của bảng tuần hoàn. Do khả năng phản ứng thường tương tự nhau, các yếu tố trong nhóm 3 (Sc, Y và La) và nhóm 12 (Zn, Cd và Hg) cũng thường được bao gồm, và đôi khi cả lanthanide và actinide cũng được đưa vào. Các hợp chất nhóm chính đã được biết đến từ khi bắt đầu hóa học, ví dụ, lưu huỳnh nguyên tố và phosphor trắng chưng cất. Các thí nghiệm về oxy, O2, của Lavoisier và Priestley không chỉ xác định được một loại khí diatomic quan trọng, mà còn mở đường cho việc mô tả các hợp chất và phản ứng theo tỷ lệ cân bằng hóa học. Phát hiện tổng hợp amonia thực tế sử dụng chất xúc tác sắt của Carl Bosch và Fritz Haber vào đầu những năm 1900 đã tác động sâu sắc đến nhân loại, chứng tỏ tầm quan trọng của tổng hợp hóa học vô cơ. Các hợp chất nhóm chính điển hình là SiO2, SnCl4 và N2O. Nhiều hợp chất nhóm chính cũng có thể được phân loại là nhóm organometallic, vì chúng có chứa các nhóm hữu cơ, ví dụ B (CH3)3). Các hợp chất nhóm chính cũng xảy ra trong tự nhiên, ví dụ, phosphat trong DNA và do đó có thể được phân loại là chất sinh học. Ngược lại, các hợp chất hữu cơ thiếu (nhiều) phối tử hydro có thể được phân loại là vô cơ, chẳng hạn như fullerene, buckytubes và oxit carbon nhị phân. Ví dụ: tetrasulfur tetranitride S4N4, diborane B2H6, silicones, buckminsterfullerene C60. Các hợp chất kim loại chuyển tiếp. Các hợp chất chứa kim loại từ nhóm 4 đến 11 được coi là hợp chất kim loại chuyển tiếp. Các hợp chất với kim loại từ nhóm 3 hoặc 12 đôi khi cũng được kết hợp vào nhóm này, nhưng cũng thường được phân loại là hợp chất nhóm chính. Các hợp chất kim loại chuyển tiếp cho thấy một hóa học phối hợp phong phú, thay đổi từ tứ diện cho titan (ví dụ TiCl4) sang mặt phẳng vuông cho một số phức niken đến bát diện cho phức hợp phối của coban. Một loạt các kim loại chuyển tiếp có thể được tìm thấy trong các hợp chất quan trọng về mặt sinh học, chẳng hạn như sắt trong hemoglobin. Ví dụ: pentacarbonyl sắt, tetrachloride titan, cisplatin. Hợp chất cơ kim (organometallic). Thông thường, các hợp chất organometallic được coi là có chứa nhóm M-C-H. Kim loại (M) trong các loài này có thể là nguyên tố nhóm chính hoặc kim loại chuyển tiếp. Về mặt vận hành, định nghĩa của một hợp chất organometallic thoải mái hơn bao gồm cả các phức hợp lipophilic cao như carbonyl kim loại và thậm chí cả các kim loại alkoxit. Các hợp chất organometallic chủ yếu được coi là một loại đặc biệt vì các phối tử hữu cơ thường nhạy cảm với quá trình thủy phân hoặc oxy hóa, đòi hỏi hóa học organometallic sử dụng các phương pháp chuẩn bị chuyên biệt hơn so với truyền thống trong các phức loại Werner. Phương pháp tổng hợp, đặc biệt là khả năng điều khiển các phức trong dung môi có công suất phối hợp thấp, cho phép khám phá các phối tử rất yếu như hydrocarbon, H2 và N2. Bởi vì các phối tử là hóa dầu trong một số ý nghĩa, lĩnh vực hóa học cơ kim đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự liên quan của nó với ngành công nghiệp. Ví dụ: Cyclopentadienyliron dicarbonyl dimer (C5H5)Fe(CO)2CH3, Ferrocene Fe (C5H5)2, Molybdenum hexacarbonyl Mo(CO)6, Diborane B2H6, Tetrakis (triphenyl)) Pd [P (C6H5)3]4 Phân loại phản ứng hóa học trong hóa vô cơ. Có thể chia các phản ứng hóa học trong hóa vô cơ thành hai loại là phản ứng không có sự thay đổi số oxy hóa và phản ứng có sự thay đổi số oxy hóa. Phản ứng không thay đổi số oxy hóa. Phản ứng trao đổi bao gồm các phản ứng sau: Phản ứng có thay đổi số oxy hóa. Ví dụ 1: 2H2 + O2 → 2H2O Ví dụ 2: Fe + 6HNO3 → Fe(NO3)3 + 3H2O + 3NO2 Các nhánh của hóa vô cơ. Các nhánh chính của hóa vô cơ bao gồm:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Hóa dầu (tiếng Anh: "Petrochemistry") là chuyên ngành hóa học nghiên cứu chuyển hóa dầu thô và khí tự nhiên thành các sản phẩm và nguyên liệu thô khác. Dầu thô và khí tự nhiên là những hợp chất hyđrocacbon, vì thế hóa dầu nghiên cứu về cách tổng hợp các hợp chất hyđrocabon từ thành phần của dầu thô và khí tự nhiên. Sản xuất nhiên liệu cho các động cơ là ví dụ điển hình nhất cho ngành hóa dầu. Các nghiên cứu mở đường cho ngành hóa dầu bắt đầu từ đầu thế kỷ 20 (quy trình Fischer-Tropsch). Từ khi các nhiên liệu sinh học bắt đầu được chú ý đến, hóa dầu, ngành được xem như là đặc biệt "thối" và "bẩn", được đánh giá cao hơn (diesel sinh học). Hóa dầu là gạch nối giữa công nghiệp dầu thô và công nghiệp hóa, chế biến từ một số phân đoạn nhất định trong quá trình chưng cất dầu thô thành một số sản phẩm thô dùng trong công nghiệp hóa. Vì thế mà hóa dầu chiếm một vị trí cơ bản trong bộ môn hóa hữu cơ, bộ môn hóa mà ngày nay được xem như là lãnh vực quan trọng nhất của hóa học.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Cân bằng nội môi (hay hằng tính nội môi, tiếng Anh: "Biological homeostasis") là một đặc tính của một hệ thống mở để điều khiển môi trường bên trong nhằm duy trì trạng thái cân bằng, thông qua việc điều chỉnh các cơ chế điều hòa cân bằng động khác nhau. Tất cả các sinh vật sống bao gồm cả đơn bào hay đa bào đều duy trì cân bằng nội môi. Cân bằng này có thể là cân bằng pH nội bào ở mức độ tế bào; hay cân bằng nhiệt độ cơ thể ở động vật máu nóng; hay cũng chính là tỉ phần khí cacbonic trong khí quyển ở mức độ hệ sinh thái. Bài này trình bày cân bằng nội môi theo cái nhìn của sinh lý học người. ("Human homeostasis") Cân bằng nội môi theo sinh lý học. Trong phạm vi của sinh lý học, cân bằng nội môi được hiểu là "sự giữ cho các trạng thái của môi trường bên trong tương đối hằng định". Có thể nói hầu hết các mô và cơ quan đều góp phần duy trì sự hằng định tương đối này. Hệ tuần hoàn máu - pha trộn và vận tải dịch ngoại bào. Dịch ngoại bào được vận tải khắp cơ thể qua hai giai đoạn. Thứ nhất là sự chuyển động của máu trong các động, tĩnh và mao mạch. Thứ hai là sự di chuyển qua lại của các chất giữa các mao mạch và khoảng gian bào. Khi nghỉ ngơi, toàn bộ lượng máu trong người được lưu thông khắp cơ thể chỉ trong 1 phút, khi hoạt động cật lực, tốc độ này có thể nhanh hơn gấp 6 lần. Khi máu lưu thông qua các mao mạch, sự pha trộn giữa huyết tương và dịch kẽ diễn ra liên tục. Vì vách mao mạch có tính thấm đối với hầu hết các chất trong huyết tương, chỉ trừ các đại phân tử protein, nên dịch ngoại bào và các chất hòa tan trong đó qua lại dễ dàng giữa mô và máu. Hiếm có tế bào nào nằm cách xa mao mạch trên 50 micromét, nên mọi tế bào đều có thể tiếp cận với các chất đến từ mao mạch chỉ trong vài giây. Như vậy, dịch ngoại bào ở bất cứ nơi nào trong cơ thể - dù huyết tương hay mô kẽ - cũng được pha trộn liên tục, nên hầu như có tính đồng nhất hoàn toàn. Sự sinh sản. Thường thì sinh sản không được xem là một hoạt động duy trì cân bằng nội môi. Nhưng sinh sản tạo ra các cá thể mới thay thế cho các cá thể già chết, nếu không, giống nòi sẽ bị tuyệt diệt. Kết luận. "Tế bào lấy dưỡng chất từ dịch ngoại bào (môi trường bên trong), bao nhiêu chất thải tạo ra cũng đổ lại vào chính dịch ngoại bào đó. Đúng là... đại tiện!!!" (lời của giáo sư Nguyễn Ngọc Lanh trong một cuốn sách phổ biến kiến thức, chủ đề "Máu"). Tham khảo. [[Thể loại:Sinh lý học]] [[Thể loại:Thuyết hệ thống]] [[Thể loại:Thuật ngữ y học]] [[lt:Savireguliacija]]
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Cây phát sinh hệ thống (chữ Anh: "Phylogenetic tree"), hoặc gọi là cây hệ thống, cây tiến hoá, là một loại biểu đồ hình cây trình bày quan hệ huyết thống giữa các cá thể khác loài hoặc cùng loài khác sắc tộc, là phương pháp miêu tả mối quan hệ tương quan giữa các sinh vật khác nhau trong Thông tin học sinh vật. Thông qua Phân loại học hệ thống, công tác phân loại, phân tích có thể giúp con người hiểu rõ quá trình lịch sử tiến hoá của tất cả sinh vật. Lĩnh vực học thuật phân tích quan hệ huyết thống cá thể gọi là Phát sinh học hệ thống, được ứng dụng cho nghiên cứu nhiều lĩnh vực, ví dụ như Phân loại học chi tự, Dịch tễ học và Sinh thái học. Tất cả sự sống trên Trái Đất đều là một bộ phận của Cây phát sinh hệ thống, chứng tỏ có tổ tiên chung. Trong biểu đồ hình cây, mỗi một nút đại diện tổ tiên chung gần nhất của mỗi phân nhánh, và chiều dài đoạn thẳng giữa các nút tương ứng với khoảng cách tiến hoá (chẳng hạn như thời gian tiến hoá ước tính). Tóm tắt. Các nhà sinh học luôn mơ ước xây dựng một gốc cây sự sống. Nó có thể miêu tả quy luật tiến hoá sinh vật và quan hệ huyết thống giữa các loài trong quá trình phát triển lịch sử Trái Đất, bằng cách sử dụng quan hệ tiến hoá huyết thống, chiều dài khoảng cách tiến hoá và mức độ tương đồng sinh học mà tiến hành phân loại sinh học. Đây chính là Cây phát sinh hệ thống. Theo lí luận của Darwin, tất cả sinh vật cùng chung một tổ tiên, nói cách khác tất cả hình thức sự sống trên Trái Đất, bất luận là động vật, thực vật, nấm, sinh vật nguyên sinh, hay là sinh vật nhân sơ, đều có một nguồn gốc chung. Bất kì thực thể sinh vật gì, bao gồm gen, cá thể, quần thể, loài (cấp bậc cơ bản) và cấp bậc trên loài, nguồn gốc và lịch sử tiến hoá của nó được gọi là "phát sinh hệ thống", Phát sinh học hệ thống là bộ môn nghiên cứu quy luật tiến hoá sinh vật và quan hệ huyết thống giữa các loài trong quá trình phát triển lịch sử Trái Đất. Làm thế nào miêu tả và đánh giá chiều dài và quan hệ tiến hoá huyết thống giữa các loài ? Kết cấu Cây phát sinh hệ thống đã cung cấp gợi mở và đáp án cho chúng ta. Rễ, cành, nhánh và lá là bộ phận hợp thành cơ bản của một cây. Vì vậy, trong quá trình tiến hoá sinh vật gốc thời gian và điểm xuất phát tổ tiên chính là rễ cấu thành Cây phát sinh hệ thống, chiều dài và khoảng cách thời gian chính là cành, và các yếu tố tiến hoá như đột biến, hoán vị, trùng lặp... chính là nhánh. Phương tiện cấu thành Cây phát sinh hệ thống bao gồm so sánh và nghiên cứu hình thái học hoá thạch và đặc điểm giải phẫu học; so sánh hình thái học, giải phẫu học và sinh lí học của sinh vật hiện còn sống; sinh vật, đặc biệt là nghiên cứu phát sinh cá thể của sinh vật còn sống; phân tích DNA, ví dụ như phương pháp giải trình tự và phát sinh học hệ thống phân tử; ứng dụng số liệu phân tử để tái xây dựng quan hệ phát sinh hệ thống. Thông qua những số liệu này, con người đã có thể thiết lập Cây phát sinh hệ thống cho sinh vật. Căn cứ vào hình thức biểu diễn cụ thể của Cây phát sinh hệ thống, có thể chia làm hai loại: cây hệ thống loài và cây hệ thống gen. Nhà sinh học tiến hoá có hứng thú nhiều hơn đối với thời gian phân hoá của loài hoặc quần thể và thời gian phân kì sau mỗi lần phân hoá, cho nên cây hệ thống loài là cây phát sinh hệ thống căn cứ vào một loạt sự kiện như thời gian phân hoá và thời gian phân kì mà tạo thành. Bất kì loài sinh vật gì, nếu muốn biết chính xác cây hệ thống loài (hoặc quần thể) là vô cùng khó khăn, nhưng chúng ta có thể thông qua xét nghiệm mối quan hệ tiến hoá của một số gen chứa trong sinh vật đó để suy đoán cây hệ thống loài (hoặc quần thể). Cây hệ thống gen là cây phát sinh hệ thống dựa vào sự khác biệt của một gen đồng nguyên mà tạo thành. Cây hệ thống gen không hoàn toàn ngang bằng với cây hệ thống loài, sự khác biệt giữa hai loại cây là rất lớn. Thời gian phân hoá của cá thể khác loài phải sớm hơn thời gian phân hoá loài, nếu chỉ dùng gen đẳng vị để kiến tạo cây hệ thống loài, vậy thì rất nhiều nhân chủng sẽ xếp vào cùng với khỉ đột. Căn cứ vào nút rễ, cây phát sinh hệ thống còn có thể chia làm cây mọc rễ và cây không rễ. Cây mọc rễ là cây có sẵn hướng, bao gồm một nút đặc thù gọi là rễ, dùng để biểu thị tổ tiên chung, từ điểm đó thông qua đường thẳng duy nhất có thể sản sinh nút khác. Cây không rễ không thể xác định rễ cây, không có nút chỉ định tổ tiên, chỉ có thể nhìn ra tính tương quan của mỗi nút, cho nên không có cách nào để phán đoán phân nhánh nào thuộc phân nhánh già, phân nhánh nào thuộc phân nhánh trẻ. Ngoài ra, cây không rễ là cây không có hướng, trong đó đoạn thẳng đều có khả năng hai hướng tiến hoá.
141
141_phu_vt_khe_khoa
[ "phu", "vt", "khe", "khoa", "hc", "nghin", "sinh", "sc", "ngnh", "xc" ]
[ "Tập tính sinh học hay còn gọi là sinh thái học hành vi (\"Behavioral ecology\") là nghiên cứu về cơ sở tiến hoá đối với hành vi (tập tính) của động vật do áp lực sinh thái. Nếu một sinh vật có một đặc điểm hỗ trợ cho nó một lợi thế chọn lọc (tức là có ý nghĩa thích ứng) trong môi trường của nó, thì quá trình chọn lọc tự nhiên có thể có lợi cho nó. Do đó, ý nghĩa thích đáng đề cập đến các phẩm chất có lợi (như tăng sức sinh và sinh sản tăng lên), bất cứ một đặc điểm biến đổi nào đã có. Như sự khác biệt di truyền giữa các cá thể có thể dẫn đến sự khác biệt về hành vi, một số trong đó có thể dẫn đến sự khác biệt về thành công sinh sản, và cuối cùng là qua các thế hệ, sự gia tăng các cá thể có những đặc điểm được phổ biến hơn, tức là sự tiến hóa. Tập tính của động vật rất phong phú, phức tạp, và có vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng. Nó liên quan mật thiết đến sự tồn tại và phát triển nòi giống.\nTập tính động vật cũng đem lại nhiều lợi ích cho thực vật và con người. Một số loài thụ phấn cho các loài thực vật có hoa (ví dụ ong, bướm, kiến, côn trùng). Một số côn trùng cũng sinh ra những chất rất hữu ích như mật, sáp, tơ. Nhiều côn trùng, đặc biệt là các loài bọ cánh cứng ăn xác thối, chúng ăn các xác động vật chết, các cây bị gãy mục, trả lại môi trường các dạng hữu ích cho các sinh vật khác sử dụng. Người Ai Cập cổ đại đã sùng bái những con bọ cánh cứng (bọ hung), giun phát sáng châu Âu được coi như những con vật có lợi vì chúng tiêu diệt ốc và sên là những con phá hoại mùa màng. Khi nuôi nhốt động vật, cần lưu tâm đến tập tính của chúng, tạo điều kiện môi trường sống phù hợp để chúng sống và phát triển bình thường phải tìm hiểu tập tính động vật của chúng để không làm mất cân bằng sinh thái của môi trường nuôi nhốt.\nĐại cương.\nCơ chế.\nTập tính ở động vật là một chuỗi các phản ứng trả lời các kích thích của môi trường diễn ra bên trong cũng như bên ngoài cơ thể nhờ đó mà động vật có thể tồn tại và phát triển. Tập tính được thể hiện ra bằng một loạt các hoạt động phối hợp và thường dẫn tới hoạt động của một bộ phận cơ thể như ve vẩy tai, đuôi, đến mùa sinh sản các loài chim thường hót hoặc khoe lông, hoặc có sự tranh giành con cái bằng giao đấu ví dụ Màn song đấu của chim công. Đôi khi tập tính lại là những phản ứng bất động (giả chết) như phản ứng tự vệ của con bọ que. Các phản ứng tập tính đều mang tính chất thích nghi, nghĩa là làm cho cơ thể sinh vật tiếp tục tồn tại, các phản ứng này giúp con vật tránh xa các mối nguy hiểm hoặc giảm tối đa những sự đe dọa trước mắt nhờ sử dụng một loạt các phản ứng điều kiện\nPhản ứng trả lời (đáp ứng) kích thích bên ngoài như việc các động vật ăn cỏ thường sống và đi kiếm ăn theo bầy đàn cũng là một cách thức phòng vệ trước những động vật ăn thịt như hổ, báo, sư tử, sói, hay như những con cò bắt cá ở chỗ nước nông những con gấu bắt cá ở các vực nước. Phản ứng trả lời kích thích bên trong là những tập tính được gây ra do sự kết hợp kích thích ngoài và kích thích trong như tập tính xã hội, tập tính bầy đàn (lối cư xử, tính nết) của loài vật là do bản năng tự nhiên của chúng và do sự di truyền. Cơ sở thần kinh của tập tính là các phản xạ. Các phản xạ thực hiện qua cung phản xạ, kích thích là những tác nhân tác động vào con vật, kích thích có thể từ bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, nồng độ oxi, độ pH (kích thích ngoài) tới làm con vật cảm nhận được thông qua các giác quan. Kích thích có thể từ bên trong con vật do sự thay đổi sinh lý bên trong con vật (kích thích trong).\nCác tác nhân kích thích như hình ảnh, âm thanh con mồi phát ra, nhiệt độ, hơi ấm cơ thể con mồi, mùi vị, mùi máu tanh hình thành nên tập tính rình mồi, rượt đuổi mồi để tấn công và vồ mồi ảnh hướng để tập tính săn mồi của động vật. Đối với động vật có tổ chức thần kinh chưa phát triển thì là tập tính kiếm mồi và săn mồi là tập tính bẩm sinh, ví dụ như ong bắp cày ký sinh Aphidius colemani là một loài ký sinh ăn tạp, tấn công nhiều loài rệp vừng nên bất cứ loài rệp vừng nào cũng phù hợp làm con mồi đối với ong bắp cày. Đối với động vật có hệ thần kinh phát triển tập tính bắt mồi và săn mồi rất phong phú và phức tạp. Phần lớn các tập tính này được hình thành do học tập từ bố mẹ của chúng hay đồng loại hoặc do kinh nghiệm của bản thân và chúng được hoàn thiện dần để đảm bảo sự sống sót của các loài trong tự nhiên.\nCá thể luôn có sự cạnh tranh với những cá thể khác vì nguồn lực hạn chế, bao gồm thức ăn, lãnh thổ động vật và bạn tình. Mâu thuẫn sẽ xảy ra giữa những kẻ săn mồi và con mồi, giữa các đối thủ của bạn tình, giữa anh chị em, bạn tình, và thậm chí giữa cha mẹ và con cái của chúng. Giá trị của một hành vi xã hội phụ thuộc một phần vào hành vi xã hội của một kẻ hàng xóm. Ví dụ, một con đực có khả năng trở thành một con đực giống đang trở lại từ một mối đe dọa, càng có ý nghĩa một cá thể giống đực được ra khỏi mối đe dọa. Tuy nhiên, nếu một đối thủ cạnh tranh sẽ tấn công nếu bị đe doạ, thì càng có nhiều khả năng đe doạ những con đực khác. Khi một quần thể thể hiện một số hành vi tương tác xã hội như thế này, nó có thể phát triển một mô hình hành vi ổn định được gọi là chiến lược ổn định tiến hóa (ESS).\nCác nhóm.\nDựa vào các đặc điểm của tập tính động vật, có thể phân biệt thành hai nhóm tập tính chính là: tập tính bẩm sinh và tập tính thứ sinh tương ứng với tập tính bản năng và tập tính học khôn. Ngoài ra còn có tập tính hỗn hợp là vừa có tập tính học tập vừa có tập tính bản năng. Một số dạng tập tính phổ biến ở động vật:\n\"Tập tính bẩm sinh\" là những hoạt động cơ bản của cơ thể động vật mà ngay từ khi sinh ra đã có, không cần qua học hỏi, rèn luyện, mang tính bản năng, được di truyền từ bố mẹ, không thay đổi và không chịu ảnh hưởng của điều kiện và hoàn cảnh sống, chúng được quyết định bởi yếu tố di truyền, chẳng hạn như tập tính sinh sản. \"Tập tính bản năng\" (tập tính bẩm sinh nguyên thủy hay không do học tập) do nhân tố bản đồ gen, nhiễm sắc thể lập trình quyết định và thường không bị thay đổi bởi hoàn cảnh. Chẳng hạn như loài thủy tức khi có mồi chạm vào xúc tu, thủy tức sẽ tự đưa thức ăn vào miệng, hay những con đỉa sống trong nước, khi nghe có tiếng động trong nước sẽ tự động bơi lại phía đó để kiếm ăn.\n\"Tập tính thứ sinh\" (tập tính học được trong đời sống): là loại tập tính được hình thành trong quá trình sống do học tập hoặc do có sự trao truyền giữa các cá thể cùng loài, ví dụ như tập tính chống lại những động vật định ăn trộm thức ăn của nó. Ở những nhóm động vật càng cao, càng tiến hóa, loại tập tính đó học được càng nhiều, do đó chúng càng dễ thích nghi với điều kiện và hoàn cảnh sống. \"Tập tính học khôn\" là kiểu hoạt động hình thành do kết quả của kinh nghiệm và có thể thay đổi bởi hoàn cảnh. Tập tính di cư ở động vật thường là tập tính thứ sinh vì chúng thường thể hiện theo bầy, đàn quy mô lớn.\nỞ những động vật bậc cao chúng còn có khả năng học khôn (Văn hóa ở động vật), tự sáng tạo ra các công cụ trong quá trình kiếm ăn ví dụ như tinh tinh biết dùng dụng cụ để bắt mồi. Phần lớn các tập tính kiếm ăn, săn mồi là các tập tính thứ sinh, hình thành trong quá trình sống, qua học tập ở bố mẹ hoặc đồng loại hoặc qua trải nghiệm của bản thân, ví dụ như hổ mẹ dạy hổ con săn mồi. Một ví khác là cách báo mẹ dạy con săn mồi, sau khi bắt được con mồi, báo mẹ làm cho con mồi yếu đi rồi cho con tập săn mồi, nếu báo được con người nuôi dưỡng từ nhỏ thì khi lớn lên được thả ra tự nhiên sẽ không có các kỹ năng săn mồi, vì thế tập tính kiếm ăn của hầu hết các động vật bậc cao là tập tính học tập.\nNgoài ra, có thể kể loại tập tính thứ ba là tập tính hỗn hợp (bao gồm cả tập tính bẩm sinh lẫn tập tính thứ sinh, như loài ong vò vẽ là một loài ong sống hoàn toàn đơn độc. Trong tập tính hôn phối, sau khi giao phối, con ong cái bắt đầu xây dựng tổ thì ở trong tổ con cái sẽ đẻ một quả trứng, sau đó, có một vài con sâu sau khi đã bị làm tê liệt, được mang đến tổ làm thức ăn cho ong con đang phát triển, cuối cùng, tổ được gắn lại và con cái bay đi để xây dựng tổ mới. Trong trình tự giao phối, làm tổ, đẻ trứng, săn mồi mang về tổ được thực hiện mà không cần phải dạy hay học từ trước, đó là tập tính bẩm sinh, còn tìm đưa sâu đưa vào tổ là tập tính thứ sinh (ong vò vẽ học được rằng sâu bị tê liệt có thể làm thức ăn cho ong con). Hoặc như ở gà con, khi chúng sinh ra chúng sẽ có thói quen mổ và nuốt những thứ trong tầm với của chúng như rơm rạ, sỏi đá, dị vật, nhưng sau khi chúng lớn lên chúng sẽ đủ nhận biết để chỉ mổ nuốt những loại thóc gạo.\nCác dạng.\nSăn mồi và phòng vệ.\nTập tính kiếm mồi và săn mồi: Tập tính này ở các động vật khác nhau là khác nhau. Các dạng chính là kiếm mồi đơn lẻ và kiếm mồi bầy đàn. Tập tính kiếm ăn của báo hoa mai đặc trưng cho tập tính kiếm mồi đơn lẻ. Tập tính kiếm mồi và săn mồi ở động vật phụ thuộc vào nguồn thức ăn mà chúng sử dụng. Ý nghĩa của việc kiếm mồi và săn mồi ở động vật là để tồn tại và phát triển, các động vật có nhu cầu tìm kiếm thức ăn nói chung và săn mồi nói riêng. Đây là những tập tính bảo đảm sự sống còn của các loài động vật.\nTrái lại ở con mồi khi phát hiện ra kẻ thù thì có tập tính lẩn trốn, bỏ chạy hoặc tự vệ, đây là bản năng tự bảo toàn của chúng. Trong đa số trường hợp con mồi bị truy đuổi quá gần thì lập tức nó chuyển từ trạng thái trốn chạy sang tư thế tấn công. Khi gặp kẻ thù thường biểu hiện tư thế dọa nạt, thú ăn thịt thì nhe nanh, giơ vuốt, thú móng guốc thì dậm chân. Một số loài thì xù lông lên và dựng đứng người ví dụ nhím xù lông để tự vệ trước kẻ thù, các loài khỉ thường có tập tính bẻ cành ném xuống thậm chí phóng uế vào mặt kẻ thù, còn những con thỏ thì bỏ chạy khi bị tấn công, có những loài chọn những cách tự vệ như giả chết, cuộn tròn thân mình hay biến mình thành vũ khí khó nuốt, đây là tập tính tự vệ.\nỞ sinh vật còn có trường hợp thay đổi ngoại hình để nó trở nên lẫn vào môi trường xung quanh gọi là ngụy trang, đây là hành vi (tập tính) của sinh vật nhằm trốn tránh khỏi khả năng quan sát của đối tượng khác, một hình thức đánh lừa ở động vật. Tập tính này có thể giúp sinh vật trốn tránh kẻ thù hoặc dễ dàng hơn trong việc săn mồi. Các động vật biển được vũ trang chu đáo, nhưng để tránh bớt xung đột, chúng chọn cách cảnh báo kẻ thù bằng màu sắc rực rỡ của cơ thể, ở sinh vật biển, những loài nguy hiểm thường có màu sắc đặc trưng như những đốm xanh dương trên nền vàng. Ngụy trang có thể là động vật hòa mình vào môi trường xung quanh.\nLuôn có sự tiến hóa liên tục trong khả năng phát hiện sự trá hình và tương tự năng lực ẩn trốn cũng biến đổi luôn luôn. Ở mỗi cặp động vật săn đuổi-trốn tránh, cấp độ tiến hóa trá hình và phát hiện khác nhau. Những vạch đen trên da ngựa vằn khiến rất khó phân biệt từng cá thể làm kẻ thù khó tấn công tạo ra màu sắc gây nhiễu. Những cách thức khác là việc động vật biến hình thành thứ gì khác hấp dẫn hoặc có vẻ ngoài nguy hiểm hay còn gọi là bắt chước, một số động vật ẩn trốn làm giả chuyển động trong tự nhiên, ví dụ chiếc lá trong gió, các động vật khác gắn liền hoặc lấy những vật liệu trong tự nhiên đắp lên thân mình để tạo ra nơi ẩn náu. \nĐánh dấu lãnh thổ.\nTập tính bảo vệ vùng lãnh thổ (tập tính lãnh thổ): Mỗi con vật chiếm cứ một khu vực thuộc quyền kiểm soát của một cá thể hoặc một bầy, đàn động vật và được con vật hoặc bầy đàn đó đặc biệt bảo vệ chống lại kẻ xâm nhập một cách quyết liệt, lãnh thổ động vật là nơi thể hiện tập tính lãnh thổ của động vật và được các con vật tuần tra, bảo vệ thường xuyên. Động vật bảo vệ lãnh thổ theo cách này được gọi là tập tính lãnh thổ. Chúng đánh dấu lãnh thổ có thể bằng mùi hương, hoặc tiếng ồn ào, tiếng gầm, hú, kêu rống, la hét, luyến hót để thể hiện sự hiện diện của mình.\nTập tính cư trú: Mỗi loài có tập tính cư trú khác nhau. Tập tính cư trú ở động vật được hình thành do nhiều yếu tố như ánh sáng, nhiệt độ, độ pH, nguồn thức ăn có sẵn. Đối với những sinh vật sống dưới nước thì có loài sống ở tầng đáy, có loài sống ở vùng giữa, có loài sống ở gần mặt nước, có loài sống ở nước ngọt, có loài sống ở nước lợ, lại có loài sống ở nước mặn, cũng có loài thích ứng rộng với độ mặn, sống được ở cả nước ngọt, nước lợ, nước mặn như cá chình.\nTập tính di cư: là một tập tính rất phức tạp thể hiện trong hiện tượng di cư của một số loài chim di trú, cá di cư. Chúng thường di cư theo mùa, theo một chu kỳ nhất định trong năm. Cứ đến mùa đông, phần vì lạnh giá, phần vì thiếu thức ăn, nhiều loài chim ở phương Bắc vượt hàng ngàn, vạn cây số về phương nam ấm áp, thức ăn phong phú để sống, đến mùa xuân lại trở về phương Bắc. Những biểu hiện của di cư sinh sản là cá thể trưởng thành sống ở những vùng khác với nơi sinh sản, sự di chuyển cả đàn kèm theo sinh sản. Đến mùa sinh đẻ chúng phải di chuyển tập trung về những \"bãi đẻ\" nhất định. Cá chình là loài cá di cư, cá mẹ đẻ ở biển sâu, cá con sau khi nở trôi dạt vào bờ biển, cửa sông, vùng nước ngọt kiếm mồi và lớn lên. Khi trưởng thành, cá lại di cư ra biển sâu để đẻ trứng, tương tự là loài cá hồi di cư. \nThứ bậc, tôn ti.\nTập tính thứ bậc được thể hiện qua việc mỗi bầy đều có sự phân chia thứ bậc. Tổ chức theo trật tự lệ thuộc là đặc tính của hầu hết các động vật sống thành đàn (tập tính thứ bậc). Trong một đàn sẽ có con đầu đàn thống trị các con còn lại. Con đầu đàn có ưu thế như vậy là nhờ thắng trận trong các trận đấu. Chiến đấu, cạnh tranh để bảo vệ lãnh thổ cũng là cơ hội để lựa chọn bạn tình, tạo ra một hậu cung động vật. Con cái thường lựa chọn những con đực chiếm giữ vùng lãnh thổ tốt nhất, cũng là con khỏe nhất. Kết bạn tình với những con đực như vậy có nguồn gen tốt sẽ cho những đứa con mạnh khỏe là điều kiện để duy trì và phát triển nòi giống.\nỞ loài linh cẩu đốm, những con trưởng thành hơn thường xuyên ghé thăm hang để dạy dỗ con non về thứ bậc khắt khe trong xã hội của chúng. Các đàn linh cẩu đốm đều có một con cái đầu đàn và hàng loạt những con cấp dưới. Mỗi một con non phải học chính xác vị trí thích hợp của nó trong thang bậc thứ tự của đàn và tất cả mọi cá thể linh cẩu đốm khác cũng phải thích nghi. Hệ thống thứ bậc bản thân nó đã chứng minh rất sống động khi giờ ăn đến, nếu một hoặc hai con trong đàn săn mồi, các thành viên khác cùng đàn sẽ tham dự để cùng chiến đấu với con mồi, nhưng con cái đầu đàn bao giờ cũng giành phần thắng. Tuy nhiên, cũng có lúc cả đàn linh cẩu tụ họp với nhau. Bầy linh cẩu đốm thường đi dọc theo biên giới lãnh địa rồi đánh dấu bằng nước tiểu. Nếu có vụ đi săn nào xảy ra gần biên giới thì một cuộc xung đột với bầy linh cẩu láng giềng có thể nổ ra.\nKết đôi, sinh sản.\nTập tính kết đôi, hôn phối của các loài vật thường diễn ra vào mùa sinh sản. Tập tính hôn phối bắt đầu bằng độc chiếm lãnh thổ của con đực đánh đuổi tình địch, tiếp theo là sự rủ rê con cái để ghép đôi, xây tổ, đẻ con và sau hết là nuôi con. Đây luôn là một hiện tượng thú vị của thế giới động vật. Quá trình kết đôi được bắt đầu bằng các tín hiệu như âm thanh, màu sắc, mùi hương như:\nTập tính sinh sản và tập tính chăm sóc con: Phần lớn các tập tính sinh sản là tập tính bẩm sinh, mang tính bản năng. Thường khởi đầu là do một kích thích của môi trường ngoài như thời tiết (nhiệt độ, độ ẩm), ánh sáng, âm thanh tác động vào các giác quan hay do kích thích của môi trường bên trong do tác động của hoocmon sinh dục gây nên hiện tượng chín sinh dục và chuẩn bị cho sự sinh sản, được thể hiện bằng các hành động ve vãn, khoe mẽ, tỏ tình, xây tổ, ấp trứng, chăm sóc, bảo vệ con non, chẳng hạn như: ", "Thực vật học (, còn được gọi là khoa học thực vật, sinh học thực vật hoặc ngành thực vật học) là bộ môn khoa học nghiên cứu về thực vật và là một phân ngành của sinh học. Nhà thực vật học, nhà khoa học thực vật hay nhà nghiên cứu thực vật là một nhà khoa học có chuyên môn về lĩnh vực này. Thuật ngữ \"thực vật học\" trong các ngôn ngữ Tây phương bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại là (\"botanē\"), nghĩa là \"đồng cỏ chăn gia súc\", \"thảo mộc\", \"đồng cỏ\" hay \"cỏ khô\"; thì có nguồn gốc từ (), tức là \"chăn nuôi\" hoặc \"chăn thả\". Theo truyền thống, thực vật còn gồm có nghiên cứu nấm và tảo, các nhà nghiên cứu được gọi lần lượt là nhà nấm học và tảo học; việc nghiên cứu ba nhóm sinh vật này vẫn nằm trong diện quan tâm của Hội nghị Thực vật Quốc tế. Ngày nay, các nhà thực vật học nghiên cứu khoảng 410.000 loài thực vật trên cạn, trong số đó 391.000 loài là thực vật bậc cao (bao gồm khoảng 369.000 loài thực vật hạt kín) và khoảng 20.000 loài là rêu.\nThực vật học có nguồn gốc từ thời tiền sử dưới vai trò thảo dược, khi con người bước đầu cố nhận dạng (và sau đó là trồng trọt) những cây có thể ăn, làm thuốc và có độc, biến nó thành một trong những phân ngành khoa học lâu đời nhất. Những khu vườn thuốc thời Trung Cổ thường gắn liền với các tu viện, là nơi chứa những cây có tác dụng y học. Chúng là tiền thân của những vườn bách thảo đầu tiên gắn liền với các trường đại học, được thành lập từ những năm 1540 trở đi. Một trong những vườn bách thảo đầu tiên là vườn bách thảo Padova. Những khu vực này đã tạo điều kiện cho việc các chuyên gia học thuật nghiên cứu về thực vật. Những nỗ lực phân loại và miêu tả bộ sưu tập này là bước khởi đầu cho phân loại thực vật, từ đó ra đời danh pháp hai phần của Carl Linnaeus vào năm 1753, vẫn còn được dùng để đặt tên cho tất cả các loài sinh vật cho tới ngày nay.\nVào thế kỉ 19 và 20, những kĩ thuật mới đã được phát triển để nghiên cứu thực vật, trong đó gồm các phương pháp nhuộm tế bào, dùng kính hiển vi quang học và chụp hình tế bào sống, kính hiển vi điện tử, phân tích bộ nhiễm sắc thể, hóa thực vật, cấu trúc và chức năng của các enzyme và protein khác. Trong hai thập niên cuối thế kỉ 20, các nhà thực vật học đã khai thác những kĩ thuật phân tích di truyền phân tử, gồm có hệ gen, hệ protein và các chuỗi DNA để phân loại thực vật chính xác hơn.\nThực vật học hiện đại là một bộ môn đại cương và đa ngành với những đóng góp và hiểu biết sâu sắc từ các lĩnh vực khoa học và kĩ thuật khác. Những đề tài nghiên cứu gồm có ba nhóm chínhː hình thái và giải phẫu thực vật, sinh lý học thực vật (gồm các quá trình tăng trưởng và phân hóa, sinh sản, hóa sinh và trao đổi chất sơ cấp, các sản phẩm hóa học, phát triển, bệnh học...) và phân loại thực vật (bao gồm nhiều ngành như quan hệ tiến hóa, hệ thống học, đa dạng thực vật...). Những đề tài nổi bật trong thực vật học ở thế kỉ 21 là di truyền phân tử và di truyền học biểu sinh, nghiên cứu về trao đổi chất và kiểm soát biểu hiện gen trong quá trình phân hóa của tế bào thực vật và mô. Nghiên cứu thực vật học được ứng dụng đa dạng trong việc cung cấp các nguyên vật liệu và thực phẩm thiết yếu như gỗ làm nhà, dầu, cao su, sợi và thuốc, trong trồng trọt, nông nghiệp và lâm nghiệp hiện đại, nhân giống, gây giống và kỹ thuật di truyền, trong tổng hợp hóa chất, ứng dụng trong xây dựng, sản xuất năng lượng, trong quản lý môi trường và duy trì đa dạng sinh học.\nLịch sử.\nThực vật học sơ khai.\nCó bằng chứng cho thấy con người đã sử dụng thực vật cách đây 10.000 năm ở Thung lũng sông Little Tennessee, đa số là củi đốt hoặc thực phẩm. Thực vật học khởi nguồn dưới dạng thảo dược học, ngành nghiên cứu và sử dụng thực vật để điều chế thuốc. Lịch sử sơ khai của thực vật ghi lại được gồm nhiều tài liệu và phân loại thực vật cổ. Những ví dụ về các công trình thực vật học đầu tiên được phát hiện trong các văn bản cổ từ Ấn Độ (có niên đại trước năm 1100 trước Công nguyên), thời Ai Cập cổ đại, trong các tài liệu tiếng Avesta cổ và trong những tài liệu Trung Quốc được cho là từ trước năm 221 TCN.\nThực vật học hiện đại có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại, đặc biệt liên quan tới Theophrastus (sống khoảng năm 371–287 TCN); ông là học trò của Aristoteles, người đã phát minh và miêu tả nhiều nguyên lý thực vật, được đông đảo cộng đồng khoa học coi là \"Cha đẻ của thực vật học\". Hai công trình chính của ông là \"Historia Plantarum\" và \"On the Causes of Plants\" đã đưa ra những đóng góp quan trọng nhất cho ngành khoa học thực vật cho đến thời Trung Cổ, tức gần 17 thế kỉ về sau.\nMột công trình khác ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại bước đầu tác động lên thực vật học là \"De Materia Medica\", một cuốn bách khoa toàn thư gồm 5 tập về thảo dược học do bác sĩ kiêm nhà dược học người Hy Lạp Pedanius Dioscorides biên soạn vào giữa thế kỉ 1. \"De Materia Medica\" đã được đón đọc rộng rãi trong hơn 1.500 năm. Những đóng góp quan trọng từ thời Hồi giáo Trung Cổ gồm có \"Nabatean Agriculture\" của Ibn Wahshiyya, \"Book of Plants\" (C\"uốn sách về thực vật\") của Abū Ḥanīfa Dīnawarī (828–896) và \"The Classification of Soils\" (\"Phân loại đất\") của Ibn Bassal. Đầu thế kỉ 13, Abu al-Abbas al-Nabati và Ibn al-Baitar (mất năm 1248) đã viết về thực vật học theo phương pháp có hệ thống và khoa học.\nGiữa thế kỉ 16, những vườn bách thảo được thành lập tại một số viện đại học của Ý. Vườn bách thảo Padova (1545) thường được xem là vườn bách thảo đầu tiên và vẫn nằm ở vị trí đầu tiên của nó đến ngày nay. Những khu vườn này tiếp tục kết thừa giá trị thực tiễn của \"vườn thuốc\" thời sơ khai (thường gắn liền với các tu viện, trong đó thực vật được dùng để chữa bệnh). Chúng thúc đẩy sự phát triển của thực vật học để trở thành một bộ môn học thuật. Những bài giảng về các loại cây trong vườn đã ra đời cùng với mục đích y khoa của chúng. Những vườn bách thảo đến vùng Bắc Âu muộn hơn nhiều; vườn đầu tiên ở Anh là Vườn bách thảo Đại học Oxford vào năm 1621. Trong suốt thời kì này, thực vật học vẫn phụ thuộc chủ yếu vào y học.\nBác sĩ người Đức Leonhart Fuchs (1501–1566) là một trong \"ba vị cha đẻ thực vật học người Đức\", cùng với nhà thần học Otto Brunfels (1489–1534) và bác sĩ Hieronymus Bock (1498–1554) (còn có tên là Hieronymus Tragus). Fuchs và Brunfels đã tách khỏi truyền thống sao chép những công trình trước kia để thực hiện những quan sát nguyên bản của riêng họ. Bock tạo ra hệ thống phân loại thực vật của riêng ông.\nBác sĩ Valerius Cordus (1515–1544) là tác giả công trình thảo dược quan trọng về mặt thực vật và dược học mang tên \"Historia Plantarum\" vào năm 1544 và một dược thư có ảnh hưởng lâu dài mang tên \"Dispensatorium\" vào năm 1546. Nhà tự nhiên học Conrad von Gesner (1516–1565) và nhà dược học John Gerard (1545–k.1611) đã công bố nhiều loại thực vật, bao gồm công dụng chữa bệnh của chúng. Nhà tự nhiên học Ulisse Aldrovandi (1522–1605) được xem là \"cha đẻ của lịch sử tự nhiên\" cũng có nghiên cứu về thực vật. Năm 1665, nhờ sử dụng kính hiển vi đầu tiên, nhà bác học Robert Hooke phát hiện ra các tế bào (thuật ngữ mà ông đặt ra) trong các nút bần, và không lâu sau là trong các mô thực vật sống.\nThực vật học cận đại.\nTrong thế kỉ 18, các hệ thống nhận dạng thực vật được phát triển để đối chiếu với những khóa lưỡng phân, nơi các loài thực chưa rõ lai lịch được xếp vào những đơn vị phân loại (ví dụ: họ, chi và loài) bằng cách tiến hành một loạt lựa chọn giữa các cặp tính trạng. Sự phân loại \"nhân tạo\" và chuỗi các tính trạng trong các khóa được thiết kế hoàn toàn chỉ để nhận dạng (các khóa chẩn đoán), hoặc có liên hệ chặt chẽ hơn với trật tự phân loại \"tự nhiên\" của taxa trong những khóa tổng quát. Đến thế kỉ 18, những loài thực vật mới phục vụ nghiên cứu đã đặt chân đến châu Âu với số lượng ngày càng tăng từ những quốc gia mới phát hiện và vùng thuộc địa của châu Âu trên toàn thế giới. Năm 1753, Carl von Linné (Carl Linnaeus) xuất bản tác phẩm Species Plantarum, một cuốn phân loại thực vật theo thứ bậc vẫn là nguồn tham khảo cho danh pháp thực vật hiện đại. Tác phẩm đã định hình nên một giản đồ đặt tên hai phần hoặc danh pháp hai phần chuẩn hóa, gồm phần đầu là tên chi còn phần thứ hai xác định các loài trong chi. Với mục đích nhận dạng, cuốn \"Systema Sexuale\" của Linnaeus đã phân thực vật thành 24 nhóm dựa theo số lượng cơ quan sinh dục đực của chúng. Nhóm thứ 24 tên là \"Cryptogamia\" gồm có tất cả các loài thực vật mang những bộ phận sinh sản bị ẩn giấu, rêu, cỏ biển, dương xỉ, tảo và nấm.\nNhờ nâng cao kiến thức về giải phẫu, hình thái và các vòng đời của thực vật, các nhà thực vật học nhận ra rằng có nhiều điểm tương đồng tự nhiên giữa các loài thực vật hơn hệ giới tính nhân tạo của Linnaeus. Adanson (1763), de Jussieu (1789) và Candolle (1819) đều công bố nhiều hệ thống phân loại tự nhiên thay thế, theo đó các nhóm thực vật được phân loại dựa trên nhiều nhóm tính trạng hơn và được nhiều người ủng hộ hơn. Hệ thống Candolle phản ánh những hiểu biết của ông về sự phát triển hình thái phức tạp và hệ thống Bentham & Hooker sau này (giàu ảnh hưởng tới giữa thế giữa thế kỉ 19) chịu ảnh hưởng từ phương pháp của Candolle. Sự kiện Darwin cho ra đời cuốn \"Nguồn gốc các loài\" vào năm 1859 và quan niệm của ông về tổ tiên chung đã đòi hỏi những thay đổi với hệ thống của Candolle để phản ánh các mối quan hệ tiến hóa có điểm khác biệt so với nét tương đồng về hình thái.\nThực vật học có một bước tiến lớn nhờ sự xuất hiện của cuốn sách giáo khoa \"hiện đại\" đầu tiên, quyển \"\" của Matthias Schleiden, được xuất bản bằng tiếng Anh với nhan đề \"Principles of Scientific Botany\" (\"Nguồn gốc của khoa học thực vật\") vào năm 1849. Schleiden là một người sử dụng kính hiển vi và nhà giải phẫu thực vật đầu tiên, ngoài ra ông còn là đồng tác giả học thuyết tế bào (với Theodor Schwann và Rudolf Virchow) và một trong những người đầu tiên nắm được tầm quan trọng của nhân tế bào mà Robert Brown từng mô tả vào năm 1831. Năm 1855, Adolf Fick đã xây dựng các định luật của riêng ông nhằm tính toán tốc độ khuếch tán phân tử trong các hệ sinh học.\nThực vật học hậu cận đại.\nDựa trên thuyết di truyền gen-nhiễm sắc thể bắt nguồn từ Gregor Mendel (1822–1884), August Weismann (1834–1914) đã chứng minh rằng di truyền chỉ xảy ra thông qua các giao tử. Không có loại tế bào nào khác có thể truyền đạt các thông tin di truyền. Công trình về giải phẫu thực vật của Katherine Esau (1898–1997) vẫn là nền tảng chính của thực vật học hiện đại. Các quyển \"Plant Anatomy\" (Giải phẫu thực vật) và \"Anatomy of Seed Plants\" (Giải phẫu thực vật có hạt) của bà là những cuốn sinh học cấu trúc thực vật quan trọng trong hơn nửa thế kỷ.\nNhững người tiên phong cho môn sinh thái học thực vật ở cuối thế kỷ 19 là các nhà thực vật học như Eugenius Warming (chủ nhân giả thuyết rằng thực vật tạo nên các quần xã) và Christen C. Raunkiær (cố vấn và người kế nhiệm Warming), tác giả hệ thống miêu tả những dạng sống của thực vật vẫn được sử dụng ngày nay. Quan niệm cho rằng thành phần của các quần xã thực vật như rừng lá rộng ôn đới thay đổi bởi quá trình diễn thế sinh thái là do Henry Chandler Cowles, Arthur Tansley và Frederic Clements phát triển. Clements được ghi công với ý kiến cho rằng quần xã đỉnh cực là quần xã phức tạp nhất mà một môi trường có thể nuôi dưỡng, còn Tansley giới thiệu khái nhiệm của những hệ sinh thái tới sinh quyển. Dựa trên công trình mở rộng trước đó của Alphonse de Candolle, Nikolai Vavilov (1887–1943) đã cho ra đời các tài liệu về địa lý sinh học, các trung tâm nguồn gốc và lịch sử tiến hóa của các loài thực vật có giá trị kinh tế.\nĐặc biệt kể từ giữa thập niên 1960, thế giới đã có những bước tiến bộ trong vốn hiểu biết về bản chấy vật lý, hoá học của các quá trình sinh lý thực vật như thoát hơi nước (vận chuyển nước trong các mô thực vật), tốc độ bay hơi từ bề mặt lá phụ thuộc vào nhiệt độ và sự khuếch tán phân tử hơi nước và khí cacbonic thông qua những lỗ hở khí khổng. Những bước tiến kể trên, cộng với các phương pháp mới nhằm đo kích thước lỗ khí khổng và tốc độ quang hợp đã giúp miêu tả chính xác tốc độ trao đổi khí giữa thực vật và không khí. Những phát kiến mới trong phép phân tích thống kê của Ronald Fisher, Frank Yates và những nhà khoa học khác tại Trạm thí nghiệm Rothamsted đã tạo điều kiện thuận lợi cho thiết kế thí nghiệm hợp lý và phân tích dữ liệu trong nghiên cứu thực vật. Việc Kenneth V. Thimann phát hiện và nhận dạng hormone thực vật auxin vào năm 1948 đã giúp giới khoa học có thể điều chỉnh sự phát triển của thực vật bằng chất hóa học ngoại sinh. Frederick Campion Steward là người tiên phong trong kĩ thuật vi nhân giống và nuôi cấy mô thực vật được điều hoà bởi hormone thực vật. Auxin nhân tạo 2,4-Dichlorophenoxyacetic acid hay 2,4-D là một trong những thuốc diệt cỏ tổng hợp thương mại đầu tiên.\nỞ thế kỷ 20, các kĩ thuật phân tích hóa hữu cơ hiện đại đã điều khiển những bước phát triển trong ngành hóa sinh thực vật, chẳng hạn như quang phổ, sắc ký và điện di. Với việc tăng số lượng các phương pháp tiếp cận sinh học liên quan ở quy mô phân tử của sinh học phân tử, gen học, protein học và chuyển hóa học, mối quan hệ giữa bộ gen của thực vật và hầu hết những khía cạnh của hóa sinh, sinh lý, hình thái và tập tính của thực vật là đối tượng được phân tích thực nghiệm chi tiết. Khái niệm lần đầu do Gottlieb Haberlandt chỉ ra vào năm 1902 rằng tất cả tế bào thực vật là \"toàn năng\" (nguyên văn \"totipotency\") và sau cùng có thể được nuôi cấy \"in-vitro\" (\"trong ống nghiệm\") nhằm sử dụng kỹ thuật di truyền trong thực nghiệm để loại bỏ một hoặc nhiều gen chịu trách nhiệm cho một đặc tính cụ thể, hoặc để bổ sung gen như GFP chỉ thị khi một gen quan tâm đang được biểu lộ. Những công nghệ này có thể cho sử dụng công nghệ sinh học lên toàn bộ thực vật hoặc những tế bào thực vật nuôi cấy trong các lò phản ứng sinh học để tổng hợp thuốc trừ sâu sinh học, dược chất sinh học hoặc các thuốc khác, cũng như ứng dụng thực tế vào cây trồng biến đổi gen được thiết kế cho các đặc tính như cải thiện năng suất.\nHình thái học hiện đại ghi nhận sự thống nhất giữa các loại hình thái chính của rễ, thân (caulome), lá (phyllome) và trichome. Ngoài ra, hình thái chú trọng vào chức năng cấu trúc. Phương pháp phân loại hiện đại nhằm phản ánh và phát hiện quan hệ phát sinh giữa các loài thực vật. Phát sinh chủng loại phân tử hiện đại phần lớn bỏ qua những đặc điểm hình thái, lấy các chuỗi trình tự DNA làm dữ liệu. Phép phân tích phân tử trình tự DNA từ phần lớn họ thực vật có hoa đã góp phần ra đời Nhóm phát sinh thực vật hạt kín (Angiosperm Phylogeny Group - APG, xuất bản vào năm 1998) nói về việc phát sinh các loài thực vật có hoa, giải đáp nhiều câu hỏi về mối quan hệ giữa các họ và loài của nhánh thực vật này. Khả năng trên lý thuyết của một phương pháp thực tế để xác định các loài thực vật và giống thương mại bằng mã vạch DNA là chủ đề của nghiên cứu hiện đại.\nPhạm vi và tầm quan trọng.\nNghiên cứu thực vật rất quan trọng bởi chúng là nền tảng cho sự sống của hầu hết sinh vật trên Trái Đất bằng cách sản sinh ra một lượng lớn khí oxy và cung cấp thức ăn cho con người và các sinh vật khác, thông qua quá trình quang hợp và tổng hợp hữu cơ khác của thực vật. Thực vật, tảo và vi khuẩn lam là những nhóm sinh vật chính tiến hành quang hợp, quá trình sử dụng năng lượng của ánh mặt trời để biến nước và carbon dioxide thành đường – có thể dùng làm nguồn năng lượng hóa học và các phân tử hữu cơ được sử dụng trong thành phần cấu trúc của tế bào. Hiệu ứng phụ của quang hợp là thực vật phát tán oxy vào khí quyển, một loại khí mà hầu hết mọi sinh vật sống cần để thực hiện quá trình hô hấp. Ngoài ra, chúng có tác động tới các chu trình carbon và nước khắp địa cầu, làm liên kết rễ cây và ổn định đất, chống xói mòn. Thực vật có vai trò tối quan trọng với tương lai của xã hội loài người vì chúng cung cấp thức ăn, khí oxy, thuốc và các sản phẩm cho con người, cũng như tạo ra và giữ gìn đất.\nTrong lịch sử, mọi sinh vật sống từng được phân làm động vật hoặc thực vật, và ngành thực vật học chuyên nghiên cứu về tất cả các sinh vật sống không phải động vật. Các nhà thực vật học nghiên cứu cả chức năng lẫn những quá trình bên trong bào quan, tế bào, mô, cá thể thực vật, quần thể thực vật và quần xã thực vật. Ở mỗi mức độ trong số này, một nhà thực vật có thể quan tâm đến phân loại, phát sinh chủng loài và tiến hóa, cấu trúc (giải phẫu và hình thái), hoặc chức năng (sinh lý học) của đời sống thực vật.\nĐịnh nghĩa chính xác nhất của \"thực vật\" chỉ gồm có \"thực vật trên cạn\" hay thực vật có phôi, tức tính cả thực vật có hạt (gồm cả ngành hạt trần và thực vật có hoa) và thực vật không hoa gồm các ngành dương xỉ, thạch tùng, rêu tản, rêu sừng và rêu. Toàn bộ giới Thực vật, trong đó có thực vật có phôi hiện nay có tổ tiên là tảo lục đa bào nguyên thủy. Vòng đời của chúng là sự xen kẽ thế hệ giữa các thể lưỡng bội và đơn bội. Thể lưỡng bội hữu tính của thực vật có phôi (còn gọi là thể giao tử) nuôi dưỡng bào tử phôi đơn bội đang phát triển trong các mô của nó trong ít nhất một phần vòng đời, thậm chí ở cả thực vật có hạt (giao tử được nuôi bởi bào tử cha mẹ của nó). Các nhà thực vật học còn nghiên cứu những nhóm sinh vật khác gồm có vi khuẩn (hiện nằm trong ngành vi khuẩn học), nấm (nấm học) – bao gồm nấm tạo hình địa y, tảo không chứa diệp lục (tảo học) và virus (virus học). Tuy nhiên, các nhà khoa học thực vật vẫn dành sự chú ý cho những nhóm này; nấm (tính cả địa y) và sinh vật đơn bào quang hợp thường được nhắc đến trong các khóa học nhập môn thực vật học.\nNhững chuyên gia cổ thực vật học đã nghiên cứu thực vật cổ trong mẫu hóa thạch để mang lại thông tin về lịch sử tiến hóa của thực vật. Vi khuẩn lam (sinh vật quang hợp thải ra oxy đầu tiên trên Trái Đất) được xem là đã sinh ra tổ tiên của thực vật bằng cách tham gia quan hệ nội cộng sinh với một sinh vật nhân thực sơ khai, sau cùng trở thành lục lạp trong tế bào thực vật. Thực vật quang hợp mới (bên cạnh họ hàng tảo của chúng) làm tăng tốc quá trình phát tán oxy trong khí quyển mà vi khuẩn lam từng bắt đầu, thay đổi bầu khí quyển cổ đại chưa có oxy, oxy hóa khử rồi tạo nên bầu khí quyển dồi dào oxy tự do trong hơn 2 tỷ năm.\nNhững câu hỏi quan trọng của thực vật học ở thế kỉ 21 là vai trò sản xuất chính của thực vật trong chu trình chuyển hóa các thành phần cơ bản của sự sống địa cầu: năng lượng, carbon, oxy, nitơ và nước, bên cạnh đó là cách chúng ta quản lý thực vật có thể giúp giải quyết những vấn đề môi trường của toàn cầu như quản lý tài nguyên, bảo tồn, an ninh lương thực nhân loại, các loài sinh vật xâm lấn, cô lập carbon, biến đổi khí hậu và bền vững.\nDinh dưỡng cho con người.\nHầu như mọi loại thực phẩm thiết yếu đều bắt nguồn từ sản lượng sơ cấp của thực vật, hoặc gián tiếp nhờ động vật ăn chúng. Thực vật và các sinh vật quang hợp khác là cơ sở của hầu hết các chuỗi thức ăn vì chúng sử dụng nguồn năng lượng từ mặt trời và dinh dưỡng từ đất và không khí, biến chúng thành dạng mà động vật có thể tiêu thụ. Đây là thứ mà các nhà sinh thái học gọi là bậc dinh dưỡng đầu tiên. Các dạng thực phẩm thiết yếu chính thời hiện đại, chẳng hạn như hạt tef, ngô, gạo, lúa mì và những loại ngũ cốc khác, cũng như gai dầu, lanh và sợi bông được trồng để lấy sợi là kết quả chọn lọc nhân tạo qua hàng nghìn năm từ những cây trồng tổ tiên hoang dã kèm theo những đặc tính con người mong muốn nhất.\nNhững nhà thực vật là người nghiên cứu cách mà thực vật cho ra thực phẩm và cách tăng sản lượng, ví dụ thông qua nhân giống cây trồng, họ giữ vai trò quan trọng trong khả năng cung cấp thức ăn cho thế giới và đảm bảo an ninh lương thực cho thế hệ tương lai. Các nhà thực vật còn nghiên cứu cỏ dại (một vấn đề nổi cộm trong nông nghiệp), bệnh học thực vật trong nông nghiệp và hệ sinh thái tự nhiên. Thực vật dân tộc học là ngành nghiên cứu mối quan hệ giữa thực vật và con người. Khi được dùng để nghiên cứu về quan hệ lịch sử của người–thực vật, thực vật dân tộc học có thể xem là khảo cổ thực vật học. Một trong những mối quan hệ của người-thực vật ra đời sớm nhất phát sinh ở cộng đồng thổ dân Canada nhằm xác định thực vật ăn được và không ăn được. Các nhà thực vật dân tộc học cũng ghi chép lại mối quan hệ này của thổ dân với thực vật.\nHóa sinh thực vật.\nHóa sinh thực vật là ngành nghiên cứu các quá trình hóa học do thực vật sử dụng. Một vài trong số những quá trình này được dùng trong chuyển hóa sơ cấp như chu trình Calvin ở các nhóm thực vật C3, C4 và CAM. Những quá trình khác tạo ra những chất liệu chuyên dụng như cellulose và lignin dùng để cấu trúc cơ thể chúng và các sản phẩm thứ cấp như nhựa cây và chất thơm.\n box-shadow: 1px 1px 3px rgba(0,0,0,0.2);\">\nThực vật tạo nên nhiều sắc tố quang hợp, một vài sắc tố có thể thấy thông qua phương pháp sắc ký giấy\nXanthophyll\nDiệp lục \"a\"\nDiệp lục \"b\"\nThực vật và nhiều nhóm sinh vật nhân thực quang hợp khác có các bào quan độc nhất gọi là lục lạp. Lục lạp được xem là có nguồn gốc từ vi khuẩn lam, thứ tạo nên mối quan hệ nội cộng sinh với tổ tiên của thực vật và tảo cổ. Lục lạp và vi khuẩn lam chứa sắc tố diệp lục \"a\" màu xanh dương. Diệp lục \"a\" (cũng như sắc tố họ hàng diệp lục \"b\" trong thực vật và tảo màu xanh lá) hấp thụ ánh sáng ở các dải màu xanh dương-tím và cam/đỏ của quang phổ, đồng thời phản xạ và truyền đi ánh sáng xanh lá mà chúng ta thấy là màu đặc trưng của các sinh vật này. Năng lượng trong ánh sáng đỏ và xanh dương mà những sắc tố này hấp thụ (do lục lạp sử dụng) nhằm tạo nên các chất carbon giàu năng lượng từ carbon dioxide và nước bằng quang hợp tạo oxy, quá trình sản sinh oxy phân tử (O2) làm sản phẩm phụ.\nỞ pha sáng, năng lượng ánh sáng mà các sắc tố hấp thụ, đặc biệt là diệp lục \"a\" được truyền đi ở dạng các electron (và sau đó là gradient proton), qua hàng loạt các chất nhận điện tử đến cuối cùng dùng để tạo nên các phân tử ATP và NADPH – chúng tạm thời lưu trữ và vận chuyển năng lượng. Năng lượng của chúng được sử dụng trong pha tối của quang hợp, chủ yếu là trong chu trình Calvin bởi enzyme RuBisCo nhằm tạo ra các phân tử đường 3-carbon glyceraldehyde 3-phosphat (G3P). Glyceraldehyde 3-phosphat là sản phẩm đầu tiên của quang hợp và nguyên liệu thô để tổng hợp glucose và hầu hết những phân tử hữu cơ có nguồn gốc sinh học khác. Một vài glucose chuyển hóa thành tinh bột và được lưu trữ trong lục lạp. Tinh bột là nguồn dự trữ năng lượng đặc trưng của hầu hết thực vật trên cạn và tảo, trong khi inulin (một polyme của fructose) được dùng với mục đích tương tự trong họ Cúc (Asteraceae). Một số glucose bị chuyển thành saccharose (đường ăn thông thường) và vận chuyển đi các phần còn lại của cây.\nKhông giống động vật (thiếu lục lạp), thực vật và các họ hàng sinh vật nhân thực của chúng đã giao nhiều vai trò sinh học cho lục lạp, bao gồm tổng hợp tất cả acid béo, và đa số amino acid. Những acid béo mà lục lạp tạo ra được sử dụng cho nhiều mục đích, chẳng hạn như cung cấp nguyên liệu để xây dựng màng tế bào và tạo ra polyme cutin được tìm thấy trong lớp cutin thực vật giúp bảo vệ thực vật trên cạn khỏi mất nước. \nThực vật tổng hợp nên một số polymer độc đáo như các phân tử cellulose, pectin và xyloglucan mà từ đấy cấu thành nên vách tế bào thực vật.\nThực vật có mạch trên cạn tạo ra lignin, một loại polyme dùng để tăng cường vách tế bào thứ cấp của các quản bào và mạch gỗ, giữ chúng không bị đổ dưới áp lực của nước khi cây hút nước qua chúng. Lignin còn được sử dụng trong các loại tế bào khác như mô cứng, sợi gỗ, hỗ trợ cấu trúc cho cây và là thành phần chính của gỗ. Sporopollenin là một polyme kháng hóa mà giới khoa học tìm thấy trong vách tế bào ngoài của bào tử và phấn hoa, chịu trách nhiệm cho sự sinh tồn của bào tử thực vật trên cạn sơ khai và phấn hoa của thực vật có hạt trong mẫu hóa thạch. Nó được nhiều nhà nghiên cứu xem là dấu mốc khởi đầu của tiến hóa thực vật trên cạn trong kỷ Ordovic. Nồng độ carbon dioxide trong khí quyển ngày nay thấp hơn nhiều so với khi thực vật mọc lấn lên đất liền trong các kỷ Ordovic và Silur. Kể từ đấy, nhiều cây một lá mầm như ngô, dứa và một số cây hai lá mầm như họ Cúc đã tiến hóa thêm các con đường quang hợp độc lập như thực vật CAM và thực vật, nhằm tránh thất thoát sản phẩm quang hợp bởi hô hấp sáng trong con đường cố định carbon phổ biến hơn.\nThuốc và nguyên vật liệu.\nHóa thực vật là một phân ngành của hóa sinh thực vật chủ yếu liên quan đến các chất hóa học mà thực vật tạo ra trong quá trình trao đổi chất thứ cấp. Một số thành phần dạng này là chất độc như alkaloid coniin từ cây độc cần. Những chất khác chẳng hạn như tinh dầu bạc hà và tinh dầu chanh đều có ích với mùi thơm của chúng để chế thành hương liệu và gia vị (ví dụ capsaicin), và làm dược phẩm trong y học như trong nha phiến từ cây anh túc. Nhiều dược phẩm và thuốc tiêu khiển, như tetrahydrocannabinol (thành phần trong cần sa), caffein, morphin và nicotin đều bắt nguồn trực tiếp từ thực vật. Một số loại khác là dẫn xuất đơn giản từ các sản phẩm thực vật tự nhiên. Ví dụ, chất giảm đau aspirin là hợp chất ester acetyl của acid salicylic, lúc đầu tách ra từ vỏ cây liễu, và một lượng lớn thuốc giảm đau có thuốc phiện như heroin có được nhờ biến đổi hóa học của morphin lấy từ anh túc. Những chất kích thích phổ biến bắt nguồn từ thực vật, chẳng hạn như caffein từ cà phê, trà và sôcôla, và nicotin từ thuốc lá. Hầu hết đồ uống có cồn bắt nguồn từ quá trình lên men của các sản phẩm thực vật giàu carbohydrat như đại mạch (bia), gạo (rượu sake) và nho (rượu vang). Những người Mỹ bản địa đã sử dụng nhiều thực vật như một phương pháp chữa trị bệnh tật trong hàng nghìn năm. Những kiến thức về thực vật của người Mỹ bản địa đã được các nhà thực vật dân tộc học ghi chép lại và chúng được chuyển qua các công ty dược phẩm dùng để khám phá thuốc.\nThực vật có thể tổng hợp nên những sắc tố và thuốc nhuộm hữu ích như anthocyanin có tác dụng tạo màu đỏ của rượu vang đỏ, chất tạo màu vàng và chất nhuộm tùng lam cùng được dùng để chế màu xanh lá Lincoln, indoxyl – nguồn thuốc nhuộm chàm mà theo truyền thống để nhuộm vải denim, những sắc tố gamboge và cây thiên thảo cho màu vẽ của nghệ sĩ. Đường, tinh bột, sợi bông, vải lanh, gai dầu công nghiệp, một vài loại dây thừng, gỗ và ván dăm, giấy cói và giấy thường, dầu thực vật, sáp và cao su tự nhiên là những ví dụ về những chất liệu thương mại quan trọng được làm từ mô thực vật hoặc các sản phẩm thứ cấp của chúng. Than củi (một dạng carbon nguyên chất làm từ gỗ chưng khô) có một lịch sử lâu đời như một nhiên liệu nấu chảy kim loại, là chất liệu lọc và hấp phụ, chất liệu vẽ của nghệ sĩ và một trong ba thành phần của thuốc súng. Cellulose (hợp chất polymer hữu cơ dồi dào nhất thế giới) có thể được chuyển đổi thành năng lượng, nhiên liệu, vật liệu và nguyên liệu hóa học. Những sản phẩm chế từ cellulose gồm có tơ nhân tạo và giấy bóng kính, giấy dán tường, xăng butanol và đạn súng. Mía, cải dầu và đậu tương là một số loại thực vật có hàm lượng đường hoặc dầu dễ lên men, dùng làm các nguồn nhiên liệu sinh học, nguồn thay thế quan trọng cho nhiên liệu hóa thạch như diesel sinh học. Người Mỹ bản địa đã sử dụng cây cỏ ngọt để xua đuổi côn trùng như muỗi. Hội hóa học Mỹ về sau đã phát hiện những đặc tính xua đuổi bọ của cỏ ngọt trong các phân tử phytol và coumarin.\nSinh thái học thực vật.\nSinh thái học thực vật là bộ môn khoa học về các mối quan hệ chức năng giữa thực vật và sinh cảnh của chúng – môi trường nơi chúng hoàn thành vòng đời của mình. Những nhà sinh thái học thực vật nghiên cứu thành phần hệ thực vật bản địa và khu vực, tính đa dạng sinh học, đa dạng di truyền và xác suất, sự thích nghi với môi trường sống của thực vật, tính cạnh tranh hoặc tương tác hỗ sinh với các loài khác. Thậm chí một vài nhà sinh thái học còn dựa vào dữ liệu thực nghiệm từ người bản địa mà các nhà thực vật dân tộc học thu thập được. Thông tin này có thể chuyển giao một lượng lớn thông tin về cách vùng đất tồn tại từ hàng nghìn năm trước và nó đã thay đổi ra sao trong suốt thời gian đó. Mục tiêu của sinh thái học thực vật là nắm được nguyên nhân của các mẫu phân bố, năng suất, tác động tới môi trường, tiến hóa và phản ứng của thực vật trước biến đổi môi trường.\nThực vật phụ thuộc vào các yếu tố khí hậu và thổ nhưỡng (đất) nhất định ở môi trường của chúng, song cũng có thể điều chỉnh những yếu tố này. Ví dụ, chúng có thể thay đổi suất phản chiếu của môi trường, làm tăng khả năng chặn dòng chảy mặt, làm ổn định đất khoáng, phát triển hàm lượng hữu cơ của đất và tác động tới nhiệt độ môi trường xung quanh. Thực vật cạnh tranh với các sinh vật khác để giành lấy tài nguyên trong hệ sinh thái của chúng. Chúng tương tác với đồng loại theo nhiều quy mô không gian trong các nhóm cá thể, quần thể và quần xã, cùng tạo nên thảm thực vật chung. Những vùng mang thảm thực vật đặc trưng và các cây chiếm ưu thế cũng như những thành phần vô sinh và hữu sinh, khí hậu và địa lý tạo nên các khu sinh học như đài nguyên hoặc rừng mưa nhiệt đới.\nĐộng vật ăn cỏ thì ăn thực vật, song thực vật có thể tự phòng vệ, một số loài là ký sinh hay thậm chí ăn thịt. Những sinh vật khác tạo nên mối quan hệ cộng sinh có lợi với thực vật. Ví dụ, nấm rễ và rhizobia cung cấp chất dinh dưỡng cho thực vật để đổi lấy thức ăn, kiến bị cây kiến (Myrmecophyte) thu hút để giúp bảo vệ cây, ong mật, dơi và các động vật khác thụ phấn cho hoa con người và những động vật khác là vật trung gian phát tán các bào tử và hạt.\nThực vật, biến đổi khí hậu và môi trường.\nNhững phản ứng của thực vật với những biến đổi khí hậu và môi trường khác có thể giúp ta hiểu về cách những biến đổi này tác động lên chức năng và năng suất của hệ sinh thái. Ví dụ, hiện tượng học thực vật có thể là một biến đo nhiệt độ hữu ích trong lịch sử khí tượng, tác động sinh học của biến đổi khí hậu và ấm lên toàn cầu. Phấn hoa học, phép phân tích mỏ phấn hoa hóa thạch trong các trầm tích từ hàng nghìn hoặc hàng triệu năm trước cho phép tái tạo khí hậu của quá khứ. Những ước tính về nồng độ trong khí quyển kể từ Đại Cổ sinh có được từ mật độ khí khổng, hình dạng lá và kích thước của thực vật trên cạn cổ. Suy giảm ozon có thể làm thực vật tiếp xúc với tia bức xạ cực tím-B (UV-B), làm cho \ntốc độ phát triển thấp hơn. Ngoài ra, thông tin từ các nghiên cứu về quần xã sinh học, hệ thống hóa và phân loại thực vật là rất cần thiết để nắm rõ thay đổi của thảm thực vật, hủy hoại môi trường sống và những loài bị tuyệt chủng.\nDi truyền học.\nSự di truyền ở thực vật tuân theo những nguyên tắc cơ bản của di truyền giống như ở các sinh vật đa bào khác. Gregor Mendel khám phá ra các luật di truyền bằng việc nghiên cứu đặc điểm di truyền của kiểu hình cây \"Pisum sativum\" (đậu Hà Lan). Những gì Mendel rút ra từ nghiên cứu thực vật đã mang lại những lợi ích ảnh hưởng sâu rộng bên ngoài thực vật học. Tương tự, \"gen nhảy\" được Barbara McClintock phát hiện trong lúc bà nghiên cứu ngô. Tuy nhiên, có một vài nét khác biệt về mặt di truyền để phân biệt giữa thực vật và những sinh vật khác.\nRanh giới loài ở thực vật có thể kém hơn ở động vật, và phép lai khác loài thường dễ xảy ra. Một ví dụ điển hình là bạc hà Âu, \"Mentha\" × \"piperita\", một phép lai bất thụ giữa bạc hà nước và bạc hà \"Mentha spicata\". Nhiều giống lúa mì trồng trọt là kết quả của nhiều phép lai giữa và trong loài, giữa loài hoang dã và các giống lai của chúng. Thực vật có hoa lưỡng tính thường có cơ chế tự tương khắc hoạt động giữa phấn hoa và đầu nhụy để cho hạt phấn không rơi vào đầu nhụy hoặc không thể nảy mầm và tạo giao tử đực. Đây là một trong nhiều cách mà thực vật sử dụng để thúc đẩy giao phấn. Ở nhiều thực vật trên cạn, giao tử đực và cái được tạo ra bởi những cá thể riêng biệt. Những loài này được xem là phân tính khi nhắc tới thể bào tử của thực vật có mạch, và lưỡng tính khi nhắc đến thể giao tử rêu.\nKhông giống động vật bậc cao (hiếm trinh sản), sinh sản vô tính có thể xảy ra ở thực vật theo nhiều cơ chế khác nhau. Sự hình thành thân củ ở khoai tây là một ví dụ. Đặc biệt ở những môi trường sống Bắc Cực hoặc núi cao (hiếm cơ hội để động vật thụ tinh cho hoa), cây non hoặc thân hành có thể phát triển thay cho hoa, thay thế sinh sản hữu tính bằng sinh sản vô tính và làm phát sinh những quần thể vô tính giống với bố mẹ về mặt di truyền. Đây là một trong nhiều loại sinh sản vô phối xảy ra ở thực vật. Sinh sản vô phối cũng có thể xảy ra trong hạt, tạo ra một hạt chứa phôi giống bố mẹ về mặt di truyền.\nHầu hết sinh vật sinh sản hữu tính là lưỡng bội với những chiếc nhiễm sắc thể tồn tại thành cặp tương đồng. Bộ nhiễm sắc thể có thể sai sót trong quá trình phân bào. Tình trạng này có thể xảy ra sớm trong quá trình phát triển phôi tạo ra cơ thể tự đa bội hoàn toàn hoặc một phần, hoặc trong các quá trình biệt hóa tế bào thông thường nhằm tạo ra một số loại tế bào đa bội (thể nội đa bội), hoặc trong lúc hình thành giao tử. Một thực vật thể dị đa bội có thể ra đời từ một phép lai giữa hai loài khác nhau và sau đó được đa bội hóa. Cả thực vật tự đa bội và dị đa bội đều có thể sinh sản bình thường, song không thể phối chéo thành công với quần thể bố mẹ vì có sự không tương thích trong bộ nhiễm sắc thể. Những thực vật này bị cách li sinh sản khỏi loài bố mẹ dù sống trong cùng khu vực địa lý, có thể đủ thành công để hình thành một loài mới. Một số thể đa bội bất thụ khác ở thực vật có thể vẫn sinh sản sinh dưỡng hoặc hình thành những quần thể vô tính gồm các cá thể giống hệt nhau nhờ hình thức sinh sản vô phối ở hạt. Lúa mì cứng là một thể dị tứ bội bất thụ, trong khi lúa mì thông thường là một thể dị lục bội. Chuối thương mại là một ví dụ về thể tam bội bất thụ không hạt. Cây bồ công anh thông thường là thể tam bội tạo các hạt vô tính. Giống như ở các sinh vật nhân thực khác, di truyền ở các bào quan ty thể và lục lạp ở thực vật không theo quy luật di truyền Mendel. Lục lạp được di truyền thông qua cây đực ở thực vật hạt trần song thường qua cây mẹ ở thực vật có hoa.\nDi truyền phân tử.\nMột lượng kiến thức mới đáng kể về chức năng của thực vật đến từ những nghiên cứu về di truyền phân tử của thực vật mô hình như cây cải xoong \"Arabidopsis thaliana\", một loài cỏ dại nằm trong họ Cải (Brassicaceae). Bộ gen hoặc thông tin di truyền chứa trong các gen của loài này được mã hóa bởi khoảng 135 triệu cặp base DNA, tạo nên một trong những bộ gen nhỏ nhất của nhóm thực vật có hoa. \"Arabidopsis\" là thực vật đầu tiên được giải trình bộ gen vào năm 2000. Trình tự của một vài bộ gen tương đối nhỏ khác là của lúa (\"Oryza sativa\") và \"Brachypodium distachyon\" đã biến chúng thành những loài mô hình quan trọng để nghiên cứu di truyền, sinh học tế bào và phân tử của ngũ cốc, họ Lúa và thực vật một lá mầm nói chung.\nThực vật mô hình như \"Arabidopsis thaliana\" được dùng để nghiên cứu sinh học phân tử của tế bào thực vật và lục lạp. Lý tưởng hơn cả, những sinh vật này mang bộ gen nhỏ mà giới khoa học biết rõ hoặc giải trình tự hoàn toàn, phát triển nhanh và thời gian thế hệ ngắn. Ngô đã được dùng để nghiên cứu các cơ chế của quang hợp và vận chuyển đường qua mạch rây ở thực vật. Sinh vật đơn bào tảo lục \"Chlamydomonas reinhardtii\" (dù bản thân nó không phải thực vật có phôi) chứa diệp lục b trong lục lạp, sắc tố này liên quan đến diệp lục a ở thực vật trên cạn, trở thành một đề tài nghiên cứu hữu ích. Loài tảo đỏ \"Cyanidioschyzon merolae\" còn được dùng để nghiên cứu một vài chức năng cơ bản của lục lạp. Rau chân vịt, đậu Hà Lan, đậu tương và rêu \"Physcomitrella patens\" thường được dùng để nghiên cứu sinh học tế bào thực vật.\n\"Agrobacterium tumefaciens\" (một vi khuẩn sống ở nốt sần rễ cây họ Đậu (Fabaceae) trong đất) có thể gắn vào tế bào thực vật và lây nhiễm cho chúng bằng plasmid Ti mô sẹo (callus) nhờ chuyển gen ngang, gây dạng nhiễm thể sần (còn gọi là bệnh nốt sần). Schell và Van Montagu (1977) đưa ra giả thuyết rằng plasmid Ti có thể là một vector tự nhiên để đưa tới gen nif, thứ chịu trách nhiệm cho khả năng cố định đạm ở nốt sần rễ của cây họ Đậu và những loài thực vật khác. Ngày nay, biến đổi gen ở Ti plasmid là một trong những kĩ thuật chính để đưa gen chuyển vào thực vật và tạo ra cây trồng biến đổi gen.\nDi truyền học biểu sinh.\nDi truyền học biểu sinh là chuyên ngành nghiên cứu những thay đổi về mặt di truyền trong biểu hiện gen mà không thể giải thích bằng những thay đổi trong trình tự DNA cơ bản nhưng làm các gen của sinh vật hoạt động (hoặc \"tự biểu hiện\") khác nhau. Một ví dụ về sự thay đổi biểu sinh là đánh dấu gen bằng methyl hóa DNA, xác định xem liệu chúng sẽ được biểu hiện hay không. Biểu hiển gen còn có thể được kiểm soát bằng những protein ức chế gắn vào trình tự tắt của DNA và ngăn vùng ấy biểu hiện gen. Những chỉ thị của biểu sinh có thể bị xóa đi hoặc thêm vào DNA trong các giai đoạn của vòng đời phát triển thực vật, và chịu trách nhiệm cho những khác biệt giữa bao phấn, cánh hoa và lá thông thường, mặc cho thực tế rằng chúng đều mang mã di truyền cơ bản. Những thay đổi biểu sinh có thể là tạm thời hoặc có thể duy trì qua những lần phân bào liên tiếp trong phần đời còn lại của tế bào. Một vài thay đổi biểu sinh có thể xem là hệ số di truyền.\nNhững thay đổi biểu sinh trong sinh vật nhân thực có vai trò điều chỉnh quá trình biệt hóa tế bào. Trong quá trình phát sinh hình thái, các tế bào gốc toàn năng trở thành nhiều tế bào bất tử phôi, từ đó trở thành các tế bào đã biệt hóa hoàn toàn. Một noãn được thụ tinh duy nhất là hợp tử cho ra đời nhiều loại tế bào thực vật khác nhau, gồm có mô mềm, mạch ống của mạch gỗ, ống rây của mạch rây, tế bào bảo vệ của biểu bì... rồi tiếp tục nguyên phân. Quá trình bắt nguồn từ hoạt hóa biểu sinh của một số gen và ức chế các gen khác.\nKhông như động vật, nhiều tế bào thực vật, đặc biệt là tế bào của mô mềm không biệt hóa đến cuối mà vẫn toàn năng với khả năng phát sinh một cây cá thể mới. Những trường hợp ngoại lệ gồm có tế bào hóa gỗ cao, mô cứng và xylem chết lúc trưởng thành, và tế bào kèm mạch rây thiếu nhân. Trong khi thực vật sử dụng nhiều cơ chế biểu sinh tương tự động vật (chẳng hạn như tái mô hình hóa chất nhiễm sắc), một giả thuyết khác là những thực vật ấy thiết lập kiểu biểu hiệu gen nhờ sử dụng thông tin vị trí từ môi trường và các tế bào xung quanh để xác định số phận phát triển của chúng.\nNhững thay đổi biểu sinh có thể dẫn tới cận đột biến (không tuân theo quy luật di truyền Mendel). Những dấu hiệu biểu sinh này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp, một alen lại gây ra sự thay đổi lên alen khác.\nTiến hóa thực vật.\nLục lạp của thực vật có một số điểm tương đồng về hóa sinh, cấu trúc và di truyền so với vi khuẩn lam (có tên thông dụng nhưng không chuẩn là \"tảo lam\") và được cho là bắt nguồn từ mối quan hệ nội cộng sinh giữa một tế bào nhân thực cổ đại và một một dòng vi khuẩn lam.\nTảo là một nhóm sinh vật đa ngành và được xếp vào giới Khởi sinh trong hệ thống Whitaker - Margulis, một số loài có quan hệ mật thiết với thực vật hơn những loài khác. Có nhiều đặc điểm khác biệt giữa chúng như thành phần vách tế bào, hóa sinh, sắc tố, cấu trúc lục lạp và dự trữ chất dinh dưỡng. Ngành Luân tảo (có quan hệ chị em với ngành tảo lục Chlorophyta) được xem là ngành có tổ tiên của thực vật thật sự. Lớp Charophyceae của ngành Luân tảo và phân giới thực vật có phôi của thực vật trên cạn cùng hình thành nên nhóm đơn ngành hay nhóm thực vật Streptophytina.\nThực vật không mạch trên cạn là những thực vật có phôi thiếu mô mạch xylem và phloem. Chúng gồm có rêu, rêu tản và rêu sừng. Thực vật có mạch Pteridophyte mang xylem và phloem sinh sản bằng bào tử, nảy mầm thành giao tử sống độc lập, tiến hóa trong kỷ Silur và phân thành nhiều nhánh ở cuối kỷ Silur và đầu kỷ Devon. Những đại diện của cây thạch tùng vẫn tồn tại cho tới ngày nay. Cho đến cuối kỷ Devon, nhiều nhóm thực vật (tính cả thạch tùng, lá nêm và tiền hạt trần) đã tiến hóa độc lập thành \"đại bào tử\" – bào tử của chúng có hai kích thước riêng biệt, đại bào tử lớn hơn và vi bào tử bé hơn. Vi bào tử thường tiêu giảm, đại bào tử nguyên phân tạo giao tử và được giữ lại trong nang bào tử (megasporangia), còn có tên là nội bào tử. Hạt giống gồm có một nang nội bào tử được bao quanh bởi một hoặc hai lớp bọc ngoài (vỏ bọc). Bào tử non phát triển bên trong hạt giống, rồi khi hạt nảy mầm sẽ tách ra sẽ giải phóng bào tử. Những hạt giống thực vật ra đời sớm nhất có niên đại từ tầng Famenne của kỷ Devon gần nhất. Sau khi quá trình tiến hóa của hạt, thực vật có hạt phân thành nhiều dạng, phát sinh một số nhóm nay đã tuyệt chủng (gồm có dương xỉ hạt) cũng như thực vật hạt trần và thực vật có hoa hiện đại. Thực vật hạt trần sinh ra \"hạt trần\" không hoàn toàn bọc trong bầu; những đại diện hiện đại gồm có các ngành Thông, lớp Tuế, \"Bạch quả\" và lớp Dây gắm. Thực vật hạt kín sinh hạt bọc trong một bộ phận của nhụy (bầu nhụy). Hiện giới khoa học đang tiến hành nghiên cứu về việc phát sinh phân tử của thực vật sống, dường như là dấu hiệu cho thấy thực vật hạt kín là một nhóm chị em với thực vật hạt trần.\nSinh lý học thực vật.\nSinh lý học thực vật bao hàm toàn bộ hoạt động nội hóa học và vật lý của thực vật gắn liền với sự sống. Những hóa chất tổng hợp được nguyên liệu không khí, đất và nước hình thành nên trao đổi chất ở thực vật. Năng lượng của ánh mặt trời được thu nhận bởi quá trình quang hợp oxy và được giải phóng bởi hô hấp tế bào là nền tảng của hầu hết mọi sự sống. Sinh vật quang tự dưỡng, gồm có mọi thực vật có sắc tố xanh, tảo và vi khuẩn lam thu nhận năng lượng trực tiếp từ ánh mặt trời bằng quang hợp. Sinh vật dị dưỡng gồm có mọi động vật, mọi loài nấm, mọi thực vật ký sinh hoàn toàn và vi khuẩn không quang hợp thu nhận các phân tử hữu cơ do sinh vật quang tự dưỡng tạo ra rồi hô hấp hoặc sử dụng chúng trong việc xây dựng các tế bào và mô. Hô hấp là quá trình oxy hóa các hợp chất carbon bằng cách phân giải chúng thành những phân tử đơn giản hơn để giải phóng năng lượng mà chúng tích lũy, cơ bản là ngược lại với quang hợp.\nCác phân tử di chuyển trong thực vật theo quá trình vận chuyển chủ động và bị động ở nhiều quy mô không gian khác nhau. Các ion, electron và phân tử được vận chuyển dưới tế bào như nước và enzym diễn ra trên toàn bộ màng tế bào. Chất khoáng và nước được vận chuyển từ rễ lên các bộ phận khác của thực vật trong dòng thoát hơi nước. Khuếch tán, thẩm thấu, vận chuyển chủ động và dòng chảy khối lượng là toàn bộ những cách để vận chuyển. Ví dụ về dinh dưỡng khoáng thực vật cần là nitơ, phosphor, kali, calci, magnesi và lưu huỳnh. Ở thực vật có mạch, những yếu tố này được rễ hấp thu từ đất dưới dạng các ion hòa tan và vận chuyển khắp cơ thể thực vật trong mạch gỗ và mạch rây. Hầu hết những yếu tố ấy cần thiết cho dinh dưỡng thực vật xuất phát từ phân hủy hóa học của khoáng chất trong đất.\nHormone thực vật.\nThực vật không thụ động, song phản ứng chậm với các tín hiệu bên ngoài như ánh sáng, tiếp xúc và thương tổn bằng cách di chuyển hoặc phát triển hướng về phía hoặc tránh tác nhân kích thích tùy theo trường hợp. Bằng chứng hiển nhiên về tính nhạy cảm khi tiếp xúc là sự đổ gục gần như tức thời của lá chét cây trinh nữ, bẫy côn trùng của cây bẫy kẹp, chi Nhĩ cán và các hạt phấn của hoa lan.\nGiả thuyết cho rằng sự phát triển và sinh trưởng của thực vât được điều phối bởi hormone thực vật hoặc các chất điều hòa sinh trưởng thực vật lần đầu nổi lên vào cuối thế kỷ 19. Darwin đã thí nghiệm về chuyển động của chồi và rễ cây hướng về ánh sáng và trọng lực, ông kết luận: \"Hầu như không hề phóng đại khi cho rằng đầu của rễ mầm hoạt động như bộ não của một trong những loài động vật bậc thấp điều khiển nhiều chuyển động\". Cùng lúc ấy, vai trò của auxin (từ tiếng Hy Lạp , tức là mọc lên) trong việc kiểm soát sinh trưởng của thực vật lần đầu do nhà khoa học người Hà Lan Frits Went chỉ ra một cách khái quát. Auxin đầu tiên được biết tới là acid indole-3-acetic (IAA), có tác dụng kích thích tăng trưởng tế bào, được cô lập từ thực vật khoảng 50 năm về sau. Hợp chất này có vai trò là trung gian cho những phản ứng của rễ và chồi, định hướng các cơ quan này hướng về phía ánh sáng hoặc trọng lực. Giới khoa học phát hiện vào năm 1939 rằng mô sẹo của thực vật có thể phát triển trong môi trường nuôi cấy chứa IAA, kế đến là quan sát vào năm 1947 cho thấy nó có thể bị kích thích tạo nên rễ và chồi bằng cách kiểm soát tương quan giữa các nồng độ hormone tăng trưởng, đó là những bước tiến quan trọng trong sự phát triển của công nghệ sinh học và biến đổi gen ở thực vật.\nCytokinin là một loại hormone của thực vật có khả năng kiểm soát phân bào (đặc biệt là phân chia tế bào chất). Cytokinin tự nhiên zeatin được phát hiện trong ngô và là một dẫn xuất của purin adenin. Zeatin được tạo ra trong rễ rồi vận chuyển lên chồi qua mạch gỗ, nơi nó kích thích phân bào, phát triển chồi và nhuộm xanh cho lục lạp. Những gibberellin, chẳng hạn như acid gibberellic là những diterpen được tổng hợp từ acetyl CoA qua con đường mevalonat. Chúng có liên quan tới việc kích thích nảy mầm và phá vỡ sự ngủ ở hạt, điều chỉnh chiều cao của cây bằng cách kiểm soát kéo dài chuỗi polypeptit của thân và kiểm soát sự ra hoa. Acid abscisic (ABA) có mặt ở mọi thực vật trên cạn ngoại trừ ngành rêu tản và tổng hợp từ carotenoid trong lục lạp và các lạp thể khác. Nó ức chế phân bào, kích thích hạt trưởng thành, tình trạng ngủ và kích thích đóng khí khổng. Nó có tên như vậy vì là vì ban đầu ABA được cho là kiểm soát sự rụng (abscission). Ethylen là một hormone thể khí được tạo ra ở tất các mô thực vật bậc cao từ methionin. Ngày nay nó được biết tới là hormone nội sinh kích thích hoặc điều chỉnh quá trình chín và rụng của trái cây.\nMột loại hormone thực vật nữa là jasmonat, lần đầu được cô lập ra từ dầu của cây \"Jasminum grandiflorum\" có tác dụng điều chỉnh phản ứng với vết thương ở thực bằng cách kích hoạt biểu hiện gen cần có trong phản ứng tính kháng tập nhiễm có hệ thống trước sự tấn công của mầm bệnh. Ngoài vai trò là nguồn năng lượng chính của thực vật, ánh sáng còn có chức năng truyền tín hiệu, cung cấp thông tin cho cây, ví dụ như cây nhận được bao nhiêu ánh sáng mặt trời mỗi ngày. Từ đó có thể dẫn tới những thay đổi thích nghi trong một quá trình tên là phát sinh quang hình thái. Sắc tố thực vật là cơ quan cảm quang ở thực vật nhạy cảm với ánh sáng.\nHình thái và giải phẫu học thực vật.\nGiải phẫu học thực vật là chuyên ngành nghiên cứu cấu trúc của tế bào và mô ở thực vật, trong khi hình thái học thực vật là chuyên ngành nghiên cứu hình dạng bên ngoài của chúng. Tất cả thực vật là sinh vật nhân thực đa bào, DNA của chúng được bảo vệ trong nhân. Những đặc điểm của tế bào thực vật phân biệt chúng với tế bào của động vật và nấm gồm có vách tế bào sơ cấp được cấu tạo từ các polysaccharide là cellulose, hemicellulose và pectin, không bào lớn hơn so với không bào ở tế bào động vật nguyên sinh và sự hiện diện của lạp thể với những chức năng quang hợp và sinh tổng hợp độc đáo (ví dụ lục lạp). Các lạp thể khác chứa sản phẩm lưu trữ như tinh bột (lạp bột) hoặc lipid (lạp dầu). Đặc biệt, tế bào của ngành streptophyta và tế bào thuộc phân ngành tảo lục Trentepohliales phân chia bằng cách thiết kế thể vách ngăn giống như một mẫu để xây dựng tấm phân bào muộn trong quá trình phân bào.\nNhững phân ngành của thực vật có mạch gồm có lớp Thạch tùng, ngành Dương xỉ và thực vật có hạt (thực vật hạt trần và thực vật có hoa) nói chung có các tiểu hệ thống dưới lòng đất và trên mặt đất. Hệ chồi bao gồm thân mang lá màu xanh lục quang hợp và cấu trúc sinh sản. Hệ rễ chứa mạch ngầm dưới lòng đất có lông rễ ở đầu của chúng và thường thiếu diệp lục tố. Thực vật không mạch, rêu tản, rêu sừng và rêu không có rễ thật sự và các ngành thực vật này đều tham gia quang hợp. Sự hình thành thể bào tử không trải qua quang hợp ở rêu tản nhưng có thể quang hợp ở rêu sừng và rêu.\nHệ rễ và hệ chồi phụ thuộc nhau – hệ rễ thường không quang hợp, phụ thuộc sự cung cấp chất hữu cơ của hệ chồi, còn hệ chồi thường quang hợp và phụ thuộc vào nước và chất khoáng từ hệ rễ. Các tế bào ở mỗi hệ có thể tạo ra các tế bào ở bên còn lại và tạo ra rễ hoặc chồi bất định. Thân bồ và củ là những ví dụ cho thấy chồi có thể mọc rễ. Rễ có thể mọc lan tới gần bề mặt đất (như rễ của cây liễu), có thể tạo ra chồi và sau cùng là cây mới. Trong trường hợp một bên hệ thống bị mất, bên còn lại có thể tái mọc bên còn thiếu. Thực tế cả một cây có thể mọc từ chỉ một lá, giống như trường hợp của cây tử linh lan, hay thậm chí chỉ một tế bào – có thể phân hóa thành mô sẹo (một khối lượng tế bào không chuyên biệt) có thể phát triển thành một cây hoàn chỉnh. Ở thực vật có mạch, mạch gỗ và mạch rây là những mô dẫn vận chuyển tài nguyên giữa rễ và chồi. Rễ thường thích nghi để lưu trữ thức ăn như đường hoặc tinh bột, như ở củ cải đường và cà rốt.\nThân chủ yếu cung cấp dinh dưỡng và nước cho lá và các cấu trúc sinh sản, song có thể lưu trữ nước ở các thực vật mọng nước như ở xương rồng, thức ăn như ở củ khoai tây, hay sinh sản sinh dưỡng như ở thân bồ của cây dâu tây hay trong chiết cành. Lá thu nhận ánh mặt trời và tiến hành quang hợp. Những chiếc lá lớn, dẹt, dễ uốn và màu xanh được gọi là tán lá. Thực vật hạt trần, như thông, tuế, bạch quả và dây gắm là những thực vật cho ra đời hạt không được bọc trong quả, nên gọi là hạt trần. Thực vật có hoa là những thực vật có hạt tạo hoa và hạt được bọc trong quả, nên gọi là hạt kín. Những cây gỗ, chẳng hạn như đỗ quyên khô và sồi thì trải qua một giai đoạn sinh trưởng thứ cấp dẫn tới tăng thêm hai mô: gỗ (mạch gỗ thứ cấp) và vỏ cây (mạch rây và bần). Tất cả thực vật hạt trần và nhiều thực vật hạt kín là cây gỗ. Một số cây sinh sản hữu tính, một số lại sinh sản vô tính, và một số khác lại sinh sản bằng cả hai hình thức trên. Mặc dù những quan hệ tới các loại hình thái chính như rễ, thân, lá và túm lông đều hữu ích, nhưng cần lưu ý rằng những loại này được liên kết thông qua dạng trung gian để giúp cả cơ thể hoạt động liên tục. Ngoài ra, vì cấu trúc thực vật vận hành bằng những quá trình, có thể xem cấu trúc là quá trình hay là các tổ hợp quá trình.\nPhân loại học thực vật.\nPhân loại học thực vật học là phân ngành của phân loại sinh học, liên quan đến phạm vi và tính đa dạng của sinh vật và mối quan hệ của chúng, cụ thể như được xác định bởi lịch sử tiến hóa của chúng. Chuyên ngành này có liên quan tới phân loại sinh học, phân loại khoa học và phát sinh chủng loại học. Phân loại sinh học là phương pháp mà các nhà khoa học thực vật dùng để chia nhóm thực vật vào các bậc phân loại như chi và loài. Phân loại sinh học là một hình thức phân loại khoa học. Phân loại hiện đại khởi nguồn từ công trình của Carl Linnaeus, người đã phân nhóm các loài dựa theo đặc tính vật lý chung. Kể từ đấy những nhóm này đã được điều chỉnh để phù hợp hơn với quy tắc tổ tiên chung của Darwin – tức chia nhóm sinh vật theo tổ tiên thay cho đặc điểm ngoại hình. Trong khi các nhà khoa học không phải lúc nào cũng nhất trí về cách phân loại sinh vật, phát sinh chủng loại phân tử (lấy trình tự DNA làm dữ liệu), đã thúc đẩy nhiều sửa đổi phân loại học gần đây dọc theo các dòng tiến hóa và dường như tiếp tục hoạt động như vậy. Hệ thống phân loại chính có tên là phân loại Linnaeus, gồm có các bậc phân loại và danh pháp hai phần. Danh pháp của các sinh vật là thực vật được ghi hệ thống hóa trong Luật danh pháp quốc tế của tảo, nấm và thực vật quốc tế (ICN) và do Hội nghị khoa học thực vật quốc tế quản lý.\nGiới thực vật thuộc vực sinh vật nhân thực và được chia nhỏ theo kiểu đệ quy trước khi mỗi loài được phân chia riêng biệt. Trật tự phân loại là: Ngành; Giới; Lớp; Bộ; Họ; Chi; Loài. Tên khoa học của một cây đại diện cho chi và các loài của chi ấy, dẫn tới chỉ có một tên khoa học cho mỗi loài sinh vật trên toàn thế giới. Ví dụ, cây hoa huệ hổ có tên khoa học là \"Lilium columbianum\". \"Lilium\" là tên chi, còn \"columbianum\" là tên loài. Sự kết hợp tên chi và tên loài tạo ra tên khoa học của loài. Khi viết tên khoa học của một sinh vật, phải viết hoa chữ cái đầu tiên trong tên chi và viết thường tên loài. Ngoài ra, toàn bộ thuật ngữ thường được in nghiêng (hoặc được gạch chân nếu không in nghiêng).\nLịch sử tiến hóa và di truyền của một nhóm sinh vật được gọi là phát sinh chủng loại học. Phát sinh chủng loại học là chuyên ngành nghiên cứu phát hiện ra các dạng phát sinh chủng loài. Cách tiếp cận cơ bản là sử dụng những điểm tương đồng dựa trên trên di truyền chung để xác định các mối quan hệ. Lấy ví dụ, loài \"Pereskia\" là cây hoặc bụi cây và có lá rõ ràng. Hiển nhiên là chúng không hề giống một cây họ Xương rồng trụi lá như \"Echinocactus\". Tuy nhiên, cả \"Pereskia\" và \"Echinocactus\" có gai mọc ra từ các quầng gai (những cấu trúc chuyên biệt) cho thấy rằng hai chi thực sự có quan hệ tới nhau.\nĐánh giá các mối quan hệ dựa trên các đặc tính chung đòi hỏi sự cẩn trọng, vì thực vật có thể giống nhau thông qua tiến hóa hội tụ, trong đó các đặc tính phát sinh độc lập. Một số cây đại kích ít lá, thân tròn thích nghi với môi trường nước tương tự như cây xương rồng hình quả cầu, song các đặc tính như cấu trúc của hoa là minh chứng rõ rằng hai nhóm này không có quan hệ gần với nhau. Phương pháp miêu tả theo nhánh học lấy một cách tiếp cận phân loại với các đặc tính, phân biệt giữa những đặc tính không mang thông tin về lịch sử tiến hóa chung – chẳng hạn như những loài được tiến hóa riêng biệt trong các nhóm khác nhau (homoplasy - tương đồng) hoặc những loài được truyền lại đặc điểm từ tổ tiên (plesiomorphies - phân nhánh) - và những loài có nguồn gốc, được truyền lại đặc điểm đổi mới trong một tổ tiên chung (apomorphies). Chỉ những đặc tính có nguồn gốc, chẳng hạn như các quầng mọc gai của cây xương rồng, mới mang bằng chứng về một tổ tiên chung. Kết quả của phân tích miêu tả theo nhánh học được trình bày dưới dạng biểu đồ phân nhánh: những biểu đồ hình cây thể hiện mô hình phân nhánh và gốc rễ tiến hóa.\nTừ thập niên 1990 trở đi, các tiếp cận chính để thiết kế phát sinh chủng loại học cho thực vật sống đã trở thành phát sinh chủng loại phân tử, tức sử dụng các đặc điểm phân tử, cụ thể là trình tự DNA, thay vì các đặc điểm hình thái như sự có mặt hoặc không có gai và quầng. Sự khác biệt là chính mã di truyền được dùng để quyết định những mối quan hệ tiến hóa, thay vì sử dụng gián tiếp thông qua các đặc điểm hình thái do di truyền tạo ra. Clive Stace miêu tả phương pháp này mang \"quyền tiếp cận trực tiếp với cơ sở di truyền của tiến hóa.\" Lấy một ví dụ đơn giản, trước khi sử dụng bằng chứng di truyền, nấm chưa được xem là thực vật hay có quan hệ gần với thực vật hơn động vật không. Bằng chứng tiến hóa cho thấy quan hệ tiến hóa chính xác của sinh vật đa bào như thể hiện trong biểu đồ dưới đây – nấm có quan hệ gần với động vật hơn thực vật.\nNăm 1998, Nhóm phát sinh loài thực vật hạt kín đã xuất bản công trình phát sinh chủng loài học với thực vật có hoa dựa trên phép phân tích trình từ DNA từ hầu hết họ của thực vật có hoa. Nhờ có công trình này, nhiều câu hỏi, ví dụ như họ nào đại diện cho phân nhánh sớm nhất của thực vật hạt kín giờ đây đã có đáp án. Việc tra cứu thực vật có liên hệ ra sao với các loài khác cho phép các nhà khoa học thực vật nắm rõ hơn về quá trình tiến hóa ở thực vật. Mặc cho nghiên cứu thực vật mô hình và tăng cường sử dụng bằng chứng DNA, các nhà phân loại học vẫn đang tiến hành nghiên cứu thảo luận về phương pháp phân loại thực vật thành các đơn vị chính xác nhất. Sự phát triển công nghệ như máy tính và kính hiển vi điện tử đã tăng cường đáng kể mức độ nghiên cứu chi tiết và tốc độ dữ liệu được phân tích.\nKý hiệu thực vật.\nMột số ít ký hiệu hiện đang được dùng trong ngành thực vật học, trong đó có bao gồm hoa thức và hoa đồ. Số khác đã lỗi thời; ví dụ, Linnaeus đã sử dụng các ký hiệu tròn để chỉ thực vật thân thảo, gỗ và thực vật lâu năm. Dưới đây là các ký hiệu hiện hành:", "Khoa học sự sống hay khoa học đời sống bao gồm các lĩnh vực khoa học liên quan đến việc nghiên cứu khoa học của các sinh vật sống - như là vi sinh vật, thực vật, động vật và con người - cũng như những lãnh vực liên quan như đạo đức sinh học. Trong khi sinh học vẫn là trung tâm của khoa học sự sống, những tiến bộ công nghệ trong sinh học phân tử và công nghệ sinh học đã dẫn đến sự đang phát triển của chuyên ngành và các lĩnh vực liên ngành (liên ngành hay đa ngành là bao quát phương pháp tiếp cận, cách suy nghĩ, hoặc ít nhất là phương pháp nghiên cứu của nhiều lĩnh vực chuyên môn riêng biệt).\nMột số nhánh khoa học sự sống tập trung vào một loại hình cụ thể của sự sống. Ví dụ, động vật học là nghiên cứu về động vật, trong khi thực vật học là nghiên cứu về thực vật. Một số khác tập trung vào các khía cạnh chung cho tất cả hoặc nhiều hình thức của sự sống, chẳng hạn như giải phẫu học và di truyền học. Tuy nhiên, các lĩnh vực khác quan tâm đến những tiến bộ công nghệ liên quan đến các sinh vật sống, chẳng hạn như kỹ thuật sinh học. Một nhánh quan trọng khác, có thể đặc biệt, liên quan đến việc hiểu biết về tâm trí - thần kinh học.\nKhoa học sự sống cần thiết trong việc cải thiện chất lượng và tiêu chuẩn của cuộc sống. Chúng có nhiều ứng dụng trong y tế sức khỏe, nông nghiệp, y học và các ngành công nghiệp dược phẩm và khoa học thực phẩm.\nCó sự chồng chéo giữa nhiều nhánh trong số các chủ đề nghiên cứu của khoa học sự sống." ]
phu - vt - khe - khoa - hc - nghin - sinh - sc - ngnh - xc
0.705306
false
Sinh học phân tử là một phân ngành sinh học nhằm nghiên cứu cơ sở phân tử của các hoạt động sinh học bên trong và giữa các tế bào, bao gồm quá trình tổng hợp, biến đổi, cơ chế, và tương tác phân tử. Nghiên cứu cấu trúc hóa học và vật lý của các đại phân tử được gọi là sinh học phân tử. Sinh học phân tử lần đầu tiên được mô tả là một phương pháp tiếp cận tập trung vào nền tảng của các hiện tượng sinh học, nhằm khám phá cấu trúc và các tương tác của những phân tử sinh học, và cách những tương tác này giải thích các hiện tượng của sinh học. Năm 1945, thuật ngữ "sinh học phân tử" được sử dụng bởi nhà vật lý William Astbury. Sự phát triển trong lĩnh vực sinh học phân tử xảy ra khá muộn do cơ thể sinh vật là một hệ thống phức tạp, và cách tiếp cận đơn giản và thuận tiện nhất là sử dụng các vi khuẩn và thể thực khuẩn chỉ có thể đưa ra thông tin về quá trình sinh học cơ bản. Vào năm 1953, hai nhà khoa học trẻ lúc bấy giờ tên Francis Crick và James Watson làm việc tại đơn vị Hội đồng Nghiên cứu Y khoa, phòng thí nghiệm Cavendish, Cambridge (nay là Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử MRC), đã tạo ra một mô hình mạch xoắn kép của ADN. Mô hình mới này đã thay đổi toàn bộ cấu trúc ADN mà họ đã đề xuất trước đó dựa trên các nghiên cứu được thực hiện bởi Rosalind Franklin và Maurice Wilkins. Sau mô hình cấu trúc DNA, các nghiên cứu của hai nhà khoa học tập trung chủ yếu vào mục tiêu tìm ra DNA bên trong các vi sinh vật, thực vật, và động vật khác. Sinh học phân tử không chỉ đơn giản là nghiên cứu các phân tử và sự tương tác của chúng. Nói chính xác hơn, sinh học phân tử là tập hợp các kỹ thuật được phát triển kể từ khi lĩnh vực này mới bắt đầu, cho phép các nhà khoa học tìm hiểu về các quá trình phân tử. Một kỹ thuật đáng chú ý đã cách mạng hóa lĩnh vực này là phản ứng chuỗi polymerase (tiếng Anh: Polymerase Chain Reaction hay PCR), được phát triển vào năm 1983. PCR là một phản ứng khuếch đại một lượng nhỏ ADN, và được sử dụng trong nhiều trong các ngành khoa học. Luận thuyết trung tâm của sinh học phân tử cho rằng dòng thông tin chạy theo một chiều từ DNA đến mRNA rồi đến protein. Quá trình phiên mã, dịch mã và sao chép DNA tuân theo quy luật này. Một ngoại lệ phát hiện thấy ở một số virus mang RNA, có quá trình gọi là phiên mã ngược, tạo ra một bản sao DNA từ RNA hệ gen của chúng. Sinh học phân tử đóng một vai trò quan trọng trong sự hiểu biết về cấu trúc, chức năng, và quá trình kiểm soát nội môi bên trong các tế bào. Tất cả những tri thức trên đều có thể được sử dụng để phát triển các loại thuốc và phuơng pháp chẩn đoán bệnh mới, và hiểu rõ hơn về các quá trình sinh lý của tế bào. Một số nghiên cứu lâm sàng và liệu pháp y tế phát triển từ sinh học phân tử được sử dụng trong liệu pháp gen. Trong khi đó, việc sử dụng sinh học phân tử hoặc sinh học tế bào phân tử trong y học hiện nay được gọi là y học phân tử. Lịch sử. Sinh học phân tử là sự giao thoa giữa ngành di truyền học và hóa sinh. Ở thế kỷ 20 khi di truyền học và hóa sinh vừa hình thành và bắt đầu phát triển, cả hai lĩnh vực rõ ràng đều nỗ lực tìm cách xác định các cơ chế phân tử giúp tạo nên nền tảng cho các chức năng quan trọng của tế bào. Những tiến bộ trong sinh học phân tử có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của các công nghệ mới và sự tối ưu hóa trong cả hai lĩnh vực di truyền học và hóa sinh. Sinh học phân tử đã được làm sáng tỏ bởi công trình nghiên cứu của nhiều nhà di truyền học và hóa sinh, và do đó lịch sử của phân ngành này phụ thuộc vào sự hiểu biết của các nhà khoa học này và những thí nghiệm của họ. Có thể nói, tất cả kiến thức hiện tại của sinh học phân tử đều bắt đầu từ hiện tượng biến nạp ở vi khuẩn. Năm 1928, Frederick Griffith, đã quan sát thấy hiện tượng biến đổi từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác mà ngày nay được gọi là biến nạp, và ở thời điểm đó, ông không thể tìm ra lý do để giải thích sự việc này. Do đó, người ta còn gọi ông là nhà vi sinh vật học. Mãi cho đến năm 1944, ba nhà khoa học Oswald Avery, Colin Macleod và Maclyn McCarty, đã chứng minh toàn bộ hiện tượng biến nạp ở vi khuẩn. Vào năm 1930, hai năm sau thí nghiệm của Griffith, sinh học phân tử được thành lập như một phân ngành khoa học chính thức. Tuy nhiên, thuật ngữ “sinh học phân tử” vẫn chưa tồn tại cho đến năm 1938 khi nhà khoa học Warren Weaver, người đang làm việc với tư cách là giám đốc lĩnh vực Khoa học Tự nhiên tại Quỹ Rockefeller, đặt tên phân ngành này là sinh học phân tử. Sau một loạt các thí nghiệm được trải dài sang nhiều năm, những nhà nghiên cứu sinh học phân tử mới kết luận được rằng ADN là vật chất di truyền cơ bản gây ra các biến đổi di truyền. Thành phần cơ bản của ADN chứa bốn base là - Adenin (A), Guanin (G), Thymine (T), và Cytosine (C). Dựa trên thành phần hóa học và thông tin từ tinh thể học tia X được thực hiện bởi Maurice Wilkins và Rosalind Franklin, cấu trúc ADN đã được đề xuất bởi James Watson và Francis Crick. Tuy nhiên, trước khi Watson và Crick đề xuất cấu trúc ADN, vào năm 1950, nhà khoa học người Áo Erwin Chargaff, đã đề xuất một lý thuyết hay quy luật mà ngày nay được gọi là quy luật Chargaff. Quy luật nêu rằng tỷ lệ của Adenin với Thymine, và Guanin với Cytosine là bằng nhau Nguyên văn: "Chargaff's rule stated that DNA "from any species of any organism should have a 1:1 stoichiometric ratio of" purine "and pyrimidines (i.e., A+G=T+C) and, more specifically, that the amount of" guanine "should be equal to" cytosine "and the amount of adenine should be equal to" thymine". This pattern is found in both strands of the DNA"."Tạm dịch: "Quy luật Chargaff nêu rằng ADN từ bất kỳ loài sinh vật nào đều phải có tỷ lệ phân cực là 1:1 giữa purin và pyrimidin (tức là A + G = T + C) và đặc biệt hơn, số lượng guanin phải bằng cytosine, và số lượng adenin phải bằng thymine. Mô típ này được tìm thấy ở cả hai mạch của ADN".Lĩnh vực di truyền học ra đời như một nỗ lực nhằm tìm hiểu các cơ chế phân tử của di truyền gen và cấu trúc của một gen. Gregor Mendel đã đi tiên phong trong công việc này vào năm 1866 khi ông lần đầu tiên viết các quy luật di truyền dựa trên các nghiên cứu của mình về phép lai giao phối ở cây đậu. Một trong những quy luật di truyền là quy luật phân li. Quy luật này phát biểu rằng các cá thể lưỡng bội có hai alen cho một gen cụ thể sẽ truyền một trong các alen này cho con cái của chúng. Do có vai trò quan trọng trong lĩnh vực di truyền học, các nghiên cứu về di truyền gen thường được gọi là di truyền Mendel. Một cột mốc quan trọng trong phân ngành sinh học phân tử là việc tìm ra cấu trúc của ADN. Công việc này bắt đầu vào năm 1869 bởi Friedrich Miescher, một nhà hóa sinh người Thụy Sĩ, người đầu tiên đề xuất một cấu trúc gọi là nuclein, mà ngày nay chúng ta biết là axit deoxyribonucleic, hay DNA. Ông đã phát hiện ra chất hóa học này bằng cách nghiên cứu các thành phần có trong mủ dính trên băng dán cá nhân, và ghi nhận các đặc tính độc đáo của "chất chứa phosphor". Một người đóng góp quan trọng khác cho mô hình ADN là Phoebus Levene, người đã đề xuất "mô hình polynucleotide" của ADN vào năm 1919 dựa trên kết quả của các thí nghiệm sinh hóa của ông trên nấm men. Vào năm 1950, Erwin Chargaff đã mở rộng nghiên cứu của Levene và làm sáng tỏ một số đặc tính quan trọng của axit nucleic. Thứ nhất, trình tự của axit nucleic trên các loài khác nhau. Thứ hai, tổng nồng độ của purin (A và G) luôn bằng tổng nồng độ của pyrimidin (C ​​và T), và điều này bây giờ được gọi là quy luật Chargaff. Năm 1953, James Watson và Francis Crick công bố cấu trúc xoắn kép của ADN dựa trên công trình tinh thể học tia X do Rosalind Franklin và Maurice Wilkins thực hiện. Watson và Crick mô tả cấu trúc của ADN và phỏng đoán về ảnh hưởng của cấu trúc độc đáo này đối với cơ chế nhân bản ADN. Sau cùng, J. D. Watson và F. H. C. Crick đã được trao giải Nobel năm 1962, cùng với Maurice Wilkins, vì đã đề xuất một mô hình về cấu trúc của ADN. Thời gian trôi qua, vào năm 1964, Kjeld Marker và Frederick Sanger đã phát hiện ra một ARN vận chuyển amioacyl đặc biệt ở "E.coli", được gọi là ARN vận chuyển N-formyl-methionyl và giải thích rằng phân tử này đóng một vai trò trong cơ chế đặc biệt của quá trình kéo dài mạch khi tế bào dịch mã. Ông đã được trao giải Nobel thứ hai vì đã tìm ra trình tự hoàn chỉnh bao gồm 5.400 nucleotide trên mạch đơn ADN của thể thực khuẩn Phi X174. Vào năm 1961, các nhà khoa học đã chứng minh được rằng khi một gen mã hóa thành protein, ba base liên tiếp của ADN của gen sẽ chỉ định từng axit amin kế tiếp của protein. Do đó, mã di truyền là mã bộ ba, trong đó mỗi bộ ba (được gọi là codon) chỉ định một axit amin cụ thể. Hơn nữa, các nghiên cứu chỉ ra rằng các codon không chồng chéo với nhau trong trình tự ADN và mỗi trình tự được đọc từ một điểm bắt đầu cố định. Trong giai đoạn 1962–1964, thông qua việc sử dụng các thể thực khuẩn mang đột biến gây tự chết có điều kiện, các nhà sinh học phân tử đã đạt được những tiến bộ cơ bản trong việc hiểu biết về các chức năng và tương tác của các protein được sử dụng trong quá trình sao chép, sửa chữa, và tái tổ hợp ADN, và trong việc hình thành các cấu trúc phân tử. Thí nghiệm Griffith. Năm 1928, Frederick Griffith, đã phát hiện độc tính của phế cầu khuẩn khi loại vi trùng này khiến chuột trong phòng thí nghiệm tử vong. Dựa trên di truyền Mendel, tử tưởng được dùng phổ biến vào lúc bấy giờ, việc chuyển gen chỉ có thể xảy ra từ tế bào mẹ sang tế bào con. Griffith đưa ra một lý thuyết khác với lý luận rằng sự chuyển gen cũng có thể xảy ra giữa các thành viên của cùng một thế hệ, và quá trình này được gọi là chuyển gen ngang (tiếng Anh: Horizontal Gene Transfer hay HGT). Ngày nay, hiện tượng này được gọi là biến nạp. Trong thí nghiệm của mình, Griffith đã đề cập đến loài phế cầu khuẩn "Streptococcus pneumoniae." Loài vi khuẩn này có hai chủng khác nhau: một loại có độc tính và bờ nhẵn smooth (S), và một loại trung tính không độc và nhám rough (R). Nhìn bằng mắt thường, dòng S có vẻ ngoài lấp lánh do sự hiện diện của một loại polysaccharide đặc trưng ở vỏ bọc tạo thành bởi polyme của axit glucuronic và glucose. Nhờ sự hiện diện của lớp polysaccharide, hệ thống miễn dịch của vật chủ không thể phát hiện vi khuẩn, và điều này giúp sinh vật này có thể phát độc và giết chết vật chủ. Trong khi đó, loài trung tính không độc R còn lại, do thiếu vỏ bọc chứa lớp polysaccharide, nên loài này có vẻ ngoài sần sùi và xỉn màu. Sự hiện diện của vỏ bọc ở phế cầu khuẩn có thể được xác định thông qua di truyền học. Chủng S và R có thể tồn tại ở nhiều dạng khác nhau như S-I, S-II, S-III, v.v. và tương ứng là R-I, R-II, R-III, v.v. Tất cả các phân nhóm của chủng S và R nêu trên được phân loại dựa vào loại kháng nguyên khác nhau mà chúng tạo ra. Thí nghiệm Hershey-Chase. Thí nghiệm của Hershey và Chase đã xác nhận ADN là vật chất di truyền khiến chuột của trong thí nghiệm Griffith bị nhiễm độc của phế cầu khuẩn và tử vong. Thí nghiệm này còn được gọi là thí nghiệm máy xay sinh tố do hai nhà khoa học liên tục dùng loại xay sinh tố thường được sử dụng nhà bếp như một thiết bị chính. Trong thí nghiệm của mình, Hershey và Chase sử dụng "E.coli" và thể thực khuẩn, và kết quả đã chứng minh rằng ADN của thể thực khuẩn, sau khi lây nhiễm vào tế bào vi khuẩn, có chứa tất cả thông tin cần thiết để tổng hợp các thể thực khuẩn đời con cháu. Hai nhà khoa học đã đánh dấu lớp vỏ protein của thể thực khuẩn bằng đồng vị phóng xạ lưu huỳnh. Trong khi đó, ADN của thể thực khuẩn được đánh dẫu bằng đồng vị phóng xạ phốt pho. Sau đó, hai mẫu thể thực khuẩn tách biệt lần lượt được cho vào hai ống nghiệm khác nhau. Sau khi trộn thể thực khuẩn bị nhiễm phóng xạ và "E.coli" ở trong ống nghiệm, hai mẫu được ủ ở điều kiện thích hợp nhằm khiến cho thể thực khuẩn có thể chuyển vật chất di truyền (protein hoặc ADN) sang tế bào "E.coli". Tiếp theo, hỗn hợp vi khuẩn và thể thực khuẩn được đưa vào máy xay sinh tố để trộn hoặc khuấy động nhằm tách thể thực khuẩn ra khỏi tế bào E.coli. Toàn bộ hỗn hợp được ly tâm. Phần cặn bên dưới đáy ống nghiệm có chứa tế bào "E.coli" được giữ lại và kiểm tra, còn phần loại chất lỏng được loại bỏ. Sau khi kiểm tra tế bào "E.coli" chỉ chứa đồng vị phóng xạ phốt pho, điều này cho thấy vật chất di truyền được biến nạp là ADN chứ không phải là protein. ADN của thể thực khuẩn sau khi biến nạp sẽ được tích hợp vào ADN của "E.coli". Do đó, phần ADN của "E.coli" bị nhiễm phóng xạ thực chất là của thể thực khuẩn. Khi vi khuẩn tiếp tục phát triển và sinh sản, đoạn ADN đột biến này có thể được truyền lại cho thế hệ tiếp theo, và từ đây, lý thuyết về tải nạp gen đã ra đời. Tải nạp là một quá trình trong đó ADN của vi khuẩn có chứa một đoạn ADN của thể thực khuẩn, và đoạn ADN này sẽ được truyền cho thế hệ vi khuẩn tiếp theo. Đồng thời, tải nạp có thể được xem là một ví dụ của hoạt động chuyển gen ngang. Sinh học phân tử hiện đại. Khi xã hội loài người đang dần bước đến giữa những năm 20 của thế kỷ 21, sinh học phân tử cũng đang bước vào thời kỳ hoàng kim nhờ vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Các công nghệ mới đang cho phép theo dõi các quá trình sinh học ở cấp độ nguyên tử ở thời gian thực. Ngày nay, các nhà sinh học phân tử có thể truy cập vào kho dữ liệu trình tự DNA của các loài đồ sộ với một mức chi phí hợp lý, và điều này đã tạo điều kiện phát triển các phương pháp chỉnh sửa gen mới ở các sinh vật khác bên cạnh sinh vật mô hình. Tương tự như vậy, các nhà sinh học phân tử tổng hợp sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất công nghiệp các tiểu và đại phân tử thông qua việc phát triển các con đường trao đổi chất ngoại sinh trong các dòng tế bào nhân sơ và nhân thực khác nhau. Dữ liệu trình tự sinh học ngày càng có giá cả phải chăng hơn khiến cho nó sử dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Điều này hứa hẹn sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp ở các quốc gia đang phát triển, và giúp tăng khả năng các nhà nghiên cứu tư nhân có thể tiếp cận được thông tin cần thiết cho những thực nghiệm của học. Ngoài ra, các thí nghiệm chỉnh sửa gen dùng công nghệ CRISPR-Cas9 hiện có thể được thực hiện trên các sinh vật mới bởi các công ty tư nhân với giá dưới 10.000 đô la, và điều này sẽ giúp thúc đẩy cho sự phát triển của việc ứng dụng công nghệ này vào các lĩnh vực công nghiệp và y tế. Quan hệ với các phân ngành sinh học khác. Khi các nhà khoa học thực hành những kỹ thuật cụ thể cho nghiên cứu sinh học phân tử, họ sẽ thường kết hợp các kỹ thuật này với nhiều phương pháp khác từ phân ngành di truyền học và hóa sinh. Phần lớn sinh học phân tử là nghiên cứu định lượng, và trong thời gian gần đây, một lượng lớn công việc đã được thực hiện bằng cách sử dụng các kỹ thuật khoa học máy tính như trong tin sinh học và sinh học tính toán. Di truyền phân tử, hay việc nghiên cứu về cấu trúc và chức năng của gen, là một trong những lĩnh vực phụ nổi bật nhất của sinh học phân tử kể từ đầu những năm 2000. Sinh học phân tử cung cấp thông tin cho các phân ngành sinh học khác theo cả hai cách trực tiếp và gián tiếp. Ở cách trực tiếp, sinh học phân tử nghiên cứu tương tác của các phân tử và những kết quả gặt hái được sau này giúp mở rộng kiến thức cho các phân ngành như sinh học tế bào hay sinh học phát triển. Ở cách gián tiếp, các kỹ thuật trong sinh học phân tử được ứng dụng để tìm các đặc tính lịch sử của các quần thể hoặc loài, và những thông tin có được từ việc làm này giúp phong phú thêm kiến thức trong lĩnh vực sinh học tiến hóa như di truyền học quần thể và phát sinh chủng loài học. Ngoài ra, cũng có một truyền thống lâu đời về việc nghiên cứu các phân tử sinh học ở cấp độ thấp nhất (hay ở cấp độ phân tử) trong phân ngành lý sinh. Các kỹ thuật trong sinh học phân tử. Nhân bản phân tử. Nhân bản phân tử là một kỹ thuật được sử dụng để phân lập và chuyển chuỗi ADN mong muốn vào một tác nhân (hay còn gọi là vector) plasmid. Công nghệ ADN tái tổ hợp này được phát triển lần đầu tiên vào những năm 1960. Trong kỹ thuật này, trình tự ADN mã hóa cho một protein mong muốn sẽ được nhân bản bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR) và / hoặc các enzym giới hạn để trờ thành một plasmid (vector biểu hiện). Vector plasmid thường có ít nhất 3 thành phần đặc biệt: vị trí bắt đầu sao chép (điểm ori), các vị trí tạo dòng (tiếng Anh: Multiple Cloning Site hay MCS), và marker chọn lọc (thường là các gen giúp kháng các loại kháng sinh). Ngoài ra, nằm ở vị trí ngược dòng của MCS là vùng gen khởi động và vị trí bắt đầu quá trình phiên mã nhằm giúp điều hòa sự biểu hiện của gen được nhân bản. Sau khi được tổng hợp, plasmid có thể được đưa vào tế bào vi khuẩn hoặc động vật. Việc đưa ADN vào tế bào vi khuẩn có thể được thực hiện bằng cách biến nạp thông qua hấp thụ ADN trần, hay tiếp hợp thông qua tiếp xúc giữa tế bào, hoặc tải nạp thông qua vector virus. Việc đưa ADN vào tế bào nhân thực, chẳng hạn như tế bào động vật, bằng các phương pháp vật lý hoặc hóa học được gọi là quá trình chuyển nạp. Có nhiều kỹ thuật chuyển nạp khác nhau như chuyển nạp canxi photphat, điện phân, vi tiêm, hay chuyển nạp liposome. Plasmid có thể được tích hợp vào bộ gen của tế bào chủ và tạo nên hiện tượng chuyển nạp ổn định. Đồng thời, plasmid cũng có thể tồn tại độc lập với bộ gen của tế bào chủ và được biểu hiện tạm thời, và hiện tượng này được gọi là chuyển nạp thoáng qua. Khi ADN mã hóa cho một protein mong muốn nằm bên trong tế bào, protein đó hiện có thể được biểu hiện. Nhiều yếu tố khác nhau, chẳng hạn như tương tác giữa chất xúc tiến cảm ứng với vùng gen khởi động hay các tín hiệu tế bào cụ thể, giúp quá trình tổng hợp protein mong muốn xảy ra ở một mức độ cao. Sau khi quá trình này hoàn tất, một lượng lớn protein có thể được chiết xuất từ tế bào vi khuẩn hoặc tế bào nhân thực. Protein lúc này có thể được mang đi để kiểm tra hoạt động xúc tác trong nhiều tình huống khác nhau. Ngoài ra, protein có thể được kết tinh để có thể nghiên cứu cấu trúc bậc ba của nó, hoặc, trong ngành dược phẩm, có thể nghiên cứu hoạt tính của các loại thuốc mới đối với protein. Phản ứng chuỗi polymerase. Phản ứng chuỗi polymerase (PCR) là một kỹ thuật để sao chép DNA có tính ứng dụng cao. Kỹ thuật PCR cho phép sao chép hoặc sửa đổi một trình tự ADN cụ thể theo những cách đã được định sẵn. Phản ứng này cực kỳ công hiệu, và trong điều kiện hoàn hảo có thể khuếch đại một phân tử DNA trở thành 1,07 tỷ phân tử trong vòng chưa đầy hai giờ. PCR có nhiều ứng dụng, bao gồm nghiên cứu biểu hiện gen, phát hiện vi sinh vật gây bệnh, phát hiện đột biến gen, và đưa đột biến vào đoạn DNA. Kỹ thuật PCR có thể được sử dụng để đưa các vị trí enzyme giới hạn vào các đầu của phân tử DNA, hoặc để kích thích đột biến của một base cụ thể trên đoạn DNA thông qua phương pháp gây đột biến có định hướng. PCR cũng có thể được sử dụng để xác định xem một đoạn ADN cụ thể có được tìm thấy trong thư viện ADN bổ sung (cADN) hay không. PCR có nhiều biến thể, như PCR phiên mã ngược (RT-PCR) để khuếch đại ARN, và gần đây là PCR định lượng cho phép đo lường chính xác số phân tử ADN hoặc ARN. Điện di trên gel. Điện di trên gel là một kỹ thuật tách các phân tử theo kích thước của chúng bằng cách sử dụng gel agarose hoặc polyacrylamide. Kỹ thuật này là một trong những công cụ chính của sinh học phân tử. Nguyên tắc cơ bản của kỹ thuật này là các đoạn ADN với kích thước có thể được tách ra bằng cách cho dòng điện chạy qua gel. Bởi vì khung xương của ADN chứa các nhóm phosphate mang điện tích âm, nên ADN sẽ di chuyển qua gel agarose về phía đầu dương của dòng điện. Protein cũng có thể được phân tách dựa trên kích thước bằng cách sử dụng gel SDS-PAGE, hoặc dựa trên kích thước và điện tích của chúng bằng cách sử dụng phương pháp điện di trên gel 2D. Phương pháp xét nghiệm Bradford. Thử nghiệm Bradford là một kỹ thuật sinh học phân tử cho phép định lượng nhanh chóng và chính xác các phân tử protein bằng cách sử dụng các đặc tính độc đáo của một loại thuốc nhuộm có tên là Coomassie Brilliant Blue G-250. Coomassie Blue trải qua một sự chuyển đổi màu sắc có thể nhìn thấy từ màu nâu đỏ sang màu xanh lam sáng khi liên kết với protein. Ở trạng thái điện tích dương (cation), cấu trúc của thuốc nhuộm không ổn định và có bước sóng nền là 465 nm và tạo ra màu nâu đỏ. Khi Coomassie Blue liên kết với protein trong dung dịch axit, bước sóng nền chuyển sang 595 nm và thuốc nhuộm tạo ra màu xanh lam sáng. Protein trong xét nghiệm liên kết với màu xanh lam Coomassie trong khoảng 2 phút và phức hợp protein-thuốc nhuộm có cấu trúc ổn định trong khoảng một giờ, mặc dù người ta khuyến cáo rằng các phép đo độ hấp thụ được thực hiện trong vòng 5 đến 20 phút sau khi bắt đầu phản ứng. Sau đó, nồng độ của protein trong xét nghiệm Bradford có thể được đo bằng máy quang phổ mà không cần một thiết bị đắt tiền nào khác. Phương pháp này được phát triển vào năm 1975 bởi Marion M. Bradford, và đã cho phép định lượng protein nhanh và chính xác hơn đáng kể so với các phương pháp trước đó như quy trình Lowry hay xét nghiệm biuret. Không giống như các phương pháp trước đây, xét nghiệm Bradford không dễ bị nhiễu bởi một số phân tử không phải protein, bao gồm ethanol, natri clorua, hay magie clorua. Tuy nhiên, phương pháp này dễ bị ảnh hưởng bởi các chất đệm kiềm mạnh, chẳng hạn như natri dodecyl sulfat (SDS). Các phương pháp thấm và probe các đại phân tử. Các thuật ngữ Northern (phương bắc), Western (phương tây), và Eastern (phương đông) có nguồn gốc ban đầu là từ một trò đùa trong phân ngành sinh học phân tử khi các nhà khoa học đặt tên nhằm chơi chữ với thuật ngữ Southern blotting (phương pháp thấm Southern), sau khi kỹ thuật được Edwin Southern mô tả để lai tạo ADN bị thấm. Patricia Thomas, nhà phát triển phương pháp thấm ARN mà sau đó được gọi là Northern blot (phương pháp thấm Northern), thực sự không sử dụng thuật ngữ này. Phương pháp thấm Southern. Phương pháp thấm Southern được đặt theo tên người phát minh ra kỹ thuật này là nhà sinh vật học Edwin Southern. Đây là một phương pháp để probe hay thăm dò sự hiện diện của một chuỗi ADN cụ thể trong một mẫu hỗn hợp ADN. Các mẫu ADN trước hoặc sau khi cắt bằng enzym giới hạn (endonuclease giới hạn) sẽ được phân tách bằng phương pháp điện di trên gel và sau đó được chuyển sang màng lọc bằng cách thấm nhờ vào hiện tượng mao dẫn. Sau đó, màng lọc này được tiếp xúc với một đầu dò ADN được đánh dấu có chứa trình tự gen có thể lai ghép với đoạn ADN quan tâm thông qua nguyên tắc bổ sung. Phương pháp thấm Southern ngày này ít được sử dụng hơn trong các phòng thí nghiệm khoa học do sự ưu việt hơn của các kỹ thuật khác, chẳng hạn như PCR, để phát hiện các trình tự ADN cụ thể từ các mẫu ADN. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn được sử dụng cho một số ứng dụng, chẳng hạn như đo số bản sao gen biến đổi ở chuột biến đổi gen hoặc trong kỹ thuật tạo dòng tế bào gốc phôi bằng phương pháp gen knockout. Phương pháp thấm Northern. Phương pháp thấm Northern được sử dụng để nghiên cứu sự hiện diện của các phân tử ARN cụ thể nhằm so sánh tương đối giữa một tập hợp các mẫu ARN khác nhau. Về cơ bản, kỹ thuật này là sự kết hợp giữa phương pháp điện di trên gel của ARN biến tính với phương pháp thấm. Trong quá trình này, ARN được phân tách dựa trên kích thước và sau đó được chuyển đến màng lọc trước khi được thăm dò thông qua nguyên tắc bổ sung với một trình tự quan tâm được đánh dấu. Kết quả có thể được hình dung thông qua nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào chất đánh dấu được sử dụng. Tuy nhiên, hầu hết kết quả được nhìn thấy là các dải đại diện cho kích thước của ARN được phát hiện trong mẫu. Cường độ của các dải này liên quan đến số lượng ARN mục tiêu trong các mẫu được phân tích. Quy trình này thường được sử dụng để nghiên cứu thời điểm và mức độ biểu hiện gen bằng cách đo lượng ARN đó hiện diện trong các mẫu khác nhau với giả định rằng không xảy ra quá trình điều hòa sau phiên mã và các mức ARN thông tin phản ánh mức tỷ lệ của protein tương ứng được sản xuất. Phương pháp này là một trong những công cụ cơ bản nhất để xác định thời điểm và điều kiện một số gen nhất định được biểu hiện trong các mô sống Phương pháp thấm Western. Phương pháp thấm Western là một kỹ thuật mà các protein cụ thể có thể được phát hiện từ một hỗn hợp các protein. Kỹ thuật này có thể được sử dụng để xác định kích thước của các protein cô lập, cũng như để định lượng sự biểu hiện của chúng. Trong phương pháp thấm Western, các protein lần đầu tiên được phân tách theo kích thước trong một lớp gel mỏng được kẹp giữa hai tấm thủy tinh, và kỹ thuật này được gọi là SDS-PAGE. Các protein trong gel sau đó được chuyển sang màng polyvinylidene fluoride (PVDF), nitrocellulose, nylon, hoặc các màng hỗ trợ khác. Màng lọc này sau đó có thể được thăm dò bằng các dung dịch kháng thể. Các kháng thể liên kết cụ thể với protein quan tâm sau đó có thể được hình dung bằng nhiều kỹ thuật khác nhau, bao gồm các phẩm màu, chất phát quang hóa học, hoặc chất phóng xạ tự chụp. Thông thường, các kháng thể được đánh dấu bằng các enzym. Khi một chất nền phát quang hóa học được tiếp xúc với enzyme, tổ hợp này có thể được phát hiện. Sử dụng kỹ thuật thấm Western hông chỉ cho phép phát hiện mà còn cho phép phân tích định lượng. Các phương pháp tương tự với phương pháp này có thể được sử dụng để nhuộm trực tiếp các protein cụ thể trong tế bào sống hoặc các phần mô Phương pháp thấm Eastern. Phương pháp thấm Eastern được sử dụng để phát hiện các biến đổi sau quá trình dịch mã của protein. Trong kỹ thuật này, protein thấm trên màng PVDF hoặc nitrocellulose được kết hợp với các chất nền cụ thể nhằm thăm dò các sửa đổi của protein sau dịch mã. Kỹ thuật ADN microarray. Một ADN microarray hay ADN chip là một tập hợp các điểm được gắn vào một giá đỡ vững chắc như kính hiển vi, và trong mỗi điểm chứa một hoặc nhiều đoạn oligonucleotide ADN sợi đơn. Các dãy hay array giúp đặt một số lượng lớn các điểm rất nhỏ (đường kính 100 micromet) trên một mặt kính duy nhất. Mỗi điểm có một phân tử đoạn ADN bổ sung cho một chuỗi ADN đơn. Một biến thể của kỹ thuật này cho phép biểu hiện gen của một sinh vật ở một giai đoạn phát triển cụ thể. Trong kỹ thuật này, ARN trong mô được phân lập và chuyển đổi thành ADN bổ sung (cADN) được đánh dấu. cADN này sau đó được lai với các đoạn trên dãy, và hình ảnh của quá trình lai có thể được ghi lại. Vì nhiều dãy có thể được tạo thành bởi các đoạn gen giống nhau, điều này đặc biệt hữu ích để so sánh sự biểu hiện gen của hai mô khác nhau, chẳng hạn như mô khỏe mạnh và mô ung thư. Ngoài ra, người ta có thể đo những gen nào được biểu hiện và biểu hiện đó thay đổi như thế nào theo thời gian hoặc với các yếu tố khác. Có nhiều cách khác nhau để chế tạo các dãy; phổ biến nhất là các chip silicon, các lam kính hiển vi với các điểm có đường kính ~ 100 micromet, các dãy được tinh chỉnh, và các dãy với các điểm lớn trên bề mặt một tấm màng với nhiều lỗ (macroarrays). Có thể có từ 100 điểm đến hơn 10,000 trên một dãy nhất định. Dãy cũng có thể được tạo bằng các phân tử khác ngoài ADN. Oligonucleotide đặc hiệu alen. Oligonucleotide đặc hiệu alen (tiếng Anh: Allele-specific oligonucleotide hay ASO) là một kỹ thuật cho phép phát hiện các đột biến cơ sở đơn lẻ mà không cần dùng đến kỹ thuật PCR hoặc điện di trên gel. Các mẫu dò ngắn (chiều dài khoảng 20–25 nucleotide) được đánh dấu và cho tiếp xúc với ADN mục tiêu không phân mảnh. Quá trình lai xảy ra với độ đặc hiệu cao do chiều dài của các đầu dò tương đối ngắn, và thậm chí một sự thay đổi của một base đơn lẻ sẽ cản trở quá trình lai. ADN mục tiêu sau đó được rửa sạch nhằm loại bỏ các mẫu dò được đánh dấu không lai. ADN mục tiêu sau đó được phân tích để tìm ra sự hiện diện của mẫu dò thông qua phóng xạ hoặc huỳnh quang. Trong thí nghiệm này, cũng như trong hầu hết các kỹ thuật sinh học phân tử khác, một nhóm kiểm soát phải được sử dụng để chắc chắn rằng thí nghiệm thành công. Trong sinh học phân tử, các quy trình và công nghệ liên tục được phát triển và các công nghệ cũ hơn bị loại bỏ. Ví dụ, trước khi xuất hiện kỹ thuật điện di trên gel (agarose hoặc polyacrylamide) cho ADN, kích thước của các phân tử ADN thường được xác định bằng tốc độ lắng trong gradient đường sucroza, một kỹ thuật chậm, tốn nhiều công sức, và đòi hỏi thiết bị đo đắt tiền. Và trước kỹ thuật gradient đường sucroza, máy đo độ nhớt đã được sử dụng để đo kích thước phân tử ADN. Đôi khi, việc hiểu biết các công nghệ cũ là cần thiết vì các kỹ thuật này có thể trở nên hữu ích khi giải quyết một vấn đề mới khác mà các công nghệ mới hơn không thể làm được. Liên kết ngoài. [[Thể loại:Sinh học phân tử]] [[Thể loại:Sinh học tế bào]]
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Di truyền học là một bộ môn sinh học, nghiên cứu về tính di truyền và biến dị ở các sinh vật. Thực tế, việc các sinh vật sống thừa hưởng những đặc tính từ bố mẹ đã được ứng dụng vào thời tiền sử để tăng sản lượng cây trồng và vật nuôi, thông qua quá trình sinh sản chọn lọc hay chọn lọc nhân tạo. Tuy nhiên, di truyền học hiện đại, tìm hiểu về quá trình di truyền, chỉ được ra đời vào khoảng cuối thế kỷ 19 với những công trình của Gregor Mendel. Dù không hiểu về nền tảng vật chất của tính di truyền, Mendel vẫn nhận biết được rằng sinh vật thừa kế những tính trạng theo một cách riêng rẽ và tiên đoán đơn vị cơ bản của quá trình di truyền là nhân tố di truyền mà nay gọi là gen. Mỗi gen là một đoạn xác định của phân tử DNA, một cao phân tử sinh học được cấu thành từ bốn loại đơn phân nucleotide; chuỗi nucleotide này mang thông tin di truyền ở sinh vật. DNA trong điều kiện tự nhiên có dạng chuỗi xoắn kép, trong đó nucleotide ở mỗi chuỗi liên kết bổ sung với nhau. Mỗi chuỗi lại có thể hoạt động như một khuôn để tổng hợp một chuỗi bổ sung mới - đó là cách thức tự nhiên tạo nên những bản sao của gen mà có thể được di truyền lại cho đời sau. Chuỗi nucleotide trong gen có thể được phiên mã và dịch mã trong tế bào để tạo nên chuỗi các amino acid, gọi là pôlypeptit, từ đó hình thành protein là cơ sở vật chất trực tiếp hình thành nên tính trạng (đặc điểm) của sinh vật. Trình tự của các amino acid trong pôlypeptit của một protein tương ứng với trình tự của các nucleotide trong gen. Trình tự này được biết với tên mã di truyền. Trình tự của các nucleotide xác định không chỉ xác định trình tự các amino acid trong protein bậc I, mà từ đó còn xác định cấu trúc bậc cao hơn là protein bậc II và protein bậc III và bậc IV (nếu là đa protein) gọi là cấu trúc ba chiều của phân tử protein 3D. Bậc cấu trúc 3D này mới giúp protein có chức năng sinh học trong tế bào sống. Protein thực hiện hầu hết các chức năng thiết yếu trong mọi hoạt động sống của tế bào. Một thay đổi nhỏ của gen thường dẫn đến thay đổi trình tự amino acid, do đó dẫn đến thay đổi cấu trúc và chức năng của protein, thường gây ra đột biến có thể tác động không nhỏ lên tế bào cũng như toàn bộ cơ thể sống. Tuy gen đóng một vai trò to lớn trong sự hình thành tính trạng và mọi hoạt động của sinh vật, nhưng tác động của môi trường bên ngoài và cả những gì sinh vật đã trải qua cũng có vai trò rất quan trọng, thậm chí tạo ra kết quả sau cùng của biểu hiện tính trạng. Chẳng hạn, nhiều gen cùng quy định chiều cao của một người, nhưng chế độ dinh dưỡng, luyện tập của người đó cũng có ảnh hưởng không nhỏ. Lịch sử. Khoa học di truyền được khởi đầu với công trình ứng dụng và lý thuyết của Mendel về sinh học di truyền từ giữa thế kỷ 19, tuy nhiên trước đó vẫn tồn tại những quan điểm khác nhau về di truyền. Từ thế kỷ V trước Công nguyên, Hippocrates và Aristoteles đã lần lượt đưa ra những lý thuyết của riêng mình, mà đã có ảnh hưởng không nhỏ đến các học thuyết khác sau đó. Nếu Hippocrates cho rằng các vật liệu sinh sản ("humor") được thu thập từ tất cả các phần của cơ thể và truyền cho thế hệ con, thì Aristoteles lại phản bác lại ý kiến này, nêu ra rằng sự sinh sản bắt nguồn từ chất dinh dưỡng, trên con đường đi tới các bộ phận cơ thể thì bị chệch tới phần sinh sản, và bản chất các chất này vốn đã quy định cho cấu tạo các phần cơ thể khác nhau. Ở thời kỳ Mendel sống, một thuyết phổ biến là quan niệm về di truyền hòa hợp ("blending"): cho rằng các cá thể thừa kế từ bố mẹ một hỗn hợp pha trộn các tính trạng, ví dụ như lai cây hoa đỏ với hoa trắng sẽ cho ra hoa hồng. Nghiên cứu của Mendel đã bác bỏ điều này, chỉ ra tính trạng là sự kết hợp các gen độc lập với nhau hơn là một hỗn hợp liên tục. Một thuyết khác cũng nhận sự ủng hộ thời đó là sự di truyền các tính trạng tập nhiễm: tin rằng sinh vật thừa kế những tính trạng đã được biến đổi do quá trình luyện tập và nhiễm ở bố mẹ. Học thuyết này, chủ yếu gắn với Jean-Baptiste Lamarck, hiện nay không được di truyền học hiện đại thừa nhận; khi sự tập nhiễm của cá thể thực tế không ảnh hưởng đến các gen mà chúng truyền cho con cái. Bên cạnh đó, Charles Darwin đề ra thuyết pangen (thuyết mầm, "pangenesis"), có sự tương đồng với quan niệm của Hippocrates, cho rằng có các "gemmule" (mầm), tập trung từ các tế bào trong cơ thể về cơ quan sinh dục để thụ tinh, và con cái sinh ra chịu ảnh hưởng từ cả di truyền lẫn tính trạng tập nhiễm. Thí nghiệm của Francis Galton kiểm chứng thuyết pangen của Darwin, cho thấy rằng các gemmule ít nhất không xuất hiện trong máu thỏ. Đến tận cuối thế kỷ 19, ngay cả sau khi tác phẩm của Mendel đã công bố, hiểu biết của giới khoa học về tính di truyền vẫn còn ít ỏi và chưa thực sự đúng đắn. Di truyền học Mendel và cổ điển. Gregor Johann Mendel, một linh mục người Áo sống tại Brno (Séc; tên tiếng Đức là "Brünn"), đã tiến hành thí nghiệm về tính di truyền ở 7 tính trạng trên cây đậu Hà Lan từ năm 1856 đến 1863. Các nghiên cứu của ông sau đó được công bố trong bài báo "Versuche über Pflanzenhybriden" (Các thí nghiệm lai ở thực vật) tại Hội Lịch sử Tự nhiên của Brno năm 1865. Cách nghiên cứu của ông là cho nhân giống theo từng tính trạng, sử dụng toán học để đánh giá số lượng và từ đó rút ra quy luật di truyền. Dù các quy luật này chỉ quan sát được cho số ít tính trạng, nhưng Mendel vẫn tin rằng sự di truyền là riêng rẽ, không phải tập nhiễm, và tính di truyền của nhiều tính trạng có thể được diễn giải thông qua các quy luật và tỷ lệ đơn giản. Tầm quan trọng của công trình Mendel không được nhận biết rộng rãi cho tới năm 1900, tức sau khi ông mất; trong năm đó, cả ba nhà khoa học Hugo de Vries (Hà Lan), Erich von Tschermak (Áo) và Carl Correns (Đức) đã nghiên cứu độc lập với nhau và cùng tái phát hiện các quy luật Mendel. Năm 1900 đánh dấu một mốc khởi đầu mới cho sự phát triển của di truyền học. Năm 1905, William Bateson, một người ủng hộ Mendel, đã đặt ra thuật ngữ "genetics" (di truyền học). (Tính từ "genetic", xuất phát từ tiếng Hy Lạp, "genesis" - "γένεσις", "nguồn gốc" và từ "genno" "γεννώ", "sinh ra", có trước danh từ này và được sử dụng lần đầu trong sinh học từ năm 1860). Bateson đã phổ biến cách dùng của từ "genetics" để miêu tả ngành khoa học nghiên cứu về di truyền trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị Quốc tế lần thứ ba về lai giống cây trồng tại London, Anh năm 1906. Riêng thuật ngữ "gen", vốn đã được Hugo de Vries định nghĩa với tên gọi "pangen" từ năm 1889 là: "phần tử nhỏ nhất [đại diện cho] một đặc điểm di truyền", được Wilhelm Johannsen giới thiệu lại trong các tác phẩm của ông vào hai thập niên sau đó - trong đó ông cũng nêu ra thuật ngữ kiểu gen ("genotype") và kiểu hình ("phenotype"). Sau sự tái phát hiện công trình của Mendel, các nhà khoa học đã cố gắng xác định những phân tử nào trong tế bào đảm nhận tính di truyền. Trước đó, nhiễm sắc thể đã được phát hiện, và những quan điểm đầu tiên về di truyền nhiễm sắc thể đã được đưa ra, phải kể đến là thuyết di truyền nhiễm sắc thể của August Weismann năm 1892 và giả thuyết gắn các nhân tố Mendel với nhiễm sắc thể của Walter Sutton năm 1903. Năm 1910, Thomas Hunt Morgan khẳng định rằng gen nằm trên nhiễm sắc thể, dựa trên sự quan sát về đột biến mắt trắng ở ruồi giấm. Năm 1913, một sinh viên của ông, Alfred Sturtevant đã sử dụng hiện tượng di truyền liên kết để chỉ ra rằng gen được sắp đặt theo đường thẳng (tuyến tính) trên nhiễm sắc thể, và xây dựng nên bản đồ liên kết gen đầu tiên. Di truyền học phân tử. Dù sự tồn tại của gen trên nhiễm sắc thể - hợp thành từ protein và DNA - đã được xác nhận, tuy nhiên người ta vẫn chưa biết đến cái gì trong hai chất đó đóng vai trò di truyền. Năm 1928, Frederick Griffith khám phá ra hiện tượng biến nạp: những vi khuẩn đã chết có thể chuyển vật liệu di truyền của chúng để làm biến đổi những vi khuẩn còn sống khác. Năm 1944, Oswald Theodore Avery, Colin McLeod và Maclyn McCarty đã thực hiện thí nghiệm trực tiếp xác định DNA là phân tử đảm nhận biến nạp. Tuy nhiên, đến tận năm 1952, thí nghiệm Hershey–Chase mới cho thấy DNA (chứ không phải protein) là vật liệu di truyền của virus xâm nhiễm vi khuẩn, cung cấp thêm bằng chứng chứng tỏ DNA là phân tử đảm nhận chức năng di truyền. James D. Watson và Francis Crick cho ra đời mô hình cấu trúc DNA năm 1953, sử dụng công trình tinh thể học tia X của Rosalind Franklin, chứng tỏ rằng DNA có cấu trúc xoắn kép. Mô hình DNA của họ bao gồm hai chuỗi với những nucleotide phía trong, mỗi một nucleotide liên kết bổ sung với một nucleotide ở chuỗi khác tạo thành hình dạng giống như thanh ngang trên một chiếc thang xoắn. Cấu trúc này chỉ ra rằng thông tin di truyền tồn tại trên dãy nucleotide ở mỗi chuỗi DNA, và cũng đưa ra gợi ý về một cách thức nhân đôi đơn giản: nếu chuỗi kép bị tách rời, chuỗi bổ sung mới có thể được tái dựng lại từ mỗi chuỗi đơn cũ. Dù cấu trúc DNA cho thấy được cách thức di truyền, người ta vẫn chưa biết rõ ràng về cách mà DNA ảnh hưởng lên hoạt động của tế bào. Trước đấy, năm 1941, George Wells Beadle và Edward Lawrie Tatum đã đề ra thuyết "một gen-một enzym", chứng minh vai trò điều khiển và điều hòa của gen lên các phản ứng sinh hóa ở mốc bánh mỳ "Neurospora", đồng thời phương pháp của họ - ứng dụng di truyền học vào sinh hóa ở vi sinh vật - cũng mở ra một phạm vi nghiên cứu mới ngay sau đó. Trong những năm sau đó, các nhà khoa học đã cố gắng tìm ra cách DNA điều khiển quá trình tổng hợp protein. Họ đã khám phá được rằng tế bào đã sử dụng DNA như một khuôn để tạo nên phân tử RNA thông tin tương ứng. Dãy nucleotide trên RNA thông tin lại tiếp tục được sử dụng để tạo nên dãy amino acid ở protein; trình tự của dãy nucleotide được dịch mã để tạo thành dãy amino acid được gọi là mã di truyền. Nó được dựa trên sự sắp xếp những bộ ba base nitơ không chồng lấn nhau, gọi là "codon", mỗi codon mã hóa cho một amino acid. Điều này lần đầu tiên được miêu tả trong thí nghiệm của Crick, Brenner và các cộng sự năm 1961. Trong những năm 1961-1966 đã ghi nhận kết quả nỗ lực của các nhà khoa học để giải mã được toàn bộ 64 codon, chủ yếu là những công trình do nhóm của M. Nirenberg (thí nghiệm Nirenberg và Matthaei) và nhóm của H. Khorana thực hiện. Những hiểu biết mới tầm phân tử về tính di truyền đã tạo nên sự bùng nổ trong nghiên cứu. Một bước phát triển quan trọng là phương pháp xác định trình tự DNA gián đoạn chuỗi năm 1977 của Frederick Sanger: công nghệ này cho phép các nhà khoa học đọc được trình tự nucleotide trên một phân tử DNA. Năm 1983, Kary Banks Mullis phát triển phản ứng chuỗi trùng hợp (PCR), cung cấp một phương pháp nhanh chóng để phân lập và khuếch đại một đoạn DNA riêng biệt từ một hỗn hợp. Những cố gắng chung trong Dự án Bản đồ gen Người và nỗ lực song song của công ty tư nhân Celera Genomics, cũng như các công nghệ khác, cuối cùng đã thành công trong việc xác định trình tự bộ gen người vào năm 2003. Đặc trưng của di truyền. Di truyền riêng rẽ và quy luật Mendel. Ở cấp độ cơ bản nhất, tính di truyền của các sinh vật xuất hiện ở các tính trạng riêng rẽ, được gọi là gen. Đặc tính này lần đầu được nhận biết bởi Gregor Mendel, khi nghiên cứu sự phân ly các tính trạng di truyền ở đậu Hà Lan. Trong thí nghiệm nghiên cứu về tính trạng màu hoa của mình, Mendel quan sát được rằng hoa của mỗi cây đậu Hà Lan có màu tía hoặc trắng - và không bao giờ có tính trạng trung gian giữa hai màu. Những dạng khác nhau, riêng biệt của cùng một gen được gọi là allele. Ở đậu Hà Lan, mỗi gen của mỗi cá thể có hai allele, và cây đậu sẽ thừa hưởng một allele từ mỗi cây bố mẹ. Nhiều sinh vật khác, bao gồm cả con người, cũng có kiểu di truyền như vậy. Cá thể mà có hai allele giống nhau ở một gen được gọi là đồng hợp tử ở gen đấy, còn nếu có hai allele khác nhau thì cá thể gọi là dị hợp tử. Tập hợp tất cả allele ở một cá thể được gọi là kiểu gen của cá thể đó, còn tập hợp các tính trạng quan sát được của cá thể được gọi là kiểu hình. Với những cá thể dị hợp tử ở một gen, thường sẽ có một allele được gọi là trội, bởi đặc tính của nó trội hơn và thể hiện ra kiểu hình ở sinh vật, và allele còn lại được gọi là lặn, bởi đặc tính của nó bị lấn át và không được biểu hiện ra. Một số allele không lấn át hẳn, thay vì thế có tính trội không hoàn toàn tức thể hiện ra kiểu hình trung gian, hoặc đồng trội, tức cả hai allele đều được biểu hiện cùng lúc. Nhìn chung, khi một cặp cá thể sinh sản hữu tính, con cái của chúng sẽ thừa kế ngẫu nhiên một allele từ bố và một allele từ mẹ. Những phát hiện về sự di truyền riêng rẽ và sự phân ly của các allele được phát biểu chung với tên gọi Quy luật thứ nhất của Mendel hay "Quy luật phân ly". Ký hiệu và biểu đồ. Các nhà di truyền học sử dụng các biểu đồ và biểu tượng để mô tả sự di truyền. Một gen được biểu trưng bởi một (hay vài) ký tự — trong đó ký tự viết hoa tượng trưng cho allele trội và ký tự viết thường tượng trưng cho allele lặn. Thông thường biểu tượng "+" được sử dụng để biểu thị allele thường, không đột biến ở một gen. Ở các thí nghiệm lai và thụ tinh (đặc biệt về các quy luật Mendel), bố mẹ được xem là thế hệ "P", con cái của chúng được gọi là thế hệ "F1" ("first filial"). Khi các cá thể F1 giao phối với nhau, con của F1 lại tiếp tục gọi là "F2". Một trong những biểu đồ thường được sử dụng để dự đoán kết quả lai là bảng Punnett (do Reginald Punnett sáng tạo). Khi nghiên cứu về các bệnh di truyền ở người, các nhà di truyền học thường dùng sơ đồ phả hệ để diễn tả sự di truyền ở các tính trạng. Các sơ đồ này sẽ sắp xếp sự di truyền của một tính trạng trên một cây phả hệ. Tương tác của nhiều gen. Mỗi sinh vật có hàng ngàn gen và ở các sinh vật sinh sản hữu tính, sự phân ly các gen này nhìn chung độc lập với nhau. Điều này có nghĩa là sự di truyền của một allele tính trạng hạt đậu vàng hay xanh không có liên quan tới sự di truyền của cặp allele màu hoa trắng hoặc tía. Hiện tượng này, được biết đến là Quy luật thứ hai của Mendel hay "Quy luật phân ly độc lập", mang ý nghĩa: các allele của những gen khác nhau sẽ thay đổi ngẫu nhiên khi phân ly từ bố mẹ và sẽ tạo ra thế hệ con với nhiều tổ hợp gen khác nhau. Dù thế, một số gen lại không phân ly độc lập với nhau, biểu thị tính liên kết gen. Thực tế, các gen khác nhau lại có thể tương tác với nhau theo một cách nào đấy và ảnh hưởng lên một tính trạng chung. Một ví dụ là ở loài hoa "Omphalodes verna", tồn tại một gen với hai allele xác định tính trạng màu hoa: xanh lam hoặc đỏ tía. Một gen khác điều khiển khả năng có màu của hoa: có màu hoặc không màu (màu trắng). Khi một cây có hai allele hoa trắng, hoa của cây đấy luôn màu trắng - cho dù gen đầu tiên có allele hoa đỏ hay xanh. Sự tương tác được gọi là tương tác át chế ("epistasis"), khi gen thứ hai át chế sự biểu hiện của gen thứ nhất. Bên cạnh tương tác át chế còn có kiểu tương tác bổ trợ, nghĩa là sự biểu hiện của hai hay nhiều allele ở các gen khác nhau sẽ tạo kiểu hình mới, khác với kiểu hình riêng được biểu hiện khi có mặt các allele ở từng gen riêng lẻ. Có nhiều tính trạng không riêng rẽ (ví dụ hoa màu trắng/tía) mà thay vì thế lại biểu hiện liên tục (ví dụ chiều cao và màu da). Các tính trạng phức hợp này được tạo bởi tác động cộng gộp của nhiều gen. Sự chi phối của các gen này là tương đương, có vai trò biến đổi mức độ biểu hiện, bên cạnh điều kiện môi trường của sinh vật. Tỷ lệ mà các gen của sinh vật đóng góp cho một tính trạng phức hợp được gọi là mức di truyền ("heritability"). Số đo của mức di truyền chỉ là tương đối - khi môi trường càng dễ biến đổi sẽ càng tác động lớn hơn lên toàn bộ mức thay đổi của tính trạng. Một ví dụ, chiều cao của con người là một tính trạng phức hợp với mức di truyền là 89% tại Mỹ. Ở Nigeria, nơi người dân có điều kiện dinh dưỡng và y tế hay thay đổi hơn, chiều cao của họ có mức di truyền chỉ là 62%. Cơ sở phân tử của tính di truyền. Sinh sản. Khi tế bào phân chia, toàn thể bộ gen đều được sao chép và mỗi tế bào con đều nhận được một bản sao bộ gen của tế bào mẹ. Quá trình này gọi là nguyên phân, là dạng đơn giản nhất của sinh sản và là cơ sở của sự sinh sản vô tính. Sinh sản vô tính có thể xuất hiện ở cả các sinh vật đa bào, tạo ra thế hệ con thừa hưởng bộ gen từ chỉ duy nhất "một cá thể mẹ". Thế hệ con mà nhìn chung giống hệt như mẹ được gọi là dòng vô tính ("clone"). Sinh vật nhân chuẩn thường sinh sản hữu tính để tạo ra con cái có vật liệu di truyền lấy từ hai bộ gen khác nhau của cả hai cá thể bố mẹ. Quá trình sinh sản hữu tính luân phiên nhau giữa hai dạng đơn bội (1n) và lưỡng bội (2n). Các tế bào đơn bội kết hợp vật chất di truyền của chúng, tạo ra tế bào lưỡng bội với những nhiễm sắc thể ghép cặp. Các sinh vật lưỡng bội tạo ra thể đơn bội bằng cách phân chia, tạo ra tế bào con thừa kế ngẫu nhiên một nhiễm sắc thể trong mỗi cặp nhiễm sắc thể tương đồng. Đa phần động vật và nhiều thực vật ở thể lưỡng bội trong hầu hết vòng đời, với thể đơn bội biến đổi thành các giao tử đơn bào. Một quá trình chủ yếu trong sinh sản hữu tính là giảm phân, quá trình phân bào chuyên biệt diễn ra ở tế bào sinh dục, trong đó bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội được nhân đôi, trải qua hai lần phân bào để tạo nên các tế bào con đơn bội có số lượng nhiễm sắc thể giảm đi một nửa so với tế bào mẹ ban đầu. Dù không sử dụng cơ chế sinh sản hữu tính kiểu lưỡng bội/đơn bội như trên, vi khuẩn vẫn có nhiều cách để thu nhận thông tin di truyền. Một số vi khuẩn có khả năng tiếp hợp, chuyển một vòng nhỏ DNA tới một vi khuẩn khác. Vi khuẩn cũng có thể lấy những đoạn DNA thô từ môi trường và kết hợp chúng vào trong bộ gen của vi khuẩn, hiện tượng này được biết đến là sự biến nạp. Quá trình này có thể dẫn đến sự chuyển gen ngang, truyền những đoạn thông tin di truyền giữa những sinh vật không có mối liên hệ với nhau. Tái tổ hợp và liên kết gen. Trạng thái lưỡng bội tự nhiên của bộ nhiễm sắc thể cho phép gen nằm trên các nhiễm sắc thể khác nhau phân ly độc lập với nhau trong quá trình sinh sản hữu tính, tái tổ hợp tạo tổ hợp gen mới. Gen trên cùng một nhiễm sắc thể về lý thuyết không bao giờ tái tổ hợp, tuy nhiên, thực tế vẫn diễn ra do xuất hiện quá trình trao đổi chéo nhiễm sắc thể. Khi trao đổi chéo, hai nhiễm sắc thể trao đổi các đoạn DNA cho nhau, và đổi chỗ các allele giữa hai nhiễm sắc thể. Trao đổi chéo thông thường diễn ra vào kỳ trước I (kỳ đầu của lần phân chia đầu) của quá trình giảm phân. Xác suất trao đổi chéo giữa hai điểm đã cho trên nhiễm sắc thể có liên quan đến khoảng cách giữa chúng. Ở một khoảng cách dài tùy ý, xác suất trao đổi chéo đủ cao để sự di truyền các gen diễn ra tương đối riêng rẽ. Tuy nhiên, với các gen gần nhau hơn, xác suất trao đổi chéo thấp chứng tỏ các gen có tính liên kết di truyền - allele của hai gen này có khuynh hướng di truyền gắn liền với nhau. Các chỉ số về tính liên kết của chuỗi nhiều gen có thể được kết hợp tạo nên một bản đồ liên kết, giúp xác định gần đúng vị trí sắp xếp các gen trên nhiễm sắc thể. Biểu hiện gen. Mã di truyền. Gen nhìn chung biểu hiện tác động của chúng thông qua việc tổng hợp protein, những phân tử phức hợp đảm nhận hầu hết chức năng trong tế bào. Protein là một chuỗi các amino acid; trình tự DNA của một gen, thông qua trung gian RNA thông tin (mRNA), được sử dụng để tạo nên trình tự phân tử protein riêng biệt. Quá trình này khởi đầu với việc tổng hợp một phân tử mRNA với trình tự tương ứng trình tự DNA của gen giai đoạn này gọi là phiên mã. Phân tử mRNA sau đó lại được sử dụng như một khuôn để tạo thành trình tự amino acid tương ứng thông qua một quá trình gọi là dịch mã. Mỗi bộ ba nucleotide (codon) ở dãy này tương ứng với một trong 20 loại amino acid có mặt trong protein - sự tương ứng này gọi là mã di truyền. Dòng thông tin đi theo một hướng duy nhất: thông tin khi được truyền từ chuỗi nucleotide tới chuỗi amino acid của protein, nó không bao giờ được truyền ngược lại từ protein tới chuỗi DNA - hiện tượng này được Francis Crick gọi là "luận thuyết trung tâm của sinh học phân tử". Trình tự đặc hiệu của amino acid dẫn đến cấu trúc ba chiều độc nhất của protein, và điều này lại liên quan đến chức năng của protein. Một số protein là những phân tử có cấu trúc đơn giản, ví dụ như collagen tạo nên các sợi mô. Protein cũng có thể gắn kết với nhau và với những phân tử đơn giản khác, nhiều khi hoạt động như những enzym xúc tác cho phản ứng hóa học của các phân tử gắn kết với nó (các phản ứng không làm thay đổi cấu trúc của bản thân protein). Cấu trúc của protein có tính động, ví dụ hemoglobin có thể chuyển đổi thành các dạng khác biệt đôi chút mỗi khi protein này thu nhận, vận chuyển và giải phóng oxy trong máu động vật có vú. Chỉ một thay đổi nucleotide trong DNA cũng có thể gây biến đổi trình tự amino acid trong protein. Bởi cấu trúc protein là kết quả của trình tự amino acid, nên những thay đổi trình tự có thể làm thay đổi đột ngột các đặc tính của protein, do sự mất ổn định cấu trúc hay biến đổi bề mặt protein là nguyên nhân dẫn tới thay đổi về tính tương tác của nó với những protein và phân tử khác. Một ví dụ, bệnh thiếu máu hồng cầu liềm là một bệnh di truyền ở người, gây ra do khác biệt một base trong vùng mã hóa phần β-globin của hemoglobin, khiến một amino acid ở protein này cũng biến đổi theo và làm thay đổi đặc tính vật lý của hemoglobin. Những hemoglobin này kết hợp với nhau, làm biến đổi hình dạng tế bào hồng cầu; các tế bào hồng cầu hình liềm không còn di chuyển dễ dàng trong mạch máu, chúng có xu hướng tắc nghẽn và thoái hóa, gây nên những vấn đề sức khỏe gắn liền với bệnh này. Một vài gen được phiên mã tạo RNA, nhưng RNA lại không tiếp tục dịch mã thành sản phẩm protein - được gọi chung là RNA không mã hóa ("non-coding RNA"). Trong một số trường hợp, RNA không mã hóa lại gập uốn hình thành những cấu trúc, tham gia các chức năng then chốt của tế bào (ví dụ RNA ribosome và RNA vận chuyển). RNA cũng có thể có tác động điều hòa thông qua tương tác lai với những phân tử RNA khác (ví dụ microRNA). Kiểu gen, kiểu hình và môi trường. Dù các gen chứa đựng mọi thông tin một sinh vật cần để thực hiện chức năng, môi trường vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định kiểu hình sau cùng— tính lưỡng phân trên được nói đến trong cụm từ "bản chất đối chọi môi trường" ("nature vs. nurture"). Kiểu hình của các sinh vật phụ thuộc vào sự tương tác giữa kiểu gen và môi trường. Một ví dụ cho kết luận này là trường hợp đột biến mẫn cảm với nhiệt độ. Thông thường, một amino acid đơn lẻ thay đổi trong chuỗi protein không làm thay đổi hoạt động và tương tác của nó với các phân tử khác, tuy nhiên điều này lại làm mất ổn định cấu trúc. Trong môi trường nhiệt độ cao, các phân tử chuyển động nhanh hơn và va chạm vào nhau, kết quả protein không còn giữ được cấu trúc và mất đi chức năng. Ở môi trường nhiệt độ thấp, cấu trúc protein lại ổn định và thực hiện chức năng bình thường. Loại đột biến này có thể quan sát thấy ở màu lông những con mèo Xiêm, khi một đột biến xảy ra ở enzym phụ trách sản xuất sắc tố, khiến enzym mất ổn định và mất chức năng ở nhiệt độ cao. Protein này sẽ duy trì chức năng ở những vùng da lạnh hơn - như chân, tai, đuôi và mặt - làm cho giống mèo này vẫn có phần lông màu đen ở những vùng nói trên. Một ví dụ khác là ảnh hưởng sâu sắc của môi trường lên bệnh di truyền phenylketon niệu ở người. Đột biến tạo nên chứng bệnh này, phá hoại khả năng phân giải amino acid phenylalanine, tích tụ các chất trung gian gây độc, tiếp đó gây nên những tác động rất xấu lên thần kinh. Nếu một người bị mắc đột biến phenylketon niệu đi theo một chế độ ăn uống nghiêm ngặt tránh xa loại amino acid này, anh ta vẫn duy trì được tình trạng bình thường và khỏe mạnh. Điều hòa gen. Bộ gen của một sinh vật bao gồm hàng nghìn gen, nhưng không phải bất cứ gen nào cũng cần được hoạt động tại mọi thời điểm. Một gen chỉ có thể được biểu hiện khi nó được phiên mã thành mRNA (và dịch mã thành protein); thực tế tồn tại nhiều cách thức trong tế bào để điều khiển sự biểu hiện của gen, đảm bảo cho protein nào được sản xuất chỉ khi tế bào cần. Các nhân tố phiên mã là những protein điều hòa được gắn vào điểm khởi đầu của gen, có vai trò hoạt hóa hay ức chế sự phiên mã của gen đó. Ví dụ, trong bộ gen của vi khuẩn "E. coli" có một dãy nhiều gen cần thiết cho việc tổng hợp amino acid tryptophan. Tuy nhiên, khi tryptophan đã sẵn có trong tế bào, những gen tổng hợp trytophan sẽ không được duy trì hoạt động. Sự có mặt của trytophan trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của những gen này - những phân tử trytophan liên kết với chất ức chế trytophan ("trp repressor" - một nhân tố phiên mã), thay đổi cấu trúc của phân tử này giúp nó gắn được vào gen. "Trytophan repressor" ngăn chặn quá trình phiên mã và sự biểu hiện của các gen tổng hợp trytophan, do đó tạo nên sự điều hòa liên hệ ngược âm tính của quá trình tổng hợp loại amino acid này. Những khác biệt trong biểu hiện gen đặc biệt rõ ràng ở các sinh vật đa bào, khi các tế bào cùng có chung bộ gen nhưng lại có cấu trúc và hoạt động rất khác nhau, dựa trên sự biểu hiện của các tập hợp gen khác nhau. Tất cả tế bào trong một cơ thể đa bào đều có nguồn gốc từ một tế bào duy nhất, được biệt hóa thành các dạng tế bào khác nhau khi phản ứng lại các tín hiệu ngoại và gian bào, và dần dần kiến lập các phương thức biểu hiện gen khác nhau để thực hiện các hoạt động khác nhau. Bởi không có một gen riêng lẻ nào chịu trách nhiệm cho sự phát triển các cấu trúc bên trong sinh vật đa bào, nên những phương thức biển hiện trên đều phát sinh từ những tương tác phức tạp giữa nhiều tế bào. Ở sinh vật nhân chuẩn, tồn tại những đặc tính cấu trúc của chromatin có ảnh hưởng đến sự phiên mã của gen, thường ở dạng thường biến ("modification") trên DNA hay chromatin mà vẫn được di truyền ổn định sang các tế bào con. Những đặc tính này được gọi là "ngoại di truyền" ("epigenetic") bởi chúng xuất hiện ở ngoài phạm vi trình tự DNA và vẫn được duy trì từ tế bào này sang thế hệ kế tiếp. Bởi có những đặc tính ngoại di truyền, các dạng tế bào khác nhau sinh trưởng trong cùng một môi trường có thể giữ lại những đặc điểm riêng biệt của chúng. Dù các đặc tính ngoại di truyền nhìn chung mang tính động trong tiến trình phát triển và không được giữ lại ở thế hệ sau của thế hệ kế tiếp, nhưng một số, như hiện tượng cận đột biến ("paramutation"), vẫn được di truyền qua nhiều thế hệ và tồn tại như những ngoại lệ hiếm hoi nằm ngoài quy luật chung của DNA (được xem như cơ sở căn bản của tính di truyền). Biến đổi di truyền. Đột biến. Trong quá trình tự nhân đôi DNA, những sai sót đôi lúc diễn ra khi tổng hợp chuỗi thứ hai. Những lỗi này, gọi là đột biến, có thể có tác động lên kiểu hình của cá thể, đặc biệt nếu chúng xảy ra tại phần mã hóa protein của một gen. Tỷ lệ sai sót thường rất thấp - 1 lỗi trong 10-100 triệu base - nhờ khả năng "đọc sửa" của DNA polymerase (Nếu không được đọc sửa, tỷ lệ lỗi sẽ cao hơn hàng nghìn lần, bởi nhiều virus dựa vào DNA hay RNA polymerase thiếu khả năng đọc sửa, làm tăng tỷ lệ đột biến lên cao). Quá trình làm tăng tỷ lệ biến đổi ở DNA được gọi là "gây đột biến" ("mutagenic"): các hóa chất gây đột biến đẩy mạnh làm tăng sai sót trong tái bản DNA, gây nhiễu loạn kết cấu của sự ghép cặp base; trong khi tia UV tạo ra đột biến bằng cách gây tổn hại cấu trúc DNA. Các tổn thương về hóa học ở DNA cũng có thể diễn ra một cách tự nhiên, và tế bào sử dụng cơ chế sửa chữa DNA để sửa lại các ghép đôi không cân xứng hay đứt gãy ở DNA - tuy nhiên việc sửa chữa này thỉnh thoảng vẫn thất bại và không thể đưa DNA trở lại chuỗi ban đầu. Với những sinh vật sử dụng trao đổi chéo nhiễm sắc thể để trao đổi DNA và tái tổ hợp gen, những sai sót khi bắt cặp thẳng hàng ở giảm phân cũng có thể tạo ra đột biến. Lỗi trong trao đổi chéo đặc biệt xảy ra khi những phần giống nhau trên các nhiễm sắc thể khiến chúng bắt cặp nhầm lẫn, làm một số vùng của bộ gen bị đột biến. Những lỗi này tạo nên sự thay đổi cấu trúc lớn trong nhiễm sắc thể và trình tự DNA - dẫn đến sự lặp đoạn, đảo đoạn hay mất đoạn của tất cả các vùng trên, hoặc sự hoán đổi ngẫu nhiên các đoạn giữa các nhiễm sắc thể khác nhau (được gọi là chuyển đoạn). Chọn lọc tự nhiên và tiến hóa. Đột biến tạo nên các cá thể với kiểu gen khác nhau, và những khác biệt này dẫn tới những kiểu hình khác nhau. Nhiều đột biến có tác động không lớn lên kiểu hình, sức khỏe và sự thích ứng sinh sản của sinh vật. Tác động của đột biến thường là có hại, nhưng đôi khi lại trở nên có ích. Những nghiên cứu trên ruồi giấm "Drosophila melanogaster" cho thấy nếu một đột biến thay đổi một protein mã hóa bởi một gen, điều này hầu như sẽ gây tác hại: 70% trong những đột biến này là có hại, số còn lại là trung tính hoặc có lợi nhưng rất thấp. Di truyền học quần thể nghiên cứu về sự phân bố những khác biệt di truyền trong các quần thể và những thay đổi của sự phân bố đó theo thời gian. Thay đổi về tần số một allele trong quần thể có thể là do ảnh hưởng của chọn lọc tự nhiên, khi tỷ lệ những cá thể mang một allele nào đấy sống sót và sinh sản được cao hơn khiến allele này xuất hiện nhiều hơn trong quần thể qua thời gian. Sự biến động di truyền ("genetic drift") cũng có thể diễn ra, khi những sự kiện bất chợt làm biến đổi ngẫu nhiên tần số allele. Trải qua nhiều thế hệ, bộ gen của các sinh vật có thể thay đổi, dẫn đến hiện tượng tiến hóa. Đột biến và chọn lọc các đột biến có lợi giúp các loài tiến hóa và tồn tại tốt hơn trong môi trường của chúng, quá trình này gọi là thích nghi. Những loài mới được tạo thành thông qua quá trình hình thành loài, quá trình thường có nguyên nhân từ cách biệt địa lý dẫn đến những quần thể khác nhau trở nên cách ly về di truyền. Việc ứng dụng các nguyên lý di truyền vào nghiên cứu sinh học quần thể và tiến hóa được xem là thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại. Khi các trình tự được cách ly và biến đổi trong quá trình tiến hóa, những khác biệt giữa các trình tự có thể được dùng như một đồng hồ phân tử để tính khoảng cách tiến hóa giữa chúng. Những so sánh di truyền nhìn chung được xem như cách thức đúng đắn nhất để mô tả mối liên hệ giữa các loài - một tiến bộ so với việc so sánh các đặc tính kiểu hình vốn dễ nhầm lẫn trước đây. Khoảng cách tiến hóa giữa các loài có thể được kết hợp tạo thành cây tiến hóa - những cây này miêu tả nguồn gốc chung và sự phân hướng của các loài qua thời gian, dù chúng không thể hiện được sự chuyển giao vật liệu di truyền giữa các loài không liên quan với nhau (được biết đến là sự chuyển gen ngang và chủ yếu phổ biến ở vi khuẩn). Nghiên cứu và công nghệ. Sinh vật mẫu. Dù các nhà di truyền học ban đầu nghiên cứu tính di truyền ở đa dạng các loài sinh vật, nhưng sau đó họ bắt đầu nghiên cứu tập trung tính di truyền ở nhóm những sinh vật đặc biệt. Thực tế, những nghiên cứu quan trọng ở một sinh vật nhất định sẽ khuyến khích các nhà nghiên cứu kế tiếp lựa chọn sinh vật đó để phát triển nghiên cứu xa hơn, và như thế cuối cùng chỉ có một số ít sinh vật mẫu đã trở thành cơ sở cho hầu hết các nghiên cứu về di truyền. Các đề tài nghiên cứu di truyền phổ biến trên các sinh vật mẫu gồm có nghiên cứu về điều hòa gen, mối liên quan giữa gen với sự phát triển hình thái và ung thư. Các sinh vật được lựa chọn, một phần bởi tính thuận tiện: có vòng đời ngắn và dễ dàng thao tác di truyền. Những sinh vật mẫu được sử dụng rộng rãi bao gồm: vi khuẩn đường ruột "Escherichia coli", cải "Arabidopsis thaliana", men bánh mỳ "Saccharomyces cerevisiae", giun tròn "Caenorhabditis elegans", ruồi giấm ("Drosophila melanogaster") và chuột nhà ("Mus musculus"). Di truyền y học. Di truyền y học tìm hiểu xem biến đổi di truyền liên hệ tới sức khỏe và bệnh tật của con người như thế nào. Khi tìm kiếm một gen chưa biết mà có thể liên quan tới một căn bệnh, các nhà nghiên cứu thường sử dụng liên kết gen và sơ đồ phả hệ di truyền để tìm ra vị trí của nó trong bộ gen. Ở cấp độ quần thể, các nhà nghiên cứu lợi dụng sự ngẫu nhiên hóa Mendel ("Mendelian randomization") để tìm ra những vị trí trong bộ gen mà liên đới với căn bệnh, một kỹ thuật đặc biệt hữu ích với những tính trạng đa gen không được xác định rõ ràng bởi một gen đơn lẻ. Khi một gen tương ứng được tìm ra, những nghiên cứu xa hơn sẽ tiếp tục thực hiện với cùng gen đó (được gọi là các gen trực giao) trên những sinh vật mẫu. Bên cạnh nghiên cứu các bệnh di truyền, việc tăng tính hữu hiệu của các kỹ thuật kiểu gen đã đưa đến lĩnh vực di truyền học dược lý—nghiên cứu làm sao kiểu gen có thể tác động lên các phản ứng thuốc. Dù không di truyền được, ung thư vẫn được công nhận là một căn bệnh di truyền. Quá trình phát triển ung thư của một cơ thể là sự kết hợp của nhiều sự kiện. Các đột biến thỉnh thoảng diễn ra trong các tế bào của cơ thể khi chúng phân chia. Trong khi những đột biến này sẽ không di truyền được sang thế hệ sau, chúng lại có thể tác động lên hoạt động của các tế bào, có khi khiến tế bào phát triển và phân chia nhanh hơn. Có những cơ chế sinh học cố gắng ngăn chặn quá trình này; những tín hiệu được chuyển đi tới những tế bào phân chia không thích hợp và khởi động quá trình "apoptosis" (tế bào chết theo chương trình). Tuy vậy, đôi lúc những đột biến thêm tiếp tục diễn ra làm tế bào không nhận được các tín hiệu. Một quá trình chọn lọc tự nhiên xảy ra bên trong cơ thể, và rốt cuộc, đột biến tích lũy trong các tế bào làm đẩy mạnh sự phát triển của chúng, tạo ra khối u ung thư, tiếp tục phát triển và xâm chiếm các mô khác nhau trong cơ thể sinh vật. Kỹ thuật di truyền. DNA có thể được thao tác trong phòng thí nghiệm. Các enzym cắt giới hạn là loại enzym thường được sử dụng để cắt DNA thành những chuỗi riêng biệt, tạo ra những đoạn DNA có thể định trước được. Việc sử dụng các enzym gắn cho phép các đoạn này nối lại với nhau, và nối các đoạn DNA từ các nguồn khác nhau; nhờ thế các nhà nghiên cứu có thể tạo ra DNA tái tổ hợp. Thường gắn liền với các sinh vật biến đổi gen, DNA tái tổ hợp thông thường được tạo nên từ các plasmid - những đoạn DNA vòng ngắn chứa đựng một vài gen. Bằng cách chèn plasmid vào vi khuẩn và nuôi các vi khuẩn này trên đĩa thạch agar (để phân lập các dòng tế bào vi khuẩn), những nhà nghiên cứu có thể khuếch đại vô tính các đoạn DNA đã chèn (quá trình được biết đến là tách dòng phân tử). DNA cũng có thể được khuếch đại nhờ sử dụng một kỹ thuật gọi là phản ứng chuỗi trùng hợp (PCR). Sử dụng những chuỗi DNA ngắn đặc hiệu, PCR có thể phân lập và khuếch đại theo hàm mũ một vùng DNA đã xác định. Bởi khả năng phóng đại kể cả những đoạn cực nhỏ của DNA, PCR thường xuyên được sử dụng để phát hiện sự có mặt của những trình tự DNA cụ thể. Xác định trình tự DNA và hệ gen học. Là một trong những kỹ thuật chủ yếu được phát triển để nghiên cứu di truyền học, "xác định trình tự DNA" ("DNA sequencing") cho phép các nhà nghiên cứu xác định trình tự nucleotide trên một đoạn DNA. Phát triển năm 1977 bởi Frederick Sanger và các cộng sự, phương pháp xác định trình tự gián đoạn chuỗi hiện nay là phương pháp được sử dụng thường lệ. Với kỹ thuật này, các nhà khoa học có thể nghiên cứu được những trình tự phân tử liên quan tới nhiều bệnh di truyền ở người. Khi xác định trình tự đã trở nên đỡ tốn kém hơn, cùng với sự trợ giúp của các công cụ tính toán, những nhà nghiên cứu đã xác định được bộ gen của nhiều sinh vật bằng cách liên kết trình tự của nhiều đoạn khác nhau (quá trình này gọi là "lắp ráp bộ gen" - "genome assembly"). Những kỹ thuật trên được sử dụng để xác định bộ gen người, đã được hoàn thiện trong Dự án bản đồ gen người vào năm 2003. Những kỹ thuật xác định trình tự cao năng ("high-throughput") mới đột ngột làm giảm chi phí xác định trình tự DNA, đem tới hy vọng mới cho nhiều nhà nghiên cứu rằng có thể thực hiện được việc này với giá thành chỉ còn 1000 đô la Mỹ. Thành tựu giải trình tự DNA ngày càng nhiều, kết hợp với các nhu cầu khác của y học, dân tộc học v.v đã thúc đẩy sự hình thành nên hệ gen học ("genomics") - một khoa học liên ngành nghiên cứu về tất cả các gen của bộ gen trong cơ thể, sử dụng các công cụ tính toán để tìm kiếm và phân tích các mô hình trong bộ gen đầy đủ của sinh vật. Hệ gen học có ứng dụng và liên quan nhiều đến tin sinh học, là một bộ môn sử dụng máy tính cùng những thuật toán khác để tập hợp các dữ liệu sinh học cũng như mô phỏng các quá trình sinh học. Một vài vấn đề xã hội liên quan. Có nhiều vấn đề về di truyền học liên quan đến xã hội, đang được bàn cãi. Sự di truyền trí thông minh. Trí thông minh loài người có mang tính di truyền hay không là một vấn đề được tranh cãi và nghiên cứu kể từ khi di truyền học ra đời cho đến nay và có thể còn tiếp tục kéo dài. Đa số các học giả đồng ý rằng tính di truyền có ảnh hưởng nhất định đến sự thông minh, tuy nhiên ở mức độ nào thì vẫn còn nhiều tranh luận. Sự phức tạp của vấn đề tăng lên khi một số độc giả đưa thêm yếu tố chủng tộc vào. Một số học giả đánh giá di truyền trí thông minh qua chỉ số thông minh (IQ), một số khác cho rằng vấn đề phức tạp hơn nhiều, không thể chỉ đơn thuần căn cứ vào IQ. Thêm vào đó một số người lại cho rằng trí thông minh được di truyền theo mẹ. Ưu sinh học. Thuật ngữ ưu sinh học ("eugenics") được nêu ra lần đầu vào năm 1893, với mục tiêu phát triển lĩnh vực "cải thiện giống người". Tuy vậy, sau khi bị Đức Quốc xã lợi dụng vào những năm 1920-1930, ưu sinh học đã không được nhắc tới trong thời gian dài. Người ta phân ra hai hình thức của ưu sinh học: Hiện nay, một số người cho rằng có thể dùng liệu pháp gen để cải tạo loài người, nhưng chỉ nên tác động ở tế bào soma. Việc cải tạo con người hay tạo ra những con người siêu việt vấp phải một số vấn đề đạo đức và nhân chủng học. Đạo đức sinh học. Việc phát triển của ngành sinh học nói chung và di truyền học nói riêng đã tạo ra không ít vấn đề về đạo đức sinh học. Một số nhà khoa học đã đề nghị tiến hành trưng cầu dân ý để cấm việc nghiên cứu về di truyền học. Một số khác thì đề nghị cần có những luật lệ rõ ràng để bảo vệ bộ gen người, phù hợp với các quy chuẩn đạo đức của con người. Nhiều vấn đề tâm lý xã hội nảy sinh khi biết rõ bộ gen một người nào đó: nếu họ là những người bình thường nhưng có mang gen bệnh thì vấn đề hôn nhân, sinh đẻ hay xin việc làm của họ sẽ như thế nào. Sau khi thí nghiệm về nhân bản người được tiến hành tại Mỹ năm 1993, một số nước thuộc Cộng đồng châu Âu đã đưa ra các luật lệ cấm các thí nghiệm dạng này. Một số nhà bảo vệ môi sinh kịch liệt phản đối việc nhân bản người và sinh vật bằng các kỹ thuật di truyền. UNESCO đã lập ra Ủy ban quốc tế về Đạo đức sinh học nhằm thu nhập các ý kiến xây dựng nên các luật lệ về đạo đức sinh học liên quan đến bộ gen người. Sinh vật biến đổi di truyền. Kỹ thuật di truyền tạo ra các sinh vật biến đổi về mặt di truyền (GMO) đã khiến nhiều người quan ngại: liệu các sinh vật này có lấn át, ảnh hưởng xấu tới các dạng sinh vật tự nhiên khác hay tạo ra các dạng bệnh mới do tái tổ hợp với các dạng tự nhiên? Liệu các gen của các sinh vật biến đổi di truyền có gây nguy hiểm cho cơ thể con người hay không? Liệu các thực vật kháng chất diệt cỏ chẳng hạn có khả năng chuyển gen cho cỏ dại hay không. v.v. Trước các lo ngại này, nhiều nước đã xây dựng luật lệ chặt chẽ để kiểm soát các sinh vật GMO. Khoa học hình sự. Do mọi mô trong cơ thể đều chứa cấu trúc DNA nguyên vẹn của một cá thể nên khoa học pháp y có thể dựa vào các mẫu sinh học tìm thấy ở hiện trường để xây dựng được hồ sơ di truyền học của cơ thể đó, từ đó giúp xác định thủ phạm hay loại bỏ nghi can vô tội trong một vụ án. Ngoài ra, các phép phân tích di truyền cũng cho phép khẳng định hay loại trừ một nghi vấn về quan hệ huyết thống nào đó, chẳng hạn như trong trường hợp xác định cha mẹ của một đứa trẻ bị thất lạc.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Phản ứng trùng ngưng là quá trình tổng hợp polymer dựa vào phản ứng của các monomer có chứa những nhóm chất, tạo thành những liên kết mới trong mạch polymer và đồng thời sinh ra hợp chất phụ như nước, HCl... VD: nNH2 – [CH2]5COOH ---> (–NH – [CH2]5CO–)n + nH2O
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Alcohol (còn được gọi là chất rượu), là một hợp chất hữu cơ chứa nhóm -OH gắn vào một nguyên tử carbon mà đến lượt nó lại gắn với một nguyên tử hydrogen hoặc carbon khác. Trong đời sống thông thường, từ alcohol được hiểu như là những thức uống có chứa cồn (ethanol) hay ethylic alcohol (C2H5OH). Cấu trúc. Nhóm chức của rượu là nhóm hydroxyl -OH gắn với carbon lai sp³. Còn gọi là nhóm chức alcohol. Phân loại. Có các loại alcohol mạch thẳng và alcohol mạch nhánh, vòng. - Rượu no: Ví dụ: CH3-CH2-OH (ethanol), CH3-OH (methanol)... - Rượu không no: Ví dụ: CH2=CH-CH2-OH (allyl)... - Rượu thơm: Ví dụ: C6H5CH2OH (Benzyl alcohol)... - Rượu đơn chức: Ví dụ: CH3-CH2-OH (ethanol), CH3-CH(OH)-CH3 (isopropanol)... - Rượu đa chức: Ví dụ: OH-CH2-CH2-OH (ethylene glycol), OH-CH2-CH(OH)-CH2-OH (glycerol)... Tính chất vật lý và hóa học. Nhóm hydroxyl làm cho phân tử alcohol phân cực. Nhóm này có thể tạo ra những liên kết hydrogen với nhau hoặc với chất khác. Hai xu hướng hòa tan đối chọi nhau trong các alcohol là: xu hướng của nhóm -OH phân cực tăng tính hòa tan trong nước và xu hướng của chuỗi carbon ngăn cản điều này. Vì vậy, methanol, ethanol và propanol dễ hòa tan trong nước vì nhóm hydroxyl chiếm ưu thế. Butanol hòa tan vừa phải trong nước do sự cân bằng của hai xu hướng. Pentanol và các butanol mạch nhánh hầu như không hòa tan trong nước do sự thắng thế của chuỗi carbon. Vì lực liên kết hóa học cao trong liên kết của alcohol nên chúng có nhiệt độ bốc cháy cao. Vì liên kết hydrogen, alcohol có nhiệt độ sôi cao hơn so với hydrocarbon và ether tương ứng. Mọi alcohol đơn giản đều hòa tan trong các dung môi hữu cơ. Alcohol còn được coi là những dung môi. Chúng có thể mất proton H+ trong nhóm hydroxyl và vì vậy chúng có tính acid rất yếu: yếu hơn nước (ngoại trừ methanol), nhưng mạnh hơn ammonia (NH4OH hay NH3) hay acetylene (C2H2). C2H5-OH + Na → C2H5-ONa + H2↑ C2H5-ONa + HCl → C2H5-OH + NaCl C2H5-ONa + H2O → C2H5-OH + NaOH Một phản ứng hóa học quan trọng của alcohol là phản ứng thế nucleophile ("nucleophilic substitution"), trong đó một nhóm nucleophile liên kết với nguyên tử carbon được thay thế bởi một nhóm khác. Đây là một trong các phương pháp tổng hợp alcohol. Hay: alcohol bản thân nó là những chất nucleophile, vì vậy chúng có thể phản ứng với nhau trong một số điều kiện nhất định về nhiệt độ, áp suất, môi trường v.v... để tạo thành ether và nước. Chúng cũng có thể phản ứng với các hydroxyl acid (hay hydrohalic acid) để sản xuất hợp chất ester, trong đó este của các acid hữu cơ là quan trọng nhất. Với nhiệt độ cao và môi trường acid (ví dụ H2SO4), alcohol có thể mất nước để tạo thành các alkene. Ngược lại, việc thêm nước vào alkene với xúc tác acid thì tạo thành alcohol nhưng ít được sử dụng để tổng hợp alcohol do tạo thành một hỗn hợp. Một số công nghệ kỹ thuật khác để chuyển alkene thành alcohol có độ tin cậy cao hơn. Ngoài ra, do bản thân ancol có các gốc hydrocarbon nên chúng dễ phản ứng với các amine. Ví dụ như N,N-dimethylaniline được sản xuất bằng cách cho aniline tác dụng với methanol theo tỷ lệ 1:2. Độc tính. Ethanol. Các hình thức thức uống có cồn được sử dụng từ rất lâu trong lịch sử loài người như hội hè, ăn kiêng, y tế, tôn giáo v.v... Việc sử dụng một lượng vừa phải cồn thì không có hại hoặc có thể có lợi cho cơ thể nhưng một lượng lớn cồn có thể dẫn đến tình trạng say rượu hay ngộ độc rượu cấp tính và các tình trạng nguy hiểm cho sức khỏe như: nôn, khó thở do thiếu oxygen, lạnh, đột tử hoặc tình trạng nghiện rượu dẫn đến tổn thương gan, não nếu sử dụng thường xuyên. Các loại alcohol khác độc hơn ethanol rất nhiều, một phần vì chúng tốn nhiều thời gian hơn để phân hủy cũng như trong quá trình phân hủy chúng tạo ra nhiều chất độc cho cơ thể. Methanol (Cồn công nhiệp) được oxy hóa bởi các enzyme khử hydrogen trong gan tạo ra fomaldehyde (formol) có thể gây mù hoặc tử vong. Uống nhiều rượu rất có hại với sức khoẻ, người nghiện rượu có thể mắc bệnh suy sinh dưỡng, giảm thị lực... Methanol. Methanol (Cồn công nghiệp) là một chất rất độc, chỉ một lượng nhỏ xâm nhập vào cơ thể cũng có thể gây mù lòa, lượng lớn hơn có thể gây tử vong. Có một điều thú vị là để ngăn chặn ngộ độc do dùng nhầm methanol thì người ta cho người bị ngộ độc dùng Ethanol. Ethanol sẽ liên kết với các enzyme khử hydro và ngăn không cho methanol liên kết với các enzyme này Sử dụng. Cồn có công dụng trong việc sản xuất thức uống (ethanol). Lưu ý là phần lớn các loại cồn không thể sử dụng như thức uống vì độc tính (toxicity) của nó hay làm nguồn nhiên liệu (methanol) hoặc dung môi hữu cơ cũng như nguyên liệu cho các sản phẩm khác trong công nghiệp (nước hoa, xà phòng v.v...). Methanol chủ yếu được dùng để sản xuất Andehit Fomic nguyên liệu cho công nghiệp chất dẻo. Ethanol dùng để điều chế một số hợp chất hữu cơ như acetic acid, diethyl ether, ethyl acetate...Do có khả năng hòa tan tốt một số hợp chất hữu cơ nên ehtanol được dùng để pha vecni, dược phẩm, nước hoa... Trong đời sống hàng ngày ethanol được dùng để pha chế các loại thức uống với độ alcohol khác nhau. Sản xuất. Phần lớn các loại alcohol được sản xuất bằng phương pháp hóa học từ các chất hữu cơ sẵn có trong tự nhiên như dầu mỏ, hơi đốt hoặc than. Trong công nghiệp sản xuất thức uống người ta sử dụng phương pháp khác: lên men hoa quả hoặc ngũ cốc để tạo ra thức uống có chứa cồn (ethanol). Ngoài ra, trong phòng thí nghiệm, nếu chỉ cần một lượng nhỏ, ta có nhiều cách để tạo như: Cách đặt tên. Hệ thống hóa tên gọi. Tên chung cho các loại alcohol thường được lấy theo tên của alkyl và thêm từ alcohol vào sau cộng với hậu tố -ic cuối gốc alkyl. Ví dụ methylic alcohol và ethylic alcohol. Đối với các loại alcohol phức tạp, tên gọi chung phụ thuộc vào vị trí của nhóm chức alcohol trong mạch carbon mà gọi là alcohol bậc nhất, bậc hai hay bậc ba. Trong hệ thống tên gọi của IUPAC, thì thêm hậu tố -ol vào tên của alkane (bỏ -e ở cuối). Ví dụ methane --> methanol. Trong trường hợp cần thiết thì vị trí của nhóm hydroxyl được thêm vào trước hoặc sau tên gọi. Ví dụ 1-propanol hay propanol-1. Một cách đặt tên khác là thêm tiền tố hydroxy vào tên của alkane: 1-hydroxypropane, 2-hydroxypropane. Alcohol bậc ba thì thêm tiền tố 3 trước tên của alkyl + ic. Alcohol với hai nhóm chức hydroxyl được gọi chung là "glycol", ví dụ HO-CH2CH2-OH là ethylene glycol. Tên gọi của nó theo IUPAC là 1,2-ethanediol, "diol" chỉ rằng có hai nhóm hydroxyl, và 1,2 chỉ vị trí liên kết của chúng. Các glycol tương tự (với cả hai nhóm hydroxyl liên kết với một nguyên tử carbon), như 1,1-ethandiol, nói chung là không ổn định. Đối với alcohol có ba hoặc bốn nhóm chức alcohol, sử dụng hậu tố "triol" và "tetraol".
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Nhân Chứng Giê-hô-va là một tôn giáo mà niềm tin của họ dựa trên Kinh Thánh Ki-tô giáo. Trang web chính thức của họ là JW.ORG. Tên của tôn giáo này được dựa vào câu Kinh Thánh được ghi trong Ê-sai 43:10-12: "Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi là kẻ làm chứng ta, và là đầy tớ ta đã chọn, hầu cho các ngươi được biết và tin ta, và hiểu rằng ta là Chúa! Chẳng có Đức Chúa Trời nào tạo thành trước ta, và cũng chẳng có sau ta nữa. Ấy chính ta, chính ta là Đức Giê-hô-va, ngoài ta không có Cứu Chúa nào khác. Ấy chính ta là Đấng đã rao truyền, đã giải cứu, và đã chỉ bảo, chẳng có thần nào lạ giữa các ngươi. Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi đều là người làm chứng, và ta là Đức Chúa Trời!". Họ luôn giữ sự trung lập trong các vấn đề chính trị như Chúa Giê-su đã từ chối không làm vua khi dân Do Thái muốn tôn ngài làm vua. Giáo lý. Nhiều giáo lý của tôn giáo này khác biệt với các giáo lý của các giáo phái Ki-tô giáo khác, như họ không công nhận giáo lý Một Chúa Ba Ngôi, Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa, hình phạt đời đời trong hỏa ngục, linh hồn bất tử, sau khi chết được lên trời, v.v... Họ chỉ thờ phượng một Đức Chúa Trời có tên là Giê-hô-va. "Vả sự sống đời đời là nhìn biết Cha là Đức Chúa Trời có một và thật cùng Jesus Christ là Đấng Cha đã sai xuống"(Giăng 17:3) Do đó, nhiều tôn giáo khác không công nhận giáo phái này là Ki-tô giáo (những người tin vào Chúa Giê-su Ki-tô). Tháp Canh dựa trên niềm tin và giáo lý nguyên thủy và mở rộng của Charles Taze Russell, thẩm phán Joseph Franklin Rutherford, và những người thừa kế của họ. Họ cho rằng họ mới là môn đồ chân chính của Đấng Ki-tô nên họ có ân phước được Chúa Giê-su soi sáng để hiểu Kinh Thánh, ngoài ra Kinh Thánh để dùng cho việc dạy dỗ nhân loại hiểu biết về Đấng Tạo Hóa chứ không hẳn là một cuốn sách quá huyền bí đến nỗi Thiên Chúa phải che giấu điều gì đó với nhân loại. Giăng 17:21,22. Có người cho rằng: những gì cơ quan quản lý này khi nói về bất cứ đoạn Kinh Thánh rồi tự cho rằng đó là lời giải thích là lời nói cuối cùng thì hoàn toàn sai lầm. (Nhưng những người phản biện điều này có lẽ chưa hiểu một điều đơn giản ví dụ như: Ở một quốc gia thủ tướng mới hiểu biết được chìa khóa bí mật của đất nước, nhưng ông cũng sẵn sàng chia sẻ bí mật đó cho người mà ông tín nhiệm để thực thi nhiệm vụ, cũng vậy khi Chúa Giê-su hiểu được cuộn sách thì các môn đồ ngài tin tưởng cũng sẽ được ngài tỏ lộ). Nhân Chứng Giê-hô-va giải thích cặn kẽ những lời được các nhà tiên tri viết trong Kinh Thánh, họ tôn trọng Kinh Thánh cả phần Tân ước và Cựu ước, "Cả Kinh Thánh được viết ra bởi sự hướng dẫn của thần khí Đức Chúa Trời..." (II Ti-mô-thê 3:16). Ngoài ra toàn bộ ấn phẩm hợp pháp của họ đều dựa trên Kinh Thánh 100%. Họ không tham gia chiến tranh dù chịu tù đầy hay khổ sai vì không muốn cầm súng giết đồng loại và những Nhân Chứng Giê-hô-va ở những nước khác Họ cũng không cho phép truyền và nhận máu, dù nhằm mục đích cứu người, vì họ cho rằng máu là sự sống, và chỉ mình Đức Chúa Trời có quyền trên sự sống. Phạm vi hoạt động. Nhân Chứng Giê-hô-va hoạt động rộng khắp trên hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, với số bản dịch của các ấn phẩm lên đến hơn 1000 ngôn ngữ. Bản dịch Kinh Thánh chính của họ là bản dịch Thế Giới Mới. Kinh phí hoạt động của họ dựa trên nguyên tắc tự do quyên góp tùy theo khả năng mỗi người, không phân biệt đóng góp nhiều hay ít (II Cô-rinh-tô 8:12, 9:7). Họ từng trải qua nhiều cuộc bách hại của phát-xít Đức trong các trại tập trung. Những năm gần đây, họ gặt hái nhiều thắng lợi trong các vụ kiện tụng pháp lý tại châu Âu về quyền tự do tín ngưỡng và ngôn luận. Họ khuyến khích tín đồ đi rao giảng về sự thật trong Kinh Thánh cho mọi người nhưng không ép buộc ai phải làm công việc đó, vì họ cho rằng cả Đức Chúa Trời cũng không hề ép buộc ai cũng phải vâng lời ngài (Ma-thi-ơ 24:14; 28:19,20). Theo báo cáo của tổ chức này, đến ngày 31 tháng 8 năm 2019, Nhân Chứng Giê-hô-va có 8.683.117 người tham gia tại 240 quốc gia. Hiện nay trụ sở trung ương của họ được đặt tại Warwick, bang New York, Hoa Kỳ và in ấn sách báo dựa trên Kinh Thánh miễn phí và hợp pháp như: Tháp Canh, Tỉnh Thức...
114
114_gisu_maria_kit_cha
[ "gisu", "maria", "kit", "cha", "gio", "thin", "gioan", "luca", "giuse", "phc" ]
[ "Maria hay Đức Mẹ Maria là một phụ nữ người Do Thái quê ở Nazareth, thuộc xứ Galilea, sống trong khoảng những năm cuối thế kỷ I TCN đến đầu thế kỷ I CN. Theo Tân Ước và kinh Qur'an bà là mẹ của Giê-su. Các Kitô hữu coi Giêsu con trai bà là \"Đấng Kitô\" (nghĩa là \"Người được xức dầu\"), Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể, trong khi người Hồi giáo coi Giêsu là Đấng Messiah, là vị tiên tri quan trọng nhất của Thiên Chúa gửi đến cho dân tộc Israel.\nTrong Phúc âm Matthew và Phúc âm Luca, Maria được mô tả là một trinh nữ (tiếng Hy Lạp: παρθένος, \"parthénos\". Theo truyền thống, các tín đồ Kitô hữu tin rằng bà mang thai và sinh ra Giêsu là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Người Hồi giáo tin rằng bà được thụ thai theo lời phán của Thiên Chúa. Việc mang thai này xảy ra khi bà - lúc đó còn là một thiếu nữ khoảng 14 tuổi (theo Cựu ước) - đã đính hôn với Giuse, và ông bà đang trong thời gian chờ hoàn thiện nghi thức kết hôn theo tập tục của người Do Thái. Sau khi biết bà Maria có thai, Thánh Giuse liền bỏ đi và trong đêm đó Thánh Giuse nằm mộng thấy Sứ Thần hiện ra và giải thích rằng thai ấy chính là Con Thiên Chúa, bà và Giuse cùng chuyển đến vùng Bethlehem, tại đây bà đã hạ sinh Giêsu.\nNhững lời đầu tiên mà kinh Tân Ước tường thuật về cuộc đời của bà Maria là biến cố truyền tin, theo đó, sứ thần Gabriel đã hiện ra với bà để báo tin rằng bà được Thiên Chúa chọn để làm Mẹ của Giêsu. Sau này, Tân Ước có một đôi lần nhắc đến người mẹ Giêsu trong một vài sự kiện khác. Một số truyền thuyết trong các giáo hội Kitô giáo còn cho rằng cha mẹ của Maria là Thánh Gioakim và Thánh Anna. Một số nguồn thông tin khác không thuộc quy điển Kinh Thánh có viết về sự qua đời và hồn xác lên trời của bà Maria.\nBà Maria đã sớm được tôn kính trong đức tin của Kitô giáo, đặc biệt là trong Giáo hội Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông Phương. Họ gọi bà là \"Đức Mẹ hoặc Đức Bà.\" Trong Tin Lành và Hồi Giáo, Maria cũng được nhìn nhận với một vị trí đặc biệt. Trong một thời gian dài, bà Maria là chủ đề được ưa thích trong các tác phẩm hội họa, âm nhạc và văn học Kitô giáo. Ngày lễ mừng kính bà được Công giáo Rôma, Chính Thống Giáo Đông phương và Anh Giáo đồng cử hành là ngày 5 tháng 8. Ngoài ra, còn có thêm rất nhiều ngày lễ suy tôn bà Maria, tính theo những tước hiệu và sự kiện, được Giáo hội Công giáo mừng kính vào các ngày khác trong năm, như các ngày: 8 tháng 9 (Sinh Nhật Đức Mẹ) Giáo hội Công giáo, Chính Thống Giáo, Anh Giáo; 15 tháng 8 (Đức Mẹ hồn xác lên trời) Giáo hội Công giáo.\nCác nguồn đề cập tới Maria.\nTrong Tân Ước.\nGia đình và thời thơ ấu.\nTiểu sử về bà Maria được nói đến rất ít trong Tân Ước. Bà có họ hàng với bà Elizabeth (vợ của tư tế Zachariah) thuộc dòng dõi Aaron (Luca chương 1:5, chương 1:36). Theo phỏng đoán thì Maria sống cùng với cha mẹ tại Nazareth, xứ Galilea khi đã đính hôn với Giuse (Joseph), thuộc dòng dõi nhà David. Một số học giả bảo thủ không tin rằng, Giuse là con cháu Vua David (vì nhiều suy đoán hợp với phong cách ngôn từ và việc giới thiệu gia phả trong Phúc Âm Matthew). Trong thời gian đã hứa hôn (là thời kì đầu theo phong tục Do Thái), Maria được thiên sứ Gabriel đến báo tin rằng cô sẽ trở thành mẹ Đấng Messiah theo ý định của Thiên Chúa. Giuse chưa nhận ra việc mang thai của Maria là do quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Thần nên tỏ ra hoài nghi và muốn rời bỏ Maria một cách kín đáo. Nhưng trong một giấc mơ, Giuse được thiên thần mách bảo đừng lo nghĩ mà hãy nhận Maria về làm vợ mình để hợp với lề luật Do Thái.\nKhi được thiên thần báo tin về việc người chị họ Elizabeth mang thai lúc tuổi già, Maria vội vã đến thăm Elizabeth (Luca 1:39). Vừa đến nhà, Maria thiết tha gọi Elizabeth thì được Elizabeth đáp lời bằng câu: \"Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?\" và họ đã đọc một bài Thánh ca \"Ngợi khen\", được biết đến nhiều với cái tên Magnificat (Luca 1:46). Ba tháng sau, Maria quay trở về nhà mình. Theo Phúc âm Luca, một sắc lệnh của Hoàng đế La Mã Augustus quy định, Giuse phải cùng hôn thê mình về Bethlehem (gần Jerussalem) để đăng ký nhân khẩu. Khi họ đang ở Bethlehem, Maria đã sinh ra Giêsu và đặt đứa trẻ trong chiếc máng cỏ cho súc vật ăn vì họ không tìm được nhà trọ nghỉ chân. Sau tám ngày, con trẻ được cắt bì và được đặt tên là Giêsu, đúng như những gì Giuse được thiên thần chỉ dạy trong giấc mơ. Sau cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ Phương Đông, gia đình họ phải lánh sang Ai Cập. Khi Herodes Đại đế chết, họ mới quay trở về.\nTrong cuộc đời Giêsu.\nNăm 12 tuổi, trên đường từ Jerusalem trở về sau Lễ Vượt Qua, Maria và Giuse bị lạc mất Giêsu và họ tìm thấy Giêsu trong Đền thờ Jerusalem, đang trò chuyện cùng với các thầy tu ở đây. Sau khi Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả và bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, Maria lại được biết đến trong một tiệc cưới ở Cana, khi đó, Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên: biến nước lã thành rượu và bắt đầu công việc giảng đạo (Gioan 2:1-11).\nTrong cái chết của Giêsu, Maria đứng cạnh người môn đệ Giêsu yêu quý, cùng với bà Maria vợ ông Clopas và bà Maria Magdalene (Gioan 19:25-26). Maria cũng là người đã ôm xác Giêsu sau khi hạ từ thập giá xuống, nhưng chi tiết này không được ghi chép trong Kinh Thánh, đó là một mô-típ nghệ thuật phổ biến gọi là \"pietà\" hoặc \"piety\" (nghĩa là Đức Mẹ Sầu Bi). Dựa theo Phúc âm Gioan thì nhiều Kitô hữu suy đoán rằng, sau khi Giêsu chịu chết thì bà Maria đã về nhà sống cùng Gioan - người môn đệ Giêsu yêu quý. Hai câu trong Tân Ước sau đây củng cố niềm tin này: \"\"Khi thấy mẹ và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với mẹ rằng: \"Thưa Bà, đây là con của Bà.\" Rồi Người nói với môn đệ: \"Đây là mẹ của anh.\" Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình \" (Gioan 19:26-27)\nSau khi Giêsu lên trời.\nTrong Sách Công vụ Tông đồ chương 1:26, bà Maria được nhắc lại trong sự kiện cùng với mười một tông đồ khác tụ họp trong căn phòng kín sau khi họ từ núi Ôliu trở về. Trong cuộc tụ họp này, họ đã tuyển chọn Mátthia thay thế cho Judas Iscariot trong nhóm mười hai. Một số suy đoán cho rằng \"người đàn bà được tuyển chọn\" đề cập trong thư thứ hai của Gioan chương 1:1 có thể là bà Maria. Từ thời điểm này, bà không còn được đề cập trong Kinh Thánh nữa, mặc dù một số học giả Thánh Kinh Công giáo cho rằng, \"Người Phụ nữ\" (và con Mãng Xà) trong Sách Khải Huyền chương 12:1 ám chỉ bà Maria.\nCái chết của bà Maria không được ghi lại trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, truyền thống và giáo lý Công giáo lẫn Chính Thống giáo giả định rằng hồn và xác của bà đã được đem về thiên đàng. Niềm tin này phổ biến trong Giáo hội Công giáo cũng như Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương và các giáo hội thuộc cộng đồng Anh giáo.\nVăn bản và truyền thống Kitô giáo sau này.\nPhúc âm Giacôbê (không được xem là một bộ phận của Tân Ước) còn cung cấp những tư liệu sau đây về Maria, và được Chính thống giáo Đông phương coi là hợp lý: Maria là con gái của Gioakim (Joachim) và Anna (Anne). Trước khi có thai Maria, Anna được coi là hiếm muộn. Khi Maria ba tuổi, họ đưa Maria đến sống trong Đền Thờ Jerussalem, điều này trùng hợp với sự kiện Hana đưa Samuel vào Lều Thánh được ghi trong Cựu Ước.\n\"Thánh Truyền\" của Công giáo Rôma và Chính thống giáo Đông phương tin rằng, trong khoảng 13 đến 15 năm sau khi Giêsu lên trời thì Maria qua đời (có thể tại Jerussalem hoặc Êphêsô) trong sự chứng kiến của các Tông đồ. Sau đó không lâu, các Tông đồ mở hầm mộ Maria ra thì bên trong chẳng còn gì, và họ xác định rõ ràng rằng Maria đã được mang về Thiên Đàng cả hồn lẫn xác.\nTôn kính Maria trong Kitô giáo.\nTừ thế kỷ II tới thời Trung Cổ.\nLòng sùng kính bà Maria trong Kitô giáo được bắt đầu từ thế kỷ thứ II. Đến thế kỷ thứ V, sau Công đồng Êphêsô I năm 431, việc sùng kính bà Maria được quy định cụ thể trong phụng vụ. Công đồng được tổ chức tại giáo hội ở Ephesus, là nơi được để hiến dâng cho Maria cả trăm năm về trước. Tại Ai Cập, việc sùng kính bà Maria bắt đầu vào thế kỷ thứ III, thuật ngữ \"Theotokos\" (\"Thánh Mẫu\") được các giáo hội đã được sử dụng bởi Origen thành Alexandrian.\nKinh nguyện về Đức Mẹ được biết đến sớm nhất là Kinh Trông Cậy, xuất hiện từ thế kỷ thứ III (có lẽ là năm 270). Sau này bản văn của lời kinh này trên giấy cói được phát hiện lại vào năm 1917 ở Ai Cập.< Kể từ sau Sắc lệnh Milano năm 313, và đặc biệt là từ thời Trung Cổ, những hình ảnh nghệ thuật về Maria bắt đầu xuất hiện trong các nhà thờ, một số nhà thờ được xây dựng để tôn kính Đức Maria, điển hình là Vương cung thánh đường Đức Bà Cả ở Roma.\nVào thời Trung Cổ thì xuất hiện nhiều truyền thuyết về Maria bao gồm những truyền thuyết về bố và ông của Bà.\nTừ khi cải cách.\nKể từ sau Cải cách Kháng Cách, việc sùng kính và tôn kính bà Maria đã có sự khác biệt theo từng giáo phái Kitô giáo. Ví dụ như các tín đồ Tin Lành thì việc sùng kính Maria rất ít nhưng đối với Chính Thống giáo Đông phương thì Maria được coi là nhân vật được tôn kính nhất, thậm chí còn được coi trọng hơn cả Cherubim và Seraphim.\nNhà thần học Chính Thống giáo Sergei Bulgakov có viết: \"Tình yêu và sự tôn kính của Đức Mẹ Maria đồng trinh thiêng liêng là linh hồn của đạo giáo Chính Thống Đông phương. Một đức tin trong đó chúa Giê-su phủ nhận mẹ của Người là một đức tin khác, đều này có nghĩa là Maria và đức tin Chính Thống giáo Đông phương là một.\"\nTuy Giáo hội Công giáo Rôma và Chính Thống giáo tôn sùng và tôn kính Maria nhưng họ không coi Maria là thần thánh và cũng không có thờ lạy bà. Công giáo Rôma coi Maria ở dưới quyền Chúa Giê-su nhưng lại hơn mọi sự khác. Cùng quan điểm ấy, thần học gia Sergei Bulgakov viết tuy cách nhìn Chính Thống giáo về Maria là vượt hơn mọi sự vật và không ngừng cầu nguyện với Chúa qua Bà là trung gian nhưng Bà không thể thay thế đáng toàn năng là Chúa Giê-su. Ông còn viết: \"Hãy tôn kính Maria nhưng chỉ thờ lạy mỗi mình Chúa\". Công giáo Rôma dùng từ \"hyperdulia\" để chỉ sự tôn kính cho Maria thay vì chữ \"latria\", chỉ dành cho Đức Chúa Trời và chữ \"dulia\" cho các Thánh. Các định nghĩa của ba thứ bậc \"latria\", \"hyperdulia\" và \"dulia\" được phát nguồn từ hội đồng thứ hai của Nicaea vào năm 787.\nSự tận tình đối với nghệ thuật chân dung của Maria khác biệt đối với các nhóm đạo Chúa khác nhau. Từ xưa đến này giáo hội Rôma đã có truyền thống vẽ chân dung của Maria, có lẽ bức họa nổi bật nhất của nghệ thuật Công giáo là bức Madonna. Biểu tượng của Đức Mẹ đồng trinh trở thành biểu tưởng được tôn sùng nhất trong Chính Thống giáo. Giáo hội Rôma và Chính Thống giáo cả hai đều tôn sùng hình ảnh và biểu tưởng của Maria, vì hội đồng của Nicaea năm 787 cho phép sự tôn sùng vì họ tin rằng khi tôn sùng hình ảnh của ai thì thật ra đang tôn sùng người đó và vào năm 842 Synod của Constantinople ra luật tương tự đối với Chính Thống giáo. Tuy nhiên, Chính thống giáo sẽ tôn kính những biểu tượng về Maria hai chiều (như chân dung) chứ không tôn sùng hình ảnh ba chiều của Maria (như tượng).\nCách nhìn của Anh giáo thì nói chung trung dung hơn so với cách nhìn của các nhánh Tin Lành khác. Trong một quyển sách, nói về sự cầu nguyện với hình ảnh Maria, do Rowan Williams, tổng giám mục của Canterbury, viết: \"Chúng ta không thể hiểu được Maria nếu không thấy Bà hướng đến Chúa Ki-tô; hơn nữa, chúng ta cũng không thể hiểu được Chúa Ki-tô nếu không thấy sự chú ý của ngài dành cho Bà.\"\nCác danh hiệu.\nHầu như Công giáo và Chính Thống giáo đều dành cho bà Maria những danh hiệu tôn kính đặc biệt. Các danh hiệu phổ biến nhất của bà Maria là: Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, Maria, Đức Bà và Nữ Vương Thiên Đàng. Các giáo phái Tin Lành và Hồi giáo không nhìn nhận các danh hiệu này, họ chỉ gọi đơn giản là bà Mary, mẹ Giêsu. Công đồng Êphêsô I (năm 413) tuyên bố rằng: \"không có gì ngại ngùng khi phải nói rằng, Đức Trinh nữ là Mẹ Thiên Chúa\", để nhấn mạnh đặc tính: con của Maria là Giêsu Kitô, thực tế cũng là Thiên Chúa.\nDanh hiệu \"Thánh Mẫu\" được sử dụng vào buổi đầu Kitô giáo, vì Maria là mẹ của Giêsu - người đôi khi được gọi là \"Vua muôn vua\" do Giêsu thuộc dòng dõi vua David. Sự suy phục này lấy cơ sở từ Kinh Thánh Cựu Ước. Theo Sách Các Vua quyển I 2:19-20, mẹ vua Solomon là bà Bathsheba, được vua rất yêu mến và vinh danh. Và bà Maria được suy phục như thế.\nMaria đôi khi cũng được gọi là \"Eva mới \", làm nổi bật sự vâng phục của bà với Thiên Chúa (tương phản với sự bất tuân của Eva khi xưa). Trong nghệ thuật tạo hình, bà Maria cũng có một số danh hiệu như: Đức Mẹ Sầu Bi, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Nữ Vương Hòa Bình...\nCác ngày lễ kính.\nCác ngày lễ lớn đầu tiên liên quan đến bà Maria là ngày Lễ Đức Mẹ dâng Giêsu trong đền thánh (Lễ Nến) có từ thế kỷ thứ V, được tính theo ngày Lễ Giáng Sinh. Quan điểm này xuất phát từ việc Phúc Âm Luca (2:22-40) kể rằng, 40 ngày sau khi Giêsu giáng sinh, bà Maria đã đem con trẻ vào đền thờ Jerusalem để tận hiến theo phong tục của người Do Thái. Ngày nay, lễ này rơi vào ngày 15 tháng 2 (lịch Gregory) hoặc 2 tháng 2 (lịch Julian).\nTheo thời gian, Kitô giáo xuất hiện nhiều ngày lễ gắn liền với sự kiện hoặc danh hiệu bà Maria cùng những việc thực hành tôn giáo kèm theo. Nhìnn chung, Giáo hội Công giáo Rôma có nhiều ngày lễ và nghi thức liên quan đến bà Maria hơn các nhánh Kitô giáo khác. Đặc biệt, một số ngày lễ có liên quan đến các sự kiện lịch sử cụ thể, ví dụ như Lễ Đức Mẹ Chiến Thắng được dựa trên sự thắng lợi của Nhà nước Giáo hoàng trong trận Lepanto năm 1571.\nSự khác biệt trong những ngày lễ về bà Maria cũng có thể bắt nguồn từ các vấn đề tín lý. Chẳng hạn, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ví dụ như vậy. Trong khi Công giáo cử hành lễ này trong ngày giả định là 15 tháng 8 thì một số nhánh Kitô giáo Đông phương cử hành ngày 28 tháng 8 (vì theo lịch Julian). Các giáo hội Tin Lành thì hầu như không hề có một ngày lễ nào về bà Maria.\nGiáo lý Kitô giáo liên quan.\nTheo học thuyết giáo lý Kitô giáo, Maria vẫn còn là một trinh nữ ít nhất là cho đến khi Giêsu được sinh ra (Mátthêu 1:25 và Luca 1:34-35). Hầu hết các giáo phái Tin Lành không tin Maria vẫn còn đồng trinh sau khi sinh của Giêsu vì sau đó bà còn sinh ra những người khác. Nhưng Công giáo Rôma, Chính thống phương Đông và một bộ phận Anh giáo vẫn tin Maria đồng trinh suốt phần còn lại của mình vì bà chỉ sinh duy nhất Giêsu mà thôi.\nCác giáo hội Kitô giáo dạy nhiều học thuyết khác nhau liên quan đến Maria, và bà là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận. Có cả một bộ phận thần học Kitô giáo liên quan đến Maria được gọi là \"Mariology\" (Thánh Mẫu học). Những quan niệm cơ bản là việc mang thai Giêsu của bà được tin là do quyền năng Chúa Thánh Thần, và để ứng nghiệm lời tiên tri Isaiah rằng: \"Một trinh nữ sẽ sinh một con trai và được gọi là Emmanuel\" (\"Thiên Chúa ở cùng chúng ta\").\nCông giáo Rôma, Anh giáo và Chính Thống giáo tôn kính với tước hiệu bà là \"Mẹ Thiên Chúa\" (Theotokos), người được Thiên Chúa ban ân sủng đặc biệt. Công giáo tin rằng, bà đã được sinh ra mà không có tội nguyên tổ, không có tội khi đang sống, cuộc sống ở trần gian là được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn, khi hoàn tất thì cả hồn và xác được vào Thiên Đàng. Một số giáo phái Tin Lành bảo thủ không đề cập đến Maria trong học thuyết của họ. Maria cũng giữ một vị trí đáng tôn kính trong đạo Hồi.\nCách nhìn về Maria.\nCái nhìn từ các nhánh Kitô giáo.\nCông giáo Rôma.\nTrong Giáo hội Công giáo Rôma, bà Maria được tôn vinh là \"Đầy Ơn Phúc\" (từ tiếng Latinh: beatus) nhằm công nhận rằng bà được lên thiên đàng ngự gần Thiên Chúa và có khả năng can thiệp, cầu thay nguyện giúp cho những người cầu nguyện với bà. Nhưng Giáo lý Công giáo minh định rõ ràng rằng bà Maria không được coi là có quyền phép như Thiên Chúa và lời cầu nguyện của loài người thì không phải do bà đáp ứng, mà là do Thiên Chúa đáp ứng. Bốn tín điều quan trọng của Công giáo về bà Maria: Mẹ Thiên Chúa, đồng trinh trọn đời, vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời.\nMaria có một vai trò trung tâm trong giáo lý, niềm tin và thực hành tôn giáo của Công giáo Rôma hơn trong bất kỳ nhóm Kitô giáo khác. Trong nhiều thế kỷ, người Công giáo đã thực hiện các hành vi tận hiến và uỷ thác cá nhân, tổ chức của họ cho bà Maria vì họ tin rằng bà sẽ hướng dẫn trong sự hoạt động của họ. Những thực hành tôn giáo chủ yếu của họ liên quan đến bà Maria là: đọc Kinh Mân Côi, đeo Áo Đức Bà và hành hương đến các linh địa Maria. Đặc biệt, Tháng Năm và Tháng Mười là truyền thống mà các tín đồ Công giáo đẩy mạnh sự tôn kính bà Maria. Nhiều vị giáo hoàng đã ban hành các thông điệp khuyến khích lòng sùng mộ và tôn kính Maria.\nTruyền thống Công giáo cũng cho rằng bà Maria có công trạng trong công trình cứu rỗi của Giêsu (đồng công cứu chuộc) nhưng không định quan điểm đó là một học thuyết.\nChính Thống giáo Đông phương.\nChính thống giáo Đông phương gồm có một số lượng truyền thống lớn về Đức Mẹ, Theotokos. Chính Thống giáo tin rằng bà đã và vẫn là trinh nữ trước và sau khi chúa Giê-su sinh ra. Cái tên \"Theotokia\" (hay còn gọi là thánh ca Maria) là một phần thiết yếu của tĩnh tâm trong Chính Thống giáo và sự tôn sùng của họ đã làm cho Theotoko trở thành nhân vật quan trọng nhất chỉ sau chúa Giê-su. Trong truyền thống Chính Thống giáo, các cấp bậc của các thánh bắt đầu từ trên xuống thấp như sau: Theotoko, thiên thần, tiên tri, tông đồ, các Cha, Thánh tử đạo... Đức Mẹ được xếp bậc cao hơn cả thiên thần. Đức Mẹ còn được tôn vinh làm \"Đức Mẹ của các thiên thần.\"\nQuan điểm của Giám mục giáo hội vẫn giữ một vai trò quan trọng trong quá trình hình thành cách nhìn về Maria của Chính Thống giáo. Tuy nhiên, quan điểm Chính Thống giáo về Đức Mẹ là từ các bài thánh ca ngắn (tiếng Anh\" Doxology\") thay vì có tính chất học thuật: những quan điểm của họ được trình bày qua những bài thánh ca, ca tụng, thơ tế lễ và sự tôn sùng của các biểu tượng. Một trong những bài thánh ca được nhiều người yêu thích nhất là Akathist, nó được hiến dâng tới Maria và nó nhiều khi còn được gọi là \"Bài thánh ca Akathist\". Năm trong mười hai đại lễ của Chính Thống giáo dùng để ăn mừng tôn sùng Maria. Ngày lễ Chính Thống giáo trực tiếp liên kết danh tính Đức Mẹ như Đức Mẹ của đức Chúa trời còn với biểu tượng tôn sùng. Các lễ Chính Thống giáo khác cũng có liên kết với những mầu nhiệm của biểu tượng của Theotoko.\nTin Lành.\nCộng đồng Tin lành tin có sự hoài thai Giêsu một cách mầu nhiệm của bà Maria, nhưng cho rằng bà Maria chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Giêsu, sau đó không còn đồng trinh nữa. Thậm chí một số phái Tin lành cho rằng Kinh Thánh nói bà Maria sau khi sinh Giêsu còn sinh cho ông Giuse một số người con một cách bình thường như các phụ nữ khác. Họ đã trích dẫn những câu Kinh Thánh nói về việc bà Maria có con thêm với ông Giuse, như trong Phúc âm Mátthêu (13:55-56) có nói: \"... Anh em Ngài (Giêsu) có phải là Giacô, Giosep, Simson, Giuđa ?\", hoặc sách Giăng (2:12) còn nói rõ hơn: \"Sau việc đó, anh em và môn đệ Ngài (Giêsu) đều xuống thành Ca-bê-na-um\". Do vậy, Tin Lành chỉ dành sự quan tâm bà Maria về vị trí là mẹ trần thế của Giêsu chứ không tôn sùng bà Maria như Công giáo. Bà Maria chỉ có công sinh và nuôi dạy Giêsu, chứ không phải là mẹ thần tính của Thiên Chúa.\nHồi giáo.\nMaria cũng được ghi nhận như là một phụ nữ có vị trí đặc biệt và vinh dự trong Hồi giáo. Có thể nói rằng, Maria được đề cập trong Kinh Qur'an nhiều hơn trong Tân Ước. Tên bà được nhắc đến 34 lần trong Chương III của Kinh Qur'an, hơn cả số lần trong Kinh thánh. Có cả một chương \"Mẹ Maria\" (Mariam) được các tín đồ Hồi giáo diễn tả là chương hay nhất trong toàn bộ kinh Qur'an. Maria là phụ nữ duy nhất được nêu đích danh trong Kinh Qur'an. Chương III trong kinh Qur'an là chương Imran, theo tên của Cha bà Maria. Đây là chương duy nhất có nói đến thân phận của một người phụ nữ ở kinh Qur'an. Trong Hồi giáo, bà xuất hiện với địa vị là mẹ của \"tiên tri Giêsu\". Kinh Qur'an nói về việc Maria dâng mình trong Đền thờ Giêrusalem, về lễ tẩy trần, về cuộc truyền tin, về sự trinh thai và về việc sinh Giêsu. Maria được Hồi giáo nhận biết và tôn kính là người được thánh hóa và cao trọng nhất trong các phụ nữ, và là sự hoàn hảo tâm linh: \"Các thiên thần nói: \"Maria! Thiên Chúa đã chọn bà và thanh tẩy bà – chọn bà hơn hẳn các phụ nữ ở mọi quốc gia\"\" và \"Maria! Xin thờ lạy Thiên Chúa: Xin phủ phục, và quỳ gối (khi cầu nguyện) với những người cùng quỳ gối\".\nĐiều ngạc nhiên đối với nhiều người Công giáo là Hồi giáo chấp nhận \"sự đồng trinh trọn đời\" của Maria, gián tiếp có nghĩa là Vô nhiễm Nguyên tội – hai tín điều chính về Maria của Công giáo. Trong kinh Qur'an, bà Maria được nhận biết là thụ tạo duy nhất không mắc Tội Tổ Tông từ trước khi làm người, được giữ thoát khỏi mọi tội suốt cả đời. Trong lời cầu nguyện của Maria trong kinh Qur'an: \"Lạy Chúa, con dấn thân phục vụ Ngài từ trong lòng con. Xin Ngài thương nhận. Chỉ mình Ngài lắng nghe và thấu suốt mọi sự\". Và khi Maria sinh Chúa Con, Maria nói: \"Lạy Chúa, con được gọi là mẹ của Người. Xin bảo vệ con và con cháu khỏi Satan... và xin Con Chúa chấp nhận con\".\nỞ phần khác, kinh Qur'an viết: \"Thiên thần nói: \"Hỡi Cô Maria, Allah đã chọn Cô và thanh tẩy Cô. Ngài đã chọn Cô hơn hẳn các phụ nữ khác. Hỡi Cô Maria, hãy tận hiến cho Thiên Chúa\"\".\nKinh Qur'an nói về sự đồng trinh của Maria: \"Đối với các tín hữu, Thiên Chúa thiết lập một tấm gương\" và \"Maria... người đã giữ mình đồng trinh và nơi cung lòng ấy, chúng ta hít thở Chúa Thánh Thần; Đấng đã làm Mẹ tin Lời Chúa và Kinh thánh, đồng thời rất đạo hạnh\".\nMột số niềm tin tương đồng và dị biệt về Maria giữa Công giáo và Hồi giáo.\nHình ảnh Maria trong nghệ thuật.\nHình ảnh xưa nhất về Maria mà ngày nay vẫn còn chính là bức tranh ở trong khu mộ của Priscilla, đường Salaria (Rôma). Bức bích họa này đã có từ đầu thế kỷ thứ II hoặc từ cuối thế kỷ thứ nhất, trình bày Đức Maria ngồi ẵm trẻ Giêsu, bên cạnh ngài có ai đó như một vị ngôn sứ, một tay cầm cuốn sách, một tay chỉ vào ngôi sao trên đầu Đức Maria.\nBa bức tranh khác cũng vẽ Đức Maria nằm trong cùng khu mộ Priscilla có niên đại khoảng từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ III: một bức ở trên mộ của một trinh nữ Kitô giáo vẽ Đức Maria ẵm Chúa Hài đồng. Bức hình này trình bày Đức Maria như tiêu biểu và khuôn mẫu của sự đồng trinh. Một bức khác vẽ hoạt cảnh các đạo sĩ đến viếng thăm Bêlem; bức còn lại nằm trong số các tranh Truyền tin ít được biết đến hơn. Các hình ảnh tương tự khác có niên đại từ trước thế kỷ thứ V xuất hiện ở trong khu mộ Domitilla, Callistô, mộ của ba thánh Phêrô, Marcellô và thánh Anrê. Trong đó có bức có hình các mẫu tự của chữ Kitô chồng lên nhau ở cả hai mặt của bức tranh; những chữ đó được vẽ quay về phía Chúa hài đồng.\nTranh vẽ và tượng Đức Maria thời kỳ đầu tiên của Kitô giáo thường mô tả quan hệ của Đức Maria với Giêsu trong tư cách là một trinh nữ và là mẹ của người. Những quan hệ ấy thường được nói đến trong tin mừng qua nhiều hoạt cảnh từ hoạt cảnh truyền tin đến hoạt cảnh Đức Kitô bị đóng đinh hay được mai táng. Việc công đồng Êphêsô (431) định tín Đức Maria là Mẹ thiên chúa chống lại Nestoriô đã dẫn đến một hình ảnh mới của Đức Maria trong nghệ thuật. Ban đầu nó xuất hiện ở Đông phương sau đó lan sang Ý, Tây Ban Nha và xứ Gaul. Thay vì được trình bày theo những hoạt cảnh được mô tả trong tin mừng, Đức Maria thường được miêu tả như nữ hoàng thiên quốc, cao sang trong y phục dát vàng ngồi uy nghi trên ngai.\nMaria trong nghệ thuật Byzantin được nghệ thuật Rôma tiếp thu nhưng thay vì vẽ Đức Maria trong tư thế cầu nguyện với hai tay giơ lên cao, các họa sĩ và điêu khắc gia Tây Phương thường hay trình bày Đức Maria như \"Tòa đấng khôn ngoan\". Đây không phải là cách diễn tả những tín lý mới về Đức Maria. Các nghệ sĩ Tây phương đã bỏ những đường nét Á châu lạnh lùng để trình bày hình ảnh Đức Maria một cách dịu dàng hơn, có tính con người hơn.\nTrong kiến trúc Gothich, người ta thường trình bày Đức Maria là \"Mẹ Đấng Cứu Chuộc\" cho thấy lòng thương xót của Chúa cứu thế cũng như của mẹ Người, đấng đồng công cứu chuộc. Lối nghệ thuật ấy tương ứng với thời đại đức tin, khi mà Hội thánh chăm lo canh tân đời sống và kỷ luật trong nội bộ. Đến thời kỳ Phục Hưng, chủ đề \"Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng\" được khai thác đặc biệt nhờ những tên tuổi lớn như Fra Angelico, Leonardo da Vinci, Raphael, Lippi, Botticelli, Correggio, Dolci, Perugino, Titian và Verrocchio ở Ý; Van Eyck, Memling và Rubens ở Flanders; hay như Holbein Trẻ và Durer ở Đức.\nTrong nghệ thuật Barốc, chủ đề tiêu biểu là Đức Maria \"người chiến thắng Satan\". Còn trong thời hiện đại, chủ đề về Maria được khai thác chủ yếu là \"đấng trung gian ân sủng\", chủ đề ấy các được ưa chuộc khi người ta liên kết Đức trinh nữ với những mạc khải đã được Hội thánh công nhận ở La Salette, Lộ Đức và Fatima.\nHình ảnh Maria trong văn chương.\nMaria đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả trong nền văn chương thế giời, kể cả ở các nước phương Đông và Hồi giáo. Chaucer đã viết rất nhiều vần thơ ca ngợi Đức Maria. Trong toàn bộ tác phẩm của ông (gồm 29 tiểu phẩm có tựa đề \"Troilus and Cressida\" và 23 câu chuyện thành Canterbury) có đến 500 vần thơ đề cập đến Đức Maria. Gần 1 nửa số đó nằm trong tác phẩm \"The prioress's Tale\" (Câu chuyện về Nữ tu viện trưởng). Bài thơ \"A.B.C\" được viết vào khoảng năm 1936 được viết theo kiểu mỗi khổ thơ bắt đầu bằng một mẫu tự trong bảng chữ cái, trình bày những đức tính của Đức Maria.\nNgoài ra trong số các thi sĩ người Anh viết về Đức Maria còn có Richard Crashaw, Francis Thompson, Coventry Patmore và Gerald Manley Hopkins. Các nhà nghiên cứu có John Henry Newman, G.K. Chesterton và Hilaire Belloc đều dành nhiều trang viết về Đức Maria. Nhiều bài thơ đã được phổ thành nhạc như bài \"Gloriosa Domina\" (Bà chúa vinh quang). Dù thuộc quốc gia nào nhưng các tác giả cũng đều cho thấy niềm tin vào Đức Maria đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống và văn chương Tây phương.\nỞ Việt Nam, Hàn Mạc Tử có bài thơ Ave Maria ca ngợi Đức Maria là Đấng tinh tuyền thánh vẹn, nhiều phép lạ và đầy ơn phước.", " \nTìn thấy Chúa Giê-su trong đền thánh, còn được gọi là \"Chúa Giêsu giữa các nhà hiền triết\", là một sự việc trong thời niên thiếu của Chúa Giêsu mô tả trong Tin Mừng Thánh Luca. Đây là sự kiện duy nhất trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu được đề cập đến trong sách Tin Mừng.\nTheo mô tả của Luca (2: 41-52) thì: \"khi cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đến Giêrusalem mừng Lễ Vượt Qua. Khi đó, trẻ Giêsu được 12 tuổi và cả gia đình cùng lên đền theo tập tục ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: \"Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!\". Người đáp: \"Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?\". Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.\nTheo luật Do Thái được đề cập trong Sách Xuất Hành 23:17 thì những người đàn ông mới buộc phải đi viếng Đền thờ trong ba ngày lễ trọng của năm nhưng những người phụ nữ thường đi với những người đàn ông để tỏ lòng sùng kính của họ. Có lẽ ông Giuse và bà Maria đã trở về trong ngày thứ hai của kỳ lễ và nghỉ đêm ở Bêrốt trên biên giới phía bắc vương quốc Giuđa. Tại vị trí này, quân Thập Tự Chinh sau đó đã xây dựng một đền thờ để tưởng nhớ nỗi buồn phiền của Đức Maria khi \"để lạc mất con\".\nXem thêm.\nCuộc đời Giê-su theo Tân Ước", "Giêsu (chữ Nôm: 支秋, còn được viết là Giê-su, Giê-xu, Yêsu, Jesus, Gia-tô; khoảng 4 TCN – 3 tháng 4, 33 SCN), còn được gọi là Giêsu Kitô, Jesus Christ, hay Gia-tô Cơ-đốc là một nhân vật lịch sử người Do Thái, nhà giảng thuyết, người sáng lập ra Kitô giáo vào thế kỉ thứ 1. Tên gọi Giêsu trong tiếng Hebrew đọc là \"Yehoshua\" (יהושע – có nghĩa \"Đức Chúa là Đấng Cứu Độ\"), thường được gọi vắn tắt là \"Yeshua\" (ישוע). Đối với người đương thời, Giêsu còn được gọi là Giêsu thành Nazareth, hoặc Giêsu con ông Giuse. Từ \"Kitô\" (tiếng Latinh: \"Christus\", tiếng Hy Lạp: Χριστός \"Khristós\", hay \"Cơ-đốc\" theo phiên âm Hán Việt) là một danh hiệu của Giêsu, có nghĩa là \"người được xức dầu\", nhằm chỉ ông là đấng Messiah, đã được tiên báo trong Cựu Ước. Những gì chúng ta biết được về Giêsu là do được ghi chép trong Thánh Kinh Tân Ước, đặc biệt là trong bốn sách Phúc Âm.\nNhững nguồn thông tin chính về cuộc đời và những lời dạy của Giêsu là bốn sách Phúc Âm quy điển, đặc biệt là trong Phúc Âm Nhất Lãm, mặc dù nhiều học giả cho rằng những văn bản như Phúc Âm Tôma và Phúc Âm Hebrew cũng xác đáng.\nTrong Hồi giáo, Giêsu (, chuyển tự là ) được xem là một nhà tiên tri quan trọng của Thiên Chúa, người mang lại Injil (Phúc Âm), và là người làm những phép lạ. Hồi giáo cũng xưng nhận Giêsu là Đấng Masih (Messiah), nhưng họ không dạy rằng Giêsu mang đặc tính thần linh. Quan điểm của Hồi giáo cho rằng Giêsu đã lên thiên đường cả linh hồn và thể xác nhưng không trải qua việc đóng đinh vào thập tự giá và phục sinh, khác với niềm tin truyền thống của Kitô giáo về cái chết và sự phục sinh của Giêsu.\nTên và danh hiệu.\nNgười Do Thái đương thời thường thêm tên người cha hoặc tên quê quán vào tên gọi cá nhân. Như vậy, trong Tân Ước, Giêsu cũng được gọi là \"Giêsu thành Nazareth\" (Mátthêu 26:71), \"con ông Giuse\" (Lc 4:22) hoặc đầy đủ nhất là \"Giêsu con ông Giuse thành Nazareth\" (Ga 1:45). Tuy nhiên, trong Máccô 6:3 thì lại gọi là \"con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simon\". Tên Giêsu ngày nay trong các ngôn ngữ hiện đại có nguồn gốc từ \"Iesus\" trong tiếng Latinh, đây là một hình thức chuyển tự của chữ (\"\") từ tiếng Hy Lạp. Hình thức thể hiện của tiếng Hy Lạp lại bắt nguồn từ chữ ישוע (\"Yeshua\") trong tiếng Aram, nhưng tựu trung có nguồn gốc từ chữ יהושע (\"Yehoshua\") của tiếng Do Thái. Tên \"Yeshua\" dường như đã được sử dụng trong xứ Judea tại thời điểm Giêsu ra đời. Theo giải thích của Tân Ước, tên gọi này nghĩa là \"Giavê là sự cứu rỗi\".Các tín đồ sơ khai đã thường gọi là \"Chúa Giêsu Kitô\". Từ \"Ki-tô\" (hay \"Ki-ri-xi-tô\", chữ Nôm: 基移吹蘇), cũng phiên âm là \"Cơ-đốc\" (hay \"Cơ-lợi-tư-đốc\", chữ Hán: 基利斯督), không phải là tên nhưng là một danh hiệu. Trong tiếng Hy Lạp, Χριστός (\"Khristos\") có nghĩa là \"người được xức dầu\", được dịch từ tiếng Hebrew \"Messiah\", để gọi vị lãnh đạo được Thiên Chúa sai đến giải cứu dân Chúa, trong ngôn ngữ hiện đại được hiểu là \"Đấng cứu thế\". Chữ Kitô hữu được chỉ những người tin và theo Chúa Kitô.\nTheo ký thuật của các sách Phúc Âm, Giêsu xưng mình là Con người (\"the Son of man\" - tức \"Con của loài người\", \"Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con người không có chỗ tựa đầu\" - Mt 8:20). Danh xưng này thường được cho là để khẳng định Giêsu là một con người trọn vẹn cũng như Giêsu được gọi là Con Thiên Chúa (\"the Son of God\", \"Quả thật, người này là Con Thiên Chúa\" - Mt 27:54) để khẳng định Giêsu đồng thời cũng là Thiên Chúa cách trọn vẹn..\nNgoài ra, Giêsu còn có một số danh xưng khác như \"Đấng Tiên tri\", \"Chúa\". Trong Phúc Âm Gioan 14:6 chép: \"Đức Chúa Giêsu phán rằng: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy\" (Ga 14:6). Theo đức tin Kitô giáo, Giê-su là con Đức Chúa Trời, và được sinh ra trên Trái Đất và chịu đóng đinh, để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi, nên Giê-su còn được xưng tụng là \"Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Rỗi\", \"Cứu Chúa\" - \"Nhưng Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Chúa Cơ Đốc vì chúng ta chịu chết\"\".\" (Roma 5:8).\nCuộc đời và giáo huấn theo Tân Ước.\nPhúc Âm quy điển.\nBốn cuốn Phúc Âm quy điển (Mátthêu, Máccô, Luca, và Gioan) là những nguồn văn liệu cực kỳ quan trọng về cuộc đời và thông điệp của Giêsu. Các phần khác trong Tân Ước cũng có đề cập qua một số giai đoạn trong cuộc đời của ông, chẳng hạn như sự kiện Bữa ăn tối cuối cùng được kể trong 1 Côrintô 11:23–26. Sách Công vụ Tông đồ đề cập đến thừa tác vụ ban sớm của Giêsu và dự tưởng của Gioan Tẩy Giả. Công vụ 1:1–11 kể chi tiết hơn các cuốn quy điển về sự kiện Giêsu thăng thiên. Giáo huấn của Giêsu được trích dẫn rất nhiều lần trong các lá thư Phaolô xác đáng, có niên đại trước cả các quy điển Phúc Âm.\nMột số nhóm Kitô hữu thuở sớm có những tác phẩm tường thuật khác về cuộc đời của Giêsu và giáo huấn khác Tân Ước. Chúng bao gồm Phúc Âm Tôma, Phúc Âm Phêrô, Phúc Âm Giuđa, Ngụy thư Giacôbê, và nhiều ngụy thư khác. Hầu hết học giả cho rằng những tác phẩm này được viết khá muộn và không đáng tin như bộ bốn cuốn Phúc Âm quy điển.\nDanh tính tác giả, niên đại, và độ tin cậy.\nCác tác giả viết bốn cuốn Phúc Âm quy điển đều khuyết danh. Theo truyền thống, những người này được xác định là bốn nhà thánh sử có liên hệ với Giêsu: cộng sự của Phêrô là Gioan Máccô viết cuốn Máccô; một trong những môn đệ của Giêsu viết cuốn Mátthêu; Thánh sử Luca, bằng hữu của Phaolô được nhắc đến trong một số tín thư, viết cuốn Luca; và một môn đệ khác của Giêsu, biệt danh là \"môn đệ quý mến\", viết cuốn Gioan.\nTheo giả thuyết ưu tiên Máccô, sách Phúc Âm quy điển đầu tiên được viết là Phúc Âm Máccô (60–75 CN), kế tiếp là Phúc Âm Mátthêu (65–85 CN), Phúc Âm Luca (65–95 CN), rồi Phúc Âm Gioan (75–100 CN). Hầu hết học giả đồng thuận rằng Mátthêu và Luca sử dụng cuốn Máccô làm tham chiếu để viết các tác phẩm của họ. Hơn nữa, vì tường thuật của Mátthêu và Luca chia sẻ một số chi tiết chung không có trong Máccô, nhiều nhà nghiên cứu suy đoán rằng hai tác giả kể trên đã tham khảo từ một nguồn nào đó khác nguồn Máccô – được giả sử là \"nguồn Q\".\nPhả hệ và giáng sinh.\nGiêsu là người Do Thái, được hạ sinh bởi Maria, vợ của Giusê. Phúc Âm Mátthêu và Luca đưa ra hai ký thuật về phả hệ của Giêsu. Cuốn Mátthêu truy tổ tiên của Giêsu về Abraham thông qua David. Cuốn Luca truy tổ tiên của Giêsu về Thiên Chúa thông qua Adam. Danh sách họ hàng các đời giữa Abraham và David của Giêsu trong hai tác phẩm rất tương đồng, song từ đó trở đi thì khác biệt rất nhiều. Mátthêu liệt kê 27 thế hệ từ David đến Giusê, còn Luca khẳng định tồn tại tới tận 42 thế hệ, hơn nữa cũng có rất ít tên trùng lặp nhau. Nhiều giả thuyết đã được đề ra để giải thích cho những bất nhất này.\nPhúc Âm Mátthêu và Luca đều đề cập đến sự kiện Giêsu chào đời, đều khẳng định một thiếu nữ đồng trinh tên là Maria đã hạ sinh Giêsu ở Bethlehem nhằm hoàn bị một lời sấm. Ký thuật của Luca nhấn mạnh các sự kiện xảy ra trước khi Giêsu chào đời và xoay quanh Maria, trong khi Mátthêu tập trung chủ yếu vào những sự kiện sau đó và xoay quanh Giusê. Cả hai tác phẩm đều khẳng định Giusê và Maria là cha mẹ của Giêsu, và cùng ủng hộ học thuyết về sự ra đời đồng trinh của Giêsu, theo đó thì Maria được thụ thai một cách thần kỳ bởi Thánh Linh khi bà còn là một thiếu nữ đồng trinh. Đồng thời, ta cũng có bằng chứng, ít nhất là trong sách Công vụ Tông đồ Luca, rằng Giêsu được cho là có hai dòng cha, giống như nhiều hình tượng huyền sử thời ấy.\nTrong Phúc Âm Mátthêu, Giusê đã rất bối rối khi biết Maria mang thai, song một thiên sứ đã báo mộng an ủi ông rằng không có gì phải sợ, bởi lẽ đứa bé được thụ thai bởi quyền năng của Thánh Linh. Trong Phúc Âm Mátthêu 2:1–12, các nhà đạo sĩ từ phương Đông đã tới để dâng bái Giêsu vì tin rằng cậu là Vua của người Do Thái. Trong Phúc Âm Mátthêu, khi Hêrôđê Đại vương hay tin Giêsu ra đời, ông ta liền hạ lệnh cho giết tất cả các bé trai dưới 2 tuổi ở Bethlehem. Song một thiên sứ đã kịp thời cảnh báo Giusê trong giấc mơ thứ hai, giúp cho gia đình ông có thể chạy nạn sang Ai Cập – về sau lại an cư ở Nazareth. \nTrong Phúc Âm Luca 1:31–38, Maria nhận tin báo từ thiên thần Gabriel rằng, bà sẽ mang thai một đứa con tên là Giêsu nhờ quyền năng của Thánh Linh. Lúc sắp sửa sinh, Maria và Giusê đang lữ hành từ Nazareth tới ngôi nhà tổ tiên của Giusê ở Bethlehem để khai hộ khẩu theo chỉ dụ của Hoàng đế La Mã Caesar Augustus. Tại đây, Maria hạ sinh Giêsu. Vì không tìm thấy hàng quán nào để nghỉ ngơi, bà đành đặt đứa con sơ sinh lên một máng cỏ. Thiên sứ liền thông cáo sự ra đời của Giêsu cho một đám mục đồng, khiến họ đến thăm Bethlehem và chứng kiến Giêsu, rồi lan truyền tin mừng này khắp nơi. Phúc Âm Luca 2:21 kể về việc Giusê và Maria cho đứa con mới sinh của họ được cắt bao quy đầu vào ngày thứ 8, rồi đặt tên là Giêsu, đúng theo chỉ bảo của Gabriel. Sau khi dâng Giêsu tại Đền Thánh, Giusê và Maria quay về Nazareth.\nĐầu đời, gia quyến, và nghề nghiệp.\nSau khi sinh ra, gia đình Giêsu đã trốn sang Ai Cập và chỉ trở về sau khi vua Hêrôđê băng hà tại Giêricô.\nGiêsu trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilea. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Giêsu theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Giêsu 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ Jerusalem, đang tranh luận với các học giả Do Thái giáo.\nTheo tác giả Nicholas Notovitch, trong tác phẩm \"Cuộc đời chưa được biết đến của Chúa\", Giêsu, mang tên Isha, đã sang Ấn Độ học Phật giáo trong suốt thời thanh niên của ông. Có nghiên cứu cho rằng nhiều phân tích văn bản cho thấy có những sự tương đồng giữa những gì Giê-su nói và những gì Phật nói, giữa huyền thoại về Giê-su và những văn bản Phật giáo nên có thể kết luận tuy Giê-su không tự nhận mình là người theo Phật giáo nhưng ông nói như một Phật tử. Tuy thiếu chứng cứ lịch sử nhưng người ta có thể nghi ngờ ông đã học đạo Phật, những lời tiên tri và huyền thoại về ông được lấy từ những câu chuyện Phật giáo.\nRửa tội và cám dỗ.\nNgay sau khi chịu lễ Thanh Tẩy (lễ Rửa Tội) bởi Gioan Baotixita, Giêsu bắt đầu đi rao giảng, khi ấy khoảng ba mươi tuổi. Theo Phúc Âm Luca, Giêsu và Gioan Baotixita là anh em họ vì Maria và Elizabeth, mẹ của Gioan, là hai chị em họ.\nThừa tác vụ công cộng.\nTheo Kinh Thánh, Giêsu đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Giêsu sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Giêsu có mặt. Đôi khi đám đông trở nên mất trật tự và ông buộc phải ngồi trên thuyền mà giảng dạy. Giêsu cũng tìm đến và thuyết giáo tại các hội đường Do Thái giáo (\"synagogue\").\nGiêsu áp dụng các phương pháp khác nhau khi giảng dạy, phép nghịch lý, phép ẩn dụ và các truyện dụ ngôn. Ông thường tập trung vào Nước Trời (hay Thiên Quốc). Nổi tiếng nhất là Bài giảng trên núi, trong đó đề cập đến Tám Mối Phúc thật (\"Beatitudes\"). Trong số những dụ ngôn của Giêsu, được biết đến nhiều nhất là hai câu chuyện: Người Samaria nhân lành và Người con trai hoang đàng. Giêsu có nhiều môn đồ, thân cận nhất là mười hai sứ đồ (hoặc tông đồ), Phêrô được Công giáo Rôma cho là sứ đồ trưởng. Theo Tân Ước, Giêsu làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi tà ma và khiến một người đàn ông tên là Lazarô sống lại khi đã chết.\nGiới lãnh đạo Do Thái giáo bao gồm các nhóm quyền lực đối nghịch nhau như nhóm Sadducee và nhóm Pharisêu (Pharisee) thường bất đồng với Giêsu. Ông vẫn thường vạch trần tính chuộng hình thức cũng như tinh thần đạo đức giả của người Pharisêu. Nhiều người xem Giêsu như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt tình vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền xem Giêsu như một thế lực mới đang đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời. Nhiều người tin nhận Giêsu là \"Đấng Cứu Tinh\" (Messie, Messiah) đến để cứu chuộc nhân loại.\nBị bắt và xét xử.\nGiêsu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (\"Passover\"); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: \"Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp\". Sau đó, Giêsu bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (\"Sanhedrin\") bởi viên Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn Getsemani ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Giêsu nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản ông để nhận được tiền.\nTòa công luận cáo buộc Giêsu tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilatus (Philatô) miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giêsu. Tuy nhiên, theo các sách Phúc Âm, một tấm bảng có hàng chữ viết tắt INRI (của câu: \"Giêsu người Nazareth, vua dân Do Thái\") được treo trên thập tự giá theo lệnh của Pilate.\nSau khi Giêsu chết, Giuse người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn với sự chứng kiến của Maria, Maria Magdalena và những phụ nữ khác.\nPhục sinh và Lên Trời.\nCác Kitô hữu tin rằng Giêsu sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Kitô giáo là sự phục sinh của Giêsu, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh.\nTrong Kinh Thánh, Maria Madalena (đi một mình trong Phúc Âm Gioan nhưng có những người phụ nữ khác đi cùng trong Phúc Âm Nhất Lãm) đến ngôi mộ của Giêsu vào sáng sớm ngày Chủ nhật và bất ngờ thấy ngôi mộ rỗng. Mặc dù đã nghe lời dạy của Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn không hiểu rằng Chúa Giêsu sẽ trỗi dậy.\nHầu hết Kitô hữu chấp nhận câu chuyện phục sinh, như được ký thuật trong Tân Ước, là sự kiện lịch sử và xem đây là tâm điểm cho Đức tin Kitô giáo của họ mặc dù theo quan điểm của một số tín hữu thuộc trào lưu tự do (\"liberalism\"), đây chỉ là câu chuyện có tính ẩn dụ. Tuy nhiên lịch sử chứng minh đây là niềm tin bất di dịch của Kitô giáo. Tất cả Kitô hữu tin rằng Giêsu đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ và các tông đồ được ban cho quyền lực siêu nhiên bởi ơn Chúa Thánh Thần để chữa lành bệnh tật cho nhiều người và nói được nhiều thứ tiếng khác nhau sau khi Giêsu về trời.\nGóc độ sử học.\nTrước thời kỳ Khai sáng ở phương Tây, các Phúc Âm được coi như là những tường thuật lịch sử mang tính người thật việc thật. Song giới học giả hiện đại hầu như đều đặt nghi vấn về độ tin cậy của những kinh sách này; họ chủ trương kẻ ra ranh giới giữa Giêsu được tả trong các Phúc Âm và Giêsu thực sự trong lịch sử. Kể từ thế kỷ thứ 18 trở đi, ba cuộc điều tra hàn lâm riêng lẻ về Giêsu lịch sử đã được tiến hành, mỗi đợt một đặc thù và dựa trên các tiêu chí nghiên cứu khác nhau, gắn liền với thời đại riêng. Tuy phần đông học giả đồng thuận rằng Giêsu đã từng tồn tại, và cũng đều chấp nhận một số chi tiết cơ bản trong tiểu sử của ông, song chân dung Giêsu được phục dựng theo từng tác giả vẫn khác nhau ít nhiều, và cũng khác hoàn toàn so với ký thuật trong Phúc Âm.\nNiên biểu.\nHầu hết các học giả đồng ý rằng Giêsu là một người Do Thái vùng Galilea, sinh vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất và qua đời trong khoảng từ năm 30 đến 36 SCN tại xứ Judea, ông chỉ sống và hoạt động tại Galilea và Judea chứ không ở nơi khác. Các sách Phúc Âm chỉ tập trung vào quãng đời ba năm cuối khi Giêsu sống dưới trần gian, đặc biệt là tuần lễ cuối cùng trước khi bị đóng đinh vào thập giá, nhưng chúng cũng cung cấp một số manh mối liên quan đến năm sinh của Chúa Giêsu. Đoạn Mátthêu 2:1 liên kết sự giáng sinh của Chúa Giêsu với sự cai trị của Herod Đại đế - người đã chết vào khoảng năm thứ 4 trước Công nguyên, và đoạn Luca 1:5 viết rằng Herod đã trị vì trước khi Chúa Giêsu giáng sinh, ngoài ra Phúc Âm này còn đề cập đến cuộc điều tra dân số của chính quyền La Mã diễn ra mười năm sau đó. Luke 3:1-2 và 3:23 viết rằng Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ khi ông khoảng ba mươi tuổi, và đó là năm thứ 15 của triều đại Tiberius (khoảng năm 28 hoặc 29 Công Nguyên). Qua những chi tiết này và bằng các phương pháp phân tích khác nhau, hầu hết các học giả đi đến đồng thuận rằng Chúa Giêsu sinh trong khoảng từ năm thứ 6 đến 4 trước Công nguyên,\nVề thời điểm qua đời, tức là sự kiện ông bị đóng đinh trên cây thập giá, hầu hết các học giả đồng ý rằng sự kiện này xảy ra trong khoảng từ năm 30 đến 33 Công nguyên. Các sách Phúc Âm nói rằng sự kiện này xảy ra trong thành xứ Judea mà Pilate là tổng trấn thuộc quyền La Mã khoảng năm 26-36. Người ta tin rằng ngày mà Phaolô theo Kitô giáo (ước tính khoảng năm 33-36) có mối liên hệ nào đó đến cho ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh qua việc phân tích thư của Thánh Phaolô và Sách Công vụ Tông đồ. Các nhà thiên văn từ thời Isaac Newton đã cố gắng ước lượng chính xác ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh bằng cách phân tích chuyển động của Mặt Trăng và tính theo lịch sử của lễ Vượt Qua theo lịch của người Do Thái. Và ngày giả thiết được chấp nhận rộng rãi nhất theo phương pháp này là ngày 7 tháng 4, năm 30 AD; và ngày 3 tháng 4 năm 33 (kể cả lịch Julius).\nDi sản.\nTheo hầu hết các giải thích Kinh Thánh của Kitô giáo, các chủ đề cơ bản của những lời răn dạy của Giêsu là sự hối cải, tình yêu vô điều kiện, tha thứ tội lỗi và khoan dung và về Thiên đường. Khởi đầu như một giáo phái nhỏ của người Do Thái, nó đã phát triển và trở thành một tôn giáo riêng biệt so với đạo Do Thái vài thập kỷ sau cái chết của Giêsu. Kitô giáo đã lan rộng ra khắp đế chế La Mã dưới dạng được biết đến qua Tín điều Nicea và trở thành quốc giáo dưới thời Theodosius I. Qua hàng thế kỷ, nó lan rộng đến hầu hết châu Âu và trên toàn thế giới. C. S. Lewis và Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bảo vệ niềm tin vào Giêsu trước những sự chỉ trích mang tính lịch sử.\nNhận định.\nKitô giáo.\nHầu hết Kitô hữu tin rằng, Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Messiah mà sự xuất hiện đã được tiên báo trong Cựu Ước. Họ tin rằng Giêsu là Thiên Chúa hóa thân thành người, là Ngôi Hai trong Ba Ngôi; rằng Giêsu nhập thể bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, xuống thế gian để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của Giêsu đã đổ ra khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người. Họ cũng tin rằng Giêsu đã sống lại từ cõi chết và sau đó trở lại Thiên Đàng.\nHồi giáo.\nKhác với đức tin của người Kitô giáo, tín đồ Hồi giáo tin rằng, Giêsu là một trong những nhà tiên tri (ngôn sứ) đáng được tôn trọng, được Thiên Chúa sai đến và là Đấng Messiah; nhưng họ không tin Giêsu là \"Con Thiên Chúa\". Họ cũng không tin về sự chết và sự phục sinh của Giêsu, xem đó chỉ là sự hóa phép của Thiên Chúa dành cho tiên tri Giêsu để đánh lừa người đương thời. Sau đó, Giêsu về trời cả hồn lẫn xác.\nDo Thái giáo.\nDo Thái giáo thì cực lực phản đối cả hai niềm tin của hai tôn giáo trên. Họ không xem Giêsu là Thiên Chúa xuống thế làm người cũng không nhận đó là nhà tiên tri, thậm chí coi đó là nhà tiên tri giả hay kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa của họ. Họ cho rằng, kể từ sau sự sụp đổ lần thứ hai của Đền thờ Jerusalem, không có một tiên tri nào xuất hiện thêm nữa. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn đang hy vọng có một Đấng Messiah từ trời xuống.\nPhật giáo.\nPhật giáo hầu như không đưa ra nhận định về vai trò của Giêsu trong tôn giáo họ. Đối với họ, dựa theo lịch sử, Giêsu chỉ là một con người. Tuy nhiên, một số tín đồ thuộc một số phái cho rằng, với những đức tính hiển nhiên của Giêsu, chắc chắn sau đó Giêsu cũng được sinh vào cõi trời dựa theo luật nhân quả. Do đó, những người tu theo Phật giáo cấp tiến, nhất là Tịnh độ tông, có thể tôn kính Giêsu như một vị A-la-hán hay Bồ tát.\nMột số Phật tử, trong đó có Tenzin Gyatso, Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 xem Giêsu như một vị đại Bồ tát, người cống hiến đời mình cho hạnh phúc của nhân loại. Nga Sơn Thiều Thạc ở thế kỷ XIV của Tào Động tông ngụ ý rằng những lời dạy của Giêsu trong Sách Phúc Âm do một người đã được giải thoát (arahant) viết.\nKhác.\nMột người Nhật theo chủ nghĩa vô chính phủ, Kōtoku Shūsui có viết tác phẩm \"Kirisuto Massatsuron\" (基督抹殺論, \"Cơ Đốc Mạt Sát Luận\"). Trong tác phẩm này, Shūsui cho rằng Giêsu chỉ là một nhân vật thần thoại và không có thực..\nVì có vai trò đặc biệt trong một số tôn giáo này, Giêsu được nhìn nhận là một trong những nhân vật quan trọng nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử nhân loại." ]
gisu - maria - kit - cha - gio - thin - gioan - luca - giuse - phc
0.97538
false
Ngôn ngữ lập trình () là ngôn ngữ hình thức bao gồm một tập hợp các lệnh tạo ra nhiều loại đầu ra khác nhau. Ngôn ngữ lập trình được sử dụng trong lập trình máy tính để thực hiện các thuật toán. Hầu hết các ngôn ngữ lập trình bao gồm các lệnh cho máy tính. Có những máy lập trình sử dụng một tập hợp các lệnh cụ thể, thay vì các ngôn ngữ lập trình chung chung. Kể từ đầu những năm 1800, các chương trình đã được sử dụng để định hướng hoạt động của máy móc như khung dệt Jacquard, hộp nhạc và đàn piano cơ. Các chương trình cho những máy này (chẳng hạn như cuộn giấy của đàn piano) không tạo ra các hành vi khác nhau để đáp ứng với các đầu vào hoặc điều kiện khác nhau. Hàng nghìn ngôn ngữ lập trình khác nhau đã được tạo ra và nhiều ngôn ngữ lập trình khác đang được tạo ra hàng năm. Nhiều ngôn ngữ lập trình được viết dưới dạng mệnh lệnh (tức là một chuỗi các thao tác phải thực hiện) trong khi các ngôn ngữ khác sử dụng dạng khai báo (tức là kết quả mong muốn được chỉ định chứ không phải cách thức làm ra nó). Mô tả của một ngôn ngữ lập trình thường được chia thành hai thành phần cú pháp (hình thức) và ngữ nghĩa (ý nghĩa). Một số ngôn ngữ được xác định bởi tài liệu đặc tả (ví dụ: ngôn ngữ lập trình C được chỉ định bởi Tiêu chuẩn ISO) trong khi các ngôn ngữ khác (chẳng hạn như Perl) có cách triển khai chi phối được coi là tham chiếu. Một số ngôn ngữ có cả hai, với ngôn ngữ cơ bản được xác định bởi một tiêu chuẩn và các phần mở rộng được lấy từ việc triển khai chi phối là phổ biến. Lý thuyết ngôn ngữ lập trình là một lĩnh vực con của khoa học máy tính nghiên cứu về thiết kế, sự thực hiện, phân tích, đặc điểm và phân loại của các ngôn ngữ lập trình. Định nghĩa. Ngôn ngữ lập trình là một ký hiệu để viết chương trình, là các đặc tả của một phép tính hoặc thuật toán. Một số tác giả hạn chế thuật ngữ "ngôn ngữ lập trình" đối với những ngôn ngữ có thể thể hiện tất cả các thuật toán có thể. Các đặc điểm thường được coi là quan trọng đối với những gì cấu thành một ngôn ngữ lập trình bao gồm: Các ngôn ngữ đánh dấu như XML, HTML hoặc troff, xác định dữ liệu có cấu trúc, thường không được coi là ngôn ngữ lập trình. Tuy nhiên, ngôn ngữ lập trình có thể chia sẻ cú pháp với các ngôn ngữ đánh dấu nếu ngữ nghĩa tính toán được xác định. Ví dụ, XSLT là một ngôn ngữ hoàn chỉnh Turing hoàn toàn sử dụng cú pháp XML. Hơn nữa, LaTeX, phần lớn được sử dụng để cấu trúc tài liệu, cũng chứa một tập con hoàn chỉnh Turing. Thuật ngữ "ngôn ngữ máy tính" đôi khi được sử dụng thay thế cho ngôn ngữ lập trình. Tuy nhiên, cách sử dụng của cả hai thuật ngữ khác nhau giữa các tác giả, bao gồm cả phạm vi chính xác của mỗi thuật ngữ. Một cách sử dụng mô tả các ngôn ngữ lập trình như một tập hợp con của các ngôn ngữ máy tính. Tương tự như vậy, các ngôn ngữ được sử dụng trong máy tính có mục tiêu khác với mục đích thể hiện các chương trình máy tính là các ngôn ngữ máy tính được chỉ định chung. Ví dụ, các ngôn ngữ đánh dấu đôi khi được gọi là ngôn ngữ máy tính để nhấn mạnh rằng chúng không được sử dụng để lập trình. Một cách sử dụng khác coi ngôn ngữ lập trình là cấu trúc lý thuyết để lập trình máy trừu tượng và ngôn ngữ máy tính là tập hợp con của chúng chạy trên máy tính vật lý có tài nguyên phần cứng hữu hạn. John C. Reynolds nhấn mạnh rằng các ngôn ngữ đặc tả hình thức cũng giống như các ngôn ngữ lập trình giống như các ngôn ngữ dùng để thực thi. Ông cũng lập luận rằng các định dạng đầu vào văn bản và thậm chí đồ họa ảnh hưởng đến hoạt động của máy tính là ngôn ngữ lập trình, mặc dù thực tế là chúng thường không hoàn chỉnh và nhận xét rằng sự thiếu hiểu biết về các khái niệm ngôn ngữ lập trình là lý do dẫn đến nhiều sai sót trong các định dạng đầu vào. Lịch sử. Phát triển ban đầu. Các máy tính rất sơ khai, chẳng hạn như Colossus, được lập trình mà không cần sự trợ giúp của chương trình được lưu trữ, bằng cách sửa đổi mạch điện của chúng hoặc thiết lập các kho các rơ le điều khiển vật lý. Sau đó một chút, các chương trình có thể được viết bằng ngôn ngữ máy, trong đó lập trình viên viết từng lệnh dưới dạng số mà phần cứng có thể thực thi trực tiếp. Ví dụ: lệnh thêm giá trị vào hai vị trí bộ nhớ có thể bao gồm 3 số: một "mã opcode" chọn thao tác "cộng" và hai vị trí bộ nhớ. Các chương trình, ở dạng thập phân hoặc nhị phân, được đọc từ thẻ đục lỗ, băng giấy, băng từ hoặc được chuyển vào trên các công tắc trên bảng điều khiển phía trước của máy tính. Ngôn ngữ máy sau này được gọi là "ngôn ngữ lập trình thế hệ thứ nhất" (1GL). Bước tiếp theo là sự phát triển của cái gọi là "ngôn ngữ lập trình thế hệ thứ hai" (2GL) hoặc hợp ngữ, những ngôn ngữ này vẫn được gắn chặt với kiến trúc tập lệnh của máy tính cụ thể. Những điều này phục vụ cho việc làm cho chương trình dễ đọc hơn nhiều và giúp người lập trình giảm bớt các tính toán địa chỉ tẻ nhạt và dễ xảy ra lỗi. Các "ngôn ngữ lập trình cấp cao" đầu tiên, hoặc "ngôn ngữ lập trình thế hệ thứ ba" (3GL), được viết vào những năm 1950. Một ngôn ngữ lập trình cấp cao ban đầu được thiết kế cho máy tính là Plankalkül, được phát triển cho Z3 của Đức bởi Konrad Zuse từ năm 1943 đến năm 1945. Tuy nhiên, nó đã không được thực hiện cho đến năm 1998 và 2000. Mã ngắn của John Mauchly, được đề xuất vào năm 1949, là một trong những ngôn ngữ cấp cao đầu tiên từng được phát triển cho máy tính điện tử. Không giống như mã máy, các câu lệnh mã ngắn biểu diễn các biểu thức toán học ở dạng dễ hiểu. Tuy nhiên, chương trình phải được dịch sang mã máy mỗi khi nó chạy, làm cho quá trình chạy chậm hơn nhiều so với chạy mã máy tương đương. Tại Đại học Manchester, Alick Glennie đã phát triển Autocode vào đầu những năm 1950. Là một ngôn ngữ lập trình, nó sử dụng một trình biên dịch để tự động chuyển đổi ngôn ngữ thành mã máy. Mã và trình biên dịch đầu tiên được phát triển vào năm 1952 cho máy tính Mark 1 tại Đại học Manchester và được coi là ngôn ngữ lập trình cấp cao được biên dịch đầu tiên. Mã tự động thứ hai được RA Brooker phát triển cho Mark 1 vào năm 1954 và được gọi là "Mã tự động Mark 1". Brooker cũng đã phát triển một mã tự động cho Ferranti Mercury vào những năm 1950 cùng với Đại học Manchester. Phiên bản cho EDSAC 2 được phát minh bởi DF Hartley của Phòng thí nghiệm Toán học Đại học Cambridge vào năm 1961. Được gọi là Mã tự động EDSAC 2, nó là sự phát triển trực tiếp từ Mã tự động của Mercury được điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh địa phương và được chú ý vì khả năng tối ưu hóa mã đối tượng và chẩn đoán ngôn ngữ nguồn đã được cải tiến vào thời điểm đó. Là một chuỗi phát triển hiện đại nhưng riêng biệt, Atlas Autocode được phát triển cho máy Atlas 1 của Đại học Manchester. Năm 1954, FORTRAN được John Backus phát minh ra tại IBM. Nó là ngôn ngữ lập trình mục đích chung cấp cao đầu tiên được sử dụng rộng rãi để có một triển khai chức năng, thay vì chỉ là một thiết kế trên giấy. Nó vẫn là một ngôn ngữ phổ biến cho tính toán hiệu suất cao và được sử dụng cho các chương trình đánh giá và xếp hạng các siêu máy tính nhanh nhất thế giới. Một ngôn ngữ lập trình ban đầu khác được phát minh bởi Grace Hopper ở Mỹ, được gọi là FLOW-MATIC. Nó được phát triển cho UNIVAC I tại Remington Rand trong thời gian từ năm 1955 đến năm 1959. Hopper nhận thấy rằng khách hàng xử lý dữ liệu kinh doanh không thoải mái với ký hiệu toán học, và vào đầu năm 1955, bà và nhóm của mình đã viết một đặc tả cho một ngôn ngữ lập trình tiếng Anh và thực hiện một nguyên mẫu. Trình biên dịch FLOW-MATIC được công bố rộng rãi vào đầu năm 1958 và về cơ bản hoàn thành vào năm 1959. FLOW-MATIC có ảnh hưởng lớn trong việc thiết kế COBOL, vì chỉ có nó và hậu duệ trực tiếp của nó là AIMACO được sử dụng thực tế vào thời điểm đó. Đặc điểm chung của ngôn ngữ lập trình. Mỗi ngôn ngữ lập trình có thể được xem như là một tập hợp của các chi tiết kỹ thuật chú trọng đến cú pháp, từ vựng, và ý nghĩa của ngôn ngữ. Những chi tiết kỹ thuật này thường bao gồm: Đối với các ngôn ngữ phổ biến hoặc có lịch sử lâu dài, người ta thường tổ chức các hội thảo chuẩn hoá nhằm tạo ra và công bố các tiêu chuẩn chính thức cho ngôn ngữ đó, cũng như thảo luận về việc mở rộng, bổ sung cho các tiêu chuẩn trước đó. Ví dụ: Với ngôn ngữ C++, hội đồng tiêu chuẩn ANSI C++ và ISO C++ đã tổ chức đến 13 cuộc hội thảo để điều chỉnh và nâng cấp ngôn ngữ này. (Xem thêm Comeau.Computing ). Đối với các ngôn ngữ lập trình web như JavaScript, ta có chuẩn ECMA, W3C (). Các kiểu dữ liệu. Một hệ thống đặc thù mà theo đó các dữ liệu được tổ chức sắp xếp trong một chương trình gọi là hệ thống kiểu của ngôn ngữ lập trình. Việc thiết kế và nghiên cứu các hệ thống kiểu được biết như là lý thuyết kiểu. Nhiều ngôn ngữ định nghĩa sẵn các kiểu dữ liệu thông dụng như: Ví dụ: trong C/C++, kiểu số nguyên thông dụng có tên là codice_4 và chiếm 4 byte trong hầu hết trình dịch 32-bit; kiểu chuỗi là một dãy các codice_2, với ký tự codice_6 (hay codice_7) ở vị trí chuỗi kết thúc – dãy có thể dài hơn chuỗi nó lưu trữ. Ngôn ngữ có kiểu tĩnh là ngôn ngữ xác định trước kiểu cho tất cả dữ liệu được khai báo trong mã nguồn tại thời điểm dịch. Các giá trị của biến chỉ có thể ở một/một số kiểu cụ thể nào đó và ta chỉ có thể thực hiện một số thao tác nhất định trên chúng. Ví dụ: trong C, ta không thể dùng phép tính + trên kiểu dữ liệu codice_3 (tức là codice_9 hay codice_10). Hầu hết các ngôn ngữ có kiểu tĩnh thông dụng như C, C++, Java, D, Delphi, và C# đều đòi hỏi người lập trình kê khai rõ ràng kiểu của dữ liệu. Những người ủng hộ việc này cho rằng nó sẽ giúp ngôn ngữ rõ ràng hơn. Các ngôn ngữ có kiểu tĩnh lại được chia ra thành hai loại: Các ngôn ngữ có kiểu động là ngôn ngữ mà các kiểu chỉ được gán lên các dữ liệu trong thời gian chương trình được thực thi. Điều này có mặt lợi là người lập trình không cần phải xác định kiểu đữ liệu nào hết, đồng thời có thêm lợi thế là có thể gán nhiều hơn một kiểu dữ liệu lên các biến. Tuy nhiên, vì ngôn ngữ có kiểu động xem tất cả các vai trò của dữ liệu trong chương trình là có thể chuyển hóa được, do vậy các phép toán không đúng (như là cộng các tên, hay là xếp thứ tự các số theo thứ tự đánh vần) sẽ không tạo ra các lỗi cho đến lúc nó được thi hành—mặc dù vẫn có một số cài đặt cung cấp vài dạng kiểm soát tĩnh cho các lỗi hiển nhiên.Ví dụ của các ngôn ngữ này là Objective-C, Lisp, JavaScript, Tcl, Prolog, Python và Ruby. Các ngôn ngữ có kiểu mạnh không cho phép dùng các giá trị của kiểu này như là một kiểu khác. Chúng rất chặt chẽ trong việc phát hiện sự dùng sai kiểu. Việc phát hiện này sẽ xảy ra ở thời gian thi hành ("run-time") đối với các ngôn ngữ có kiểu động và xảy ra ở thời gian dịch đối với các ngôn ngữ có kiểu tĩnh.ADA, Java, ML và Oberon là các ví dụ của ngôn ngữ có kiểu mạnh. Ngược lại, ngôn ngữ có kiểu yếu không quá khắt khe trong các quy tắc về kiểu hoặc cho phép một cơ chế tường minh để xử lý các vi phạm. Thường nó cho phép hành xử các biểu hiện chưa được định nghĩa trước, các vi phạm về sự phân đoạn ("segmentation"), hay là các biểu hiện không an toàn khác khi mà các kiểu bị gán giá trị một cách không đúng.C, ASM, C++, Tcl và Lua là các ví dụ của ngôn ngữ có kiểu yếu. Lưu ý: Cấu trúc của dữ liệu. Hầu hết các ngôn ngữ đều cung cấp các cách thức để lắp ráp các cấu trúc dữ liệu phức tạp từ các kiểu sẵn có và để liên kết các tên với các kiểu mới kết hợp (dùng các kiểu mảng, danh sách, hàng đợi, ngăn xếp hay tập tin). Các ngôn ngữ hướng đối tượng cho phép lập trình viên định nghĩa các kiểu dữ liệu mới gọi là đối tượng. trong nội bộ các đối tượng đó có riêng các hàm và các biến (và thường được gọi theo thứ tự là các "phương thức" và các "thuộc tính"). Một chương trình có định nghĩa các đối tượng sẽ cho phép các đối tượng đó thực thi như là các chương trình con độc lập nhưng lại tương tác nhau. Các tương tác này có thể được thiết kế trong lúc viết mã để mô hình hóa và mô phỏng theo đời sống thật của các đối tượng. Nói một cách đơn giản, các ngôn ngữ hướng đối tượng đã được cho thêm "sức sống" để có riêng những tính năng hoạt động và tương tác với thế giới bên ngoài. Ngoài ra, các đối tượng còn có thêm các đặc tính như là thừa kế và đa hình. Điều này là một ưu thế trong việc dùng ngôn ngữ loại này để mô tả các đối tượng của thế giới thực. Các mệnh lệnh và dòng điều khiển. Khi dữ liệu đã được định rõ, máy tính phải được chỉ thị làm thế nào để tiến hành các phép toán trên dữ liệu đó. Những mệnh đề cơ bản có thể được cấu trúc thông qua việc sử dụng các từ khóa (đã được định nghĩa bởi ngôn ngữ lập trình) hoặc là có thể tạo thành từ việc dùng và kết hợp các cấu trúc ngữ pháp hay cú pháp đã được định nghĩa. Những mệnh đề cơ bản này gọi là các câu lệnh. Tùy theo ngôn ngữ, các câu lệnh có thể được kết hợp với nhau theo trật tự nào đó. Điều này cho phép thiết lập được các chương trình thực hiện được nhiều chức năng. Xa hơn, ngoài các câu lệnh để thay đổi và điều chỉnh dữ liệu, còn có những kiểu câu lệnh dùng để điều khiển dòng xử lý của máy tính như là phân nhánh, định nghĩa bởi nhiều trường hợp, vòng lặp, hay kết hợp các chức năng. Đây là các thành tố không thể thiếu của một ngôn ngữ lập trình. Các tên và các tham số. Muốn cho chương trình thi hành được thì phải có phương pháp xác định được các vùng trống của bộ nhớ để làm kho chứa dữ liệu. Phương pháp được biết nhiều nhất là thông qua tên của các biến. Tùy theo ngôn ngữ, các vùng trống gián tiếp có thể bao gồm các tham chiếu, mà thật ra, chúng là các con trỏ ("pointer") chỉ đến những vùng chứa khác của bộ nhớ, được cài đặt trong các biến hay nhóm các biến. Phương pháp này gọi là "đặt tên kho nhớ". Tương tự với phương pháp đặt tên kho nhớ, là phương pháp "đặt tên những nhóm của các chỉ thị". Trong hầu hết các ngôn ngữ lập trình, đều có cho phép gọi đến các macro hay các chương trình con như là các câu lệnh để thi hành nội dung mô tả trong các macro hay chương trình con này thông qua tên. Việc dùng tên như thế này cho phép các chương trình đạt tới một sự linh hoạt cao và có giá trị lớn trong việc tái sử dụng mã nguồn (vì người viết mã không cần phải lặp lại những đoạn mã giống nhau mà chỉ việc định nghĩa các macro hay các chương trình con.) Các tham chiếu gián tiếp đến các chương trình khả dụng hay các bộ phận dữ liệu đã được xác định từ trước cho phép nhiều ngôn ngữ định hướng ứng dụng tích hợp được các thao tác khác nhau. Cơ chế tham khảo và việc tái sử dụng mã nguồn. Mỗi ngôn ngữ lập trình đều có một bộ các cú pháp quy định việc lập trình sao cho mã nguồn được thực thi. Theo đó, mỗi nhà sản xuất ngôn ngữ lập trình sẽ cung cấp một bộ các cấu trúc ngữ pháp cho các câu lệnh, một khối lượng lớn các từ vựng quy ước được định nghĩa từ trước, và một số lượng các thủ tục hay hàm cơ bản. Ngoài ra, để giúp lập trình viên dễ dàng sử dụng, nhà sản xuất còn phải cung cấp các tài liệu tra cứu về đặc tính của ngôn ngữ mà họ phát hành. Những tài liệu tra cứu này bao gồm hầu hết các đặc tả, tính chất, các tên (hay từ khoá) mặc định, phương pháp sử dụng, và nhiều khi là các mã nguồn để làm ví dụ. Do sự không thống nhất trong các ý kiến về việc thiết kế và sử dụng từng ngôn ngữ nên có thể xảy ra trường hợp mã nguồn của cùng một ngôn ngữ chạy được cho phần mềm dịch này nhưng không tương thích được với phần mềm dịch khác. Ví dụ là các mã nguồn C viết cho Microsoft C (phiên bản 6.0) có thể không chạy được khi dùng trình dịch Borland (phiên bản 4.5) nếu không biết cách thức điều chỉnh. Đây cũng là nguyên do của các kỳ hội nghị chuẩn hóa ngôn ngữ lập trình. Ngoài công việc chính là phát triển ngôn ngữ đặc thù, hội nghị còn tìm cách thống nhất hóa ngôn ngữ bằng cách đưa ra các tiêu chuẩn, các khuyến cáo thay đổi về ngôn ngữ trong tương lai hay các đổi mới về cú pháp của ngôn ngữ. Những đổi mới về tiêu chuẩn của một ngôn ngữ mặt khác lại có thể gây ra các hiệu ứng phụ. Đó là việc mã nguồn của một ngôn ngữ dùng trong phiên bản cũ không tương thích được với phần mềm dịch dùng tiêu chuẩn mới hơn. Đây cũng là một việc cần lưu tâm cho những người lập trình. Trường hợp điển hình nhất là việc thay đổi phiên bản về ngôn ngữ Visual Basic của Microsoft. Các mã nguồn của phiên bản 6.0 có thể sẽ không dịch được nếu dùng phiên bản mới hơn. Lý do là nhà thiết kế đã thay đổi kiến trúc của VisualBasic để nâng cao và cung cấp thêm các chức năng mới về lập trình theo định hướng đối tượng cho ngôn ngữ này. Thay vào việc tái sử dụng mã nguồn thì cũng có các hướng phát triển khác nhằm tiết kiệm công sức cho người lập trình mà hai hướng chính là: Triết lý của các thiết kế. Tùy theo mục đích của ngôn ngữ mà chúng được thiết kế để tạo điều kiện giải quyết những vấn đề mà ngôn ngữ đó hướng tới. Những chức năng này làm cho một ngôn ngữ có thể tiện lợi để dùng phát triển loại phần mềm này nhưng có thể khó để phát triển loại phần mềm khác. Hầu hết các ngôn ngữ đòi hỏi sự chính xác cao về mặt cú pháp. Các ngôn ngữ không cho phép có lỗi. Mặc dù vậy, một số ít ngôn ngữ cũng cho phép tự điều chỉnh trong một mức độ khá cao, khi đó chương trình tự viết lại để xử lý những trường hợp mới. Các ngôn ngữ như Prolog, PostScript và các thành viên trong họ ngôn ngữ Lisp có khả năng này. Trong ngôn ngữ MUMPS, kỹ thuật này gọi là tái biên dịch động. Các phần mềm mô phỏng và nhiều máy ảo ("virtual machine") khai thác kỹ thuật này để có hiệu suất cao. Một yếu tố liên quan đến triết lý thiết kế là có một số ngôn ngữ vì muốn tạo sự dễ dàng cho người mới dùng, đã không phân biệt việc viết chữ hoa hay không. Pascal và Basic là hai ngôn ngữ không phân biệt việc một ký tự có viết hoa hay không, trái lại trong C/C++, Java, PHP, Perl, BASH đều bắt buộc phải bảo đảm việc viết đúng y hệt như lúc khai báo cho các tên. Các thành tố căn bản của một ngôn ngữ. Các dạng câu lệnh. Câu lệnh là một thành tố quan trọng nhất của mọi ngôn ngữ lập trình. Tùy theo ngôn ngữ các câu lệnh đều phải tuân theo các trật tự sắp xếp của các từ khóa, tham số, biến và các định danh khác như các macro, hàm, thủ tục cũng như các quy ước khác. Tập hợp trật tự và quy tắc đó tạo thành cú pháp của ngôn ngữ lập trình. Các dạng câu lệnh bao gồm Lưu ý: để hiểu rõ hơn và sử dụng thuần thục các dạng câu lệnh thì người lập trình nên tham khảo các tài liệu giảng giải riêng về từng ngôn ngữ. Chương trình con và macro. Trong một số ngôn ngữ, người ta lại phân biệt thành 2 kiểu chương trình con: Tuy nhiên, trong nhiều ngôn ngữ khác như C chẳng hạn thì không có sự phân biệt này và chỉ có một khái niệm hàm. Để mô tả các hàm không trả về giá trị (tương đương với khái niệm thủ tục) thì người ta có thể gán cho kiểu dữ liệu của hàm đó là codice_34. Lưu ý: trong các ngôn ngữ hướng đối tượng, mỗi một đối tượng hay một thực thể ("instance"), tùy theo quan điểm, có thể được xem là một chương trình con hay một biến vì bản thân nội tại của thực thể đó có chứa các phương thức và cả các dữ liệu có thể trả lời cho các lệnh gọi từ bên ngoài. Các điểm khác nhau quan trọng giữa một chương trình con và một macro bao gồm: Biến, hằng, tham số, và đối số. Các tham số giống biến ở chỗ chúng thường có kiểu xác định. Bên trong chương trình con, hay macro, các tham số thường đóng vai trò của hằng nhưng trong nhiều trường hợp khác chúng vẫn có thể hoạt động như các biến và điều này cũng phụ thuộc vào các đặc tính của mỗi ngôn ngữ. Nếu nhìn toàn bộ chương trình như một hàm lớn thì tham số của hàm này gọi là tham số của chương trình và các tham số của chương trình này có thể tương tác với các chương trình khác và ngược lại. Một cách đơn giản thì tham số là các dữ liệu truyền đi giữa các chương trình hay các hàm, thủ tục hay macro. Từ vựng quy ước. Từ vựng quy ước là những dãy các ký tự hay ký hiệu (thường tạo thành các chữ có ý nghĩa) nối nhau và được một ngôn ngữ cho sử dụng như là tên, giá trị hay một luật nào đó. Người viết mã nên tránh sử dụng các từ quy ước này vào việc đặt tên (cho các biến, hàm, hay các đối tượng khác) để tránh không gây ra các lỗi dạng "ambiguity" (nghĩa là từ dùng có nhiều nghĩa khiến cho phần mềm dịch không biết phải chọn cách nào). Tuy nhiên, tuỳ theo từng trường hợp mà một tên mới đặt ra trùng với các tên đã quy định có được chấp nhận hay không và việc chấp nhận này sẽ có hiệu ứng phụ gì. Thí dụ Từ khóa. Từ khóa trong ngôn ngữ lập trình là các từ hay ký hiệu mà đã được ngôn ngữ đó gán cho một ý nghĩa xác định. Người lập trình sẽ không được phép dùng lại các từ khóa này dưới một ý nghĩa khác. Thường các từ khóa này được ngôn ngữ xác định dùng trong các kiểu dữ liệu cơ bản hay trong các dòng điều khiển. Ví dụ một số từ khóa trong C và C++: codice_38 Các tên chuẩn hay tên cho trước. Ngoài các từ khóa, một ngôn ngữ lập trình còn có khối lượng khá lớn các tên đã được định nghĩa hay được gán cho các ý nghĩa chuyên biệt gọi là các tên chuẩn. Các tên này có thể được dùng lại cho một ý nghĩa khác tùy theo người viết mã. Trong nhiều trường hợp sẽ phải có một cơ chế gọi để phân biệt là người lập trình muốn ám chỉ các tên đã bị tái dụng này dưới ý nghĩa nguyên thủy hay dưới ý nghĩa mới. Thường các tên được phép định nghĩa lại nằm trong hai loại chính là: Ví dụ Các ký hiệu. Trong mỗi ngôn ngữ đều cung cấp một hệ thống ký hiệu hay ký tự có ý nghĩa riêng. Tùy theo ngôn ngữ mà các ký hiệu này được phép định nghĩa lại hay không. Những ký hiệu được dùng trong hai trường hợp thường thấy nhất là Ví dụ: Các luật cấm và ngoại lệ. Mỗi ngôn ngữ, do hạn chế của môi trường và bản thân ngôn ngữ cũng như do mục tiêu sử dụng, có thể có một số luật cấm mà người lập trình không thể vi phạm. Những luật cấm này có thể có những cách xử lý khác nhau như là: Các loại lỗi về ngôn ngữ khi lập trình thường xảy ra là Các thành tố đặc trưng của ngôn ngữ OOP. OOP là chữ viết tắt của "Object Oriented Programming" có nghĩa là Lập trình hướng đối tượng được phát minh năm 1965 bởi Ole-Johan Dahl và Kristen Nygaard trong ngôn ngữ Simula. So với phương pháp lập trình cổ điển, thì triết lý chính bên trong loại ngôn ngữ loại này là để tái dụng các khối mã nguồn và cung ứng cho các khối này một khả năng mới: chúng có thể có các hàm (gọi là các phương thức) và các dữ liệu (gọi là thuộc tính) nội tại. Khối mã như vậy được gọi là đối tượng. Các đối tượng thì độc lập với môi trường và có khả năng trả lời với yêu cầu bên ngoài tùy theo thiết kế của người lập trình. Với cách xây dựng này, mỗi đối tượng sẽ tương đương với một chương trình riêng có nhiều đặc tính mới mà quan trọng nhất là tính đa hình, tính đóng, tính trừu tượng và tính thừa kế. Thừa kế. Đây là đặc tính cho phép tạo các đối tượng mới từ đối tượng ban đầu và lại có thể có thêm những đặc tính riêng mà đối tượng ban đầu không có. Cơ chế này cho phép người lập trình có thể tái sử dụng mã nguồn cũ và phát triển mã nguồn mới bằng cách tạo ra các đối tượng mới thừa kế đối tượng ban đầu. Đa hình. Tính đa hình được thể hiện trong lập trình hướng đối tượng rất đặc biệt. Người lập trình có thể định nghĩa một thuộc tính (chẳng hạn thông qua tên của các phương thức) cho một loạt các đối tượng gần nhau nhưng khi thi hành thì dùng cùng một tên gọi mà sự thi hành của mỗi đối tượng sẽ tự động xảy ra tương ứng theo từng đối tượng không bị nhầm lẫn. Trừu tượng. Đặc tính này cho phép xác định một đối tượng trừu tượng, nghĩa là đối tượng đó có thể có một số đặc điểm chung cho nhiều đối tượng nhưng bản thân đối tượng này có thể không có các biện pháp thi hành. Đóng gói. Tính đóng gói ở đây dược hiểu là các dữ liệu (thuộc tính) và các hàm (phương thức) bên trong của mỗi đối tượng sẽ không cho phép người gọi dùng hay thay đổi một cách tự do mà chỉ có thể tương tác với đối tượng đó qua các phương thức được người lập trình cho phép. Tính đóng gói ở đây có thể so sánh với khái niệm "hộp đen", nghĩa là người ta có thể thấy các hành vi của đối tượng tùy theo yêu cầu của môi trường nhưng lại không thể biết được bộ máy bên trong thi hành ra sao. Một số thành tố thường thấy khác của một ngôn ngữ lập trình hiện đại. Nhiều ngôn ngữ lập trình hiện đại, nhất là các ngôn ngữ viết cho Windows, thường có cung cấp thêm một số lượng rất lớn các thư viện bao gồm nhiều hàm để hỗ trợ giao diện người dùng và các thiết bị đầu cuối. Giao diện đồ họa. Các ngôn ngữ chuẩn thường không đề cập tới sự cung cấp thư viện giúp cho việc thiết lập giao diện đồ họa ("graphic interface"). Nhưng hầu hết trong các ngôn ngữ hiện đại mà nhà sản xuất cung cấp cho các hệ điều hành đều có thêm thư viện các hàm và các biến toàn cục có thể dùng để nhanh chóng viết mã có giao diện phù hợp. Điều khiển theo sự kiện. Tương tự trên, triết lý đằng sau của việc điều khiển theo sự kiện là để hỗ trợ cho việc đồng bộ sử dụng cùng lúc nhiều thiết bị đầu cuối như là chuột, bàn phím, máy in... Việc nhận một mệnh lệnh từ chuột hay từ bàn phím phải được lập tức đồng bộ và thay đổi giao diện tức thời để cập nhật hoá. Thời gian thực. Bản thân một ngôn ngữ sẽ không nói rõ là có hỗ trợ cho tính năng này hay không. Phản ứng và cập nhật dữ liệu theo thời gian thực là một hướng phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu đồng bộ hoá nhanh dữ liệu mà chúng có thể chia sẻ cho nhiều nơi hay là để thỏa mãn nhu cầu cần thiết đồng bộ hóa dữ liệu của các dịch vụ (ngân hàng, hàng không và quân sự chẳng hạn). Hỗ trợ hệ điều hành. Ngoài các hỗ trợ cho các giao diện thì ngày nay hầu hết các hệ điều hành (Linux/UNIX, Netware và Windows) đều có khả năng đa luồng ("multithreading") hay đa nhiệm ("multitasking"). Những khả năng này nâng cao hiệu quả của máy tính. Các ngôn ngữ, do đó thường có thêm các hàm, thủ tục hay các biến cho phép người lập trình tận dụng chúng. Việc viết mã cho kiến trúc đa luồng và đa nhiệm không đơn giản như viết mã cho các hệ thống thông thường. Người lập trình ngoài kỹ năng viết mã, còn phải luyện tập cách xử lý và đồng bộ nhiều thao tác được thi hành đồng thời trong một chương trình mà không gây ra ách tắc hay vi phạm các nguyên tắc quản lý bộ nhớ hay các quy tắc lập trình theo đa luồng hay đa nhiệm. Lưu ý: Hầu hết các hệ điều hành hỗ trợ kiến trúc đa luồng hay đa nhiệm đều có khả năng thực thi những chương trình được tạo ra từ mã viết theo kiểu thông thường mà không đá động tới các chức năng đa luồng hay đa nhiệm. Điểm khác nhau là khi không dùng tới các ưu điểm đa luồng hay đa nhiệm thì chương trình đó sẽ không tận dụng được ưu thế phần cứng và phần mềm hỗ trợ (thường thì chương trình đó chạy chậm hơn). Phương ngữ và hiện thực. Một "phương ngữ" () của một ngôn ngữ lập trình hay ngôn ngữ trao đổi dữ liệu là một biến thể (tương đổi nhỏ) hay phần mở rộng của ngôn ngữ đó mà không làm thay đổi bản chất bên trong của nó.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
GNP (viết tắt cho "Gross National Product" bằng tiếng Anh) tức Tổng sản lượng quốc gia hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất nước, nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian nào đó, thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài nước). Sản phẩm cuối cùng là hàng hóa được tiêu thụ cuối cùng bởi những người tiêu dùng chứ không phải là những sản phẩm được sử dụng như là sản phẩm trung gian trong sản xuất những sản phẩm khác. Ví dụ, một chiếc ô tô bán cho người tiêu dùng là một sản phẩm cuối cùng; các thành phần như lốp được bán cho nhà sản xuất ô tô là sản phẩm trung gian (a). Cũng chiếc lốp đó, nếu bán cho người tiêu dùng thì nó lại là sản phẩm cuối cùng (b). Chỉ có sản phẩm cuối cùng mới được tính trong thu nhập quốc gia, do việc đưa cả sản phẩm trung gian vào sẽ dẫn tới việc tính kép làm tăng ảo giá trị thực sự của thu nhập quốc gia. Ví dụ, trong trường hợp (a) của chiếc lốp, giá trị của nó đã được tính khi nó được nhà sản xuất lốp bán cho nhà sản xuất ô tô và sau đó một lần nữa được tính trong giá trị chiếc ô tô khi nhà sản xuất ô tô bán cho người tiêu dùng. Người ta chỉ tính những sản phẩm được sản xuất mới. Việc kinh doanh những hàng hóa đã tồn tại trước đó, chẳng hạn ô tô cũ, không được tính, do những mặt hàng như vậy không tham gia vào việc sản xuất của các sản phẩm mới. Thu nhập được tính như là một phần của GNP, phụ thuộc vào ai là chủ sở hữu các yếu tố sản xuất chứ không phải là việc sản xuất diễn ra ở đâu. Ví dụ, một nhà máy sản xuất ô tô do chủ sở hữu là công dân Mỹ đầu tư tại Việt Nam thì lợi nhuận sau thuế từ nhà máy sẽ được tính là một phần của GNP của Mỹ chứ không phải của Việt Nam bởi vì vốn sử dụng trong sản xuất (nhà xưởng, máy móc, v.v.) là thuộc sở hữu của người Mỹ. Lương của công nhân người Việt là một phần của GNP của Việt Nam, trong khi lương của công nhân Mỹ làm việc tại đó là một phần của GNP của Mỹ. Công thức tính. Công thức tính tổng sản phẩm quốc gia dưới đây dựa trên cơ sở tiếp cận từ khái niệm chi tiêu. GNP = C + I + G + (X - M) + NR GNP hay GNI. GNI là từ viết tắt trong tiếng Anh của "Gross National Income", tức Tổng thu nhập quốc gia hay Tổng thu nhập quốc dân. Giá trị của nó tương đương với giá trị của GNP. Tuy nhiên, người ta phân biệt chúng, do cách thức tiếp cận vấn đề là dựa trên các cơ sở khác nhau. GNP dựa trên cơ sở sản xuất ra sản phẩm mới, còn GNI dựa trên cơ sở thu nhập của công dân. Điều này là quan trọng để tiếp cận các khái niệm NNP và NNI. Khi đó phải tính đến khấu hao và các loại thuế gián tiếp, và NNI sẽ luôn luôn nhỏ hơn NNP một lượng bằng giá trị của thuế gián tiếp.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Hà Lan hay Hòa Lan ( ) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire, Sint Eustatius và Saba). Phần thuộc châu Âu của Hà Lan gồm có 12 tỉnh, giáp với Đức về phía đông, Bỉ về phía nam, và biển Bắc về phía tây bắc; có biên giới hàng hải với Bỉ, Anh và Đức. Năm thành phố lớn nhất của Hà Lan là Amsterdam, Rotterdam, Den Haag (La Haye), Utrecht và Eindhoven. Amsterdam là thành phố thủ đô, song trụ sở của nghị viện và chính phủ đặt tại Den Haag. Cảng Rotterdam là cảng lớn nhất châu Âu và là cảng lớn nhất bên ngoài Đông Á. Hà Lan có địa hình thấp và bằng phẳng, chỉ có khoảng 50% diện tích đất nằm cao hơn 1 m so với mực nước biển. Hầu hết diện tích dưới mực nước biển là đất cải tạo. Từ cuối thế kỷ XVI, nhiều khu vực rộng lớn được cải tạo từ biển và hồ, chúng chiếm gần 17% diện tích đất hiện nay của quốc gia. Hà Lan có mật độ dân số trên 400 người/km², nếu không tính mặt nước thì sẽ hơn 500 người/km², thuộc vào hàng các quốc gia có mật độ dân số dày đặc nhất thế giới. Tuy vậy, Hà Lan là quốc gia xuất khẩu nông sản và thực phẩm lớn thứ nhì thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Hà Lan là quốc gia thứ ba trên thế giới có các đại biểu được bầu cử để kiểm soát hành động của chính phủ; quốc gia này có thể chế dân chủ nghị viện và quân chủ lập hiến từ năm 1848. Hà Lan có lịch sử lâu dài về khoan dung xã hội và thường được nhìn nhận là một quốc gia tự do, Hà Lan đã hợp pháp hoá mại dâm, an tử và hôn nhân đồng giới. Hà Lan là một thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu, Khu vực đồng euro, G-10, NATO, OECD và WTO, nằm trong Khu vực Schengen và Liên minh Benelux. Hà Lan là nơi đặt trụ sở của năm toà án quốc tế như Tòa án Trọng tài thường trực và Tòa án Công lý Quốc tế, trong đó có bốn toà án đặt tại Den Haag, do đó thành phố này được mệnh danh là "thủ đô pháp luật thế giới." Hà Lan đứng thứ hai trong chỉ số tự do báo chí năm 2016 của Phóng viên không biên giới. Hà Lan có nền kinh tế hỗn hợp dựa trên thị trường, đứng thứ 17 về chỉ số tự do kinh tế năm 2013. Hà Lan có GDP PPP bình quân cao thứ 13 thế giới vào năm 2016 theo số liệu của IMF. Năm 2017, Báo cáo Hạnh phúc thế giới của Liên Hợp Quốc xếp Hà Lan đứng thứ sáu, phản ánh chất lượng sinh hoạt cao tại đây. Hà Lan là một nhà nước phúc lợi hào phóng, cung cấp chăm sóc y tế phổ quát, giáo dục công cộng và hạ tầng tốt, và nhiều phúc lợi xã hội. Từ nguyên. Tên gọi "Hà Lan" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Trước đó, toàn thể "Hà Lan" (Nederland) thường được gọi bằng định danh có từ lâu trước đó là "Holland" (nghĩa là đất rừng). Bằng tiếng Trung, "Ho-lland" được người Trung Quốc phiên âm là "Hé lán" và viết bằng chữ Hán là 荷蘭 (Hà Lan) hoặc 和蘭 (Hòa Lan). Hiện nay "Hà Lan" (荷蘭) được dùng phổ biến hơn ở cả tiếng Việt và tiếng Trung. Một cách gọi khác mà sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 và lớp 10 sử dụng là "Nê-đéc-lan", phiên âm trực tiếp từ "Nederland". Từ 下蘭 ("Hạ Lan") có thể được dùng là dịch trực tiếp từ ""Nederland" hay "Netherlands"" có nghĩa là "Vùng đất thấp". Tuy nhiên, "Holland" theo ý nghĩa nghiêm ngặt thì thuật ngữ này chỉ nói đến Noord-Holland và Zuid-Holland, là hai trong số 12 tỉnh của quốc gia này, chúng vốn là một tỉnh duy nhất và trước đó là Bá quốc Holland. Bá quốc Holland ban đầu là của người Frisia, xuất hiện sau khi giải thể Vương quốc Frisia, về sau nó trở thành lãnh địa quan trọng nhất về kinh tế và chính trị tại Các Vùng đất thấp ("Nederlanden"). Điều này cùng với tầm quan trọng của Holland trong việc hình thành Cộng hoà Hà Lan, Chiến tranh Tám mươi Năm và Chiến tranh Anh-Hà Lan trong các thế kỷ XVI, XVII và XVIII, khiến Holland đại diện cho toàn thể quốc gia, song hiện nay được nhìn nhận là không chính xác, không chính thức, hoặc đôi khi là lăng nhục, tuỳ theo ngữ cảnh, song vẫn được sử dụng rộng rãi như khi đề cập đến đội tuyển bóng đá quốc gia. Khu vực được gọi là Các Vùng đất thấp (Nederlanden, gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) và quốc gia Hà Lan (Nederland) tương đồng về địa danh học. Các địa danh có "Neder", "Nieder", "Nether" và "Nedre" (trong các ngôn ngữ German) và "Bas" hay "Inferior" (trong các ngôn ngữ Roman) được sử dụng trong các địa điểm trên khắp châu Âu. Chúng thỉnh thoảng được sử dụng trong một quan hệ chỉ thị với một vùng đất cao hơn. Trong trường hợp Các Vùng đất thấp / Hà Lan, vị trí địa lý của vùng "hạ" ít nhiều nằm tại hạ lưu và gần biển. Tuy nhiên, vị trí địa lý của vùng cao hơn thì thay đổi lớn theo thời gian. Người La Mã phân chia giữa các tỉnh Hạ Germania (nay thuộc Bỉ và Hà Lan) tại hạ lưu và Thượng Germania (nay là một phần của Đức). Việc định danh "hạ" ám chỉ đến khu vực có từ thế kỷ X với Công quốc Hạ Lorraine, bao trùm phần lớn Các Vùng đất thấp. Các công tước Bourgogne cai trị Các Vùng đất thấp vào thế kỷ XV, sử dụng thuật ngữ les pays de par deçàvùng đất ở trên đây cho Các Vùng đất thấp, tương phản với les pays de par delà~ vùng đất ngoài kia cho quê hương của họ: Bourgogne tại trung-đông nước Pháp hiện nay. Dưới quyền Nhà Habsburg, "Les pays de par deçà" phát triển thành "pays d'embas"vùng đất dưới đây, một từ mang tính chỉ thị liên quan đến các lãnh địa khác của gia tộc này tại châu Âu. Nó được dịch thành Neder-landen trong các văn bản chính thức tiếng Hà Lan đương đại. Theo một quan điểm khu vực, "Niderlant" cũng là khu vực giữa sông Meuse và hạ du sông Rhine vào hậu kỳ Trung cổ. Khu vực được gọi là "Oberland" (vùng đất cao) trong bối cảnh chỉ thị này được cho là bắt đầu ở khoảng chừng Köln nằm gần đó. Từ giữa thế kỷ XVI trở đi, "Các Vùng đất thấp"Nederlanden và "Hà Lan"Nederland mất ý nghĩa chỉ thị ban đầu của chúng, và là những tên gọi được sử dụng phổ biến nhất. Chiến tranh Tám mươi năm (1568–1648) phân chia Các Vùng đất thấp thành Cộng hoà Hà Lan độc lập tại miền bắc (Latinh hoá là Belgica Foederata, "Nederland liên hiệp", nhà nước tiền thân của Hà Lan) và Miền nam Các Vùng đất thấp do Tây Ban Nha kiểm soát (Latinh hoá thành "Belgica Regia", "Nederland hoàng gia", nhà nước tiền thân của Bỉ). Các Vùng đất thấp ngày nay là một định danh gồm có Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, song trong hầu hết các ngôn ngữ Roman, thuật ngữ "Các Vùng đất thấp" được sử dụng dành riêng cho Hà Lan. Trong tiếng Anh, Hà Lan được viết là ""The Netherlands" (danh từ số nhiều), còn tính từ sở hữu viết là "Dutch"" thì lại là dạng "biến hóa từ" của "Deutsch" chỉ chung các dân tộc Đức từ thời xa xưa Lịch sử. Sơ khởi. Dấu tích loài người cổ nhất (Neanderthal) được phát hiện trên vùng đất cao gần Maastricht, được cho là có niên đại 250.000 năm trước. Đến khi kết thúc kỷ băng hà, những người du cư thuộc văn hoá Hamburg (khoảng 13.000–10.000 TCN) thời đồ đá cũ cuối muộn tiến hành săn bắn tuần lộc trong khu vực bằng giáo, đến văn hoá Ahrensburg (khoảng 11.200–9.500 TCN) thì dùng cung tên. Xuồng cổ nhất trên thế giới được phát hiện tại Drenthe, của các bộ lạc có vẻ thuộc về văn hoá Maglemosia (khoảng 8000 TCN) thời đồ đá giữa. Từ năm 800 TCN trở đi, văn hoá Hallstatt của người Celt thuộc thời đồ sắt trở nên có ảnh hưởng, thay thế văn hoá Hilversum (1800–800 TCN). Quặng sắt trở thành một thước đo thịnh vượng, và hiện diện khắp khu vực, bao gồm cả quặng sắt nâu. Những người thợ rèn qua lại giữa các khu dân cư và mang theo đồng điếu và sắt để chế tạo công cụ theo yêu cầu. Vorstengraf (mộ của quốc vương) tại Oss (700 TCN) được phát hiện trong một gò mộ, có kích cỡ lớn nhất trong thể loại này tại Tây Âu và có chứa một thanh kiếm sắt được dát vàng và san hô. Khí hậu xấu đi tại Scandinavia vào khoảng năm 850 TCN, và tệ hơn nữa vào khoảng năm 650 TCN, điều này có thể đã khiến các bộ lạc German di cư từ phía bắc. Đến khi cuộc di cư này hoàn tất vào khoảng năm 250 TCN, đã nổi bật lên một vài nhóm văn hoá và ngôn ngữ nói chung. Người Ingaevones hay German Biển Bắc cư trú tại phần phía bắc của Các vùng đất thấp, sau đó họ phát triển thành người Frisii và người Sachsen (Saksen) ban đầu. Một nhóm thứ nhì gọi là người German Weser-Rhine (hay Istvaeones) bành trướng dọc trung du sông Rhine (Rijn) và Weser, và cư trú tại Các vùng đất thấp phía nam các sông lớn. Nhóm này gồm các bộ lạc cuối cùng phát triển thành người Frank Salia. Ngoài ra người Celt thuộc văn hoá La Tène (khoảng 450 TCN đến khi La Mã chinh phục) bành trướng trên một phạm vi rộng, bao gồm khu vực phía nam của Các vùng đất thấp. Một số học giả suy đoán rằng một bản sắc dân tộc và ngôn ngữ thứ ba, ngoài German và Celt, từng tồn tại trong khu vực cho đến thời La Mã, là văn hoá Nordwestblock thời đồ sắt, cuối cùng bị hấp thụ vào người Celt tại phía nam và các dân tộc German đến từ phía đông. Trong Chiến tranh Gallia, khu vực phía nam và phía tây sông Rhine bị quân La Mã (Roma) chinh phục dưới quyền Julius Caesar từ 57 TCN đến 53 TCN. Julius Caesar miêu tả hai bộ lạc Celt chính sống tại khu vực nay là miền nam Hà Lan là Menapii và Eburones. Sông Rhine trở thành biên giới phía bắc của La Mã vào khoảng năm 12. Các thị trấn đáng chú ý xuất hiện dọc biên giới giữa La Mã và người German: Nijmegen và Voorburg. Trong giai đoạn đầu của tỉnh Gallia Belgica thuộc La Mã, khu vực phía nam biên giới trở thành bộ phận của tỉnh Germania Inferior. Khu vực phía bắc sông Rhine là nơi cư trú của người Frisii, nằm ngoài quyền cai trị của La Mã, trong khi các bộ lạc German là Batavi và Cananefates phục vụ trong kỵ binh La Mã. Người Batavi khởi nghĩa chống La Mã vào năm 69, song cuối cùng thất bại. Người Batavi sau đó hợp nhất với các bộ lạc khác thành bang liên người Frank Salia, có bản sắc xuất hiện vào nửa đầu của thế kỷ III. Người Frank Salia xuất hiện trong các văn bản La Mã với vai trò là đồng minh cũng như đối thủ. Trước áp lực từ bang liên của người Sachsen từ phía đông, họ chuyển qua sông Rhine vào lãnh thổ La Mã trong thế kỷ IV, từ căn cứ mới tại West-Vlaanderen và tây nam Hà Lan họ tập kích eo biển Manche. Quân La Mã bình định khu vực, song không trục xuất người Frank, và đến thời kỳ Julianus (358), người Frank Salia được cho phép định cư với tư cách "foederati" (phiên quốc) tại Toxandria. Sau khi điều kiện khí hậu xấu đi và người La Mã triệt thoát, người Frisii biến mất khỏi miền bắc Hà Lan, có lẽ bị buộc phải tái định cư trong lãnh thổ La Mã với tên gọi "laeti" vào khoảng 296. Vùng đất ven biển phần lớn vẫn không có người ở trong hai trăm năm sau. Sơ kỳ trung cổ (411–1000). Sau khi chính quyền La Mã trong khu vực bị sụp đổ, người Frank bành trướng lãnh thổ thành nhiều vương quốc. Đến thập niên 490, Clovis I chinh phục và thống nhất toàn bộ các lãnh thổ này tại miền nam Hà Lan trong Vương quốc Frank, và từ đó tiếp tục các cuộc chinh phục đến Gaule (Pháp). Trong cuộc bành trướng này, nhóm người Frank di cư về phía nam cuối cùng tiếp nhận tiếng Latinh thông tục của cư dân địa phương. Nhóm người Frank ở lại quê hương tại phía bắc (tức miền nam Hà Lan và Vlaanderen) duy trì nói tiếng Frank cổ, đến thế kỷ IX tiến hoá thành tiếng Hạ Franconia cổ hoặc tiếng Hà Lan cổ. Xuất hiện biên giới giữa khu vực nói tiếng Hà Lan và nói tiếng Pháp. Về phía bắc của người Frank, điều kiện khí hậu tại bờ biển được cải thiện, và trong giai đoạn Di cư các vùng đất bị bỏ hoang lại có người định cư, hầu hết là người Sachsen song cũng có các nhóm liên hệ mật thiết với họ là người Angle, người Jute và người Frisii cổ. Nhiều người chuyển sang Anh và được gọi là người Anglo-Saxon, song những người ở lại được gọi là người Frisia và ngôn ngữ của họ được gọi là tiếng Frisia, đặt theo vùng đất từng có người Frisii cư trú. Tiếng Frisia được nói dọc toàn bộ bờ biển phía nam biển Bắc, và vẫn là ngôn ngữ có liên hệ mật thiết nhất với tiếng Anh trong số các ngôn ngữ còn tồn tại trên lục địa châu Âu. Đến thế kỷ VII, Vương quốc Frisia (650–734) xuất hiện với trung tâm quyền lực là Utrecht, còn Dorestad là một điểm giao thương phồn thịnh. Từ năm 600 đến khoảng năm 719, các thành phố thường là chiến trường giữa người Frisia và người Frank. Trong trận Boarn vào năm 734, người Frisia bị đánh bại sau một loạt cuộc chiến. Được người Frank chấp thuận, nhà truyền giáo người Anglo-Saxon Willibrord cải đạo Cơ Đốc cho người Frisia. Đế quốc Caroling của người Frank mô phỏng Đế quốc La Mã và kiểm soát phần lớn Tây Âu. Tuy nhiên, đến năm 843 nó phân chia thành ba bộ phận là Đông Frank, Trung Frank và Tây Frank. Hầu hết lãnh thổ Hà Lan ngày nay là bộ phận của Trung Frank, song đây là một vương quốc yếu và phải hứng chịu nhiều nỗ lực phân chia và sáp nhập của các láng giềng mạnh hơn. Trung Frank gồm các lãnh thổ từ Frisia tại phía bắc đến Vương quốc Ý tại phía nam. Khoảng năm 850, Lotharius I của Trung Frank thừa nhận một người Viking là Rorik của Dorestad là người cai trị hầu hết Frisia. Đến khi Trung Frank bị phân chia vào năm 855, vùng đất phía bắc dãy Alpes được giao cho Lotharius II rồi được đặt tên là Lotharingia. Sau khi ông mất vào năm 869, Lotharingia bị phân chia thành Thượng Lotharingia và Hạ Lotharingia, Hạ Lotharingia gồm Các vùng đất thấp và về danh nghĩa trở thành bộ phận của Đông Frank vào năm 870, song trên thực tế nó nằm dưới quyền kiểm soát của người Viking, họ đột kích các thị trấn của người Frisia và Frank trên bờ biển Frisia và dọc các con sông. Các cuộc tấn công của người Viking khiến quyền thống trị của các lãnh chúa Pháp và Đức trong khu vực bị suy yếu. Kháng cự người Viking đến từ giới quý tộc địa phương, họ đạt được tầm vóc nhất định và đặt cơ sở cho việc giải thể Hạ Lotharingia thành các nhà nước bán độc lập. Một trong số các quý tộc địa phương này là Gerolf xứ Holland, ông đảm nhận quyền lãnh chúa tại Frisia sau khi ông giúp ám sát Godfrid, và quyền cai trị của người Viking kết thúc. Trung kỳ Trung cổ (1000–1384). Đế quốc La Mã Thần thánh (nhà nước kế thừa của Đông Frank và sau đó là Lotharingia) cai trị hầu hết vùng đất thấp trong thế kỷ X và XI, song không thể duy trì thống nhất chính trị. Các quý tộc có quyền lực tại địa phương đưa thành phố, bá quốc hoặc công quốc của họ thành các vương quốc cá nhân, ít có nhận thức về nghĩa vụ với hoàng đế. Holland, Hainaut, Vlaanderen, Gelre, Brabant và Utrecht ở trong tình trạng hầu như chiến tranh liên miên hoặc thành lập các liên minh cá nhân. Ngôn ngữ và văn hoá của hầu hết cư dân sống tại Bá quốc Holland ban đầu là của người Frisia. Do người Frank từ Vlaanderen và Brabant đến định cư, kết quả là khu vực nhanh chóng chuyển sang nói tiếng Hạ Franconia cổ (hay tiếng Hà Lan cổ). Phần còn lại của Frisia tại phía bắc (nay là Friesland và Groningen) tiếp tục duy trì độc lập của họ và có các thể chế riêng cũng như tức giận với việc áp đặt hệ thống phong kiến. Khoảng năm 1000, do một số bước phát triển về nông nghiệp, kinh tế khu vực bắt đầu phát triển với nhịp độ nhanh, và năng suất cao hơn cho phép người lao động canh tác thêm đất đai hoặc trở thành thương nhân. Các thị trấn phát triển quanh các tu viện và thành trì, và một giai cấp trung lưu làm nghề buôn bán bắt đầu phát triển trong các khu vực đô thị này, đặc biệt là tại Vlaanderen và sau đó là Brabant. Các thành phố giàu có bắt đầu mua các đặc quyền nhất định cho mình từ quân chủ. Trong thực tiễn, điều này có nghĩa là Brugge và Antwerpen trở thành các nước cộng hoà bán độc lập có quyền lợi riêng và sau đó phát triển thành những thành phố và cảng quan trọng hàng đầu tại châu Âu. Khoảng năm 1100, các nông dân từ Vlaanderen và Utrecht bắt đầu tiến hành tiêu nước và canh tác các vùng đất đầm lầy không có người ở tại miền tây Hà Lan, khiến Bá quốc Holland trở thành trung tâm quyền lực. Tước hiệu Bá tước Holland là vấn đề tranh chấp trong các cuộc chiến tranh Lưỡi câu và Cá tuyết () từ năm 1350 đến năm 1490. Phe Cá tuyết gồm các thành phố thịnh vượng hơn, còn phe Lưỡi câu gồm giới quý tộc bảo thủ. Các quý tộc này mời Công tước Philip III của Bourgogne – là người đồng thời giữ tước hiệu Bá tước xứ Vlaanderen – đến chinh phục Holland. Hà Lan thuộc Bourgogne và Habsburg (1384–1581). Hầu hết các thái ấp của Đế quốc La Mã Thần thánh và Pháp tại khu vực nay là Hà Lan và Bỉ thống nhất trong một liên minh cá nhân dưới quyền Philip III của Bourgogne vào năm 1433. Gia tộc Valois-Bourgogne và gia tộc Habsburg kế thừa họ cai trị Các vùng đất thấp trong giai đoạn từ năm 1384 đến năm 1581. Trước thời Bourgogne, người Hà Lan nhận dạng bản thân thông qua thị trấn họ sống hoặc công quốc hay bá quốc địa phương của họ. Trong giai đoạn Bourgogne, con đường hướng đến tính dân tộc bắt đầu. Những người cai trị mới bảo vệ các lợi ích mậu dịch của Hà Lan, ngành này sau đó phát triển nhanh chóng. Các hạm đội của Bá quốc Holland từng vài lần đánh bại hạm đội của Liên minh Hanse. Amsterdam phát triển và đến thế kỷ XV trở thành cảng giao thương chủ yếu tại châu Âu đối với lương thực từ vùng Baltic. Amsterdam phân phối lương thực đến các thành phố chính của Bỉ, miền bắc Pháp, và Anh. Hoạt động giao dịch này mang tính sống còn do Hà Lan không còn có thể sản xuất đủ lương thực để đáp ứng nhu cầu nội địa. Việc tiêu nước khiến than bùn tại các vùng đất ngập nước trước kia giảm xuống mức quá thấp để duy trì tiêu nước. Dưới quyền Karl V của Gia tộc Habsburg, là người cũng cai trị Đế quốc La Mã Thần thánh và là Quốc vương Tây Ban Nha, toàn bộ các thái ấp tại khu vực Hà Lan ngày nay thống nhất trong Mười bảy tỉnh, lãnh địa này cũng bao gồm hầu hết Bỉ và Luxembourg ngày nay, cũng như một số vùng đất lân cận nay thuộc Pháp và Đức. Năm 1568, Chiến tranh Tám mươi Năm giữa Mười bảy tỉnh và quân chủ Tây Ban Nha Felipe II của họ bắt đầu. Đến năm 1579, phần phía bắc của Mười bảy tỉnh thành lập Liên minh Utrecht, họ cam kết trợ giúp lẫn nhau trong việc phòng thủ chống quân Tây Ban Nha. Liên hiệp Utrecht được nhìn nhận là nền tảng của Hà Lan hiện đại. Năm 1581, các tỉnh miền bắc thông qua tuyên bố độc lập, theo đó các tỉnh chính thức phế truất Felipe II của Tây Ban Nha khỏi tư cách quân chủ cai trị tại các tỉnh miền bắc. Felipe II không để cho người Hà Lan thành công dễ dàng, và chiến tranh tiếp tục cho đến năm 1648, khi Tây Ban Nha dưới quyền Quốc vương Felipe IV công nhận độc lập của bảy tỉnh phía bắc trong Hoà ước Münster. Tuy nhiên, một bộ phận của các tỉnh miền nam cũng trở thành thuộc địa trên thực tế của quốc gia mới này. Cộng hoà Hà Lan (1581–1795). Sau khi tuyên bố độc lập, các tỉnh Holland, Zeeland, Groningen, Friesland, Utrecht, Overijssel và Gelderland hình thành một bang liên. Toàn bộ các công quốc, lãnh địa và bá quốc này đều có quyền tự trị và có chính phủ riêng. Staten-Generaal là chính phủ bang liên, đặt tại Den Haag và gồm đại biểu từ các tỉnh. Khu vực Drenthe có dân cư thưa thớt cũng là bộ phận của nước cộng hoà, song không được xem là một tỉnh. Ngoài ra, nước cộng hoà chiếm giữ một số vùng đất từng thuộc Vlaanderen, Brabant và Limburg trong Chiến tranh Tám mươi Năm, chúng được gọi là các Vùng đất chung (Generaliteitslanden). Cư dân các Vùng đất chung chủ yếu là tín đồ Công giáo La Mã, các khu vực này không có một cấu trúc chính phủ của mình, và được sử dụng làm một vùng đệm giữa nước Cộng hoà Hà Lan và lãnh thổ Miền nam Các vùng đất thấp do Tây Ban Nha kiểm soát. Trong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan, kéo dài trong phần lớn thế kỷ XVII, Đế quốc Hà Lan phát triển thành một trong các cường quốc hàng hải và kinh tế chủ yếu của thế giới. Khoa học, quân sự và nghệ thuật (đặc biệt là hội họa) Hà Lan nằm trong nhóm được tôn vinh nhất thế giới. Đến năm 1650, Hà Lan sở hữu 16.000 thương thuyền. Công ty Đông Ấn Hà Lan và Công ty Tây Ấn Hà Lan thành lập các thuộc địa và trạm mậu dịch trên khắp thế giới. Người Hà Lan định cư tại Bắc Mỹ từ khi thành lập Tân Amsterdam tại phần phía nam của đảo Manhattan vào năm 1614. Người Hà Lan lập thuộc địa Cape tại Nam Phi vào năm 1652, lập thuộc địa Suriname tại Nam Mỹ, lập thuộc địa Đông Ấn Hà Lan (nay là Indonesia) tại châu Á, và sở hữu trạm mậu dịch với phương Tây duy nhất tại Nhật Bản là Dejima. Nhiều sử gia kinh tế đánh giá Hà Lan là quốc gia tư bản hoàn thiện đầu tiên trên thế giới. Tại châu Âu thời cận đại, Hà Lan có thành phố mậu dịch giàu có nhất (Amsterdam) và sàn chứng khoán toàn thời gian đầu tiên. Óc sáng táo của các thương nhân dẫn đến xuất hiện các quỹ bảo hiểm và hưu trí, cũng như các hiện tượng kinh tế như chu kỳ bùng nổ-phá sản, bong bóng lạm phát tài sản, hội chứng hoa tulip 1636–1637, và nhà đầu cơ giá xuống đầu tiên trên thế giới là Isaac le Maire, ông làm giảm giá bằng cách bán phá giá cổ phiếu để rồi sau đó mua lại với giá thấp hơn. Năm 1672 – trong lịch sử Hà Lan được gọi là Rampjaar (năm thảm hoạ) – Cộng hoà Hà Lan đồng thời tham chiến với Pháp, Anh và ba giáo phận Đức. Trên biển, người Hà Lan ngăn chặn thành công hải quân của Anh và Pháp tiến vào bờ biển phía tây. Tuy nhiên, trên bộ Hà Lan gần như bị chiếm lĩnh trước các đội quân Pháp và Đức đến từ phía đông. Người Hà Lan đảo ngược tình thế bằng cách làm ngập nhiều phần của Holland, song không bao giờ có thể khôi phục vinh quanh như trước đó. Hà Lan lâm vào tình trạng suy thoái về tổng thể trong thế kỷ XVIII, khi họ phải cạnh tranh về kinh tế với Anh, và trong nước thì diễn ra kình địch trường kỳ giữa hai phái chủ yếu trong xã hội là thế lực cộng hoà ("Staatsgezinden") và những người ủng hộ stadhouder (quốc trưởng) là thân vương xứ Oranje ("Prinsgezinden"). Cộng hoà Batavia và vương quốc (1795–1890). Nhờ ủng hộ quân sự của nước Pháp cách mạng, những người theo chế độ cộng hoà tại Hà Lan tuyên bố thành lập Cộng hoà Batavia, mô phỏng theo Cộng hoà Pháp và khiến Hà Lan trở thành một nhà nước đơn nhất vào ngày 19 tháng 1 năm 1795. Stadhouder (quốc trưởng) là Willem V xứ Oranje đào thoát sang Anh. Tuy nhiên, từ năm 1806 đến năm 1810, nhà nước bù nhìn Vương quốc Hà Lan (Holland) được Napoléon Bonaparte lập ra và giao cho em trai ông là Louis Bonaparte cai quản để kiểm soát Hà Lan hiệu quả hơn. Tuy nhiên, Louis Bonaparte cố gắng phục vụ lợi ích của Hà Lan thay vì của anh trai mình, và bị buộc phải thoái vị vào ngày 1 tháng 7 năm 1810. Hoàng đế Napoléon phái một đội quân đến và Hà Lan trở thành một bộ phận của Đế quốc Pháp cho đến mùa thu năm 1813 sau khi Napoléon thất bại trong trận Leipzig. Willem Frederik là con trai của stadhouder cuối cùng, ông trở về Hà Lan vào năm 1813 và xưng là thân vương chủ quyền của Hà Lan. Hai năm sau, Đại hội Wien sáp nhập miền nam các Vùng đất thấp vào Hà Lan nhằm tạo ra một quốc gia mạnh trên biên giới phía bắc của Pháp. Willem Frederik đưa nước Hà Lan thống nhất này thành một vương quốc và xưng là Quốc vương Willem I. Ngoài ra, Willem I kế thừa chức Đại công tước Luxembourg trong vụ trao đổi với các tài sản của ông tại Đức. Tuy nhiên, miền nam các Vùng đất thấp đã tách biệt về văn hoá với miền bắc từ năm 1581, và họ tiến hành khởi nghĩa. Miền nam giành độc lập vào năm 1830 với quốc hiệu là Bỉ (được Hà Lan công nhận vào năm 1839), còn liên minh cá nhân giữa Hà Lan và Luxembourg bị cắt đứt vào năm 1890, khi Willem III mất trong khi không có người thừa kế là nam giới, còn luật kế vị của Luxembourg lại ngăn con gái ông là Nữ vương Wilhelmina trở thành nữ Đại công tước. Cách mạng Bỉ tại chính quốc và Chiến tranh Java tại Đông Ấn Hà Lan khiến Hà Lan đến bên bờ vực phá sản. Tuy nhiên, người Hà Lan áp đặt chính sách hệ thống canh tác (cultuurstelsel) tại Đông Ấn Hà Lan vào năm 1830, theo đó 20% đất của các làng được dành cho các cây trồng của chính phủ nhằm xuất khẩu. Chính sách này khiến người Hà Lan có được lượng của cải khổng lồ và khiến thuộc địa này có thể tự cung tự cấp. Mặt khác, các thuộc địa tại Tây Ấn (Guiana thuộc Hà Lan cùng Curaçao và các lãnh thổ phụ thuộc) dựa nhiều vào nô lệ châu Phi, ước tính có đến hơn nửa triệu người châu Phi. Hà Lan bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1863. Tuy thế, chế độ nô lệ tại Suriname chỉ hoàn toàn bị bãi bỏ vào năm 1873, do luật quy định rằng có 10 năm chuyển tiếp. Hà Lan cũng là một trong các quốc gia châu Âu cuối cùng tiến hành công nghiệp hoá, quá trình này diễn ra vào nửa cuối của thế kỷ XIX. Hiện đại. Hà Lan duy trì được tính trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, một phần là nhờ việc nhập khẩu hàng hoá thông qua Hà Lan có ý nghĩa thiết yếu đối với tính sống còn của Đức, cho đến khi Hải quân Hoàng gia Anh phong toả vào năm 1916. Đến Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức Quốc xã xâm chiếm Hà Lan vào ngày 10 tháng 5 năm 1940. Cuộc không kích Rotterdam buộc các thành phần chính của quân đội Hà Lan đầu hàng bốn ngày sau đó. Trong quá trình chiếm đóng, có trên 100.000 người Do Thái Hà Lan bị tập trung và chuyển đến các trại hành quyết của Đức Quốc xã. Các công nhân Hà Lan bị bắt đi lính để lao động cưỡng bách tại Đức, các thường dân kháng cự bị giết để trả thù cho các vụ tấn công vào binh sĩ Đức, và quốc gia bị cướp bóc thực phẩm. Tuy vậy, trên 20.000 phần tử phát xít Hà Lan gia nhập Waffen-SS, chiến đấu trên Mặt trận phía Đông. Ngày 8 tháng 12 năm 1941, chính phủ lưu vong Hà Lan tại Luân Đôn tuyên chiến với Nhật Bản, song không thể ngăn người Nhật chiếm đóng Đông Ấn Hà Lan. Năm 1944–45, Tập đoàn quân Canada số 1, gồm các binh sĩ Canada, Anh và Ba Lan, chịu trách nhiệm giải phóng phần lớn Hà Lan. Sau thế chiến, người Hà Lan chiến đấu trong chiến tranh thực dân chống lại Cộng hoà Indonesia mới thành lập. Năm 1954, Hiến chương Vương quốc Hà Lan cải tổ cấu trúc chính trị của Hà Lan, đây là kết quả từ áp lực quốc tế về việc tiến hành phi thực dân hoá. Các thuộc địa của Hà Lan là Surinam, Curaçao và các lãnh thổ phụ thuộc, cùng với phần lãnh thổ tại châu Âu đều trở thành các quốc gia trong vương quốc, song Suriname độc lập vào năm 1975. Sau thế chiến, Hà Lan từ bỏ tính trung lập và đạt được các quan hệ mật thiết với các quốc gia láng giềng. Hà Lan là một trong các thành viên sáng lập của Benelux, NATO, Euratom và Cộng đồng Than Thép châu Âu, thể chế này sau đó tiến triển thành Cộng đồng Kinh tế châu Âu và Liên minh châu Âu. Chính phủ khuyến khích xuất cư nhằm giảm mật độ dân số, kết quả là nửa triệu người Hà Lan rời khỏi đất nước sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong các thập niên 1960 và 1970, Hà Lan có biến đổi lớn về xã hội và văn hoá, như "ontzuiling" nhanh chóng, nghĩa là suy tàn việc phân chia cũ theo ranh giới chính trị và tôn giáo. Thanh niên, đặc biệt là sinh viên, bác bỏ các tập tục truyền thống và thúc đẩy thay đổi trong các vấn đề như nữ quyền, đồng tính luyến ái, giải trừ quân bị và các vấn đề môi trường. Năm 2002, euro trở thành tiền tệ lưu hành. Năm 2010, Antille thuộc Hà Lan giải thể, các đảo Bonaire, Sint Eustatius và Saba đạt được quan hệ mật thiết hơn với Hà Lan. Địa lý. Phần lãnh thổ tại châu Âu của Hà Lan nằm giữa các vĩ tuyến 50° và 54° Bắc, giữa các kinh tuyến 3° và 8° Đông. Hà Lan về mặt địa lý là một quốc gia rất thấp và bằng phẳng, có khoảng 26% diện tích là nơi ở của 21% dân số nằm dưới mực nước biển, và chỉ có khoảng 50% đất liền cao hơn mực nước biển trên 1 m. Tuy nhiên, Hà Lan có các vùng chân đồi tại cực đông nam với độ cao dưới 321 m, và có một số dãy đồi thấp tại trung tâm. Hầu hết các vùng nằm dưới mực nước biển là do nhân tạo, vì khai thác than bùn khiến cho độ cao giảm xuống hoặc là hình thành thông qua cải tạo đất. Kể từ cuối thế kỷ XVI, các khu vực quai đê lấn biển cỡ lớn được bảo tồn thông qua các hệ thống tiêu nước phức tạp gồm đê, kênh đào và trạm bơm. Gần 17% diện tích đất liền quốc gia được cải tạo từ biển và từ hồ. Phần lớn Hà Lan lúc đầu được hình thành từ cửa sông của ba sông lớn tại châu Âu: Rhine ("Rijn"), Meuse ("Maas") và Scheldt ("Schelde"), cùng các chi lưu của chúng. Phần tây nam của Hà Lan cho đến nay là một đồng bằng châu thổ của ba con sông trên, gọi là châu thổ Rhine-Meuse-Scheldt. Hà Lan được phân chia thành phần phía bắc và phía nam qua sông Rhine, chi lưu lớn nhất của nó là Waal, và sông Meuse. Trong quá khứ, các sông này có chức năng của chướng ngại vật tự nhiên giữa các thái ấp và do đó trong lịch sử tạo ra một sự phân chia văn hoá, bằng chứng là một số điểm về ngữ âm học. Nhánh quan trọng khác của sông Rhine là sông IJssel, thoát nước ra hồ IJssel, tức Zuiderzee ('biển phía nam') cũ. Giống như các sông trên, con sông này tạo thành đường phân chia ngôn ngữ học, cư dân phía đông bắc sông nói các phương ngữ Hạ Sachsen Hà Lan (riêng tỉnh Friesland có ngôn ngữ riêng). Nạn lụt. Trải qua nhiều thế kỷ, đường bờ biển của Hà Lan có thay đổi đáng kể do kết quả từ các tai hoạ tự nhiên và can thiệp của con người, đáng chú ý nhất về việc để mất đất liền trong cơn bão năm 1134, nó tạo ra quần đảo Zeeland tại phía tây nam. Năm 1287, trận lụt Thánh Lucia tác động đến Hà Lan và Đức, làm thiệt mạng trên 50.000 người trong một trận lụt có tính tàn phá hàng đầu trong lịch sử thành văn. Do nạn lụt nên việc canh tác gặp khó khăn, điều này khuyến khích ngoại thương, kết quả là Hà Lan tham gia sự vụ thế giới ngay từ thế kỷ XIV-XV. Trận lụt Thánh Elizabeth vào năm 1421 và việc quản lý yếu kém sau đó làm phá huỷ một vùng đất quai đê mới cải tạo, thay thế là vùng bãi bồi thủy triều "Biesbosch" rộng 72 km² tại nam-trung. Trận lụt biển Bắc vào tháng 2 năm 1953 làm sụp đổ một số đê tại tây nam của Hà Lan, khiến hơn 1.800 người chết đuối. Chính phủ Hà Lan sau đó thi hành một chương trình quy mô lớn mang tên là "Deltawerken" (công trình châu thổ) nhằm bảo vệ quốc gia khỏi nạn lụt trong tương lai. Dự án hoàn thành phần lớn vào năm 1997 khi hoàn thành Maeslantkering. Một mục tiêu chính của dự án Delta là giảm nguy cơ lụt tại Zuid-Holland và Zeeland xuống còn một lần trong 10.000 năm (so với 1 lần trong 4000 năm của phần còn lại trong nước). Mục tiêu này đạt được bằng việc xây các con đê ngoài biển dài 3.000 km và 10.000 km các đê nội bộ, kênh đào và sông, đóng các cửa biển của tỉnh Zeeland. Các đánh giá nguy cơ mới theo định kỳ cho thấy các vấn đề cần phải gia cố đê. Dự án Delta được Hiệp hội Kỹ sư dân dụng Hoa Kỳ đánh giá là một trong bảy kỳ quan của thế giới hiện đại. Tác động của các tai hoạ đã gia tăng về quy mô do hoạt động của con người, vì các vùng đàm lầy tương đối cao bị tiêu nước để sử dụng làm đất canh tác. Việc tiêu nước khiến lớp than bùn phì nhiêu bị thu hẹp và mặt đất hạ xuống, khi đó mực nước ngầm lại hạ thấp để bù vào việc mặt đất hạ, khiến lớp than bùn bên dưới thu nhỏ hơn nữa. Ngoài ra, từ thế kỷ XIX trở về trước, việc khai thác than bùn để làm nhiên liệu càng làm tình hình thêm trầm trọng. Hàng thế kỷ khai thác than bùn quy mô rộng và kiểm soát yếu kém khiến cho mặt đất vốn đã thấp lại bị hạ xuống vài mét. Ngay cả tại các vùng ngập nước, việc khai thác than bùn vẫn tiếp tục thông qua nạo vét. Nhằm đề phòng lũ lụt, một loạt biện pháp phòng vệ chống nước được nghĩ ra. Trong thiên niên kỷ thứ nhất, các ngôi làng và nông gia được xây dựng trên các khu đồi nhân tạo gọi là "terps". Sau đó, các terps này được liên kết bằng các đê. Trong thế kỷ XII, các cơ quan chính quyền địa phương mang tên "waterschappen" ("ban trị thủy") hoặc "hoogheemraadschappen" ("hội đồng nhà cao") bắt đầu xuất hiện, công việc của họ là duy trì mực nước và bảo vệ khu vực khỏi các trận lụt; các cơ quan này tiếp tục tồn tại cho đến nay. Đến thế kỷ XIII, các cối xay gió được sử dụng để bơm nước khỏi các khu vực thấp hơn mực nước biển. Các cối xay gió sau đó được sử dụng để tiêu nước hồ, tạo ra các vùng đất quai đê nổi tiếng. Năm 1932, "Afsluitdijk" ("đê đóng kín") được hoàn thành, chặn "Zuiderzee" (biển phía nam) cũ khỏi biển Bắc và do đó tạo ra IJsselmeer (hồ IJssel). Nó trở thành một phần của công trình Zuiderzee có quy mô lớn hơn gồm có bốn vùng đất quai đê lấn biển với tổng diện tích là 2.500 km². Hà Lan là một trong các quốc gia có thể phải chịu tổn thất nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu, không chỉ vì nước biển dâng, mà còn do mô hình thời tiết thất thường có thể khiến nước sông tràn bờ. Khí hậu. Hướng gió chi phối tại Hà Lan là tây nam, dẫn đến khí hậu hải dương ôn hoà với mùa hè ấm và mùa đông mát, có độ ẩm cao đặc trưng. Mô hình này đặc biệt chính xác đối với bờ biển Hà Lan, tại đây có khác biệt nhỏ hơn đáng kể về nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông, hay giữa ngày và đem so với nhiệt độ tại phần đông nam của đất nước. Những ngày đóng băng, tức nhiệt độ cao nhất dưới 0 °C, thường xuất hiện từ tháng 12 đến tháng 2. Những ngày giá lạnh, tức nhiệt độ thấp nhất là 0 °C thì xuất hiện nhiều hơn, thường là từ giữa tháng 11 đến cuối tháng 3. Nếu chọn độ cao là 10 cm trên mặt đất thay vì 150 cm, có thể đo được nhiệt độ như vậy vào giữa mùa hè. Trung bình, tuyết có thể xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 4, song thỉnh thoảng cũng xuất hiện trong tháng 5 hoặc tháng 10. Các ngày ấm, tức nhiệt độ cao nhất trên 20 °C, thường xuất hiện từ tháng 4 đến tháng 10, song tại một số nơi trong nước các ngày ấm này cũng có thể xuất hiện trong tháng 3. Các ngày mùa hè, tức nhiệt độ cao nhất trên 25 °C, thường đo được tại De Bilt từ tháng 5 đến tháng 9, còn các ngày nhiệt đới với nhiệt độ cao nhất trên 30° là điều hiếm thấy và thường chỉ xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 8. Lượng giáng thủy trong năm được phân bổ tương đối đều giữa các tháng. Các tháng mùa hè và mùa thu có xu hướng nhận lượng giáng thủy ít hơn các tháng còn lại, chủ yếu là do cường độ mưa thay vì tần suất ngày mưa, đặc biệt là trong mùa hè. Số giờ nắng chịu tác động từ thực tế rằng do vĩ tuyến địa lý, độ dài của ngày thay đổi từ chỉ tám tiếng vào tháng 12 đến gần 17 tiếng vào tháng 6. Tự nhiên. Hà Lan có 20 công viên quốc gia và hàng trăm khu bảo tồn tự nhiên khác, bao gồm các hồ, bãi thạch nam, rừng thưa, đụn cát và các môi trường khác. Hầu hết chúng thuộc quyền sở hữu của cơ quan quốc gia về lâm nghiệp và bảo tồn tự nhiên mang tên Staatsbosbeheer, hoặc là một tổ chức tư nhân mang tên Natuurmonumenten. Phần thuộc Hà Lan của biển Wadden tại phía bắc có các bãi bùn và đất ngập nước, và được công nhận là một di sản thế giới UNESCO vào năm 2009. Oosterschelde nguyên là cửa đông bắc của sông Scheldt, và được xác định là một công viên quốc gia vào năm 2002, trở thành công viên quốc gia lớn nhất tại Hà Lan về diện tích với 370 km². Nó bao gồm chủ yếu là vùng nước mặn của Oosterschelde, song cùng có các bãi bùn, bãi cỏ và bãi cạn. Do đa dạng về sinh vật biển, bao gồm các loài độc đáo cấp khu vực, nên công viên là địa điểm phổ biến đối với môn lặn biển. Các hoạt động khác gồm có chèo thuyền, đánh cá, đi xe đạp, và ngắm chim. Về mặt địa lý sinh vật, Hà Lan nằm trên các khu châu Âu Đại Tây Dương và Trung Âu của vùng Circumboreal thuộc giới Boreal. Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên, lãnh thổ Hà Lan thuộc vùng sinh thái rừng hỗn hợp Đại Tây Dương. Năm 1871, rừng tự nhiên cổ nguyên bản cuối cùng bị chặt hạ, và hầu hết rừng hiện nay là trồng một loại cây như thông Scots và các loài không phải là bản địa tại Hà Lan. Các khu rừng này được trồng trên các bãi thạch nam nhân tạo và cát trôi (bãi thạch nam chăn thả quá mức) (Veluwe). Quần đảo Caribe. Curaçao, Aruba và Sint Maarten có vị thế các quốc gia cấu thành, còn Caribe Hà Lan là ba vùng đảo được xác định là các khu tự quản đặc biệt của Hà Lan. Các đảo này là bộ phận của Tiểu Antilles và có biên giới hàng hải với Pháp (Saint Barthélemy và Saint Martin), Anh (Anguilla), Venezuela, Saint Kitts và Nevis và Hoa Kỳ (Quần đảo Virgin thuộc Mỹ). Bonaire là bộ phận của nhóm đảo ABC thuộc chuỗi đảo Leeward, nằm ngoài khơi bờ biển Venezuela. Chuỗi đảo Leeward có nguồn gốc hỗn hợp núi lửa và san hô. Saba và Sint Eustatius là bộ phận của nhóm đảo SSS. Chúng nằm về phía đông của Puerto Rico và quần đảo Virgin. Mặc dù thuộc về chuỗi đảo Leeward trong tiếng Anh, song tại địa phương họ được cho là thuộc chuỗi đảo Windward. Chuỗi đảo Windward đều có nguồn gốc núi lửa và địa hình lắm núi, có ít đất thích hợp cho nông nghiệp. Đỉnh cao nhất là núi Scenery với 887 m tại Saba. Đây là điểm cao nhất tại Hà Lan cũng như toàn thể Vương quốc Hà Lan. Các đảo tại Caribe Hà Lan có khí hậu nhiệt đới, với thời tiết nóng quanh năm. Chuỗi đảo Leeward ấm hơn và khô hơn so với chuỗi đảo Windward. Vào mùa hè, chuỗi đảo Windward chịu tác động từ các cơn bão. Chính trị. Hà Lan là quốc gia quân chủ lập hiến từ năm 1815, và nhờ các nỗ lực của Johan Rudolph Thorbecke nên có được thể chế dân chủ đại nghị từ năm 1848. Hà Lan được mô tả là một nhà nước dân chủ hiệp thương. Chính trị Hà Lan có đặc điểm là nỗ lực nhằm đạt được đồng thuận rộng rãi trong các vấn đề quan trọng, cả trong chính giới lẫn trong xã hội. Năm 2010, "The Economist" xếp hạng Hà Lan ở vị trí thứ 10 về chỉ số dân chủ. Quân chủ là nguyên thủ quốc gia, Willem-Alexander là quốc vương từ năm 2013. Theo hiến pháp, chức vụ này có quyền lực hạn chế, có quyền được nhận báo cáo và được tham vấn trong các vấn đề chính quyền. Tuỳ theo cá tính và quan hệ giữa quốc vương và các bộ trưởng, quân chủ có thể gây ảnh hưởng ngoài quyền lực được hiến pháp quy định. Quyền lực hành pháp thuộc về Hội đồng Bộ trưởng, đây là hội đồng thảo luận của nội các Hà Lan. Nội các thường gồm 13 đến 16 bộ trưởng và một số lượng thay đổi các quốc vụ khanh. Có từ một đến ba bộ trưởng là bộ trưởng không bộ. Người đứng đầu chính phủ là thủ tướng, người này thường là thủ lĩnh đảng lớn nhất trong liên minh cầm quyền. Thủ tướng là một "primus inter pares", tức không có thêm quyền lực rõ ràng nào so với quyền lực của các bộ trưởng khác. Mark Rutte là thủ tướng từ năm 2010; thủ tướng luôn là thủ lĩnh của chính đảng lớn nhất kể từ năm 1973. Nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội (Staten-Generaal) lưỡng viện, tức cơ quan có quyền lập pháp. 150 thành viên của Chúng nghị viện (Tweede Kamer), tức hạ viện, được bầu cử trực tiếp theo cơ sở đại diện tỷ lệ danh sách đảng. Các cuộc bầu cử được tổ chức bốn năm một lần, hoặc trước thời hạn trong trường hợp nội các sụp đổ. Hội đồng cấp tỉnh (Provinciale Staten) được bầu cử trực tiếp bốn năm một lần. Các thành viên của các hội đồng cấp tỉnh bầu ra 75 thành viên của Tham nghị viện (Eerste Kamer), tức thượng viện, cơ cấu này có quyền bác bỏ luật, song không được đề xuất hay sửa đổi chúng. Cả hai viện đều cử thành viên đến Nghị viện Benelux, đây là một hội đồng tham vấn. Các công đoàn và các tổ chức giới chủ được tham vấn trước trong việc lập chính sách trong các lĩnh vực tài chính, kinh tế và xã hội. Họ tham gia họp thường xuyên với chính phủ trong Hội đồng Xã hội-Kinh tế. Cơ cấu này khuyến nghị chính phủ và khuyến nghị của họ không thể bỏ qua một cách dễ dàng. Hà Lan có truyền thống lâu dài về khoan dung xã hội. Trong thế kỷ XIX, khi Giáo hội Kháng cách Hà Lan là quốc giáo, thì Công giáo La Mã và các giáo phái Tin Lành khác cũng như Do Thái giáo được dung thứ song bị kỳ thị. Đến cuối thế kỷ XIX, truyền thống khoan dung tôn giáo này chuyển đổi thành một hệ thống tách biệt, theo đó các nhóm tôn giáo cùng tồn tại riêng biệt và chỉ tương tác ở cấp độ chính phủ. Truyền thống khoan dung ảnh hưởng đến các chính sách tư pháp hình sự của Hà Lan về ma tuý tiêu khiển, mại dâm, quyền lợi LGBT, an tử, phá thai, nằm vào hàng tự do nhất trên thế giới. Chính đảng. Hà Lan có hệ thống đa đảng, không đảng nào nắm thế đa số trong nghị viện kể từ thế kỷ XIX, và các nội các liên minh được hình thành. Kể từ khi thi hành phổ thông đầu phiếu vào năm 1919, hệ thống chính trị Hà Lan chịu sự chi phối của ba nhóm chính đảng: Mạnh nhất là những người dân chủ Cơ Đốc giáo, hiện có đại diện là Kêu gọi Dân chủ Cơ Đốc giáo (Christen-Democratisch Appèl, CDA); thứ nhì là lực lượng dân chủ xã hội với đại diện là Công đảng (Partij van de Arbeid, PvdA); và thứ ba là lực lượng tự do với đại diện chủ yếu là Đảng Nhân dân Tự do và Dân chủ (Volkspartij voor Vrijheid en Democratie, VVD). Các đảng này hợp tác trong các nội các liên minh, trong đó lực lượng dân chủ Cơ Đốc giáo luôn là một đối tác, hoặc là trong một liên minh trung-tả gồm lực lượng dân chủ Cơ Đốc giáo và dân chủ xã hội, hoặc là một liên minh trung-hữu gồm lực lượng dân chủ Cơ Đốc giáo và tự do. Trong thập niên 1970, hệ thống đảng phái trở nên biến động hơn, các đảng dân chủ Cơ Đốc giáo bị mất ghế, trong khi các đảng mới lại giành được thành công, như là D66. Trong bầu cử năm 1994, CDA để mất thế chi phối. Tháng 2 năm 2010, nội các sụp đổ do PvdA từ chối gia hạn can thiệp của lực lượng Hà Lan tại Uruzgan, Afghanistan. Trong bầu cử vào tháng 6 cùng năm, đảng lớn nhất trước đó là CDA có kết quả thảm hại, VVD trở thành đảng lớn nhất với 31 ghế, tiếp theo là PvdA với 30 ghế. Đảng giành được thêm nhiều ghế nhất là Đảng Tự do (PVV) của Geert Wilders. VVD và PvdA giành được nhiều ghế nhất trong tổng tuyển cử vào tháng 12 năm 2012, họ lập chính phủ liên minh vào tháng 11 năm 2012. Trong tổng tuyển cử vào tháng 3 năm 2017, VVD duy trì là đảng lớn nhất, PvdA để mất số ghế rất lớn, PVV giành được vị trí thứ hai Sau 208 ngày đàm phán, VVD, D66, CDA và Liên minh Cơ Đốc giáo (CU) đồng ý thành lập chính phủ liên minh. Hành chính. Hà Lan được phân chia thành 12 tỉnh, mỗi tỉnh nằm dưới quyền của một uỷ viên của quốc vương ("Commissaris van de Koning"), riêng tại tỉnh Limburg chức vụ này gọi là thống đốc ("Gouverneur") song có nhiệm vụ tương tự. Các tỉnh được chia tiếp thành các khu tự quản ("gemeenten") với số lượng là 380. Hà Lan cũng được chia thành 21 khu vực trị thủy, chịu sự quản lý của một ban trị thủy ("waterschap" hoặc "hoogheemraadschap"), mỗi ban có quyền hạn trên các vấn đề liên quan đến quản lý nước. Việc thành lập các ban trị thủy có từ trước khi lập quốc, ban đầu tiên hình thành vào năm 1196. Các ban trị thủy của Hà Lan nằm trong số các thực thể dân chủ lâu đời nhất trên thế giới vẫn còn tồn tại. Bầu cử trực tiếp các ban trị thủy được tiến hành bốn năm một lần. Ba lãnh thổ đảo tại Caribe được gọi chung là Caribe Hà Lan, họ có vị thế là thực thể công cộng (openbare lichamen) thay vì là các khu tự quản. Họ không phải là bộ phận của tỉnh nào. Một số lãnh thổ tách rời của Bỉ nằm lọt trong lãnh thổ Hà Lan và các lãnh thổ tách rời này lại bao quanh một số khu đất thuộc tỉnh Noord-Brabant, tuy nhiên do Hà Lan và Bỉ đều thuộc Khu vực Schengen nên công dân hai bên có thể qua lại các vùng tách rời này. Đối ngoại. Lịch sử chính sách đối ngoại của Hà Lan có đặc điểm là tính trung lập. Kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, Hà Lan trở thành một thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, đáng chú ý nhất là Liên Hợp Quốc, NATO và Liên minh châu Âu. Kinh tế Hà Lan rất mở và dựa nhiều vào ngoại thương. Chính sách đối ngoại của Hà Lan hiện nay dựa trên bốn cam kết cơ bản: Hợp tác Đại Tây Dương, nhất thể hoá châu Âu, phát triển quốc tế và luật pháp quốc tế. Một trong các vấn đề quốc tế gây tranh luận nhiều quanh Hà Lan là chính sách tự do đối với các loại ma tuý nhẹ. Trong và sau thời kỳ hoàng kim Hà Lan, người Hà Lan gây dựng một đế quốc thương mại và thực dân. Các cựu thuộc địa quan trọng nhất của Hà Lan hiện là Suriname và Indonesia. Các quan hệ lịch sử kế thừa từ lịch sử thực dân này vẫn có ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của Hà Lan, và nhiều người từ các quốc gia này thường trú tại Hà Lan. Chính sách an ninh của Hà Lan chủ yếu dựa vào quyền thành viên trong NATO, và có nhiều vũ khí hạt nhân của đồng minh được đặt tại Hà Lan. Ngày 10 tháng 6 năm 2013, cựu thủ tướng Ruud Lubbers xác nhận sự tồn tại của 22 vũ khí hạt nhân tại căn cứ không quân Volkel thuộc tỉnh Noord-Brabant. Hà Lan cũng theo đuổi hợp tác quốc phòng trong Liên minh châu Âu, cả đa phương dưới nền tảng Liên minh Tây Âu và Chính sách An ninh và Phòng thủ châu Âu, và song phương như quân đoàn Đức-Hà Lan. Trong những năm gần đây, Hà Lan trở thành nước đóng góp quan trọng cho các nỗ lực duy trì hoà bình trên khắp thế giới, như tại Bosnia và Herzegovina. Hà Lan tán thành mạnh mẽ nhất thể hoá châu Âu, và hầu hết các khía cạnh trong chính sách ngoại giao, kinh tế và thương mại của nước này được điều phối thông qua Liên minh châu Âu. Liên minh thuế quan hậu chiến giữa Hà Lan với Bỉ và Luxembourg (Benelux) mở đường cho việc hình thành Cộng đồng châu Âu (tiền thân của Liên minh châu Âu). Benelux bãi bỏ kiểm soát biên giới nội bộ, điều này trở thành một hình mẫu cho Hiệp ước Schengen trên quy mô lớn hơn. Hà Lan là nòng cốt trong Hiệp ước Maastricht năm 1992 và là nhà kiến tạo hiệp định Amsterdam ký kết vào năm 1998. Hà Lan do đó giữ vai trò quan trọng trong nhất thể hoá chính trị và tiền tệ châu Âu. Truyền thống uyên bác về pháp luật khiến Hà Lan trở thành trụ sở của Tòa án Công lý Quốc tế; Toà án Yêu sách Iran-Hoa Kỳ; Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ; Tòa án Hình sự Quốc tế Rwanda; Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC). Ngoài ra, Hà Lan còn có trụ sở của tổ chức cảnh sát châu Âu Europol; và Tổ chức Cấm Vũ khí Hóa học. Hà Lan nằm vào hàng các quốc gia viện trợ đứng đầu thế giới, là một trong năm quốc gia toàn cầu đáp ứng mục tiêu ODA lâu dài của Liên Hợp Quốc. Quốc gia này có đóng góp lớn về viện trợ thông qua các kênh đa phương, đặc biệt là Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế, các chương trình của Liên minh châu Âu. Một lượng lớn viện trợ của Hà Lan cũng được chuyển qua các các tổ chức tư nhân (đồng tài trợ) có gần như toàn quyền trong lựa chọn các dự án. Quân sự. Hà Lan có một trong các lực lượng quân đội thường trực lâu năm nhất tại châu Âu; được thành lập lần đầu bởi Maurits xứ Nassau. Quân đội Hà Lan được sử dụng trên khắp Đế quốc Hà Lan, và sau thất bại của Napoléon, quân đội Hà Lan chuyển sang chế độ quân dịch. Quân đội được triển khai trong Cách mạng Bỉ năm 1830 song không thành công. Sau năm 1830, họ chủ yếu được triển khai tại các thuộc địa của Hà Lan. Hà Lan duy trì trung lập trong các cuộc chiến tranh tại châu Âu cho đến khi bị xâm lược trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và nhanh chóng thất thủ trước Wehrmacht Đức vào tháng 5 năm 1940. Hà Lan từ bỏ tình trạng trung lập vào năm 1948 khi ký kết Hiệp ước Bruxelles vào năm 1949. Quân đội Hà Lan do đó là bộ phận của NATO trong chiến tranh lạnh tại châu Âu, được triển khai đến một số căn cứ tại Tây Đức. Trên 3.000 binh sĩ Hà Lan được phân vào Sư đoàn bộ binh số 2 của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên. Năm 1996, chế độ quân dịch bị đình chỉ, và quân đội Hà Lan lại chuyển sang chế độ chuyên nghiệp. Kể từ thập niên 1990, quân đội Hà Lan từng tham gia Chiến tranh Bosnia và Chiến tranh Kosovo, và nắm giữ một tỉnh của Iraq sau thất bại của Saddam Hussein, và tham gia trong chiến tranh tại Afghanistan. Quân đội Hà Lan gồm có bốn nhánh, đều mang tiền tố "Koninklijke" (hoàng gia): "Koninklijke Landmacht" (KL) tức Lục quân Hoàng gia Hà Lan; "Koninklijke Marine" (KM) tức Hải quân Hoàng gia Hà Lan, bao gồm hàng không Hải quân và thủy quân lục chiến; "Koninklijke Luchtmacht" (KLu) tức Không quân Hoàng gia Hà Lan; "Koninklijke Marechaussee" (KMar) tức Đội hiến binh Hoàng gia, chịu trách nhiệm quân cảnh và kiểm soát biên giới. Korps Commandotroepen là lực lượng hành quân đặc biệt của Lục quân Hà Lan, mở cửa cho nữ giới song do yêu cầu thể chất cực kỳ cao để huấn luyện ban đầu nên nữ giới hầu như không thể trở thành một đặc công. Bộ Quốc phòng Hà Lan sử dụng trên 70.000 nhân viên, bao gồm trên 20.000 nhân viên dân sự và trên 50.000 nhân viên quân sự tính đến năm 2011. Trong tháng 4 năm 2011, chính phủ tuyên bố một đợt tinh giản trong quân đội do cắt giảm chi tiêu chính phủ, bao gồm việc giảm số lượng xe tăng, chiến đấu cơ, tàu hải quân và quan chức cấp cao. Kinh tế. Hà Lan có nền kinh tế phát triển, giữ một vai trò đặc biệt trong kinh tế châu Âu từ nhiều thế kỷ. Kể từ thế kỷ XVI, các ngành đóng tàu, ngư nghiệp, nông nghiệp, mậu dịch và ngân hàng là các lĩnh vực dẫn đầu của kinh tế Hà Lan. Hà Lan có tự do kinh tế ở mức độ cao, đứng thứ hai trong Báo cáo Thuận lợi Mậu dịch Toàn cầu năm 2016, và đứng thứ 5 về tính cạnh tranh theo đánh giá của Học viện Phát triển Quản lý Quốc tế Thuỵ Sĩ vào năm 2017. Ngoài ra, Hà Lan xếp thứ ba trong chỉ số sáng tạo toàn cầu GII năm 2017. Trong bảng xếp hạng chỉ số tự do kinh tế năm 2016, Hà Lan đứng thứ 17/178 quốc gia. , các đối tác mậu dịch chủ chốt của Hà Lan là Đức, Bỉ, Anh, Mỹ, Pháp, Ý, Trung Quốc và Nga. Hà Lan là một trong mười quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Thực phẩm là ngành lớn nhất, các ngành lớn khác là hoá chất, luyện kim, chế tạo máy, hàng điện tử, mậu dịch, dịch vụ và du lịch. Một số công ty Hà Lan có quy mô quốc tế là Randstad, Unilever, Heineken, KLM; trong lĩnh vực dịch vụ có ING, ABN AMRO, Rabobank; về hoá học có DSM, AKZO; về lọc dầu có Royal Dutch Shell; về máy móc điện tử có Philips, ASML; về điều hướng ô tô có TomTom). Hà Lan có GDP danh nghĩa lớn thứ 18 thế giới, và GDP danh nghĩa bình quân đứng thứ 13 thế giới vào năm 2016 theo số liệu của IMF. Từ năm 1997 đến năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trung bình là gần 4%, hơn nhiều mức trung bình của châu Âu. Tăng trưởng chậm lại đáng kể từ năm 2001 đến năm 2005 do suy thoái kinh tế toàn cầu, song tăng tốc lên 4,1% vào quý thứ ba của năm 2007. Trong quý 3 và 4 năm 2011, kinh tế Hà Lan lần lượt giảm 0,4% và 0,7%, do khủng hoảng nợ công châu Âu, trong khi vào quý 4 kinh tế khu vực đồng euro giảm 0,3%. Trong tháng 5 năm 2013, mức lạm phát là 2,8%/năm. Trong tháng 4 năm 2013, tỷ lệ thất nghiệp là 8,2% (hoặc 6,7% theo định nghĩa của ILO). Trong tháng 4 năm 2017, con số này giảm xuống 5,1%. Hà Lan có hệ số GINI tương đối thấp. UNICEF xếp hạng Hà Lan ở vị trí thứ nhất về phúc lợi trẻ em trong số các quốc gia giàu có, cả trong năm 2007 và năm 2013. Amsterdam là thủ đô tài chính và kinh doanh của Hà Lan. Sàn giao dịch chứng khoán Amsterdam (AEX) là bộ phận của Euronext, đây là sàn giao dịch chứng khoán cổ nhất trên thế giới và nằm trong số các thị trường chứng khoán lớn nhất châu Âu. Sàn nằm gần Quảng trường Dam tại trung tâm thành phố. Hà Lan là thành viên sáng lập euro, thay thế đơn vị tiền tệ cũ là "gulden". Tại Caribe Hà Lan, đô la Mỹ được sử dụng thay cho euro. Vị trí của Hà Lan cho phép họ có ưu thế tiếp cận thị trường Anh và Đức, cùng với cảng Rotterdam lớn nhất châu Âu. Các bộ phận quan trọng khác của nền kinh tế là ngoại thương (chủ nghĩa thực dân Hà Lan bắt đầu với các doanh nghiệp tư nhân hợp tác như Công ty Đông Ấn Hà Lan), ngân hàng và giao thông. Hà Lan thành công trong việc giải quyết các vấn đề tài chính công và đình trệ việc làm trước các đối tác của họ tại châu Âu. Amsterdam là địa điểm du lịch nhộn nhịp thứ năm tại châu Âu với trên 4,2 triệu du khách quốc tế theo số liệu năm 2009. Kể từ khi mở rộng Liên minh châu Âu, có lượng lớn công nhân di cư đến Hà Lan từ các quốc gia Trung và Đông Âu. BrabantStad là một quan hệ đối tác giữa các khu tự quản Breda, Eindhoven, Helmond, 's-Hertogenbosch và Tilburg và tỉnh Noord-Brabant. BrabantStad là vùng kinh tế tăng trưởng nhanh nhất tại Hà Lan, với Brabantse Stedenrij (vùng thành phố đa trung tâm) là một trong các vùng hàng đầu toàn quốc, chỉ đứng sau khu thành thị lớn Randstad (Amsterdam, Rotterdam, Den Haag và Utrecht). Quan hệ đối tác tại Noord-Brabant nhắm mục tiêu hình thành một mạng lưới đô thị và biến tỉnh này có vị thế nổi bật là một vùng tri thức hàng đầu tại châu Âu. Với tổng dân số 1,5 triệu và 20% sản lượng công nghiệp của Hà Lan, BrabantStad là một trong các vùng quan trọng về kinh tế của nước này. Một phần tư số công việc trong vùng là về kỹ thuật, và công nghệ thông tin-truyền thông. Trong số toàn bộ các đơn xin cấp bằng sáng chế của châu Âu trong lĩnh vực vật lý học và điện tử, có khoảng 8% đến từ tỉnh Noord-Brabant. Trong vùng mở rộng, BrabantStad là bộ phận của tam giác Eindhoven-Leuven-Aachen (ELAT). Hiệp định hợp tác kinh tế giữa ba thành phố tại ba quốc gia tạo ra một trong các vùng sáng tạo nhất trong Liên minh châu Âu (xét theo tiền đầu tư vào công nghệ và kinh tế tri thức). Thành công kinh tế của vùng này có ý nghĩa quan trọng đối với tính cạnh tranh quốc tế của Hà Lan; Amsterdam, Rotterdam, và Eindhoven cùng nhau tạo thành nền tảng cho kinh tế Hà Lan. Hà Lan tiếp tục là một trong các quốc gia hàng đầu châu Âu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, và là một trong những quốc gia đầu tư lớn nhất tại Hoa Kỳ. Khí đốt. Kể từ thập niên 1950, Hà Lan phát hiện được trữ lượng khí đốt tự nhiên khổng lồ. Việc bán khí đốt tự nhiên mang lại doanh thu khổng lồ cho Hà Lan trong nhiều thập niên, thêm vào hàng trăm tỉ euro cho ngân sách chính phủ. Tuy nhiên, của cải từ nguồn năng lượng khổng lồ có tác động không lường trước được đến tính cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế khác, dẫn đến thuyết căn bệnh Hà Lan. Hà Lan được ước tính sở hữu 25% trữ lượng khí đốt tự nhiên trong Liên minh châu Âu. Ngoài than đá và khí đốt, Hà Lan không còn tài nguyên khai khoáng nào, và mỏ than cuối cùng bị đóng cửa vào năm 1974. Mỏ khí Groningen là một trong các mỏ khí đốt tự nhiên lớn nhất trên thế giới, nằm gần Slochteren. Việc khai thác này tạo được doanh thu 159 tỉ euro từ giữa thập niên 1970 đến năm 2009. Mỏ hoạt động dưới quyền của công ty quốc doanh Gasunie và khai thác chung bởi chính phủ, Royal Dutch Shell, và Exxon Mobil thông qua NAM (Nederlandse Aardolie Maatschappij). Việc khai thác khí đốt dẫn đến gia tăng chấn động mặt đất mạnh, một số trận có cường độ lên tới 3,6 độ theo thang cường độ Richter. Chi phí để sửa chữa thiệt hại, cải thiện kết cấu của các toà nhà, và bồi thường cho giá trị nhà bị suy giảm ước tính là 6,5 tỉ euro. Khoảng 35.000 ngôi nhà được cho là bị ảnh hưởng. Nông nghiệp. Khu vực nông nghiệp của Hà Lan được cơ giới hoá cao độ, và tập trung mạnh vào xuất khẩu quốc tế. Ngành này sử dụng khoảng 4% lực lượng lao động của Hà Lan song tạo ra thặng dư lớn cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và đóng góp 21% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Hà Lan. Hà Lan xếp thứ hai thế giới về giá trị xuất khẩu nông nghiệp, chỉ sau Hoa Kỳ. với nguồn thu xuất khẩu là 80,7 tỉ euro vào năm 2014, tăng so với 75,4 tỉ euro vào năm 2012. Trong một số thời điểm gần đây, Hà Lan từng cung cấp một phần tư tổng cà chua xuất khẩu trên thế giới, và việc buôn bán một phần ba xuất khẩu của thế giới về ớt, cà chua và dưa chuột là thông qua Hà Lan. Hà Lan cũng xuất khẩu một phần mười lăm táo tây của thế giới. Ngoài ra, một phần đáng kể xuất khẩu nông sản của Hà Lan là cây tươi cắt, hoa, và củ hoa, chiếm hai phần ba tổng xuất khẩu toàn thế giới. Giao thông. Tính lưu động trên các tuyến đường bộ của Hà Lan tăng trưởng liên tục kể từ thập niên 1950 và nay vượt trên 200 tỉ km qua lại mỗi năm, three quarters of which are done by car. Khoảng một nửa số hành trình tại Hà Lan được tiến hành bằng ô tô, 25% bằng xe đạp, 20% bằng cách đi bộ, và 5% sử dụng giao thông công cộng. Tổng chiều dài mạng lưới đường bộ là 139.295 km, gồm có 2.758 km đường cao tốc, Hà Lan có một trong các mạng lưới đường bộ dày đặc nhất trên thế giới, hơn nhiều so với Đức hay Pháp song thấp hơn Bỉ. Khoảng 13% toàn bộ quãng đường được đi bằng phương tiện công cộng, đa số là dùng tàu hoả. Giống như nhiều quốc gia châu Âu khác, mạng lưới đường sắt Hà Lan gồm 3.013 km cũng khá dày đặc. Mạng lưới hầu hết tập trung vào dịch vụ đường sắt chở khách và liên kết gần như toàn bộ các thành thị chính. Các tuyến đường ray thường xuyên hoạt động, có một hoặc hai chuyến mỗi giờ trên các tuyến nhỏ, hai đến bốn chuyến mỗi giờ ở các tuyến trung bình, và đến tám chuyến mỗi giờ tại các tuyến nhộn nhịp nhất. Đạp xe là một cách thức giao thông rộng khắp tại Hà Lan. Số km hành trình của xe đạp tương đương với tàu hoả. Người Hà Lan được ước tính sở hữu ít nhất 18 triệu xe đạp, nghĩa hơn mỗi người có hơn một xe, gấp đôi so với khoảng 9 triệu ô tô trên đường. Năm 2013, Liên đoàn người đi xe đạp châu Âu xếp hạng Hà Lan và Đan Mạch là các quốc gia thân thiện nhất với xe đạp tại châu Âu, song người Hà Lan (36%) xếp trên người Đan Mạch (23%) về việc xe đạp là cách thức thường xuyên nhất trong giao thông ngày bình thường. Hạ tầng cho việc đạp xe có tính toàn diện. Các tuyến đường nhộn nhịp có khoảng 35.000 km đường đi dành riêng cho xe đạp, được tách biệt về tự nhiên khỏi giao thông cơ giới. Các nút giao nhộn nhịp thường có các thiết bị đèn giao thông dành cho xe đạp. Tồn tại các cơ sở hạ tầng gửi xe đạp cỡ lớn, đặc biệt là trung trung tâm thành phố và tại các nhà ga đường sắt. Rotterdam là cảng lớn nhất tại châu Âu, các sông Meuse và Rhine tạo ra con đường tiếp cận lý tưởng đến vùng thượng du nội lục xa đến Basel, Thuỵ Sĩ, và đến Pháp. , Rotterdam là cảng container lớn thứ tám trên thế giới, chuyên chở 440,5 triệu tấn hàng hoá mỗi năm. Các chức năng chính của cảng là công nghiệp hoá dầu và chuyên chở chung, và trung chuyển tàu. Cảng là một điểm trung chuyển quan trọng đối với hàng rời và giữa lục địa châu Âu với hải ngoại. Từ Rotterdam, hàng hoá được chuyên chở bằng tàu, sà lan sông, tàu hoả hoặc đường bộ. Năm 2007, tuyến đường sắt chở hàng nhanh Betuweroute giữa Rotterdam với Đức được hoàn thành. Sân bay Schiphol nằm ngay tây nam của Amsterdam, là cảng hàng không quốc tế chính của Hà Lan, và là sân bay nhộn nhịp thứ ba tại châu Âu về lượng hành khách. Năm 2016, các sân bay của Royal Schiphol Group chuyên chở 70 triệu hành khách. Nằm trong cam kết của mình về tính bền vững môi trường, chính phủ Hà Lan khởi xướng một kế hoạch thiết lập trên 200 trạm nạp điện cho các phương tiện chạy bằng điện trên khắp đất nước đến năm 2015. Việc triển khai được tiến hành bởi công ty năng lượng và tự động hoà ABB có trụ sở tại Thuỵ Sĩ và công ty khởi nghiệp Hà Lan Fastned, nhắm mục tiêu cung cấp ít nhất một trạm trong bán kính 50 km từ mọi gia đình tại Hà Lan. Nhân khẩu. Dân số Hà Lan ước tính đạt 17.093.000 vào tháng 1 năm 2017. Đây là quốc gia có mật độ dân số cao nhất tại châu Âu nếu không kể các thành bang như Monaco hay Thành Vatican. Từ năm 1900 đến năm 1950, dân số Hà Lan tăng gần gấp đôi từ 5,1 lên 10 triệu. Từ năm 1950 đến năm 2000, dân số tiếp tục gia tăng, lên đến 15,9 triệu, song với tốc độ thấp hơn. Tốc độ gia tăng vào năm 2013 ước tính là 0,44%. Tỷ suất sinh tại Hà Lan là 1,78 trẻ mỗi phụ nữ theo ước tính năm 2013, cao hơn so với nhiều quốc gia châu Âu khác, song dưới mức thay thế là 2,1 trẻ mỗi phụ nữ. Tuổi thọ dự tính khi sinh của Hà Lan ở mức cao, với 83,21 năm đối với trẻ gái và 78,93 đối với trẻ trai sơ sinh theo ước tính vào năm 2013.). Hà Lan có tỷ lệ di cư là 1,99 người di cư mỗi 1.000 cư dân một năm. Đa số cư dân Hà Lan thuộc dân tộc Hà Lan. Theo ước tính vào năm 2005, thành phần dân tộc là 80,9% người Hà Lan, 2,4% người Indonesia, 2,4% người Đức, 2,2% người Thổ Nhĩ Kỳ, 2,0% người Suriname, 1,9% người Maroc, 0,8% người Antilles và Aruba, và 7,4% thuộc các nhóm khác. Có khoảng 150.000 đến 200.000 người sống tại Hà Lan là ngoại kiều, hầu hết tập trung tại và xung quanh Amsterdam và Den Haag, nay chiếm khoảng 10% dân số các thành phố này. Người Hà Lan là dân tộc cao nhất trên thế giới, chiều cao trung bình là 1,81 m đối với nam giới trưởng thành và 1,67 m đối với nữ giới trưởng thành theo số liệu năm 2009. Cư dân miền nam trung bình thấp hơn 2 cm so với cư dân miền bắc. Theo Eurostat, vào năm 2010 có 1,8 triệu cư dân sinh tại nước ngoài tại Hà Lan, tương ứng với 11,1% dân số. Trong số đó, 1,4 triệu người (8,5%) sinh ngoài Liên minh châu Âu và 0,428 triệu người (2,6%) sinh tại các quốc gia trong Liên minh châu Âu. Vào ngày 21 tháng 11 năm 2016, có 3,8 triệu cư dân Hà Lan có ít nhất một cha/mẹ sinh tại nước ngoài ("nguồn gốc di dân"). Trên một nửa người trẻ tuổi tại Amsterdam và Rotterdam có nguồn gốc ngoài phương tây. Người Hà Lan hoặc các hậu duệ của người Hà Lan cũng hiện diện trên khắp thế giới, đáng chú ý là tại Canada, Úc, Nam Phi và Hoa Kỳ. Theo điều tra năm 2006 tại Hoa Kỳ, có trên 5 triệu người Mỹ cho biết rằng họ có nguồn gốc Hà Lan thuần chủng hoặc một phần. Có gần 3 triệu người Afrikaner gốc Hà Lan sống tại Nam Phi. Năm 1940, có 290.000 người châu Âu và người lai Á-Âu tại Indonesia, song hầu hết rời khỏi nước này sau đó. Hà Lan là một quốc gia có mật độ dân số cao, với trên 400 người/km² còn nếu chỉ tính mặt đất thì con số này là trên 500 người/km². Randstad là chùm đô thị lớn nhất Hà Lan, nằm tại phía tây của đất nước và có bốn thành phố lớn: Amsterdam thuộc tỉnh Noord-Holland, Rotterdam và Den Haag thuộc tỉnh Zuid-Holland, và Utrecht thuộc tỉnh Utrecht. Randstad có khoảng 7 triệu cư dân và là vùng đại đô thị lớn thứ năm tại châu Âu. Theo Cục Thống kê Trung ương Hà Lan, vào năm 2015, có 28% cư dân Hà Lan có thu nhập khả dụng trên 40.000 euro (không bao gồm chi tiêu vào y tế hay giáo dục). Ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Hà Lan, được đại đa số cư dân nói. Bên cạnh tiếng Hà Lan, tiếng Tây Frisia được công nhận là một ngôn ngữ chính thức thứ hai tại tỉnh Friesland. Tiếng Tây Frisia có vị thế chính thức đối với thư tín của chính phủ trong tỉnh này. Tại phần châu Âu của vương quốc có hai ngôn ngữ khu vực khác được công nhận theo Hiến chương châu Âu về các ngôn ngữ khu vực và thiểu số, là tiếng Hạ Sachsen ("Nedersaksisch") gồm một số phương ngữ được nói tại miền bắc và miền đông, như phương ngữ Twente tại vùng Twente, và phương ngữ Drenthe tại tỉnh Drenthe; và tiếng Limburg gồm các dạng tại Hà Lan của các ngôn ngữ Franconia Meuse-Rhine được nói tại tỉnh Limburg. Các phương ngữ được nói nhiều nhất tại Hà Lan là Brabant-Holland. Tiếng Ripuaria được nói tại Kerkrade và Vaals lần lượt dưới dạng phương ngữ Kerkrade và phương ngữ Vaals song không được công nhận là một ngôn ngữ khu vực của Hà Lan, các phương ngữ này thỉnh thoảng được xem là một phần hoặc có liên hệ với tiếng Limburg. Tiếng Anh có vị thế chính thức tại các khu tự quản đặc biệt Saba và Sint Eustatius tại Caribe, được nói phổ biến trên các đảo này. Papiamento có vị thế chính thức tại khu tự quản đặc biệt Bonaire tại Caribe. Tiếng Yiddish và tiếng Digan được công nhận là các ngôn ngữ phi lãnh thổ vào năm 1996. Người Hà Lan có truyền thống học ngoại ngữ, điều này được chính thức hoá trong luật giáo dục Hà Lan. Khoảng 90% tổng dân số Hà Lan cho biết rằng họ có thể giao tiếp bằng tiếng Anh, 70% bằng tiếng Đức, và 29% bằng tiếng Pháp. Tiếng Anh là môn học bắt buộc trong toàn bộ các trường trung học. Trong hầu hết các trường sơ trung học ("vmbo"), một ngoại ngữ hiện đại khác là môn học bắt buộc trong hai năm đầu. Trong các trường cao trung học (HAVO và VWO), hai ngoại ngữ hiện đại khác là môn bắt buộc trong ba năm đầu, chỉ trong ba năm cuối của VWO thì mới giảm xuống còn bắt buộc một ngoại ngữ. Ngoài tiếng Anh, các ngôn ngữ tiêu chuẩn hiện đại là tiếng Pháp và Đức, song các trường có thể thay thế một trong các ngôn ngữ này bằng tiếng Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Ả Rập hoặc Nga. Ngoài ra, các trường học tại Friesland giảng dạy và có kỳ thi tiếng Tây Frisia, và các trường trên toàn quốc giảng dạy và có kỳ thi tiếng Hy Lạp cổ đại và tiếng Latinh cho các trường trung học (gọi là Gymnasium hoặc VWO+). Tôn giáo. Cơ Đốc giáo là tôn giáo chi phối tại Hà Lan cho đến cuối thế kỷ XX. Mặc dù Hà Lan vẫn có tính đa dạng về tôn giáo, song diễn ra xu hướng suy thoái gắn bó với tôn giáo. Năm 2015, Cục Thống kê Hà Lan thu thập thông tin thống kê về Hà Lan, kết quả là 50,1% tổng dân số công khai rằng họ không theo tôn giáo. Tín đồ Cơ Đốc giáo chiếm 43,8% tổng dân số, trong đó Công giáo La Mã với 23,7%, Tin Lành với 15,5% và các giáo phái Cơ Đốc khác là 4,6%. Tín đồ Hồi giáo chiếm 4,9% tổng dân số và các tôn giáo khác (như Do Thái giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo) chiếm 1,1% còn lại. Theo phỏng vấn chuyên sâu độc lập của Đại học Radboud và Đại học Vrije Amsterdam vào năm 2006, 34% người Hà Lan được xác định là tín đồ Cơ Đốc giáo, đến năm 2015 giảm xuống còn gần 25% dân số trung thành với một giáo phái Cơ Đốc (11,7% Công giáo La Mã, 8,6% Giáo hội Tin Lành Hà Lan, 4,2% các giáo phái Cơ Đốc nhỏ khác), 5% là người Hồi giáo và 2% trung thành với Ấn Độ giáo hay Phật giáo, khoảng 67,8% dân số vào năm 2015 không liên kết tôn giáo, tăng từ 61% vào năm 2006, 53% vào năm 1996, 43% vào năm 1979 và 33% vào năm 1966. SCP dự tính số lượng người Hà Lan không liên kết tôn giáo đạt 72% vào năm 2020. Hiến pháp Hà Lan đảm bảo quyền tự do trong giáo dục, nghĩa là toàn bộ các trường học tôn trọng tiêu chuẩn chất lượng chung đều được nhận tài trợ như nhau của chính phủ. Điều này bao gồm các trường học dựa trên các nguyên tắc tôn giáo thuộc các nhóm tôn giáo (đặc biệt là Công giáo La Mã và các nhóm Tin Lành). Ba chính đảng trong Quốc hội Hà Lan là dựa trên đức tin Cơ Đốc. Một số ngày lễ tôn giáo Cơ Đốc là ngày nghỉ lễ quốc gia (Giáng sinh, Phục sinh, Hiện xuống và Thăng thiên). Vào cuối thế kỷ XIX, thuyết vô thần bắt đầu nổi lên khi chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội phát triển; trong thập niên 1960 và 1970 Tin Lành và Công giáo bắt đầu suy thoái đáng kể. Tuy nhiên, Hồi giáo phát triển đáng kể do nhập cư, và kể từ năm 2000 có sự gia tăng nhận thức về tôn giáo, chủ yếu là do chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan.. Theo một nghiên cứu vào tháng 12 năm 2014 của Đại học VU Amsterdam thì lần đầu tiên số người theo thuyết vô thần (25%) đông hơn người theo thuyết hữu thần (17%) tại Hà Lan. Đa số dân chúng theo thuyết bất khả tri (31%) hoặc chút ít (27%). Năm 2015, đại đa số cư dân Hà Lan (82%) cho biết họ chưa từng hoặc gần như chưa từng đến nhà thờ, và 59% nói rằng họ chưa từng đến nhà thờ dưới bất kể hình thức nào. Trong số những người được hỏi, 24% nhận mình là người vô thần, tăng 11% so với nghiên cứu vào năm 2006. Sự gia tăng dự tính về tính tinh thần (ietsisme) sẽ ngưng lại theo nghiên cứu vào năm 2015. Năm 2006, 40% số người trả lời tự nhận có tinh thần, đến năm 2015 con số này giảm còn 31%. Số lượng người tin vào sự tồn tại của một quyền lực bề trên giảm từ 36% xuống 28% trong cùng giai đoạn. Cơ Đốc giáo hiện là tôn giáo lớn nhất tại Hà Lan. Các tỉnh Noord-Brabant và Limburg có truyền thống mạnh mẽ tin theo Công giáo La Mã, và một số cư dân tại đó vẫn nhìn nhận Giáo hội Công giáo là nền tảng cho bản sắc văn hoá của họ. Tin Lành tại Hà Lan bao gồm một số giáo hội, lớn nhất trong số đó là Giáo hội Tin Lành Hà Lan (PKN), đây là một giáo hội thống nhất có định hướng Cải cách và Luther. Giáo hội này được thành lập vào năm 2004 với việc hợp nhất Giáo hội Cải cách Hà Lan, Các giáo hội Cải cách tại Hà Lan và một giáo hội Luther nhỏ hơn. Một số giáo hội Cải cách chính thống và tự do không hợp nhất với PKN. Mặc dù tín đồ Cơ Đốc giáo nay là thiểu số tại Hà Lan, song Hà Lan có một vành đai Kinh Thánh từ Zeeland đến phần phía bắc của tỉnh Overijssel, tại đó các đức tin Tin Lành (đặc biệt là Cải cách) vẫn mạnh mẽ, và thậm chí chiếm đa số tại các hội đồng tự quản. Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ nhì tại Hà Lan, và vào năm 2012 tôn giáo này có khoảng 825.000 tín đồ (5% dân số). Số lượng người Hồi giáo bắt đầu gia tăng từ năm 1960 do có lượng lớn công nhân di cư. Con số này bao gồm di dân từ các cựu thuộc địa Hà Lan như Suriname và Indonesia, song chủ yếu là công nhân di cư từ Thổ Nhĩ Kỳ và Maroc. Trong thập niên 1990, người Hồi giáo tị nạn đến từ các quốc gia như Bosnia và Herzegovina, Iran, Iraq, Somalia và Afghanistan. Các tôn giáo khác chiếm khoảng 6% dân chúng Hà Lan. Ấn Độ giáo có khoảng 215.000 tín đồ, hầu hết là người Suriname gốc Ấn Độ. Ngoài ra, còn có số lượng đáng kể người nhập cư theo Ấn Độ giáo đến từ Ấn Độ và Sri Lanka, và một số tín đồ phương Tây của các phong trào tôn giáo mới có định hướng Ấn Độ giáo như Hare Krishna. Hà Lan có khoảng 250.000 tín đồ Phật giáo hoặc những người gắn bó mạnh mẽ với tôn giáo này, nhiều người thuộc dân tộc Hà Lan. Có khoảng 45.000 người Do Thái tại Hà Lan. Giáo dục. Giáo dục tại Hà Lan có tính chất nghĩa vụ đối với trẻ từ 5 đến 15 tuổi. Toàn bộ trẻ em tại Hà Lan thường theo học tiểu học từ 4 đến 12 tuổi. Tiểu học gồm có tám năm, và dựa trên một bài kiểm tra năng lực, khuyến nghị của giáo viên năm lớp tám và ý kiến của cha mẹ hoặc người giám hộ học sinh, sẽ có một lựa chọn về một trong ba hướng giáo dục trung học (sau khi hoàn thành một chương trình, học sinh vẫn có thể tiếp tục vào năm áp chót của chương trình kế tiếp): Các đại học cung cấp chương trình cử nhân ba năm, tiếp theo là chương trình thạc sĩ 1-3 năm, sau đó có thể theo một chương trình tiến sĩ bốn năm. Các ứng cử viên tiến sĩ tại Hà Lan thường là nhân viên không biên chế của một đại học. Toàn bộ các đại học tại Hà Lan do nhà nước sở hữu và điều hành, và có một khoảng học phí khoảng 2.000 euro mỗi năm đối với sinh viên đến từ Hà Lan và Liên minh châu Âu. Giáo dục bậc đại học tại Hà Lan gồm hai loại hình thể chế là các đại học khoa học ứng dụng (HBO) dành cho những người tốt nghiệp HAVO, VWO và MBO, và các đại học nghiên cứu ("universiteiten"; WO) chỉ dành cho những người tốt nghiệp VWO và HBO (bao gồm tốt nghiệp HBO "propaedeuse"). HBO bao gồm các thể chế tổng hợp hoặc các thể chế chuyên về một lĩnh vực cụ thể, như nông nghiệp, nghệ thuật thị giác và trình diễn, hoặc đào tạo giáo dục, trong khi Wo gồm 12 đại học tổng hợp cùng ba đại học kỹ thuật. Kể từ tháng 9 năm 2002, hệ thống giáo dục bậc đại học tại Hà Lan được tổ chức theo một hệ thống ba chu kỳ gồm cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ, nhằm thích hợp và tiêu chuẩn hoá giảng dạy trong cả HBO và WO theo tiến trình Bologna. Trong cùng thời gian, hệ thống ECTS được chấp thuận làm cách thức định lượng khối lượng công việc của sinh viên. Bất chấp những thay đổi này, hệ thống lưỡng thể có khác biệt giữa giáo dục định hướng nghiên cứu và giáo dục bậc cao định hướng nghề nghiệp vẫn tồn tại trên thực tế. Chương trình tiến sĩ chỉ được cung cấp từ các đại học nghiên cứu, quá trình nghiên cứu sinh tiến sĩ được gọi là "thăng cấp" ("promotie"). Bằng tiến sĩ chủ yếu là một bằng nghiên cứu, một luận văn dựa trên nghiên cứu gốc cần phải được viết và bảo vệ công khai. Nghiên cứu này thường được tiến hành khi họ làm việc tại một trường đại học với vị thế "promovendus" (trợ lý nghiên cứu). Y tế. Năm 2016, Hà Lan duy trì vị trí số một trong Chỉ số người thụ hưởng y tế châu Âu (EHCI), là chỉ số so sánh các hệ thống y tế tại châu Âu. Hà Lan thuộc ba quốc gia đầu tiên trong các báo cáo công bố kể từ năm 2005. Trong số 48 tiêu chí như quyền lợi, thông tin, khả năng tiếp cận và kết quả, Hà Lan đảm bảo vị trí đứng đầu trong sáu năm liên tục. Hà Lan xếp thứ nhất trong một nghiên cứu vào năm 2009 về so sánh các hệ thống y tế của Hoa Kỳ, Úc, Canada, Đức và New Zealand. Hầu hết bệnh viện tại Hà Lan do tư nhân điều hành, thuộc các tổ chức phi lợi nhuận, song hầu hết nhà cung cấp bảo hiểm y tế là các công ty vì lợi nhuận. Có khoảng 90 tổ chức bệnh viện tại Hà Lan, một số điều hành nhiều bệnh viện trên thực tế, thường là do hợp nhất các bệnh viện độc lập vào trước đó. Hà Lan có một mạng lưới 160 trung tâm chăm sóc sơ cấp cấp tính luôn mở cửa, do vậy mọi người có thể tiếp cận dễ dàng. Phân tích của Viện Quốc gia về Y tế công cộng và Môi trường Hà Lan cho thấy rằng 99,8% cư dân có thể được vận chuyển đến một đơn vị cấp cứu hoặc bệnh viện cung cấp sản khoa cấp cứu trong vòng 45 phút vào năm 2015. Kể từ khi có một cuộc cải cách lớn về hệ thống y tế vào năm 2006, hệ thống của Hà Lan nhận được thêm nhiều điểm mỗi năm. Theo HCP (Health Consumer Powerhouse), Hà Lan có 'một hệ thống lộn xộn', nghĩa là bệnh nhân có mức độ tự do lớn về nơi mua bảo hiểm y tế, cho đến nơi họ nhận dịch vụ y tế. Tuy nhiên khác biệt giữa Hà Lan và các quốc gia khác chính là sự hỗn loạn này được quản lý. Các quyết định y tế được tiến hành thông qua đối thoại giữa bệnh nhân và chuyên gia y tế. Bảo hiểm y tế tại Hà Lan là điều bắt buộc. Y tế tại Hà Lan được bao phủ bởi hai hình thức bảo hiểm luật định: Zorgverzekeringswet (Zvw), thường gọi là "bảo hiểm cơ bản", bao gồm chăm sóc y tế thông thường. Algemene Wet Bijzondere Ziektekosten (AWBZ) bao gồm điều dưỡng và chăm sóc y tế dài hạn. Trong khi cư dân Hà Lan được tự động nhận bảo hiểm AWBZ từ chính phủ, thì mọi người phải mua bảo hiểm y tế cơ bản cho mình (basisverzekering), ngoại trừ những người dưới 18 được tự động gắn liền theo tiền đóng bảo hiểm của cha mẹ. Y tế tại Hà Lan có thể chia thành một vài cách thức: Ba cấp bậc là chăm sóc y tế thân thể và tinh thần, 'điều trị' (ngắn hạn), 'chăm sóc' (dài hạn). Các bác sĩ gia đình ("huisartsen", có thể so sánh với bác sĩ đa khoa) tạo thành bộ phận lớn nhất của cấp bậc đầu tiên. Tham khảo một thành viên trong cấp đầu tiên là điều bắt buộc để tiếp cận cấp thứ hai và thứ ba. Hệ thống chăm sóc y tế Hà Lan khá hiệu quả so với các quốc gia phương Tây khác song không phải là có hiệu quả chi phí nhất. Y tế tại Hà Lan là một hệ thống kép, có hiệu lực từ tháng 1 năm 2006. Điều trị dài hạn, đặc biệt là các bệnh liên quan đến nằm viện bán thường xuyên, và các chi phí tàn tật như xe lăn, được che phủ bởi một loại bảo hiểm bắt buộc do nhà nước kiểm soát. Điều này được quy định trong "Algemene Wet Bijzondere Ziektekosten" ("Luật tổng quát về Chi phí y tế đặc biệt") có hiệu lực lần đầu vào năm 1968. Năm 2009, loại bảo hiểm này chi trả 27% tổng chi phí chăm sóc y tế. Đối với toàn bộ điều trị y tế ngắn hạn, có một hệ thống bảo hiểm y tế bắt buộc, với các công ty bảo hiểm y tế tư nhân. Các công ty bảo hiểm y tế này buộc phải cung cấp một gói được định rõ các điều trị được bảo hiểm. Loại bảo hiểm này chi trả 41% toàn bộ phí tổn chăm sóc y tế trên toàn quốc. Các nguồn chi trả y tế khác là thuế (14%), chi trả tiền mặt (9%), các gói bảo hiểm y tế tự nguyện (4%) và các nguồn khác (4%). Khả năng chi trả được đảm bảo thông qua một hệ thống các khoản trợ cấp liên quan đến thu nhập và tiền đóng bảo hiểm cá nhân liên quan đến thu nhập do cá nhân và giới chủ chi trả. Văn hoá. Hà Lan là quốc gia của các triết gia Erasmus thành Rotterdam và Spinoza. Toàn bộ các tác phẩm chính của Descartes được thực hiện tại Hà Lan. Nhà khoa học Hà Lan Christiaan Huygens (1629–1695) khám phá vệ tinh Titan của Sao Thổ và là nhà vật lý học đầu tiên sử dụng các công thức toán học. Antonie van Leeuwenhoek là người đầu tiên quan sát và mô tả sinh vật đơn bào bằng một kính hiển vi. Kiến trúc truyền thống Hà Lan đặc biệt có giá trị tại Amsterdam, Delft và Leiden, với các toà nhà từ thế kỷ XVII và XVIII dọc theo các kênh. Kiến trúc làng nhỏ với các nhà bằng gỗ hiện diện tại Zaandam và Marken. Cối xay gió, hoa tulip, guốc gỗ, pho mát, đồ gốm Delft, và cần sa nằm trong số những vật thể được du khách liên tưởng với Hà Lan. Hà Lan có lịch sử lâu dài về khoan dung xã hội và nay được nhìn nhận là một quốc gia tự do, xét về chính sách ma tuý của nước này và việc họ hợp pháp hoá an tử. Năm 2001, Hà Lan trở thành quốc gia đầu tiên hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới. Hà Lan có danh tiếng là quốc gia đi đầu về quản lý môi trường và dân cư. Năm 2015, Amsterdam và Rotterdam lần lượt đứng thứ 4 và thứ 5 trong chỉ số thành phố thành phố bền vững Arcadis. Tính bền vững là một khái niệm quan trọng đối với người Hà Lan, mục tiêu của chính phủ Hà Lan là có một hệ thống năng lượng bền vững, đáng tin cậy và giá cả phải chăng đến năm 2050, khi đó phát thải sẽ giảm một nửa và 40% điện năng đến từ các nguồn bền vững. Chính phủ đang đầu tư hàng tỉ euro vào tính hiệu quả năng lượng, năng lượng bền vững và giảm phát thải . Vương quốc cũng khuyến khích các công ty Hà Lan xây dựng các hạ tầng bền vững, với hỗ trợ tài chính của nhà nước cho các công ty hoặc cá nhân hoạt động trong việc biến quốc gia trở nên bền vững hơn. Mỹ thuật. Hội họa Thời kỳ hoàng kim Hà Lan nằm vào hàng được tôn vinh nhất thế giới đương thời, trong thế kỷ XVII. Đây là thời của "các bậc thầy Hà Lan" như Rembrandt van Rijn, Johannes Vermeer, Jan Steen, Jacob van Ruisdael. Rembrandt thường được nhận định là một trong các nghệ sĩ thị giác vĩ đại nhất trong lịch sử, các tác phẩm của ông mô tả đa dạng về phong cách và chủ đề, từ chân dung và tự hoạ đến phong cảnh, cảnh tượng kinh thánh hay thần thoại. Từ thập niên 1620, hội họa Hà Lan tách biệt dứt khoát khỏi phong cách Baroque để bước sang một phong cách miêu tả hiện thực hơn, quan tâm rất nhiều đến thế giới thực. Các loại tranh gồm có tranh lịch sử, chân dung, phong cảnh, cảnh đô thị, tĩnh vật và thể loại. Trong bốn loại tranh cuối nêu trên, các họa sĩ Hà Lan lập ra các phong cách được giới mỹ thuật châu Âu dựa vào trong hai thế kỷ sau đó. Các bức tranh tường có một ẩn ý đạo đức. Các chủ đề được ưa thích về phong cảnh Hà Lan là những đụn cát dọc theo bờ biển phía tây, các sông với các bãi cỏ liền kề rộng rãi và là nơi chăn gia súc, và thường có một bóng hình thành phố ở phía xa. Thời kỳ hoàng kim không bao giờ khôi phục được từ sau khi Pháp xâm chiếm vào năm 1672, song có một giai đoạn hoàng hôn kéo dài cho đến khoảng năm 1710. Trường phái Haag xuất hiện vào khoảng lúc bắt đầu thế kỷ XIX, thể hiện toàn bộ những gì tối nhất hoặc sáng nhất trong cảnh quan Hà Lan, những gì âm u nhất hoặc trong trẻo nhất trong khí quyển. Trường phái ấn tượng Amsterdam thịnh hành vào giữa thế kỷ XIX, cùng thời kỳ với trường phái ấn tượng Pháp. Các họa sĩ dùng các nét vẽ nhanh và rõ để ghi dấu lên bức vẽ. Họ tập trung vào miêu tả sinh hoạt thường nhật của thành phố. Amsterdam cuối thế kỷ XIX là một trung tâm nhộn nhịp về mỹ thuật và văn học. Vincent van Gogh là một họa sĩ hậu ấn tượng, các tác phẩm của ông được chú ý vì vẻ đẹp thô, tính chân thật biểu cảm và màu sắc rõ nét, có ảnh hưởng sâu rộng đến mỹ thuật thế kỷ XX. Trong thế kỷ XX, Hà Lan sản sinh nhiều họa sĩ như Roelof Frankot, Salomon Garf, Pyke Koch. Khoảng năm 1905-1910, pha màu theo phép xen kẽ phát triển thịnh vượng. Từ năm 1911 đến năm 1914, toàn bộ các phong trào mỹ thuật mới nhất lần lượt truyền đến Hà Lan, bao gồm trường phái lập thể, trường phái vị lai và trường phái biểu hiện. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, De Stijl ("phong cách") được dẫn dắt bởi Piet Mondrian và xúc tiến mỹ thuật thuần tuý, chỉ bao gồm các đường dọc và ngang, sử dụng các màu cơ bản. Kiến trúc. Trong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan vào thế kỷ XVII, do kinh tế thịnh vượng nên các thành phố được mở mang rất nhiều. Các toà thị chính và nhà kho mới được xây dựng, và nhiều kênh đào mới được hình thành trong và quanh các thành phố như Delft, Leiden và Amsterdam để nhằm mục đích phòng thủ và vận chuyển. Nhiều thương gia giàu có sở hữu một ngôi nhà mới dọc các kênh đào này, các ngôi nhà này thường rất hẹp và có mặt tiền được trang trí nhằm thích hợp với địa vị mới của gia chủ. Nguyên nhân khiến các ngôi nhà này hẹp là do bị đánh thuế chiều rộng mặt tiền. Kiến trúc của nền cộng hoà đầu tiên tại phía bắc châu Âu ghi dấu với tính nhã nhặn và giản dị, và là phương thức phản ánh các giá trị dân chủ. Nhìn chung, kiến trúc tại các Vùng đất thấp, cả tại miền nam chịu ảnh hưởng của phản cải cách và miền bắc do Tin Lành chi phối, vẫn đầu tư mạnh mẽ vào các dạng phục hưng và kiểu cách của miền bắc Ý. Dạng mộc mạc hơn được tiến hành tại Cộng hoà Hà Lan rất phù hợp đối với các mô hình xây dựng lớn: Các cung điện cho Nhà Oranje và các toà nhà dân sự mới, không chịu ảnh hưởng từ phong cách phản cải cách đang tạo ra một số tiến bộ tại Antwerpen. Đến cuối thế kỷ XIX, có một dòng Tân Goth đáng chú ý hoặc Phục hưng Goth trong các kiến trúc nhà thờ cũng như công cộng, đáng chú ý là Pierre Cuypers, ông lấy cảm hứng từ kiến trúc sư người Pháp Viollet le Duc. Bảo tàng Rijksmuseum (1876–1885) và ga Amsterdam Centraal (1881–1889) nằm trong các toà nhà chính của ông. Trong thế kỷ XX, các kiến trúc sư Hà Lan đóng vai trò dẫn đầu trong phát triển kiến trúc hiện đại. Ngoài kiến trúc duy lý đầu thế kỷ XX của Berlage, là người thiết kế Beurs van Berlage, còn có ba nhóm riêng biệt khác phát triển trong thập niên 1920, mỗi nhóm có quan điểm riêng về phương hướng của kiến trúc hiện đại. Các kiến trúc sư theo trường phái biểu hiện như M. de Klerk and P.J. Kramer tại Amsterdam. Trường phái chức năng có Mart Stam, L.C. van der Vlugt, Willem Marinus Dudok và Johannes Duiker, họ có quan hệ tốt với nhóm theo chủ nghĩa tân thời quốc tế CIAM. Nhóm thứ ba xuất hiện từ phong trào De Stijl, trong số họ có J.J.P Oud và Gerrit Rietveld, hai người này về sau xây dựng theo một phong cách chức năng. Trong các thập niên 1950 và 1960, một thế hệ kiến trúc sư mới như Aldo van Eyck, J.B. Bakema và Herman Hertzberger, gọi là ‘thế hệ Forum’ (theo tạp chí Forum) hình thành một liên kết với các nhóm quốc tế như Team 10. Từ thập niên 1980 đến nay, Rem Koolhaas với hãng Office for Metropolitan Architecture (OMA) của ông trở thành một trong các kiến trúc sư hàng đầu thế giới. Cùng với ông, hình thành một thế hệ kiến trúc sư Hà Lan mới làm việc trong truyền thống hiện đại. Văn học. Cho đến cuối thế kỷ XI, văn học Hà Lan giống như văn học tại những nơi khác của châu Âu vẫn hầu như là theo hình thức truyền khẩu bằng thể loại thơ. Trong thế kỷ XII và XIII, các nhà văn bắt đầu viết các truyện anh hùng kị sĩ và tiểu sử các thánh cho giới quý tộc. Từ thế kỷ XIII, văn học trở nên mô phạm hơn và phát triển một đặc tính quốc gia sơ khai do nó được viết cho giai cấp tư sản. Văn học Hà Lan diễn ra một biến đổi khi kết thúc thế kỷ XIII, các thị trấn vùng Vlaanderen nay thuộc Bỉ và vùng Holland nay thuộc Hà Lan trở nên thịnh vượng và một cách diễn đạt văn học khác bắt đầu. Khoảng năm 1440, các phường hội văn chương gọi là "rederijkerskamers" ("phòng tu từ học") xuất hiện và thường mang sắc thái của tầng lớp trung lưu. Những phòng sớm nhất trong số này hầu như hoàn toàn tham gia vào chuẩn bị các vở kịch tôn giáo và kịch thần bí cho nhân dân. Anna Bijns (khoảng 1494–1575) là một nhân vật quan trọng, ông viết bằng tiếng Hà Lan hiện đại. Cải cách Tin Lành xuất hiện trong văn học Hà Lan bằng một bộ sưu tập các bản dịch Thánh Vịnh vào năm 1540 và bằng một bản dịch Tân Ước vào năm 1566 sang tiếng Hà Lan. Nổi tiếng nhất trong số các nhà văn Hà Lan là nhà biên kịch và nhà thơ Công giáo Joost van den Vondel (1587–1679). Pieter Corneliszoon Hooft (1581-1647) là thành viên nổi bật nhất trong nhóm Muiderkring, viết các bài thơ mục đồng và trữ tình. Vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, các Vùng đất thấp trải qua biến động lớn về chính trị, các nhà văn nổi bật trong giai đoạn này là Willem Bilderdijk (1756–1831), Hiëronymus van Alphen (1746–1803) và Rhijnvis Feith (1753–1824). Piet Paaltjens (bút danh của François Haverschmidt, 1835–1894) là một trong rất ít nhà thơ đáng đọc vào thế kỷ XIX, là đại diện tại Hà Lan của lối viết lãng mạn với Heine là điển hình. Một phong trào mới mang tên "Tachtigers" hay "phong trào 80" theo thập kỷ nó xuất hiện. Multatuli viết về việc đối xử tồi với người bản địa tại thuộc địa Đông Ấn Hà Lan. Một trong các nhà văn lịch sử nổi tiếng nhất trong thế kỷ XX là Johan Huizinga, được bên ngoài biết đến và được dịch sang các ngôn ngữ khác, tác phẩm của ông được liệt vào trong một vài danh sách bộ sách thiết yếu. Trong thập niên 1920, xuất hiện một nhóm nhà văn mới tách mình khỏi phong cách hoa mỹ của Phong trào 80, dẫn đầu là Nescio (J.H.F. Grönloh, 1882–1961). Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, có Anne Frank (với nhật ký của cô bé), cùng nhà văn tiểu thuyết hình sự và nhà thơ Jan Campert. Các nhà văn sống qua sự tàn bạo của Chiến tranh thế giới thứ hai đã phản ánh trong tác phẩm của họ về thay đổi trong nhận chức thực tiễn. Nhiều người nhìn lại các trải nghiệm của họ theo cách Anne Frank đã làm trong nhật ký của cô bé, như trong trường hợp "Het bittere kruid" (cỏ đắng) của Marga Minco, và "Kinderjaren" (thời thơ ấu) của Jona Oberski. Sự phục hồi, trong lịch sử văn học được mô tả là "ontluisterend realisme" (chủ nghĩa hiện thực sửng sốt), chủ yếu có liên hệ với ba tác giả Gerard Reve, W.F. Hermans và Anna Blaman. Reve và Hermans thường được trích dẫn cùng với Harry Mulisch là ba tác giả lớn của văn học Hà Lan thời hậu chiến. Âm nhạc. Hà Lan có truyền thống âm nhạc đa dạng, âm nhạc truyền thống Hà Lan là một thể loại được gọi là "Levenslied", nghĩa là "tiếng hát của đời sống", có đặc trưng là giai điệu và nhịp điệu đơn giản, với cấu trúc đơn giản trong các cặp câu và đoạn điệp khúc. Chủ đề có thể nhẹ nhàng, song thường sẽ là đa cảm và gồm có tình yêu, cái chết và nỗi cô đơn. Các nhạc cụ truyền thống như phong cầm và đàn thùng là một yếu tố chủ yếu trong âm nhạc levenslied, song vào những năm gần đây có nhiều nghệ sĩ cũng sử dụng synthesizer và guitar. Các nghệ sĩ trong thể loại này có thể kể đến như Jan Smit, Frans Bauer và André Hazes. Nhạc rock và pop đương đại Hà Lan (Nederpop) có nguồn gốc từ thập niên 1960, nó chịu ảnh hưởng mạnh từ âm nhạc đại chúng Mỹ và Anh. Trong các thập niên 1960 và 1970, phần lời hầu hết viết bằng tiếng Anh và một số bài hát được trình diễn bằng nhạc cụ. Các ban nhạc như Shocking Blue, Golden Earring, Tee Set, George Baker Selection và Focus đạt được thành công ở tầm quốc tế. Đến thập niên 1980, ngày càng nhiều nhạc sĩ pop bắt đầu làm việc bằng tiếng Hà Lan, một phần là do được truyền cảm hứng từ thành công vang dội của ban nhạc Doe Maar. Ngày nay, nhạc rock và pop Hà Lan phát triển mạnh trong cả hai ngôn ngữ, một số nghệ sĩ cũng ghi âm bằng cả hai ngôn ngữ. Các ban nhạc symphonic metal là Epica, Delain, ReVamp, The Gathering, Asrai, Autumn, Ayreon và Within Temptation cùng ca sĩ nhạc jazz và pop Caro Emerald có thành công ở tầm quốc tế. Các ban nhạc metal như Hail of Bullets, God Dethroned, Izegrim, Asphyx, Textures, Present Danger, Heidevolk và Slechtvalk là khách mời phổ biến tại các nhạc hội metal lớn nhất châu Âu. Các ngôi sao ca nhạc Hà Lan đương đại gồm có ca sĩ nhạc pop Anouk, ca sĩ nhạc country pop Ilse DeLange, ban nhạc dân gian hát bằng phương ngữ Nam Gelderland và Limburg Rowwen Hèze, ban nhạc rock BLØF và bộ đôi Nick & Simon. Vào đầu thập niên 1990, các nghệ sĩ nhạc house Hà Lan và Bỉ cùng tiến hành dự án Eurodance 2 Unlimited. Họ bán được 18 triệu bản, hai ca sĩ trong ban nhạc là các nghệ sĩ âm nhạc Hà Lan thành công nhất cho đến nay. Các ban nhạc Hà Lan khác thành công quốc tế là 2 Brothers On The 4th Floor và Vengaboys. Vào giữa thập niên 1990, nhạc rap và hip hop tiếng Hà Lan ("Nederhop") cũng thăng hoa và trở nên phổ biến tại Hà Lan và Bỉ. Các nghệ sĩ có nguồn gốc Bắc Phi, Caribe hoặc Trung Đông có ảnh hưởng mạnh trong thể loại này. Kể từ thập niên 1990, nhạc dance điện tử Hà Lan (EDM) trở nên phổ biến rộng rãi trên thế giới với nhiều dạng như trance, techno và gabber hay hardstyle. Một số DJ vào hàng nổi tiếng nhất thế giới tới từ Hà Lan, như Armin van Buuren, Tiësto, Hardwell, Martin Garrix, Nicky Romero và Afrojack; bốn người đầu tiên kể trên nằm vào hàng giỏi nhất thế giới theo DJ Mag Top 100 DJs. Các DJ cũng đóng góp cho nhạc pop dòng chính do họ thường xuyên cộng tác và sản xuất cho các nghệ sĩ quốc tế nổi tiếng. Amsterdam Dance Event (ADE) là nhạc hội điện tử hàng đầu thế giới và là lễ hội câu lạc bộ lớn nhất đối với nhiều phân loại điện tử. Về âm nhạc cổ điển, Jan Sweelinck được đánh giá là nhà soạn nhạc Hà Lan nổi tiếng nhất, còn Louis Andriessen nằm trong số các nhà soạn nhạc cổ điển người Hà Lan nổi tiếng nhất đang sống. Ton Koopman là một nhạc trưởng, nghệ sĩ đàn ống và harpsichord người Hà Lan, đồng thời là giáo sư Trường Âm nhạc Hoàng gia Den Haag. Các nghệ sĩ vĩ cầm nổi tiếng là Janine Jansen và André Rieu. André Rieu cùng với Dàn nhạc Johann Strauss của ông trình diễn trong các cuộc lưu diễn hoà nhạc trên toàn cầu, quy mô và doanh thu của chúng có thể sánh với các màn biểu diễn nhạc rock và pop lớn nhất thế giới. Tác phẩm cổ điển Hà Lan nổi tiếng nhất là "Canto Ostinato" của Simeon ten Holt, một tác phẩm giản lược cho các nhạc cụ đa chức năng. Nghệ sĩ đàn hạc Lavinia Meijer vào năm 2012 phát hành một tuyển tập với các tác phẩm của Philip Glass được bà chuyển đổi cho đàn hạc. Concertgebouw (hoàn thành vào năm 1888) tại Amsterdam là cứ điểm của Dàn nhạc Concertgebouw Hoàng gia, được cho là một trong các dàn nhạc hay nhất thế giới. Điện ảnh. Phim đầu tiên của Hà Lan là phim hài hề tếu Gestoorde hengelaar (1896) của M.H. Laddé.. Mặc dù ngành phim Hà Lan tương đối nhỏ, song có một số giai đoạn tích cực khi ngành làm phim Hà Lan thịnh vượng. Giai đoạn bùng nổ đầu tiên đến vào Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi Hà Lan là một trong các quốc gia trung lập. Các xưởng phim như Hollandia sản xuất một loạt phim truyện. Một làn sóng thứ thì xuất hiện trong thập niên 1930, khi việc xuất hiện phim nói dẫn đến những lời kêu gọi sản xuất phim nói tiếng Hà Lan, kết quả là bùng nổ về sản xuất. Để thích ứng với sự phát triển nhanh chóng, ngành phim Hà Lan trông cậy vào những người ngoại quốc có kinh nghiệm về kỹ thuật phim âm thanh. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ngành phim tư nhân Hà Lan gần như phải ngưng lại, tuy nhiê người Đức đã hỗ trợ nhiều phim tuyên truyền quy mô nhỏ với nội dung ủng hộ Đức Quốc xã. Phim tài liệu Hà Lan nổi tiếng thế giới từ lâu, các đạo diễn Hà Lan nổi tiếng nhất có xuất phát điểm từ phim tài liệu, đặc biệt là những người bắt đầu sự nghiệp trước Chiến tranh thế giới thứ hai, như Joris Ivens và Bert Haanstra. Tuy nhiên, kể từ đầu thập niên 1970, sản xuất phim tài liệu với mục đích phát hành tại rạp bị suy thoái, có lẽ là do chuyển hướng sang phim tài liệu truyền hình. Trong những năm ngay sau chiến tranh, hầu hết các nỗ lực được dành cho tái thiết quốc gia, và phim không phải là một ưu tiên. Vào cuối thập niên 1950, ngành phim Hà Lan được chuyên nghiệp hoá. Phim tài liệu vẫn giữ một vai trò quan trọng trong ngành làm phim Hà Lan. Liên hoan phim tài liệu quốc tế Amsterdam được tổ chức vào tháng 11 hàng năm, và được xem là một trong các liên hoan phim tài liệu lớn nhất thế giới. Đến cuối thập niên 1960, thế hệ đầu tiên các nhà làm phim Hà Lan tốt nghiệp từ Học viện Điện ảnh Hà Lan bắt đầu gây dựng tên tuổi. Đạo diễn nổi tiếng trong giai đoạn này là Fons Rademakers, Rademakers học nghề từ Vittorio De Sica và Jean Renoir và đem các kiến thức mới về phim nghệ thuật nước ngoài về nước. Một giai đoạn thành công lâu dài hơn của điện ảnh Hà Lan đến trong thập niên 1970, dẫn đầu là Paul Verhoeven. Năm bộ phim của Verhoeven trong thập niên là "Wat zien ik?" (1971), "Turks Fruit" (1973), "Keetje Tippel" (1975), "Soldaat van Oranje" (1977) và "Spetters" (1980) - đạt kỷ lục phòng vé. "Turks Fruit" và "Soldaat van Oranje" cũng thành công ở nước ngoài, và khiến Verhoeven có sự nghiệp tại Hollywood. Năm 2006, Verhoeven làm phim "Black Book" ("Zwartboek"), đây là phim nói tiếng Hà Lan đầu tiên của ông kể từ "The Fourth Man" (1983). Các dạo diễn thành công khác trong giai đoạn này là Wim Verstappen và Pim de la Parra. Sau năm 1980, ít phim Hà Lan có thể đủ sức đưa hàng triệu người đến các rạp chiếu phim, do suy giảm mức độ quan tâm và sự phổ biến của hệ thống video gia đình. Đến giữa thập niên 1990, chính phủ Hà Lan áp dụng việc tránh thuế (gọi là 'CV-regeling') nhằm khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân trong ngành điện ảnh Hà Lan. Sau khi thực hiện các quy tắc mới này, diễn ra một cuộc bùng nổ trong sản xuất phim Hà Lan, với những phim nhắm đến khán giả trẻ như "Costa!" (2001). Sau một thời gian, công thức này đuối dần và hương vị thương mại mới trở thành các bộ phim với cảm giác đa văn hoá, "Shouf Shouf Habibi" (2004) và "Het Schnitzelparadijs" (2005) có thành công thương mại. Các diễn viên Hà Lan thành công nhất tại Hollywood là Rutger Hauer ("Blade Runner"), Jeroen Krabbé ("The Fugitive"), Famke Janssen ("X-Men") và Carice van Houten ("Game of Thrones"). Các nhà làm phim có sự nghiệp thành công tại Hollywood ngoài Paul Verhoeven còn có Jan de Bont (với "Speed" và "Twister"), nhà biên kịch-chuyển thể-đạo diễn Menno Meyjes ("The Color Purple" và "Indiana Jones and the Last Crusade") và nhà sản xuất Pieter Jan Brugge ("Glory", "Miami Vice", "Defiance"). Roel Reiné sau khi chuyển tới Hollywood đã trở thành một đạo diễn-nhà sản xuất có ảnh hưởng với các bộ phim "DVD Premiere", như "Pistol Whipped" (2008). Các đạo diễn hình ảnh Hà Lan có được thành công quốc tế là Hoyte van Hoytema ("Interstellar", "Spectre", "Dunkirk") và Theo van de Sande ("Wayne's World" và "Blade"). Truyền thông. Các báo quan trọng nhất của Hà Lan là "De Telegraaf", "Algemeen Dagblad", "de Volkskrant", "NRC Handelsblad" và "Trouw". Trong quá khứ, "Parool" được thành lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai cũng là một tờ báo chính yếu, song nay nó chủ yếu tập trung vào cấp thành phố và khu vực của Hà Lan. Đối với độc giả tu sĩ (Tin Lành), "Reformatorisch Dagblad" và "Nederlands Dagblad" là các báo quốc gia nổi tiếng. Truyền hình tại Hà Lan bắt đầu vào năm 1951. Tại Hà Lan, thị trường truyền hình được phân chia giữa một số mạng lưới thương mại như RTL Nederland, và một hệ thống phát sóng công cộng chia sẻ ba kênh NPO 1, NPO 2 và NPO 3. Các chương trình nhập khẩu (ngoại trừ cho trẻ em), cũng như các phỏng vấn tin tức với câu trả lời bằng ngoại ngữ luôn được hiển thị trong ngôn ngữ gốc, đi kèm phụ đề. Đến năm 2013, 78,3% khán giả Hà Lan tiếp nhận truyền hình kỹ thuật số. Truyền hình kỹ thuật số có nhiều cách thức, phổ biến nhất là qua cáp với Ziggo là nhà cung cấp chính về truyền hình cáp tại Hà Lan, CanalDigitaal là nhà cung cấp truyền hình vệ tinh, KPN Digitenne là nhà cung cấp truyền hình kỹ thuật số mặt đất, KPN và Tele2 là hai nhà cung cấp chính về truyền hình internet. Các kênh truyền hình cung cấp sẽ phụ thuộc nhiều vào nhà cung cấp, tuy nhiên có có một nhóm nhỏ các kênh mà mọi nhà khai thác cần phải truyền tải, kể từ năm 2014 là các kênh như các kênh quốc gia NPO 1, NPO 2, NPO 3. Truyền hình thương mại tại Hà Lan được cấp phép từ năm 1988, muộn hơn so với các quốc gia láng giềng, các công ty chính cung cấp truyền hình thương mại là RTL Nederland và SBS Broadcasting. Xuất khẩu truyền hình từ Hà Lan hầu hết được tiến hành dưới dạng thể thức và nhượng quyèn cụ thể, đáng chú ý nhất là thông qua tổ hợp sản xuất truyền hình quốc tế Endemol của các tài phiệt truyền thông người Hà Lan là John de Mol và Joop van den Ende. Endemol có trụ sở tại Amsterdam với khoảng 90 công ty tại 30 quốc gia. Endemol và các công ty con của họ sáng tạo và vận hành các chương trình nhượng quyền thực tế, tài năng và trò chơi truyền hình trên khắp thế giới, như "Big Brother" và "Deal or No Deal". John de Mol sau đó bắt đầu công ty riêng của mình mang tên Talpa, tạo ra các chương trình nhượng quyền như "The Voice" và "Utopia". Hà Lan cũng có một lượng lớn các đài phát thanh, với sáu kênh phát thanh quốc gia như NPO Radio 1, NPO Radio 2 và NPO 3FM, cùng một số kênh công cộng kỹ thuật số và khu vực. Radio 538, Sky Radio và Q-music là các nhà cung cấp chính trong thị trường thương mại. Thể thao. Có khoảng 4,5 triệu dân Hà Lan đăng ký tại một trong số 35.000 câu lạc bộ thể thao trong nước, và khoảng hai phần ba dân số từ 15 đến 75 tuổi tham gia hoạt động thể thao hàng tuần. Bóng đá là môn thể thao được người Hà Lan tham gia phổ biến nhất, các môn thể thao đội tuyển phổ biến kế tiếp là khúc côn cầu trên cỏ và bóng chuyền. Quần vợt, thể dục dụng cụ và golf là ba môn thể thao cá nhân được tham gia rộng rãi nhất. Các tổ chức thể thao bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Các liên đoàn thể thao được thành lập như (liên đoàn trượt băng tốc độ vào năm 1882), các quy tắc được thống nhất và các câu lạc bộ thể thao xuất hiện. Ủy ban Olympic Quốc gia Hà Lan được thành lập vào năm 1912, và Hà Lan giành được 285 huy chương tại Thế vận hội Mùa hè tính đến năm 2016 và 110 huy chương tại Thế vận hội Mùa đông tính đến năm 2014. Trong thi đấu quốc tế, các đội tuyển và vận động viên Hà Lan chiếm ưu thế trong một số lĩnh vực. Đội tuyển khúc côn cầu trên cỏ nữ Hà Lan là đội tuyển thành công nhất trong lịch sử của hạng mục này. Đội tuyển bóng chày Hà Lan từng 20 lần giành chức vô địch châu Âu. Các võ sĩ Kickboxing K1 Hà Lan từng 15 lần thắng giải K-1 World Grand Prix. Trượt băng tốc độ Hà Lan giành chiến thắng trong 8/12 sự kiện, 23/36 huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa đông 2014, là thành tích chiếm ưu thế nhất trong một môn thể thao của lịch sử Thế vận hội. Đua ô tô tại trường đua TT Assen có một lịch sử lâu dài. Assen là địa điểm duy nhất liên tục tổ chức một vòng đấu của giải vô địch ô tô thế giới từ khi hình thành vào năm 1949. Trường đua được xây dựng dành cho Dutch TT vào năm 1954, các sự kiện trước đó được tổ chức trên đường phố. Max Verstappen thi đấu tại Công thức một, và là người Hà Lan đầu tiên thắng một giải Grand Prix. Khu nghỉ dưỡng ven biển Zandvoort tổ chức Dutch Grand Prix từ năm 1958 đến năm 1985. Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Hà Lan từng giành huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 1996. Thành công lớn nhất của đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Hà Lan là vô địch châu Âu năm 1995 và World Grand Prix vào năm 2007. Ẩm thực. Ban đầu, ẩm thực Hà Lan hình thành dựa theo hoạt động ngư nghiệp và nông nghiệp, bao gồm canh tác cây trồng và nuôi động vật được thuần hoá. Ẩm thực Hà Lan đơn giản và không phức tạp, gồm nhiều sản phẩm bơ sữa. Bữa sáng và bữa trưa điển hình là bánh mì phủ pho mát, hoặc là ngũ cốc cho bữa sáng. Theo truyền thống, bữa tối gồm có khoai tây, một phần thịt, và rau theo mùa. Món ăn Hà Lan có hàm lượng cacbohydrat và chất béo ở mức cao, phản ánh nhu cầu ăn của những người lao động vì văn hoá của họ định hình nên quốc gia. Món ăn Hà Lan không có nhiều sự tinh tế, mô tả tốt nhất là mộc mạc, song các loại đồ ăn đặc biệt được chuẩn bị cho nhiều ngày lễ. Trong thế kỷ XX, đồ ăn Hà Lan biến đổi và trở nên toàn cầu hơn, và hầu hết các nền ẩm thực toàn cầu có đại diện trong các thành phố lớn tại đây. Vào đầu năm 2014, Oxfam xếp hạng Hà Lan là quốc gia có đồ ăn bổ dưỡng, phong phú và tốt cho sức khoẻ nhất, khi so sánh trong số 125 quốc gia. Các tác giả ẩm thực hiện đại phân biệt giữa ba thể loại khu vực tổng quát của ẩm thực Hà Lan. Các khu vực tại đông bắc Hà Lan, đại thể tương ứng với các tỉnh Groningen, Friesland, Drenthe, Overijssel và Gelderland là khu vực thưa dân nhất. Đây là khu vực phát triển nông nghiệp muộn, ẩm thực tại đây được biết đến với nhiều loại thịt, phong phú về săn bắt và chăn nuôi, song các món ăn gần bờ biển cũng có lượng lớn cá. Khu vực có các loại xúc xích khô khác nhau, thuộc nhóm metworst của xúc xích Hà Lan, và được đánh giá cao vì thường có vị rất mạnh. Xúc xích lớn thường được ăn kèm với "stamppot", "hutspot" hay "zuurkool" (dưa cải Đức); còn xúc xích nhỏ thường là một loại đồ ăn đường phố. Các tỉnh này cũng là nơi sản xuất bán mì đen cứng, bánh ngọt, bánh quy, trong đó bánh quy có vị mạnh với gừng hoặc quả giầm nước đường hoặc gồm một ít thịt. Các đặc điểm đáng chú ý của "Fries roggebrood" (bánh mì đen Frisia) là thời gian nướng lâu (đến 20 tiếng), kết quả là vị ngọt và màu đen thẫm. Về đồ uống có cồn, khu vực này nổi tiếng với nhiều loại rượu bia đắng (như "Beerenburg") và các loại rượu chưng chất có nồng độ cao hơn bia. Các tỉnh Noord-Holland, Zuid-Holland, Zeeland, Utrecht và khu vực Betuwe của Gelderland thuộc khu vực ẩm thực miền tây Hà Lan. Do phong phú về nước và đất đồng cỏ, nên khu vực nổi tiếng với các sản phẩm bơ sữa trong đó có các loại pho mát như Gouda, Leyden, Edam, trong khi Zaanstreek tại Noord-Holland nổi tiếng với mayonnaise từ thế kỷ XVI, các loại mù tạc nguyên hạt đặc trưng và sô-cô-la. Zeeland và Zuid-Holland sản xuất nhiều bơ, có lượng chất béo lớn hơn so với hầu hết các loại bơ khác tại châu Âu. Một sản phẩm phụ của quá trình làm bơ là "karnemelk" (sữa bơ), nó cũng được xem là đặc trưng cho khu vực này. Các món từ biển như cá trích dầm muối, trai, cá chình, hàu và tôm hiện diện phổ biến và đặc trưng cho khu vực. "Kibbeling" là một món ăn tinh tế của địa phương, gồm các miếng nhỏ cá thịt trắng, song nay trở thành một loại đồ ăn nhanh quốc gia. Các loại bánh ngọt trong khu vực này có xu hướng khá mềm nhão, và thường có lượng đường cao, "oliebol" và "Zeeuwse bolus" là những điển hình. Các loại bánh quy cũng được sản xuất với số lượng lớn và có xu hướng chứa nhiều bơ và đường như "stroopwafel", hoặc được nhồi quả hạnh như "gevulde koek". Các loại đồ uống có cồn truyền thống của khu vực này là bia và "Jenever", một loại rượu mạnh hương bách xù. "Advocaat" là một ngoại lệ so với truyền thống Hà Lan, loại rượu này làm từ trứng, đường và brandy. Ẩm thực miền nam Hà Lan gồm tỉnh Noord-Brabant và tỉnh Limburg, tương đồng với vùng Vlaanderen tại Bỉ. Khu vực này nổi tiếng do phong phú về các loại bánh ngọt, súp, các món hầm và rau. Đây là khu vực ẩm thực duy nhất tại Hà Lan phát triển ẩm thực cao cấp. Các loại bánh ngọt thường được làm với nhiều kem sữa trứng và quả. Các loại bánh như "Vlaai" từ Limburg và "Moorkop" cùng "Bossche Bol" từ Brabant là các loại bánh ngọt đặc trưng. Ngoài ra, còn có các loại bánh ngọt mặn, trong đó "worstenbroodje" là phổ biến nhất. Đồ uống có cồn truyền thống của khu vực này là bía. Có nhiều thương hiệu địa phương, như "Trappist" và "Kriek". 5 trong số 10 nhà máy bia được Hiệp hội Luyện tâm Quốc tế công nhân là nằm tại khu vực văn hoá miền nam Hà Lan. Bia trong ẩm thực khu vực còn được dùng để nấu ăn, thường là trong các món hầm, giống như rượu vang trong ẩm thực Pháp. Di sản thuộc địa. Từ hoạt động khai thác của Công ty Đông Ấn Hà Lan trong thế kỷ XVII, cho đến hoạt động thuộc địa hoá trong thế kỷ XIX, các thuộc địa của Đế quốc Hà Lan liên tục được mở rộng, đạt đến mức độ cực đại khi thiết lập quyền bá chủ đối với Đông Ấn Hà Lan vào đầu thế kỷ XX. Đông Ấn Hà Lan, nay là Indonesia, là một trong các thuộc địa có giá trị nhất của thực dân châu Âu trên thế giới, và là thuộc địa quan trọng nhất đối với Hà Lan. Trên 350 năm di sản tác động tương hỗ đã để lại dấu ấn văn hoá quan trọng tại Hà Lan. Trong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan vào thế kỷ XVII, Hà Lan tiến hành đô thị hoá ở mức độ đáng kể, hầu hết được lấy từ tiền thu nhập doanh nghiệp bắt nguồn từ độc quyền mậu dịch tại châu Á. Vị thế xã hội dựa trên thu nhập của thương nhân, làm suy yếu chế độ phong kiến và thay đổi đáng kể động lực của xã hội Hà Lan. Khi Hoàng gia Hà Lan được thành lập vào năm 1815, hầu hết của cải của họ đến từ mậu dịch thuộc địa. Các đại học như Đại học Leiden thành lập vào thế kỷ XVI được phát triển thành các trung tâm kiến thức dẫn đầu về nghiên cứu Đông Nam Á và Indonesia. Đại học Leiden sản sinh các viện sĩ hàn lâm hàng đầu như Christiaan Snouck Hurgronje, và vẫn có các viện sĩ hàn lâm chuyên về ngôn ngữ và văn hoá Indonesia. Đại học Leiden và đặc biệt là KITLV là các thể chế giáo dục và khoa học cho đến nay chia sẻ cả quan tâm tri thức và lịch sử trong nghiên cứu Indonesia. Các viện khoa học khác tại Hà Lan gồm có Tropenmuseum Amsterdam, một bảo tàng nhân loại học với các bộ sưu tập đồ sộ về nghệ thuật, văn hoá, dân tộc học và nhân loại học Indonesia. Truyền thống của Lục quân Hoàng gia Đông Ấn Hà Lan (KNIL) nay được duy trì bởi Trung đoàn Van Heutsz của Lục quân Hoàng gia Hà Lan. Một "Bảo tàng Bronbeek" chuyên biệt tồn tại ở Arnhem cho đến nay, đây vốn là nơi ở cũ của các binh sĩ KNIL xuất ngũ. Một phân đoạn riêng biệt của văn học Hà Lan mang tên văn học Đông Ấn Hà Lan vẫn tồn tại và có các tác giả thành danh như Louis Couperus với "De Stille Kracht", lấy thời thuộc địa là một nguồn cảm hứng quan trọng. Một trong số các kiệt tác vĩ đại nhất của văn học Hà Lan là sách "Max Havelaar", do Multatuli viết vào năm 1860. Đa số người Hà Lan hồi hương sau và trong Cách mạng Indonesia là người Indo (lai Á-Âu). Nhóm cư dân lai Á-Âu tương đối lớn này phát triển trong suốt 400 năm và được phân loại là thuộc cộng đồng tư pháp châu Âu theo pháp luật thuộc địa. Trong tiếng Hà Lan họ được gọi là "Indische Nederlanders" hay là Indo (rút ngắn của Indo-Âu). Nếu tính cả thế hệ thứ nhì, người Indo hiện là nhóm nhập cư lớn nhất tại Hà Lan. Năm 2008, Cục Thống kê Trung ương Hà Lan (CBS) đã đăng ký 387.000 người Indo thế hệ thứ nhất và thứ hai sống tại Hà Lan. Mặc dù được nhận định là hoàn toàn đồng hoá vào xã hội Hà Lan, có tư cách dân tộc thiểu số lớn tại Hà Lan, những người hồi hương này giữ một vai trò chủ chốt trong việc đưa các yếu tố văn hoá Indonesia vào văn hoá chủ lưu của Hà Lan. Trong thực tế mọi đô thị tại Hà Lan đều có một "Toko" (cửa hàng người Hà Lan gốc Indonesia) hoặc cửa hàng Indonesia gốc Hoa và nhiều hội chợ 'Pasar Malam' (chợ đêm trong tiếng Indonesia) được tổ chức suốt năm. Nhiều món ăn và thực phẩm Indonesia trở nên phổ biến tại Hà Lan. Rijsttafel là một khái niệm nấu ăn thuộc địa, và các món như Nasi goreng và satay rất phổ biến tại Hà Lan.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Frankfurt am Main (tiếng Việt: Frankfurt trên sông Main), thường chỉ được viết là Frankfurt, với dân số hơn 670.000 người là thành phố lớn nhất của bang Hessen (Đức) và là thành phố lớn thứ năm của Đức sau Berlin, Hamburg, München ("Munich") và Köln ("Cologne"). Vùng đô thị Frankfurt có khoảng 2,26 triệu dân cư năm 2001, toàn bộ vùng đô thị Frankfurt Rhein-Main với trên 5 triệu dân cư là vùng đô thị Đức lớn thứ nhì sau Rhein-Ruhr. Từ năm 1875 Frankfurt am Main là thành phố lớn với hơn 100.000 dân cư. Việc xây dựng thành phố đã vượt xa khỏi ranh giới chật hẹp của thành phố. Từ Thời kỳ Trung cổ thành phố Frankfurt am Main liên tục thuộc về một trong những trung tâm quan trọng nhất trong nước Đức. Đã từ lâu, Frankfurt đã trở thành trung tâm thương mại của Đức. Trụ sở chính của Ngân hàng Trung ương châu Âu và các ngân hàng lớn như Deutsche Bank, Dresdner Bank và Commerzbank đều tập trung tại đây. Thị trường chứng khoán Frankfurt là một trong những thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới. Frankfurt cũng là thành phố hội chợ quan trọng trên toàn thế giới. Ngoài ra Frankfurt còn là điểm nút giao thông quan trọng của Đức và châu Âu. Địa lý. Thành phố nằm trên hai bên bờ sông Main, về phía đông nam của vùng đồi núi Taunus, trong vùng tây nam nước Đức, chính giữa những khu kinh tế quan trọng nhất của nước Đức. Về phía Nam Frankfurt có diện tích rừng trong thành phố lớn nhất Đức. Frankfurt có điểm tự nhiên cao nhất ở Berger Warte trong khu Frankfurt-Seckbach với 221 m trên mực nước biển. Điểm thấp nhất của thành phố nằm trên bờ sông Main trong Sindlingen, có độ cao 88 m trên mực nước biển. Thành phố nằm trong vùng ranh giới cực bắc của đồng bằng thượng lưu sông Rhein chạy dài từ Basel đến vùng Rhein-Main Phân chia hành chính. Thành phố được chia thành 46 khu vực thành phố ("Ortsteil") và những khu vực này lại được chia thành 118 "Stadtbezirk". Khu vực có diện tích lớn nhất là Sachsenhausen-Süd. Phần lớn các khu vực thành phố là những làng mạc ngoại ô hay đã từng là thành phố (Ví dụ như Frankfurt-Höchst) được sáp nhập vào Frankfurt. Một số, như Frankfurt-Nordend, hình thành khi thành phố tăng trưởng nhanh chóng trong Thời kỳ Thành lập ("Gründerzeit"). Các khu vực khác lại hình thành từ những khu dân cư mà đã từng thuộc về những khu vực khác, ví dụ như Frankfurt-Dornbusch và Frankfurter Berg. 46 khu vực này được gom lại thành 16 quận ("Ortsbezirk"), mỗi quận có một Hội đồng quận ("Ortsbeirat") với một quận trưởng là trưởng hội đồng. Quan cảnh thành phố. Khu phố cổ và khu trung tâm. Cũng như nhiều thành phố lớn khác của Đức, quang cảnh thành phố Frankfurt đã thay đổi toàn bộ sau Chiến tranh thế giới thứ hai vì những thiệt hai nặng nề do bom đạn của cuộc chiến và công cuộc tái xây dựng "hiện đại" sau đó mà nhờ vào đó thành phố có một mạng lưới đường giao thông "phù hợp cho ô tô" và một phố cổ được xây dựng hiện đại nhưng không còn đặc trưng trong trung tâm thành phố. Từ nguyên là một khu phố cổ liên kết lớn nhất Đức hiện nay chỉ còn lại rất ít, trong số hơn 4.000 nhà cổ chỉ có một căn nhà là tồn tại gần như nguyên vẹn, căn nhà Wertheym ở Fahrtor. Phần còn sót lại của khu phố cổ lịch sử nằm chung quanh Römerberg, một trong những quảng trường nổi tiếng nhất của Cộng hòa Liên bang. "Khu phố cổ" chính thức là khu vực phía Nam của Zeil, có ranh giới về phía Tây là Neue Mainzer Strasse (đường Mainz mới), về phía Đông là Fischerfeld. Trong khu phố cổ là Nhà thờ lớn Frankfurt ("Kaiserdom") và Nhà thờ thánh Phaolô ("Frankfurter Paulkirche") nổi tiếng. Trung tâm thành phố ngày nay, được thành lập năm 1333 như là Phố Mới ("Neustadt"), đã trải qua nhiều biến đổi lớn trong đầu thế kỷ 19. Thành lũy bảo vệ thành phố theo kiểu kiến trúc Baroque với những pháo đài lớn bao bọc Phố Cũ và Phố Mới từ thế kỷ 17 bị phá đi, thay vào đó là vành đai công viên (Wallanlage) bao bọc quanh khu phố cổ. Georg Hess, một nhà kế hoạch đô thị, đã đưa ra một tiêu chuẩn quy định hình dáng các kiến trúc mới. Ông yêu cầu là các nhà xây dựng phải tuân theo phong cách của trường phái Cổ điển. Một ví dụ cho trường phái Cổ điển Frankfurt là Thư viện Thành phố cũ, hình thành trong thời gian 1820-1825 và bị tàn phá vào năm 1944, được tái xây dựng như là "Nhà văn học" giống như nguyên thủy. Từ năm 1827 đã được quy định là không được phép xây dựng trên những phần của vành đai công viên đã được biến đổi thành đường đi dạo. Quy định này vẫn còn giá trị cho đến ngày nay mặc dầu là thành phố đã cho phép một vài trường hợp ngoại lệ (Nhà hát Opera Cũ, Kịch Trường, khách sạn Hilton).Cuối thế kỷ 19 Hauptwache phát triển thành trung tâm của thành phố. Zeil trở thành đường phố mua sắm chính. Nhà thờ thánh Katharina ("Katharinenkirche"), được xây dựng trong thời gian 1678-1681 đầu lối vào Zeil, là nhà thờ Tin Lành lớn nhất Frankfurt, có quan hệ mật thiết với gia đình của đại thi hào Goethe. Từ những năm 1950 Frankfurt trở thành thành phố nhà cao tầng. Năm 1960 Tháp Henninge trong khu phố Sachsenhausen là căn nhà Frankfurt đầu tiên vượt qua tháp tây của Nhà thờ lớn Frankfurt về chiều cao (120 mét). Các nhà cao nhất của những năm 1970 (Plaza Büro Center/Khách sạn Marriott, DG-Bank (Ngân hàng Hợp tác xã Đức), Dresdner Bank) là những tòa nhà cao nhất nước Đức với chiều cao tròn 150 m, Tháp Hội chợ (Messeturm) 1990 đạt chiều cao 257 m và đã là tòa nhà cao nhất châu Âu cho đến 7 năm sau đó bị vượt qua bởi tòa nhà cao 300 m là trụ sở chính của Commerzbank. Bên cạnh các nhà cao tầng vẫn còn có thể nhìn thấy các tòa nhà đẹp là chi nhánh của các ngân hàng từ đầu thế kỷ 20. Các nhà thờ vẫn còn có thể nhận ra giữa các nhà văn phòng cao tầng. Thông qua Kế hoạch khung cho nhà cao tầng người ta đã cố gắng tránh việc "mọc hoang dại". Thế nhưng trường hợp ngoại lệ đã và vẫn có thể có ví dụ như việc xây dựng Ngân hàng Trung ương châu Âu ở Ostend. Frankfurt hiện nay đang hoàn thành thay đổi lớn nhất ngoài kế hoạch khung tại con đường mua sắm Zeil. Tại đó, trên công trường xây dựng đắt tiền nhất châu Âu bên cạnh Hauptwache đang thành hình một trung tâm mua sắm hạng sang với một tòa nhà cao tầng trên khu đất nguyên là của Công ty Viễn thông Đức ("Deutsche Telekom"). "FrankfurtHochVier" được tiến hành bởi công ty phát triển dự án Hà Lan MAB. Trong đó lâu đài Thurn và Taxis (được xây dựng trong khoảng thời gian 1727-1741, bị tàn phá năm 1944), sẽ được xây dựng lại tương tự như nguyên thủy và được tích hợp vào trong trung tâm mua sắm hiện đại này. Các khu phố của Thời kỳ Thành lập. Khu vực thành phố bên ngoài vòng trung tâm được mở rộng liên tục và vì thế từ khoảng năm 1830 đã hình thành các khu Frankfurt-Westend, Frankfurt-Nordend và Frankfurt-Ostend. Sau khi xây dựng nhà ga trung tâm Frankfurt (Main), khu nhà ga Frankfurt cũng hình thành trong những năm 1890 trên khu đất của 3 nhà ga phía Tây trước đó nằm cạnh ngay vòng đai công viên về phía Tây. Đặc biệt là 3 khu vực được nhắc đến đầu tiên phát triển trở thành khu dân cư rất nhanh. Công dân thành phố Frankfurt muốn ra nơi có không khí trong lành. Ngày nay chỉ có khoảng 1% dân số sống trong khu vực thành trì ngày xưa. Việc xây dựng được tiến hành dọc theo những đường lớn như "Eschersheimer Landstraße" hay "Bockenheimer Landstraße". Thông thường nhà được xây 4 tầng theo kiểu của thời kỳ Thành lập Wilhelm, các tòa nhà của trường phái Cổ điển phần lớn được san bằng và thay thế. Các khu vực được sáp nhập vào thành phố trong khoảng năm 1890 ví dụ như Frankfurt-Bockenheim và Frankfurt-Bornheim được hòa nhập vào quang cảnh này của thành phố, có thêm đường giao thông mới và kết nối với mạng lưới tàu điện Frankfurt, nhưng đã có thể giữ được đặc tính riêng. Để miêu tả ranh giới của thành phố, một vòng đai giao thông thứ nhì được xây dựng vào đầu thế kỷ 20. Allenring ngày nay trở thành đường vòng đai có mật độ giao thông cao. Bên cạnh công viên vành đai thành phố nhận được thêm nhiều công viên xanh khác trong thế kỷ 19, trong khu Frankfurt-Nordend ví dụ như là công viên Bethmann, công viên Holzhausen và công viên Günthersburg. Về phía Tây trong khu Frankfurt-Westend là công viên Grüneburg, trong khu Frankfurt-Westend là công viên Đông (Ostpark).. Höchst và các khu vực phía ngoài. Kế tiếp theo đó trong những năm 1920 là những khu dân cư lớn của Ernst May bên ngoài Allenring, tượng trưng cho Frankfurt mới: "Römerstadt" ở phía Bắc gần Frankfurt-Heddernheim, khu dân cư rộng lớn "Bormnheimer Hang" ở phía Đông, khu dân cư gần Riedhof và "Heimatsiedlung" ở phía Nam là một vài ví dụ. Vùng đô thị tiếp tục được mở rộng trong năm 1928 thông qua việc sáp nhập. Thành phố Höchst am Main làm giàu cho Frankfurt thêm một khu phố cổ mà ngày nay vẫn còn được duy trì tốt. Tòa nhà lâu đời nhất Frankfurt cũng ở đó, nhà thờ Justinus ("Justinuskirche"). Các lần sáp nhập cuối cùng là vào những năm 1972 và 1978 ở phía Tây-Bắc. Các khu vực này tất nhiên là có ít điểm chung nhất với vùng trung tâm Frankfurt. Lịch sử. Frankfurt am Main được nhắc đến lần đầu tiên vào ngày 22 tháng 2 năm 794 trong một văn kiện của vua Charlemagne ("Karl der Große") gửi đến Tu viện Sankt Emmeram ở Regensburg. Trong văn kiện viết bằng tiếng La Tinh này có ghi là: "...actum super fluvium Moin in loco nuncupante Franconofurd" (...cấp ở sông Main tại một nơi được gọi là Frankfurt). Thật ra việc dân cư liên tục đến khu đồi này từ thời kỳ Đồ Đá mới đã được chứng minh. Cũng tại nơi này sau đó đã hình thành một doanh trại quân sự La Mã cổ xưa và trong triều đại Merowinger là triều đình của vua Vương quốc Frank. Vào năm 843, Frankfurt có thời gian đã trở thành nơi ngự trị quan trọng nhất của các vua thuộc vương quốc Frank Đông và là nơi tổ chức Hội nghị Đế chế ("Reichstag") của Đế quốc La Mã Thần thánh. Vào năm 1220, Frankfurt trở thành thành phố đế chế tự do ("Freie Reichsstadt"). Vào năm 1356, Sắc lệnh vàng (tiếng Ta tinh: "aurea bulla") tuyên bố Frankfurt trở thành nơi bầu cử chính thức của các vị vua của người La Mã sau khi một số cuộc bầu cử nhà vua đã được tiến hành tại đây. Bắt đầu từ năm 1562 các vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh cũng được làm lễ đăng quan tại đây, mà vị Hoàng đế cuối cùng là Franz II của Vương triều Habsburg. Vào thế kỷ 18, thành phố Frankfurt am Main là quê hương của đại thi hào Đức Johann Wolfgang von Goethe. Sau khi Đế quốc La Mã Thần thánh bị tan rã, Frankfurt gia nhập Liên minh Rhein và trở thành kinh đô của Đại Công quốc Frankfurt ngắn ngủi (1810-1813) dưới thời của hầu tước Karl Theodor von Dalberg. Sau đó Frankfurt trở thành thành phố tự do, lần này thì trong Liên minh Đức. Quốc hội liên bang (Liên minh Đức) được tổ chức tại thành phố này. Vào năm 1848 trong các quốc gia Đức xảy ra cuộc Cách mạng tháng 3. Đại hội Quốc gia Frankfurt được triệu tập đã họp trong Nhà thờ Thánh Phaolô (Frankfurt). Trong cuộc chiến tranh Phổ-Áo 1866 Frankfurt trung thành với liên minh. Ý kiến công chúng nghiên về phía của Áo và hoàng đế nhiều hơn mặc dầu tại Frankfurt cũng đã có nhiều ý kiến kêu gọi cho một liên minh tự nguyện với vương quốc Phổ vì những lý do kinh tế và ngoại giao. Vào ngày 18 tháng 7 thành phố bị đạo quân Rhein của Phổ chiếm đóng và phải chịu trả tiền đền bù chiến tranh nặng nề. Ngày 2 tháng 10 nước Phổ chính thức chiếm cứ thành phố và vì thế mà thành phố cuối cùng đã mất đi thể chế như là một nhà nước độc lập của mình. Frankfurt được chia về cho quận Wiesbaden của tỉnh Hessen-Nassau. Việc xâm chiếm này thật ra đã có lợi cho sự phát triển kinh tế của thành phố để trở thành một trung tâm công nghiệp với dân cư tăng trưởng nhanh chóng. Frankfurt sáp nhập nhiều địa phương lân cận trong những thập niên tiếp theo và mở rộng diện tích thành gấp hai lần so với thời gian trước năm 1866. Đầu thế kỷ 20 Frankfurt vì thế là thành phố có diện tích lớn nhất của Đức trong một thời gian ngắn. Trong thời gian của Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia 9.000 người Do Thái từ Frankfurt đã bị chở đi trại tập trung. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai các cuộc bỏ bom của quân đội đồng minh đã phá hủy gần như toàn bộ khu phố cổ và khu phố trung tâm. Nhưng quang cảnh thành phố mà cho đến năm 1944 là gần như vẫn thuộc về thời kỳ Trung cổ - ngay từ thời gian đấy đã là độc nhất vô nhị cho một thành phố lớn của Đức – cũng đã bị mất đi trong thời kỳ xây dựng hiện đại. Nhiều phần rộng lớn của khu phố cổ ngày xưa mang quang cảnh của những công trình xây dựng bê tông từ những năm 50, tại những nơi mà ngày xưa là một hệ thống nhằng nhịt những đường phố nhỏ giữa những ngôi nhà cổ đứng sát cạnh nhau. Sau khi chiến tranh chấm dứt quân đội Mỹ đặt trụ sở chính tại Frankfurt. Tiếp theo đó Frankfurt trở thành trụ sở hành chánh cho ba vùng do quân đội Mỹ, Anh và Pháp chiếm đóng. Trong cuộc bầu cử chọn thủ đô liên bang, Frankfurt đã thất bại sít sao trước Bonn là thành phố được ưa chuộng của Konrad Adenauer. Một tòa nhà quốc hội đã được xây dựng ở Frankfurt và ngày nay là trụ sở của Đài truyền thanh Hessen. Trong thời gian sau chiến tranh thành phố đã phát triển trở thành một vùng đô thị kinh tế và trở thành trụ sở của Ngân hàng Trung ương châu Âu năm 1999. Tôn giáo. Là một thành phố có nhiều dân tộc và văn hóa, Franfurt có nhiều nhóm tôn giáo khác nhau mà trong đó không phải là tất cả đã đăng ký công khai. Các tôn giáo chính có truyền thống ở Frankfurt là đạo Tin Lành Luther và đạo Do Thái. Mặc dầu thành phố đế chế tự do này đã tham gia phong trào Cải cách vào năm 1522 nhưng do quan hệ mật thiết với hoàng đế (công giáo) nên giáo khu Công giáo vẫn có hoàn toàn tự do tín ngưỡng. Giáo khu đã dùng Nhà thờ lớn Frankfurt như là nhà thờ xứ đạo. Năm 1786 giáo khu Cải cách cũng được cho phép. Nhờ vào cuộc di dân rộng lớn trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20, con số những người theo Công giáo đã lại gần bằng những người theo đạo Tin Lành. Xứ đạo Do Thái Frankfurt với khoảng 7.200 thành viên là một trong 4 xứ đạo lớn trong nước Đức bên cạnh xứ đạo tại Berlin. Chính trị. Trong thời gian hiện nay một liên minh bốn bên (CDU, SPD, Đảng Xanh và FDP) đang cầm quyền tại Frankfurt. Đề tài thời sự mà ủy ban hành chánh thành phố và các nghị sĩ thành phố đang quan tâm ngoài những đề tài khác là việc xây dựng mở rộng Cảng hàng không Rhein-Main sắp được tiến hành hay cái gọi là Kế hoạch khung cho nhà cao tầng. Frankfurt kết nghĩa với các thành phố sau đây: Hiệp định hữu nghị được ký kết với các thành phố sau đây: Kinh tế và hạ tầng cơ sở. Theo một danh sách xếp hạng của trường Đại học Tổng hợp Liverpool Frankfurt có thể là thành phố giàu nhất châu Âu (theo tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người), tiếp theo sau đó là Karlsruhe, Paris và München. Với 922 việc làm trên 1.000 người dân cư Frankfurt có mật độ việc làm cao nhất Đức. Con số khoảng 600.000 việc làm với chỉ khoảng 650.000 dân số xuất phát từ những người hằng ngày từ bên ngoài vào thành phố Frankfurt để làm việc, vì thế mà tổng sản phẩm quốc nội của dân cư tại chỗ được nâng cao rất nhiều. Do đó thật ra chỉ vào lúc ban ngày thì mới có thể gọi Frankfurt là thành phố có hơn 1 triệu dân, mặt khác sự giàu có theo thống kê nói trên có thể nhìn thấy tại các thành phố và làng mạc lân cận như Bad Homburg, Königsstein hay Kronberg hưởng lợi nhờ vào tiền thuế đóng góp của những người có việc làm tại Frankfurt. Chính thành phố Frankfurt là thành phố có nợ trên đầu người cao nhất Đức (không kể các thành phố đồng thời cũng là một tiểu bang) do chính sách xây dựng công cộng rộng rãi trong những năm của thập niên 1980 dưới thời của các thị trưởng thuộc CDU là Walter Wallmann và Wolfram Brück. Trong một danh sách xếp hạng thành phố lớn với chất lượng sống cao nhất, Frankfurt đứng thứ năm trên toàn thế giới. Mặc dầu vậy năm 2003 thành phố đã có tội phạm hình sự cao nhất Đức. Thế nhưng thống kê này bị bóp méo vì trong thời điểm ban ngày Frankfurt là một thành phố có hơn 1 triệu dân do có nhiều người vào thành phố để làm việc nhưng tỷ lệ tội phạm hình sự chỉ được tính với dân số là 650.000 người. Thêm vào đó toàn bộ vi phạm tại phi trường (Ví dụ như buôn lậu) cũng được mang vào thống kê này. Giao thông. Nhờ vào vị trí trung tâm mà thành phố Frankfurt am Main là một trong những đầu mối giao thông quan trọng nhất trong châu Âu. Về một mặt, xa lộ liên bang số 5 (A 5) và xa lộ liên bang số 3 (A 3) giao nhau tại Ngã tư xa lộ Frankfurt ("Frankfurter Kreuz"), là ngã tư xa lộ có lượng lưu thông xe nhiều nhất châu Âu, về mặt khác thành phố có Cảng hàng không Frankfurt, một trong những phi trường lớn nhất thế giới với 52,9 triệu lượt khách hàng không trong năm 2005. Về giao thông đường sắt, với nhà ga trung tâm Frankfurt (Main) thành phố cũng có nhà ga lớn nhất châu Âu tính theo lượt hành khách (khoảng 350.000 lượt hành khách hằng ngày). Thế nhưng tầm quan trọng về vận tải hàng hóa trên đường sắt lại giảm đi: trong 2 nhà ga hàng hóa thì chỉ có nhà ga nhỏ hơn là còn hoạt động trong khi nhà ga lớn đã ngưng hoạt động và một phần khu đất này được sử dụng bởi Hội chợ Frankfurt. Trong giao thông đường thủy Frankfurt được kết nối với những vùng công nghiệp quan trọng trong Nordrhein-Westfalen và Hà Lan bằng sông Rhein và được liên kết với tây nam của Trung Âu bằng Kênh đào Main-Donau. Giao thông trong thành phố và vùng phụ cận bao gồm mạng lưới tàu nhanh Rhein-Main (S-Bahn), tàu điện ngầm Frankfurt, tàu điện Frankfurt, xe buýt và nhiều đường tàu hỏa ngoại ô và khu vực. Có thể đến nhà ga trung tâm Frankfurt bằng tất cả các tuyến tàu nhanh, gần như toàn bộ các tuyến tàu điện và bằng 2 tuyến trong số 7 tuyến đường tàu điện ngầm. Các điểm giao thông quan trọng khác là Hauptwache, nơi 8 tuyến tàu nhanh và 5 tuyến tàu điện ngầm giao nhau, và Konstablerwache (8 tuyến tàu nhanh, 4 tàu điện ngầm và 1 tàu điện). Đây là hai bến tàu nằm dưới con đường mua sắm Zeil. Hội chợ. Hội chợ thương mại có một truyền thống lâu đời tại Frankfurt. Theo những nhận biết mới nhất, với Hội chợ Frankfurt thành phố Frankfurt là thành phố hội chợ đầu tiên của thế giới. Ngay từ thời kỳ Trung cổ những người chuyên mua bán hàng hóa từ thành phố này sang thành phố khác đã có thể chào mời hàng của họ tại đây. Frankfurt được kết nối với Leipzig, địa điểm hội chợ lớn thứ nhì trong Thánh chế La Mã dân tộc Đức (Hội chợ Leipzig), bằng con đường Via Regia. Các hội chợ quan trọng ở Frankfurt là Hội chợ sách Frankfurt, Triển lãm Ô tô Quốc tế (IAA), Achema và Ambiente Frankfurt, là hội chợ hàng tiêu dùng lớn nhất thế giới. Doanh nghiệp. Trái với quan niệm phổ biến, tại Frankfurt không những chỉ có doanh nghiệp tài chính. Gần như không ở trong thành phố Đức nào khác lại có nhiều doanh nghiệp hàng đầu trên quốc tế từ nhiều ngành khác nhau như ở Frankfurt, ngoài những doanh nghiệp khác là các tập đoàn hóa học, công ty quảng cáo, doanh nghiệp phần mềm và Call-Center. Bộ phận phát triển và nhiều bộ phận quan trọng khác của Công ty Đường sắt Đức ("Deutsche Bahn") nằm trong trung tâm của công ty tại Gallus. Nhờ vào Hoechst AG, thành phố Frankfurt nhiều năm đã là "nhà thuốc thế giới". Khu công nghiệp Höchst là một trong 3 địa điểm lớn nhất của công nghiệp dược phẩm và hóa. Nhiều hiệp hội như Hiệp hội công nghiệp hóa học (Đức), Hiệp hội chế tạo máy và thiết bị Đức, Hiệp hội kỹ thuật điện và công nghệ thông tin cùng với Ủy ban tiêu chuẩn kỹ thuật điện tử và Hiệp hội doanh nghiệp sản xuất ô tô Đức. Thêm vào đó, Hiệp hội thương mại sách Đức là hiệp hội tổ chức Hội chợ sách Frankfurt cũng có trụ sở tại Frankfurt. Phía người lao động được đại diện tại Frankfurt với trụ sở chính của các công đoàn IG Metall và IG BAU. Nhưng đặc biệt Frankfurt am Main là một trung tâm tài chính và chứng khoán được biết đến trên toàn thế giới. Trong khu vực trung tâm Frankfurt là trụ sở chính của ba trong số các ngân hàng lớn nhất Đức: Deutsche Bank AG, Commerzbank AG và Dresdner Bank AG. Thêm vào đó là nhiều ngân hàng tư nhân quan trọng cũng có trụ sở tại Frankfurt như Bankhaus Metzler, Hauck & Aufhäuser Privatbankiers, Delbrück-Bethmann-Maffei, BHF Bank, DZ BANK, Deka, Frankfurter Sparkasse von 1822 và Ngân hàng bang Hessen-Thüringen. Phần lớn trong số gần 300 ngân hàng khác không phải là doanh nghiệp nội địa. Frankfurt là thị trường cổ phiếu lớn thứ nhì châu Âu với thị trường chứng khoán Frankfurt và hệ thống giao dịch điện tử XETRA do Deutsche Börse AG vận hành. Công sở và tổ chức nhà nước. Bên cạnh Ngân hàng Liên bang Đức, ngân hàng KfW và Ngân hàng Trung ương châu Âu, văn phòng của Công ty Tài chính Quốc tế ("International Finance Corporation") tại Đức cũng đặt trụ sở tại Frankfurt. Ngoài ra Frankfurt là trụ sở của Thư viện Đức, của Tòa trung thẩm Hessen cũng như là của Tòa án Lao động Hessen và có Sở chỉ huy cảnh sát riêng. Frankfurt là nơi đặt trụ sở của 88 lãnh sự. Chỉ có New York và Hamburg là có nhiều đại diện ngoại giao hơn mà không phải là thủ đô của một nước. Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Frankfurt-Eckenheim là tổng lãnh sự Mỹ lớn nhất trên thế giới. Truyền thông đại chúng. Frankfurt, một trong những thành phố báo chí lâu đời nhất thế giới, là nơi đặt trụ sở của hai tờ nhật báo phát hành trên toàn nước Đức có khuynh hướng chính trị khác nhau: Frankfurter Allgemeine Zeitung tự do bảo thủ và Frankfurter Rundschau tự do cánh tả. Ngoài ra được phát hành tại Frankfurt là tờ báo địa phương (bảo thủ) Frankfurter Neue Presse. Bên cạnh các nhật báo, trong giới truyền thông đại chúng tại Frankfurt còn có một vài tạp chí đáng chú ý. Journal Frankfurt là tờ báo nổi tiếng nhất thành phố về các buổi biểu diễn, lễ hội và những cái gọi là "insider tipps". Nhà xuất bản Öko-Test trong Frankfurt-Bockenheim chuyên về các tạp chí chung quanh đề tài sinh thái học mà được biết nhiều nhất là tờ tạp chí có cùng tên. Cũng ở tại Frankfurt-Bockenheim là tòa soạn của tạp chí trào phúng Titanic. Đài truyền thanh lâu đời nhất Frankfurt là đài tư nhân Südwestdeutsche Rundfunkdienst AG được thành lập năm 1924, tiền thân của đài truyền hình và phát thanh nhà nước Hessische Rundfunk ngày nay. Tập đoàn truyền thông Mỹ Bloomberg TV cũng có studio trong trung tâm thành phố. Nhiều đài phát thanh phát sóng từ Frankfurt, ví dụ như Main FM, Radio X và Hit Radio FFH. Trụ sở thông tấn xã Reuters tại Đức cũng đặt tại Frankfurt. Đào tạo và nghiên cứu. Tại Frankfurt có nhiều trường đại học và đại học thực hành ("Fachhochschule"). Trường đại học nổi tiếng nhất và lâu đời nhất của thành phố là Trường Đại học Tổng hợp Johann Wolfgang Goethe được thành lập năm 1914 với 4 cơ sở tại Frankfurt-Bockheim, Frankfurt-Westend, Frankfurt-Riedberg và Bệnh viện trường Đại học Frankfurt. Bên cạnh đó có trường Hfb – Business School of Finance & Management, nguyên là Trường Đại học Kinh tế Ngân hàng. Trong lãnh vực nghệ thuật Frankfurt một mặt có Trường Đại học Quốc gia về Nghệ thuật tạo hình ("Staatliche Hochschule für bildende Künste"), do Johann Friedrich Städel thành lập năm 1817, về mặt khác là Trường Đại học Âm nhạc và Nghệ thuật biểu diễn Frankfurt am Main ("Hochschule für Musik und Darstellende Kunst Frankfurt am Main"). Trường Đại học thực hành Frankfurt am Main, được thành lập năm 1971 từ nhiều cơ sở khác nhau, có nhiều ngành học với trọng điểm trong các bộ môn về kinh tế và kỹ thuật ứng dụng. Ngoài ra trong thành phố còn có các Viện Max Planck về Lịch sử luật pháp châu Âu, lý sinh học và nghiên cứu não ("brain research"). Có quan hệ mật thiết với Trường Đại học Tổng hợp là "Frankfurt Institute for Advanced Studies", một cơ sở liên ngành nghiên cứu lý thuyết cơ sở trong vật lý, hóa học, sinh học, thần kinh học và tin học, được tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau. Thắng cảnh. Phố cổ. Ba trong số những thắng cảnh quan trọng nhất của thành phố nằm trong Khu phố cổ Frankfurt: Nhà thờ lớn Frankfurt, quảng trường Römerberg và Nhà thờ thánh Phaolô ("Frankfurter Paulskirche") Nhà thờ lớn ("Kaiserdom St. Bartholomäus") với ngọn tháp phía tây thuộc thời Hậu Gothic đã là nơi bầu và thăng quan của hoàng đế Đức. Dẫn từ Nhà thờ lớn đến quảng trường Römerberg là "Königsweg" (hoàng lộ), đoạn đường của hoàng đế vừa thăng quang đi đến tiệc mừng trong tòa nhà đô chính ngày nay. Trước Nhà thờ lớn Frankfurt là Vườn lịch sử ("Historische Garten") với các khai quật khảo cổ thời La Mã và triều đại Franken. Quảng trường Römerberg là quảng trường trung tâm của khu phố cổ với tòa nhà đô chính (Römer) từ thế kỷ 14, Nhà thờ thánh Nicholas cũ ("Alte Nikolaikirche") thuộc đầu thời kỳ kiến trúc Gotic và loạt nhà về phía Đông của quảng trường được tái xây dựng lại sau khi bị tàn phá trong chiến tranh. Giữa Römerberg và Zeil là Nhà thờ Đức Mẹ được xây dựng trong thế kỷ 14. Nhà thờ thánh Phaolô là một công trình xây dựng theo lối kiến trúc Cổ điển, được khánh thành vào năm 1789, đã là nơi tụ họp của Hội nghị Quốc gia 1848/1849. Quảng trường trước nhà thờ là một nơi sống động với nhiều quán cà phê. Bờ sông Main và cầu sông Main. Cả hai bờ sông Main ngày càng phát triển trở thành không gian hấp dẫn nhất của thành phố, điều này một phần cũng nhờ vào đóng góp của dự án "Bờ sông bảo tàng", việc thiết kế lại bờ sông và các cầu qua sông Main có kiến trúc đẹp. Chiếc Cầu cũ ("Alte Brücke") được nhắc đến lầu đầu tiên trong văn kiện vào năm 1222 và hằng trăm năm đã từng là công trình xây dựng quan trọng nhất của thành phố. "Eiserner Steg", một cây cầu sắt dành cho người đi bộ được khánh thành vào năm 1869 là một trong những biểu tượng của thành phố Frankfurt. Nhà cao tầng. Bên cạnh Mátxcơva và Luân Đôn, Frankfurt là thành phố châu Âu có nhiều nhà cao tầng ngay trong trung tâm thành phố. Nổi tiếng là Tháp Hội chợ ("Messeturm"), Commerzbank-Tower là tòa nhà chọc trời cao thứ nhì châu Âu hiện nay, các tòa nhà là trụ sở chính của Dresdner Bank (Silver Tower), của Deutsche Bank hay của Ngân hàng Trung tâm châu Âu. Tòa nhà cao tầng duy nhất mà công chúng có thể vào tự do là Maintower với chỗ nhìn toàn cảnh ở độ cao 200 m. Sachsenhausen. Khu phố Frankfurt-Sachsenhausen, được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 1192, trên bờ Nam sông Main là một khu phố vui chơi và có nhiều quán được ưa thích mà trong đó vẫn còn một vài quán bán rượu vang táo ("Apfelwein") có truyền thống và một phần là cũng rất lâu đời. Công trình xây dựng lớn ở bờ sông Main của khu phố này là Nhà thờ ba Vua ("Dreikönigskirche"), ngoài ra là Tháp Goethe ("Goetheturm"), một trong những công trình xây dựng bằng gỗ cao nhất Đức. Nhà ga trung tâm và khu nhà ga. Nhà ga trung tâm Frankfurt, khánh thành năm 1888, là nhà ga lớn nhất châu Âu tính theo số lượng đường ray và khách đi tàu. Khu nhà ga Frankfurt là nơi hòa hợp của các nền văn hóa khác nhau. Tại đây có một sự pha trộn đặc biệt của rất nhiều cửa hàng và quán ăn nhiều loại khác nhau từ nhiều vùng văn hóa khác nhau. Khu nhà ga Frankfurt sống động suốt 24 tiếng trong ngày không những chỉ vì khu phố đèn đỏ của những người mại dâm. Khu phố nhà ga này cũng có thể được coi là ví dụ điển hình cho những mâu thuẫn thành thị của một thành phố là nơi đến có tính quốc tế. Người ăn xin, nghiện rượu và nghiện ma túy hiện diện tại đó bên cạnh dòng người đi vào thành phố làm việc cũng như là bên cạnh những nhân viên ngân hàng trong bộ vét tông sang trọng, khách hội chợ quốc tế và khách du lịch. "Kaiserstraße", đường mà du khách nhìn thấy khi đứng ngay trước cổng chính của nhà ga trung tâm, là một đại lộ thành phố mà trên đó có thể quan sát được sự giàu có, khốn khổ, mua bán đa văn hóa, nhà ngân hàng cao tầng và mại dâm trong các nhà cũ của Thời kỳ Thành lập đứng ngay bên cạnh nhau. Văn hóa. Viện bảo tàng. Thành phố có một chương trình văn hóa đa dạng, trong đó là một hệ thống viện bảo tàng với hơn 60 viện bảo tàng lớn nhỏ và nhiều nhà triển lãm ở hai bên bờ sông Main. Trên bờ sông Main thuộc về khu Sachsenhausen là các viện triển lãm Städel (tranh), Liebieghaus (tượng), Viện Bảo tàng Viễn thông, Viện Bảo tàng Kiến trúc Đức, Viện Bảo tàng Phim Đức, Viện Bảo tàng Văn hóa thế giới và Viện Bảo tàng Nghệ thuật ứng dụng Frankfurt. Lễ hội Bảo tàng (Frankfurt) ("Museumsuferfest") được tổ chức hằng năm trên bờ sông. Trên bờ sông Main của khu phố cổ là Viện Bảo tàng Do thái Frankfurt, Viện bảo tàng khảo cổ trong Tu viện dòng Camelite, Viện Bảo tàng Lịch sử Frankfurt (lịch sử thành phố), nhà triển lãm Kunsthalle Schirn và Viện Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại nổi tiếng thế giới. Ngoài ra trong khu Frankfurt-Westend còn có Viện Bảo tàng Tự nhiên Senckenberg, trong đó ngoài những hiện vật khác là các khai quật hóa thạch. Trong Frankfurt-Nordend là EXPLORA, một viện bảo tàng về các ảo ảnh. Nhà hát opera, nhà hòa nhạc và sân khấu. Bên cạnh nhiền viện bảo tàng, Frankfurt có một nhà hát opera, Nhà hát opera và kịch nghệ Frankfurt ("Opern- und Schauspielhaus Frankfurt") ngày nay thuộc về một trong những nhà hát hàng đầu thế giới và đã nhiều lần được trao tặng giải thưởng Nhà hát opera trong năm. Nhà hát opera cũ ("Alte Oper"), khánh thành năm 1881 đã bị tàn phá trong Chiến tranh thế giới thứ hai và được tái khánh thành vào năm 1981 như nhà hòa nhạc. Nhà hát opera cũ có một trong những gian phòng hòa nhạc đẹp nhất trên thế giới và ngày nay có tầm quan trọng như là một trong những viện bảo tàng âm nhạc tại châu Âu. Các nhà hòa nhạc quan trọng khác là Hội trường thế kỷ ("Jahrhunderhalle") tại Frankfurt-Unterliederbach và "Festhalle" tại Frankfurt-Bockenheim. Frankfurt có một nhà hát đặc biệt dành cho trẻ em, đó là nhà hát múa rối Klappmaul. Hội chợ sách. Hội chợ sách Frankfurt với đỉnh cao là buổi trao Giải thưởng Hòa bình của Hiệp hội Thương mại sách Đức trong nhà thờ thánh Pha lô được tổ chức từ thế kỷ 15 là một sự kiện quan trọng không chỉ về kinh tế (hội chợ sách lớn nhất thế giới) mà còn là một sự kiện văn hóa quan trọng. Lễ hội. Thuộc vào trong những lễ hội quan trọng nhất là Dippemess, được tổ chức mỗi năm 2 lần, một lần trong mùa xuân, thông thường là từ tháng 4 đến tháng 5 và thêm một lần nữa trong mùa thu, chính xác hơn là trong tháng 9. Cũng nổi tiếng là Wäldchentag, bao giờ cũng được tổ chức vào ngày thứ Ba sau Lễ Hiện Xuống trong khu rừng thành phố của Frankfurt. Lễ hội âm nhạc Sound of Frankfurt hằng năm cũng rất được ưa thích đặc biệt là những người trẻ tuổi. Năm 2003 buổi biểu diễn âm nhạc ngoài trời này đã đạt kỷ lục mới với 500.000 người đến dự. Một sự kiện đặc biệt tại Frankfurt là Lễ hội bảo tàng (Museumsuferfest). Với cách pha trộn đặc biệt từ âm nhạc và văn hóa lễ hội đã thu hút cho đến 3 triệu người yêu thích văn hóa hằng năm trong mùa Thu vào những cuối tuần. Thêm vào đó "Đêm viện bảo tàng" và "Đêm của Clubs" cũng được ưa thích. Cộng với những lễ hội đã kể trên còn có các lễ hội riêng của từng khu vực của thành phố như Lễ hội lâu đài Höchst. Trong những năm 2003, 2004 và 2005 Down-Sportlerfrestival, lễ hội của các nhà thể thao mang Hội chứng Down được tổ chức tại Frankfurt. Năm 2006 lễ hội cũng được dự tính sẽ tổ chức tại Frankfurt (ngày 13 tháng 5 năm 2006). Thể thao. Frankfurt am Main là quê hương của nhiều hội thể thao có tiếng: Các sự kiện thể thao quan trọng được tổ chức hằng năm bao gồm Các sân vận động quan trọng nhất của thành phố là: Ngoài ra tại Frankfurt là trụ sở của các hiệp hội thể thao quan trọng nhất:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Sinh lý học (, ; ) là một bộ môn khoa học nghiên cứu về các chức năng và cơ chế trong một cơ thể sống. Là một phân ngành của sinh học, sinh lý học chú trọng vào cách những sinh vật, hệ cơ quan, cơ quan, tế bào và phân tử sinh học của cá thế thực hiện các chức năng hóa học và vật lý trong một cơ thể sống. Dựa theo các lớp sinh vật, bộ môn có thể được chia làm sinh lý y khoa, sinh lý học động vật, sinh lý học thực vật, sinh lý học tế bào và sinh lý học so sánh. Trọng tâm của chức năng sinh lý học là những quá trình lý sinh và hóa sinh, cơ chế kiểm soát cân bằng nội môi và tín hiệu giữa các tế bào. "Tình trạng sinh lý" là tình trạng chức năng thông thường, trong khi "tình trạng bênh lý" là những tình trạng bất thường, trong đó có bệnh tật ở người. Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học được Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển trao tặng cho những thành tựu khoa học xuất sắc trong sinh lý học liên quan đến y học. Nền tảng. Tế bào. Mặc dù có những điểm khác biệt giữa tế bào của động vật, thực vật và vi khuẩn, những chức năng sinh lý học cơ bản của tế bào có thể được chia thành các quá trình phân bào, tín hiệu tế bào, tăng sinh tế bào và trao đổi tế bào. Thực vật. Sinh lý học thực vật là một phân ngành của thực vật học liên quan đến chức năng của thực vật. Những bộ môn liên quan mật thiết gồm có hình thái học thực vật, sinh thái học thực vật, hóa thực vật học, sinh học tế bào, di truyền học, lý sinh học và sinh học phân tử. Những quá trình cơ bản của sinh lý học thực vật gồm có quang hợp, hô hấp, dinh dưỡng thực vật, hướng động, ứng động, quang chu kỳ, phát sinh hình thái học, nhịp điệu sinh học, nảy mầm, tình trạng ngủ, chức năng khí khổng và thoát hơi nước. Hút nước qua rễ, sản xuất thức ăn trong lá và sự phát triển của chồi hướng sáng là những ví dụ về sinh lý học thực vật. Động vật. Người. Sinh lý học con người ra đời nhằm tìm hiểu cơ chế giúp cho cơ thể người vận hành và tồn tại, thông qua nghiên cứu khoa học về bản chất của các chức năng cơ học, vật lý và hóa sinh của người, cơ quan của họ, và tế bào được cấu thành từ chúng. Mức độ chú trọng chính của sinh lý học nằm ở mức độ của các cơ quan và hệ thống. Hệ thống thần kinh và nột tiết giữ vai trò chính trong việc tiếp nhận và truyền tín hiệu, gắn thành chức năng ở động vật. Cân bằng nội môi là khía cạnh chính liên quan đến những tương tác kể trên trong thực vật cũng như động vật. Cơ sở sinh học của nghiên cứu sinh lý học, hòa nhập là để chỉ nhiều chức năng chồng chéo trong các hệ thống của cơ thể người, cũng như hình dạng của chúng. Cơ sở ấy có được thông qua liên lạc xảy ra bằng nhiều cách, cả theo điện học và hóa học. Những thay đổi trong sinh lý học có thể tác động tới chức năng tinh thần của các cá nhân. Những ví dụ có thể kể tới tác động của một số loại thuốc hoặc độ độc của các chất. Những thay đổi về mặt hành vi do những chất trên gây ra thường được dùng để đánh giá sức khỏe của các cá nhân. Phần lớn kiến thức cốt lõi của sinh lý học người được bổ sung thêm bằng thử nghiệm động vật. Do mối liên hệ thường trực giữa hình thái và chức năng, sinh lý học và giải phẫu học có quan hệ mật thiết và được nghiên cứu song song như một phần của chương trình giảng dạy y khoa. Sinh lý học so sánh. Liên quan tới sinh lý học tiến hóa và sinh lý học môi trường, sinh lý học so sánh xem xét tính đa dạng về các đặc điểm chức năng giữa các sinh vật. Lịch sử. Thời cổ đại. Nghiên cứu sinh lý học dưới dạng lĩnh vực y khoa bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại, ở thời Hippocrates (cuối thế kỷ 5 TCN). Ngoài truyền thống ở phương Tây, những hình thức đầu tiên của sinh lý học hay giải phẫu học có thể được manh nha cùng khoảng thời gian kể trên ở Trung Quốc, Ấn Độ và một số nơi khác. Hippocrates đưa ra học thuyết thể dịch, chứa 4 nguyên tố cơ bản: đất, nước, không khí và lửa. Mỗi nguyên tố được biết đến là mang thể dịch tương ứng: mật đen, đờm, máu và mật vàng. Hippocrates còn lưu ý một số kết nối cảm xúc tới 4 thể dịch, về sau được Galen mở rộng thêm. Tư duy phê phán của Aristotle và việc ông nhấn mạnh vào quan hệ giữa cấu trúc và chức năng đã đánh dấu bước khởi đầu của sinh lý học ở thời Hy Lạp cổ đại. Như Hippocrates, Aristotle lấy thuyết thể dịch về bệnh tật, cũng chứa 4 loại chính trong sự sống: nóng, lạnh, ước và khô. Galen (sống khoảng năm 130–200 SCN) là người đầu tiên sử dụng các thí nghiệm để thăm dò chức năng của cơ thể. Không như Hippocrates, Galen luận định rằng sự mất cân bằng thể dịch có thể nằm ở các cơ quan cụ thể, tức gồm toàn bộ cơ thể. Việc ông chỉnh sửa học thuyết đã giúp các bác sĩ trang bị tốt hơn để chẩn đoán bệnh. Galen cũng bác bỏ luận điểm của Hippocrates cho rằng cảm xúc cũng tương thích với thể dịch, và thêm khái niệm tính khí: lạc quan tương ứng với máu; lạnh lùng tương ứng với đờm; mật vàng tương ứng với nóng tính; và mật đen tương ứng với sầu muộn. Galen còn chỉ ra cơ thể người gồm có ba hệ thống kết nối: não và dây thần kinh (chịu trách nhiệm cho suy nghĩ và cảm giác); trái tim và động mạch (cung cấp sự sống); gan và tĩnh mạch (có thể hỗ trợ dinh dưỡng và sinh trưởng). Galen cũng là người sáng lập môn sinh lý học thực nghiệm. Và trong hơn 1.400 năm sau, sinh lý học của Galen vẫn là một công cụ mạnh mẽ và giàu sức ảnh hưởng trong y học. Thời cận đại. Bác sĩ người Pháp Jean Fernel (1497–1558) là người trình làng thuật ngữ "sinh lý học" ("physiology"). Galen, Ibn al-Nafis, Michael Servetus, Realdo Colombo, Amato Lusitano và William Harvey được ghi công với những phát hiện quan trọng trong tuần hoàn máu. Santorio Santorio ở những năm 1610 là người đầu tiên sử dụng một thiết bị để đo đạc mạch và một nhiệt nghiệm để đo tính khí. Năm 1791, Luigi Galvani miêu tả vai trò của điện trong dây thần kinh của trong cơ thể bị mổ xẻ của ếch. Năm 1811, César Julien Jean Legallois nghiên cứu hô hấp trong mẫu mổ xẻ và thương tổn của động vật, rồi phát hiện trung tâm của hô hấp nằm ở hành não. Cùng năm ấy, Charles Bell hoàn thành công trình nghiên cứu về sau còn được biết tới là luật Bell-Magendie, tức so sánh những khác biệt về chức năng giữa rễ lưng và rễ bụng của tủy sống. Năm 1824, François Magendie miêu tả các rễ cảm giác và trình ra bằng chứng đầu tiên về vai trò của tiểu não trong nhận thức thăng bằng để hoàn thiện luật Bell-Magendie. Ở thập niên 1820, nhà sinh lý học người Pháp Henri Milne-Edwards trình ra khái niệm về phân công lao động trong sinh lý, tức cho phép "so sánh và nghiên cứu vật thể sống nếu chúng là những cỗ máy được tạo ra bởi ngành công nghiệp của con người." Lấy cảm hứng từ Adam Smith, Milne-Edwards viết rằng: "cơ thể của mọi sinh vật sống, bất kể là động vật hay thực vật, đều như một nhà máy ... nơi các cơ quan (tương tự như công nhân) làm việc không ngừng nghỉ nhằm tạo ra hiện tượng mà cấu thành nên sự sống của cá thể." Ở những sinh vật khác biệt hơn, chức năng lao động có thể được phân bố giữa các phương tiện hoặc hệ thống khác nhau (mà ông gọi là "appareils"). Năm 1858, Joseph Lister nghiên cứu nguyên nhân gây đông máu và viêm nhiễm sau những chấn thương và vết thương hậu phẫu thuật trước đó. Sau đó ông phát hiện ra và sử dụng thuốc sát trùng trong phòng phẫu thuật, do đó về sau tỷ lệ tử vong vì phẫu thuật đã giảm đáng kể. Hiệp hội sinh lý học được thành lập tại Luân Đôn vào năm 1876 dưới dạng một câu lạc bộ ẩm thực. Hiệp hội Sinh lý Mỹ (APS) là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập vào năm 1887. Phương châm của tổ chức là: "thúc đẩy giáo dục, nghiên cứu khoa học và phổ biến thông tin trong môn khoa học sinh lý." Năm 1891, Ivan Pavlov tiến hành nghiên cứu về "phản ứng có điều kiện" liên quan tới việc tiết nước bọt của chó lúc phản ứng với tiếng chuông và kích thích thị giác. Ở thế kỷ 19, vốn kiến thức về sinh lý bắt đầu tích lũy với tốc độ chóng mặt, đặc biệt là với sự xuất hiện của học thuyết tế bào của Matthias Schleiden và Theodor Schwann vào năm 1838. Học thuyết nhận định triệt để rằng sinh vật được cấu thành từ những đơn vị gọi là tế bào. Những khám phá sâu hơn nữa của Claude Bernard (1813–1878) sau cùng đã làm ông cho ra đời khái niệm môi trường bên trong ("milieu interieur"), về sau được nhà sinh lý học người Mỹ Walter B. Cannon lấy và đặt lại khái niệm là cân bằng nội môi vào năm 1929. Nói về cân bằng nội môi, Cannon lý giải là "sự duy trì các tình trạng cân bằng trong cơ thể và được điều chỉnh thông qua quá trình sinh lý." Nói cách khác đó là khả ăng điều chỉnh môi trường bên trong của cơ thể. William Beaumont là người Mỹ đầu tiên sử dụng ứng dụng thực tế của môn sinh lý học. Những nhà sinh lý học ở thế kỷ 19 như Michael Foster, Max Verworn và Alfred Binet (dựa trên những ý tưởng của Haeckel) đã cùng phát minh ra khái niệm gọi là "sinh lý học tổng quát", một bộ môn khoa học thống nhất về sự sống dựa trên những hoạt động của tế bào, về au được đổi tên ở thế kỷ 20 là sinh học tế bào. Thời hậu cận đại. Ở thế kỷ 20, các nhà sinh học trở nên quan tâm đến cách hoạt động sinh lý của sinh vật khác ngoài con người, sau đó cho ra đời các chuyên ngành sinh lý học so sánh và sinh lý học sinh thái. Những nhân vật chính trong những chuyên ngành này là Knut Schmidt-Nielsen và George Bartholomew. Gần đây nhất, sinh lý học tiến hóa đã trở thành một phân ngành riêng biệt. Năm 1920, August Krogh đoạt giải Nobel vì đã phát hiện ra cách lưu lượng máu được điều hóa trong mao mạch. Năm 1954, Andrew Huxley và Hugh Huxley, cùng với đội nghiên cứu của họ phát hiện những sợi trượt trong cơ xương, ngày nay còn gọi là thuyết sợi trượt. Gần đây, đá có những cuộc tranh luận gay gắt về khả năng tồn tại lâu dài của môn sinh lý học dưới dạng một phân ngành (liệu nó đã chết hay còn sống?). Nếu sinh lý học ngày nay ít được nhìn nhận thấy hơn so với kỷ nguyên vàng ở thế kỷ 19, đa phần là vì bộ môn đã đẻ ra một số phân ngành khoa học sinh thiết thục nhất ngày nay, chẳng hạn như khoa học thần kinh, nội tiết học và miễn dịch học. Ngoài ra, sinh lý học vẫn được xem là một phân ngành thống nhất, có thể tập hợp thành một dữ liệu khung chặt chẽ nhất từ nhiều phân ngành khác nhau. Những nhà sinh lý học nổi tiếng. Phụ nữ trong môn sinh lý học. Lúc đầu, phụ nữ đa phần bị khai trừ khỏi hoạt động chính thức trong bất cứ hội sinh lý học nào. Ví dụ, Hiệp hội sinh lý học Mỹ được thành lập vào năm 1887 và chỉ có nam giới trong hàng ngũ thành viên. Năm 1902, Hiệp hội sinh lý học người Mỹ lựa chọn Ida Hyde làm thành viên nữ đầu tiên của hội. Hyde (đại diện của Đại học Liên hiệp phụ nữ Mỹ và người vận dộng bình đẳng giới toàn cầu trong giáo dục) đã nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới ở mọi khía cạnh của khoa học và y học. Ngay sau đó, vào năm 1913, J.S. Haldane đề xuất cho phụ nữ được phép chính thức gia nhập Hiệp hội sinh học, tổ chức được thành lập vào năm 1876. Ngày 3 tháng 7 năm 1915, 6 phụ nữ được chính thức thừa nhận: Florence Buchanan, Winifred Cullis, Ruth C. Skelton, Sarah C. M. Sowton, Constance Leetham Terry và Enid M. Tribe. Lễ kỷ niệm 100 năm lựa chọn phụ nữ vào sinh lý học đã được tổ chức vào năm 2015 với việc xuất bản cuốn sách "Women Physiologists: Centenary Celebrations And Beyond For The Physiological Society." () Những nhà sinh lý học nữ nổi tiếng gồm có: Phân ngành. Có nhiêu cách để phân loại các phân ngành của môn sinh lý học: Tài liệu đọc thêm. Sinh lý học người Sinh lý học động vật Sinh lý học thực vật Sinh lý học nấm Sinh lý học sinh vật nguyên sinh Sinh lý học tảo Sinh lý học vi khuẩn
141
141_phu_vt_khe_khoa
[ "phu", "vt", "khe", "khoa", "hc", "nghin", "sinh", "sc", "ngnh", "xc" ]
[ "Tập tính sinh học hay còn gọi là sinh thái học hành vi (\"Behavioral ecology\") là nghiên cứu về cơ sở tiến hoá đối với hành vi (tập tính) của động vật do áp lực sinh thái. Nếu một sinh vật có một đặc điểm hỗ trợ cho nó một lợi thế chọn lọc (tức là có ý nghĩa thích ứng) trong môi trường của nó, thì quá trình chọn lọc tự nhiên có thể có lợi cho nó. Do đó, ý nghĩa thích đáng đề cập đến các phẩm chất có lợi (như tăng sức sinh và sinh sản tăng lên), bất cứ một đặc điểm biến đổi nào đã có. Như sự khác biệt di truyền giữa các cá thể có thể dẫn đến sự khác biệt về hành vi, một số trong đó có thể dẫn đến sự khác biệt về thành công sinh sản, và cuối cùng là qua các thế hệ, sự gia tăng các cá thể có những đặc điểm được phổ biến hơn, tức là sự tiến hóa. Tập tính của động vật rất phong phú, phức tạp, và có vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng. Nó liên quan mật thiết đến sự tồn tại và phát triển nòi giống.\nTập tính động vật cũng đem lại nhiều lợi ích cho thực vật và con người. Một số loài thụ phấn cho các loài thực vật có hoa (ví dụ ong, bướm, kiến, côn trùng). Một số côn trùng cũng sinh ra những chất rất hữu ích như mật, sáp, tơ. Nhiều côn trùng, đặc biệt là các loài bọ cánh cứng ăn xác thối, chúng ăn các xác động vật chết, các cây bị gãy mục, trả lại môi trường các dạng hữu ích cho các sinh vật khác sử dụng. Người Ai Cập cổ đại đã sùng bái những con bọ cánh cứng (bọ hung), giun phát sáng châu Âu được coi như những con vật có lợi vì chúng tiêu diệt ốc và sên là những con phá hoại mùa màng. Khi nuôi nhốt động vật, cần lưu tâm đến tập tính của chúng, tạo điều kiện môi trường sống phù hợp để chúng sống và phát triển bình thường phải tìm hiểu tập tính động vật của chúng để không làm mất cân bằng sinh thái của môi trường nuôi nhốt.\nĐại cương.\nCơ chế.\nTập tính ở động vật là một chuỗi các phản ứng trả lời các kích thích của môi trường diễn ra bên trong cũng như bên ngoài cơ thể nhờ đó mà động vật có thể tồn tại và phát triển. Tập tính được thể hiện ra bằng một loạt các hoạt động phối hợp và thường dẫn tới hoạt động của một bộ phận cơ thể như ve vẩy tai, đuôi, đến mùa sinh sản các loài chim thường hót hoặc khoe lông, hoặc có sự tranh giành con cái bằng giao đấu ví dụ Màn song đấu của chim công. Đôi khi tập tính lại là những phản ứng bất động (giả chết) như phản ứng tự vệ của con bọ que. Các phản ứng tập tính đều mang tính chất thích nghi, nghĩa là làm cho cơ thể sinh vật tiếp tục tồn tại, các phản ứng này giúp con vật tránh xa các mối nguy hiểm hoặc giảm tối đa những sự đe dọa trước mắt nhờ sử dụng một loạt các phản ứng điều kiện\nPhản ứng trả lời (đáp ứng) kích thích bên ngoài như việc các động vật ăn cỏ thường sống và đi kiếm ăn theo bầy đàn cũng là một cách thức phòng vệ trước những động vật ăn thịt như hổ, báo, sư tử, sói, hay như những con cò bắt cá ở chỗ nước nông những con gấu bắt cá ở các vực nước. Phản ứng trả lời kích thích bên trong là những tập tính được gây ra do sự kết hợp kích thích ngoài và kích thích trong như tập tính xã hội, tập tính bầy đàn (lối cư xử, tính nết) của loài vật là do bản năng tự nhiên của chúng và do sự di truyền. Cơ sở thần kinh của tập tính là các phản xạ. Các phản xạ thực hiện qua cung phản xạ, kích thích là những tác nhân tác động vào con vật, kích thích có thể từ bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, nồng độ oxi, độ pH (kích thích ngoài) tới làm con vật cảm nhận được thông qua các giác quan. Kích thích có thể từ bên trong con vật do sự thay đổi sinh lý bên trong con vật (kích thích trong).\nCác tác nhân kích thích như hình ảnh, âm thanh con mồi phát ra, nhiệt độ, hơi ấm cơ thể con mồi, mùi vị, mùi máu tanh hình thành nên tập tính rình mồi, rượt đuổi mồi để tấn công và vồ mồi ảnh hướng để tập tính săn mồi của động vật. Đối với động vật có tổ chức thần kinh chưa phát triển thì là tập tính kiếm mồi và săn mồi là tập tính bẩm sinh, ví dụ như ong bắp cày ký sinh Aphidius colemani là một loài ký sinh ăn tạp, tấn công nhiều loài rệp vừng nên bất cứ loài rệp vừng nào cũng phù hợp làm con mồi đối với ong bắp cày. Đối với động vật có hệ thần kinh phát triển tập tính bắt mồi và săn mồi rất phong phú và phức tạp. Phần lớn các tập tính này được hình thành do học tập từ bố mẹ của chúng hay đồng loại hoặc do kinh nghiệm của bản thân và chúng được hoàn thiện dần để đảm bảo sự sống sót của các loài trong tự nhiên.\nCá thể luôn có sự cạnh tranh với những cá thể khác vì nguồn lực hạn chế, bao gồm thức ăn, lãnh thổ động vật và bạn tình. Mâu thuẫn sẽ xảy ra giữa những kẻ săn mồi và con mồi, giữa các đối thủ của bạn tình, giữa anh chị em, bạn tình, và thậm chí giữa cha mẹ và con cái của chúng. Giá trị của một hành vi xã hội phụ thuộc một phần vào hành vi xã hội của một kẻ hàng xóm. Ví dụ, một con đực có khả năng trở thành một con đực giống đang trở lại từ một mối đe dọa, càng có ý nghĩa một cá thể giống đực được ra khỏi mối đe dọa. Tuy nhiên, nếu một đối thủ cạnh tranh sẽ tấn công nếu bị đe doạ, thì càng có nhiều khả năng đe doạ những con đực khác. Khi một quần thể thể hiện một số hành vi tương tác xã hội như thế này, nó có thể phát triển một mô hình hành vi ổn định được gọi là chiến lược ổn định tiến hóa (ESS).\nCác nhóm.\nDựa vào các đặc điểm của tập tính động vật, có thể phân biệt thành hai nhóm tập tính chính là: tập tính bẩm sinh và tập tính thứ sinh tương ứng với tập tính bản năng và tập tính học khôn. Ngoài ra còn có tập tính hỗn hợp là vừa có tập tính học tập vừa có tập tính bản năng. Một số dạng tập tính phổ biến ở động vật:\n\"Tập tính bẩm sinh\" là những hoạt động cơ bản của cơ thể động vật mà ngay từ khi sinh ra đã có, không cần qua học hỏi, rèn luyện, mang tính bản năng, được di truyền từ bố mẹ, không thay đổi và không chịu ảnh hưởng của điều kiện và hoàn cảnh sống, chúng được quyết định bởi yếu tố di truyền, chẳng hạn như tập tính sinh sản. \"Tập tính bản năng\" (tập tính bẩm sinh nguyên thủy hay không do học tập) do nhân tố bản đồ gen, nhiễm sắc thể lập trình quyết định và thường không bị thay đổi bởi hoàn cảnh. Chẳng hạn như loài thủy tức khi có mồi chạm vào xúc tu, thủy tức sẽ tự đưa thức ăn vào miệng, hay những con đỉa sống trong nước, khi nghe có tiếng động trong nước sẽ tự động bơi lại phía đó để kiếm ăn.\n\"Tập tính thứ sinh\" (tập tính học được trong đời sống): là loại tập tính được hình thành trong quá trình sống do học tập hoặc do có sự trao truyền giữa các cá thể cùng loài, ví dụ như tập tính chống lại những động vật định ăn trộm thức ăn của nó. Ở những nhóm động vật càng cao, càng tiến hóa, loại tập tính đó học được càng nhiều, do đó chúng càng dễ thích nghi với điều kiện và hoàn cảnh sống. \"Tập tính học khôn\" là kiểu hoạt động hình thành do kết quả của kinh nghiệm và có thể thay đổi bởi hoàn cảnh. Tập tính di cư ở động vật thường là tập tính thứ sinh vì chúng thường thể hiện theo bầy, đàn quy mô lớn.\nỞ những động vật bậc cao chúng còn có khả năng học khôn (Văn hóa ở động vật), tự sáng tạo ra các công cụ trong quá trình kiếm ăn ví dụ như tinh tinh biết dùng dụng cụ để bắt mồi. Phần lớn các tập tính kiếm ăn, săn mồi là các tập tính thứ sinh, hình thành trong quá trình sống, qua học tập ở bố mẹ hoặc đồng loại hoặc qua trải nghiệm của bản thân, ví dụ như hổ mẹ dạy hổ con săn mồi. Một ví khác là cách báo mẹ dạy con săn mồi, sau khi bắt được con mồi, báo mẹ làm cho con mồi yếu đi rồi cho con tập săn mồi, nếu báo được con người nuôi dưỡng từ nhỏ thì khi lớn lên được thả ra tự nhiên sẽ không có các kỹ năng săn mồi, vì thế tập tính kiếm ăn của hầu hết các động vật bậc cao là tập tính học tập.\nNgoài ra, có thể kể loại tập tính thứ ba là tập tính hỗn hợp (bao gồm cả tập tính bẩm sinh lẫn tập tính thứ sinh, như loài ong vò vẽ là một loài ong sống hoàn toàn đơn độc. Trong tập tính hôn phối, sau khi giao phối, con ong cái bắt đầu xây dựng tổ thì ở trong tổ con cái sẽ đẻ một quả trứng, sau đó, có một vài con sâu sau khi đã bị làm tê liệt, được mang đến tổ làm thức ăn cho ong con đang phát triển, cuối cùng, tổ được gắn lại và con cái bay đi để xây dựng tổ mới. Trong trình tự giao phối, làm tổ, đẻ trứng, săn mồi mang về tổ được thực hiện mà không cần phải dạy hay học từ trước, đó là tập tính bẩm sinh, còn tìm đưa sâu đưa vào tổ là tập tính thứ sinh (ong vò vẽ học được rằng sâu bị tê liệt có thể làm thức ăn cho ong con). Hoặc như ở gà con, khi chúng sinh ra chúng sẽ có thói quen mổ và nuốt những thứ trong tầm với của chúng như rơm rạ, sỏi đá, dị vật, nhưng sau khi chúng lớn lên chúng sẽ đủ nhận biết để chỉ mổ nuốt những loại thóc gạo.\nCác dạng.\nSăn mồi và phòng vệ.\nTập tính kiếm mồi và săn mồi: Tập tính này ở các động vật khác nhau là khác nhau. Các dạng chính là kiếm mồi đơn lẻ và kiếm mồi bầy đàn. Tập tính kiếm ăn của báo hoa mai đặc trưng cho tập tính kiếm mồi đơn lẻ. Tập tính kiếm mồi và săn mồi ở động vật phụ thuộc vào nguồn thức ăn mà chúng sử dụng. Ý nghĩa của việc kiếm mồi và săn mồi ở động vật là để tồn tại và phát triển, các động vật có nhu cầu tìm kiếm thức ăn nói chung và săn mồi nói riêng. Đây là những tập tính bảo đảm sự sống còn của các loài động vật.\nTrái lại ở con mồi khi phát hiện ra kẻ thù thì có tập tính lẩn trốn, bỏ chạy hoặc tự vệ, đây là bản năng tự bảo toàn của chúng. Trong đa số trường hợp con mồi bị truy đuổi quá gần thì lập tức nó chuyển từ trạng thái trốn chạy sang tư thế tấn công. Khi gặp kẻ thù thường biểu hiện tư thế dọa nạt, thú ăn thịt thì nhe nanh, giơ vuốt, thú móng guốc thì dậm chân. Một số loài thì xù lông lên và dựng đứng người ví dụ nhím xù lông để tự vệ trước kẻ thù, các loài khỉ thường có tập tính bẻ cành ném xuống thậm chí phóng uế vào mặt kẻ thù, còn những con thỏ thì bỏ chạy khi bị tấn công, có những loài chọn những cách tự vệ như giả chết, cuộn tròn thân mình hay biến mình thành vũ khí khó nuốt, đây là tập tính tự vệ.\nỞ sinh vật còn có trường hợp thay đổi ngoại hình để nó trở nên lẫn vào môi trường xung quanh gọi là ngụy trang, đây là hành vi (tập tính) của sinh vật nhằm trốn tránh khỏi khả năng quan sát của đối tượng khác, một hình thức đánh lừa ở động vật. Tập tính này có thể giúp sinh vật trốn tránh kẻ thù hoặc dễ dàng hơn trong việc săn mồi. Các động vật biển được vũ trang chu đáo, nhưng để tránh bớt xung đột, chúng chọn cách cảnh báo kẻ thù bằng màu sắc rực rỡ của cơ thể, ở sinh vật biển, những loài nguy hiểm thường có màu sắc đặc trưng như những đốm xanh dương trên nền vàng. Ngụy trang có thể là động vật hòa mình vào môi trường xung quanh.\nLuôn có sự tiến hóa liên tục trong khả năng phát hiện sự trá hình và tương tự năng lực ẩn trốn cũng biến đổi luôn luôn. Ở mỗi cặp động vật săn đuổi-trốn tránh, cấp độ tiến hóa trá hình và phát hiện khác nhau. Những vạch đen trên da ngựa vằn khiến rất khó phân biệt từng cá thể làm kẻ thù khó tấn công tạo ra màu sắc gây nhiễu. Những cách thức khác là việc động vật biến hình thành thứ gì khác hấp dẫn hoặc có vẻ ngoài nguy hiểm hay còn gọi là bắt chước, một số động vật ẩn trốn làm giả chuyển động trong tự nhiên, ví dụ chiếc lá trong gió, các động vật khác gắn liền hoặc lấy những vật liệu trong tự nhiên đắp lên thân mình để tạo ra nơi ẩn náu. \nĐánh dấu lãnh thổ.\nTập tính bảo vệ vùng lãnh thổ (tập tính lãnh thổ): Mỗi con vật chiếm cứ một khu vực thuộc quyền kiểm soát của một cá thể hoặc một bầy, đàn động vật và được con vật hoặc bầy đàn đó đặc biệt bảo vệ chống lại kẻ xâm nhập một cách quyết liệt, lãnh thổ động vật là nơi thể hiện tập tính lãnh thổ của động vật và được các con vật tuần tra, bảo vệ thường xuyên. Động vật bảo vệ lãnh thổ theo cách này được gọi là tập tính lãnh thổ. Chúng đánh dấu lãnh thổ có thể bằng mùi hương, hoặc tiếng ồn ào, tiếng gầm, hú, kêu rống, la hét, luyến hót để thể hiện sự hiện diện của mình.\nTập tính cư trú: Mỗi loài có tập tính cư trú khác nhau. Tập tính cư trú ở động vật được hình thành do nhiều yếu tố như ánh sáng, nhiệt độ, độ pH, nguồn thức ăn có sẵn. Đối với những sinh vật sống dưới nước thì có loài sống ở tầng đáy, có loài sống ở vùng giữa, có loài sống ở gần mặt nước, có loài sống ở nước ngọt, có loài sống ở nước lợ, lại có loài sống ở nước mặn, cũng có loài thích ứng rộng với độ mặn, sống được ở cả nước ngọt, nước lợ, nước mặn như cá chình.\nTập tính di cư: là một tập tính rất phức tạp thể hiện trong hiện tượng di cư của một số loài chim di trú, cá di cư. Chúng thường di cư theo mùa, theo một chu kỳ nhất định trong năm. Cứ đến mùa đông, phần vì lạnh giá, phần vì thiếu thức ăn, nhiều loài chim ở phương Bắc vượt hàng ngàn, vạn cây số về phương nam ấm áp, thức ăn phong phú để sống, đến mùa xuân lại trở về phương Bắc. Những biểu hiện của di cư sinh sản là cá thể trưởng thành sống ở những vùng khác với nơi sinh sản, sự di chuyển cả đàn kèm theo sinh sản. Đến mùa sinh đẻ chúng phải di chuyển tập trung về những \"bãi đẻ\" nhất định. Cá chình là loài cá di cư, cá mẹ đẻ ở biển sâu, cá con sau khi nở trôi dạt vào bờ biển, cửa sông, vùng nước ngọt kiếm mồi và lớn lên. Khi trưởng thành, cá lại di cư ra biển sâu để đẻ trứng, tương tự là loài cá hồi di cư. \nThứ bậc, tôn ti.\nTập tính thứ bậc được thể hiện qua việc mỗi bầy đều có sự phân chia thứ bậc. Tổ chức theo trật tự lệ thuộc là đặc tính của hầu hết các động vật sống thành đàn (tập tính thứ bậc). Trong một đàn sẽ có con đầu đàn thống trị các con còn lại. Con đầu đàn có ưu thế như vậy là nhờ thắng trận trong các trận đấu. Chiến đấu, cạnh tranh để bảo vệ lãnh thổ cũng là cơ hội để lựa chọn bạn tình, tạo ra một hậu cung động vật. Con cái thường lựa chọn những con đực chiếm giữ vùng lãnh thổ tốt nhất, cũng là con khỏe nhất. Kết bạn tình với những con đực như vậy có nguồn gen tốt sẽ cho những đứa con mạnh khỏe là điều kiện để duy trì và phát triển nòi giống.\nỞ loài linh cẩu đốm, những con trưởng thành hơn thường xuyên ghé thăm hang để dạy dỗ con non về thứ bậc khắt khe trong xã hội của chúng. Các đàn linh cẩu đốm đều có một con cái đầu đàn và hàng loạt những con cấp dưới. Mỗi một con non phải học chính xác vị trí thích hợp của nó trong thang bậc thứ tự của đàn và tất cả mọi cá thể linh cẩu đốm khác cũng phải thích nghi. Hệ thống thứ bậc bản thân nó đã chứng minh rất sống động khi giờ ăn đến, nếu một hoặc hai con trong đàn săn mồi, các thành viên khác cùng đàn sẽ tham dự để cùng chiến đấu với con mồi, nhưng con cái đầu đàn bao giờ cũng giành phần thắng. Tuy nhiên, cũng có lúc cả đàn linh cẩu tụ họp với nhau. Bầy linh cẩu đốm thường đi dọc theo biên giới lãnh địa rồi đánh dấu bằng nước tiểu. Nếu có vụ đi săn nào xảy ra gần biên giới thì một cuộc xung đột với bầy linh cẩu láng giềng có thể nổ ra.\nKết đôi, sinh sản.\nTập tính kết đôi, hôn phối của các loài vật thường diễn ra vào mùa sinh sản. Tập tính hôn phối bắt đầu bằng độc chiếm lãnh thổ của con đực đánh đuổi tình địch, tiếp theo là sự rủ rê con cái để ghép đôi, xây tổ, đẻ con và sau hết là nuôi con. Đây luôn là một hiện tượng thú vị của thế giới động vật. Quá trình kết đôi được bắt đầu bằng các tín hiệu như âm thanh, màu sắc, mùi hương như:\nTập tính sinh sản và tập tính chăm sóc con: Phần lớn các tập tính sinh sản là tập tính bẩm sinh, mang tính bản năng. Thường khởi đầu là do một kích thích của môi trường ngoài như thời tiết (nhiệt độ, độ ẩm), ánh sáng, âm thanh tác động vào các giác quan hay do kích thích của môi trường bên trong do tác động của hoocmon sinh dục gây nên hiện tượng chín sinh dục và chuẩn bị cho sự sinh sản, được thể hiện bằng các hành động ve vãn, khoe mẽ, tỏ tình, xây tổ, ấp trứng, chăm sóc, bảo vệ con non, chẳng hạn như: ", "Thực vật học (, còn được gọi là khoa học thực vật, sinh học thực vật hoặc ngành thực vật học) là bộ môn khoa học nghiên cứu về thực vật và là một phân ngành của sinh học. Nhà thực vật học, nhà khoa học thực vật hay nhà nghiên cứu thực vật là một nhà khoa học có chuyên môn về lĩnh vực này. Thuật ngữ \"thực vật học\" trong các ngôn ngữ Tây phương bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại là (\"botanē\"), nghĩa là \"đồng cỏ chăn gia súc\", \"thảo mộc\", \"đồng cỏ\" hay \"cỏ khô\"; thì có nguồn gốc từ (), tức là \"chăn nuôi\" hoặc \"chăn thả\". Theo truyền thống, thực vật còn gồm có nghiên cứu nấm và tảo, các nhà nghiên cứu được gọi lần lượt là nhà nấm học và tảo học; việc nghiên cứu ba nhóm sinh vật này vẫn nằm trong diện quan tâm của Hội nghị Thực vật Quốc tế. Ngày nay, các nhà thực vật học nghiên cứu khoảng 410.000 loài thực vật trên cạn, trong số đó 391.000 loài là thực vật bậc cao (bao gồm khoảng 369.000 loài thực vật hạt kín) và khoảng 20.000 loài là rêu.\nThực vật học có nguồn gốc từ thời tiền sử dưới vai trò thảo dược, khi con người bước đầu cố nhận dạng (và sau đó là trồng trọt) những cây có thể ăn, làm thuốc và có độc, biến nó thành một trong những phân ngành khoa học lâu đời nhất. Những khu vườn thuốc thời Trung Cổ thường gắn liền với các tu viện, là nơi chứa những cây có tác dụng y học. Chúng là tiền thân của những vườn bách thảo đầu tiên gắn liền với các trường đại học, được thành lập từ những năm 1540 trở đi. Một trong những vườn bách thảo đầu tiên là vườn bách thảo Padova. Những khu vực này đã tạo điều kiện cho việc các chuyên gia học thuật nghiên cứu về thực vật. Những nỗ lực phân loại và miêu tả bộ sưu tập này là bước khởi đầu cho phân loại thực vật, từ đó ra đời danh pháp hai phần của Carl Linnaeus vào năm 1753, vẫn còn được dùng để đặt tên cho tất cả các loài sinh vật cho tới ngày nay.\nVào thế kỉ 19 và 20, những kĩ thuật mới đã được phát triển để nghiên cứu thực vật, trong đó gồm các phương pháp nhuộm tế bào, dùng kính hiển vi quang học và chụp hình tế bào sống, kính hiển vi điện tử, phân tích bộ nhiễm sắc thể, hóa thực vật, cấu trúc và chức năng của các enzyme và protein khác. Trong hai thập niên cuối thế kỉ 20, các nhà thực vật học đã khai thác những kĩ thuật phân tích di truyền phân tử, gồm có hệ gen, hệ protein và các chuỗi DNA để phân loại thực vật chính xác hơn.\nThực vật học hiện đại là một bộ môn đại cương và đa ngành với những đóng góp và hiểu biết sâu sắc từ các lĩnh vực khoa học và kĩ thuật khác. Những đề tài nghiên cứu gồm có ba nhóm chínhː hình thái và giải phẫu thực vật, sinh lý học thực vật (gồm các quá trình tăng trưởng và phân hóa, sinh sản, hóa sinh và trao đổi chất sơ cấp, các sản phẩm hóa học, phát triển, bệnh học...) và phân loại thực vật (bao gồm nhiều ngành như quan hệ tiến hóa, hệ thống học, đa dạng thực vật...). Những đề tài nổi bật trong thực vật học ở thế kỉ 21 là di truyền phân tử và di truyền học biểu sinh, nghiên cứu về trao đổi chất và kiểm soát biểu hiện gen trong quá trình phân hóa của tế bào thực vật và mô. Nghiên cứu thực vật học được ứng dụng đa dạng trong việc cung cấp các nguyên vật liệu và thực phẩm thiết yếu như gỗ làm nhà, dầu, cao su, sợi và thuốc, trong trồng trọt, nông nghiệp và lâm nghiệp hiện đại, nhân giống, gây giống và kỹ thuật di truyền, trong tổng hợp hóa chất, ứng dụng trong xây dựng, sản xuất năng lượng, trong quản lý môi trường và duy trì đa dạng sinh học.\nLịch sử.\nThực vật học sơ khai.\nCó bằng chứng cho thấy con người đã sử dụng thực vật cách đây 10.000 năm ở Thung lũng sông Little Tennessee, đa số là củi đốt hoặc thực phẩm. Thực vật học khởi nguồn dưới dạng thảo dược học, ngành nghiên cứu và sử dụng thực vật để điều chế thuốc. Lịch sử sơ khai của thực vật ghi lại được gồm nhiều tài liệu và phân loại thực vật cổ. Những ví dụ về các công trình thực vật học đầu tiên được phát hiện trong các văn bản cổ từ Ấn Độ (có niên đại trước năm 1100 trước Công nguyên), thời Ai Cập cổ đại, trong các tài liệu tiếng Avesta cổ và trong những tài liệu Trung Quốc được cho là từ trước năm 221 TCN.\nThực vật học hiện đại có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại, đặc biệt liên quan tới Theophrastus (sống khoảng năm 371–287 TCN); ông là học trò của Aristoteles, người đã phát minh và miêu tả nhiều nguyên lý thực vật, được đông đảo cộng đồng khoa học coi là \"Cha đẻ của thực vật học\". Hai công trình chính của ông là \"Historia Plantarum\" và \"On the Causes of Plants\" đã đưa ra những đóng góp quan trọng nhất cho ngành khoa học thực vật cho đến thời Trung Cổ, tức gần 17 thế kỉ về sau.\nMột công trình khác ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại bước đầu tác động lên thực vật học là \"De Materia Medica\", một cuốn bách khoa toàn thư gồm 5 tập về thảo dược học do bác sĩ kiêm nhà dược học người Hy Lạp Pedanius Dioscorides biên soạn vào giữa thế kỉ 1. \"De Materia Medica\" đã được đón đọc rộng rãi trong hơn 1.500 năm. Những đóng góp quan trọng từ thời Hồi giáo Trung Cổ gồm có \"Nabatean Agriculture\" của Ibn Wahshiyya, \"Book of Plants\" (C\"uốn sách về thực vật\") của Abū Ḥanīfa Dīnawarī (828–896) và \"The Classification of Soils\" (\"Phân loại đất\") của Ibn Bassal. Đầu thế kỉ 13, Abu al-Abbas al-Nabati và Ibn al-Baitar (mất năm 1248) đã viết về thực vật học theo phương pháp có hệ thống và khoa học.\nGiữa thế kỉ 16, những vườn bách thảo được thành lập tại một số viện đại học của Ý. Vườn bách thảo Padova (1545) thường được xem là vườn bách thảo đầu tiên và vẫn nằm ở vị trí đầu tiên của nó đến ngày nay. Những khu vườn này tiếp tục kết thừa giá trị thực tiễn của \"vườn thuốc\" thời sơ khai (thường gắn liền với các tu viện, trong đó thực vật được dùng để chữa bệnh). Chúng thúc đẩy sự phát triển của thực vật học để trở thành một bộ môn học thuật. Những bài giảng về các loại cây trong vườn đã ra đời cùng với mục đích y khoa của chúng. Những vườn bách thảo đến vùng Bắc Âu muộn hơn nhiều; vườn đầu tiên ở Anh là Vườn bách thảo Đại học Oxford vào năm 1621. Trong suốt thời kì này, thực vật học vẫn phụ thuộc chủ yếu vào y học.\nBác sĩ người Đức Leonhart Fuchs (1501–1566) là một trong \"ba vị cha đẻ thực vật học người Đức\", cùng với nhà thần học Otto Brunfels (1489–1534) và bác sĩ Hieronymus Bock (1498–1554) (còn có tên là Hieronymus Tragus). Fuchs và Brunfels đã tách khỏi truyền thống sao chép những công trình trước kia để thực hiện những quan sát nguyên bản của riêng họ. Bock tạo ra hệ thống phân loại thực vật của riêng ông.\nBác sĩ Valerius Cordus (1515–1544) là tác giả công trình thảo dược quan trọng về mặt thực vật và dược học mang tên \"Historia Plantarum\" vào năm 1544 và một dược thư có ảnh hưởng lâu dài mang tên \"Dispensatorium\" vào năm 1546. Nhà tự nhiên học Conrad von Gesner (1516–1565) và nhà dược học John Gerard (1545–k.1611) đã công bố nhiều loại thực vật, bao gồm công dụng chữa bệnh của chúng. Nhà tự nhiên học Ulisse Aldrovandi (1522–1605) được xem là \"cha đẻ của lịch sử tự nhiên\" cũng có nghiên cứu về thực vật. Năm 1665, nhờ sử dụng kính hiển vi đầu tiên, nhà bác học Robert Hooke phát hiện ra các tế bào (thuật ngữ mà ông đặt ra) trong các nút bần, và không lâu sau là trong các mô thực vật sống.\nThực vật học cận đại.\nTrong thế kỉ 18, các hệ thống nhận dạng thực vật được phát triển để đối chiếu với những khóa lưỡng phân, nơi các loài thực chưa rõ lai lịch được xếp vào những đơn vị phân loại (ví dụ: họ, chi và loài) bằng cách tiến hành một loạt lựa chọn giữa các cặp tính trạng. Sự phân loại \"nhân tạo\" và chuỗi các tính trạng trong các khóa được thiết kế hoàn toàn chỉ để nhận dạng (các khóa chẩn đoán), hoặc có liên hệ chặt chẽ hơn với trật tự phân loại \"tự nhiên\" của taxa trong những khóa tổng quát. Đến thế kỉ 18, những loài thực vật mới phục vụ nghiên cứu đã đặt chân đến châu Âu với số lượng ngày càng tăng từ những quốc gia mới phát hiện và vùng thuộc địa của châu Âu trên toàn thế giới. Năm 1753, Carl von Linné (Carl Linnaeus) xuất bản tác phẩm Species Plantarum, một cuốn phân loại thực vật theo thứ bậc vẫn là nguồn tham khảo cho danh pháp thực vật hiện đại. Tác phẩm đã định hình nên một giản đồ đặt tên hai phần hoặc danh pháp hai phần chuẩn hóa, gồm phần đầu là tên chi còn phần thứ hai xác định các loài trong chi. Với mục đích nhận dạng, cuốn \"Systema Sexuale\" của Linnaeus đã phân thực vật thành 24 nhóm dựa theo số lượng cơ quan sinh dục đực của chúng. Nhóm thứ 24 tên là \"Cryptogamia\" gồm có tất cả các loài thực vật mang những bộ phận sinh sản bị ẩn giấu, rêu, cỏ biển, dương xỉ, tảo và nấm.\nNhờ nâng cao kiến thức về giải phẫu, hình thái và các vòng đời của thực vật, các nhà thực vật học nhận ra rằng có nhiều điểm tương đồng tự nhiên giữa các loài thực vật hơn hệ giới tính nhân tạo của Linnaeus. Adanson (1763), de Jussieu (1789) và Candolle (1819) đều công bố nhiều hệ thống phân loại tự nhiên thay thế, theo đó các nhóm thực vật được phân loại dựa trên nhiều nhóm tính trạng hơn và được nhiều người ủng hộ hơn. Hệ thống Candolle phản ánh những hiểu biết của ông về sự phát triển hình thái phức tạp và hệ thống Bentham & Hooker sau này (giàu ảnh hưởng tới giữa thế giữa thế kỉ 19) chịu ảnh hưởng từ phương pháp của Candolle. Sự kiện Darwin cho ra đời cuốn \"Nguồn gốc các loài\" vào năm 1859 và quan niệm của ông về tổ tiên chung đã đòi hỏi những thay đổi với hệ thống của Candolle để phản ánh các mối quan hệ tiến hóa có điểm khác biệt so với nét tương đồng về hình thái.\nThực vật học có một bước tiến lớn nhờ sự xuất hiện của cuốn sách giáo khoa \"hiện đại\" đầu tiên, quyển \"\" của Matthias Schleiden, được xuất bản bằng tiếng Anh với nhan đề \"Principles of Scientific Botany\" (\"Nguồn gốc của khoa học thực vật\") vào năm 1849. Schleiden là một người sử dụng kính hiển vi và nhà giải phẫu thực vật đầu tiên, ngoài ra ông còn là đồng tác giả học thuyết tế bào (với Theodor Schwann và Rudolf Virchow) và một trong những người đầu tiên nắm được tầm quan trọng của nhân tế bào mà Robert Brown từng mô tả vào năm 1831. Năm 1855, Adolf Fick đã xây dựng các định luật của riêng ông nhằm tính toán tốc độ khuếch tán phân tử trong các hệ sinh học.\nThực vật học hậu cận đại.\nDựa trên thuyết di truyền gen-nhiễm sắc thể bắt nguồn từ Gregor Mendel (1822–1884), August Weismann (1834–1914) đã chứng minh rằng di truyền chỉ xảy ra thông qua các giao tử. Không có loại tế bào nào khác có thể truyền đạt các thông tin di truyền. Công trình về giải phẫu thực vật của Katherine Esau (1898–1997) vẫn là nền tảng chính của thực vật học hiện đại. Các quyển \"Plant Anatomy\" (Giải phẫu thực vật) và \"Anatomy of Seed Plants\" (Giải phẫu thực vật có hạt) của bà là những cuốn sinh học cấu trúc thực vật quan trọng trong hơn nửa thế kỷ.\nNhững người tiên phong cho môn sinh thái học thực vật ở cuối thế kỷ 19 là các nhà thực vật học như Eugenius Warming (chủ nhân giả thuyết rằng thực vật tạo nên các quần xã) và Christen C. Raunkiær (cố vấn và người kế nhiệm Warming), tác giả hệ thống miêu tả những dạng sống của thực vật vẫn được sử dụng ngày nay. Quan niệm cho rằng thành phần của các quần xã thực vật như rừng lá rộng ôn đới thay đổi bởi quá trình diễn thế sinh thái là do Henry Chandler Cowles, Arthur Tansley và Frederic Clements phát triển. Clements được ghi công với ý kiến cho rằng quần xã đỉnh cực là quần xã phức tạp nhất mà một môi trường có thể nuôi dưỡng, còn Tansley giới thiệu khái nhiệm của những hệ sinh thái tới sinh quyển. Dựa trên công trình mở rộng trước đó của Alphonse de Candolle, Nikolai Vavilov (1887–1943) đã cho ra đời các tài liệu về địa lý sinh học, các trung tâm nguồn gốc và lịch sử tiến hóa của các loài thực vật có giá trị kinh tế.\nĐặc biệt kể từ giữa thập niên 1960, thế giới đã có những bước tiến bộ trong vốn hiểu biết về bản chấy vật lý, hoá học của các quá trình sinh lý thực vật như thoát hơi nước (vận chuyển nước trong các mô thực vật), tốc độ bay hơi từ bề mặt lá phụ thuộc vào nhiệt độ và sự khuếch tán phân tử hơi nước và khí cacbonic thông qua những lỗ hở khí khổng. Những bước tiến kể trên, cộng với các phương pháp mới nhằm đo kích thước lỗ khí khổng và tốc độ quang hợp đã giúp miêu tả chính xác tốc độ trao đổi khí giữa thực vật và không khí. Những phát kiến mới trong phép phân tích thống kê của Ronald Fisher, Frank Yates và những nhà khoa học khác tại Trạm thí nghiệm Rothamsted đã tạo điều kiện thuận lợi cho thiết kế thí nghiệm hợp lý và phân tích dữ liệu trong nghiên cứu thực vật. Việc Kenneth V. Thimann phát hiện và nhận dạng hormone thực vật auxin vào năm 1948 đã giúp giới khoa học có thể điều chỉnh sự phát triển của thực vật bằng chất hóa học ngoại sinh. Frederick Campion Steward là người tiên phong trong kĩ thuật vi nhân giống và nuôi cấy mô thực vật được điều hoà bởi hormone thực vật. Auxin nhân tạo 2,4-Dichlorophenoxyacetic acid hay 2,4-D là một trong những thuốc diệt cỏ tổng hợp thương mại đầu tiên.\nỞ thế kỷ 20, các kĩ thuật phân tích hóa hữu cơ hiện đại đã điều khiển những bước phát triển trong ngành hóa sinh thực vật, chẳng hạn như quang phổ, sắc ký và điện di. Với việc tăng số lượng các phương pháp tiếp cận sinh học liên quan ở quy mô phân tử của sinh học phân tử, gen học, protein học và chuyển hóa học, mối quan hệ giữa bộ gen của thực vật và hầu hết những khía cạnh của hóa sinh, sinh lý, hình thái và tập tính của thực vật là đối tượng được phân tích thực nghiệm chi tiết. Khái niệm lần đầu do Gottlieb Haberlandt chỉ ra vào năm 1902 rằng tất cả tế bào thực vật là \"toàn năng\" (nguyên văn \"totipotency\") và sau cùng có thể được nuôi cấy \"in-vitro\" (\"trong ống nghiệm\") nhằm sử dụng kỹ thuật di truyền trong thực nghiệm để loại bỏ một hoặc nhiều gen chịu trách nhiệm cho một đặc tính cụ thể, hoặc để bổ sung gen như GFP chỉ thị khi một gen quan tâm đang được biểu lộ. Những công nghệ này có thể cho sử dụng công nghệ sinh học lên toàn bộ thực vật hoặc những tế bào thực vật nuôi cấy trong các lò phản ứng sinh học để tổng hợp thuốc trừ sâu sinh học, dược chất sinh học hoặc các thuốc khác, cũng như ứng dụng thực tế vào cây trồng biến đổi gen được thiết kế cho các đặc tính như cải thiện năng suất.\nHình thái học hiện đại ghi nhận sự thống nhất giữa các loại hình thái chính của rễ, thân (caulome), lá (phyllome) và trichome. Ngoài ra, hình thái chú trọng vào chức năng cấu trúc. Phương pháp phân loại hiện đại nhằm phản ánh và phát hiện quan hệ phát sinh giữa các loài thực vật. Phát sinh chủng loại phân tử hiện đại phần lớn bỏ qua những đặc điểm hình thái, lấy các chuỗi trình tự DNA làm dữ liệu. Phép phân tích phân tử trình tự DNA từ phần lớn họ thực vật có hoa đã góp phần ra đời Nhóm phát sinh thực vật hạt kín (Angiosperm Phylogeny Group - APG, xuất bản vào năm 1998) nói về việc phát sinh các loài thực vật có hoa, giải đáp nhiều câu hỏi về mối quan hệ giữa các họ và loài của nhánh thực vật này. Khả năng trên lý thuyết của một phương pháp thực tế để xác định các loài thực vật và giống thương mại bằng mã vạch DNA là chủ đề của nghiên cứu hiện đại.\nPhạm vi và tầm quan trọng.\nNghiên cứu thực vật rất quan trọng bởi chúng là nền tảng cho sự sống của hầu hết sinh vật trên Trái Đất bằng cách sản sinh ra một lượng lớn khí oxy và cung cấp thức ăn cho con người và các sinh vật khác, thông qua quá trình quang hợp và tổng hợp hữu cơ khác của thực vật. Thực vật, tảo và vi khuẩn lam là những nhóm sinh vật chính tiến hành quang hợp, quá trình sử dụng năng lượng của ánh mặt trời để biến nước và carbon dioxide thành đường – có thể dùng làm nguồn năng lượng hóa học và các phân tử hữu cơ được sử dụng trong thành phần cấu trúc của tế bào. Hiệu ứng phụ của quang hợp là thực vật phát tán oxy vào khí quyển, một loại khí mà hầu hết mọi sinh vật sống cần để thực hiện quá trình hô hấp. Ngoài ra, chúng có tác động tới các chu trình carbon và nước khắp địa cầu, làm liên kết rễ cây và ổn định đất, chống xói mòn. Thực vật có vai trò tối quan trọng với tương lai của xã hội loài người vì chúng cung cấp thức ăn, khí oxy, thuốc và các sản phẩm cho con người, cũng như tạo ra và giữ gìn đất.\nTrong lịch sử, mọi sinh vật sống từng được phân làm động vật hoặc thực vật, và ngành thực vật học chuyên nghiên cứu về tất cả các sinh vật sống không phải động vật. Các nhà thực vật học nghiên cứu cả chức năng lẫn những quá trình bên trong bào quan, tế bào, mô, cá thể thực vật, quần thể thực vật và quần xã thực vật. Ở mỗi mức độ trong số này, một nhà thực vật có thể quan tâm đến phân loại, phát sinh chủng loài và tiến hóa, cấu trúc (giải phẫu và hình thái), hoặc chức năng (sinh lý học) của đời sống thực vật.\nĐịnh nghĩa chính xác nhất của \"thực vật\" chỉ gồm có \"thực vật trên cạn\" hay thực vật có phôi, tức tính cả thực vật có hạt (gồm cả ngành hạt trần và thực vật có hoa) và thực vật không hoa gồm các ngành dương xỉ, thạch tùng, rêu tản, rêu sừng và rêu. Toàn bộ giới Thực vật, trong đó có thực vật có phôi hiện nay có tổ tiên là tảo lục đa bào nguyên thủy. Vòng đời của chúng là sự xen kẽ thế hệ giữa các thể lưỡng bội và đơn bội. Thể lưỡng bội hữu tính của thực vật có phôi (còn gọi là thể giao tử) nuôi dưỡng bào tử phôi đơn bội đang phát triển trong các mô của nó trong ít nhất một phần vòng đời, thậm chí ở cả thực vật có hạt (giao tử được nuôi bởi bào tử cha mẹ của nó). Các nhà thực vật học còn nghiên cứu những nhóm sinh vật khác gồm có vi khuẩn (hiện nằm trong ngành vi khuẩn học), nấm (nấm học) – bao gồm nấm tạo hình địa y, tảo không chứa diệp lục (tảo học) và virus (virus học). Tuy nhiên, các nhà khoa học thực vật vẫn dành sự chú ý cho những nhóm này; nấm (tính cả địa y) và sinh vật đơn bào quang hợp thường được nhắc đến trong các khóa học nhập môn thực vật học.\nNhững chuyên gia cổ thực vật học đã nghiên cứu thực vật cổ trong mẫu hóa thạch để mang lại thông tin về lịch sử tiến hóa của thực vật. Vi khuẩn lam (sinh vật quang hợp thải ra oxy đầu tiên trên Trái Đất) được xem là đã sinh ra tổ tiên của thực vật bằng cách tham gia quan hệ nội cộng sinh với một sinh vật nhân thực sơ khai, sau cùng trở thành lục lạp trong tế bào thực vật. Thực vật quang hợp mới (bên cạnh họ hàng tảo của chúng) làm tăng tốc quá trình phát tán oxy trong khí quyển mà vi khuẩn lam từng bắt đầu, thay đổi bầu khí quyển cổ đại chưa có oxy, oxy hóa khử rồi tạo nên bầu khí quyển dồi dào oxy tự do trong hơn 2 tỷ năm.\nNhững câu hỏi quan trọng của thực vật học ở thế kỉ 21 là vai trò sản xuất chính của thực vật trong chu trình chuyển hóa các thành phần cơ bản của sự sống địa cầu: năng lượng, carbon, oxy, nitơ và nước, bên cạnh đó là cách chúng ta quản lý thực vật có thể giúp giải quyết những vấn đề môi trường của toàn cầu như quản lý tài nguyên, bảo tồn, an ninh lương thực nhân loại, các loài sinh vật xâm lấn, cô lập carbon, biến đổi khí hậu và bền vững.\nDinh dưỡng cho con người.\nHầu như mọi loại thực phẩm thiết yếu đều bắt nguồn từ sản lượng sơ cấp của thực vật, hoặc gián tiếp nhờ động vật ăn chúng. Thực vật và các sinh vật quang hợp khác là cơ sở của hầu hết các chuỗi thức ăn vì chúng sử dụng nguồn năng lượng từ mặt trời và dinh dưỡng từ đất và không khí, biến chúng thành dạng mà động vật có thể tiêu thụ. Đây là thứ mà các nhà sinh thái học gọi là bậc dinh dưỡng đầu tiên. Các dạng thực phẩm thiết yếu chính thời hiện đại, chẳng hạn như hạt tef, ngô, gạo, lúa mì và những loại ngũ cốc khác, cũng như gai dầu, lanh và sợi bông được trồng để lấy sợi là kết quả chọn lọc nhân tạo qua hàng nghìn năm từ những cây trồng tổ tiên hoang dã kèm theo những đặc tính con người mong muốn nhất.\nNhững nhà thực vật là người nghiên cứu cách mà thực vật cho ra thực phẩm và cách tăng sản lượng, ví dụ thông qua nhân giống cây trồng, họ giữ vai trò quan trọng trong khả năng cung cấp thức ăn cho thế giới và đảm bảo an ninh lương thực cho thế hệ tương lai. Các nhà thực vật còn nghiên cứu cỏ dại (một vấn đề nổi cộm trong nông nghiệp), bệnh học thực vật trong nông nghiệp và hệ sinh thái tự nhiên. Thực vật dân tộc học là ngành nghiên cứu mối quan hệ giữa thực vật và con người. Khi được dùng để nghiên cứu về quan hệ lịch sử của người–thực vật, thực vật dân tộc học có thể xem là khảo cổ thực vật học. Một trong những mối quan hệ của người-thực vật ra đời sớm nhất phát sinh ở cộng đồng thổ dân Canada nhằm xác định thực vật ăn được và không ăn được. Các nhà thực vật dân tộc học cũng ghi chép lại mối quan hệ này của thổ dân với thực vật.\nHóa sinh thực vật.\nHóa sinh thực vật là ngành nghiên cứu các quá trình hóa học do thực vật sử dụng. Một vài trong số những quá trình này được dùng trong chuyển hóa sơ cấp như chu trình Calvin ở các nhóm thực vật C3, C4 và CAM. Những quá trình khác tạo ra những chất liệu chuyên dụng như cellulose và lignin dùng để cấu trúc cơ thể chúng và các sản phẩm thứ cấp như nhựa cây và chất thơm.\n box-shadow: 1px 1px 3px rgba(0,0,0,0.2);\">\nThực vật tạo nên nhiều sắc tố quang hợp, một vài sắc tố có thể thấy thông qua phương pháp sắc ký giấy\nXanthophyll\nDiệp lục \"a\"\nDiệp lục \"b\"\nThực vật và nhiều nhóm sinh vật nhân thực quang hợp khác có các bào quan độc nhất gọi là lục lạp. Lục lạp được xem là có nguồn gốc từ vi khuẩn lam, thứ tạo nên mối quan hệ nội cộng sinh với tổ tiên của thực vật và tảo cổ. Lục lạp và vi khuẩn lam chứa sắc tố diệp lục \"a\" màu xanh dương. Diệp lục \"a\" (cũng như sắc tố họ hàng diệp lục \"b\" trong thực vật và tảo màu xanh lá) hấp thụ ánh sáng ở các dải màu xanh dương-tím và cam/đỏ của quang phổ, đồng thời phản xạ và truyền đi ánh sáng xanh lá mà chúng ta thấy là màu đặc trưng của các sinh vật này. Năng lượng trong ánh sáng đỏ và xanh dương mà những sắc tố này hấp thụ (do lục lạp sử dụng) nhằm tạo nên các chất carbon giàu năng lượng từ carbon dioxide và nước bằng quang hợp tạo oxy, quá trình sản sinh oxy phân tử (O2) làm sản phẩm phụ.\nỞ pha sáng, năng lượng ánh sáng mà các sắc tố hấp thụ, đặc biệt là diệp lục \"a\" được truyền đi ở dạng các electron (và sau đó là gradient proton), qua hàng loạt các chất nhận điện tử đến cuối cùng dùng để tạo nên các phân tử ATP và NADPH – chúng tạm thời lưu trữ và vận chuyển năng lượng. Năng lượng của chúng được sử dụng trong pha tối của quang hợp, chủ yếu là trong chu trình Calvin bởi enzyme RuBisCo nhằm tạo ra các phân tử đường 3-carbon glyceraldehyde 3-phosphat (G3P). Glyceraldehyde 3-phosphat là sản phẩm đầu tiên của quang hợp và nguyên liệu thô để tổng hợp glucose và hầu hết những phân tử hữu cơ có nguồn gốc sinh học khác. Một vài glucose chuyển hóa thành tinh bột và được lưu trữ trong lục lạp. Tinh bột là nguồn dự trữ năng lượng đặc trưng của hầu hết thực vật trên cạn và tảo, trong khi inulin (một polyme của fructose) được dùng với mục đích tương tự trong họ Cúc (Asteraceae). Một số glucose bị chuyển thành saccharose (đường ăn thông thường) và vận chuyển đi các phần còn lại của cây.\nKhông giống động vật (thiếu lục lạp), thực vật và các họ hàng sinh vật nhân thực của chúng đã giao nhiều vai trò sinh học cho lục lạp, bao gồm tổng hợp tất cả acid béo, và đa số amino acid. Những acid béo mà lục lạp tạo ra được sử dụng cho nhiều mục đích, chẳng hạn như cung cấp nguyên liệu để xây dựng màng tế bào và tạo ra polyme cutin được tìm thấy trong lớp cutin thực vật giúp bảo vệ thực vật trên cạn khỏi mất nước. \nThực vật tổng hợp nên một số polymer độc đáo như các phân tử cellulose, pectin và xyloglucan mà từ đấy cấu thành nên vách tế bào thực vật.\nThực vật có mạch trên cạn tạo ra lignin, một loại polyme dùng để tăng cường vách tế bào thứ cấp của các quản bào và mạch gỗ, giữ chúng không bị đổ dưới áp lực của nước khi cây hút nước qua chúng. Lignin còn được sử dụng trong các loại tế bào khác như mô cứng, sợi gỗ, hỗ trợ cấu trúc cho cây và là thành phần chính của gỗ. Sporopollenin là một polyme kháng hóa mà giới khoa học tìm thấy trong vách tế bào ngoài của bào tử và phấn hoa, chịu trách nhiệm cho sự sinh tồn của bào tử thực vật trên cạn sơ khai và phấn hoa của thực vật có hạt trong mẫu hóa thạch. Nó được nhiều nhà nghiên cứu xem là dấu mốc khởi đầu của tiến hóa thực vật trên cạn trong kỷ Ordovic. Nồng độ carbon dioxide trong khí quyển ngày nay thấp hơn nhiều so với khi thực vật mọc lấn lên đất liền trong các kỷ Ordovic và Silur. Kể từ đấy, nhiều cây một lá mầm như ngô, dứa và một số cây hai lá mầm như họ Cúc đã tiến hóa thêm các con đường quang hợp độc lập như thực vật CAM và thực vật, nhằm tránh thất thoát sản phẩm quang hợp bởi hô hấp sáng trong con đường cố định carbon phổ biến hơn.\nThuốc và nguyên vật liệu.\nHóa thực vật là một phân ngành của hóa sinh thực vật chủ yếu liên quan đến các chất hóa học mà thực vật tạo ra trong quá trình trao đổi chất thứ cấp. Một số thành phần dạng này là chất độc như alkaloid coniin từ cây độc cần. Những chất khác chẳng hạn như tinh dầu bạc hà và tinh dầu chanh đều có ích với mùi thơm của chúng để chế thành hương liệu và gia vị (ví dụ capsaicin), và làm dược phẩm trong y học như trong nha phiến từ cây anh túc. Nhiều dược phẩm và thuốc tiêu khiển, như tetrahydrocannabinol (thành phần trong cần sa), caffein, morphin và nicotin đều bắt nguồn trực tiếp từ thực vật. Một số loại khác là dẫn xuất đơn giản từ các sản phẩm thực vật tự nhiên. Ví dụ, chất giảm đau aspirin là hợp chất ester acetyl của acid salicylic, lúc đầu tách ra từ vỏ cây liễu, và một lượng lớn thuốc giảm đau có thuốc phiện như heroin có được nhờ biến đổi hóa học của morphin lấy từ anh túc. Những chất kích thích phổ biến bắt nguồn từ thực vật, chẳng hạn như caffein từ cà phê, trà và sôcôla, và nicotin từ thuốc lá. Hầu hết đồ uống có cồn bắt nguồn từ quá trình lên men của các sản phẩm thực vật giàu carbohydrat như đại mạch (bia), gạo (rượu sake) và nho (rượu vang). Những người Mỹ bản địa đã sử dụng nhiều thực vật như một phương pháp chữa trị bệnh tật trong hàng nghìn năm. Những kiến thức về thực vật của người Mỹ bản địa đã được các nhà thực vật dân tộc học ghi chép lại và chúng được chuyển qua các công ty dược phẩm dùng để khám phá thuốc.\nThực vật có thể tổng hợp nên những sắc tố và thuốc nhuộm hữu ích như anthocyanin có tác dụng tạo màu đỏ của rượu vang đỏ, chất tạo màu vàng và chất nhuộm tùng lam cùng được dùng để chế màu xanh lá Lincoln, indoxyl – nguồn thuốc nhuộm chàm mà theo truyền thống để nhuộm vải denim, những sắc tố gamboge và cây thiên thảo cho màu vẽ của nghệ sĩ. Đường, tinh bột, sợi bông, vải lanh, gai dầu công nghiệp, một vài loại dây thừng, gỗ và ván dăm, giấy cói và giấy thường, dầu thực vật, sáp và cao su tự nhiên là những ví dụ về những chất liệu thương mại quan trọng được làm từ mô thực vật hoặc các sản phẩm thứ cấp của chúng. Than củi (một dạng carbon nguyên chất làm từ gỗ chưng khô) có một lịch sử lâu đời như một nhiên liệu nấu chảy kim loại, là chất liệu lọc và hấp phụ, chất liệu vẽ của nghệ sĩ và một trong ba thành phần của thuốc súng. Cellulose (hợp chất polymer hữu cơ dồi dào nhất thế giới) có thể được chuyển đổi thành năng lượng, nhiên liệu, vật liệu và nguyên liệu hóa học. Những sản phẩm chế từ cellulose gồm có tơ nhân tạo và giấy bóng kính, giấy dán tường, xăng butanol và đạn súng. Mía, cải dầu và đậu tương là một số loại thực vật có hàm lượng đường hoặc dầu dễ lên men, dùng làm các nguồn nhiên liệu sinh học, nguồn thay thế quan trọng cho nhiên liệu hóa thạch như diesel sinh học. Người Mỹ bản địa đã sử dụng cây cỏ ngọt để xua đuổi côn trùng như muỗi. Hội hóa học Mỹ về sau đã phát hiện những đặc tính xua đuổi bọ của cỏ ngọt trong các phân tử phytol và coumarin.\nSinh thái học thực vật.\nSinh thái học thực vật là bộ môn khoa học về các mối quan hệ chức năng giữa thực vật và sinh cảnh của chúng – môi trường nơi chúng hoàn thành vòng đời của mình. Những nhà sinh thái học thực vật nghiên cứu thành phần hệ thực vật bản địa và khu vực, tính đa dạng sinh học, đa dạng di truyền và xác suất, sự thích nghi với môi trường sống của thực vật, tính cạnh tranh hoặc tương tác hỗ sinh với các loài khác. Thậm chí một vài nhà sinh thái học còn dựa vào dữ liệu thực nghiệm từ người bản địa mà các nhà thực vật dân tộc học thu thập được. Thông tin này có thể chuyển giao một lượng lớn thông tin về cách vùng đất tồn tại từ hàng nghìn năm trước và nó đã thay đổi ra sao trong suốt thời gian đó. Mục tiêu của sinh thái học thực vật là nắm được nguyên nhân của các mẫu phân bố, năng suất, tác động tới môi trường, tiến hóa và phản ứng của thực vật trước biến đổi môi trường.\nThực vật phụ thuộc vào các yếu tố khí hậu và thổ nhưỡng (đất) nhất định ở môi trường của chúng, song cũng có thể điều chỉnh những yếu tố này. Ví dụ, chúng có thể thay đổi suất phản chiếu của môi trường, làm tăng khả năng chặn dòng chảy mặt, làm ổn định đất khoáng, phát triển hàm lượng hữu cơ của đất và tác động tới nhiệt độ môi trường xung quanh. Thực vật cạnh tranh với các sinh vật khác để giành lấy tài nguyên trong hệ sinh thái của chúng. Chúng tương tác với đồng loại theo nhiều quy mô không gian trong các nhóm cá thể, quần thể và quần xã, cùng tạo nên thảm thực vật chung. Những vùng mang thảm thực vật đặc trưng và các cây chiếm ưu thế cũng như những thành phần vô sinh và hữu sinh, khí hậu và địa lý tạo nên các khu sinh học như đài nguyên hoặc rừng mưa nhiệt đới.\nĐộng vật ăn cỏ thì ăn thực vật, song thực vật có thể tự phòng vệ, một số loài là ký sinh hay thậm chí ăn thịt. Những sinh vật khác tạo nên mối quan hệ cộng sinh có lợi với thực vật. Ví dụ, nấm rễ và rhizobia cung cấp chất dinh dưỡng cho thực vật để đổi lấy thức ăn, kiến bị cây kiến (Myrmecophyte) thu hút để giúp bảo vệ cây, ong mật, dơi và các động vật khác thụ phấn cho hoa con người và những động vật khác là vật trung gian phát tán các bào tử và hạt.\nThực vật, biến đổi khí hậu và môi trường.\nNhững phản ứng của thực vật với những biến đổi khí hậu và môi trường khác có thể giúp ta hiểu về cách những biến đổi này tác động lên chức năng và năng suất của hệ sinh thái. Ví dụ, hiện tượng học thực vật có thể là một biến đo nhiệt độ hữu ích trong lịch sử khí tượng, tác động sinh học của biến đổi khí hậu và ấm lên toàn cầu. Phấn hoa học, phép phân tích mỏ phấn hoa hóa thạch trong các trầm tích từ hàng nghìn hoặc hàng triệu năm trước cho phép tái tạo khí hậu của quá khứ. Những ước tính về nồng độ trong khí quyển kể từ Đại Cổ sinh có được từ mật độ khí khổng, hình dạng lá và kích thước của thực vật trên cạn cổ. Suy giảm ozon có thể làm thực vật tiếp xúc với tia bức xạ cực tím-B (UV-B), làm cho \ntốc độ phát triển thấp hơn. Ngoài ra, thông tin từ các nghiên cứu về quần xã sinh học, hệ thống hóa và phân loại thực vật là rất cần thiết để nắm rõ thay đổi của thảm thực vật, hủy hoại môi trường sống và những loài bị tuyệt chủng.\nDi truyền học.\nSự di truyền ở thực vật tuân theo những nguyên tắc cơ bản của di truyền giống như ở các sinh vật đa bào khác. Gregor Mendel khám phá ra các luật di truyền bằng việc nghiên cứu đặc điểm di truyền của kiểu hình cây \"Pisum sativum\" (đậu Hà Lan). Những gì Mendel rút ra từ nghiên cứu thực vật đã mang lại những lợi ích ảnh hưởng sâu rộng bên ngoài thực vật học. Tương tự, \"gen nhảy\" được Barbara McClintock phát hiện trong lúc bà nghiên cứu ngô. Tuy nhiên, có một vài nét khác biệt về mặt di truyền để phân biệt giữa thực vật và những sinh vật khác.\nRanh giới loài ở thực vật có thể kém hơn ở động vật, và phép lai khác loài thường dễ xảy ra. Một ví dụ điển hình là bạc hà Âu, \"Mentha\" × \"piperita\", một phép lai bất thụ giữa bạc hà nước và bạc hà \"Mentha spicata\". Nhiều giống lúa mì trồng trọt là kết quả của nhiều phép lai giữa và trong loài, giữa loài hoang dã và các giống lai của chúng. Thực vật có hoa lưỡng tính thường có cơ chế tự tương khắc hoạt động giữa phấn hoa và đầu nhụy để cho hạt phấn không rơi vào đầu nhụy hoặc không thể nảy mầm và tạo giao tử đực. Đây là một trong nhiều cách mà thực vật sử dụng để thúc đẩy giao phấn. Ở nhiều thực vật trên cạn, giao tử đực và cái được tạo ra bởi những cá thể riêng biệt. Những loài này được xem là phân tính khi nhắc tới thể bào tử của thực vật có mạch, và lưỡng tính khi nhắc đến thể giao tử rêu.\nKhông giống động vật bậc cao (hiếm trinh sản), sinh sản vô tính có thể xảy ra ở thực vật theo nhiều cơ chế khác nhau. Sự hình thành thân củ ở khoai tây là một ví dụ. Đặc biệt ở những môi trường sống Bắc Cực hoặc núi cao (hiếm cơ hội để động vật thụ tinh cho hoa), cây non hoặc thân hành có thể phát triển thay cho hoa, thay thế sinh sản hữu tính bằng sinh sản vô tính và làm phát sinh những quần thể vô tính giống với bố mẹ về mặt di truyền. Đây là một trong nhiều loại sinh sản vô phối xảy ra ở thực vật. Sinh sản vô phối cũng có thể xảy ra trong hạt, tạo ra một hạt chứa phôi giống bố mẹ về mặt di truyền.\nHầu hết sinh vật sinh sản hữu tính là lưỡng bội với những chiếc nhiễm sắc thể tồn tại thành cặp tương đồng. Bộ nhiễm sắc thể có thể sai sót trong quá trình phân bào. Tình trạng này có thể xảy ra sớm trong quá trình phát triển phôi tạo ra cơ thể tự đa bội hoàn toàn hoặc một phần, hoặc trong các quá trình biệt hóa tế bào thông thường nhằm tạo ra một số loại tế bào đa bội (thể nội đa bội), hoặc trong lúc hình thành giao tử. Một thực vật thể dị đa bội có thể ra đời từ một phép lai giữa hai loài khác nhau và sau đó được đa bội hóa. Cả thực vật tự đa bội và dị đa bội đều có thể sinh sản bình thường, song không thể phối chéo thành công với quần thể bố mẹ vì có sự không tương thích trong bộ nhiễm sắc thể. Những thực vật này bị cách li sinh sản khỏi loài bố mẹ dù sống trong cùng khu vực địa lý, có thể đủ thành công để hình thành một loài mới. Một số thể đa bội bất thụ khác ở thực vật có thể vẫn sinh sản sinh dưỡng hoặc hình thành những quần thể vô tính gồm các cá thể giống hệt nhau nhờ hình thức sinh sản vô phối ở hạt. Lúa mì cứng là một thể dị tứ bội bất thụ, trong khi lúa mì thông thường là một thể dị lục bội. Chuối thương mại là một ví dụ về thể tam bội bất thụ không hạt. Cây bồ công anh thông thường là thể tam bội tạo các hạt vô tính. Giống như ở các sinh vật nhân thực khác, di truyền ở các bào quan ty thể và lục lạp ở thực vật không theo quy luật di truyền Mendel. Lục lạp được di truyền thông qua cây đực ở thực vật hạt trần song thường qua cây mẹ ở thực vật có hoa.\nDi truyền phân tử.\nMột lượng kiến thức mới đáng kể về chức năng của thực vật đến từ những nghiên cứu về di truyền phân tử của thực vật mô hình như cây cải xoong \"Arabidopsis thaliana\", một loài cỏ dại nằm trong họ Cải (Brassicaceae). Bộ gen hoặc thông tin di truyền chứa trong các gen của loài này được mã hóa bởi khoảng 135 triệu cặp base DNA, tạo nên một trong những bộ gen nhỏ nhất của nhóm thực vật có hoa. \"Arabidopsis\" là thực vật đầu tiên được giải trình bộ gen vào năm 2000. Trình tự của một vài bộ gen tương đối nhỏ khác là của lúa (\"Oryza sativa\") và \"Brachypodium distachyon\" đã biến chúng thành những loài mô hình quan trọng để nghiên cứu di truyền, sinh học tế bào và phân tử của ngũ cốc, họ Lúa và thực vật một lá mầm nói chung.\nThực vật mô hình như \"Arabidopsis thaliana\" được dùng để nghiên cứu sinh học phân tử của tế bào thực vật và lục lạp. Lý tưởng hơn cả, những sinh vật này mang bộ gen nhỏ mà giới khoa học biết rõ hoặc giải trình tự hoàn toàn, phát triển nhanh và thời gian thế hệ ngắn. Ngô đã được dùng để nghiên cứu các cơ chế của quang hợp và vận chuyển đường qua mạch rây ở thực vật. Sinh vật đơn bào tảo lục \"Chlamydomonas reinhardtii\" (dù bản thân nó không phải thực vật có phôi) chứa diệp lục b trong lục lạp, sắc tố này liên quan đến diệp lục a ở thực vật trên cạn, trở thành một đề tài nghiên cứu hữu ích. Loài tảo đỏ \"Cyanidioschyzon merolae\" còn được dùng để nghiên cứu một vài chức năng cơ bản của lục lạp. Rau chân vịt, đậu Hà Lan, đậu tương và rêu \"Physcomitrella patens\" thường được dùng để nghiên cứu sinh học tế bào thực vật.\n\"Agrobacterium tumefaciens\" (một vi khuẩn sống ở nốt sần rễ cây họ Đậu (Fabaceae) trong đất) có thể gắn vào tế bào thực vật và lây nhiễm cho chúng bằng plasmid Ti mô sẹo (callus) nhờ chuyển gen ngang, gây dạng nhiễm thể sần (còn gọi là bệnh nốt sần). Schell và Van Montagu (1977) đưa ra giả thuyết rằng plasmid Ti có thể là một vector tự nhiên để đưa tới gen nif, thứ chịu trách nhiệm cho khả năng cố định đạm ở nốt sần rễ của cây họ Đậu và những loài thực vật khác. Ngày nay, biến đổi gen ở Ti plasmid là một trong những kĩ thuật chính để đưa gen chuyển vào thực vật và tạo ra cây trồng biến đổi gen.\nDi truyền học biểu sinh.\nDi truyền học biểu sinh là chuyên ngành nghiên cứu những thay đổi về mặt di truyền trong biểu hiện gen mà không thể giải thích bằng những thay đổi trong trình tự DNA cơ bản nhưng làm các gen của sinh vật hoạt động (hoặc \"tự biểu hiện\") khác nhau. Một ví dụ về sự thay đổi biểu sinh là đánh dấu gen bằng methyl hóa DNA, xác định xem liệu chúng sẽ được biểu hiện hay không. Biểu hiển gen còn có thể được kiểm soát bằng những protein ức chế gắn vào trình tự tắt của DNA và ngăn vùng ấy biểu hiện gen. Những chỉ thị của biểu sinh có thể bị xóa đi hoặc thêm vào DNA trong các giai đoạn của vòng đời phát triển thực vật, và chịu trách nhiệm cho những khác biệt giữa bao phấn, cánh hoa và lá thông thường, mặc cho thực tế rằng chúng đều mang mã di truyền cơ bản. Những thay đổi biểu sinh có thể là tạm thời hoặc có thể duy trì qua những lần phân bào liên tiếp trong phần đời còn lại của tế bào. Một vài thay đổi biểu sinh có thể xem là hệ số di truyền.\nNhững thay đổi biểu sinh trong sinh vật nhân thực có vai trò điều chỉnh quá trình biệt hóa tế bào. Trong quá trình phát sinh hình thái, các tế bào gốc toàn năng trở thành nhiều tế bào bất tử phôi, từ đó trở thành các tế bào đã biệt hóa hoàn toàn. Một noãn được thụ tinh duy nhất là hợp tử cho ra đời nhiều loại tế bào thực vật khác nhau, gồm có mô mềm, mạch ống của mạch gỗ, ống rây của mạch rây, tế bào bảo vệ của biểu bì... rồi tiếp tục nguyên phân. Quá trình bắt nguồn từ hoạt hóa biểu sinh của một số gen và ức chế các gen khác.\nKhông như động vật, nhiều tế bào thực vật, đặc biệt là tế bào của mô mềm không biệt hóa đến cuối mà vẫn toàn năng với khả năng phát sinh một cây cá thể mới. Những trường hợp ngoại lệ gồm có tế bào hóa gỗ cao, mô cứng và xylem chết lúc trưởng thành, và tế bào kèm mạch rây thiếu nhân. Trong khi thực vật sử dụng nhiều cơ chế biểu sinh tương tự động vật (chẳng hạn như tái mô hình hóa chất nhiễm sắc), một giả thuyết khác là những thực vật ấy thiết lập kiểu biểu hiệu gen nhờ sử dụng thông tin vị trí từ môi trường và các tế bào xung quanh để xác định số phận phát triển của chúng.\nNhững thay đổi biểu sinh có thể dẫn tới cận đột biến (không tuân theo quy luật di truyền Mendel). Những dấu hiệu biểu sinh này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp, một alen lại gây ra sự thay đổi lên alen khác.\nTiến hóa thực vật.\nLục lạp của thực vật có một số điểm tương đồng về hóa sinh, cấu trúc và di truyền so với vi khuẩn lam (có tên thông dụng nhưng không chuẩn là \"tảo lam\") và được cho là bắt nguồn từ mối quan hệ nội cộng sinh giữa một tế bào nhân thực cổ đại và một một dòng vi khuẩn lam.\nTảo là một nhóm sinh vật đa ngành và được xếp vào giới Khởi sinh trong hệ thống Whitaker - Margulis, một số loài có quan hệ mật thiết với thực vật hơn những loài khác. Có nhiều đặc điểm khác biệt giữa chúng như thành phần vách tế bào, hóa sinh, sắc tố, cấu trúc lục lạp và dự trữ chất dinh dưỡng. Ngành Luân tảo (có quan hệ chị em với ngành tảo lục Chlorophyta) được xem là ngành có tổ tiên của thực vật thật sự. Lớp Charophyceae của ngành Luân tảo và phân giới thực vật có phôi của thực vật trên cạn cùng hình thành nên nhóm đơn ngành hay nhóm thực vật Streptophytina.\nThực vật không mạch trên cạn là những thực vật có phôi thiếu mô mạch xylem và phloem. Chúng gồm có rêu, rêu tản và rêu sừng. Thực vật có mạch Pteridophyte mang xylem và phloem sinh sản bằng bào tử, nảy mầm thành giao tử sống độc lập, tiến hóa trong kỷ Silur và phân thành nhiều nhánh ở cuối kỷ Silur và đầu kỷ Devon. Những đại diện của cây thạch tùng vẫn tồn tại cho tới ngày nay. Cho đến cuối kỷ Devon, nhiều nhóm thực vật (tính cả thạch tùng, lá nêm và tiền hạt trần) đã tiến hóa độc lập thành \"đại bào tử\" – bào tử của chúng có hai kích thước riêng biệt, đại bào tử lớn hơn và vi bào tử bé hơn. Vi bào tử thường tiêu giảm, đại bào tử nguyên phân tạo giao tử và được giữ lại trong nang bào tử (megasporangia), còn có tên là nội bào tử. Hạt giống gồm có một nang nội bào tử được bao quanh bởi một hoặc hai lớp bọc ngoài (vỏ bọc). Bào tử non phát triển bên trong hạt giống, rồi khi hạt nảy mầm sẽ tách ra sẽ giải phóng bào tử. Những hạt giống thực vật ra đời sớm nhất có niên đại từ tầng Famenne của kỷ Devon gần nhất. Sau khi quá trình tiến hóa của hạt, thực vật có hạt phân thành nhiều dạng, phát sinh một số nhóm nay đã tuyệt chủng (gồm có dương xỉ hạt) cũng như thực vật hạt trần và thực vật có hoa hiện đại. Thực vật hạt trần sinh ra \"hạt trần\" không hoàn toàn bọc trong bầu; những đại diện hiện đại gồm có các ngành Thông, lớp Tuế, \"Bạch quả\" và lớp Dây gắm. Thực vật hạt kín sinh hạt bọc trong một bộ phận của nhụy (bầu nhụy). Hiện giới khoa học đang tiến hành nghiên cứu về việc phát sinh phân tử của thực vật sống, dường như là dấu hiệu cho thấy thực vật hạt kín là một nhóm chị em với thực vật hạt trần.\nSinh lý học thực vật.\nSinh lý học thực vật bao hàm toàn bộ hoạt động nội hóa học và vật lý của thực vật gắn liền với sự sống. Những hóa chất tổng hợp được nguyên liệu không khí, đất và nước hình thành nên trao đổi chất ở thực vật. Năng lượng của ánh mặt trời được thu nhận bởi quá trình quang hợp oxy và được giải phóng bởi hô hấp tế bào là nền tảng của hầu hết mọi sự sống. Sinh vật quang tự dưỡng, gồm có mọi thực vật có sắc tố xanh, tảo và vi khuẩn lam thu nhận năng lượng trực tiếp từ ánh mặt trời bằng quang hợp. Sinh vật dị dưỡng gồm có mọi động vật, mọi loài nấm, mọi thực vật ký sinh hoàn toàn và vi khuẩn không quang hợp thu nhận các phân tử hữu cơ do sinh vật quang tự dưỡng tạo ra rồi hô hấp hoặc sử dụng chúng trong việc xây dựng các tế bào và mô. Hô hấp là quá trình oxy hóa các hợp chất carbon bằng cách phân giải chúng thành những phân tử đơn giản hơn để giải phóng năng lượng mà chúng tích lũy, cơ bản là ngược lại với quang hợp.\nCác phân tử di chuyển trong thực vật theo quá trình vận chuyển chủ động và bị động ở nhiều quy mô không gian khác nhau. Các ion, electron và phân tử được vận chuyển dưới tế bào như nước và enzym diễn ra trên toàn bộ màng tế bào. Chất khoáng và nước được vận chuyển từ rễ lên các bộ phận khác của thực vật trong dòng thoát hơi nước. Khuếch tán, thẩm thấu, vận chuyển chủ động và dòng chảy khối lượng là toàn bộ những cách để vận chuyển. Ví dụ về dinh dưỡng khoáng thực vật cần là nitơ, phosphor, kali, calci, magnesi và lưu huỳnh. Ở thực vật có mạch, những yếu tố này được rễ hấp thu từ đất dưới dạng các ion hòa tan và vận chuyển khắp cơ thể thực vật trong mạch gỗ và mạch rây. Hầu hết những yếu tố ấy cần thiết cho dinh dưỡng thực vật xuất phát từ phân hủy hóa học của khoáng chất trong đất.\nHormone thực vật.\nThực vật không thụ động, song phản ứng chậm với các tín hiệu bên ngoài như ánh sáng, tiếp xúc và thương tổn bằng cách di chuyển hoặc phát triển hướng về phía hoặc tránh tác nhân kích thích tùy theo trường hợp. Bằng chứng hiển nhiên về tính nhạy cảm khi tiếp xúc là sự đổ gục gần như tức thời của lá chét cây trinh nữ, bẫy côn trùng của cây bẫy kẹp, chi Nhĩ cán và các hạt phấn của hoa lan.\nGiả thuyết cho rằng sự phát triển và sinh trưởng của thực vât được điều phối bởi hormone thực vật hoặc các chất điều hòa sinh trưởng thực vật lần đầu nổi lên vào cuối thế kỷ 19. Darwin đã thí nghiệm về chuyển động của chồi và rễ cây hướng về ánh sáng và trọng lực, ông kết luận: \"Hầu như không hề phóng đại khi cho rằng đầu của rễ mầm hoạt động như bộ não của một trong những loài động vật bậc thấp điều khiển nhiều chuyển động\". Cùng lúc ấy, vai trò của auxin (từ tiếng Hy Lạp , tức là mọc lên) trong việc kiểm soát sinh trưởng của thực vật lần đầu do nhà khoa học người Hà Lan Frits Went chỉ ra một cách khái quát. Auxin đầu tiên được biết tới là acid indole-3-acetic (IAA), có tác dụng kích thích tăng trưởng tế bào, được cô lập từ thực vật khoảng 50 năm về sau. Hợp chất này có vai trò là trung gian cho những phản ứng của rễ và chồi, định hướng các cơ quan này hướng về phía ánh sáng hoặc trọng lực. Giới khoa học phát hiện vào năm 1939 rằng mô sẹo của thực vật có thể phát triển trong môi trường nuôi cấy chứa IAA, kế đến là quan sát vào năm 1947 cho thấy nó có thể bị kích thích tạo nên rễ và chồi bằng cách kiểm soát tương quan giữa các nồng độ hormone tăng trưởng, đó là những bước tiến quan trọng trong sự phát triển của công nghệ sinh học và biến đổi gen ở thực vật.\nCytokinin là một loại hormone của thực vật có khả năng kiểm soát phân bào (đặc biệt là phân chia tế bào chất). Cytokinin tự nhiên zeatin được phát hiện trong ngô và là một dẫn xuất của purin adenin. Zeatin được tạo ra trong rễ rồi vận chuyển lên chồi qua mạch gỗ, nơi nó kích thích phân bào, phát triển chồi và nhuộm xanh cho lục lạp. Những gibberellin, chẳng hạn như acid gibberellic là những diterpen được tổng hợp từ acetyl CoA qua con đường mevalonat. Chúng có liên quan tới việc kích thích nảy mầm và phá vỡ sự ngủ ở hạt, điều chỉnh chiều cao của cây bằng cách kiểm soát kéo dài chuỗi polypeptit của thân và kiểm soát sự ra hoa. Acid abscisic (ABA) có mặt ở mọi thực vật trên cạn ngoại trừ ngành rêu tản và tổng hợp từ carotenoid trong lục lạp và các lạp thể khác. Nó ức chế phân bào, kích thích hạt trưởng thành, tình trạng ngủ và kích thích đóng khí khổng. Nó có tên như vậy vì là vì ban đầu ABA được cho là kiểm soát sự rụng (abscission). Ethylen là một hormone thể khí được tạo ra ở tất các mô thực vật bậc cao từ methionin. Ngày nay nó được biết tới là hormone nội sinh kích thích hoặc điều chỉnh quá trình chín và rụng của trái cây.\nMột loại hormone thực vật nữa là jasmonat, lần đầu được cô lập ra từ dầu của cây \"Jasminum grandiflorum\" có tác dụng điều chỉnh phản ứng với vết thương ở thực bằng cách kích hoạt biểu hiện gen cần có trong phản ứng tính kháng tập nhiễm có hệ thống trước sự tấn công của mầm bệnh. Ngoài vai trò là nguồn năng lượng chính của thực vật, ánh sáng còn có chức năng truyền tín hiệu, cung cấp thông tin cho cây, ví dụ như cây nhận được bao nhiêu ánh sáng mặt trời mỗi ngày. Từ đó có thể dẫn tới những thay đổi thích nghi trong một quá trình tên là phát sinh quang hình thái. Sắc tố thực vật là cơ quan cảm quang ở thực vật nhạy cảm với ánh sáng.\nHình thái và giải phẫu học thực vật.\nGiải phẫu học thực vật là chuyên ngành nghiên cứu cấu trúc của tế bào và mô ở thực vật, trong khi hình thái học thực vật là chuyên ngành nghiên cứu hình dạng bên ngoài của chúng. Tất cả thực vật là sinh vật nhân thực đa bào, DNA của chúng được bảo vệ trong nhân. Những đặc điểm của tế bào thực vật phân biệt chúng với tế bào của động vật và nấm gồm có vách tế bào sơ cấp được cấu tạo từ các polysaccharide là cellulose, hemicellulose và pectin, không bào lớn hơn so với không bào ở tế bào động vật nguyên sinh và sự hiện diện của lạp thể với những chức năng quang hợp và sinh tổng hợp độc đáo (ví dụ lục lạp). Các lạp thể khác chứa sản phẩm lưu trữ như tinh bột (lạp bột) hoặc lipid (lạp dầu). Đặc biệt, tế bào của ngành streptophyta và tế bào thuộc phân ngành tảo lục Trentepohliales phân chia bằng cách thiết kế thể vách ngăn giống như một mẫu để xây dựng tấm phân bào muộn trong quá trình phân bào.\nNhững phân ngành của thực vật có mạch gồm có lớp Thạch tùng, ngành Dương xỉ và thực vật có hạt (thực vật hạt trần và thực vật có hoa) nói chung có các tiểu hệ thống dưới lòng đất và trên mặt đất. Hệ chồi bao gồm thân mang lá màu xanh lục quang hợp và cấu trúc sinh sản. Hệ rễ chứa mạch ngầm dưới lòng đất có lông rễ ở đầu của chúng và thường thiếu diệp lục tố. Thực vật không mạch, rêu tản, rêu sừng và rêu không có rễ thật sự và các ngành thực vật này đều tham gia quang hợp. Sự hình thành thể bào tử không trải qua quang hợp ở rêu tản nhưng có thể quang hợp ở rêu sừng và rêu.\nHệ rễ và hệ chồi phụ thuộc nhau – hệ rễ thường không quang hợp, phụ thuộc sự cung cấp chất hữu cơ của hệ chồi, còn hệ chồi thường quang hợp và phụ thuộc vào nước và chất khoáng từ hệ rễ. Các tế bào ở mỗi hệ có thể tạo ra các tế bào ở bên còn lại và tạo ra rễ hoặc chồi bất định. Thân bồ và củ là những ví dụ cho thấy chồi có thể mọc rễ. Rễ có thể mọc lan tới gần bề mặt đất (như rễ của cây liễu), có thể tạo ra chồi và sau cùng là cây mới. Trong trường hợp một bên hệ thống bị mất, bên còn lại có thể tái mọc bên còn thiếu. Thực tế cả một cây có thể mọc từ chỉ một lá, giống như trường hợp của cây tử linh lan, hay thậm chí chỉ một tế bào – có thể phân hóa thành mô sẹo (một khối lượng tế bào không chuyên biệt) có thể phát triển thành một cây hoàn chỉnh. Ở thực vật có mạch, mạch gỗ và mạch rây là những mô dẫn vận chuyển tài nguyên giữa rễ và chồi. Rễ thường thích nghi để lưu trữ thức ăn như đường hoặc tinh bột, như ở củ cải đường và cà rốt.\nThân chủ yếu cung cấp dinh dưỡng và nước cho lá và các cấu trúc sinh sản, song có thể lưu trữ nước ở các thực vật mọng nước như ở xương rồng, thức ăn như ở củ khoai tây, hay sinh sản sinh dưỡng như ở thân bồ của cây dâu tây hay trong chiết cành. Lá thu nhận ánh mặt trời và tiến hành quang hợp. Những chiếc lá lớn, dẹt, dễ uốn và màu xanh được gọi là tán lá. Thực vật hạt trần, như thông, tuế, bạch quả và dây gắm là những thực vật cho ra đời hạt không được bọc trong quả, nên gọi là hạt trần. Thực vật có hoa là những thực vật có hạt tạo hoa và hạt được bọc trong quả, nên gọi là hạt kín. Những cây gỗ, chẳng hạn như đỗ quyên khô và sồi thì trải qua một giai đoạn sinh trưởng thứ cấp dẫn tới tăng thêm hai mô: gỗ (mạch gỗ thứ cấp) và vỏ cây (mạch rây và bần). Tất cả thực vật hạt trần và nhiều thực vật hạt kín là cây gỗ. Một số cây sinh sản hữu tính, một số lại sinh sản vô tính, và một số khác lại sinh sản bằng cả hai hình thức trên. Mặc dù những quan hệ tới các loại hình thái chính như rễ, thân, lá và túm lông đều hữu ích, nhưng cần lưu ý rằng những loại này được liên kết thông qua dạng trung gian để giúp cả cơ thể hoạt động liên tục. Ngoài ra, vì cấu trúc thực vật vận hành bằng những quá trình, có thể xem cấu trúc là quá trình hay là các tổ hợp quá trình.\nPhân loại học thực vật.\nPhân loại học thực vật học là phân ngành của phân loại sinh học, liên quan đến phạm vi và tính đa dạng của sinh vật và mối quan hệ của chúng, cụ thể như được xác định bởi lịch sử tiến hóa của chúng. Chuyên ngành này có liên quan tới phân loại sinh học, phân loại khoa học và phát sinh chủng loại học. Phân loại sinh học là phương pháp mà các nhà khoa học thực vật dùng để chia nhóm thực vật vào các bậc phân loại như chi và loài. Phân loại sinh học là một hình thức phân loại khoa học. Phân loại hiện đại khởi nguồn từ công trình của Carl Linnaeus, người đã phân nhóm các loài dựa theo đặc tính vật lý chung. Kể từ đấy những nhóm này đã được điều chỉnh để phù hợp hơn với quy tắc tổ tiên chung của Darwin – tức chia nhóm sinh vật theo tổ tiên thay cho đặc điểm ngoại hình. Trong khi các nhà khoa học không phải lúc nào cũng nhất trí về cách phân loại sinh vật, phát sinh chủng loại phân tử (lấy trình tự DNA làm dữ liệu), đã thúc đẩy nhiều sửa đổi phân loại học gần đây dọc theo các dòng tiến hóa và dường như tiếp tục hoạt động như vậy. Hệ thống phân loại chính có tên là phân loại Linnaeus, gồm có các bậc phân loại và danh pháp hai phần. Danh pháp của các sinh vật là thực vật được ghi hệ thống hóa trong Luật danh pháp quốc tế của tảo, nấm và thực vật quốc tế (ICN) và do Hội nghị khoa học thực vật quốc tế quản lý.\nGiới thực vật thuộc vực sinh vật nhân thực và được chia nhỏ theo kiểu đệ quy trước khi mỗi loài được phân chia riêng biệt. Trật tự phân loại là: Ngành; Giới; Lớp; Bộ; Họ; Chi; Loài. Tên khoa học của một cây đại diện cho chi và các loài của chi ấy, dẫn tới chỉ có một tên khoa học cho mỗi loài sinh vật trên toàn thế giới. Ví dụ, cây hoa huệ hổ có tên khoa học là \"Lilium columbianum\". \"Lilium\" là tên chi, còn \"columbianum\" là tên loài. Sự kết hợp tên chi và tên loài tạo ra tên khoa học của loài. Khi viết tên khoa học của một sinh vật, phải viết hoa chữ cái đầu tiên trong tên chi và viết thường tên loài. Ngoài ra, toàn bộ thuật ngữ thường được in nghiêng (hoặc được gạch chân nếu không in nghiêng).\nLịch sử tiến hóa và di truyền của một nhóm sinh vật được gọi là phát sinh chủng loại học. Phát sinh chủng loại học là chuyên ngành nghiên cứu phát hiện ra các dạng phát sinh chủng loài. Cách tiếp cận cơ bản là sử dụng những điểm tương đồng dựa trên trên di truyền chung để xác định các mối quan hệ. Lấy ví dụ, loài \"Pereskia\" là cây hoặc bụi cây và có lá rõ ràng. Hiển nhiên là chúng không hề giống một cây họ Xương rồng trụi lá như \"Echinocactus\". Tuy nhiên, cả \"Pereskia\" và \"Echinocactus\" có gai mọc ra từ các quầng gai (những cấu trúc chuyên biệt) cho thấy rằng hai chi thực sự có quan hệ tới nhau.\nĐánh giá các mối quan hệ dựa trên các đặc tính chung đòi hỏi sự cẩn trọng, vì thực vật có thể giống nhau thông qua tiến hóa hội tụ, trong đó các đặc tính phát sinh độc lập. Một số cây đại kích ít lá, thân tròn thích nghi với môi trường nước tương tự như cây xương rồng hình quả cầu, song các đặc tính như cấu trúc của hoa là minh chứng rõ rằng hai nhóm này không có quan hệ gần với nhau. Phương pháp miêu tả theo nhánh học lấy một cách tiếp cận phân loại với các đặc tính, phân biệt giữa những đặc tính không mang thông tin về lịch sử tiến hóa chung – chẳng hạn như những loài được tiến hóa riêng biệt trong các nhóm khác nhau (homoplasy - tương đồng) hoặc những loài được truyền lại đặc điểm từ tổ tiên (plesiomorphies - phân nhánh) - và những loài có nguồn gốc, được truyền lại đặc điểm đổi mới trong một tổ tiên chung (apomorphies). Chỉ những đặc tính có nguồn gốc, chẳng hạn như các quầng mọc gai của cây xương rồng, mới mang bằng chứng về một tổ tiên chung. Kết quả của phân tích miêu tả theo nhánh học được trình bày dưới dạng biểu đồ phân nhánh: những biểu đồ hình cây thể hiện mô hình phân nhánh và gốc rễ tiến hóa.\nTừ thập niên 1990 trở đi, các tiếp cận chính để thiết kế phát sinh chủng loại học cho thực vật sống đã trở thành phát sinh chủng loại phân tử, tức sử dụng các đặc điểm phân tử, cụ thể là trình tự DNA, thay vì các đặc điểm hình thái như sự có mặt hoặc không có gai và quầng. Sự khác biệt là chính mã di truyền được dùng để quyết định những mối quan hệ tiến hóa, thay vì sử dụng gián tiếp thông qua các đặc điểm hình thái do di truyền tạo ra. Clive Stace miêu tả phương pháp này mang \"quyền tiếp cận trực tiếp với cơ sở di truyền của tiến hóa.\" Lấy một ví dụ đơn giản, trước khi sử dụng bằng chứng di truyền, nấm chưa được xem là thực vật hay có quan hệ gần với thực vật hơn động vật không. Bằng chứng tiến hóa cho thấy quan hệ tiến hóa chính xác của sinh vật đa bào như thể hiện trong biểu đồ dưới đây – nấm có quan hệ gần với động vật hơn thực vật.\nNăm 1998, Nhóm phát sinh loài thực vật hạt kín đã xuất bản công trình phát sinh chủng loài học với thực vật có hoa dựa trên phép phân tích trình từ DNA từ hầu hết họ của thực vật có hoa. Nhờ có công trình này, nhiều câu hỏi, ví dụ như họ nào đại diện cho phân nhánh sớm nhất của thực vật hạt kín giờ đây đã có đáp án. Việc tra cứu thực vật có liên hệ ra sao với các loài khác cho phép các nhà khoa học thực vật nắm rõ hơn về quá trình tiến hóa ở thực vật. Mặc cho nghiên cứu thực vật mô hình và tăng cường sử dụng bằng chứng DNA, các nhà phân loại học vẫn đang tiến hành nghiên cứu thảo luận về phương pháp phân loại thực vật thành các đơn vị chính xác nhất. Sự phát triển công nghệ như máy tính và kính hiển vi điện tử đã tăng cường đáng kể mức độ nghiên cứu chi tiết và tốc độ dữ liệu được phân tích.\nKý hiệu thực vật.\nMột số ít ký hiệu hiện đang được dùng trong ngành thực vật học, trong đó có bao gồm hoa thức và hoa đồ. Số khác đã lỗi thời; ví dụ, Linnaeus đã sử dụng các ký hiệu tròn để chỉ thực vật thân thảo, gỗ và thực vật lâu năm. Dưới đây là các ký hiệu hiện hành:", "Khoa học sự sống hay khoa học đời sống bao gồm các lĩnh vực khoa học liên quan đến việc nghiên cứu khoa học của các sinh vật sống - như là vi sinh vật, thực vật, động vật và con người - cũng như những lãnh vực liên quan như đạo đức sinh học. Trong khi sinh học vẫn là trung tâm của khoa học sự sống, những tiến bộ công nghệ trong sinh học phân tử và công nghệ sinh học đã dẫn đến sự đang phát triển của chuyên ngành và các lĩnh vực liên ngành (liên ngành hay đa ngành là bao quát phương pháp tiếp cận, cách suy nghĩ, hoặc ít nhất là phương pháp nghiên cứu của nhiều lĩnh vực chuyên môn riêng biệt).\nMột số nhánh khoa học sự sống tập trung vào một loại hình cụ thể của sự sống. Ví dụ, động vật học là nghiên cứu về động vật, trong khi thực vật học là nghiên cứu về thực vật. Một số khác tập trung vào các khía cạnh chung cho tất cả hoặc nhiều hình thức của sự sống, chẳng hạn như giải phẫu học và di truyền học. Tuy nhiên, các lĩnh vực khác quan tâm đến những tiến bộ công nghệ liên quan đến các sinh vật sống, chẳng hạn như kỹ thuật sinh học. Một nhánh quan trọng khác, có thể đặc biệt, liên quan đến việc hiểu biết về tâm trí - thần kinh học.\nKhoa học sự sống cần thiết trong việc cải thiện chất lượng và tiêu chuẩn của cuộc sống. Chúng có nhiều ứng dụng trong y tế sức khỏe, nông nghiệp, y học và các ngành công nghiệp dược phẩm và khoa học thực phẩm.\nCó sự chồng chéo giữa nhiều nhánh trong số các chủ đề nghiên cứu của khoa học sự sống." ]
phu - vt - khe - khoa - hc - nghin - sinh - sc - ngnh - xc
0.757808
false
Giải phẫu học (tiếng Anh: "anatomy", lấy từ tiếng Hy Lạp là "anatomē", nghĩa là "mổ xẻ") là một trong các phân ngành của sinh học, liên quan đến nghiên cứu hình thái và cấu tạo của cơ thể sinh vật. Giải phẫu học cũng là một nhánh trong khoa học tự nhiên đi sâu vào tổ chức cấu trúc trong các sinh vật sống. Đây là một bộ môn khoa học lâu đời với nguồn gốc có từ tận thời Tiền sử. Phân ngành này vốn gắn liền với các ngành khác như sinh học phát triển, phôi học, giải phẫu so sánh, sinh học tiến hóa và phát sinh chủng loại học, vì thông qua giải phẫu, ta có thể quan sát những biến đổi về cấu trúc trong một khoảng thời gian ngắn (như sự phát triển của phôi) hoặc rất dài (như trong tiến hóa). Trong khi giải phẫu học nghiên cứu về cấu trúc thì sinh lý học nghiên cứu về chức năng của sinh vật cũng như các cơ quan, vì vậy, hai bộ môn này tạo thành một cặp liên ngành trong khoa học tự nhiên và thường được nghiên cứu cùng nhau. Giải phẫu người là một trong những ngành khoa học cơ bản thiết yếu được áp dụng trong y học. Các ngành của giải phẫu có thể được chia thành giải phẫu vĩ mô và giải phẫu vi mô. Giải phẫu vĩ mô hay giải phẫu thô là nghiên cứu các bộ phận cơ thể của động vật chỉ với mắt thường. Giải phẫu vĩ mô cũng bao gồm các nhánh của giải phẫu bề ngoài. Giải phẫu vi mô hay giải phẫu hiển vi lại sử dụng các dụng cụ quang học hỗ trợ để nghiên cứu các mô từ các cấu trúc khác nhau, được gọi là mô học, và cả trong nghiên cứu tế bào. Lịch sử giải phẫu học được đặc trưng bởi sự hiểu biết ngày càng tiến bộ về cấu trúc và chức năng của các cơ quan trên cơ thể con người. Các phương pháp sử dụng để giải phẫu cũng có những bước tiến đáng kể: từ chỉ phẫu tích thô xác động vật, ngày nay, ta sử dụng các kỹ thuật hình ảnh y học tiên tiến như X-quang, siêu âm và chụp cộng hưởng từ để nghiên cứu. Định nghĩa. Từ "anatomy" (giải phẫu) trong tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "anatomē" nghĩa là "mổ xẻ". Về từ nguyên, ἀνατέμνω ("anatémnō", nghĩa là "Tôi cắt tách và mở ra"), trong đó ἀνά ("aná", "tách"), và τέμνω ("témnō", "tôi cắt"). Giải phẫu học là bộ môn nghiên cứu khoa học về các hệ thống, cơ quan và mô của sinh vật. Giải phẫu học mô tả hình dạng và vị trí của các bộ phận khác nhau, "thành phần" cấu tạo nên bộ phận đó cũng như mối quan hệ giữa các bộ phận đó với các bộ phận khác. Đây là bộ môn khá đặc thù nếu so sánh với sinh lý học và hóa sinh, là hai bộ môn lần lượt nghiên cứu về chức năng cũng như các quá trình hóa học của một bộ phận nào đó. Ví dụ, một nhà giải phẫu sẽ quan tâm đến hình dạng, kích thước, vị trí, cấu trúc, nguồn cung máu và các dây thần kinh của một cơ quan, chẳng hạn như gan; trong khi đó, một nhà sinh lý học lại quan tâm đến việc tiết mật, vai trò của gan trong dinh dưỡng và điều hòa các chức năng cơ thể. Giải phẫu học được chia thành một số phân ngành nhỏ hơn như giải phẫu vĩ mô (giải phẫu thô) và giải phẫu vi mô (giải phẫu hiển vi). Giải phẫu vĩ mô nghiên cứu về các cấu trúc đủ lớn để có thể thấy bằng mắt thường. Giải phẫu bề mặt cũng được xếp vào giải phẫu vĩ mô, phân ngành này chuyên nghiên cứu các đặc điểm cơ thể có thể nhìn thấy ở bên ngoài mà không mổ vào bên trong. Giải phẫu vi mô (bộ môn mô-phôi) là nghiên cứu về các cấu trúc ở cấp độ hiển vi. Mô học (nghiên cứu về mô) và phôi học (nghiên cứu về phôi) cũng được xếp vào nhóm ngành này. Giải phẫu có thể được nghiên cứu bằng cả phương pháp xâm lấn và không xâm lấn với mục đích là thu được thông tin về cấu trúc và tổ chức của các cơ quan và hệ thống. Phương pháp được sử dụng có thể kể đến như phẫu tích (hay mổ xẻ), tức là ta sẽ "mở" cơ thể sinh vật và nghiên cứu các cơ quan. Một phương pháp khác là nội soi, sử dụng một dụng cụ có gắn máy quay và đưa vào cơ thể qua một vết mổ nhỏ, những hình ảnh thu được sẽ cho ta thông tin về các cơ quan nội tạng cũng như các cấu trúc khác. Chụp động mạch bằng tia X hoặc chụp mạch cộng hưởng từ là phương pháp để thu được hình ảnh cho các mạch máu. Thuật ngữ "giải phẫu" thường được dùng để chỉ giải phẫu người. Tuy nhiên, về cơ bản thì các loài khác trong giới Động vật cũng có các cấu trúc và mô tương tự như chúng ta, vì vậy, "giải phẫu" còn có thể muốn đề cập đến giải phẫu các loài động vật nói chung. Thuật ngữ "giải phẫu động vật" ("zootomy") đôi khi cũng được sử dụng để chỉ riêng việc giải phẫu các động vật không phải người. Cấu trúc và mô của thực vật có bản chất không giống như động vật và chúng được nghiên cứu trong bộ môn khác là giải phẫu thực vật. Mô động vật. Giới Động vật gồm các sinh vật đa bào, sống dị dưỡng và có thể vận động (dù trong tiến hóa, một số loài đã không còn khả năng này, chẳng hạn như san hô và bọt biển). Hầu hết các động vật có cơ thể được biệt hóa thành các mô riêng biệt, những động vật này còn được gọi là Eumetazoa. Chúng có một khoang tiêu hóa nằm trong cơ thể, với một hoặc hai lỗ mở ra ngoài; giao tử được tạo ra tại cơ quan sinh dục đa bào và có giai đoạn phôi nang trong quá trình phát triển từ hợp tử của mình. Lưu ý, ngành Thân lỗ (chẳng hạn như bọt biển) cũng được xếp vào giới Động vật, vì chúng là động vật đa bào nguyên thủy. Không giống như tế bào thực vật, tế bào động vật không có thành tế bào hay lục lạp. Nếu tế bào động vật có không bào thì bào quan này có số lượng nhiều hơn nhưng kích thước lại nhỏ hơn so với ở thực vật. Các mô cơ thể gồm có nhiều loại tế bào, tính cả những loại tế bào được tìm thấy ở cơ, dây thần kinh và da. Mỗi loại tế bào thường có đủ ba thành phần chính: màng tế bào (cấu tạo từ phospholipid), tế bào chất và nhân. Tất cả các tế bào khác nhau của động vật đều có nguồn gốc từ lá phôi. Động vật không xương sống với cấu trúc đơn giản phát triển từ phôi hai lá (gồm lá phôi ngoài và lá phôi trong). Động vật phức tạp hơn lại có cấu trúc và cơ quan được hình thành từ phôi ba lá. Tất cả mô và cơ quan của các động vật này đều có nguồn gốc từ ba lá phôi, gồm: lá phôi ngoài, lá phôi giữa và lá phôi trong. Mô động vật có thể được nhóm thành bốn loại cơ bản: mô liên kết, biểu mô, mô cơ và mô thần kinh. Mô liên kết. Mô liên kết có dạng sợi và được tạo thành từ các tế bào nằm rải rác trên phần vô cơ gọi là chất nền ngoại bào. Mô liên kết tạo hình cho các cơ quan và giữ chúng đúng vị trí. Các loại mô liên kết chính gồm có mô liên kết lỏng, mô mỡ, mô liên kết sợi, sụn và xương. Chất nền ngoại bào chứa các protein, loại protein chủ yếu và phong phú nhất là collagen. Collagen đóng vai trò chính trong việc tổ chức và duy trì các mô. Chất nền ngoại bào có thể được biến đổi để tạo thành xương giúp nâng đỡ và bảo vệ cơ thể. Bộ xương ngoài là lớp bảo vệ dày và cứng bên ngoài cơ thể động vật. Lớp bảo vệ này có thể được làm cứng bằng cách khoáng hóa chất nền, như ở động vật giáp xác hoặc bằng cách đan chéo chéo protein, như ở côn trùng. Bộ xương trong ở bên trong cơ thể và có mặt ở tất cả các loài động vật bậc cao và một số ở động vật bậc thấp. Biểu mô. Biểu mô hay mô biểu bì gồm các tế bào được xếp ken chặt với nhau, liên kết với nhau bởi các phân tử kết dính tế bào. Khoảng không gian giữa các tế bào với nhau là rất nhỏ. Các tế bào của biểu mô có thể có dạng dẹt (giống gạch lát sàn nhà), dạng khối (giống viên xúc xắc) hoặc dạng cột (giống hình viên gạch). Các tế bào này được xếp trên phiến nền ("basal lamina"). Phiến nền là lớp phía trên của lớp màng nền, còn lớp phía dưới của màng nền là phiến lưới. Phiến lưới nằm cạnh mô liên kết trong chất nền ngoại bào được tiết ra bởi tế bào biểu mô. Có nhiều loại biểu mô khác nhau, mỗi loại được biến đổi để phù hợp với chức năng cụ thể. Chẳng hạn, đường hô hấp được lót bởi một loại biểu mô có các lông rung; các tế bào biểu mô với các lông siêu nhỏ (còn gọi là riềm bàn chải) lót ở ruột non và biểu mô lót trong ruột già có các lông ruột. Da, lớp phủ bên ngoài cơ thể ở động vật có xương sống, được cấu tạo nhiều lớp biểu mô dẹt với phần bên ngoài được sừng hóa. Tế bào sừng chiếm tới 95% tổng số tế bào trong da. Các tế bào biểu mô ở phía mặt bên ngoài của cơ thể thường tiết ra chất nền ngoại bào. Ở các động vật đơn giản, chất nền chỉ là một lớp glycoprotein. Ở những động vật tiến hóa hơn, nhiều tuyến được hình thành từ các tế bào biểu mô. Mô cơ. Các tế bào cơ hợp lại thành mô hoạt động theo phương thức co rút. Mô cơ có chức năng tạo ra lực, hình thành cử động hoặc vận động các cơ quan nội tạng. Cơ được hình thành từ các sợi tơ cơ, gồm ba loại: cơ vân (hay cơ xương), cơ trơn và cơ tim. Cơ trơn là các tế bào cơ kéo dài thành hình thoi, không có khía vân ngang khi kiểm tra bằng kính hiển vi. Loại cơ này co chậm và yếu nhưng nhưng duy trì sự co lâu hơn. Cơ trơn được tìm thấy trong các cơ quan như xúc tu hải quỳ và thành cơ thể của hải sâm. Cơ vân có khả năng co lại nhanh, mạnh nhưng chỉ trong một thời gian hạn chế nhất định. Loại cơ này được tìm thấy trong các cơ hàm. Ở động vật bậc cao, cơ vân xuất hiện thành bó, bám vào xương để gây chuyển động và cơ thường được sắp xếp theo dạng đôi một đối kháng. Cơ trơn được tìm thấy trong các thành của tử cung, bàng quang, ruột, dạ dày, thực quản, đường thở và mạch máu. Cơ tim chỉ có ở tim, thực hiện co bóp và bơm máu đi khắp cơ thể. Mô thần kinh. Mô thần kinh gồm các tế bào thần kinh (nơron) và các tế bào thần kinh đệm (thần kinh giao). Ở một số động vật biển hình thái đối xứng có khả năng di chuyển chậm như các động vật thuộc ngành Sứa lược và ngành Thích ty bào (bao gồm hải quỳ và sứa), thần kinh có dạng mạng lưới thần kinh. Ở hầu hết các động vật, dây thần kinh được hợp lại thành bó. Ở động vật bậc thấp, tế bào thần kinh thụ thể trong thành cơ thể gây ra phản ứng cục bộ với một kích thích. Ở động vật phức tạp hơn, các tế bào thụ thể chuyên biệt như hóa thụ thể ("chemoreceptor") và quang thụ thể ("photoreceptor") tập hợp lại và truyền đạt thông tin dọc theo mạng lưới thần kinh đến các vùng khác của cơ thể sinh vật. Các tế bào thần kinh kết nối với nhau trong hạch thần kinh. Ở động vật bậc cao, các thụ thể chuyên biệt là cơ sở của các cơ quan tiếp nhận cảm giác. Các loài này còn có cả hệ thần kinh trung ương (não và tủy sống) và hệ thần kinh ngoại biên. Hệ thần kinh ngoại biên gồm nhánh cảm giác: làm nhiệm vụ truyền thông tin từ cơ quan cảm giác khi tiếp nhận kích thích từ môi trường và nhánh vận động giúp chi phối vận động cho cơ quan đích, trả lời các kích thích đó. Hệ thần kinh ngoại biên được chia thành hệ thần kinh soma truyền cảm giác và kiểm soát cơ vân, và hệ thần kinh tự chủ kiểm soát không ý thức hoạt động cơ trơn, một số tuyến, nội tạng, bao gồm dạ dày. Giải phẫu động vật có xương sống. Tất cả các động vật có xương sống có một cấu trúc cơ thể khá giống nhau, đặc biệt là trong giai đoạn phôi thai: các động vật đều hình thành dây sống, thừng nguyên sống, ống thần kinh, cung họng và đuôi phía sau hậu môn. Tủy sống được cột sống bảo vệ, nằm phía trên thừng nguyên sống và phía sau ống tiêu hóa. Mô thần kinh có nguồn gốc từ lớp ngoại bì, mô liên kết có nguồn gốc từ trung bì và ruột có nguồn gốc từ nội bì. Ở phía sau cùng là đoạn đuôi, liên tiếp với tủy sống nhưng không liên tiếp với ruột. Miệng nằm ở mặt trước còn hậu môn ở mặt sau, vị trí dưới đuôi. Một trong những đặc điểm quan trọng của động vật có xương sống là có sự hình thành, phát triển cột sống và phân đoạn thành các đốt sống. Ở hầu hết các loài động vật có xương sống, thừng nguyên sống phát triển thành nhân tủy của đĩa gian đốt sống. Tuy nhiên, một số ít động vật có xương sống (họ Cá tầm và bộ Cá vây tay) vẫn còn thừng nguyên sống đến khi trưởng thành. Động vật có quai hàm có đặc điểm tiêu giản phần phụ (vây, chân). Các chi của động vật có xương sống là các cơ quan tương đồng vì cấu trúc xương có những nét giống nhau và được thừa hưởng từ một tổ tiên chung. Nhà tự nhiên học Charles Darwin đã dựa vào lý thuyết này để củng cố thuyết tiến hóa của mình. Giải phẫu cá. Cơ thể cá được chia thành ba phần: đầu, thân và đuôi. Sự phân chia này đôi khi không thể xác định bằng hình dạng bên ngoài. Bộ xương là cấu trúc nâng đỡ bên trong cơ thể cá, có thể là sụn (đối với lớp cá sụn) hoặc xương (trong liên lớp cá xương). Thành phần chính của bộ xương cá là cột sống, gồm các đốt sống khớp có khối lượng nhẹ tiếp nối với nhau mạnh mẽ. Xương sườn gắn với cột sống. Cá không có chi hoặc chi bị tiêu giản. Vây cá nối tiếp xương sống hoặc gai mềm gọi là vây tia. Vây đuôi không có kết nối trực tiếp với cột sống mà được các cơ thân mình hỗ trợ hoạt động. Tim cá có hai ngăn, bơm máu đến bề mặt hô hấp của mang và khắp cơ thể theo hệ tuần hoàn. Mắt được điều chỉnh để thích nghi với hoạt động nhìn dưới nước nhưng có tầm nhìn hạn chế. Cá chỉ có tai trong, không có tai ngoài hoặc tai giữa. Các rung động với tần số thấp được tiếp nhận bởi một hệ thống cơ quan cảm giác chạy dọc theo phía bên cơ thể, giúp cơ thể phản ứng lại các chuyển động gần đó và sự thay đổi áp lực nước. Cá mập và cá đuối là các loài cá cơ sở trong cây phát sinh chủng loại với nhiều đặc điểm giải phẫu nguyên thủy tương tự như các loài cá cổ đại. Bộ xương cấu tạo từ sụn. Cơ thể có xu hướng phẳng dẹt, thường có năm cặp mang và một miệng lớn ở vị trí mặt dưới của vùng đầu. Da được bao phủ bởi các vây tia hình tấm riêng biệt. Cá có lỗ huyệt, nơi đường tiết niệu và bộ phận sinh dục được bộc lộ, nhưng không có bong bóng cá. Cá sụn sản xuất một số lượng nhỏ trứng có kích thước lớn, có lòng đỏ. Một số loài có phương thức sinh sản noãn thai sinh (con non phát triển bên trong cơ thể mẹ) nhưng một số khác lại đẻ trứng. Cá xương cho thấy các đặc điểm giải phẫu mang tính "dẫn xuất" hơn, tức là có nhiều thay đổi lớn mang tính tiến hóa từ các bộ phận trên cơ thể cá cổ đại. Chúng có bộ xương làm từ xương thật, cơ thể có xu hướng phẳng theo chiều hai bên, có năm cặp mang được bảo vệ bởi một nắp mang, miệng ở gần mũi. Da cá được bao bọc nhờ các lớp vảy xếp chồng lên nhau. Cá xương có bong bóng cá giúp cơ thể duy trì độ sâu không đổi trong cột nước, nhưng không có lỗ huyệt. Cá xương tưới ra lượng lớn trứng kích thước bé, lòng đỏ nhỏ vào cột nước. Giải phẫu lưỡng cư. Động vật lưỡng cư là một lớp động vật bao gồm ếch, kỳ nhông và lưỡng cư không chân (caecilian). Đây là nhóm các động vật có tứ chi, nhưng các loài lưỡng cư không chân và một vài loài kỳ nhông lại không có hoặc tiêu giảm kích thước của chân. Xương chính của các loài này rỗng, nhẹ và được hóa cốt (làm chắc) hoàn toàn; các đốt sống của chúng được lồng ghép với nhau và có các mối nối đốt sống. Xương sườn của động vật lưỡng cư thường ngắn và có thể được hợp nhất với đốt sống. Hộp sọ của những loài này thì thường rộng và ngắn, và thường không được làm cứng hoàn toàn. Da của chúng chứa ít keratin và không có vảy, nhưng lại chứa nhiều tuyến nhầy và ở một số loài là các tuyến chất độc. Tim của động vật lưỡng cư có ba ngăn, hai tâm nhĩ và một tâm thất. Chúng cũng có bàng quang và chất thải chứa nitơ được bài tiết chủ yếu dưới dạng urê. Động vật lưỡng cư thở bằng phương pháp gọi là bơm khoang miệng: đầu tiên, nhờ sự phối hợp của các cơ, không khí sẽ được hút qua lỗ mũi vào khu vực khoang miệng, các lỗ này sau đó được đóng lại và không khí được dồn xuống phổi nhờ quá trình co của cơ cổ họng. Chính nhờ cách thở này, một số con ếch đực có thể tạo ra những tiếng kêu to rất đặc trưng, như ta hay nghe thấy vào mùa hè, bằng cách hít vào nhiều lần và không thở ra. Bên cạnh cách thở bằng phổi, lưỡng cư cũng có thể trao đổi khí qua da với điều kiện là da phải luôn được giữ ẩm. Ở ếch, xương chậu của chúng rất khỏe và chân sau dài và mạnh hơn nhiều so với chân trước. Bàn chân chúng có bốn hoặc năm ngón và các ngón chân thường có màng để bơi hoặc có màng hút để leo trèo. Ếch có đôi mắt to và không có đuôi. Kỳ giông thì có ngoại hình khá giống với thằn lằn; chân của chúng ngắn và được bố trí lệch, bụng của các loài này thì thõng xuống gần hoặc tiếp xúc với mặt đất và chúng có một cái đuôi dài. Lưỡng cư không chân có bề ngoài trông giống như giun đất và không có chi. Chúng đào hang bằng cách co các vùng cơ dọc theo cơ thể và chúng bơi bằng cách trườn cơ thể từ bên này sang bên kia. Giải phẫu bò sát. Động vật bò sát là một lớp động vật bao gồm rùa, "sphenodon", thằn lằn, rắn và cá sấu. Nhóm các loài này có bốn chân, nhưng rắn và một vài loài thằn lằn lại không có hoặc đã tiêu giảm kích thích chi đi rất nhiều. Xương của chúng được hóa cốt tốt hơn và xương của chúng cũng khỏe hơn xương của động vật lưỡng cư. Răng những loài này có hình nón và kích thước nhìn chung là khá đồng nhất. Các tế bào bề mặt của lớp biểu bì được biến đổi thành vảy sừng, tạo nên một lớp chống thấm cho cơ thể. Bò sát không thể sử dụng da để hô hấp như động vật lưỡng cư, bù lại, chúng có hệ hô hấp hiệu quả hơn để hút không khí vào phổi bằng cách mở rộng thành ngực. Tim của bò sát khá giống với lưỡng cư nhưng có thêm một vách ngăn giúp phân tách dòng máu giàu oxy và máu nghèo oxy hiệu quả hơn. Hệ thống sinh sản đã phát triển theo hướng thụ tinh trong, cơ quan sinh sản cũng có mặt ở hầu hết các loài. Trứng của chúng được bao quanh bởi một lớp màng ối giúp giữ ẩm. Bò sát thường đẻ trứng trên đất liền, một số loài thì sinh sản theo hình thức noãn thai sinh (tức là trứng đã nở thành thai trước khi đẻ). Các loài này có bàng quang nhỏ và dạng chất thải nitơ được bài tiết là axit uric. Rùa là nhóm loài nổi bật với bộ "áo giáp" bảo vệ của mình. Cơ thể rùa được bọc bởi một lớp mai sừng ở trên và một tấm giáp phía dưới, cả hai đều cứng và không linh hoạt. Những phiến bảo vệ này được hình thành từ các tấm xương gắn với lớp hạ bì, được bao phủ bởi các lớp sừng và được hợp nhất một phần với xương sườn và cột sống. Cổ của rùa khá dài và linh hoạt, đầu và chân của chúng đều có thể rụt lại vào trong vỏ. Rùa là loài ăn thực vật, cấu trúc răng bò sát điển hình đã được thay bằng những phiến sắc nhọn, gồ ghề. Ở các loài rùa sống dưới nước, chân trước đã được biến đổi thành chân chèo. "Sphenodon" có ngoại hình trông giống như thằn lằn nhưng tổ tiên của hai chi này tách ra từ kỷ Tam Điệp. "Sphenodon puncatus" là loài duy nhất thuộc chi này tồn tại. Hộp sọ của chúng có hai lỗ mở ("fenestrae") nằm ở hai bên đầu và hàm gắn chặt vào hộp sọ. Khi nhai, một hàng răng ở hàm dưới khớp với hai hàng răng ở hàm trên. Răng chỉ đơn thuần cấu tạo từ xương xuyên qua hàm, có thể bị mài mòn. So với các loài bò sát khác, não và tim của chúng kém tiến hóa hơn và phổi có một buồng duy nhất, không có phế quản. "Sphenodon" có một mắt giữa nằm trên trán, rất phát triển. Thằn lằn có hộp sọ với chỉ một cửa sổ ở mỗi bên, thanh xương bên dưới của cửa sổ thứ hai đã bị tiêu biến. Điều này làm cho hàm của chúng linh hoạt hơn và cũng cho phép thằn lằn mở miệng rộng hơn. Thằn lằn chủ yếu di chuyển theo kiểu bốn chân: thân mình của chúng được giữ trên mặt đất bằng những chiếc chân ngắn, hướng ra ngoài. Tuy nhiên cũng có một số loài thằn lằn không có chi và trông giống như rắn. Thằn lằn sở hữu mí mắt linh hoạt, có xuất hiện màng nhĩ và một số loài có mắt giữa. Rắn có họ hàng gần gũi với thằn lằn, hai nhánh này đã tách ra từ cùng dòng tổ tiên chung từ kỷ Phấn trắng, và vì vậy nên chúng có chung nhiều đặc điểm giống nhau. Bộ xương chúng được cấu thành từ một hộp sọ, xương móng, cột sống và xương sườn, một số loài còn giữ lại vết tích của xương chậu và các chi phía sau dưới dạng "móng" xương chậu. Thanh xương bên dưới cửa sổ thứ hai cũng đã bị tiêu biến, điều này làm cho hàm rắn có độ linh hoạt cực cao và cho phép chúng nuốt trọn con mồi. Rắn không có mí mắt cử động được, thay vào đó, mắt của chúng được phủ bởi lớp vảy trong suốt, như một chiếc "kính mắt" vậy. Rắn không có màng nhĩ nhưng có thể phát hiện những rung động mặt đất qua xương sọ. Khá đặc biệt, lưỡi của rắn được sử dụng với vai trò cơ quan để "nếm" và "đánh hơi" (và chính vì vậy mà rắn thường thè lưỡi vào không khí). Một số loài còn có các lỗ cảm quan trên đầu cho phép chúng định vị nhiệt phát ra từ những con mồi máu nóng. Cá sấu là một loài bò sát lớn, sống ở dưới nước trũng, có mõm dài và một số lượng lớn răng. Đầu và thân của chúng khá dẹt theo mặt lưng-bụng và đuôi được nén ngang. Chúng sẽ quẫy đuôi từ bên này sang bên kia để tạo lực đẩy khi bơi. Các vảy cứng, được sừng hóa, tạo thành một lớp áo giáp bảo vệ cơ thể, một số vảy cũng được hợp nhất với hộp sọ. Lỗ mũi, mắt và tai được nâng lên phía trên cái đầu dẹt của chúng, cho phép những cơ quan này ở trên mặt nước khi cá sấu nổi. Các van sẽ bít kín lỗ mũi và tai khi chúng lặn xuống nước. Không giống như các loài bò sát khác, cá sấu có tim với bốn ngăn, khiến cho máu giàu oxy và máu nghèo oxy được tách biệt và không bị trộn lẫn. Giải phẫu chim. Chim là động vật bốn chi, chi sau sử dụng để đi hoặc nhảy, chi trước là đôi cánh phủ đầy lông, thích nghi cho hoạt động bay. Chim là loài hằng nhiệt, có tốc độ chuyển hóa cơ bản cao, hệ xương nhẹ và hệ cơ mạnh mẽ. Xương dài mỏng, rỗng và rất nhẹ. Túi khí mở rộng từ phổi lan tới vùng trung tâm một số xương. Xương ức rộng và thường có cựa và các đốt sống cùng hợp nhất. Chim không có răng. Hàm hẹp, tiến hóa thành mỏ có chất sừng. Đôi mắt tương đối lớn, đặc biệt là ở các loài sống về đêm như cú. Lớp biểu bì phát triển thành lông vũ. Lông bay lớn mọc trên cánh và đuôi. Lông viền bao phủ bề mặt cơ thể chim. Lông mịn xuất hiện trên chim non và dưới lông vũ của chim di chuyển nước. Tuyến da duy nhất của chim là tuyến phao câu, tiết ra chất nhờn giúp lông không thấm nước khi chim rỉa lông. Chân có vảy, bàn chân và móng vuốt có ở trên đầu các ngón chân. Giải phẫu thú. Thú có vú là lớp động vật có xương sống đa dạng về loài. Các loài sống chủ yếu trên cạn, một số loài sống dưới nước, một số loài tiến hóa để bay lượn. Thú có bốn chi, một số loài sống dưới nước không có chi hoặc chi tiến hóa thành vây, chi trước loài dơi biến đổi thành cánh. Chân của hầu hết các động vật có vú ở dưới thân mình, giúp đứng vững trên mặt đất. Xương của động vật có vú hóa sừng và răng được phủ bởi một lớp men răng. Răng bị rụng một lần (răng sữa) trong suốt cuộc đời của động vật, tuy vậy, loài thuộc bộ Cá voi không thay răng. Thú có vú có ba xương nhỏ trong tai giữa và ốc tai trong tai trong. Da thú có các tuyến mồ hôi. Tại một số vị trí trên cơ thể, tuyến này được chuyên biệt hóa, ví dụ như tuyến vú, nơi sản xuất sữa nuôi con non. Thú có vú thở bằng phổi, được cơ hoành ngăn cách ngực với bụng hỗ trợ hít không khí vào phổi. Tim thú có bốn ngăn, máu giàu oxi và máu nghèo oxi được ngăn cách riêng biệt. Chất thải rắn được bài tiết chủ yếu dưới dạng phân urê. Thú có vú là động vật có màng ối, và hầu hết đều có phương thức sinh sản thai sinh. Riêng thú mỏ vịt và họ "Tachyglossidae" thì đẻ trứng. Hầu hết các động vật có vú đều có nhau thai, giúp thai nhi lấy dinh dưỡng từ cơ thể mẹ. Ngoại trừ thú có túi, giai đoạn bào thai thú có túi quá ngắn, con sinh ra tự tìm đến túi của mẹ, bám vào núm vú, lấy chất dinh dưỡng để hoàn thành sự phát triển. Giải phẫu người. Cơ thể người tương tự các động vật có vú khác. Người có đầu, cổ, thân (bao gồm ngực và bụng), hai tay và hai chân. Nhìn chung, các sinh viên học các ngành liên quan đến sinh học, y học, trị liệu đều phải học giải phẫu học đại thể và giải phẫu học vi thể (mô học). Các tài liệu để học môn giải phẫu bao gồm mô hình, xương, sách giáo khoa, thiết đồ, hình ảnh, bài giảng, atlas giải phẫu. Sinh viên tự học dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Sinh viên y khoa nói chung cũng được thực tập giải phẫu qua việc tự mình phẫu tích (hoặc quan sát giảng viên thực hiện) và lượng giá kiến thức trên thi thể người hiến tặng. Nghiên cứu về giải phẫu học vi thể (mô học) cần được thực tập trên các chế phẩm mô học (các lát cắt mô) quan sát dưới kính hiển vi. Giải phẫu người, y sinh học di truyền, sinh lý học và hóa sinh y học là những môn khoa học y tế cơ bản, thường được dạy cho sinh viên y khoa trong năm đầu tiên tại trường y của các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, giải phẫu người, y sinh học di truyền được học trong năm thứ nhất, còn sinh lý học và hóa sinh y học được học trong năm thứ hai. Đây là 4 môn cơ sở ngành, được lựa chọn để thi tuyển bác sĩ nội trú, đào tạo sau đại học. Giải phẫu người được dạy theo định khu hoặc hệ thống; tức là thao tác nghiên cứu giải phẫu theo từng vùng khu trú, hoặc nghiên cứu dọc theo một hệ thống các cơ quan cụ thể, chẳng hạn như hệ thần kinh hoặc hệ hô hấp. Một trong những quyển sách giáo khoa giải phẫu nổi tiếng nhất trên thế giới là quyển Gray's Anatomy "(Giải phẫu Gray)", đã được sắp xếp lại từ cách trình bày theo giải phẫu hệ thống sang cách trình bày theo giải phẫu khu vực, phù hợp với phương pháp giảng dạy hiện đại. Các bác sĩ, đặc biệt là phẫu thuật viên và bác sĩ làm việc trong một số chuyên khoa chẩn đoán, như mô bệnh học và X quang đều phải nắm rất vững về kiến thức môn giải phẫu học. Các nhà giải phẫu học được trường y hoặc bệnh viện giảng dạy tuyển dụng. Họ vừa tham gia giảng dạy giải phẫu cho sinh viên và học viên, vừa đi sâu nghiên cứu một số hệ thống, cơ quan, mô hoặc tế bào nhất định. Giải phẫu động vật không xương sống. Động vật không xương sống là các sinh vật từ sinh vật nhân đơn bào đơn giản nhất như trùng đế giày đến các động vật đa bào phức tạp như bạch tuộc, tôm hùm và chuồn chuồn. Động vật không xương sống chiếm khoảng 95% tổng số các loài động vật. Các tế bào động vật nguyên sinh đơn bào có cấu trúc cơ bản giống như tế bào của động vật đa bào, nhưng một số bào quan được chuyên biệt. Động vật nguyên sinh di chuyển bằng roi hoặc tiên mao hoặc di chuyển thông qua sự hình thành giả túc (tay giả), lấy thức ăn bằng hình thức thực bào. Năng lượng cũng có thể được cung cấp nhờ quang hợp và tế bào được hỗ trợ bởi bộ xương trong hoặc bộ xương ngoài. Một số động vật nguyên sinh có thể hình thành tập đoàn. Động vật đa bào là cá thể có tế bào phân hóa, giữ các chức năng chuyên biệt. Các loại mô của động vật đa bào cơ bản nhất là biểu mô và mô liên kết, cả hai đều có mặt trong hầu hết các động vật không xương sống. Bề mặt ngoài của lớp biểu bì hình thành từ các tế bào biểu mô và tiết ra một cấu trúc nền ngoại bào bảo vệ sinh vật. Bộ xương trong có nguồn gốc từ trung bì, có mặt trong ngành Da gai, Thân lỗ và một số Chân đầu. Bộ xương ngoài có nguồn gốc từ lớp ngoại bì, chứa kitin, xuất hiện ở Chân khớp (côn trùng, nhện, ve, tôm, cua). Calci cacbonat tạo thành vỏ của Thân mềm, Tay cuộn và một số họ Giun nhiều tơ; Silic dioxide tạo thành bộ xương ngoài của tảo silic và trùng tia. Nhiều động vật không xương sống khác không có cấu trúc cứng nhưng lớp biểu bì tiết ra nhiều chất phủ bề mặt như tế bào dạng kim ("pinacoderm", biểu bì bọt biển), lớp biểu bì gelatin của ngành Thích ty bào (polyp, hải quỳ, sứa) và lớp biểu bì collagen của ngành Giun đốt. Lớp biểu mô bên ngoài của một số loài có thể là tế bào cảm giác, tế bào tuyến và tế bào châm ("cnydocyte"), cũng có thể có các phần nhô ra như vi nhung mao, mao, tơ cứng, lông gai và mấu. Giải phẫu chân khớp. Động vật Chân khớp là ngành lớn nhất trong giới động vật với hơn một triệu loài động vật không xương sống được biết đến. Cơ thể của côn trùng phân đốt, bên ngoài được bảo vệ bởi lớp vỏ cứng (bộ xương ngoài), có thành phẩn chủ yếu là kitin. Cơ thể được chia thành ba phần riêng biệt: đầu, ngực và bụng. Đầu thường có hai chiếc râu, một đôi mắt kép, một đến ba mắt đơn và miệng. Ngực có ba cặp chân, mỗi cặp phân đốt tạo nên ngực và một (hoặc hai) đôi cánh. Phần bụng có tới mười một phân đốt, chứa hệ tiêu hóa, hệ hô hấp, hệ bài tiết và hệ sinh dục. Có sự khác biệt đáng kể trên các bộ phận cơ thể, đặc biệt là cánh, chân, râu và miệng giữa các loài, nguyên nhân là do sự thích nghi với môi trường. Nhện thuộc lớp Hình nhện, có bốn cặp chân; cơ thể được chia làm hai phân đốt: phần đầu ngực và phần bụng. Nhện không có cánh và râu. Miệng của nhện có dạng giống răng nanh ("chelicerae") nối tiếp với tuyến nọc độc (hầu hết các loài nhện đều có nọc độc). Chúng có một cặp miệng trông giống như "chiếc kìm" ("pedipalp") gắn liền với phần đầu ngực. "Chiếc kìm" này còn nằm trên các phân đoạn ở chân, có chức năng tương tự như các cơ quan nhận biết mùi vị của động vật khác. Ở nhện đực, cuối mỗi "chiếc kìm" là một chiếc ria sờ ("cymbium") hình thìa có chức năng hỗ trợ cơ quan điều phối. Các ngành của giải phẫu. Giải phẫu học phát triển theo nhiều hướng và phân hóa thành nhiều ngành khác nhau: Lịch sử. Thời cổ đại. Năm 1600 TCN, văn bản giấy cói Edwin Smith, một văn bản y học thời Ai Cập cổ đại, đã mô tả tim, mạch, gan, lách, thận, vùng dưới đồi, tử cung và bàng quang, trong đó có nhắc đến sự vận chuyển máu từ tim đến các mạch máu. Văn bản giấy cói Ebers (khoảng 1550 TCN) là bài "luận về trái tim", trong đó có viết: mạch máu chở tất cả dịch lỏng đi và đến tất cả các cơ quan trong cơ thể. Giải phẫu và sinh lý học Hy Lạp cổ đại đã trải qua nhiều thay đổi và tiến bộ lớn thời cổ đại. Theo thời gian, hai ngành học ngày càng được mở rộng và phát triển nhờ sự hiểu biết sâu rộng về các chức năng các cơ quan và cấu trúc trong cơ thể. Các quan sát giải phẫu hiện tượng cơ thể người được thực hiện đã góp phần nâng cao hiểu biết về não, mắt, gan, cơ quan sinh dục và hệ thần kinh. Thành phố Alexandria thời Ai Cập thuộc Hy Lạp cổ đại là bước khởi đầu cho sự phát triển khoa học giải phẫu và sinh lý học. Alexandria không chỉ là thư viện lớn nhất lưu trữ các hồ sơ y tế và sách trên thế giới trong thời Hy Lạp cai trị, mà còn là nơi ở của nhiều học viên y khoa và triết gia. Sự đóng góp tuyệt vời trong lĩnh vực nghệ thuật và khoa học từ thời Ptolemy đã biến Alexandria trở thành một thành phố có nhiều thành tựu văn hóa và khoa học, cạnh tranh với các quốc gia thuộc Hy Lạp khác. Một số tiến bộ nổi bật nhất trong giải phẫu và sinh lý học xuất hiện ở Alexandria thời kỳ Hy Lạp hóa. Herophilus và Erasistratus là hai trong số các nhà giải phẫu học và sinh lý học nổi tiếng nhất thế kỷ III. Hai bác sĩ này là người tiên phong thực hiện phẫu tích cơ thể người để nghiên cứu y học. Họ cũng tiến hành giải phẫu sinh thể trên tử thi tội phạm kết án, vốn bị coi là điều cấm kỵ cho đến thời kỳ Phục hưng. Herophilus được công nhận là người đầu tiên thực hiện phẫu tích có hệ thống. Herophilus viết nhiều tác phẩm giải phẫu học, đóng góp cho nhiều ngành giải phẫu và nhiều bộ môn khác trong y học. Các tác phẩm đã phân loại hệ thống xung, phát hiện ra các động mạch của người có thành dày hơn tĩnh mạch và tâm nhĩ là một phần của tim. Kiến thức cơ thể người của Herophilus đã cung cấp kiến thức cơ bản quan trọng để tìm hiểu về não, mắt, gan, cơ quan sinh dục, hệ thần kinh và đặc trưng bệnh của cơ thể. Erasistratus mô tả chính xác cấu trúc của não, bao gồm các khoang và màng, và phân biệt giữa đại não và tiểu não. Trong quá trình nghiên cứu tại Alexandria, Erasistratus đặc biệt quan tâm đến các nghiên cứu về hệ tuần hoàn và hệ thần kinh. Ông phân biệt được dây thần kinh cảm giác và vận động trong cơ thể người và tin rằng không khí hít vào sẽ đi vào phổi và tim, sau đó được vận chuyển khắp cơ thể. Ông phân biệt động mạch và tĩnh mạch: động mạch mang khí còn tĩnh mạch mang máu từ tim đi khắp cơ thể. Erasistratus cũng đặt tên và mô tả chức năng của biểu mô và van tim, trong đó có cả van ba lá. Thế kỷ III, các bác sĩ Hy Lạp đã có thể phân biệt dây thần kinh với mạch máu, gân và phát hiện chúng có thể truyền xung động thần kinh. Herophilus đã phát hiện tổn thương thần kinh vận động gây tê liệt. Herophilus tìm hiểu và đặt tên màng não và các não thất, mối quan hệ giữa tiểu não và đại não và nhận ra rằng não bộ là "cái nôi của trí tuệ", phủ nhận quan điểm não chỉ là "buồng làm lạnh" của Aristotles. Herophilus mô tả các dây thần kinh sọ như thần kinh mắt, thần kinh vận nhãn, nhánh vận động của thần kinh sinh ba, thần kinh mặt, thần kinh tiền đình - ốc tai và thần kinh hạ thiệt. Thế kỷ III đánh dấu bước nhảy vọt trong nghiên cứu về hệ tiêu hóa và hệ sinh sản. Herophilus đã khám phá và mô tả đặc điểm của các tuyến nước bọt, ruột non và gan. Ông cho rằng tử cung là một cơ quan rỗng và ông mô tả buồng trứng và ống cổ tử cung. Ông phát hiện ra rằng tinh trùng được sản xuất ở tinh hoàn và là ông người đầu tiên xác định vị trí tuyến tiền liệt. Giải phẫu cơ và xương được mô tả trong cuốn "Hippoc Corpus", một công trình y học Hy Lạp cổ đại do tác giả vô danh soạn thảo. Aristotle mô tả giải phẫu động vật có xương sống dựa trên thao tác phẫu tích động vật. Praxagoras tìm ra sự khác biệt giữa động mạch và tĩnh mạch. Ở thế kỷ IV trước Công nguyên, Herophilos và Erasistratus đưa ra những mô tả giải phẫu chính xác hơn nhờ vào giải phẫu sinh thể các thi thể tội phạm ở Alexandria trong triều đại nhà Ptolemaios. Vào thế kỷ II tại thành phố Pergamon, nhà giải phẫu học, bác sĩ lâm sàng, nhà văn và nhà triết học Galen đã viết bài luận văn có chủ đề giải phẫu. Bài luận văn này có sức ảnh hưởng to lớn cho nền y học thời cổ đại. Ông biên soạn các kiến thức hiện có và nghiên cứu giải phẫu thông qua phẫu tích động vật. Ông là một trong những nhà sinh lý học thực nghiệm đầu tiên nhờ các thí nghiệm giải phẫu sinh thể trên động vật. Các bức vẽ của Galen, chủ yếu dựa trên giải phẫu chó, trở thành sách giáo khoa giải phẫu duy nhất trong một nghìn năm. Các bác sĩ thời Phục hưng chỉ biết đến công trình của Galen vào thời đại hoàng kim của Hồi giáo, khi sách được dịch từ tiếng Hy Lạp trong một thời gian ở thế kỷ XV. Thời trung cổ đến sơ kỳ cận đại. Giải phẫu chậm phát triển thời cổ đại cho đến thế kỷ XVI. Nhà sử học Marie Boas viết, "Tiến bộ về giải phẫu trước thế kỷ XVI chậm chạp một cách bí ẩn, và sự phát triển của giải phẫu sau năm 1500 lại nhanh chóng một cách đáng kinh ngạc". Từ năm 1275 đến năm 1326, tại Bologna, ba nhà giải phẫu học Mondino de Luzzi, Alessandro Achillini và Antonio Benivieni lần đầu tiên tiến hành phẫu tích người một cách hệ thống. Quyển" Giải phẫu" năm 1316 của Mondino là sách giáo khoa đầu tiên từ thời trung cổ về giải phẫu người. Sách mô tả cơ thể theo trình tự bộc lộ khi Mondino phẫu tích, xuất phát từ vùng bụng, ngực, sau đó là đầu và tứ chi. Đây là sách giáo khoa giải phẫu tiêu chuẩn được dùng cho nhiều thế kỷ sau này. Leonardo da Vinci được Andrea del Verrocchio đào tạo về giải phẫu học. Ông đã sử dụng kiến thức giải phẫu của mình trong tác phẩm nghệ thuật, thực hiện nhiều bản phác thảo về cấu trúc xương, cơ, các cơ quan của người và động vật có xương sống khác mà ông phẫu tích. Andreas Vesalius (Andries van Wezel) xuất thân từ vùng Brabant, là giáo sư giải phẫu tại Đại học Padua. Ông được coi là người sáng lập ngành giải phẫu người hiện đại. Vesalius xuất bản cuốn sách nổi tiếng "De humani corporis fabrica" (Về cấu trúc cơ thể người), một cuốn sách khổ lớn gồm 7 tập, xuất bản năm 1543. Các hình minh họa chuẩn xác đến từng chi tiết phức tạp, các tư thế phúng dụ mang khuynh hướng chống đối trường phái Ý được cho là của nghệ sĩ Jan van Calcar, một học trò của Titian. Ở Anh, giải phẫu là một chủ đề được nêu lên trong các bài giảng công khai đầu tiên về khoa học. Trong thế kỷ XVI, vua Henry VIII sáp nhập Hội Giải phẫu với Đoàn Thợ cạo để thành lập Đoàn Thợ cạo – Giải phẫu. Họ không có huấn luyện y khoa, thường được giao phó chăm sóc thương binh trong chiến tranh, lấy máu cũng như lưu ngụ tại các lâu đài để phục vụ các vị chủ nhân danh gia, vọng tộc. Hậu kỳ cận đại và hiện đại. Tại Hoa Kỳ, các trường y bắt đầu được thành lập từ cuối thế kỷ XIII. Lớp học giải phẫu luôn đòi hỏi phải có thi thể để sinh viên phẫu tích và việc đáp ứng nhu cầu này rất khó khăn. Philadelphia, Baltimore và New York đều là những địa điểm nổi tiếng với hoạt động trộm cắp thi thể để bán cho các nhà phẫu thuật. Thủ phạm đột nhập vào nghĩa địa lúc nửa đêm, nhấc thi thể mới chôn ra khỏi quan tài. Vấn đề này cũng tồn tại ở Anh khi mà nhu cầu thi thể rất lớn. Tội phạm đào mộ lấy thi thể, thậm chí giết người để có tử thi đem bán cho các cuộc nghiên cứu về giải phẫu. Một số nghĩa địa phải có tháp canh để bảo vệ mộ. Việc ban hành Đạo luật Giải phẫu năm 1832 ở Anh đã chấm dứt tình trạng này. Ở Hoa Kỳ, một đạo luật tương tự được ban hành sau khi bác sĩ William S. Forbes thuộc Đại học Y Jefferson bị kết tội vào năm 1882 với tội danh "đồng lõa với những kẻ đào trộm xác chết tàn phá nhiều ngôi mộ trong nghĩa trang Lebanon". Từ năm 1863 đến 1889, Sir John Struthers, giáo sư bộ môn Giải phẫu thuộc Đại học Aberdeen, đã thay đổi cách thức giảng dạy giải phẫu học ở Anh. Ông thiết lập hệ thống ba năm giảng dạy các môn "tiền lâm sàng" bao hàm các ngành khoa học cơ bản y học, trong đó có giải phẫu. Hệ thống này tồn tại cho đến khi chương trình đào tạo bác sĩ y khoa cải cách vào năm 1993 và 2003. Ngoài việc giảng dạy, ông còn thu thập nhiều bộ xương động vật để thành lập bảo tàng giải phẫu so sánh, xuất bản hơn 70 tài liệu nghiên cứu và nổi tiếng nhờ công trình phẫu tích cá voi Tay. Năm 1822, Đại học Phẫu thuật Hoàng gia quy định việc giảng dạy giải phẫu trong các trường y. Bảo tàng y học là nơi cung cấp các hình ảnh về giải phẫu so sánh, được sử dụng làm tài liệu giảng dạy. Ignaz Semmelweis nghiên cứu về cơ chế gây nhiễm trùng sau sinh. Ông nhận thấy rằng các cơn sốt gây chết người này xảy ra thường xuyên hơn ở những bà mẹ được sinh viên y khoa thăm khám, đặc biệt là sinh viên nào mà đi từ phòng phẫu tích đến bệnh viện và thăm khám phụ nữ mới sinh con. Giáo sư Semmelweis nhận thấy rằng việc sinh viên rửa tay bằng vôi clo trước khi thăm khám lâm sàng có thể giúp tỷ lệ nhiễm trùng sau sinh ở các bà mẹ giảm đi đáng kể. Trước thời đại y học hiện đại, phương tiện chính để nghiên cứu cấu trúc bên trong của cơ thể là phẫu tích thi thể và kiểm tra, sờ nắn, thính chẩn (nghe bệnh) trên người sống. Sự ra đời của kính hiển vi đã mở ra một kỷ nguyên mới trong sự hiểu biết về các cấu trúc cấu thành mô sống. Những tiến bộ kỹ thuật trong việc phát triển thấu kính tiêu sắc làm tăng khả năng phân ly của kính hiển vi. Khoảng năm 1839, Matthias Jakob Schleiden và Theodor Schwann nhận định rằng tế bào là đơn vị cơ bản của tất cả các tổ chức sống. Máy vi phẫu được phát minh để thực hiện cắt lát qua mô đủ mỏng để kiểm tra các cấu trúc nhỏ hơn nữa. Kỹ thuật nhuộm tiêu bản giúp phân biệt giữa các loại mô khác nhau. Những tiến bộ trong lĩnh vực mô học và tế bào học bắt đầu nở rộ vào cuối thế kỷ XIX, cùng với những tiến bộ trong kỹ thuật phẫu thuật cho phép loại bỏ các mẫu sinh thiết an toàn mà không gây đau đớn. Kính hiển vi điện tử được phát minh đã mang lại một bước tiến lớn, cho phép nghiên cứu các cấu trúc siêu vi của tế bào, gồm bào quan và cấu trúc khác bên trong chúng. Vào những năm 50 của thế kỉ XIX, việc sử dụng hiện tượng nhiễu xạ tia X để nghiên cứu cấu trúc của protein, acid nucleic và các phân tử sinh học khác đã thiết lập một ngành giải phẫu mới: giải phẫu phân tử. Thủ thuật "không xâm lấn" để kiểm tra các cấu trúc bên trong của cơ thể cũng là những tiến bộ không kém phần quan trọng. Tia X có khả năng truyền qua cơ thể, được ứng dụng trong chụp X quang và nội soi huỳnh quang để phân biệt các cấu trúc bên trong nhờ mức độ mờ đục khác nhau. Chụp cộng hưởng từ, chụp cắt lớp vi tính và siêu âm đều cho phép kiểm tra các cấu trúc bên trong ở mức vô cùng chi tiết, vượt xa trí tưởng tượng và khả năng của các nền y học trước kia.
141
141_phu_vt_khe_khoa
[ "phu", "vt", "khe", "khoa", "hc", "nghin", "sinh", "sc", "ngnh", "xc" ]
[ "Tập tính sinh học hay còn gọi là sinh thái học hành vi (\"Behavioral ecology\") là nghiên cứu về cơ sở tiến hoá đối với hành vi (tập tính) của động vật do áp lực sinh thái. Nếu một sinh vật có một đặc điểm hỗ trợ cho nó một lợi thế chọn lọc (tức là có ý nghĩa thích ứng) trong môi trường của nó, thì quá trình chọn lọc tự nhiên có thể có lợi cho nó. Do đó, ý nghĩa thích đáng đề cập đến các phẩm chất có lợi (như tăng sức sinh và sinh sản tăng lên), bất cứ một đặc điểm biến đổi nào đã có. Như sự khác biệt di truyền giữa các cá thể có thể dẫn đến sự khác biệt về hành vi, một số trong đó có thể dẫn đến sự khác biệt về thành công sinh sản, và cuối cùng là qua các thế hệ, sự gia tăng các cá thể có những đặc điểm được phổ biến hơn, tức là sự tiến hóa. Tập tính của động vật rất phong phú, phức tạp, và có vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng. Nó liên quan mật thiết đến sự tồn tại và phát triển nòi giống.\nTập tính động vật cũng đem lại nhiều lợi ích cho thực vật và con người. Một số loài thụ phấn cho các loài thực vật có hoa (ví dụ ong, bướm, kiến, côn trùng). Một số côn trùng cũng sinh ra những chất rất hữu ích như mật, sáp, tơ. Nhiều côn trùng, đặc biệt là các loài bọ cánh cứng ăn xác thối, chúng ăn các xác động vật chết, các cây bị gãy mục, trả lại môi trường các dạng hữu ích cho các sinh vật khác sử dụng. Người Ai Cập cổ đại đã sùng bái những con bọ cánh cứng (bọ hung), giun phát sáng châu Âu được coi như những con vật có lợi vì chúng tiêu diệt ốc và sên là những con phá hoại mùa màng. Khi nuôi nhốt động vật, cần lưu tâm đến tập tính của chúng, tạo điều kiện môi trường sống phù hợp để chúng sống và phát triển bình thường phải tìm hiểu tập tính động vật của chúng để không làm mất cân bằng sinh thái của môi trường nuôi nhốt.\nĐại cương.\nCơ chế.\nTập tính ở động vật là một chuỗi các phản ứng trả lời các kích thích của môi trường diễn ra bên trong cũng như bên ngoài cơ thể nhờ đó mà động vật có thể tồn tại và phát triển. Tập tính được thể hiện ra bằng một loạt các hoạt động phối hợp và thường dẫn tới hoạt động của một bộ phận cơ thể như ve vẩy tai, đuôi, đến mùa sinh sản các loài chim thường hót hoặc khoe lông, hoặc có sự tranh giành con cái bằng giao đấu ví dụ Màn song đấu của chim công. Đôi khi tập tính lại là những phản ứng bất động (giả chết) như phản ứng tự vệ của con bọ que. Các phản ứng tập tính đều mang tính chất thích nghi, nghĩa là làm cho cơ thể sinh vật tiếp tục tồn tại, các phản ứng này giúp con vật tránh xa các mối nguy hiểm hoặc giảm tối đa những sự đe dọa trước mắt nhờ sử dụng một loạt các phản ứng điều kiện\nPhản ứng trả lời (đáp ứng) kích thích bên ngoài như việc các động vật ăn cỏ thường sống và đi kiếm ăn theo bầy đàn cũng là một cách thức phòng vệ trước những động vật ăn thịt như hổ, báo, sư tử, sói, hay như những con cò bắt cá ở chỗ nước nông những con gấu bắt cá ở các vực nước. Phản ứng trả lời kích thích bên trong là những tập tính được gây ra do sự kết hợp kích thích ngoài và kích thích trong như tập tính xã hội, tập tính bầy đàn (lối cư xử, tính nết) của loài vật là do bản năng tự nhiên của chúng và do sự di truyền. Cơ sở thần kinh của tập tính là các phản xạ. Các phản xạ thực hiện qua cung phản xạ, kích thích là những tác nhân tác động vào con vật, kích thích có thể từ bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, nồng độ oxi, độ pH (kích thích ngoài) tới làm con vật cảm nhận được thông qua các giác quan. Kích thích có thể từ bên trong con vật do sự thay đổi sinh lý bên trong con vật (kích thích trong).\nCác tác nhân kích thích như hình ảnh, âm thanh con mồi phát ra, nhiệt độ, hơi ấm cơ thể con mồi, mùi vị, mùi máu tanh hình thành nên tập tính rình mồi, rượt đuổi mồi để tấn công và vồ mồi ảnh hướng để tập tính săn mồi của động vật. Đối với động vật có tổ chức thần kinh chưa phát triển thì là tập tính kiếm mồi và săn mồi là tập tính bẩm sinh, ví dụ như ong bắp cày ký sinh Aphidius colemani là một loài ký sinh ăn tạp, tấn công nhiều loài rệp vừng nên bất cứ loài rệp vừng nào cũng phù hợp làm con mồi đối với ong bắp cày. Đối với động vật có hệ thần kinh phát triển tập tính bắt mồi và săn mồi rất phong phú và phức tạp. Phần lớn các tập tính này được hình thành do học tập từ bố mẹ của chúng hay đồng loại hoặc do kinh nghiệm của bản thân và chúng được hoàn thiện dần để đảm bảo sự sống sót của các loài trong tự nhiên.\nCá thể luôn có sự cạnh tranh với những cá thể khác vì nguồn lực hạn chế, bao gồm thức ăn, lãnh thổ động vật và bạn tình. Mâu thuẫn sẽ xảy ra giữa những kẻ săn mồi và con mồi, giữa các đối thủ của bạn tình, giữa anh chị em, bạn tình, và thậm chí giữa cha mẹ và con cái của chúng. Giá trị của một hành vi xã hội phụ thuộc một phần vào hành vi xã hội của một kẻ hàng xóm. Ví dụ, một con đực có khả năng trở thành một con đực giống đang trở lại từ một mối đe dọa, càng có ý nghĩa một cá thể giống đực được ra khỏi mối đe dọa. Tuy nhiên, nếu một đối thủ cạnh tranh sẽ tấn công nếu bị đe doạ, thì càng có nhiều khả năng đe doạ những con đực khác. Khi một quần thể thể hiện một số hành vi tương tác xã hội như thế này, nó có thể phát triển một mô hình hành vi ổn định được gọi là chiến lược ổn định tiến hóa (ESS).\nCác nhóm.\nDựa vào các đặc điểm của tập tính động vật, có thể phân biệt thành hai nhóm tập tính chính là: tập tính bẩm sinh và tập tính thứ sinh tương ứng với tập tính bản năng và tập tính học khôn. Ngoài ra còn có tập tính hỗn hợp là vừa có tập tính học tập vừa có tập tính bản năng. Một số dạng tập tính phổ biến ở động vật:\n\"Tập tính bẩm sinh\" là những hoạt động cơ bản của cơ thể động vật mà ngay từ khi sinh ra đã có, không cần qua học hỏi, rèn luyện, mang tính bản năng, được di truyền từ bố mẹ, không thay đổi và không chịu ảnh hưởng của điều kiện và hoàn cảnh sống, chúng được quyết định bởi yếu tố di truyền, chẳng hạn như tập tính sinh sản. \"Tập tính bản năng\" (tập tính bẩm sinh nguyên thủy hay không do học tập) do nhân tố bản đồ gen, nhiễm sắc thể lập trình quyết định và thường không bị thay đổi bởi hoàn cảnh. Chẳng hạn như loài thủy tức khi có mồi chạm vào xúc tu, thủy tức sẽ tự đưa thức ăn vào miệng, hay những con đỉa sống trong nước, khi nghe có tiếng động trong nước sẽ tự động bơi lại phía đó để kiếm ăn.\n\"Tập tính thứ sinh\" (tập tính học được trong đời sống): là loại tập tính được hình thành trong quá trình sống do học tập hoặc do có sự trao truyền giữa các cá thể cùng loài, ví dụ như tập tính chống lại những động vật định ăn trộm thức ăn của nó. Ở những nhóm động vật càng cao, càng tiến hóa, loại tập tính đó học được càng nhiều, do đó chúng càng dễ thích nghi với điều kiện và hoàn cảnh sống. \"Tập tính học khôn\" là kiểu hoạt động hình thành do kết quả của kinh nghiệm và có thể thay đổi bởi hoàn cảnh. Tập tính di cư ở động vật thường là tập tính thứ sinh vì chúng thường thể hiện theo bầy, đàn quy mô lớn.\nỞ những động vật bậc cao chúng còn có khả năng học khôn (Văn hóa ở động vật), tự sáng tạo ra các công cụ trong quá trình kiếm ăn ví dụ như tinh tinh biết dùng dụng cụ để bắt mồi. Phần lớn các tập tính kiếm ăn, săn mồi là các tập tính thứ sinh, hình thành trong quá trình sống, qua học tập ở bố mẹ hoặc đồng loại hoặc qua trải nghiệm của bản thân, ví dụ như hổ mẹ dạy hổ con săn mồi. Một ví khác là cách báo mẹ dạy con săn mồi, sau khi bắt được con mồi, báo mẹ làm cho con mồi yếu đi rồi cho con tập săn mồi, nếu báo được con người nuôi dưỡng từ nhỏ thì khi lớn lên được thả ra tự nhiên sẽ không có các kỹ năng săn mồi, vì thế tập tính kiếm ăn của hầu hết các động vật bậc cao là tập tính học tập.\nNgoài ra, có thể kể loại tập tính thứ ba là tập tính hỗn hợp (bao gồm cả tập tính bẩm sinh lẫn tập tính thứ sinh, như loài ong vò vẽ là một loài ong sống hoàn toàn đơn độc. Trong tập tính hôn phối, sau khi giao phối, con ong cái bắt đầu xây dựng tổ thì ở trong tổ con cái sẽ đẻ một quả trứng, sau đó, có một vài con sâu sau khi đã bị làm tê liệt, được mang đến tổ làm thức ăn cho ong con đang phát triển, cuối cùng, tổ được gắn lại và con cái bay đi để xây dựng tổ mới. Trong trình tự giao phối, làm tổ, đẻ trứng, săn mồi mang về tổ được thực hiện mà không cần phải dạy hay học từ trước, đó là tập tính bẩm sinh, còn tìm đưa sâu đưa vào tổ là tập tính thứ sinh (ong vò vẽ học được rằng sâu bị tê liệt có thể làm thức ăn cho ong con). Hoặc như ở gà con, khi chúng sinh ra chúng sẽ có thói quen mổ và nuốt những thứ trong tầm với của chúng như rơm rạ, sỏi đá, dị vật, nhưng sau khi chúng lớn lên chúng sẽ đủ nhận biết để chỉ mổ nuốt những loại thóc gạo.\nCác dạng.\nSăn mồi và phòng vệ.\nTập tính kiếm mồi và săn mồi: Tập tính này ở các động vật khác nhau là khác nhau. Các dạng chính là kiếm mồi đơn lẻ và kiếm mồi bầy đàn. Tập tính kiếm ăn của báo hoa mai đặc trưng cho tập tính kiếm mồi đơn lẻ. Tập tính kiếm mồi và săn mồi ở động vật phụ thuộc vào nguồn thức ăn mà chúng sử dụng. Ý nghĩa của việc kiếm mồi và săn mồi ở động vật là để tồn tại và phát triển, các động vật có nhu cầu tìm kiếm thức ăn nói chung và săn mồi nói riêng. Đây là những tập tính bảo đảm sự sống còn của các loài động vật.\nTrái lại ở con mồi khi phát hiện ra kẻ thù thì có tập tính lẩn trốn, bỏ chạy hoặc tự vệ, đây là bản năng tự bảo toàn của chúng. Trong đa số trường hợp con mồi bị truy đuổi quá gần thì lập tức nó chuyển từ trạng thái trốn chạy sang tư thế tấn công. Khi gặp kẻ thù thường biểu hiện tư thế dọa nạt, thú ăn thịt thì nhe nanh, giơ vuốt, thú móng guốc thì dậm chân. Một số loài thì xù lông lên và dựng đứng người ví dụ nhím xù lông để tự vệ trước kẻ thù, các loài khỉ thường có tập tính bẻ cành ném xuống thậm chí phóng uế vào mặt kẻ thù, còn những con thỏ thì bỏ chạy khi bị tấn công, có những loài chọn những cách tự vệ như giả chết, cuộn tròn thân mình hay biến mình thành vũ khí khó nuốt, đây là tập tính tự vệ.\nỞ sinh vật còn có trường hợp thay đổi ngoại hình để nó trở nên lẫn vào môi trường xung quanh gọi là ngụy trang, đây là hành vi (tập tính) của sinh vật nhằm trốn tránh khỏi khả năng quan sát của đối tượng khác, một hình thức đánh lừa ở động vật. Tập tính này có thể giúp sinh vật trốn tránh kẻ thù hoặc dễ dàng hơn trong việc săn mồi. Các động vật biển được vũ trang chu đáo, nhưng để tránh bớt xung đột, chúng chọn cách cảnh báo kẻ thù bằng màu sắc rực rỡ của cơ thể, ở sinh vật biển, những loài nguy hiểm thường có màu sắc đặc trưng như những đốm xanh dương trên nền vàng. Ngụy trang có thể là động vật hòa mình vào môi trường xung quanh.\nLuôn có sự tiến hóa liên tục trong khả năng phát hiện sự trá hình và tương tự năng lực ẩn trốn cũng biến đổi luôn luôn. Ở mỗi cặp động vật săn đuổi-trốn tránh, cấp độ tiến hóa trá hình và phát hiện khác nhau. Những vạch đen trên da ngựa vằn khiến rất khó phân biệt từng cá thể làm kẻ thù khó tấn công tạo ra màu sắc gây nhiễu. Những cách thức khác là việc động vật biến hình thành thứ gì khác hấp dẫn hoặc có vẻ ngoài nguy hiểm hay còn gọi là bắt chước, một số động vật ẩn trốn làm giả chuyển động trong tự nhiên, ví dụ chiếc lá trong gió, các động vật khác gắn liền hoặc lấy những vật liệu trong tự nhiên đắp lên thân mình để tạo ra nơi ẩn náu. \nĐánh dấu lãnh thổ.\nTập tính bảo vệ vùng lãnh thổ (tập tính lãnh thổ): Mỗi con vật chiếm cứ một khu vực thuộc quyền kiểm soát của một cá thể hoặc một bầy, đàn động vật và được con vật hoặc bầy đàn đó đặc biệt bảo vệ chống lại kẻ xâm nhập một cách quyết liệt, lãnh thổ động vật là nơi thể hiện tập tính lãnh thổ của động vật và được các con vật tuần tra, bảo vệ thường xuyên. Động vật bảo vệ lãnh thổ theo cách này được gọi là tập tính lãnh thổ. Chúng đánh dấu lãnh thổ có thể bằng mùi hương, hoặc tiếng ồn ào, tiếng gầm, hú, kêu rống, la hét, luyến hót để thể hiện sự hiện diện của mình.\nTập tính cư trú: Mỗi loài có tập tính cư trú khác nhau. Tập tính cư trú ở động vật được hình thành do nhiều yếu tố như ánh sáng, nhiệt độ, độ pH, nguồn thức ăn có sẵn. Đối với những sinh vật sống dưới nước thì có loài sống ở tầng đáy, có loài sống ở vùng giữa, có loài sống ở gần mặt nước, có loài sống ở nước ngọt, có loài sống ở nước lợ, lại có loài sống ở nước mặn, cũng có loài thích ứng rộng với độ mặn, sống được ở cả nước ngọt, nước lợ, nước mặn như cá chình.\nTập tính di cư: là một tập tính rất phức tạp thể hiện trong hiện tượng di cư của một số loài chim di trú, cá di cư. Chúng thường di cư theo mùa, theo một chu kỳ nhất định trong năm. Cứ đến mùa đông, phần vì lạnh giá, phần vì thiếu thức ăn, nhiều loài chim ở phương Bắc vượt hàng ngàn, vạn cây số về phương nam ấm áp, thức ăn phong phú để sống, đến mùa xuân lại trở về phương Bắc. Những biểu hiện của di cư sinh sản là cá thể trưởng thành sống ở những vùng khác với nơi sinh sản, sự di chuyển cả đàn kèm theo sinh sản. Đến mùa sinh đẻ chúng phải di chuyển tập trung về những \"bãi đẻ\" nhất định. Cá chình là loài cá di cư, cá mẹ đẻ ở biển sâu, cá con sau khi nở trôi dạt vào bờ biển, cửa sông, vùng nước ngọt kiếm mồi và lớn lên. Khi trưởng thành, cá lại di cư ra biển sâu để đẻ trứng, tương tự là loài cá hồi di cư. \nThứ bậc, tôn ti.\nTập tính thứ bậc được thể hiện qua việc mỗi bầy đều có sự phân chia thứ bậc. Tổ chức theo trật tự lệ thuộc là đặc tính của hầu hết các động vật sống thành đàn (tập tính thứ bậc). Trong một đàn sẽ có con đầu đàn thống trị các con còn lại. Con đầu đàn có ưu thế như vậy là nhờ thắng trận trong các trận đấu. Chiến đấu, cạnh tranh để bảo vệ lãnh thổ cũng là cơ hội để lựa chọn bạn tình, tạo ra một hậu cung động vật. Con cái thường lựa chọn những con đực chiếm giữ vùng lãnh thổ tốt nhất, cũng là con khỏe nhất. Kết bạn tình với những con đực như vậy có nguồn gen tốt sẽ cho những đứa con mạnh khỏe là điều kiện để duy trì và phát triển nòi giống.\nỞ loài linh cẩu đốm, những con trưởng thành hơn thường xuyên ghé thăm hang để dạy dỗ con non về thứ bậc khắt khe trong xã hội của chúng. Các đàn linh cẩu đốm đều có một con cái đầu đàn và hàng loạt những con cấp dưới. Mỗi một con non phải học chính xác vị trí thích hợp của nó trong thang bậc thứ tự của đàn và tất cả mọi cá thể linh cẩu đốm khác cũng phải thích nghi. Hệ thống thứ bậc bản thân nó đã chứng minh rất sống động khi giờ ăn đến, nếu một hoặc hai con trong đàn săn mồi, các thành viên khác cùng đàn sẽ tham dự để cùng chiến đấu với con mồi, nhưng con cái đầu đàn bao giờ cũng giành phần thắng. Tuy nhiên, cũng có lúc cả đàn linh cẩu tụ họp với nhau. Bầy linh cẩu đốm thường đi dọc theo biên giới lãnh địa rồi đánh dấu bằng nước tiểu. Nếu có vụ đi săn nào xảy ra gần biên giới thì một cuộc xung đột với bầy linh cẩu láng giềng có thể nổ ra.\nKết đôi, sinh sản.\nTập tính kết đôi, hôn phối của các loài vật thường diễn ra vào mùa sinh sản. Tập tính hôn phối bắt đầu bằng độc chiếm lãnh thổ của con đực đánh đuổi tình địch, tiếp theo là sự rủ rê con cái để ghép đôi, xây tổ, đẻ con và sau hết là nuôi con. Đây luôn là một hiện tượng thú vị của thế giới động vật. Quá trình kết đôi được bắt đầu bằng các tín hiệu như âm thanh, màu sắc, mùi hương như:\nTập tính sinh sản và tập tính chăm sóc con: Phần lớn các tập tính sinh sản là tập tính bẩm sinh, mang tính bản năng. Thường khởi đầu là do một kích thích của môi trường ngoài như thời tiết (nhiệt độ, độ ẩm), ánh sáng, âm thanh tác động vào các giác quan hay do kích thích của môi trường bên trong do tác động của hoocmon sinh dục gây nên hiện tượng chín sinh dục và chuẩn bị cho sự sinh sản, được thể hiện bằng các hành động ve vãn, khoe mẽ, tỏ tình, xây tổ, ấp trứng, chăm sóc, bảo vệ con non, chẳng hạn như: ", "Thực vật học (, còn được gọi là khoa học thực vật, sinh học thực vật hoặc ngành thực vật học) là bộ môn khoa học nghiên cứu về thực vật và là một phân ngành của sinh học. Nhà thực vật học, nhà khoa học thực vật hay nhà nghiên cứu thực vật là một nhà khoa học có chuyên môn về lĩnh vực này. Thuật ngữ \"thực vật học\" trong các ngôn ngữ Tây phương bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại là (\"botanē\"), nghĩa là \"đồng cỏ chăn gia súc\", \"thảo mộc\", \"đồng cỏ\" hay \"cỏ khô\"; thì có nguồn gốc từ (), tức là \"chăn nuôi\" hoặc \"chăn thả\". Theo truyền thống, thực vật còn gồm có nghiên cứu nấm và tảo, các nhà nghiên cứu được gọi lần lượt là nhà nấm học và tảo học; việc nghiên cứu ba nhóm sinh vật này vẫn nằm trong diện quan tâm của Hội nghị Thực vật Quốc tế. Ngày nay, các nhà thực vật học nghiên cứu khoảng 410.000 loài thực vật trên cạn, trong số đó 391.000 loài là thực vật bậc cao (bao gồm khoảng 369.000 loài thực vật hạt kín) và khoảng 20.000 loài là rêu.\nThực vật học có nguồn gốc từ thời tiền sử dưới vai trò thảo dược, khi con người bước đầu cố nhận dạng (và sau đó là trồng trọt) những cây có thể ăn, làm thuốc và có độc, biến nó thành một trong những phân ngành khoa học lâu đời nhất. Những khu vườn thuốc thời Trung Cổ thường gắn liền với các tu viện, là nơi chứa những cây có tác dụng y học. Chúng là tiền thân của những vườn bách thảo đầu tiên gắn liền với các trường đại học, được thành lập từ những năm 1540 trở đi. Một trong những vườn bách thảo đầu tiên là vườn bách thảo Padova. Những khu vực này đã tạo điều kiện cho việc các chuyên gia học thuật nghiên cứu về thực vật. Những nỗ lực phân loại và miêu tả bộ sưu tập này là bước khởi đầu cho phân loại thực vật, từ đó ra đời danh pháp hai phần của Carl Linnaeus vào năm 1753, vẫn còn được dùng để đặt tên cho tất cả các loài sinh vật cho tới ngày nay.\nVào thế kỉ 19 và 20, những kĩ thuật mới đã được phát triển để nghiên cứu thực vật, trong đó gồm các phương pháp nhuộm tế bào, dùng kính hiển vi quang học và chụp hình tế bào sống, kính hiển vi điện tử, phân tích bộ nhiễm sắc thể, hóa thực vật, cấu trúc và chức năng của các enzyme và protein khác. Trong hai thập niên cuối thế kỉ 20, các nhà thực vật học đã khai thác những kĩ thuật phân tích di truyền phân tử, gồm có hệ gen, hệ protein và các chuỗi DNA để phân loại thực vật chính xác hơn.\nThực vật học hiện đại là một bộ môn đại cương và đa ngành với những đóng góp và hiểu biết sâu sắc từ các lĩnh vực khoa học và kĩ thuật khác. Những đề tài nghiên cứu gồm có ba nhóm chínhː hình thái và giải phẫu thực vật, sinh lý học thực vật (gồm các quá trình tăng trưởng và phân hóa, sinh sản, hóa sinh và trao đổi chất sơ cấp, các sản phẩm hóa học, phát triển, bệnh học...) và phân loại thực vật (bao gồm nhiều ngành như quan hệ tiến hóa, hệ thống học, đa dạng thực vật...). Những đề tài nổi bật trong thực vật học ở thế kỉ 21 là di truyền phân tử và di truyền học biểu sinh, nghiên cứu về trao đổi chất và kiểm soát biểu hiện gen trong quá trình phân hóa của tế bào thực vật và mô. Nghiên cứu thực vật học được ứng dụng đa dạng trong việc cung cấp các nguyên vật liệu và thực phẩm thiết yếu như gỗ làm nhà, dầu, cao su, sợi và thuốc, trong trồng trọt, nông nghiệp và lâm nghiệp hiện đại, nhân giống, gây giống và kỹ thuật di truyền, trong tổng hợp hóa chất, ứng dụng trong xây dựng, sản xuất năng lượng, trong quản lý môi trường và duy trì đa dạng sinh học.\nLịch sử.\nThực vật học sơ khai.\nCó bằng chứng cho thấy con người đã sử dụng thực vật cách đây 10.000 năm ở Thung lũng sông Little Tennessee, đa số là củi đốt hoặc thực phẩm. Thực vật học khởi nguồn dưới dạng thảo dược học, ngành nghiên cứu và sử dụng thực vật để điều chế thuốc. Lịch sử sơ khai của thực vật ghi lại được gồm nhiều tài liệu và phân loại thực vật cổ. Những ví dụ về các công trình thực vật học đầu tiên được phát hiện trong các văn bản cổ từ Ấn Độ (có niên đại trước năm 1100 trước Công nguyên), thời Ai Cập cổ đại, trong các tài liệu tiếng Avesta cổ và trong những tài liệu Trung Quốc được cho là từ trước năm 221 TCN.\nThực vật học hiện đại có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại, đặc biệt liên quan tới Theophrastus (sống khoảng năm 371–287 TCN); ông là học trò của Aristoteles, người đã phát minh và miêu tả nhiều nguyên lý thực vật, được đông đảo cộng đồng khoa học coi là \"Cha đẻ của thực vật học\". Hai công trình chính của ông là \"Historia Plantarum\" và \"On the Causes of Plants\" đã đưa ra những đóng góp quan trọng nhất cho ngành khoa học thực vật cho đến thời Trung Cổ, tức gần 17 thế kỉ về sau.\nMột công trình khác ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại bước đầu tác động lên thực vật học là \"De Materia Medica\", một cuốn bách khoa toàn thư gồm 5 tập về thảo dược học do bác sĩ kiêm nhà dược học người Hy Lạp Pedanius Dioscorides biên soạn vào giữa thế kỉ 1. \"De Materia Medica\" đã được đón đọc rộng rãi trong hơn 1.500 năm. Những đóng góp quan trọng từ thời Hồi giáo Trung Cổ gồm có \"Nabatean Agriculture\" của Ibn Wahshiyya, \"Book of Plants\" (C\"uốn sách về thực vật\") của Abū Ḥanīfa Dīnawarī (828–896) và \"The Classification of Soils\" (\"Phân loại đất\") của Ibn Bassal. Đầu thế kỉ 13, Abu al-Abbas al-Nabati và Ibn al-Baitar (mất năm 1248) đã viết về thực vật học theo phương pháp có hệ thống và khoa học.\nGiữa thế kỉ 16, những vườn bách thảo được thành lập tại một số viện đại học của Ý. Vườn bách thảo Padova (1545) thường được xem là vườn bách thảo đầu tiên và vẫn nằm ở vị trí đầu tiên của nó đến ngày nay. Những khu vườn này tiếp tục kết thừa giá trị thực tiễn của \"vườn thuốc\" thời sơ khai (thường gắn liền với các tu viện, trong đó thực vật được dùng để chữa bệnh). Chúng thúc đẩy sự phát triển của thực vật học để trở thành một bộ môn học thuật. Những bài giảng về các loại cây trong vườn đã ra đời cùng với mục đích y khoa của chúng. Những vườn bách thảo đến vùng Bắc Âu muộn hơn nhiều; vườn đầu tiên ở Anh là Vườn bách thảo Đại học Oxford vào năm 1621. Trong suốt thời kì này, thực vật học vẫn phụ thuộc chủ yếu vào y học.\nBác sĩ người Đức Leonhart Fuchs (1501–1566) là một trong \"ba vị cha đẻ thực vật học người Đức\", cùng với nhà thần học Otto Brunfels (1489–1534) và bác sĩ Hieronymus Bock (1498–1554) (còn có tên là Hieronymus Tragus). Fuchs và Brunfels đã tách khỏi truyền thống sao chép những công trình trước kia để thực hiện những quan sát nguyên bản của riêng họ. Bock tạo ra hệ thống phân loại thực vật của riêng ông.\nBác sĩ Valerius Cordus (1515–1544) là tác giả công trình thảo dược quan trọng về mặt thực vật và dược học mang tên \"Historia Plantarum\" vào năm 1544 và một dược thư có ảnh hưởng lâu dài mang tên \"Dispensatorium\" vào năm 1546. Nhà tự nhiên học Conrad von Gesner (1516–1565) và nhà dược học John Gerard (1545–k.1611) đã công bố nhiều loại thực vật, bao gồm công dụng chữa bệnh của chúng. Nhà tự nhiên học Ulisse Aldrovandi (1522–1605) được xem là \"cha đẻ của lịch sử tự nhiên\" cũng có nghiên cứu về thực vật. Năm 1665, nhờ sử dụng kính hiển vi đầu tiên, nhà bác học Robert Hooke phát hiện ra các tế bào (thuật ngữ mà ông đặt ra) trong các nút bần, và không lâu sau là trong các mô thực vật sống.\nThực vật học cận đại.\nTrong thế kỉ 18, các hệ thống nhận dạng thực vật được phát triển để đối chiếu với những khóa lưỡng phân, nơi các loài thực chưa rõ lai lịch được xếp vào những đơn vị phân loại (ví dụ: họ, chi và loài) bằng cách tiến hành một loạt lựa chọn giữa các cặp tính trạng. Sự phân loại \"nhân tạo\" và chuỗi các tính trạng trong các khóa được thiết kế hoàn toàn chỉ để nhận dạng (các khóa chẩn đoán), hoặc có liên hệ chặt chẽ hơn với trật tự phân loại \"tự nhiên\" của taxa trong những khóa tổng quát. Đến thế kỉ 18, những loài thực vật mới phục vụ nghiên cứu đã đặt chân đến châu Âu với số lượng ngày càng tăng từ những quốc gia mới phát hiện và vùng thuộc địa của châu Âu trên toàn thế giới. Năm 1753, Carl von Linné (Carl Linnaeus) xuất bản tác phẩm Species Plantarum, một cuốn phân loại thực vật theo thứ bậc vẫn là nguồn tham khảo cho danh pháp thực vật hiện đại. Tác phẩm đã định hình nên một giản đồ đặt tên hai phần hoặc danh pháp hai phần chuẩn hóa, gồm phần đầu là tên chi còn phần thứ hai xác định các loài trong chi. Với mục đích nhận dạng, cuốn \"Systema Sexuale\" của Linnaeus đã phân thực vật thành 24 nhóm dựa theo số lượng cơ quan sinh dục đực của chúng. Nhóm thứ 24 tên là \"Cryptogamia\" gồm có tất cả các loài thực vật mang những bộ phận sinh sản bị ẩn giấu, rêu, cỏ biển, dương xỉ, tảo và nấm.\nNhờ nâng cao kiến thức về giải phẫu, hình thái và các vòng đời của thực vật, các nhà thực vật học nhận ra rằng có nhiều điểm tương đồng tự nhiên giữa các loài thực vật hơn hệ giới tính nhân tạo của Linnaeus. Adanson (1763), de Jussieu (1789) và Candolle (1819) đều công bố nhiều hệ thống phân loại tự nhiên thay thế, theo đó các nhóm thực vật được phân loại dựa trên nhiều nhóm tính trạng hơn và được nhiều người ủng hộ hơn. Hệ thống Candolle phản ánh những hiểu biết của ông về sự phát triển hình thái phức tạp và hệ thống Bentham & Hooker sau này (giàu ảnh hưởng tới giữa thế giữa thế kỉ 19) chịu ảnh hưởng từ phương pháp của Candolle. Sự kiện Darwin cho ra đời cuốn \"Nguồn gốc các loài\" vào năm 1859 và quan niệm của ông về tổ tiên chung đã đòi hỏi những thay đổi với hệ thống của Candolle để phản ánh các mối quan hệ tiến hóa có điểm khác biệt so với nét tương đồng về hình thái.\nThực vật học có một bước tiến lớn nhờ sự xuất hiện của cuốn sách giáo khoa \"hiện đại\" đầu tiên, quyển \"\" của Matthias Schleiden, được xuất bản bằng tiếng Anh với nhan đề \"Principles of Scientific Botany\" (\"Nguồn gốc của khoa học thực vật\") vào năm 1849. Schleiden là một người sử dụng kính hiển vi và nhà giải phẫu thực vật đầu tiên, ngoài ra ông còn là đồng tác giả học thuyết tế bào (với Theodor Schwann và Rudolf Virchow) và một trong những người đầu tiên nắm được tầm quan trọng của nhân tế bào mà Robert Brown từng mô tả vào năm 1831. Năm 1855, Adolf Fick đã xây dựng các định luật của riêng ông nhằm tính toán tốc độ khuếch tán phân tử trong các hệ sinh học.\nThực vật học hậu cận đại.\nDựa trên thuyết di truyền gen-nhiễm sắc thể bắt nguồn từ Gregor Mendel (1822–1884), August Weismann (1834–1914) đã chứng minh rằng di truyền chỉ xảy ra thông qua các giao tử. Không có loại tế bào nào khác có thể truyền đạt các thông tin di truyền. Công trình về giải phẫu thực vật của Katherine Esau (1898–1997) vẫn là nền tảng chính của thực vật học hiện đại. Các quyển \"Plant Anatomy\" (Giải phẫu thực vật) và \"Anatomy of Seed Plants\" (Giải phẫu thực vật có hạt) của bà là những cuốn sinh học cấu trúc thực vật quan trọng trong hơn nửa thế kỷ.\nNhững người tiên phong cho môn sinh thái học thực vật ở cuối thế kỷ 19 là các nhà thực vật học như Eugenius Warming (chủ nhân giả thuyết rằng thực vật tạo nên các quần xã) và Christen C. Raunkiær (cố vấn và người kế nhiệm Warming), tác giả hệ thống miêu tả những dạng sống của thực vật vẫn được sử dụng ngày nay. Quan niệm cho rằng thành phần của các quần xã thực vật như rừng lá rộng ôn đới thay đổi bởi quá trình diễn thế sinh thái là do Henry Chandler Cowles, Arthur Tansley và Frederic Clements phát triển. Clements được ghi công với ý kiến cho rằng quần xã đỉnh cực là quần xã phức tạp nhất mà một môi trường có thể nuôi dưỡng, còn Tansley giới thiệu khái nhiệm của những hệ sinh thái tới sinh quyển. Dựa trên công trình mở rộng trước đó của Alphonse de Candolle, Nikolai Vavilov (1887–1943) đã cho ra đời các tài liệu về địa lý sinh học, các trung tâm nguồn gốc và lịch sử tiến hóa của các loài thực vật có giá trị kinh tế.\nĐặc biệt kể từ giữa thập niên 1960, thế giới đã có những bước tiến bộ trong vốn hiểu biết về bản chấy vật lý, hoá học của các quá trình sinh lý thực vật như thoát hơi nước (vận chuyển nước trong các mô thực vật), tốc độ bay hơi từ bề mặt lá phụ thuộc vào nhiệt độ và sự khuếch tán phân tử hơi nước và khí cacbonic thông qua những lỗ hở khí khổng. Những bước tiến kể trên, cộng với các phương pháp mới nhằm đo kích thước lỗ khí khổng và tốc độ quang hợp đã giúp miêu tả chính xác tốc độ trao đổi khí giữa thực vật và không khí. Những phát kiến mới trong phép phân tích thống kê của Ronald Fisher, Frank Yates và những nhà khoa học khác tại Trạm thí nghiệm Rothamsted đã tạo điều kiện thuận lợi cho thiết kế thí nghiệm hợp lý và phân tích dữ liệu trong nghiên cứu thực vật. Việc Kenneth V. Thimann phát hiện và nhận dạng hormone thực vật auxin vào năm 1948 đã giúp giới khoa học có thể điều chỉnh sự phát triển của thực vật bằng chất hóa học ngoại sinh. Frederick Campion Steward là người tiên phong trong kĩ thuật vi nhân giống và nuôi cấy mô thực vật được điều hoà bởi hormone thực vật. Auxin nhân tạo 2,4-Dichlorophenoxyacetic acid hay 2,4-D là một trong những thuốc diệt cỏ tổng hợp thương mại đầu tiên.\nỞ thế kỷ 20, các kĩ thuật phân tích hóa hữu cơ hiện đại đã điều khiển những bước phát triển trong ngành hóa sinh thực vật, chẳng hạn như quang phổ, sắc ký và điện di. Với việc tăng số lượng các phương pháp tiếp cận sinh học liên quan ở quy mô phân tử của sinh học phân tử, gen học, protein học và chuyển hóa học, mối quan hệ giữa bộ gen của thực vật và hầu hết những khía cạnh của hóa sinh, sinh lý, hình thái và tập tính của thực vật là đối tượng được phân tích thực nghiệm chi tiết. Khái niệm lần đầu do Gottlieb Haberlandt chỉ ra vào năm 1902 rằng tất cả tế bào thực vật là \"toàn năng\" (nguyên văn \"totipotency\") và sau cùng có thể được nuôi cấy \"in-vitro\" (\"trong ống nghiệm\") nhằm sử dụng kỹ thuật di truyền trong thực nghiệm để loại bỏ một hoặc nhiều gen chịu trách nhiệm cho một đặc tính cụ thể, hoặc để bổ sung gen như GFP chỉ thị khi một gen quan tâm đang được biểu lộ. Những công nghệ này có thể cho sử dụng công nghệ sinh học lên toàn bộ thực vật hoặc những tế bào thực vật nuôi cấy trong các lò phản ứng sinh học để tổng hợp thuốc trừ sâu sinh học, dược chất sinh học hoặc các thuốc khác, cũng như ứng dụng thực tế vào cây trồng biến đổi gen được thiết kế cho các đặc tính như cải thiện năng suất.\nHình thái học hiện đại ghi nhận sự thống nhất giữa các loại hình thái chính của rễ, thân (caulome), lá (phyllome) và trichome. Ngoài ra, hình thái chú trọng vào chức năng cấu trúc. Phương pháp phân loại hiện đại nhằm phản ánh và phát hiện quan hệ phát sinh giữa các loài thực vật. Phát sinh chủng loại phân tử hiện đại phần lớn bỏ qua những đặc điểm hình thái, lấy các chuỗi trình tự DNA làm dữ liệu. Phép phân tích phân tử trình tự DNA từ phần lớn họ thực vật có hoa đã góp phần ra đời Nhóm phát sinh thực vật hạt kín (Angiosperm Phylogeny Group - APG, xuất bản vào năm 1998) nói về việc phát sinh các loài thực vật có hoa, giải đáp nhiều câu hỏi về mối quan hệ giữa các họ và loài của nhánh thực vật này. Khả năng trên lý thuyết của một phương pháp thực tế để xác định các loài thực vật và giống thương mại bằng mã vạch DNA là chủ đề của nghiên cứu hiện đại.\nPhạm vi và tầm quan trọng.\nNghiên cứu thực vật rất quan trọng bởi chúng là nền tảng cho sự sống của hầu hết sinh vật trên Trái Đất bằng cách sản sinh ra một lượng lớn khí oxy và cung cấp thức ăn cho con người và các sinh vật khác, thông qua quá trình quang hợp và tổng hợp hữu cơ khác của thực vật. Thực vật, tảo và vi khuẩn lam là những nhóm sinh vật chính tiến hành quang hợp, quá trình sử dụng năng lượng của ánh mặt trời để biến nước và carbon dioxide thành đường – có thể dùng làm nguồn năng lượng hóa học và các phân tử hữu cơ được sử dụng trong thành phần cấu trúc của tế bào. Hiệu ứng phụ của quang hợp là thực vật phát tán oxy vào khí quyển, một loại khí mà hầu hết mọi sinh vật sống cần để thực hiện quá trình hô hấp. Ngoài ra, chúng có tác động tới các chu trình carbon và nước khắp địa cầu, làm liên kết rễ cây và ổn định đất, chống xói mòn. Thực vật có vai trò tối quan trọng với tương lai của xã hội loài người vì chúng cung cấp thức ăn, khí oxy, thuốc và các sản phẩm cho con người, cũng như tạo ra và giữ gìn đất.\nTrong lịch sử, mọi sinh vật sống từng được phân làm động vật hoặc thực vật, và ngành thực vật học chuyên nghiên cứu về tất cả các sinh vật sống không phải động vật. Các nhà thực vật học nghiên cứu cả chức năng lẫn những quá trình bên trong bào quan, tế bào, mô, cá thể thực vật, quần thể thực vật và quần xã thực vật. Ở mỗi mức độ trong số này, một nhà thực vật có thể quan tâm đến phân loại, phát sinh chủng loài và tiến hóa, cấu trúc (giải phẫu và hình thái), hoặc chức năng (sinh lý học) của đời sống thực vật.\nĐịnh nghĩa chính xác nhất của \"thực vật\" chỉ gồm có \"thực vật trên cạn\" hay thực vật có phôi, tức tính cả thực vật có hạt (gồm cả ngành hạt trần và thực vật có hoa) và thực vật không hoa gồm các ngành dương xỉ, thạch tùng, rêu tản, rêu sừng và rêu. Toàn bộ giới Thực vật, trong đó có thực vật có phôi hiện nay có tổ tiên là tảo lục đa bào nguyên thủy. Vòng đời của chúng là sự xen kẽ thế hệ giữa các thể lưỡng bội và đơn bội. Thể lưỡng bội hữu tính của thực vật có phôi (còn gọi là thể giao tử) nuôi dưỡng bào tử phôi đơn bội đang phát triển trong các mô của nó trong ít nhất một phần vòng đời, thậm chí ở cả thực vật có hạt (giao tử được nuôi bởi bào tử cha mẹ của nó). Các nhà thực vật học còn nghiên cứu những nhóm sinh vật khác gồm có vi khuẩn (hiện nằm trong ngành vi khuẩn học), nấm (nấm học) – bao gồm nấm tạo hình địa y, tảo không chứa diệp lục (tảo học) và virus (virus học). Tuy nhiên, các nhà khoa học thực vật vẫn dành sự chú ý cho những nhóm này; nấm (tính cả địa y) và sinh vật đơn bào quang hợp thường được nhắc đến trong các khóa học nhập môn thực vật học.\nNhững chuyên gia cổ thực vật học đã nghiên cứu thực vật cổ trong mẫu hóa thạch để mang lại thông tin về lịch sử tiến hóa của thực vật. Vi khuẩn lam (sinh vật quang hợp thải ra oxy đầu tiên trên Trái Đất) được xem là đã sinh ra tổ tiên của thực vật bằng cách tham gia quan hệ nội cộng sinh với một sinh vật nhân thực sơ khai, sau cùng trở thành lục lạp trong tế bào thực vật. Thực vật quang hợp mới (bên cạnh họ hàng tảo của chúng) làm tăng tốc quá trình phát tán oxy trong khí quyển mà vi khuẩn lam từng bắt đầu, thay đổi bầu khí quyển cổ đại chưa có oxy, oxy hóa khử rồi tạo nên bầu khí quyển dồi dào oxy tự do trong hơn 2 tỷ năm.\nNhững câu hỏi quan trọng của thực vật học ở thế kỉ 21 là vai trò sản xuất chính của thực vật trong chu trình chuyển hóa các thành phần cơ bản của sự sống địa cầu: năng lượng, carbon, oxy, nitơ và nước, bên cạnh đó là cách chúng ta quản lý thực vật có thể giúp giải quyết những vấn đề môi trường của toàn cầu như quản lý tài nguyên, bảo tồn, an ninh lương thực nhân loại, các loài sinh vật xâm lấn, cô lập carbon, biến đổi khí hậu và bền vững.\nDinh dưỡng cho con người.\nHầu như mọi loại thực phẩm thiết yếu đều bắt nguồn từ sản lượng sơ cấp của thực vật, hoặc gián tiếp nhờ động vật ăn chúng. Thực vật và các sinh vật quang hợp khác là cơ sở của hầu hết các chuỗi thức ăn vì chúng sử dụng nguồn năng lượng từ mặt trời và dinh dưỡng từ đất và không khí, biến chúng thành dạng mà động vật có thể tiêu thụ. Đây là thứ mà các nhà sinh thái học gọi là bậc dinh dưỡng đầu tiên. Các dạng thực phẩm thiết yếu chính thời hiện đại, chẳng hạn như hạt tef, ngô, gạo, lúa mì và những loại ngũ cốc khác, cũng như gai dầu, lanh và sợi bông được trồng để lấy sợi là kết quả chọn lọc nhân tạo qua hàng nghìn năm từ những cây trồng tổ tiên hoang dã kèm theo những đặc tính con người mong muốn nhất.\nNhững nhà thực vật là người nghiên cứu cách mà thực vật cho ra thực phẩm và cách tăng sản lượng, ví dụ thông qua nhân giống cây trồng, họ giữ vai trò quan trọng trong khả năng cung cấp thức ăn cho thế giới và đảm bảo an ninh lương thực cho thế hệ tương lai. Các nhà thực vật còn nghiên cứu cỏ dại (một vấn đề nổi cộm trong nông nghiệp), bệnh học thực vật trong nông nghiệp và hệ sinh thái tự nhiên. Thực vật dân tộc học là ngành nghiên cứu mối quan hệ giữa thực vật và con người. Khi được dùng để nghiên cứu về quan hệ lịch sử của người–thực vật, thực vật dân tộc học có thể xem là khảo cổ thực vật học. Một trong những mối quan hệ của người-thực vật ra đời sớm nhất phát sinh ở cộng đồng thổ dân Canada nhằm xác định thực vật ăn được và không ăn được. Các nhà thực vật dân tộc học cũng ghi chép lại mối quan hệ này của thổ dân với thực vật.\nHóa sinh thực vật.\nHóa sinh thực vật là ngành nghiên cứu các quá trình hóa học do thực vật sử dụng. Một vài trong số những quá trình này được dùng trong chuyển hóa sơ cấp như chu trình Calvin ở các nhóm thực vật C3, C4 và CAM. Những quá trình khác tạo ra những chất liệu chuyên dụng như cellulose và lignin dùng để cấu trúc cơ thể chúng và các sản phẩm thứ cấp như nhựa cây và chất thơm.\n box-shadow: 1px 1px 3px rgba(0,0,0,0.2);\">\nThực vật tạo nên nhiều sắc tố quang hợp, một vài sắc tố có thể thấy thông qua phương pháp sắc ký giấy\nXanthophyll\nDiệp lục \"a\"\nDiệp lục \"b\"\nThực vật và nhiều nhóm sinh vật nhân thực quang hợp khác có các bào quan độc nhất gọi là lục lạp. Lục lạp được xem là có nguồn gốc từ vi khuẩn lam, thứ tạo nên mối quan hệ nội cộng sinh với tổ tiên của thực vật và tảo cổ. Lục lạp và vi khuẩn lam chứa sắc tố diệp lục \"a\" màu xanh dương. Diệp lục \"a\" (cũng như sắc tố họ hàng diệp lục \"b\" trong thực vật và tảo màu xanh lá) hấp thụ ánh sáng ở các dải màu xanh dương-tím và cam/đỏ của quang phổ, đồng thời phản xạ và truyền đi ánh sáng xanh lá mà chúng ta thấy là màu đặc trưng của các sinh vật này. Năng lượng trong ánh sáng đỏ và xanh dương mà những sắc tố này hấp thụ (do lục lạp sử dụng) nhằm tạo nên các chất carbon giàu năng lượng từ carbon dioxide và nước bằng quang hợp tạo oxy, quá trình sản sinh oxy phân tử (O2) làm sản phẩm phụ.\nỞ pha sáng, năng lượng ánh sáng mà các sắc tố hấp thụ, đặc biệt là diệp lục \"a\" được truyền đi ở dạng các electron (và sau đó là gradient proton), qua hàng loạt các chất nhận điện tử đến cuối cùng dùng để tạo nên các phân tử ATP và NADPH – chúng tạm thời lưu trữ và vận chuyển năng lượng. Năng lượng của chúng được sử dụng trong pha tối của quang hợp, chủ yếu là trong chu trình Calvin bởi enzyme RuBisCo nhằm tạo ra các phân tử đường 3-carbon glyceraldehyde 3-phosphat (G3P). Glyceraldehyde 3-phosphat là sản phẩm đầu tiên của quang hợp và nguyên liệu thô để tổng hợp glucose và hầu hết những phân tử hữu cơ có nguồn gốc sinh học khác. Một vài glucose chuyển hóa thành tinh bột và được lưu trữ trong lục lạp. Tinh bột là nguồn dự trữ năng lượng đặc trưng của hầu hết thực vật trên cạn và tảo, trong khi inulin (một polyme của fructose) được dùng với mục đích tương tự trong họ Cúc (Asteraceae). Một số glucose bị chuyển thành saccharose (đường ăn thông thường) và vận chuyển đi các phần còn lại của cây.\nKhông giống động vật (thiếu lục lạp), thực vật và các họ hàng sinh vật nhân thực của chúng đã giao nhiều vai trò sinh học cho lục lạp, bao gồm tổng hợp tất cả acid béo, và đa số amino acid. Những acid béo mà lục lạp tạo ra được sử dụng cho nhiều mục đích, chẳng hạn như cung cấp nguyên liệu để xây dựng màng tế bào và tạo ra polyme cutin được tìm thấy trong lớp cutin thực vật giúp bảo vệ thực vật trên cạn khỏi mất nước. \nThực vật tổng hợp nên một số polymer độc đáo như các phân tử cellulose, pectin và xyloglucan mà từ đấy cấu thành nên vách tế bào thực vật.\nThực vật có mạch trên cạn tạo ra lignin, một loại polyme dùng để tăng cường vách tế bào thứ cấp của các quản bào và mạch gỗ, giữ chúng không bị đổ dưới áp lực của nước khi cây hút nước qua chúng. Lignin còn được sử dụng trong các loại tế bào khác như mô cứng, sợi gỗ, hỗ trợ cấu trúc cho cây và là thành phần chính của gỗ. Sporopollenin là một polyme kháng hóa mà giới khoa học tìm thấy trong vách tế bào ngoài của bào tử và phấn hoa, chịu trách nhiệm cho sự sinh tồn của bào tử thực vật trên cạn sơ khai và phấn hoa của thực vật có hạt trong mẫu hóa thạch. Nó được nhiều nhà nghiên cứu xem là dấu mốc khởi đầu của tiến hóa thực vật trên cạn trong kỷ Ordovic. Nồng độ carbon dioxide trong khí quyển ngày nay thấp hơn nhiều so với khi thực vật mọc lấn lên đất liền trong các kỷ Ordovic và Silur. Kể từ đấy, nhiều cây một lá mầm như ngô, dứa và một số cây hai lá mầm như họ Cúc đã tiến hóa thêm các con đường quang hợp độc lập như thực vật CAM và thực vật, nhằm tránh thất thoát sản phẩm quang hợp bởi hô hấp sáng trong con đường cố định carbon phổ biến hơn.\nThuốc và nguyên vật liệu.\nHóa thực vật là một phân ngành của hóa sinh thực vật chủ yếu liên quan đến các chất hóa học mà thực vật tạo ra trong quá trình trao đổi chất thứ cấp. Một số thành phần dạng này là chất độc như alkaloid coniin từ cây độc cần. Những chất khác chẳng hạn như tinh dầu bạc hà và tinh dầu chanh đều có ích với mùi thơm của chúng để chế thành hương liệu và gia vị (ví dụ capsaicin), và làm dược phẩm trong y học như trong nha phiến từ cây anh túc. Nhiều dược phẩm và thuốc tiêu khiển, như tetrahydrocannabinol (thành phần trong cần sa), caffein, morphin và nicotin đều bắt nguồn trực tiếp từ thực vật. Một số loại khác là dẫn xuất đơn giản từ các sản phẩm thực vật tự nhiên. Ví dụ, chất giảm đau aspirin là hợp chất ester acetyl của acid salicylic, lúc đầu tách ra từ vỏ cây liễu, và một lượng lớn thuốc giảm đau có thuốc phiện như heroin có được nhờ biến đổi hóa học của morphin lấy từ anh túc. Những chất kích thích phổ biến bắt nguồn từ thực vật, chẳng hạn như caffein từ cà phê, trà và sôcôla, và nicotin từ thuốc lá. Hầu hết đồ uống có cồn bắt nguồn từ quá trình lên men của các sản phẩm thực vật giàu carbohydrat như đại mạch (bia), gạo (rượu sake) và nho (rượu vang). Những người Mỹ bản địa đã sử dụng nhiều thực vật như một phương pháp chữa trị bệnh tật trong hàng nghìn năm. Những kiến thức về thực vật của người Mỹ bản địa đã được các nhà thực vật dân tộc học ghi chép lại và chúng được chuyển qua các công ty dược phẩm dùng để khám phá thuốc.\nThực vật có thể tổng hợp nên những sắc tố và thuốc nhuộm hữu ích như anthocyanin có tác dụng tạo màu đỏ của rượu vang đỏ, chất tạo màu vàng và chất nhuộm tùng lam cùng được dùng để chế màu xanh lá Lincoln, indoxyl – nguồn thuốc nhuộm chàm mà theo truyền thống để nhuộm vải denim, những sắc tố gamboge và cây thiên thảo cho màu vẽ của nghệ sĩ. Đường, tinh bột, sợi bông, vải lanh, gai dầu công nghiệp, một vài loại dây thừng, gỗ và ván dăm, giấy cói và giấy thường, dầu thực vật, sáp và cao su tự nhiên là những ví dụ về những chất liệu thương mại quan trọng được làm từ mô thực vật hoặc các sản phẩm thứ cấp của chúng. Than củi (một dạng carbon nguyên chất làm từ gỗ chưng khô) có một lịch sử lâu đời như một nhiên liệu nấu chảy kim loại, là chất liệu lọc và hấp phụ, chất liệu vẽ của nghệ sĩ và một trong ba thành phần của thuốc súng. Cellulose (hợp chất polymer hữu cơ dồi dào nhất thế giới) có thể được chuyển đổi thành năng lượng, nhiên liệu, vật liệu và nguyên liệu hóa học. Những sản phẩm chế từ cellulose gồm có tơ nhân tạo và giấy bóng kính, giấy dán tường, xăng butanol và đạn súng. Mía, cải dầu và đậu tương là một số loại thực vật có hàm lượng đường hoặc dầu dễ lên men, dùng làm các nguồn nhiên liệu sinh học, nguồn thay thế quan trọng cho nhiên liệu hóa thạch như diesel sinh học. Người Mỹ bản địa đã sử dụng cây cỏ ngọt để xua đuổi côn trùng như muỗi. Hội hóa học Mỹ về sau đã phát hiện những đặc tính xua đuổi bọ của cỏ ngọt trong các phân tử phytol và coumarin.\nSinh thái học thực vật.\nSinh thái học thực vật là bộ môn khoa học về các mối quan hệ chức năng giữa thực vật và sinh cảnh của chúng – môi trường nơi chúng hoàn thành vòng đời của mình. Những nhà sinh thái học thực vật nghiên cứu thành phần hệ thực vật bản địa và khu vực, tính đa dạng sinh học, đa dạng di truyền và xác suất, sự thích nghi với môi trường sống của thực vật, tính cạnh tranh hoặc tương tác hỗ sinh với các loài khác. Thậm chí một vài nhà sinh thái học còn dựa vào dữ liệu thực nghiệm từ người bản địa mà các nhà thực vật dân tộc học thu thập được. Thông tin này có thể chuyển giao một lượng lớn thông tin về cách vùng đất tồn tại từ hàng nghìn năm trước và nó đã thay đổi ra sao trong suốt thời gian đó. Mục tiêu của sinh thái học thực vật là nắm được nguyên nhân của các mẫu phân bố, năng suất, tác động tới môi trường, tiến hóa và phản ứng của thực vật trước biến đổi môi trường.\nThực vật phụ thuộc vào các yếu tố khí hậu và thổ nhưỡng (đất) nhất định ở môi trường của chúng, song cũng có thể điều chỉnh những yếu tố này. Ví dụ, chúng có thể thay đổi suất phản chiếu của môi trường, làm tăng khả năng chặn dòng chảy mặt, làm ổn định đất khoáng, phát triển hàm lượng hữu cơ của đất và tác động tới nhiệt độ môi trường xung quanh. Thực vật cạnh tranh với các sinh vật khác để giành lấy tài nguyên trong hệ sinh thái của chúng. Chúng tương tác với đồng loại theo nhiều quy mô không gian trong các nhóm cá thể, quần thể và quần xã, cùng tạo nên thảm thực vật chung. Những vùng mang thảm thực vật đặc trưng và các cây chiếm ưu thế cũng như những thành phần vô sinh và hữu sinh, khí hậu và địa lý tạo nên các khu sinh học như đài nguyên hoặc rừng mưa nhiệt đới.\nĐộng vật ăn cỏ thì ăn thực vật, song thực vật có thể tự phòng vệ, một số loài là ký sinh hay thậm chí ăn thịt. Những sinh vật khác tạo nên mối quan hệ cộng sinh có lợi với thực vật. Ví dụ, nấm rễ và rhizobia cung cấp chất dinh dưỡng cho thực vật để đổi lấy thức ăn, kiến bị cây kiến (Myrmecophyte) thu hút để giúp bảo vệ cây, ong mật, dơi và các động vật khác thụ phấn cho hoa con người và những động vật khác là vật trung gian phát tán các bào tử và hạt.\nThực vật, biến đổi khí hậu và môi trường.\nNhững phản ứng của thực vật với những biến đổi khí hậu và môi trường khác có thể giúp ta hiểu về cách những biến đổi này tác động lên chức năng và năng suất của hệ sinh thái. Ví dụ, hiện tượng học thực vật có thể là một biến đo nhiệt độ hữu ích trong lịch sử khí tượng, tác động sinh học của biến đổi khí hậu và ấm lên toàn cầu. Phấn hoa học, phép phân tích mỏ phấn hoa hóa thạch trong các trầm tích từ hàng nghìn hoặc hàng triệu năm trước cho phép tái tạo khí hậu của quá khứ. Những ước tính về nồng độ trong khí quyển kể từ Đại Cổ sinh có được từ mật độ khí khổng, hình dạng lá và kích thước của thực vật trên cạn cổ. Suy giảm ozon có thể làm thực vật tiếp xúc với tia bức xạ cực tím-B (UV-B), làm cho \ntốc độ phát triển thấp hơn. Ngoài ra, thông tin từ các nghiên cứu về quần xã sinh học, hệ thống hóa và phân loại thực vật là rất cần thiết để nắm rõ thay đổi của thảm thực vật, hủy hoại môi trường sống và những loài bị tuyệt chủng.\nDi truyền học.\nSự di truyền ở thực vật tuân theo những nguyên tắc cơ bản của di truyền giống như ở các sinh vật đa bào khác. Gregor Mendel khám phá ra các luật di truyền bằng việc nghiên cứu đặc điểm di truyền của kiểu hình cây \"Pisum sativum\" (đậu Hà Lan). Những gì Mendel rút ra từ nghiên cứu thực vật đã mang lại những lợi ích ảnh hưởng sâu rộng bên ngoài thực vật học. Tương tự, \"gen nhảy\" được Barbara McClintock phát hiện trong lúc bà nghiên cứu ngô. Tuy nhiên, có một vài nét khác biệt về mặt di truyền để phân biệt giữa thực vật và những sinh vật khác.\nRanh giới loài ở thực vật có thể kém hơn ở động vật, và phép lai khác loài thường dễ xảy ra. Một ví dụ điển hình là bạc hà Âu, \"Mentha\" × \"piperita\", một phép lai bất thụ giữa bạc hà nước và bạc hà \"Mentha spicata\". Nhiều giống lúa mì trồng trọt là kết quả của nhiều phép lai giữa và trong loài, giữa loài hoang dã và các giống lai của chúng. Thực vật có hoa lưỡng tính thường có cơ chế tự tương khắc hoạt động giữa phấn hoa và đầu nhụy để cho hạt phấn không rơi vào đầu nhụy hoặc không thể nảy mầm và tạo giao tử đực. Đây là một trong nhiều cách mà thực vật sử dụng để thúc đẩy giao phấn. Ở nhiều thực vật trên cạn, giao tử đực và cái được tạo ra bởi những cá thể riêng biệt. Những loài này được xem là phân tính khi nhắc tới thể bào tử của thực vật có mạch, và lưỡng tính khi nhắc đến thể giao tử rêu.\nKhông giống động vật bậc cao (hiếm trinh sản), sinh sản vô tính có thể xảy ra ở thực vật theo nhiều cơ chế khác nhau. Sự hình thành thân củ ở khoai tây là một ví dụ. Đặc biệt ở những môi trường sống Bắc Cực hoặc núi cao (hiếm cơ hội để động vật thụ tinh cho hoa), cây non hoặc thân hành có thể phát triển thay cho hoa, thay thế sinh sản hữu tính bằng sinh sản vô tính và làm phát sinh những quần thể vô tính giống với bố mẹ về mặt di truyền. Đây là một trong nhiều loại sinh sản vô phối xảy ra ở thực vật. Sinh sản vô phối cũng có thể xảy ra trong hạt, tạo ra một hạt chứa phôi giống bố mẹ về mặt di truyền.\nHầu hết sinh vật sinh sản hữu tính là lưỡng bội với những chiếc nhiễm sắc thể tồn tại thành cặp tương đồng. Bộ nhiễm sắc thể có thể sai sót trong quá trình phân bào. Tình trạng này có thể xảy ra sớm trong quá trình phát triển phôi tạo ra cơ thể tự đa bội hoàn toàn hoặc một phần, hoặc trong các quá trình biệt hóa tế bào thông thường nhằm tạo ra một số loại tế bào đa bội (thể nội đa bội), hoặc trong lúc hình thành giao tử. Một thực vật thể dị đa bội có thể ra đời từ một phép lai giữa hai loài khác nhau và sau đó được đa bội hóa. Cả thực vật tự đa bội và dị đa bội đều có thể sinh sản bình thường, song không thể phối chéo thành công với quần thể bố mẹ vì có sự không tương thích trong bộ nhiễm sắc thể. Những thực vật này bị cách li sinh sản khỏi loài bố mẹ dù sống trong cùng khu vực địa lý, có thể đủ thành công để hình thành một loài mới. Một số thể đa bội bất thụ khác ở thực vật có thể vẫn sinh sản sinh dưỡng hoặc hình thành những quần thể vô tính gồm các cá thể giống hệt nhau nhờ hình thức sinh sản vô phối ở hạt. Lúa mì cứng là một thể dị tứ bội bất thụ, trong khi lúa mì thông thường là một thể dị lục bội. Chuối thương mại là một ví dụ về thể tam bội bất thụ không hạt. Cây bồ công anh thông thường là thể tam bội tạo các hạt vô tính. Giống như ở các sinh vật nhân thực khác, di truyền ở các bào quan ty thể và lục lạp ở thực vật không theo quy luật di truyền Mendel. Lục lạp được di truyền thông qua cây đực ở thực vật hạt trần song thường qua cây mẹ ở thực vật có hoa.\nDi truyền phân tử.\nMột lượng kiến thức mới đáng kể về chức năng của thực vật đến từ những nghiên cứu về di truyền phân tử của thực vật mô hình như cây cải xoong \"Arabidopsis thaliana\", một loài cỏ dại nằm trong họ Cải (Brassicaceae). Bộ gen hoặc thông tin di truyền chứa trong các gen của loài này được mã hóa bởi khoảng 135 triệu cặp base DNA, tạo nên một trong những bộ gen nhỏ nhất của nhóm thực vật có hoa. \"Arabidopsis\" là thực vật đầu tiên được giải trình bộ gen vào năm 2000. Trình tự của một vài bộ gen tương đối nhỏ khác là của lúa (\"Oryza sativa\") và \"Brachypodium distachyon\" đã biến chúng thành những loài mô hình quan trọng để nghiên cứu di truyền, sinh học tế bào và phân tử của ngũ cốc, họ Lúa và thực vật một lá mầm nói chung.\nThực vật mô hình như \"Arabidopsis thaliana\" được dùng để nghiên cứu sinh học phân tử của tế bào thực vật và lục lạp. Lý tưởng hơn cả, những sinh vật này mang bộ gen nhỏ mà giới khoa học biết rõ hoặc giải trình tự hoàn toàn, phát triển nhanh và thời gian thế hệ ngắn. Ngô đã được dùng để nghiên cứu các cơ chế của quang hợp và vận chuyển đường qua mạch rây ở thực vật. Sinh vật đơn bào tảo lục \"Chlamydomonas reinhardtii\" (dù bản thân nó không phải thực vật có phôi) chứa diệp lục b trong lục lạp, sắc tố này liên quan đến diệp lục a ở thực vật trên cạn, trở thành một đề tài nghiên cứu hữu ích. Loài tảo đỏ \"Cyanidioschyzon merolae\" còn được dùng để nghiên cứu một vài chức năng cơ bản của lục lạp. Rau chân vịt, đậu Hà Lan, đậu tương và rêu \"Physcomitrella patens\" thường được dùng để nghiên cứu sinh học tế bào thực vật.\n\"Agrobacterium tumefaciens\" (một vi khuẩn sống ở nốt sần rễ cây họ Đậu (Fabaceae) trong đất) có thể gắn vào tế bào thực vật và lây nhiễm cho chúng bằng plasmid Ti mô sẹo (callus) nhờ chuyển gen ngang, gây dạng nhiễm thể sần (còn gọi là bệnh nốt sần). Schell và Van Montagu (1977) đưa ra giả thuyết rằng plasmid Ti có thể là một vector tự nhiên để đưa tới gen nif, thứ chịu trách nhiệm cho khả năng cố định đạm ở nốt sần rễ của cây họ Đậu và những loài thực vật khác. Ngày nay, biến đổi gen ở Ti plasmid là một trong những kĩ thuật chính để đưa gen chuyển vào thực vật và tạo ra cây trồng biến đổi gen.\nDi truyền học biểu sinh.\nDi truyền học biểu sinh là chuyên ngành nghiên cứu những thay đổi về mặt di truyền trong biểu hiện gen mà không thể giải thích bằng những thay đổi trong trình tự DNA cơ bản nhưng làm các gen của sinh vật hoạt động (hoặc \"tự biểu hiện\") khác nhau. Một ví dụ về sự thay đổi biểu sinh là đánh dấu gen bằng methyl hóa DNA, xác định xem liệu chúng sẽ được biểu hiện hay không. Biểu hiển gen còn có thể được kiểm soát bằng những protein ức chế gắn vào trình tự tắt của DNA và ngăn vùng ấy biểu hiện gen. Những chỉ thị của biểu sinh có thể bị xóa đi hoặc thêm vào DNA trong các giai đoạn của vòng đời phát triển thực vật, và chịu trách nhiệm cho những khác biệt giữa bao phấn, cánh hoa và lá thông thường, mặc cho thực tế rằng chúng đều mang mã di truyền cơ bản. Những thay đổi biểu sinh có thể là tạm thời hoặc có thể duy trì qua những lần phân bào liên tiếp trong phần đời còn lại của tế bào. Một vài thay đổi biểu sinh có thể xem là hệ số di truyền.\nNhững thay đổi biểu sinh trong sinh vật nhân thực có vai trò điều chỉnh quá trình biệt hóa tế bào. Trong quá trình phát sinh hình thái, các tế bào gốc toàn năng trở thành nhiều tế bào bất tử phôi, từ đó trở thành các tế bào đã biệt hóa hoàn toàn. Một noãn được thụ tinh duy nhất là hợp tử cho ra đời nhiều loại tế bào thực vật khác nhau, gồm có mô mềm, mạch ống của mạch gỗ, ống rây của mạch rây, tế bào bảo vệ của biểu bì... rồi tiếp tục nguyên phân. Quá trình bắt nguồn từ hoạt hóa biểu sinh của một số gen và ức chế các gen khác.\nKhông như động vật, nhiều tế bào thực vật, đặc biệt là tế bào của mô mềm không biệt hóa đến cuối mà vẫn toàn năng với khả năng phát sinh một cây cá thể mới. Những trường hợp ngoại lệ gồm có tế bào hóa gỗ cao, mô cứng và xylem chết lúc trưởng thành, và tế bào kèm mạch rây thiếu nhân. Trong khi thực vật sử dụng nhiều cơ chế biểu sinh tương tự động vật (chẳng hạn như tái mô hình hóa chất nhiễm sắc), một giả thuyết khác là những thực vật ấy thiết lập kiểu biểu hiệu gen nhờ sử dụng thông tin vị trí từ môi trường và các tế bào xung quanh để xác định số phận phát triển của chúng.\nNhững thay đổi biểu sinh có thể dẫn tới cận đột biến (không tuân theo quy luật di truyền Mendel). Những dấu hiệu biểu sinh này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp, một alen lại gây ra sự thay đổi lên alen khác.\nTiến hóa thực vật.\nLục lạp của thực vật có một số điểm tương đồng về hóa sinh, cấu trúc và di truyền so với vi khuẩn lam (có tên thông dụng nhưng không chuẩn là \"tảo lam\") và được cho là bắt nguồn từ mối quan hệ nội cộng sinh giữa một tế bào nhân thực cổ đại và một một dòng vi khuẩn lam.\nTảo là một nhóm sinh vật đa ngành và được xếp vào giới Khởi sinh trong hệ thống Whitaker - Margulis, một số loài có quan hệ mật thiết với thực vật hơn những loài khác. Có nhiều đặc điểm khác biệt giữa chúng như thành phần vách tế bào, hóa sinh, sắc tố, cấu trúc lục lạp và dự trữ chất dinh dưỡng. Ngành Luân tảo (có quan hệ chị em với ngành tảo lục Chlorophyta) được xem là ngành có tổ tiên của thực vật thật sự. Lớp Charophyceae của ngành Luân tảo và phân giới thực vật có phôi của thực vật trên cạn cùng hình thành nên nhóm đơn ngành hay nhóm thực vật Streptophytina.\nThực vật không mạch trên cạn là những thực vật có phôi thiếu mô mạch xylem và phloem. Chúng gồm có rêu, rêu tản và rêu sừng. Thực vật có mạch Pteridophyte mang xylem và phloem sinh sản bằng bào tử, nảy mầm thành giao tử sống độc lập, tiến hóa trong kỷ Silur và phân thành nhiều nhánh ở cuối kỷ Silur và đầu kỷ Devon. Những đại diện của cây thạch tùng vẫn tồn tại cho tới ngày nay. Cho đến cuối kỷ Devon, nhiều nhóm thực vật (tính cả thạch tùng, lá nêm và tiền hạt trần) đã tiến hóa độc lập thành \"đại bào tử\" – bào tử của chúng có hai kích thước riêng biệt, đại bào tử lớn hơn và vi bào tử bé hơn. Vi bào tử thường tiêu giảm, đại bào tử nguyên phân tạo giao tử và được giữ lại trong nang bào tử (megasporangia), còn có tên là nội bào tử. Hạt giống gồm có một nang nội bào tử được bao quanh bởi một hoặc hai lớp bọc ngoài (vỏ bọc). Bào tử non phát triển bên trong hạt giống, rồi khi hạt nảy mầm sẽ tách ra sẽ giải phóng bào tử. Những hạt giống thực vật ra đời sớm nhất có niên đại từ tầng Famenne của kỷ Devon gần nhất. Sau khi quá trình tiến hóa của hạt, thực vật có hạt phân thành nhiều dạng, phát sinh một số nhóm nay đã tuyệt chủng (gồm có dương xỉ hạt) cũng như thực vật hạt trần và thực vật có hoa hiện đại. Thực vật hạt trần sinh ra \"hạt trần\" không hoàn toàn bọc trong bầu; những đại diện hiện đại gồm có các ngành Thông, lớp Tuế, \"Bạch quả\" và lớp Dây gắm. Thực vật hạt kín sinh hạt bọc trong một bộ phận của nhụy (bầu nhụy). Hiện giới khoa học đang tiến hành nghiên cứu về việc phát sinh phân tử của thực vật sống, dường như là dấu hiệu cho thấy thực vật hạt kín là một nhóm chị em với thực vật hạt trần.\nSinh lý học thực vật.\nSinh lý học thực vật bao hàm toàn bộ hoạt động nội hóa học và vật lý của thực vật gắn liền với sự sống. Những hóa chất tổng hợp được nguyên liệu không khí, đất và nước hình thành nên trao đổi chất ở thực vật. Năng lượng của ánh mặt trời được thu nhận bởi quá trình quang hợp oxy và được giải phóng bởi hô hấp tế bào là nền tảng của hầu hết mọi sự sống. Sinh vật quang tự dưỡng, gồm có mọi thực vật có sắc tố xanh, tảo và vi khuẩn lam thu nhận năng lượng trực tiếp từ ánh mặt trời bằng quang hợp. Sinh vật dị dưỡng gồm có mọi động vật, mọi loài nấm, mọi thực vật ký sinh hoàn toàn và vi khuẩn không quang hợp thu nhận các phân tử hữu cơ do sinh vật quang tự dưỡng tạo ra rồi hô hấp hoặc sử dụng chúng trong việc xây dựng các tế bào và mô. Hô hấp là quá trình oxy hóa các hợp chất carbon bằng cách phân giải chúng thành những phân tử đơn giản hơn để giải phóng năng lượng mà chúng tích lũy, cơ bản là ngược lại với quang hợp.\nCác phân tử di chuyển trong thực vật theo quá trình vận chuyển chủ động và bị động ở nhiều quy mô không gian khác nhau. Các ion, electron và phân tử được vận chuyển dưới tế bào như nước và enzym diễn ra trên toàn bộ màng tế bào. Chất khoáng và nước được vận chuyển từ rễ lên các bộ phận khác của thực vật trong dòng thoát hơi nước. Khuếch tán, thẩm thấu, vận chuyển chủ động và dòng chảy khối lượng là toàn bộ những cách để vận chuyển. Ví dụ về dinh dưỡng khoáng thực vật cần là nitơ, phosphor, kali, calci, magnesi và lưu huỳnh. Ở thực vật có mạch, những yếu tố này được rễ hấp thu từ đất dưới dạng các ion hòa tan và vận chuyển khắp cơ thể thực vật trong mạch gỗ và mạch rây. Hầu hết những yếu tố ấy cần thiết cho dinh dưỡng thực vật xuất phát từ phân hủy hóa học của khoáng chất trong đất.\nHormone thực vật.\nThực vật không thụ động, song phản ứng chậm với các tín hiệu bên ngoài như ánh sáng, tiếp xúc và thương tổn bằng cách di chuyển hoặc phát triển hướng về phía hoặc tránh tác nhân kích thích tùy theo trường hợp. Bằng chứng hiển nhiên về tính nhạy cảm khi tiếp xúc là sự đổ gục gần như tức thời của lá chét cây trinh nữ, bẫy côn trùng của cây bẫy kẹp, chi Nhĩ cán và các hạt phấn của hoa lan.\nGiả thuyết cho rằng sự phát triển và sinh trưởng của thực vât được điều phối bởi hormone thực vật hoặc các chất điều hòa sinh trưởng thực vật lần đầu nổi lên vào cuối thế kỷ 19. Darwin đã thí nghiệm về chuyển động của chồi và rễ cây hướng về ánh sáng và trọng lực, ông kết luận: \"Hầu như không hề phóng đại khi cho rằng đầu của rễ mầm hoạt động như bộ não của một trong những loài động vật bậc thấp điều khiển nhiều chuyển động\". Cùng lúc ấy, vai trò của auxin (từ tiếng Hy Lạp , tức là mọc lên) trong việc kiểm soát sinh trưởng của thực vật lần đầu do nhà khoa học người Hà Lan Frits Went chỉ ra một cách khái quát. Auxin đầu tiên được biết tới là acid indole-3-acetic (IAA), có tác dụng kích thích tăng trưởng tế bào, được cô lập từ thực vật khoảng 50 năm về sau. Hợp chất này có vai trò là trung gian cho những phản ứng của rễ và chồi, định hướng các cơ quan này hướng về phía ánh sáng hoặc trọng lực. Giới khoa học phát hiện vào năm 1939 rằng mô sẹo của thực vật có thể phát triển trong môi trường nuôi cấy chứa IAA, kế đến là quan sát vào năm 1947 cho thấy nó có thể bị kích thích tạo nên rễ và chồi bằng cách kiểm soát tương quan giữa các nồng độ hormone tăng trưởng, đó là những bước tiến quan trọng trong sự phát triển của công nghệ sinh học và biến đổi gen ở thực vật.\nCytokinin là một loại hormone của thực vật có khả năng kiểm soát phân bào (đặc biệt là phân chia tế bào chất). Cytokinin tự nhiên zeatin được phát hiện trong ngô và là một dẫn xuất của purin adenin. Zeatin được tạo ra trong rễ rồi vận chuyển lên chồi qua mạch gỗ, nơi nó kích thích phân bào, phát triển chồi và nhuộm xanh cho lục lạp. Những gibberellin, chẳng hạn như acid gibberellic là những diterpen được tổng hợp từ acetyl CoA qua con đường mevalonat. Chúng có liên quan tới việc kích thích nảy mầm và phá vỡ sự ngủ ở hạt, điều chỉnh chiều cao của cây bằng cách kiểm soát kéo dài chuỗi polypeptit của thân và kiểm soát sự ra hoa. Acid abscisic (ABA) có mặt ở mọi thực vật trên cạn ngoại trừ ngành rêu tản và tổng hợp từ carotenoid trong lục lạp và các lạp thể khác. Nó ức chế phân bào, kích thích hạt trưởng thành, tình trạng ngủ và kích thích đóng khí khổng. Nó có tên như vậy vì là vì ban đầu ABA được cho là kiểm soát sự rụng (abscission). Ethylen là một hormone thể khí được tạo ra ở tất các mô thực vật bậc cao từ methionin. Ngày nay nó được biết tới là hormone nội sinh kích thích hoặc điều chỉnh quá trình chín và rụng của trái cây.\nMột loại hormone thực vật nữa là jasmonat, lần đầu được cô lập ra từ dầu của cây \"Jasminum grandiflorum\" có tác dụng điều chỉnh phản ứng với vết thương ở thực bằng cách kích hoạt biểu hiện gen cần có trong phản ứng tính kháng tập nhiễm có hệ thống trước sự tấn công của mầm bệnh. Ngoài vai trò là nguồn năng lượng chính của thực vật, ánh sáng còn có chức năng truyền tín hiệu, cung cấp thông tin cho cây, ví dụ như cây nhận được bao nhiêu ánh sáng mặt trời mỗi ngày. Từ đó có thể dẫn tới những thay đổi thích nghi trong một quá trình tên là phát sinh quang hình thái. Sắc tố thực vật là cơ quan cảm quang ở thực vật nhạy cảm với ánh sáng.\nHình thái và giải phẫu học thực vật.\nGiải phẫu học thực vật là chuyên ngành nghiên cứu cấu trúc của tế bào và mô ở thực vật, trong khi hình thái học thực vật là chuyên ngành nghiên cứu hình dạng bên ngoài của chúng. Tất cả thực vật là sinh vật nhân thực đa bào, DNA của chúng được bảo vệ trong nhân. Những đặc điểm của tế bào thực vật phân biệt chúng với tế bào của động vật và nấm gồm có vách tế bào sơ cấp được cấu tạo từ các polysaccharide là cellulose, hemicellulose và pectin, không bào lớn hơn so với không bào ở tế bào động vật nguyên sinh và sự hiện diện của lạp thể với những chức năng quang hợp và sinh tổng hợp độc đáo (ví dụ lục lạp). Các lạp thể khác chứa sản phẩm lưu trữ như tinh bột (lạp bột) hoặc lipid (lạp dầu). Đặc biệt, tế bào của ngành streptophyta và tế bào thuộc phân ngành tảo lục Trentepohliales phân chia bằng cách thiết kế thể vách ngăn giống như một mẫu để xây dựng tấm phân bào muộn trong quá trình phân bào.\nNhững phân ngành của thực vật có mạch gồm có lớp Thạch tùng, ngành Dương xỉ và thực vật có hạt (thực vật hạt trần và thực vật có hoa) nói chung có các tiểu hệ thống dưới lòng đất và trên mặt đất. Hệ chồi bao gồm thân mang lá màu xanh lục quang hợp và cấu trúc sinh sản. Hệ rễ chứa mạch ngầm dưới lòng đất có lông rễ ở đầu của chúng và thường thiếu diệp lục tố. Thực vật không mạch, rêu tản, rêu sừng và rêu không có rễ thật sự và các ngành thực vật này đều tham gia quang hợp. Sự hình thành thể bào tử không trải qua quang hợp ở rêu tản nhưng có thể quang hợp ở rêu sừng và rêu.\nHệ rễ và hệ chồi phụ thuộc nhau – hệ rễ thường không quang hợp, phụ thuộc sự cung cấp chất hữu cơ của hệ chồi, còn hệ chồi thường quang hợp và phụ thuộc vào nước và chất khoáng từ hệ rễ. Các tế bào ở mỗi hệ có thể tạo ra các tế bào ở bên còn lại và tạo ra rễ hoặc chồi bất định. Thân bồ và củ là những ví dụ cho thấy chồi có thể mọc rễ. Rễ có thể mọc lan tới gần bề mặt đất (như rễ của cây liễu), có thể tạo ra chồi và sau cùng là cây mới. Trong trường hợp một bên hệ thống bị mất, bên còn lại có thể tái mọc bên còn thiếu. Thực tế cả một cây có thể mọc từ chỉ một lá, giống như trường hợp của cây tử linh lan, hay thậm chí chỉ một tế bào – có thể phân hóa thành mô sẹo (một khối lượng tế bào không chuyên biệt) có thể phát triển thành một cây hoàn chỉnh. Ở thực vật có mạch, mạch gỗ và mạch rây là những mô dẫn vận chuyển tài nguyên giữa rễ và chồi. Rễ thường thích nghi để lưu trữ thức ăn như đường hoặc tinh bột, như ở củ cải đường và cà rốt.\nThân chủ yếu cung cấp dinh dưỡng và nước cho lá và các cấu trúc sinh sản, song có thể lưu trữ nước ở các thực vật mọng nước như ở xương rồng, thức ăn như ở củ khoai tây, hay sinh sản sinh dưỡng như ở thân bồ của cây dâu tây hay trong chiết cành. Lá thu nhận ánh mặt trời và tiến hành quang hợp. Những chiếc lá lớn, dẹt, dễ uốn và màu xanh được gọi là tán lá. Thực vật hạt trần, như thông, tuế, bạch quả và dây gắm là những thực vật cho ra đời hạt không được bọc trong quả, nên gọi là hạt trần. Thực vật có hoa là những thực vật có hạt tạo hoa và hạt được bọc trong quả, nên gọi là hạt kín. Những cây gỗ, chẳng hạn như đỗ quyên khô và sồi thì trải qua một giai đoạn sinh trưởng thứ cấp dẫn tới tăng thêm hai mô: gỗ (mạch gỗ thứ cấp) và vỏ cây (mạch rây và bần). Tất cả thực vật hạt trần và nhiều thực vật hạt kín là cây gỗ. Một số cây sinh sản hữu tính, một số lại sinh sản vô tính, và một số khác lại sinh sản bằng cả hai hình thức trên. Mặc dù những quan hệ tới các loại hình thái chính như rễ, thân, lá và túm lông đều hữu ích, nhưng cần lưu ý rằng những loại này được liên kết thông qua dạng trung gian để giúp cả cơ thể hoạt động liên tục. Ngoài ra, vì cấu trúc thực vật vận hành bằng những quá trình, có thể xem cấu trúc là quá trình hay là các tổ hợp quá trình.\nPhân loại học thực vật.\nPhân loại học thực vật học là phân ngành của phân loại sinh học, liên quan đến phạm vi và tính đa dạng của sinh vật và mối quan hệ của chúng, cụ thể như được xác định bởi lịch sử tiến hóa của chúng. Chuyên ngành này có liên quan tới phân loại sinh học, phân loại khoa học và phát sinh chủng loại học. Phân loại sinh học là phương pháp mà các nhà khoa học thực vật dùng để chia nhóm thực vật vào các bậc phân loại như chi và loài. Phân loại sinh học là một hình thức phân loại khoa học. Phân loại hiện đại khởi nguồn từ công trình của Carl Linnaeus, người đã phân nhóm các loài dựa theo đặc tính vật lý chung. Kể từ đấy những nhóm này đã được điều chỉnh để phù hợp hơn với quy tắc tổ tiên chung của Darwin – tức chia nhóm sinh vật theo tổ tiên thay cho đặc điểm ngoại hình. Trong khi các nhà khoa học không phải lúc nào cũng nhất trí về cách phân loại sinh vật, phát sinh chủng loại phân tử (lấy trình tự DNA làm dữ liệu), đã thúc đẩy nhiều sửa đổi phân loại học gần đây dọc theo các dòng tiến hóa và dường như tiếp tục hoạt động như vậy. Hệ thống phân loại chính có tên là phân loại Linnaeus, gồm có các bậc phân loại và danh pháp hai phần. Danh pháp của các sinh vật là thực vật được ghi hệ thống hóa trong Luật danh pháp quốc tế của tảo, nấm và thực vật quốc tế (ICN) và do Hội nghị khoa học thực vật quốc tế quản lý.\nGiới thực vật thuộc vực sinh vật nhân thực và được chia nhỏ theo kiểu đệ quy trước khi mỗi loài được phân chia riêng biệt. Trật tự phân loại là: Ngành; Giới; Lớp; Bộ; Họ; Chi; Loài. Tên khoa học của một cây đại diện cho chi và các loài của chi ấy, dẫn tới chỉ có một tên khoa học cho mỗi loài sinh vật trên toàn thế giới. Ví dụ, cây hoa huệ hổ có tên khoa học là \"Lilium columbianum\". \"Lilium\" là tên chi, còn \"columbianum\" là tên loài. Sự kết hợp tên chi và tên loài tạo ra tên khoa học của loài. Khi viết tên khoa học của một sinh vật, phải viết hoa chữ cái đầu tiên trong tên chi và viết thường tên loài. Ngoài ra, toàn bộ thuật ngữ thường được in nghiêng (hoặc được gạch chân nếu không in nghiêng).\nLịch sử tiến hóa và di truyền của một nhóm sinh vật được gọi là phát sinh chủng loại học. Phát sinh chủng loại học là chuyên ngành nghiên cứu phát hiện ra các dạng phát sinh chủng loài. Cách tiếp cận cơ bản là sử dụng những điểm tương đồng dựa trên trên di truyền chung để xác định các mối quan hệ. Lấy ví dụ, loài \"Pereskia\" là cây hoặc bụi cây và có lá rõ ràng. Hiển nhiên là chúng không hề giống một cây họ Xương rồng trụi lá như \"Echinocactus\". Tuy nhiên, cả \"Pereskia\" và \"Echinocactus\" có gai mọc ra từ các quầng gai (những cấu trúc chuyên biệt) cho thấy rằng hai chi thực sự có quan hệ tới nhau.\nĐánh giá các mối quan hệ dựa trên các đặc tính chung đòi hỏi sự cẩn trọng, vì thực vật có thể giống nhau thông qua tiến hóa hội tụ, trong đó các đặc tính phát sinh độc lập. Một số cây đại kích ít lá, thân tròn thích nghi với môi trường nước tương tự như cây xương rồng hình quả cầu, song các đặc tính như cấu trúc của hoa là minh chứng rõ rằng hai nhóm này không có quan hệ gần với nhau. Phương pháp miêu tả theo nhánh học lấy một cách tiếp cận phân loại với các đặc tính, phân biệt giữa những đặc tính không mang thông tin về lịch sử tiến hóa chung – chẳng hạn như những loài được tiến hóa riêng biệt trong các nhóm khác nhau (homoplasy - tương đồng) hoặc những loài được truyền lại đặc điểm từ tổ tiên (plesiomorphies - phân nhánh) - và những loài có nguồn gốc, được truyền lại đặc điểm đổi mới trong một tổ tiên chung (apomorphies). Chỉ những đặc tính có nguồn gốc, chẳng hạn như các quầng mọc gai của cây xương rồng, mới mang bằng chứng về một tổ tiên chung. Kết quả của phân tích miêu tả theo nhánh học được trình bày dưới dạng biểu đồ phân nhánh: những biểu đồ hình cây thể hiện mô hình phân nhánh và gốc rễ tiến hóa.\nTừ thập niên 1990 trở đi, các tiếp cận chính để thiết kế phát sinh chủng loại học cho thực vật sống đã trở thành phát sinh chủng loại phân tử, tức sử dụng các đặc điểm phân tử, cụ thể là trình tự DNA, thay vì các đặc điểm hình thái như sự có mặt hoặc không có gai và quầng. Sự khác biệt là chính mã di truyền được dùng để quyết định những mối quan hệ tiến hóa, thay vì sử dụng gián tiếp thông qua các đặc điểm hình thái do di truyền tạo ra. Clive Stace miêu tả phương pháp này mang \"quyền tiếp cận trực tiếp với cơ sở di truyền của tiến hóa.\" Lấy một ví dụ đơn giản, trước khi sử dụng bằng chứng di truyền, nấm chưa được xem là thực vật hay có quan hệ gần với thực vật hơn động vật không. Bằng chứng tiến hóa cho thấy quan hệ tiến hóa chính xác của sinh vật đa bào như thể hiện trong biểu đồ dưới đây – nấm có quan hệ gần với động vật hơn thực vật.\nNăm 1998, Nhóm phát sinh loài thực vật hạt kín đã xuất bản công trình phát sinh chủng loài học với thực vật có hoa dựa trên phép phân tích trình từ DNA từ hầu hết họ của thực vật có hoa. Nhờ có công trình này, nhiều câu hỏi, ví dụ như họ nào đại diện cho phân nhánh sớm nhất của thực vật hạt kín giờ đây đã có đáp án. Việc tra cứu thực vật có liên hệ ra sao với các loài khác cho phép các nhà khoa học thực vật nắm rõ hơn về quá trình tiến hóa ở thực vật. Mặc cho nghiên cứu thực vật mô hình và tăng cường sử dụng bằng chứng DNA, các nhà phân loại học vẫn đang tiến hành nghiên cứu thảo luận về phương pháp phân loại thực vật thành các đơn vị chính xác nhất. Sự phát triển công nghệ như máy tính và kính hiển vi điện tử đã tăng cường đáng kể mức độ nghiên cứu chi tiết và tốc độ dữ liệu được phân tích.\nKý hiệu thực vật.\nMột số ít ký hiệu hiện đang được dùng trong ngành thực vật học, trong đó có bao gồm hoa thức và hoa đồ. Số khác đã lỗi thời; ví dụ, Linnaeus đã sử dụng các ký hiệu tròn để chỉ thực vật thân thảo, gỗ và thực vật lâu năm. Dưới đây là các ký hiệu hiện hành:", "Khoa học sự sống hay khoa học đời sống bao gồm các lĩnh vực khoa học liên quan đến việc nghiên cứu khoa học của các sinh vật sống - như là vi sinh vật, thực vật, động vật và con người - cũng như những lãnh vực liên quan như đạo đức sinh học. Trong khi sinh học vẫn là trung tâm của khoa học sự sống, những tiến bộ công nghệ trong sinh học phân tử và công nghệ sinh học đã dẫn đến sự đang phát triển của chuyên ngành và các lĩnh vực liên ngành (liên ngành hay đa ngành là bao quát phương pháp tiếp cận, cách suy nghĩ, hoặc ít nhất là phương pháp nghiên cứu của nhiều lĩnh vực chuyên môn riêng biệt).\nMột số nhánh khoa học sự sống tập trung vào một loại hình cụ thể của sự sống. Ví dụ, động vật học là nghiên cứu về động vật, trong khi thực vật học là nghiên cứu về thực vật. Một số khác tập trung vào các khía cạnh chung cho tất cả hoặc nhiều hình thức của sự sống, chẳng hạn như giải phẫu học và di truyền học. Tuy nhiên, các lĩnh vực khác quan tâm đến những tiến bộ công nghệ liên quan đến các sinh vật sống, chẳng hạn như kỹ thuật sinh học. Một nhánh quan trọng khác, có thể đặc biệt, liên quan đến việc hiểu biết về tâm trí - thần kinh học.\nKhoa học sự sống cần thiết trong việc cải thiện chất lượng và tiêu chuẩn của cuộc sống. Chúng có nhiều ứng dụng trong y tế sức khỏe, nông nghiệp, y học và các ngành công nghiệp dược phẩm và khoa học thực phẩm.\nCó sự chồng chéo giữa nhiều nhánh trong số các chủ đề nghiên cứu của khoa học sự sống." ]
phu - vt - khe - khoa - hc - nghin - sinh - sc - ngnh - xc
0.735951
false
Tập tính học nghiên cứu các hành vi của động vật (đặc biệt trong xã hội của loài vật như ở khỉ và chó sói, do đó đôi khi bộ môn này được coi là một nhánh của động vật học ("zoology"). Các nhà tập tính học nghiên cứu chủ yếu quá trình tiến hóa của hành vi và kiến thức về tập tính học tuân theo thuyết chọn lọc tự nhiên ("natural selection"). Một trong những người đặt nền móng cho tập tính học hiện đại là nhà tập tính học Charles Darwin với cuốn sách mang tựa đề "The expression of the emotions in animals and men" ("Sự bộc lộ cảm xúc ở động vật và người").
141
141_phu_vt_khe_khoa
[ "phu", "vt", "khe", "khoa", "hc", "nghin", "sinh", "sc", "ngnh", "xc" ]
[ "Tập tính sinh học hay còn gọi là sinh thái học hành vi (\"Behavioral ecology\") là nghiên cứu về cơ sở tiến hoá đối với hành vi (tập tính) của động vật do áp lực sinh thái. Nếu một sinh vật có một đặc điểm hỗ trợ cho nó một lợi thế chọn lọc (tức là có ý nghĩa thích ứng) trong môi trường của nó, thì quá trình chọn lọc tự nhiên có thể có lợi cho nó. Do đó, ý nghĩa thích đáng đề cập đến các phẩm chất có lợi (như tăng sức sinh và sinh sản tăng lên), bất cứ một đặc điểm biến đổi nào đã có. Như sự khác biệt di truyền giữa các cá thể có thể dẫn đến sự khác biệt về hành vi, một số trong đó có thể dẫn đến sự khác biệt về thành công sinh sản, và cuối cùng là qua các thế hệ, sự gia tăng các cá thể có những đặc điểm được phổ biến hơn, tức là sự tiến hóa. Tập tính của động vật rất phong phú, phức tạp, và có vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng. Nó liên quan mật thiết đến sự tồn tại và phát triển nòi giống.\nTập tính động vật cũng đem lại nhiều lợi ích cho thực vật và con người. Một số loài thụ phấn cho các loài thực vật có hoa (ví dụ ong, bướm, kiến, côn trùng). Một số côn trùng cũng sinh ra những chất rất hữu ích như mật, sáp, tơ. Nhiều côn trùng, đặc biệt là các loài bọ cánh cứng ăn xác thối, chúng ăn các xác động vật chết, các cây bị gãy mục, trả lại môi trường các dạng hữu ích cho các sinh vật khác sử dụng. Người Ai Cập cổ đại đã sùng bái những con bọ cánh cứng (bọ hung), giun phát sáng châu Âu được coi như những con vật có lợi vì chúng tiêu diệt ốc và sên là những con phá hoại mùa màng. Khi nuôi nhốt động vật, cần lưu tâm đến tập tính của chúng, tạo điều kiện môi trường sống phù hợp để chúng sống và phát triển bình thường phải tìm hiểu tập tính động vật của chúng để không làm mất cân bằng sinh thái của môi trường nuôi nhốt.\nĐại cương.\nCơ chế.\nTập tính ở động vật là một chuỗi các phản ứng trả lời các kích thích của môi trường diễn ra bên trong cũng như bên ngoài cơ thể nhờ đó mà động vật có thể tồn tại và phát triển. Tập tính được thể hiện ra bằng một loạt các hoạt động phối hợp và thường dẫn tới hoạt động của một bộ phận cơ thể như ve vẩy tai, đuôi, đến mùa sinh sản các loài chim thường hót hoặc khoe lông, hoặc có sự tranh giành con cái bằng giao đấu ví dụ Màn song đấu của chim công. Đôi khi tập tính lại là những phản ứng bất động (giả chết) như phản ứng tự vệ của con bọ que. Các phản ứng tập tính đều mang tính chất thích nghi, nghĩa là làm cho cơ thể sinh vật tiếp tục tồn tại, các phản ứng này giúp con vật tránh xa các mối nguy hiểm hoặc giảm tối đa những sự đe dọa trước mắt nhờ sử dụng một loạt các phản ứng điều kiện\nPhản ứng trả lời (đáp ứng) kích thích bên ngoài như việc các động vật ăn cỏ thường sống và đi kiếm ăn theo bầy đàn cũng là một cách thức phòng vệ trước những động vật ăn thịt như hổ, báo, sư tử, sói, hay như những con cò bắt cá ở chỗ nước nông những con gấu bắt cá ở các vực nước. Phản ứng trả lời kích thích bên trong là những tập tính được gây ra do sự kết hợp kích thích ngoài và kích thích trong như tập tính xã hội, tập tính bầy đàn (lối cư xử, tính nết) của loài vật là do bản năng tự nhiên của chúng và do sự di truyền. Cơ sở thần kinh của tập tính là các phản xạ. Các phản xạ thực hiện qua cung phản xạ, kích thích là những tác nhân tác động vào con vật, kích thích có thể từ bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, nồng độ oxi, độ pH (kích thích ngoài) tới làm con vật cảm nhận được thông qua các giác quan. Kích thích có thể từ bên trong con vật do sự thay đổi sinh lý bên trong con vật (kích thích trong).\nCác tác nhân kích thích như hình ảnh, âm thanh con mồi phát ra, nhiệt độ, hơi ấm cơ thể con mồi, mùi vị, mùi máu tanh hình thành nên tập tính rình mồi, rượt đuổi mồi để tấn công và vồ mồi ảnh hướng để tập tính săn mồi của động vật. Đối với động vật có tổ chức thần kinh chưa phát triển thì là tập tính kiếm mồi và săn mồi là tập tính bẩm sinh, ví dụ như ong bắp cày ký sinh Aphidius colemani là một loài ký sinh ăn tạp, tấn công nhiều loài rệp vừng nên bất cứ loài rệp vừng nào cũng phù hợp làm con mồi đối với ong bắp cày. Đối với động vật có hệ thần kinh phát triển tập tính bắt mồi và săn mồi rất phong phú và phức tạp. Phần lớn các tập tính này được hình thành do học tập từ bố mẹ của chúng hay đồng loại hoặc do kinh nghiệm của bản thân và chúng được hoàn thiện dần để đảm bảo sự sống sót của các loài trong tự nhiên.\nCá thể luôn có sự cạnh tranh với những cá thể khác vì nguồn lực hạn chế, bao gồm thức ăn, lãnh thổ động vật và bạn tình. Mâu thuẫn sẽ xảy ra giữa những kẻ săn mồi và con mồi, giữa các đối thủ của bạn tình, giữa anh chị em, bạn tình, và thậm chí giữa cha mẹ và con cái của chúng. Giá trị của một hành vi xã hội phụ thuộc một phần vào hành vi xã hội của một kẻ hàng xóm. Ví dụ, một con đực có khả năng trở thành một con đực giống đang trở lại từ một mối đe dọa, càng có ý nghĩa một cá thể giống đực được ra khỏi mối đe dọa. Tuy nhiên, nếu một đối thủ cạnh tranh sẽ tấn công nếu bị đe doạ, thì càng có nhiều khả năng đe doạ những con đực khác. Khi một quần thể thể hiện một số hành vi tương tác xã hội như thế này, nó có thể phát triển một mô hình hành vi ổn định được gọi là chiến lược ổn định tiến hóa (ESS).\nCác nhóm.\nDựa vào các đặc điểm của tập tính động vật, có thể phân biệt thành hai nhóm tập tính chính là: tập tính bẩm sinh và tập tính thứ sinh tương ứng với tập tính bản năng và tập tính học khôn. Ngoài ra còn có tập tính hỗn hợp là vừa có tập tính học tập vừa có tập tính bản năng. Một số dạng tập tính phổ biến ở động vật:\n\"Tập tính bẩm sinh\" là những hoạt động cơ bản của cơ thể động vật mà ngay từ khi sinh ra đã có, không cần qua học hỏi, rèn luyện, mang tính bản năng, được di truyền từ bố mẹ, không thay đổi và không chịu ảnh hưởng của điều kiện và hoàn cảnh sống, chúng được quyết định bởi yếu tố di truyền, chẳng hạn như tập tính sinh sản. \"Tập tính bản năng\" (tập tính bẩm sinh nguyên thủy hay không do học tập) do nhân tố bản đồ gen, nhiễm sắc thể lập trình quyết định và thường không bị thay đổi bởi hoàn cảnh. Chẳng hạn như loài thủy tức khi có mồi chạm vào xúc tu, thủy tức sẽ tự đưa thức ăn vào miệng, hay những con đỉa sống trong nước, khi nghe có tiếng động trong nước sẽ tự động bơi lại phía đó để kiếm ăn.\n\"Tập tính thứ sinh\" (tập tính học được trong đời sống): là loại tập tính được hình thành trong quá trình sống do học tập hoặc do có sự trao truyền giữa các cá thể cùng loài, ví dụ như tập tính chống lại những động vật định ăn trộm thức ăn của nó. Ở những nhóm động vật càng cao, càng tiến hóa, loại tập tính đó học được càng nhiều, do đó chúng càng dễ thích nghi với điều kiện và hoàn cảnh sống. \"Tập tính học khôn\" là kiểu hoạt động hình thành do kết quả của kinh nghiệm và có thể thay đổi bởi hoàn cảnh. Tập tính di cư ở động vật thường là tập tính thứ sinh vì chúng thường thể hiện theo bầy, đàn quy mô lớn.\nỞ những động vật bậc cao chúng còn có khả năng học khôn (Văn hóa ở động vật), tự sáng tạo ra các công cụ trong quá trình kiếm ăn ví dụ như tinh tinh biết dùng dụng cụ để bắt mồi. Phần lớn các tập tính kiếm ăn, săn mồi là các tập tính thứ sinh, hình thành trong quá trình sống, qua học tập ở bố mẹ hoặc đồng loại hoặc qua trải nghiệm của bản thân, ví dụ như hổ mẹ dạy hổ con săn mồi. Một ví khác là cách báo mẹ dạy con săn mồi, sau khi bắt được con mồi, báo mẹ làm cho con mồi yếu đi rồi cho con tập săn mồi, nếu báo được con người nuôi dưỡng từ nhỏ thì khi lớn lên được thả ra tự nhiên sẽ không có các kỹ năng săn mồi, vì thế tập tính kiếm ăn của hầu hết các động vật bậc cao là tập tính học tập.\nNgoài ra, có thể kể loại tập tính thứ ba là tập tính hỗn hợp (bao gồm cả tập tính bẩm sinh lẫn tập tính thứ sinh, như loài ong vò vẽ là một loài ong sống hoàn toàn đơn độc. Trong tập tính hôn phối, sau khi giao phối, con ong cái bắt đầu xây dựng tổ thì ở trong tổ con cái sẽ đẻ một quả trứng, sau đó, có một vài con sâu sau khi đã bị làm tê liệt, được mang đến tổ làm thức ăn cho ong con đang phát triển, cuối cùng, tổ được gắn lại và con cái bay đi để xây dựng tổ mới. Trong trình tự giao phối, làm tổ, đẻ trứng, săn mồi mang về tổ được thực hiện mà không cần phải dạy hay học từ trước, đó là tập tính bẩm sinh, còn tìm đưa sâu đưa vào tổ là tập tính thứ sinh (ong vò vẽ học được rằng sâu bị tê liệt có thể làm thức ăn cho ong con). Hoặc như ở gà con, khi chúng sinh ra chúng sẽ có thói quen mổ và nuốt những thứ trong tầm với của chúng như rơm rạ, sỏi đá, dị vật, nhưng sau khi chúng lớn lên chúng sẽ đủ nhận biết để chỉ mổ nuốt những loại thóc gạo.\nCác dạng.\nSăn mồi và phòng vệ.\nTập tính kiếm mồi và săn mồi: Tập tính này ở các động vật khác nhau là khác nhau. Các dạng chính là kiếm mồi đơn lẻ và kiếm mồi bầy đàn. Tập tính kiếm ăn của báo hoa mai đặc trưng cho tập tính kiếm mồi đơn lẻ. Tập tính kiếm mồi và săn mồi ở động vật phụ thuộc vào nguồn thức ăn mà chúng sử dụng. Ý nghĩa của việc kiếm mồi và săn mồi ở động vật là để tồn tại và phát triển, các động vật có nhu cầu tìm kiếm thức ăn nói chung và săn mồi nói riêng. Đây là những tập tính bảo đảm sự sống còn của các loài động vật.\nTrái lại ở con mồi khi phát hiện ra kẻ thù thì có tập tính lẩn trốn, bỏ chạy hoặc tự vệ, đây là bản năng tự bảo toàn của chúng. Trong đa số trường hợp con mồi bị truy đuổi quá gần thì lập tức nó chuyển từ trạng thái trốn chạy sang tư thế tấn công. Khi gặp kẻ thù thường biểu hiện tư thế dọa nạt, thú ăn thịt thì nhe nanh, giơ vuốt, thú móng guốc thì dậm chân. Một số loài thì xù lông lên và dựng đứng người ví dụ nhím xù lông để tự vệ trước kẻ thù, các loài khỉ thường có tập tính bẻ cành ném xuống thậm chí phóng uế vào mặt kẻ thù, còn những con thỏ thì bỏ chạy khi bị tấn công, có những loài chọn những cách tự vệ như giả chết, cuộn tròn thân mình hay biến mình thành vũ khí khó nuốt, đây là tập tính tự vệ.\nỞ sinh vật còn có trường hợp thay đổi ngoại hình để nó trở nên lẫn vào môi trường xung quanh gọi là ngụy trang, đây là hành vi (tập tính) của sinh vật nhằm trốn tránh khỏi khả năng quan sát của đối tượng khác, một hình thức đánh lừa ở động vật. Tập tính này có thể giúp sinh vật trốn tránh kẻ thù hoặc dễ dàng hơn trong việc săn mồi. Các động vật biển được vũ trang chu đáo, nhưng để tránh bớt xung đột, chúng chọn cách cảnh báo kẻ thù bằng màu sắc rực rỡ của cơ thể, ở sinh vật biển, những loài nguy hiểm thường có màu sắc đặc trưng như những đốm xanh dương trên nền vàng. Ngụy trang có thể là động vật hòa mình vào môi trường xung quanh.\nLuôn có sự tiến hóa liên tục trong khả năng phát hiện sự trá hình và tương tự năng lực ẩn trốn cũng biến đổi luôn luôn. Ở mỗi cặp động vật săn đuổi-trốn tránh, cấp độ tiến hóa trá hình và phát hiện khác nhau. Những vạch đen trên da ngựa vằn khiến rất khó phân biệt từng cá thể làm kẻ thù khó tấn công tạo ra màu sắc gây nhiễu. Những cách thức khác là việc động vật biến hình thành thứ gì khác hấp dẫn hoặc có vẻ ngoài nguy hiểm hay còn gọi là bắt chước, một số động vật ẩn trốn làm giả chuyển động trong tự nhiên, ví dụ chiếc lá trong gió, các động vật khác gắn liền hoặc lấy những vật liệu trong tự nhiên đắp lên thân mình để tạo ra nơi ẩn náu. \nĐánh dấu lãnh thổ.\nTập tính bảo vệ vùng lãnh thổ (tập tính lãnh thổ): Mỗi con vật chiếm cứ một khu vực thuộc quyền kiểm soát của một cá thể hoặc một bầy, đàn động vật và được con vật hoặc bầy đàn đó đặc biệt bảo vệ chống lại kẻ xâm nhập một cách quyết liệt, lãnh thổ động vật là nơi thể hiện tập tính lãnh thổ của động vật và được các con vật tuần tra, bảo vệ thường xuyên. Động vật bảo vệ lãnh thổ theo cách này được gọi là tập tính lãnh thổ. Chúng đánh dấu lãnh thổ có thể bằng mùi hương, hoặc tiếng ồn ào, tiếng gầm, hú, kêu rống, la hét, luyến hót để thể hiện sự hiện diện của mình.\nTập tính cư trú: Mỗi loài có tập tính cư trú khác nhau. Tập tính cư trú ở động vật được hình thành do nhiều yếu tố như ánh sáng, nhiệt độ, độ pH, nguồn thức ăn có sẵn. Đối với những sinh vật sống dưới nước thì có loài sống ở tầng đáy, có loài sống ở vùng giữa, có loài sống ở gần mặt nước, có loài sống ở nước ngọt, có loài sống ở nước lợ, lại có loài sống ở nước mặn, cũng có loài thích ứng rộng với độ mặn, sống được ở cả nước ngọt, nước lợ, nước mặn như cá chình.\nTập tính di cư: là một tập tính rất phức tạp thể hiện trong hiện tượng di cư của một số loài chim di trú, cá di cư. Chúng thường di cư theo mùa, theo một chu kỳ nhất định trong năm. Cứ đến mùa đông, phần vì lạnh giá, phần vì thiếu thức ăn, nhiều loài chim ở phương Bắc vượt hàng ngàn, vạn cây số về phương nam ấm áp, thức ăn phong phú để sống, đến mùa xuân lại trở về phương Bắc. Những biểu hiện của di cư sinh sản là cá thể trưởng thành sống ở những vùng khác với nơi sinh sản, sự di chuyển cả đàn kèm theo sinh sản. Đến mùa sinh đẻ chúng phải di chuyển tập trung về những \"bãi đẻ\" nhất định. Cá chình là loài cá di cư, cá mẹ đẻ ở biển sâu, cá con sau khi nở trôi dạt vào bờ biển, cửa sông, vùng nước ngọt kiếm mồi và lớn lên. Khi trưởng thành, cá lại di cư ra biển sâu để đẻ trứng, tương tự là loài cá hồi di cư. \nThứ bậc, tôn ti.\nTập tính thứ bậc được thể hiện qua việc mỗi bầy đều có sự phân chia thứ bậc. Tổ chức theo trật tự lệ thuộc là đặc tính của hầu hết các động vật sống thành đàn (tập tính thứ bậc). Trong một đàn sẽ có con đầu đàn thống trị các con còn lại. Con đầu đàn có ưu thế như vậy là nhờ thắng trận trong các trận đấu. Chiến đấu, cạnh tranh để bảo vệ lãnh thổ cũng là cơ hội để lựa chọn bạn tình, tạo ra một hậu cung động vật. Con cái thường lựa chọn những con đực chiếm giữ vùng lãnh thổ tốt nhất, cũng là con khỏe nhất. Kết bạn tình với những con đực như vậy có nguồn gen tốt sẽ cho những đứa con mạnh khỏe là điều kiện để duy trì và phát triển nòi giống.\nỞ loài linh cẩu đốm, những con trưởng thành hơn thường xuyên ghé thăm hang để dạy dỗ con non về thứ bậc khắt khe trong xã hội của chúng. Các đàn linh cẩu đốm đều có một con cái đầu đàn và hàng loạt những con cấp dưới. Mỗi một con non phải học chính xác vị trí thích hợp của nó trong thang bậc thứ tự của đàn và tất cả mọi cá thể linh cẩu đốm khác cũng phải thích nghi. Hệ thống thứ bậc bản thân nó đã chứng minh rất sống động khi giờ ăn đến, nếu một hoặc hai con trong đàn săn mồi, các thành viên khác cùng đàn sẽ tham dự để cùng chiến đấu với con mồi, nhưng con cái đầu đàn bao giờ cũng giành phần thắng. Tuy nhiên, cũng có lúc cả đàn linh cẩu tụ họp với nhau. Bầy linh cẩu đốm thường đi dọc theo biên giới lãnh địa rồi đánh dấu bằng nước tiểu. Nếu có vụ đi săn nào xảy ra gần biên giới thì một cuộc xung đột với bầy linh cẩu láng giềng có thể nổ ra.\nKết đôi, sinh sản.\nTập tính kết đôi, hôn phối của các loài vật thường diễn ra vào mùa sinh sản. Tập tính hôn phối bắt đầu bằng độc chiếm lãnh thổ của con đực đánh đuổi tình địch, tiếp theo là sự rủ rê con cái để ghép đôi, xây tổ, đẻ con và sau hết là nuôi con. Đây luôn là một hiện tượng thú vị của thế giới động vật. Quá trình kết đôi được bắt đầu bằng các tín hiệu như âm thanh, màu sắc, mùi hương như:\nTập tính sinh sản và tập tính chăm sóc con: Phần lớn các tập tính sinh sản là tập tính bẩm sinh, mang tính bản năng. Thường khởi đầu là do một kích thích của môi trường ngoài như thời tiết (nhiệt độ, độ ẩm), ánh sáng, âm thanh tác động vào các giác quan hay do kích thích của môi trường bên trong do tác động của hoocmon sinh dục gây nên hiện tượng chín sinh dục và chuẩn bị cho sự sinh sản, được thể hiện bằng các hành động ve vãn, khoe mẽ, tỏ tình, xây tổ, ấp trứng, chăm sóc, bảo vệ con non, chẳng hạn như: ", "Thực vật học (, còn được gọi là khoa học thực vật, sinh học thực vật hoặc ngành thực vật học) là bộ môn khoa học nghiên cứu về thực vật và là một phân ngành của sinh học. Nhà thực vật học, nhà khoa học thực vật hay nhà nghiên cứu thực vật là một nhà khoa học có chuyên môn về lĩnh vực này. Thuật ngữ \"thực vật học\" trong các ngôn ngữ Tây phương bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại là (\"botanē\"), nghĩa là \"đồng cỏ chăn gia súc\", \"thảo mộc\", \"đồng cỏ\" hay \"cỏ khô\"; thì có nguồn gốc từ (), tức là \"chăn nuôi\" hoặc \"chăn thả\". Theo truyền thống, thực vật còn gồm có nghiên cứu nấm và tảo, các nhà nghiên cứu được gọi lần lượt là nhà nấm học và tảo học; việc nghiên cứu ba nhóm sinh vật này vẫn nằm trong diện quan tâm của Hội nghị Thực vật Quốc tế. Ngày nay, các nhà thực vật học nghiên cứu khoảng 410.000 loài thực vật trên cạn, trong số đó 391.000 loài là thực vật bậc cao (bao gồm khoảng 369.000 loài thực vật hạt kín) và khoảng 20.000 loài là rêu.\nThực vật học có nguồn gốc từ thời tiền sử dưới vai trò thảo dược, khi con người bước đầu cố nhận dạng (và sau đó là trồng trọt) những cây có thể ăn, làm thuốc và có độc, biến nó thành một trong những phân ngành khoa học lâu đời nhất. Những khu vườn thuốc thời Trung Cổ thường gắn liền với các tu viện, là nơi chứa những cây có tác dụng y học. Chúng là tiền thân của những vườn bách thảo đầu tiên gắn liền với các trường đại học, được thành lập từ những năm 1540 trở đi. Một trong những vườn bách thảo đầu tiên là vườn bách thảo Padova. Những khu vực này đã tạo điều kiện cho việc các chuyên gia học thuật nghiên cứu về thực vật. Những nỗ lực phân loại và miêu tả bộ sưu tập này là bước khởi đầu cho phân loại thực vật, từ đó ra đời danh pháp hai phần của Carl Linnaeus vào năm 1753, vẫn còn được dùng để đặt tên cho tất cả các loài sinh vật cho tới ngày nay.\nVào thế kỉ 19 và 20, những kĩ thuật mới đã được phát triển để nghiên cứu thực vật, trong đó gồm các phương pháp nhuộm tế bào, dùng kính hiển vi quang học và chụp hình tế bào sống, kính hiển vi điện tử, phân tích bộ nhiễm sắc thể, hóa thực vật, cấu trúc và chức năng của các enzyme và protein khác. Trong hai thập niên cuối thế kỉ 20, các nhà thực vật học đã khai thác những kĩ thuật phân tích di truyền phân tử, gồm có hệ gen, hệ protein và các chuỗi DNA để phân loại thực vật chính xác hơn.\nThực vật học hiện đại là một bộ môn đại cương và đa ngành với những đóng góp và hiểu biết sâu sắc từ các lĩnh vực khoa học và kĩ thuật khác. Những đề tài nghiên cứu gồm có ba nhóm chínhː hình thái và giải phẫu thực vật, sinh lý học thực vật (gồm các quá trình tăng trưởng và phân hóa, sinh sản, hóa sinh và trao đổi chất sơ cấp, các sản phẩm hóa học, phát triển, bệnh học...) và phân loại thực vật (bao gồm nhiều ngành như quan hệ tiến hóa, hệ thống học, đa dạng thực vật...). Những đề tài nổi bật trong thực vật học ở thế kỉ 21 là di truyền phân tử và di truyền học biểu sinh, nghiên cứu về trao đổi chất và kiểm soát biểu hiện gen trong quá trình phân hóa của tế bào thực vật và mô. Nghiên cứu thực vật học được ứng dụng đa dạng trong việc cung cấp các nguyên vật liệu và thực phẩm thiết yếu như gỗ làm nhà, dầu, cao su, sợi và thuốc, trong trồng trọt, nông nghiệp và lâm nghiệp hiện đại, nhân giống, gây giống và kỹ thuật di truyền, trong tổng hợp hóa chất, ứng dụng trong xây dựng, sản xuất năng lượng, trong quản lý môi trường và duy trì đa dạng sinh học.\nLịch sử.\nThực vật học sơ khai.\nCó bằng chứng cho thấy con người đã sử dụng thực vật cách đây 10.000 năm ở Thung lũng sông Little Tennessee, đa số là củi đốt hoặc thực phẩm. Thực vật học khởi nguồn dưới dạng thảo dược học, ngành nghiên cứu và sử dụng thực vật để điều chế thuốc. Lịch sử sơ khai của thực vật ghi lại được gồm nhiều tài liệu và phân loại thực vật cổ. Những ví dụ về các công trình thực vật học đầu tiên được phát hiện trong các văn bản cổ từ Ấn Độ (có niên đại trước năm 1100 trước Công nguyên), thời Ai Cập cổ đại, trong các tài liệu tiếng Avesta cổ và trong những tài liệu Trung Quốc được cho là từ trước năm 221 TCN.\nThực vật học hiện đại có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại, đặc biệt liên quan tới Theophrastus (sống khoảng năm 371–287 TCN); ông là học trò của Aristoteles, người đã phát minh và miêu tả nhiều nguyên lý thực vật, được đông đảo cộng đồng khoa học coi là \"Cha đẻ của thực vật học\". Hai công trình chính của ông là \"Historia Plantarum\" và \"On the Causes of Plants\" đã đưa ra những đóng góp quan trọng nhất cho ngành khoa học thực vật cho đến thời Trung Cổ, tức gần 17 thế kỉ về sau.\nMột công trình khác ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại bước đầu tác động lên thực vật học là \"De Materia Medica\", một cuốn bách khoa toàn thư gồm 5 tập về thảo dược học do bác sĩ kiêm nhà dược học người Hy Lạp Pedanius Dioscorides biên soạn vào giữa thế kỉ 1. \"De Materia Medica\" đã được đón đọc rộng rãi trong hơn 1.500 năm. Những đóng góp quan trọng từ thời Hồi giáo Trung Cổ gồm có \"Nabatean Agriculture\" của Ibn Wahshiyya, \"Book of Plants\" (C\"uốn sách về thực vật\") của Abū Ḥanīfa Dīnawarī (828–896) và \"The Classification of Soils\" (\"Phân loại đất\") của Ibn Bassal. Đầu thế kỉ 13, Abu al-Abbas al-Nabati và Ibn al-Baitar (mất năm 1248) đã viết về thực vật học theo phương pháp có hệ thống và khoa học.\nGiữa thế kỉ 16, những vườn bách thảo được thành lập tại một số viện đại học của Ý. Vườn bách thảo Padova (1545) thường được xem là vườn bách thảo đầu tiên và vẫn nằm ở vị trí đầu tiên của nó đến ngày nay. Những khu vườn này tiếp tục kết thừa giá trị thực tiễn của \"vườn thuốc\" thời sơ khai (thường gắn liền với các tu viện, trong đó thực vật được dùng để chữa bệnh). Chúng thúc đẩy sự phát triển của thực vật học để trở thành một bộ môn học thuật. Những bài giảng về các loại cây trong vườn đã ra đời cùng với mục đích y khoa của chúng. Những vườn bách thảo đến vùng Bắc Âu muộn hơn nhiều; vườn đầu tiên ở Anh là Vườn bách thảo Đại học Oxford vào năm 1621. Trong suốt thời kì này, thực vật học vẫn phụ thuộc chủ yếu vào y học.\nBác sĩ người Đức Leonhart Fuchs (1501–1566) là một trong \"ba vị cha đẻ thực vật học người Đức\", cùng với nhà thần học Otto Brunfels (1489–1534) và bác sĩ Hieronymus Bock (1498–1554) (còn có tên là Hieronymus Tragus). Fuchs và Brunfels đã tách khỏi truyền thống sao chép những công trình trước kia để thực hiện những quan sát nguyên bản của riêng họ. Bock tạo ra hệ thống phân loại thực vật của riêng ông.\nBác sĩ Valerius Cordus (1515–1544) là tác giả công trình thảo dược quan trọng về mặt thực vật và dược học mang tên \"Historia Plantarum\" vào năm 1544 và một dược thư có ảnh hưởng lâu dài mang tên \"Dispensatorium\" vào năm 1546. Nhà tự nhiên học Conrad von Gesner (1516–1565) và nhà dược học John Gerard (1545–k.1611) đã công bố nhiều loại thực vật, bao gồm công dụng chữa bệnh của chúng. Nhà tự nhiên học Ulisse Aldrovandi (1522–1605) được xem là \"cha đẻ của lịch sử tự nhiên\" cũng có nghiên cứu về thực vật. Năm 1665, nhờ sử dụng kính hiển vi đầu tiên, nhà bác học Robert Hooke phát hiện ra các tế bào (thuật ngữ mà ông đặt ra) trong các nút bần, và không lâu sau là trong các mô thực vật sống.\nThực vật học cận đại.\nTrong thế kỉ 18, các hệ thống nhận dạng thực vật được phát triển để đối chiếu với những khóa lưỡng phân, nơi các loài thực chưa rõ lai lịch được xếp vào những đơn vị phân loại (ví dụ: họ, chi và loài) bằng cách tiến hành một loạt lựa chọn giữa các cặp tính trạng. Sự phân loại \"nhân tạo\" và chuỗi các tính trạng trong các khóa được thiết kế hoàn toàn chỉ để nhận dạng (các khóa chẩn đoán), hoặc có liên hệ chặt chẽ hơn với trật tự phân loại \"tự nhiên\" của taxa trong những khóa tổng quát. Đến thế kỉ 18, những loài thực vật mới phục vụ nghiên cứu đã đặt chân đến châu Âu với số lượng ngày càng tăng từ những quốc gia mới phát hiện và vùng thuộc địa của châu Âu trên toàn thế giới. Năm 1753, Carl von Linné (Carl Linnaeus) xuất bản tác phẩm Species Plantarum, một cuốn phân loại thực vật theo thứ bậc vẫn là nguồn tham khảo cho danh pháp thực vật hiện đại. Tác phẩm đã định hình nên một giản đồ đặt tên hai phần hoặc danh pháp hai phần chuẩn hóa, gồm phần đầu là tên chi còn phần thứ hai xác định các loài trong chi. Với mục đích nhận dạng, cuốn \"Systema Sexuale\" của Linnaeus đã phân thực vật thành 24 nhóm dựa theo số lượng cơ quan sinh dục đực của chúng. Nhóm thứ 24 tên là \"Cryptogamia\" gồm có tất cả các loài thực vật mang những bộ phận sinh sản bị ẩn giấu, rêu, cỏ biển, dương xỉ, tảo và nấm.\nNhờ nâng cao kiến thức về giải phẫu, hình thái và các vòng đời của thực vật, các nhà thực vật học nhận ra rằng có nhiều điểm tương đồng tự nhiên giữa các loài thực vật hơn hệ giới tính nhân tạo của Linnaeus. Adanson (1763), de Jussieu (1789) và Candolle (1819) đều công bố nhiều hệ thống phân loại tự nhiên thay thế, theo đó các nhóm thực vật được phân loại dựa trên nhiều nhóm tính trạng hơn và được nhiều người ủng hộ hơn. Hệ thống Candolle phản ánh những hiểu biết của ông về sự phát triển hình thái phức tạp và hệ thống Bentham & Hooker sau này (giàu ảnh hưởng tới giữa thế giữa thế kỉ 19) chịu ảnh hưởng từ phương pháp của Candolle. Sự kiện Darwin cho ra đời cuốn \"Nguồn gốc các loài\" vào năm 1859 và quan niệm của ông về tổ tiên chung đã đòi hỏi những thay đổi với hệ thống của Candolle để phản ánh các mối quan hệ tiến hóa có điểm khác biệt so với nét tương đồng về hình thái.\nThực vật học có một bước tiến lớn nhờ sự xuất hiện của cuốn sách giáo khoa \"hiện đại\" đầu tiên, quyển \"\" của Matthias Schleiden, được xuất bản bằng tiếng Anh với nhan đề \"Principles of Scientific Botany\" (\"Nguồn gốc của khoa học thực vật\") vào năm 1849. Schleiden là một người sử dụng kính hiển vi và nhà giải phẫu thực vật đầu tiên, ngoài ra ông còn là đồng tác giả học thuyết tế bào (với Theodor Schwann và Rudolf Virchow) và một trong những người đầu tiên nắm được tầm quan trọng của nhân tế bào mà Robert Brown từng mô tả vào năm 1831. Năm 1855, Adolf Fick đã xây dựng các định luật của riêng ông nhằm tính toán tốc độ khuếch tán phân tử trong các hệ sinh học.\nThực vật học hậu cận đại.\nDựa trên thuyết di truyền gen-nhiễm sắc thể bắt nguồn từ Gregor Mendel (1822–1884), August Weismann (1834–1914) đã chứng minh rằng di truyền chỉ xảy ra thông qua các giao tử. Không có loại tế bào nào khác có thể truyền đạt các thông tin di truyền. Công trình về giải phẫu thực vật của Katherine Esau (1898–1997) vẫn là nền tảng chính của thực vật học hiện đại. Các quyển \"Plant Anatomy\" (Giải phẫu thực vật) và \"Anatomy of Seed Plants\" (Giải phẫu thực vật có hạt) của bà là những cuốn sinh học cấu trúc thực vật quan trọng trong hơn nửa thế kỷ.\nNhững người tiên phong cho môn sinh thái học thực vật ở cuối thế kỷ 19 là các nhà thực vật học như Eugenius Warming (chủ nhân giả thuyết rằng thực vật tạo nên các quần xã) và Christen C. Raunkiær (cố vấn và người kế nhiệm Warming), tác giả hệ thống miêu tả những dạng sống của thực vật vẫn được sử dụng ngày nay. Quan niệm cho rằng thành phần của các quần xã thực vật như rừng lá rộng ôn đới thay đổi bởi quá trình diễn thế sinh thái là do Henry Chandler Cowles, Arthur Tansley và Frederic Clements phát triển. Clements được ghi công với ý kiến cho rằng quần xã đỉnh cực là quần xã phức tạp nhất mà một môi trường có thể nuôi dưỡng, còn Tansley giới thiệu khái nhiệm của những hệ sinh thái tới sinh quyển. Dựa trên công trình mở rộng trước đó của Alphonse de Candolle, Nikolai Vavilov (1887–1943) đã cho ra đời các tài liệu về địa lý sinh học, các trung tâm nguồn gốc và lịch sử tiến hóa của các loài thực vật có giá trị kinh tế.\nĐặc biệt kể từ giữa thập niên 1960, thế giới đã có những bước tiến bộ trong vốn hiểu biết về bản chấy vật lý, hoá học của các quá trình sinh lý thực vật như thoát hơi nước (vận chuyển nước trong các mô thực vật), tốc độ bay hơi từ bề mặt lá phụ thuộc vào nhiệt độ và sự khuếch tán phân tử hơi nước và khí cacbonic thông qua những lỗ hở khí khổng. Những bước tiến kể trên, cộng với các phương pháp mới nhằm đo kích thước lỗ khí khổng và tốc độ quang hợp đã giúp miêu tả chính xác tốc độ trao đổi khí giữa thực vật và không khí. Những phát kiến mới trong phép phân tích thống kê của Ronald Fisher, Frank Yates và những nhà khoa học khác tại Trạm thí nghiệm Rothamsted đã tạo điều kiện thuận lợi cho thiết kế thí nghiệm hợp lý và phân tích dữ liệu trong nghiên cứu thực vật. Việc Kenneth V. Thimann phát hiện và nhận dạng hormone thực vật auxin vào năm 1948 đã giúp giới khoa học có thể điều chỉnh sự phát triển của thực vật bằng chất hóa học ngoại sinh. Frederick Campion Steward là người tiên phong trong kĩ thuật vi nhân giống và nuôi cấy mô thực vật được điều hoà bởi hormone thực vật. Auxin nhân tạo 2,4-Dichlorophenoxyacetic acid hay 2,4-D là một trong những thuốc diệt cỏ tổng hợp thương mại đầu tiên.\nỞ thế kỷ 20, các kĩ thuật phân tích hóa hữu cơ hiện đại đã điều khiển những bước phát triển trong ngành hóa sinh thực vật, chẳng hạn như quang phổ, sắc ký và điện di. Với việc tăng số lượng các phương pháp tiếp cận sinh học liên quan ở quy mô phân tử của sinh học phân tử, gen học, protein học và chuyển hóa học, mối quan hệ giữa bộ gen của thực vật và hầu hết những khía cạnh của hóa sinh, sinh lý, hình thái và tập tính của thực vật là đối tượng được phân tích thực nghiệm chi tiết. Khái niệm lần đầu do Gottlieb Haberlandt chỉ ra vào năm 1902 rằng tất cả tế bào thực vật là \"toàn năng\" (nguyên văn \"totipotency\") và sau cùng có thể được nuôi cấy \"in-vitro\" (\"trong ống nghiệm\") nhằm sử dụng kỹ thuật di truyền trong thực nghiệm để loại bỏ một hoặc nhiều gen chịu trách nhiệm cho một đặc tính cụ thể, hoặc để bổ sung gen như GFP chỉ thị khi một gen quan tâm đang được biểu lộ. Những công nghệ này có thể cho sử dụng công nghệ sinh học lên toàn bộ thực vật hoặc những tế bào thực vật nuôi cấy trong các lò phản ứng sinh học để tổng hợp thuốc trừ sâu sinh học, dược chất sinh học hoặc các thuốc khác, cũng như ứng dụng thực tế vào cây trồng biến đổi gen được thiết kế cho các đặc tính như cải thiện năng suất.\nHình thái học hiện đại ghi nhận sự thống nhất giữa các loại hình thái chính của rễ, thân (caulome), lá (phyllome) và trichome. Ngoài ra, hình thái chú trọng vào chức năng cấu trúc. Phương pháp phân loại hiện đại nhằm phản ánh và phát hiện quan hệ phát sinh giữa các loài thực vật. Phát sinh chủng loại phân tử hiện đại phần lớn bỏ qua những đặc điểm hình thái, lấy các chuỗi trình tự DNA làm dữ liệu. Phép phân tích phân tử trình tự DNA từ phần lớn họ thực vật có hoa đã góp phần ra đời Nhóm phát sinh thực vật hạt kín (Angiosperm Phylogeny Group - APG, xuất bản vào năm 1998) nói về việc phát sinh các loài thực vật có hoa, giải đáp nhiều câu hỏi về mối quan hệ giữa các họ và loài của nhánh thực vật này. Khả năng trên lý thuyết của một phương pháp thực tế để xác định các loài thực vật và giống thương mại bằng mã vạch DNA là chủ đề của nghiên cứu hiện đại.\nPhạm vi và tầm quan trọng.\nNghiên cứu thực vật rất quan trọng bởi chúng là nền tảng cho sự sống của hầu hết sinh vật trên Trái Đất bằng cách sản sinh ra một lượng lớn khí oxy và cung cấp thức ăn cho con người và các sinh vật khác, thông qua quá trình quang hợp và tổng hợp hữu cơ khác của thực vật. Thực vật, tảo và vi khuẩn lam là những nhóm sinh vật chính tiến hành quang hợp, quá trình sử dụng năng lượng của ánh mặt trời để biến nước và carbon dioxide thành đường – có thể dùng làm nguồn năng lượng hóa học và các phân tử hữu cơ được sử dụng trong thành phần cấu trúc của tế bào. Hiệu ứng phụ của quang hợp là thực vật phát tán oxy vào khí quyển, một loại khí mà hầu hết mọi sinh vật sống cần để thực hiện quá trình hô hấp. Ngoài ra, chúng có tác động tới các chu trình carbon và nước khắp địa cầu, làm liên kết rễ cây và ổn định đất, chống xói mòn. Thực vật có vai trò tối quan trọng với tương lai của xã hội loài người vì chúng cung cấp thức ăn, khí oxy, thuốc và các sản phẩm cho con người, cũng như tạo ra và giữ gìn đất.\nTrong lịch sử, mọi sinh vật sống từng được phân làm động vật hoặc thực vật, và ngành thực vật học chuyên nghiên cứu về tất cả các sinh vật sống không phải động vật. Các nhà thực vật học nghiên cứu cả chức năng lẫn những quá trình bên trong bào quan, tế bào, mô, cá thể thực vật, quần thể thực vật và quần xã thực vật. Ở mỗi mức độ trong số này, một nhà thực vật có thể quan tâm đến phân loại, phát sinh chủng loài và tiến hóa, cấu trúc (giải phẫu và hình thái), hoặc chức năng (sinh lý học) của đời sống thực vật.\nĐịnh nghĩa chính xác nhất của \"thực vật\" chỉ gồm có \"thực vật trên cạn\" hay thực vật có phôi, tức tính cả thực vật có hạt (gồm cả ngành hạt trần và thực vật có hoa) và thực vật không hoa gồm các ngành dương xỉ, thạch tùng, rêu tản, rêu sừng và rêu. Toàn bộ giới Thực vật, trong đó có thực vật có phôi hiện nay có tổ tiên là tảo lục đa bào nguyên thủy. Vòng đời của chúng là sự xen kẽ thế hệ giữa các thể lưỡng bội và đơn bội. Thể lưỡng bội hữu tính của thực vật có phôi (còn gọi là thể giao tử) nuôi dưỡng bào tử phôi đơn bội đang phát triển trong các mô của nó trong ít nhất một phần vòng đời, thậm chí ở cả thực vật có hạt (giao tử được nuôi bởi bào tử cha mẹ của nó). Các nhà thực vật học còn nghiên cứu những nhóm sinh vật khác gồm có vi khuẩn (hiện nằm trong ngành vi khuẩn học), nấm (nấm học) – bao gồm nấm tạo hình địa y, tảo không chứa diệp lục (tảo học) và virus (virus học). Tuy nhiên, các nhà khoa học thực vật vẫn dành sự chú ý cho những nhóm này; nấm (tính cả địa y) và sinh vật đơn bào quang hợp thường được nhắc đến trong các khóa học nhập môn thực vật học.\nNhững chuyên gia cổ thực vật học đã nghiên cứu thực vật cổ trong mẫu hóa thạch để mang lại thông tin về lịch sử tiến hóa của thực vật. Vi khuẩn lam (sinh vật quang hợp thải ra oxy đầu tiên trên Trái Đất) được xem là đã sinh ra tổ tiên của thực vật bằng cách tham gia quan hệ nội cộng sinh với một sinh vật nhân thực sơ khai, sau cùng trở thành lục lạp trong tế bào thực vật. Thực vật quang hợp mới (bên cạnh họ hàng tảo của chúng) làm tăng tốc quá trình phát tán oxy trong khí quyển mà vi khuẩn lam từng bắt đầu, thay đổi bầu khí quyển cổ đại chưa có oxy, oxy hóa khử rồi tạo nên bầu khí quyển dồi dào oxy tự do trong hơn 2 tỷ năm.\nNhững câu hỏi quan trọng của thực vật học ở thế kỉ 21 là vai trò sản xuất chính của thực vật trong chu trình chuyển hóa các thành phần cơ bản của sự sống địa cầu: năng lượng, carbon, oxy, nitơ và nước, bên cạnh đó là cách chúng ta quản lý thực vật có thể giúp giải quyết những vấn đề môi trường của toàn cầu như quản lý tài nguyên, bảo tồn, an ninh lương thực nhân loại, các loài sinh vật xâm lấn, cô lập carbon, biến đổi khí hậu và bền vững.\nDinh dưỡng cho con người.\nHầu như mọi loại thực phẩm thiết yếu đều bắt nguồn từ sản lượng sơ cấp của thực vật, hoặc gián tiếp nhờ động vật ăn chúng. Thực vật và các sinh vật quang hợp khác là cơ sở của hầu hết các chuỗi thức ăn vì chúng sử dụng nguồn năng lượng từ mặt trời và dinh dưỡng từ đất và không khí, biến chúng thành dạng mà động vật có thể tiêu thụ. Đây là thứ mà các nhà sinh thái học gọi là bậc dinh dưỡng đầu tiên. Các dạng thực phẩm thiết yếu chính thời hiện đại, chẳng hạn như hạt tef, ngô, gạo, lúa mì và những loại ngũ cốc khác, cũng như gai dầu, lanh và sợi bông được trồng để lấy sợi là kết quả chọn lọc nhân tạo qua hàng nghìn năm từ những cây trồng tổ tiên hoang dã kèm theo những đặc tính con người mong muốn nhất.\nNhững nhà thực vật là người nghiên cứu cách mà thực vật cho ra thực phẩm và cách tăng sản lượng, ví dụ thông qua nhân giống cây trồng, họ giữ vai trò quan trọng trong khả năng cung cấp thức ăn cho thế giới và đảm bảo an ninh lương thực cho thế hệ tương lai. Các nhà thực vật còn nghiên cứu cỏ dại (một vấn đề nổi cộm trong nông nghiệp), bệnh học thực vật trong nông nghiệp và hệ sinh thái tự nhiên. Thực vật dân tộc học là ngành nghiên cứu mối quan hệ giữa thực vật và con người. Khi được dùng để nghiên cứu về quan hệ lịch sử của người–thực vật, thực vật dân tộc học có thể xem là khảo cổ thực vật học. Một trong những mối quan hệ của người-thực vật ra đời sớm nhất phát sinh ở cộng đồng thổ dân Canada nhằm xác định thực vật ăn được và không ăn được. Các nhà thực vật dân tộc học cũng ghi chép lại mối quan hệ này của thổ dân với thực vật.\nHóa sinh thực vật.\nHóa sinh thực vật là ngành nghiên cứu các quá trình hóa học do thực vật sử dụng. Một vài trong số những quá trình này được dùng trong chuyển hóa sơ cấp như chu trình Calvin ở các nhóm thực vật C3, C4 và CAM. Những quá trình khác tạo ra những chất liệu chuyên dụng như cellulose và lignin dùng để cấu trúc cơ thể chúng và các sản phẩm thứ cấp như nhựa cây và chất thơm.\n box-shadow: 1px 1px 3px rgba(0,0,0,0.2);\">\nThực vật tạo nên nhiều sắc tố quang hợp, một vài sắc tố có thể thấy thông qua phương pháp sắc ký giấy\nXanthophyll\nDiệp lục \"a\"\nDiệp lục \"b\"\nThực vật và nhiều nhóm sinh vật nhân thực quang hợp khác có các bào quan độc nhất gọi là lục lạp. Lục lạp được xem là có nguồn gốc từ vi khuẩn lam, thứ tạo nên mối quan hệ nội cộng sinh với tổ tiên của thực vật và tảo cổ. Lục lạp và vi khuẩn lam chứa sắc tố diệp lục \"a\" màu xanh dương. Diệp lục \"a\" (cũng như sắc tố họ hàng diệp lục \"b\" trong thực vật và tảo màu xanh lá) hấp thụ ánh sáng ở các dải màu xanh dương-tím và cam/đỏ của quang phổ, đồng thời phản xạ và truyền đi ánh sáng xanh lá mà chúng ta thấy là màu đặc trưng của các sinh vật này. Năng lượng trong ánh sáng đỏ và xanh dương mà những sắc tố này hấp thụ (do lục lạp sử dụng) nhằm tạo nên các chất carbon giàu năng lượng từ carbon dioxide và nước bằng quang hợp tạo oxy, quá trình sản sinh oxy phân tử (O2) làm sản phẩm phụ.\nỞ pha sáng, năng lượng ánh sáng mà các sắc tố hấp thụ, đặc biệt là diệp lục \"a\" được truyền đi ở dạng các electron (và sau đó là gradient proton), qua hàng loạt các chất nhận điện tử đến cuối cùng dùng để tạo nên các phân tử ATP và NADPH – chúng tạm thời lưu trữ và vận chuyển năng lượng. Năng lượng của chúng được sử dụng trong pha tối của quang hợp, chủ yếu là trong chu trình Calvin bởi enzyme RuBisCo nhằm tạo ra các phân tử đường 3-carbon glyceraldehyde 3-phosphat (G3P). Glyceraldehyde 3-phosphat là sản phẩm đầu tiên của quang hợp và nguyên liệu thô để tổng hợp glucose và hầu hết những phân tử hữu cơ có nguồn gốc sinh học khác. Một vài glucose chuyển hóa thành tinh bột và được lưu trữ trong lục lạp. Tinh bột là nguồn dự trữ năng lượng đặc trưng của hầu hết thực vật trên cạn và tảo, trong khi inulin (một polyme của fructose) được dùng với mục đích tương tự trong họ Cúc (Asteraceae). Một số glucose bị chuyển thành saccharose (đường ăn thông thường) và vận chuyển đi các phần còn lại của cây.\nKhông giống động vật (thiếu lục lạp), thực vật và các họ hàng sinh vật nhân thực của chúng đã giao nhiều vai trò sinh học cho lục lạp, bao gồm tổng hợp tất cả acid béo, và đa số amino acid. Những acid béo mà lục lạp tạo ra được sử dụng cho nhiều mục đích, chẳng hạn như cung cấp nguyên liệu để xây dựng màng tế bào và tạo ra polyme cutin được tìm thấy trong lớp cutin thực vật giúp bảo vệ thực vật trên cạn khỏi mất nước. \nThực vật tổng hợp nên một số polymer độc đáo như các phân tử cellulose, pectin và xyloglucan mà từ đấy cấu thành nên vách tế bào thực vật.\nThực vật có mạch trên cạn tạo ra lignin, một loại polyme dùng để tăng cường vách tế bào thứ cấp của các quản bào và mạch gỗ, giữ chúng không bị đổ dưới áp lực của nước khi cây hút nước qua chúng. Lignin còn được sử dụng trong các loại tế bào khác như mô cứng, sợi gỗ, hỗ trợ cấu trúc cho cây và là thành phần chính của gỗ. Sporopollenin là một polyme kháng hóa mà giới khoa học tìm thấy trong vách tế bào ngoài của bào tử và phấn hoa, chịu trách nhiệm cho sự sinh tồn của bào tử thực vật trên cạn sơ khai và phấn hoa của thực vật có hạt trong mẫu hóa thạch. Nó được nhiều nhà nghiên cứu xem là dấu mốc khởi đầu của tiến hóa thực vật trên cạn trong kỷ Ordovic. Nồng độ carbon dioxide trong khí quyển ngày nay thấp hơn nhiều so với khi thực vật mọc lấn lên đất liền trong các kỷ Ordovic và Silur. Kể từ đấy, nhiều cây một lá mầm như ngô, dứa và một số cây hai lá mầm như họ Cúc đã tiến hóa thêm các con đường quang hợp độc lập như thực vật CAM và thực vật, nhằm tránh thất thoát sản phẩm quang hợp bởi hô hấp sáng trong con đường cố định carbon phổ biến hơn.\nThuốc và nguyên vật liệu.\nHóa thực vật là một phân ngành của hóa sinh thực vật chủ yếu liên quan đến các chất hóa học mà thực vật tạo ra trong quá trình trao đổi chất thứ cấp. Một số thành phần dạng này là chất độc như alkaloid coniin từ cây độc cần. Những chất khác chẳng hạn như tinh dầu bạc hà và tinh dầu chanh đều có ích với mùi thơm của chúng để chế thành hương liệu và gia vị (ví dụ capsaicin), và làm dược phẩm trong y học như trong nha phiến từ cây anh túc. Nhiều dược phẩm và thuốc tiêu khiển, như tetrahydrocannabinol (thành phần trong cần sa), caffein, morphin và nicotin đều bắt nguồn trực tiếp từ thực vật. Một số loại khác là dẫn xuất đơn giản từ các sản phẩm thực vật tự nhiên. Ví dụ, chất giảm đau aspirin là hợp chất ester acetyl của acid salicylic, lúc đầu tách ra từ vỏ cây liễu, và một lượng lớn thuốc giảm đau có thuốc phiện như heroin có được nhờ biến đổi hóa học của morphin lấy từ anh túc. Những chất kích thích phổ biến bắt nguồn từ thực vật, chẳng hạn như caffein từ cà phê, trà và sôcôla, và nicotin từ thuốc lá. Hầu hết đồ uống có cồn bắt nguồn từ quá trình lên men của các sản phẩm thực vật giàu carbohydrat như đại mạch (bia), gạo (rượu sake) và nho (rượu vang). Những người Mỹ bản địa đã sử dụng nhiều thực vật như một phương pháp chữa trị bệnh tật trong hàng nghìn năm. Những kiến thức về thực vật của người Mỹ bản địa đã được các nhà thực vật dân tộc học ghi chép lại và chúng được chuyển qua các công ty dược phẩm dùng để khám phá thuốc.\nThực vật có thể tổng hợp nên những sắc tố và thuốc nhuộm hữu ích như anthocyanin có tác dụng tạo màu đỏ của rượu vang đỏ, chất tạo màu vàng và chất nhuộm tùng lam cùng được dùng để chế màu xanh lá Lincoln, indoxyl – nguồn thuốc nhuộm chàm mà theo truyền thống để nhuộm vải denim, những sắc tố gamboge và cây thiên thảo cho màu vẽ của nghệ sĩ. Đường, tinh bột, sợi bông, vải lanh, gai dầu công nghiệp, một vài loại dây thừng, gỗ và ván dăm, giấy cói và giấy thường, dầu thực vật, sáp và cao su tự nhiên là những ví dụ về những chất liệu thương mại quan trọng được làm từ mô thực vật hoặc các sản phẩm thứ cấp của chúng. Than củi (một dạng carbon nguyên chất làm từ gỗ chưng khô) có một lịch sử lâu đời như một nhiên liệu nấu chảy kim loại, là chất liệu lọc và hấp phụ, chất liệu vẽ của nghệ sĩ và một trong ba thành phần của thuốc súng. Cellulose (hợp chất polymer hữu cơ dồi dào nhất thế giới) có thể được chuyển đổi thành năng lượng, nhiên liệu, vật liệu và nguyên liệu hóa học. Những sản phẩm chế từ cellulose gồm có tơ nhân tạo và giấy bóng kính, giấy dán tường, xăng butanol và đạn súng. Mía, cải dầu và đậu tương là một số loại thực vật có hàm lượng đường hoặc dầu dễ lên men, dùng làm các nguồn nhiên liệu sinh học, nguồn thay thế quan trọng cho nhiên liệu hóa thạch như diesel sinh học. Người Mỹ bản địa đã sử dụng cây cỏ ngọt để xua đuổi côn trùng như muỗi. Hội hóa học Mỹ về sau đã phát hiện những đặc tính xua đuổi bọ của cỏ ngọt trong các phân tử phytol và coumarin.\nSinh thái học thực vật.\nSinh thái học thực vật là bộ môn khoa học về các mối quan hệ chức năng giữa thực vật và sinh cảnh của chúng – môi trường nơi chúng hoàn thành vòng đời của mình. Những nhà sinh thái học thực vật nghiên cứu thành phần hệ thực vật bản địa và khu vực, tính đa dạng sinh học, đa dạng di truyền và xác suất, sự thích nghi với môi trường sống của thực vật, tính cạnh tranh hoặc tương tác hỗ sinh với các loài khác. Thậm chí một vài nhà sinh thái học còn dựa vào dữ liệu thực nghiệm từ người bản địa mà các nhà thực vật dân tộc học thu thập được. Thông tin này có thể chuyển giao một lượng lớn thông tin về cách vùng đất tồn tại từ hàng nghìn năm trước và nó đã thay đổi ra sao trong suốt thời gian đó. Mục tiêu của sinh thái học thực vật là nắm được nguyên nhân của các mẫu phân bố, năng suất, tác động tới môi trường, tiến hóa và phản ứng của thực vật trước biến đổi môi trường.\nThực vật phụ thuộc vào các yếu tố khí hậu và thổ nhưỡng (đất) nhất định ở môi trường của chúng, song cũng có thể điều chỉnh những yếu tố này. Ví dụ, chúng có thể thay đổi suất phản chiếu của môi trường, làm tăng khả năng chặn dòng chảy mặt, làm ổn định đất khoáng, phát triển hàm lượng hữu cơ của đất và tác động tới nhiệt độ môi trường xung quanh. Thực vật cạnh tranh với các sinh vật khác để giành lấy tài nguyên trong hệ sinh thái của chúng. Chúng tương tác với đồng loại theo nhiều quy mô không gian trong các nhóm cá thể, quần thể và quần xã, cùng tạo nên thảm thực vật chung. Những vùng mang thảm thực vật đặc trưng và các cây chiếm ưu thế cũng như những thành phần vô sinh và hữu sinh, khí hậu và địa lý tạo nên các khu sinh học như đài nguyên hoặc rừng mưa nhiệt đới.\nĐộng vật ăn cỏ thì ăn thực vật, song thực vật có thể tự phòng vệ, một số loài là ký sinh hay thậm chí ăn thịt. Những sinh vật khác tạo nên mối quan hệ cộng sinh có lợi với thực vật. Ví dụ, nấm rễ và rhizobia cung cấp chất dinh dưỡng cho thực vật để đổi lấy thức ăn, kiến bị cây kiến (Myrmecophyte) thu hút để giúp bảo vệ cây, ong mật, dơi và các động vật khác thụ phấn cho hoa con người và những động vật khác là vật trung gian phát tán các bào tử và hạt.\nThực vật, biến đổi khí hậu và môi trường.\nNhững phản ứng của thực vật với những biến đổi khí hậu và môi trường khác có thể giúp ta hiểu về cách những biến đổi này tác động lên chức năng và năng suất của hệ sinh thái. Ví dụ, hiện tượng học thực vật có thể là một biến đo nhiệt độ hữu ích trong lịch sử khí tượng, tác động sinh học của biến đổi khí hậu và ấm lên toàn cầu. Phấn hoa học, phép phân tích mỏ phấn hoa hóa thạch trong các trầm tích từ hàng nghìn hoặc hàng triệu năm trước cho phép tái tạo khí hậu của quá khứ. Những ước tính về nồng độ trong khí quyển kể từ Đại Cổ sinh có được từ mật độ khí khổng, hình dạng lá và kích thước của thực vật trên cạn cổ. Suy giảm ozon có thể làm thực vật tiếp xúc với tia bức xạ cực tím-B (UV-B), làm cho \ntốc độ phát triển thấp hơn. Ngoài ra, thông tin từ các nghiên cứu về quần xã sinh học, hệ thống hóa và phân loại thực vật là rất cần thiết để nắm rõ thay đổi của thảm thực vật, hủy hoại môi trường sống và những loài bị tuyệt chủng.\nDi truyền học.\nSự di truyền ở thực vật tuân theo những nguyên tắc cơ bản của di truyền giống như ở các sinh vật đa bào khác. Gregor Mendel khám phá ra các luật di truyền bằng việc nghiên cứu đặc điểm di truyền của kiểu hình cây \"Pisum sativum\" (đậu Hà Lan). Những gì Mendel rút ra từ nghiên cứu thực vật đã mang lại những lợi ích ảnh hưởng sâu rộng bên ngoài thực vật học. Tương tự, \"gen nhảy\" được Barbara McClintock phát hiện trong lúc bà nghiên cứu ngô. Tuy nhiên, có một vài nét khác biệt về mặt di truyền để phân biệt giữa thực vật và những sinh vật khác.\nRanh giới loài ở thực vật có thể kém hơn ở động vật, và phép lai khác loài thường dễ xảy ra. Một ví dụ điển hình là bạc hà Âu, \"Mentha\" × \"piperita\", một phép lai bất thụ giữa bạc hà nước và bạc hà \"Mentha spicata\". Nhiều giống lúa mì trồng trọt là kết quả của nhiều phép lai giữa và trong loài, giữa loài hoang dã và các giống lai của chúng. Thực vật có hoa lưỡng tính thường có cơ chế tự tương khắc hoạt động giữa phấn hoa và đầu nhụy để cho hạt phấn không rơi vào đầu nhụy hoặc không thể nảy mầm và tạo giao tử đực. Đây là một trong nhiều cách mà thực vật sử dụng để thúc đẩy giao phấn. Ở nhiều thực vật trên cạn, giao tử đực và cái được tạo ra bởi những cá thể riêng biệt. Những loài này được xem là phân tính khi nhắc tới thể bào tử của thực vật có mạch, và lưỡng tính khi nhắc đến thể giao tử rêu.\nKhông giống động vật bậc cao (hiếm trinh sản), sinh sản vô tính có thể xảy ra ở thực vật theo nhiều cơ chế khác nhau. Sự hình thành thân củ ở khoai tây là một ví dụ. Đặc biệt ở những môi trường sống Bắc Cực hoặc núi cao (hiếm cơ hội để động vật thụ tinh cho hoa), cây non hoặc thân hành có thể phát triển thay cho hoa, thay thế sinh sản hữu tính bằng sinh sản vô tính và làm phát sinh những quần thể vô tính giống với bố mẹ về mặt di truyền. Đây là một trong nhiều loại sinh sản vô phối xảy ra ở thực vật. Sinh sản vô phối cũng có thể xảy ra trong hạt, tạo ra một hạt chứa phôi giống bố mẹ về mặt di truyền.\nHầu hết sinh vật sinh sản hữu tính là lưỡng bội với những chiếc nhiễm sắc thể tồn tại thành cặp tương đồng. Bộ nhiễm sắc thể có thể sai sót trong quá trình phân bào. Tình trạng này có thể xảy ra sớm trong quá trình phát triển phôi tạo ra cơ thể tự đa bội hoàn toàn hoặc một phần, hoặc trong các quá trình biệt hóa tế bào thông thường nhằm tạo ra một số loại tế bào đa bội (thể nội đa bội), hoặc trong lúc hình thành giao tử. Một thực vật thể dị đa bội có thể ra đời từ một phép lai giữa hai loài khác nhau và sau đó được đa bội hóa. Cả thực vật tự đa bội và dị đa bội đều có thể sinh sản bình thường, song không thể phối chéo thành công với quần thể bố mẹ vì có sự không tương thích trong bộ nhiễm sắc thể. Những thực vật này bị cách li sinh sản khỏi loài bố mẹ dù sống trong cùng khu vực địa lý, có thể đủ thành công để hình thành một loài mới. Một số thể đa bội bất thụ khác ở thực vật có thể vẫn sinh sản sinh dưỡng hoặc hình thành những quần thể vô tính gồm các cá thể giống hệt nhau nhờ hình thức sinh sản vô phối ở hạt. Lúa mì cứng là một thể dị tứ bội bất thụ, trong khi lúa mì thông thường là một thể dị lục bội. Chuối thương mại là một ví dụ về thể tam bội bất thụ không hạt. Cây bồ công anh thông thường là thể tam bội tạo các hạt vô tính. Giống như ở các sinh vật nhân thực khác, di truyền ở các bào quan ty thể và lục lạp ở thực vật không theo quy luật di truyền Mendel. Lục lạp được di truyền thông qua cây đực ở thực vật hạt trần song thường qua cây mẹ ở thực vật có hoa.\nDi truyền phân tử.\nMột lượng kiến thức mới đáng kể về chức năng của thực vật đến từ những nghiên cứu về di truyền phân tử của thực vật mô hình như cây cải xoong \"Arabidopsis thaliana\", một loài cỏ dại nằm trong họ Cải (Brassicaceae). Bộ gen hoặc thông tin di truyền chứa trong các gen của loài này được mã hóa bởi khoảng 135 triệu cặp base DNA, tạo nên một trong những bộ gen nhỏ nhất của nhóm thực vật có hoa. \"Arabidopsis\" là thực vật đầu tiên được giải trình bộ gen vào năm 2000. Trình tự của một vài bộ gen tương đối nhỏ khác là của lúa (\"Oryza sativa\") và \"Brachypodium distachyon\" đã biến chúng thành những loài mô hình quan trọng để nghiên cứu di truyền, sinh học tế bào và phân tử của ngũ cốc, họ Lúa và thực vật một lá mầm nói chung.\nThực vật mô hình như \"Arabidopsis thaliana\" được dùng để nghiên cứu sinh học phân tử của tế bào thực vật và lục lạp. Lý tưởng hơn cả, những sinh vật này mang bộ gen nhỏ mà giới khoa học biết rõ hoặc giải trình tự hoàn toàn, phát triển nhanh và thời gian thế hệ ngắn. Ngô đã được dùng để nghiên cứu các cơ chế của quang hợp và vận chuyển đường qua mạch rây ở thực vật. Sinh vật đơn bào tảo lục \"Chlamydomonas reinhardtii\" (dù bản thân nó không phải thực vật có phôi) chứa diệp lục b trong lục lạp, sắc tố này liên quan đến diệp lục a ở thực vật trên cạn, trở thành một đề tài nghiên cứu hữu ích. Loài tảo đỏ \"Cyanidioschyzon merolae\" còn được dùng để nghiên cứu một vài chức năng cơ bản của lục lạp. Rau chân vịt, đậu Hà Lan, đậu tương và rêu \"Physcomitrella patens\" thường được dùng để nghiên cứu sinh học tế bào thực vật.\n\"Agrobacterium tumefaciens\" (một vi khuẩn sống ở nốt sần rễ cây họ Đậu (Fabaceae) trong đất) có thể gắn vào tế bào thực vật và lây nhiễm cho chúng bằng plasmid Ti mô sẹo (callus) nhờ chuyển gen ngang, gây dạng nhiễm thể sần (còn gọi là bệnh nốt sần). Schell và Van Montagu (1977) đưa ra giả thuyết rằng plasmid Ti có thể là một vector tự nhiên để đưa tới gen nif, thứ chịu trách nhiệm cho khả năng cố định đạm ở nốt sần rễ của cây họ Đậu và những loài thực vật khác. Ngày nay, biến đổi gen ở Ti plasmid là một trong những kĩ thuật chính để đưa gen chuyển vào thực vật và tạo ra cây trồng biến đổi gen.\nDi truyền học biểu sinh.\nDi truyền học biểu sinh là chuyên ngành nghiên cứu những thay đổi về mặt di truyền trong biểu hiện gen mà không thể giải thích bằng những thay đổi trong trình tự DNA cơ bản nhưng làm các gen của sinh vật hoạt động (hoặc \"tự biểu hiện\") khác nhau. Một ví dụ về sự thay đổi biểu sinh là đánh dấu gen bằng methyl hóa DNA, xác định xem liệu chúng sẽ được biểu hiện hay không. Biểu hiển gen còn có thể được kiểm soát bằng những protein ức chế gắn vào trình tự tắt của DNA và ngăn vùng ấy biểu hiện gen. Những chỉ thị của biểu sinh có thể bị xóa đi hoặc thêm vào DNA trong các giai đoạn của vòng đời phát triển thực vật, và chịu trách nhiệm cho những khác biệt giữa bao phấn, cánh hoa và lá thông thường, mặc cho thực tế rằng chúng đều mang mã di truyền cơ bản. Những thay đổi biểu sinh có thể là tạm thời hoặc có thể duy trì qua những lần phân bào liên tiếp trong phần đời còn lại của tế bào. Một vài thay đổi biểu sinh có thể xem là hệ số di truyền.\nNhững thay đổi biểu sinh trong sinh vật nhân thực có vai trò điều chỉnh quá trình biệt hóa tế bào. Trong quá trình phát sinh hình thái, các tế bào gốc toàn năng trở thành nhiều tế bào bất tử phôi, từ đó trở thành các tế bào đã biệt hóa hoàn toàn. Một noãn được thụ tinh duy nhất là hợp tử cho ra đời nhiều loại tế bào thực vật khác nhau, gồm có mô mềm, mạch ống của mạch gỗ, ống rây của mạch rây, tế bào bảo vệ của biểu bì... rồi tiếp tục nguyên phân. Quá trình bắt nguồn từ hoạt hóa biểu sinh của một số gen và ức chế các gen khác.\nKhông như động vật, nhiều tế bào thực vật, đặc biệt là tế bào của mô mềm không biệt hóa đến cuối mà vẫn toàn năng với khả năng phát sinh một cây cá thể mới. Những trường hợp ngoại lệ gồm có tế bào hóa gỗ cao, mô cứng và xylem chết lúc trưởng thành, và tế bào kèm mạch rây thiếu nhân. Trong khi thực vật sử dụng nhiều cơ chế biểu sinh tương tự động vật (chẳng hạn như tái mô hình hóa chất nhiễm sắc), một giả thuyết khác là những thực vật ấy thiết lập kiểu biểu hiệu gen nhờ sử dụng thông tin vị trí từ môi trường và các tế bào xung quanh để xác định số phận phát triển của chúng.\nNhững thay đổi biểu sinh có thể dẫn tới cận đột biến (không tuân theo quy luật di truyền Mendel). Những dấu hiệu biểu sinh này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp, một alen lại gây ra sự thay đổi lên alen khác.\nTiến hóa thực vật.\nLục lạp của thực vật có một số điểm tương đồng về hóa sinh, cấu trúc và di truyền so với vi khuẩn lam (có tên thông dụng nhưng không chuẩn là \"tảo lam\") và được cho là bắt nguồn từ mối quan hệ nội cộng sinh giữa một tế bào nhân thực cổ đại và một một dòng vi khuẩn lam.\nTảo là một nhóm sinh vật đa ngành và được xếp vào giới Khởi sinh trong hệ thống Whitaker - Margulis, một số loài có quan hệ mật thiết với thực vật hơn những loài khác. Có nhiều đặc điểm khác biệt giữa chúng như thành phần vách tế bào, hóa sinh, sắc tố, cấu trúc lục lạp và dự trữ chất dinh dưỡng. Ngành Luân tảo (có quan hệ chị em với ngành tảo lục Chlorophyta) được xem là ngành có tổ tiên của thực vật thật sự. Lớp Charophyceae của ngành Luân tảo và phân giới thực vật có phôi của thực vật trên cạn cùng hình thành nên nhóm đơn ngành hay nhóm thực vật Streptophytina.\nThực vật không mạch trên cạn là những thực vật có phôi thiếu mô mạch xylem và phloem. Chúng gồm có rêu, rêu tản và rêu sừng. Thực vật có mạch Pteridophyte mang xylem và phloem sinh sản bằng bào tử, nảy mầm thành giao tử sống độc lập, tiến hóa trong kỷ Silur và phân thành nhiều nhánh ở cuối kỷ Silur và đầu kỷ Devon. Những đại diện của cây thạch tùng vẫn tồn tại cho tới ngày nay. Cho đến cuối kỷ Devon, nhiều nhóm thực vật (tính cả thạch tùng, lá nêm và tiền hạt trần) đã tiến hóa độc lập thành \"đại bào tử\" – bào tử của chúng có hai kích thước riêng biệt, đại bào tử lớn hơn và vi bào tử bé hơn. Vi bào tử thường tiêu giảm, đại bào tử nguyên phân tạo giao tử và được giữ lại trong nang bào tử (megasporangia), còn có tên là nội bào tử. Hạt giống gồm có một nang nội bào tử được bao quanh bởi một hoặc hai lớp bọc ngoài (vỏ bọc). Bào tử non phát triển bên trong hạt giống, rồi khi hạt nảy mầm sẽ tách ra sẽ giải phóng bào tử. Những hạt giống thực vật ra đời sớm nhất có niên đại từ tầng Famenne của kỷ Devon gần nhất. Sau khi quá trình tiến hóa của hạt, thực vật có hạt phân thành nhiều dạng, phát sinh một số nhóm nay đã tuyệt chủng (gồm có dương xỉ hạt) cũng như thực vật hạt trần và thực vật có hoa hiện đại. Thực vật hạt trần sinh ra \"hạt trần\" không hoàn toàn bọc trong bầu; những đại diện hiện đại gồm có các ngành Thông, lớp Tuế, \"Bạch quả\" và lớp Dây gắm. Thực vật hạt kín sinh hạt bọc trong một bộ phận của nhụy (bầu nhụy). Hiện giới khoa học đang tiến hành nghiên cứu về việc phát sinh phân tử của thực vật sống, dường như là dấu hiệu cho thấy thực vật hạt kín là một nhóm chị em với thực vật hạt trần.\nSinh lý học thực vật.\nSinh lý học thực vật bao hàm toàn bộ hoạt động nội hóa học và vật lý của thực vật gắn liền với sự sống. Những hóa chất tổng hợp được nguyên liệu không khí, đất và nước hình thành nên trao đổi chất ở thực vật. Năng lượng của ánh mặt trời được thu nhận bởi quá trình quang hợp oxy và được giải phóng bởi hô hấp tế bào là nền tảng của hầu hết mọi sự sống. Sinh vật quang tự dưỡng, gồm có mọi thực vật có sắc tố xanh, tảo và vi khuẩn lam thu nhận năng lượng trực tiếp từ ánh mặt trời bằng quang hợp. Sinh vật dị dưỡng gồm có mọi động vật, mọi loài nấm, mọi thực vật ký sinh hoàn toàn và vi khuẩn không quang hợp thu nhận các phân tử hữu cơ do sinh vật quang tự dưỡng tạo ra rồi hô hấp hoặc sử dụng chúng trong việc xây dựng các tế bào và mô. Hô hấp là quá trình oxy hóa các hợp chất carbon bằng cách phân giải chúng thành những phân tử đơn giản hơn để giải phóng năng lượng mà chúng tích lũy, cơ bản là ngược lại với quang hợp.\nCác phân tử di chuyển trong thực vật theo quá trình vận chuyển chủ động và bị động ở nhiều quy mô không gian khác nhau. Các ion, electron và phân tử được vận chuyển dưới tế bào như nước và enzym diễn ra trên toàn bộ màng tế bào. Chất khoáng và nước được vận chuyển từ rễ lên các bộ phận khác của thực vật trong dòng thoát hơi nước. Khuếch tán, thẩm thấu, vận chuyển chủ động và dòng chảy khối lượng là toàn bộ những cách để vận chuyển. Ví dụ về dinh dưỡng khoáng thực vật cần là nitơ, phosphor, kali, calci, magnesi và lưu huỳnh. Ở thực vật có mạch, những yếu tố này được rễ hấp thu từ đất dưới dạng các ion hòa tan và vận chuyển khắp cơ thể thực vật trong mạch gỗ và mạch rây. Hầu hết những yếu tố ấy cần thiết cho dinh dưỡng thực vật xuất phát từ phân hủy hóa học của khoáng chất trong đất.\nHormone thực vật.\nThực vật không thụ động, song phản ứng chậm với các tín hiệu bên ngoài như ánh sáng, tiếp xúc và thương tổn bằng cách di chuyển hoặc phát triển hướng về phía hoặc tránh tác nhân kích thích tùy theo trường hợp. Bằng chứng hiển nhiên về tính nhạy cảm khi tiếp xúc là sự đổ gục gần như tức thời của lá chét cây trinh nữ, bẫy côn trùng của cây bẫy kẹp, chi Nhĩ cán và các hạt phấn của hoa lan.\nGiả thuyết cho rằng sự phát triển và sinh trưởng của thực vât được điều phối bởi hormone thực vật hoặc các chất điều hòa sinh trưởng thực vật lần đầu nổi lên vào cuối thế kỷ 19. Darwin đã thí nghiệm về chuyển động của chồi và rễ cây hướng về ánh sáng và trọng lực, ông kết luận: \"Hầu như không hề phóng đại khi cho rằng đầu của rễ mầm hoạt động như bộ não của một trong những loài động vật bậc thấp điều khiển nhiều chuyển động\". Cùng lúc ấy, vai trò của auxin (từ tiếng Hy Lạp , tức là mọc lên) trong việc kiểm soát sinh trưởng của thực vật lần đầu do nhà khoa học người Hà Lan Frits Went chỉ ra một cách khái quát. Auxin đầu tiên được biết tới là acid indole-3-acetic (IAA), có tác dụng kích thích tăng trưởng tế bào, được cô lập từ thực vật khoảng 50 năm về sau. Hợp chất này có vai trò là trung gian cho những phản ứng của rễ và chồi, định hướng các cơ quan này hướng về phía ánh sáng hoặc trọng lực. Giới khoa học phát hiện vào năm 1939 rằng mô sẹo của thực vật có thể phát triển trong môi trường nuôi cấy chứa IAA, kế đến là quan sát vào năm 1947 cho thấy nó có thể bị kích thích tạo nên rễ và chồi bằng cách kiểm soát tương quan giữa các nồng độ hormone tăng trưởng, đó là những bước tiến quan trọng trong sự phát triển của công nghệ sinh học và biến đổi gen ở thực vật.\nCytokinin là một loại hormone của thực vật có khả năng kiểm soát phân bào (đặc biệt là phân chia tế bào chất). Cytokinin tự nhiên zeatin được phát hiện trong ngô và là một dẫn xuất của purin adenin. Zeatin được tạo ra trong rễ rồi vận chuyển lên chồi qua mạch gỗ, nơi nó kích thích phân bào, phát triển chồi và nhuộm xanh cho lục lạp. Những gibberellin, chẳng hạn như acid gibberellic là những diterpen được tổng hợp từ acetyl CoA qua con đường mevalonat. Chúng có liên quan tới việc kích thích nảy mầm và phá vỡ sự ngủ ở hạt, điều chỉnh chiều cao của cây bằng cách kiểm soát kéo dài chuỗi polypeptit của thân và kiểm soát sự ra hoa. Acid abscisic (ABA) có mặt ở mọi thực vật trên cạn ngoại trừ ngành rêu tản và tổng hợp từ carotenoid trong lục lạp và các lạp thể khác. Nó ức chế phân bào, kích thích hạt trưởng thành, tình trạng ngủ và kích thích đóng khí khổng. Nó có tên như vậy vì là vì ban đầu ABA được cho là kiểm soát sự rụng (abscission). Ethylen là một hormone thể khí được tạo ra ở tất các mô thực vật bậc cao từ methionin. Ngày nay nó được biết tới là hormone nội sinh kích thích hoặc điều chỉnh quá trình chín và rụng của trái cây.\nMột loại hormone thực vật nữa là jasmonat, lần đầu được cô lập ra từ dầu của cây \"Jasminum grandiflorum\" có tác dụng điều chỉnh phản ứng với vết thương ở thực bằng cách kích hoạt biểu hiện gen cần có trong phản ứng tính kháng tập nhiễm có hệ thống trước sự tấn công của mầm bệnh. Ngoài vai trò là nguồn năng lượng chính của thực vật, ánh sáng còn có chức năng truyền tín hiệu, cung cấp thông tin cho cây, ví dụ như cây nhận được bao nhiêu ánh sáng mặt trời mỗi ngày. Từ đó có thể dẫn tới những thay đổi thích nghi trong một quá trình tên là phát sinh quang hình thái. Sắc tố thực vật là cơ quan cảm quang ở thực vật nhạy cảm với ánh sáng.\nHình thái và giải phẫu học thực vật.\nGiải phẫu học thực vật là chuyên ngành nghiên cứu cấu trúc của tế bào và mô ở thực vật, trong khi hình thái học thực vật là chuyên ngành nghiên cứu hình dạng bên ngoài của chúng. Tất cả thực vật là sinh vật nhân thực đa bào, DNA của chúng được bảo vệ trong nhân. Những đặc điểm của tế bào thực vật phân biệt chúng với tế bào của động vật và nấm gồm có vách tế bào sơ cấp được cấu tạo từ các polysaccharide là cellulose, hemicellulose và pectin, không bào lớn hơn so với không bào ở tế bào động vật nguyên sinh và sự hiện diện của lạp thể với những chức năng quang hợp và sinh tổng hợp độc đáo (ví dụ lục lạp). Các lạp thể khác chứa sản phẩm lưu trữ như tinh bột (lạp bột) hoặc lipid (lạp dầu). Đặc biệt, tế bào của ngành streptophyta và tế bào thuộc phân ngành tảo lục Trentepohliales phân chia bằng cách thiết kế thể vách ngăn giống như một mẫu để xây dựng tấm phân bào muộn trong quá trình phân bào.\nNhững phân ngành của thực vật có mạch gồm có lớp Thạch tùng, ngành Dương xỉ và thực vật có hạt (thực vật hạt trần và thực vật có hoa) nói chung có các tiểu hệ thống dưới lòng đất và trên mặt đất. Hệ chồi bao gồm thân mang lá màu xanh lục quang hợp và cấu trúc sinh sản. Hệ rễ chứa mạch ngầm dưới lòng đất có lông rễ ở đầu của chúng và thường thiếu diệp lục tố. Thực vật không mạch, rêu tản, rêu sừng và rêu không có rễ thật sự và các ngành thực vật này đều tham gia quang hợp. Sự hình thành thể bào tử không trải qua quang hợp ở rêu tản nhưng có thể quang hợp ở rêu sừng và rêu.\nHệ rễ và hệ chồi phụ thuộc nhau – hệ rễ thường không quang hợp, phụ thuộc sự cung cấp chất hữu cơ của hệ chồi, còn hệ chồi thường quang hợp và phụ thuộc vào nước và chất khoáng từ hệ rễ. Các tế bào ở mỗi hệ có thể tạo ra các tế bào ở bên còn lại và tạo ra rễ hoặc chồi bất định. Thân bồ và củ là những ví dụ cho thấy chồi có thể mọc rễ. Rễ có thể mọc lan tới gần bề mặt đất (như rễ của cây liễu), có thể tạo ra chồi và sau cùng là cây mới. Trong trường hợp một bên hệ thống bị mất, bên còn lại có thể tái mọc bên còn thiếu. Thực tế cả một cây có thể mọc từ chỉ một lá, giống như trường hợp của cây tử linh lan, hay thậm chí chỉ một tế bào – có thể phân hóa thành mô sẹo (một khối lượng tế bào không chuyên biệt) có thể phát triển thành một cây hoàn chỉnh. Ở thực vật có mạch, mạch gỗ và mạch rây là những mô dẫn vận chuyển tài nguyên giữa rễ và chồi. Rễ thường thích nghi để lưu trữ thức ăn như đường hoặc tinh bột, như ở củ cải đường và cà rốt.\nThân chủ yếu cung cấp dinh dưỡng và nước cho lá và các cấu trúc sinh sản, song có thể lưu trữ nước ở các thực vật mọng nước như ở xương rồng, thức ăn như ở củ khoai tây, hay sinh sản sinh dưỡng như ở thân bồ của cây dâu tây hay trong chiết cành. Lá thu nhận ánh mặt trời và tiến hành quang hợp. Những chiếc lá lớn, dẹt, dễ uốn và màu xanh được gọi là tán lá. Thực vật hạt trần, như thông, tuế, bạch quả và dây gắm là những thực vật cho ra đời hạt không được bọc trong quả, nên gọi là hạt trần. Thực vật có hoa là những thực vật có hạt tạo hoa và hạt được bọc trong quả, nên gọi là hạt kín. Những cây gỗ, chẳng hạn như đỗ quyên khô và sồi thì trải qua một giai đoạn sinh trưởng thứ cấp dẫn tới tăng thêm hai mô: gỗ (mạch gỗ thứ cấp) và vỏ cây (mạch rây và bần). Tất cả thực vật hạt trần và nhiều thực vật hạt kín là cây gỗ. Một số cây sinh sản hữu tính, một số lại sinh sản vô tính, và một số khác lại sinh sản bằng cả hai hình thức trên. Mặc dù những quan hệ tới các loại hình thái chính như rễ, thân, lá và túm lông đều hữu ích, nhưng cần lưu ý rằng những loại này được liên kết thông qua dạng trung gian để giúp cả cơ thể hoạt động liên tục. Ngoài ra, vì cấu trúc thực vật vận hành bằng những quá trình, có thể xem cấu trúc là quá trình hay là các tổ hợp quá trình.\nPhân loại học thực vật.\nPhân loại học thực vật học là phân ngành của phân loại sinh học, liên quan đến phạm vi và tính đa dạng của sinh vật và mối quan hệ của chúng, cụ thể như được xác định bởi lịch sử tiến hóa của chúng. Chuyên ngành này có liên quan tới phân loại sinh học, phân loại khoa học và phát sinh chủng loại học. Phân loại sinh học là phương pháp mà các nhà khoa học thực vật dùng để chia nhóm thực vật vào các bậc phân loại như chi và loài. Phân loại sinh học là một hình thức phân loại khoa học. Phân loại hiện đại khởi nguồn từ công trình của Carl Linnaeus, người đã phân nhóm các loài dựa theo đặc tính vật lý chung. Kể từ đấy những nhóm này đã được điều chỉnh để phù hợp hơn với quy tắc tổ tiên chung của Darwin – tức chia nhóm sinh vật theo tổ tiên thay cho đặc điểm ngoại hình. Trong khi các nhà khoa học không phải lúc nào cũng nhất trí về cách phân loại sinh vật, phát sinh chủng loại phân tử (lấy trình tự DNA làm dữ liệu), đã thúc đẩy nhiều sửa đổi phân loại học gần đây dọc theo các dòng tiến hóa và dường như tiếp tục hoạt động như vậy. Hệ thống phân loại chính có tên là phân loại Linnaeus, gồm có các bậc phân loại và danh pháp hai phần. Danh pháp của các sinh vật là thực vật được ghi hệ thống hóa trong Luật danh pháp quốc tế của tảo, nấm và thực vật quốc tế (ICN) và do Hội nghị khoa học thực vật quốc tế quản lý.\nGiới thực vật thuộc vực sinh vật nhân thực và được chia nhỏ theo kiểu đệ quy trước khi mỗi loài được phân chia riêng biệt. Trật tự phân loại là: Ngành; Giới; Lớp; Bộ; Họ; Chi; Loài. Tên khoa học của một cây đại diện cho chi và các loài của chi ấy, dẫn tới chỉ có một tên khoa học cho mỗi loài sinh vật trên toàn thế giới. Ví dụ, cây hoa huệ hổ có tên khoa học là \"Lilium columbianum\". \"Lilium\" là tên chi, còn \"columbianum\" là tên loài. Sự kết hợp tên chi và tên loài tạo ra tên khoa học của loài. Khi viết tên khoa học của một sinh vật, phải viết hoa chữ cái đầu tiên trong tên chi và viết thường tên loài. Ngoài ra, toàn bộ thuật ngữ thường được in nghiêng (hoặc được gạch chân nếu không in nghiêng).\nLịch sử tiến hóa và di truyền của một nhóm sinh vật được gọi là phát sinh chủng loại học. Phát sinh chủng loại học là chuyên ngành nghiên cứu phát hiện ra các dạng phát sinh chủng loài. Cách tiếp cận cơ bản là sử dụng những điểm tương đồng dựa trên trên di truyền chung để xác định các mối quan hệ. Lấy ví dụ, loài \"Pereskia\" là cây hoặc bụi cây và có lá rõ ràng. Hiển nhiên là chúng không hề giống một cây họ Xương rồng trụi lá như \"Echinocactus\". Tuy nhiên, cả \"Pereskia\" và \"Echinocactus\" có gai mọc ra từ các quầng gai (những cấu trúc chuyên biệt) cho thấy rằng hai chi thực sự có quan hệ tới nhau.\nĐánh giá các mối quan hệ dựa trên các đặc tính chung đòi hỏi sự cẩn trọng, vì thực vật có thể giống nhau thông qua tiến hóa hội tụ, trong đó các đặc tính phát sinh độc lập. Một số cây đại kích ít lá, thân tròn thích nghi với môi trường nước tương tự như cây xương rồng hình quả cầu, song các đặc tính như cấu trúc của hoa là minh chứng rõ rằng hai nhóm này không có quan hệ gần với nhau. Phương pháp miêu tả theo nhánh học lấy một cách tiếp cận phân loại với các đặc tính, phân biệt giữa những đặc tính không mang thông tin về lịch sử tiến hóa chung – chẳng hạn như những loài được tiến hóa riêng biệt trong các nhóm khác nhau (homoplasy - tương đồng) hoặc những loài được truyền lại đặc điểm từ tổ tiên (plesiomorphies - phân nhánh) - và những loài có nguồn gốc, được truyền lại đặc điểm đổi mới trong một tổ tiên chung (apomorphies). Chỉ những đặc tính có nguồn gốc, chẳng hạn như các quầng mọc gai của cây xương rồng, mới mang bằng chứng về một tổ tiên chung. Kết quả của phân tích miêu tả theo nhánh học được trình bày dưới dạng biểu đồ phân nhánh: những biểu đồ hình cây thể hiện mô hình phân nhánh và gốc rễ tiến hóa.\nTừ thập niên 1990 trở đi, các tiếp cận chính để thiết kế phát sinh chủng loại học cho thực vật sống đã trở thành phát sinh chủng loại phân tử, tức sử dụng các đặc điểm phân tử, cụ thể là trình tự DNA, thay vì các đặc điểm hình thái như sự có mặt hoặc không có gai và quầng. Sự khác biệt là chính mã di truyền được dùng để quyết định những mối quan hệ tiến hóa, thay vì sử dụng gián tiếp thông qua các đặc điểm hình thái do di truyền tạo ra. Clive Stace miêu tả phương pháp này mang \"quyền tiếp cận trực tiếp với cơ sở di truyền của tiến hóa.\" Lấy một ví dụ đơn giản, trước khi sử dụng bằng chứng di truyền, nấm chưa được xem là thực vật hay có quan hệ gần với thực vật hơn động vật không. Bằng chứng tiến hóa cho thấy quan hệ tiến hóa chính xác của sinh vật đa bào như thể hiện trong biểu đồ dưới đây – nấm có quan hệ gần với động vật hơn thực vật.\nNăm 1998, Nhóm phát sinh loài thực vật hạt kín đã xuất bản công trình phát sinh chủng loài học với thực vật có hoa dựa trên phép phân tích trình từ DNA từ hầu hết họ của thực vật có hoa. Nhờ có công trình này, nhiều câu hỏi, ví dụ như họ nào đại diện cho phân nhánh sớm nhất của thực vật hạt kín giờ đây đã có đáp án. Việc tra cứu thực vật có liên hệ ra sao với các loài khác cho phép các nhà khoa học thực vật nắm rõ hơn về quá trình tiến hóa ở thực vật. Mặc cho nghiên cứu thực vật mô hình và tăng cường sử dụng bằng chứng DNA, các nhà phân loại học vẫn đang tiến hành nghiên cứu thảo luận về phương pháp phân loại thực vật thành các đơn vị chính xác nhất. Sự phát triển công nghệ như máy tính và kính hiển vi điện tử đã tăng cường đáng kể mức độ nghiên cứu chi tiết và tốc độ dữ liệu được phân tích.\nKý hiệu thực vật.\nMột số ít ký hiệu hiện đang được dùng trong ngành thực vật học, trong đó có bao gồm hoa thức và hoa đồ. Số khác đã lỗi thời; ví dụ, Linnaeus đã sử dụng các ký hiệu tròn để chỉ thực vật thân thảo, gỗ và thực vật lâu năm. Dưới đây là các ký hiệu hiện hành:", "Khoa học sự sống hay khoa học đời sống bao gồm các lĩnh vực khoa học liên quan đến việc nghiên cứu khoa học của các sinh vật sống - như là vi sinh vật, thực vật, động vật và con người - cũng như những lãnh vực liên quan như đạo đức sinh học. Trong khi sinh học vẫn là trung tâm của khoa học sự sống, những tiến bộ công nghệ trong sinh học phân tử và công nghệ sinh học đã dẫn đến sự đang phát triển của chuyên ngành và các lĩnh vực liên ngành (liên ngành hay đa ngành là bao quát phương pháp tiếp cận, cách suy nghĩ, hoặc ít nhất là phương pháp nghiên cứu của nhiều lĩnh vực chuyên môn riêng biệt).\nMột số nhánh khoa học sự sống tập trung vào một loại hình cụ thể của sự sống. Ví dụ, động vật học là nghiên cứu về động vật, trong khi thực vật học là nghiên cứu về thực vật. Một số khác tập trung vào các khía cạnh chung cho tất cả hoặc nhiều hình thức của sự sống, chẳng hạn như giải phẫu học và di truyền học. Tuy nhiên, các lĩnh vực khác quan tâm đến những tiến bộ công nghệ liên quan đến các sinh vật sống, chẳng hạn như kỹ thuật sinh học. Một nhánh quan trọng khác, có thể đặc biệt, liên quan đến việc hiểu biết về tâm trí - thần kinh học.\nKhoa học sự sống cần thiết trong việc cải thiện chất lượng và tiêu chuẩn của cuộc sống. Chúng có nhiều ứng dụng trong y tế sức khỏe, nông nghiệp, y học và các ngành công nghiệp dược phẩm và khoa học thực phẩm.\nCó sự chồng chéo giữa nhiều nhánh trong số các chủ đề nghiên cứu của khoa học sự sống." ]
phu - vt - khe - khoa - hc - nghin - sinh - sc - ngnh - xc
0.757808
false
Tản Đà (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông. Trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực. Đi khắp miền đất nước, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Với những dòng thơ lãng mạn và ý tưởng ngông nghênh, đậm cá tính, ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại". Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất. Tiểu sử. Tản Đà sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 (20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, Thành Thái nguyên niên), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội), nguyên quán ở làng Lủ tức làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Ông thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông xưa kia có nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Sau Gia Long lên ngôi, dòng họ này thề sẽ không đi thi, không làm quan với tân triều. Đến thời cha ông là Nguyễn Danh Kế (阮名繼), do hoàn cảnh gia đình cực khổ, lại phải nuôi mẹ già, đành lỗi ước với tổ tiên. Nguyễn Danh Kế thi đỗ cử nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ việc án lý, nổi tiếng là người có tài văn án trong triều. Ông Kế vốn là người phong lưu tài tử, thường lui tới chốn bình khang và quen với bà Lưu Thị Hiền ở phố. Bà Lưu Thị Hiền (流氏賢) có nghệ danh Nhữ Thị Nhiêm (汝氏蚦), là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao - Nam Định, bà lấy lẽ ông Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định). Bà là người hát hay, có tài làm thơ chữ Nôm. Tản Đà là con trai út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này. Trong những người anh em còn lại, có người anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích, là người có nhiều những ảnh hưởng to lớn tới cuộc đời sau này của Tản Đà. Ông Tích sinh năm 1864, nối nghiệp cha đi thi đỗ Phó bảng và ra làm quan. Ông là người thanh liêm chính trực, nên đường hoạn lộ cũng không yên ổn, sau làm ở cục Tu thư, rồi Hiệu trưởng trường Tân Quy, Đốc học Vĩnh Yên. Tản Đà từ nhỏ sống với ông, phải nhiều lần di chuyển tới những nơi ông Tích được bổ nhiệm: Yên Mô - Ninh Bình, Vụ Bản - Nam Định, Quảng Oai - Sơn Tây, Vĩnh Tường - Vĩnh Yên. Thiếu niên. Thời niên thiếu của Tản Đà trải nhiều giai đoạn khóc cười. Năm lên 3 tuổi, bố mất, cuộc sống gia đình trở nên cùng túng. Năm sau, vì bất hoà với nhà chồng, bà Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. 8 năm sau, xảy ra chuyện chị ruột ông cũng theo mẹ làm nghề đó (năm Tản Đà 13 tuổi). Những sự kiện đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tâm hồn. Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ, được ông Tích nhiệt tình hướng vào con đường cử nghiệp. Theo hồi ký trong 1 bài thơ thì 5 tuổi ông học Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết... 6 tuổi học Luận ngữ, kinh, truyện và chữ quốc ngữ, 10 tuổi biết làm câu đối, 11 tuổi làm thơ văn. Ông rất thích làm văn, lại được anh hết lòng chỉ dẫn, nên 14 tuổi đã thạo các lối từ, chương, thi, phú. Lúc còn học ở trường Quy thức - một trường học thực nghiệm cải cách của Pháp mở ở Hà Nội-, ông viết bài "Âu Á nhị châu hiện thế" bằng chữ Hán, được các báo ở Hồng Kông đăng trong mục xã thuyết. Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây. Giai đoạn niên thiếu của Tản Đà phần lớn dành cho chuyện thi cử, đến năm 19 tuổi, ông mới có những rung cảm tình ái đầu đời. Đó là mối tình với con gái nhà tư sản Đỗ Thận. Năm sau ông lại yêu con gái ông tri huyện phủ Vĩnh Tường. Nhưng 2 mối tình này đều không được trả lời. Năm 1909 (Kỷ Dậu), ông tham dự kỳ thi hương ở Nam Định, rồi trượt trong lần đi thi đầu tiên này. Ông về lại nhà ở Phủ Vĩnh Tường ôn tập. Trong thời gian này, ông say mê một cô gái bán tạp hoá ở phố hàng Bồ. Vì nhà nghèo, không có tiền hỏi cưới, ông đành nuôi hy vọng bằng cách tiếp tục đường khoa cử. Kỳ thi xảy đến, ông dùng bằng Ấm sinh để thi hậu bổ, nhưng bị rớt vì môn vấn đáp bằng tiếng Pháp. Mùa thu năm ấy, ông lại đi thi hương, nhưng lại trượt. Chuyện tình với cô bán sách tan vỡ, cô đi lấy chồng. Ông chán nản bỏ về Hòa Bình tìm khuây lãng. Tại đây nhờ sự giới thiệu của anh rể là nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế, Tản Đà kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Hai người bạn mới gặp đã như quen, cùng vào dãy Hương Sơn, ngọn Chùa Tiên, đêm ngày uống rượu, làm thơ, đọc sách, thưởng trăng, sống theo lối "tịch cốc". Lúc này lần đầu tiên ông đọc Tân thư, sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tìm hiểu về cách mạng Tân Hợi. Nhiều bài thơ và tư tưởng đặc biệt của ông ra đời trong giai đoạn này. Năm 1913, anh cả Nguyễn Tài Tích mất. Tản Đà về Vĩnh Yên làm nghề báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là "Đông Dương tạp chí" của Nguyễn Văn Vĩnh, phụ trách mục "Một lối văn nôm". Đến năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái ông Nguyễn Mạnh Hương tri huyện ở tỉnh Hà Đông, trở thành anh em cột chèo với nhà văn Phan Khôi. Ông Hương là thân sinh của nhà văn Nguyễn Tiến Lãng. Cũng năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên "Đông dương tạp chí", nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản, sông Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Thời kỳ vinh hiển. Từ 1915 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Năm 1915, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ "Khối tình con I". Sau thành công đó, ông viết liền cuốn "Giấc mộng con" (cho in năm 1917) và một số vở tuồng: "Người cá", "Tây Thi", "Dương Quý Phi", "Thiên Thai" (diễn lần đầu năm 1916 tại Hải Phòng). Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra "Nam Phong tạp chí", và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn "Khối tình con I" và phê phán cuốn "Giấc mộng con I", cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau bài phê phán tư tưởng của "Giấc mộng con", Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán đó, sự kiện này cũng được nhiều giới quan tâm. Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có "Thần tiền", "Đàn bà Tàu" (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có "Đài gương", "Lên sáu" (1919), "Lên tám" (1920), thơ thì có tập "Còn chơi" (1921). Thời kỳ này ông quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc, Trung kỳ và làm chủ bút "Hữu thanh tạp chí" một thời gian. Năm 1922, Tản Đà thành lập "Tản Đà thư điếm" (sau đổi thành "Tản Đà thư cục"), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây đã xuất và tái bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; "Tản Đà tùng văn" (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện "Thề Non Nước", 1922); "Truyện thế gian" tập I và II (1922), "Trần ai tri kỷ" (1924), "Quốc sử huấn nông (1924), và tập "Thơ Tản Đà" (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật. Năm 38 tuổi (1926), Hữu Thanh tạp chí đình bản, Tản Đà cho ra đời "An Nam tạp chí" số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng. Sự ra đời của "An Nam tạp chí", tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã bắt đầu quãng đời lận đận của ông. Cuối đời lận đận. Thời kỳ đầu làm chủ "An Nam tạp chí", Tản Đà chưa thiếu thốn nhiều, ông thường đi du lịch: khi thì lên đề thơ ở núi Non Nước - Ninh Bình (bài Vịnh hòn đá), khi thì vào Trung Kỳ thăm Phan Bội Châu, khi thì ở Sài Gòn gặp Diệp Văn Kỳ, ra Bình Định thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về Hải Phòng sống với con tướng Cần Vương đô thống Thuật. Ông vừa làm báo vừa đi chơi do đó tạp chí "An Nam" cũng ra rải rác, thất thường. Dần dần, ông túng quẫn, những cuộc đi là để trốn nợ hoặc giải sầu, hoặc là tìm người tài trợ cho báo. Thời kỳ này ông viết cũng nhiều, các tập "Nhàn tưởng" (bút ký triết học, 1929), "Giấc mộng lớn" (tự truyện, 1929), "Khối tình con III" (in lại thơ cũ), "Thề non nước" (truyện), "Giấc mộng con II" (truyện), lần lượt ra đời. Năm 1931-1932, Tản Đà có cuộc bút chiến nổi tiếng với Phan Khôi về luân lý và Tống Nho. Ông có câu nói đi vào lịch sử khi kết án Phan Khôi: "vu hãm tiên hiền, loạn ngôn hoặc chúng, bại hoại phong quá" và đòi đem Phan Khôi ra Văn Miếu quất roi vào đít. Thời gian này, ông có vào Sài Gòn ít lâu và đảm nhận phụ trương văn chương cho tờ báo của ông Diệp Văn Kỳ, và cư ngụ tại Xóm Gà. Năm 1933, khi phong trào Thơ Mới đang nổi lên, thì "An Nam tạp chí" của Tản Đà chính thức đình bản sau 3 lần đình bản và 3 lần tái bản. Sự kiện này khi đó bị nhiều người thuộc phe "thơ mới" đem ra cười cợt, trong đó có Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, đã viết một bài "văn tế An Nam tạp chí" với lời lẽ xỏ lá. Thời kỳ đầu của phong trào thơ mới, Tản Đà im lặng. Mãi đến năm 1934, ông mới có một vài lời khuyên nhẹ nhàng gửi các nhà thơ Mới. Tuy vậy, với vai trò là nhà thơ nổi tiếng nhất trong làng thơ cũ đương thời, Tản Đà vẫn là một đối tượng chính để những người thuộc phe thơ mới tìm cách đánh đổ. Tờ Phong hóa của Tự Lực văn đoàn rất hăng hái chê ông, chê mọi thứ, từ tính nghiện rượu, nói nhiều lúc say, hay say, cho đến cái mũi ửng đỏ của Tản Đà cũng bị chê nốt. Do ảnh hưởng của phong trào Thơ Mới và phong trào theo Tân học, Tản Đà, con người thuộc phe cựu học, làm thơ cũ đã dần dần trở nên cô độc. Tên tuổi ông gần như bị đẩy lui vào dĩ vãng, nhường chỗ cho các nhà thơ mới: Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... Cộng với việc An Nam tạp chí đình bản vĩnh viễn, cuộc sống của Tản Đà vốn nghèo túng lại càng trở nên thiếu thốn hơn, phải chạy ngược chạy xuôi để kiếm sống. Có khi người ta thấy ông ở khu Bạch Mai dạy chữ Nho. Có lúc ở Hà Đông, đăng quảng cáo lên mấy tờ báo: "Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội - Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu". Năm 1938, ông còn mở cả một phòng đoán số Hà Lạc để xem bói. Được tôn vinh và qua đời. Những năm cuối đời trải qua hắt hiu, buồn thảm như thế, nhưng Tản Đà còn được an ủi là ông bỗng được mọi người quan tâm trở lại. Phe "thơ mới" sau chiến thắng, đã không còn đả kích Tản Đà. Họ bắt đầu lật lại những gì Tản Đà đã cống hiến xưa nay, họ ca ngợi Tản Đà, xem ông như một ông Thánh của làng thơ... Tờ Ngày nay của Tự Lực văn đoàn, trước kia chê ông tới không còn chỗ chê, thì nay lại mời ông cộng tác, hết lời ca ngợi những bài thơ Đường do ông dịch. Lúc này sức khỏe của Tản Đà suy yếu, ông dành hết tâm sức cho việc dịch thuật và biên tập: Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh (Tân Dân xuất bản, 1937), "Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện" (in năm 1940, sau khi ông mất), "Thời hiền thi tập", "Khổng Tử lược truyện" (đã thất lạc)... Ngày 7 tháng 6 năm 1939 (tức 20 tháng 4 năm Kỷ Mão), ông mất (50 tuổi) sau một thời gian chống chọi với bệnh gan, trên cái giường nát tại nhà riêng số 71 Ngã tư Sở, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay là quận Đống Đa, Hà Nội), để lại vợ và bảy đứa con. Di thể của ông được an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện (nay thuộc Thượng Đình, Thanh Xuân, Hà Nội). Nghe tin Tản Đà mất, làng văn nghệ trong nước vừa yên ắng sau vụ "thơ mới - cũ" lại trở nên xôn xao. Một loạt các bài báo tưởng niệm Tản Đà được ra mắt ngay sau đó: Khái Hưng có "Cái duyên của Tản Đà", "Vài chuyện vui về thi sĩ Tản Đà", Xuân Diệu có "Công của thi sĩ Tản Đà", ông Lâm Tuyền Khách có "Một tháng với Tản Đà: đời làm báo của Tản Đà", Lưu Trọng Lư có "Bây giờ, khi nắp quan tài đã đậy lại", Phan Khôi có "Tôi với Tản Đà thi sỹ", Nguyễn Tuân có "Tản Đà, một kiếm khách"..v..v. Những bài viết này thể hiện sự kính trọng, quý mến đối với con người Tản Đà, người mà cách đây vài năm còn bị họ đả kích, chế giễu. Năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân cho in tác phẩm "Thi nhân Việt Nam" nổi tiếng, đã cung kính đặt Tản Đà lên ngồi ghế "chủ suý" của hội tao đàn, ở những trang đầu tiên, như một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước vào một giai đoạn tươi đẹp mới. Năm 1963, di hài của Tản Đà đã được cải táng về cánh đồng Cửa Quán, thôn Hội Xá (quê vợ), xã Hương Sơn, tỉnh Hà Tây. Con người của Tản Đà. Ngoài tài làm thơ, nhân cách của Tản Đà cũng rất được nhiều nhà nghiên cứu. Khái Hưng, lúc đầu khi chưa hiểu thơ Tản Đà, cũng rất thích ông nhờ vào tính cách, hay là thi sĩ Bùi Giáng trong "Đi vào cõi thơ": chê thơ Tản Đà "không có gì đặc sắc", song lại muốn Tản Đà sống lại để "nhậu một trận lu bù", và Trương Tửu ngay sau khi Tản Đà mất, cho ra một cuốn sách viết về Tản Đà là "Uống rượu với Tản Đà", trong đó kể lại nhiều câu chuyện làm nổi lên những phẩm chất của ông, ông gọi Tản Đà là Epicurien của Việt Nam. Nguyễn Tuân, một người lập dị không kém và cũng rất khâm phục Tản Đà, trong bài "Tản đà - một kiếm khách" phác họa ra một người sống cô độc ngoài hải đảo, cách xa trần thế, tưởng như một vị trích tiên. Bên cạnh đó cũng có nhiều người tỏ ý "kính nhi viễn chi", thậm chí không chịu nổi tính cách của Tản Đà. Vũ Bằng nói: "Người như Tản Đà để ở xa mà kính trọng cảm phục thì được, chứ ở gần thì không thể nào chịu nổi!". Lưu Trọng Lư nhận xét: "Gặp Tản Đà một bận thì thật là một điều khoái trá vô cùng, gặp ông ấy lần thứ hai thì vẫn còn là một cái vui thích đã bắt đầu gượng gạo, và gặp đến lần thứ ba thì là một điều khó chịu. Và lần thứ tư, thứ năm, v.v... thì xin thú thực là một... tai nạn". Phan Khôi, được xem là khắc tinh với Tản Đà trên văn đàn, trong "Tôi với Tản Đà thi sỹ" viết: "Cái lối đánh chén của ông Hiếu kề cà mất thì giờ lắm, tôi không chịu được, nên ít khi tôi ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hỏa lò để ở bàn mà tự làm lấy món ăn, có khi mãn một tiệc ăn người nhà phải thay than trong hỏa lò đến năm sáu bận. Thường thường một mình ông vừa ăn uống lại vừa viết nữa. Ông cho có thế mới là thú.". Chính Tản Đà cũng thường tự coi mình là "Khổng tử chi đồ", "trích tiên", một thế ngoại cao nhân, tỏ ra khác biệt với người dương thế. Ông thường làm những chuyện xưa nay hiếm: theo lời Ngô Tất Tố, lần vào Sài Gòn viết báo, Tản Đà đem theo vợ con nhưng cả lúc đến lẫn lúc đi, vợ con ông gửi cho Ngô Tất Tố thu xếp cả. Ngô Tất Tố là bạn thân của Tản Đà, có lần phác họa về con người ông: ""Không có tiền thì rầu rĩ, oán trách, rũ người ra như con cú, thế mà một khi có tiền thì lại không muốn làm việc gì hết, chỉ uống và ăn, hết ăn lại uống. Chưa uống thì bảo không có rượu như cái máy không xăng nhớt không chạy được, uống vào say rồi thì nằm khoèo ra ngủ và lý luận một mình rằng say mà làm việc thì hỏi đời còn có cái gì thú nữa?". Tản Đà còn có tính tự phụ, không biết sửa sai, lại thích nghe nịnh nọt, Ngô Tất Tố kể: "không biết nghe lời anh em khuyên bảo. Cái số anh em thành thực khuyên ông rất hiếm, còn cái số nâng ông lên, sợ cái tài ông mà không dám làm mích lòng ông thì cả đống. Vì có nhiều kẻ nịnh ông một cách mù quáng như thế, ông bị hại mà không biết, mỗi ngày mỗi tự phụ thêm lên"...". Đa phần những người thân với Tản Đà, thường cho rằng ông rất khó gần. Điển hình là Ngô Tất Tố, người bạn thân nhưng đã tuyệt giao với ông trong suốt 10 năm cuối đời. Chuyện tình cảm. Trong cuộc đời của Tản Đà, người ta đếm được có bốn mối tình đã mang lại cho ông nhiều cảm xúc. Đầu tiên là mối tình tuyệt vọng với cô gái họ Đỗ ở phố hàng Bồ. Đây là mối tình trong trắng và say đắm, nhưng không có kết cuộc tốt đẹp. Mối tình này đã làm ông đau khổ và tạo nên nhiều thi hứng, để làm nên những câu thơ đặc sắc: Trong cuốn "Giấc mộng con", ông đã viết một bài văn để tả mối tình này. Ông mô tả: ""ở phố Hàng Bồ số nhà hơn hai mươi về dãy bên lẻ có một người con gái ngồi bán hàng tạp hoá, không biết có phải là tuyệt sắc hay không mà tự con mắt mình khi bấy giờ thì như ngoài người ấy không có ai là con gái"...". Tuy nhiên, do không có tiền cưới hỏi mà chuyện thi cử lại bất thành, Tản Đà đành chấm dứt cuộc tình thơ mộng. Cô gái xuất giá, Tản Đà viết: ""Đời đáng chán hay không đáng chán? Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm". Đây là chuyện tình đã gây ảnh hưởng nhiều nhất tới Tản Đà. Sau khi chia tay mối duyên đầu, ông trở nên chán nản, buồn bã. Để tìm khuây khoả, ông đi nhiều nơi: Việt Trì, Hòa Bình... Những câu thơ làm trong giai đoạn đau khổ này của Tản Đà đã vô tình mở đầu cho trào lưu văn học lãng mạn ở Việt Nam. Trước đó ít ai tả những nỗi buồn sâu kín, những nỗi chán đời rất trần tục như: Nhưng ngoài cô gái hàng Bồ mà người ta thường nhắc tới ra, theo Nguyễn Khắc Xương, còn có ít nhất ba mối tình thực nữa mà Tản Đà đã ghi lại trong thơ. Đó là mối tình với cô con gái út ông tri phủ Vĩnh Tường, cô nữ sinh 13 tuổi ở Nam Định, và cả cô đào Liên, người sắm vai Tây Thi trong vở kịch "Cô Tô tàn phá" do ông soạn giả kiêm đạo diễn. Những người tình này đều được ghi lại trong tập văn xuôi "Giấc mộng con". Trên là tình thực, còn tình "mộng", Tản Đà có rất nhiều. Đó là những mối tình với Tây Thi, với Chiêu Quân, với Ngọc Nữ... mà người ta thường thấy trong "Khối tình con". Đặc biệt, còn có những cuộc tình nửa thực, nửa mộng, với những "tình nhân không quen biết". Khoảng năm Nhâm Tuất (1922), vào hội chùa Hương, Tản Đà do không có chi phí để đi hội, ông nhớ hội chùa, nhớ rau sắng, làm ra mấy câu thơ: Bài thơ phổ biến trên báo. Đến cuối tháng, ông nhận một bưu kiện là một bó rau sắng và một bài thơ, nhưng không ghi địa chỉ người gửi. Ông cảm kích, gọi người gửi ấy là "Tình nhân không quen biết" và làm thơ gửi tặng bằng cách đăng báo. Trước đó, ông đã viết nhiều bài thơ gửi "Tình nhân không quen biết", với ý muốn tìm kiếm một bạn tri âm tri kỷ trên khắp nước Việt Nam. Xem những câu chuyện trên, người ta tin Tản Đà không nói ngoa khi ông thường nhận mình là "giống đa tình". Những mối tình đa dạng đã chắp cánh cho thi tài của ông, khiến ông trở thành một nhà thơ mở màn cho trào lưu lãng mạn sau này (phong trào thơ mới), với những bài thơ ghi dấu sự chuyển giao giữa hai thời đại. Sự nghiệp. Thơ. Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có một nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà. Kể cả khi phong trào thơ mới xảy ra, thì Tản Đà, sau khi "phái thơ mới" bị đả kích kịch liệt lại được chính những người đả kích mời về ngồi chiếu trên. Trong cuốn "Thi nhân Việt Nam", cuốn sách bình luận thơ mới rất giá trị, Hoài Thanh và Hoài Chân đã đặt bài tưởng niệm Tản Đà lên những trang đầu, với lời lẽ tôn kính. Thơ cũng là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp phong phú của Tản Đà. Ông được coi là một thi sĩ, hơn hết các nghề khác. Ông sáng tác rất nhiều thơ, nhiều thể loại - cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ ông hay diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với người tri kỷ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ngầm phê phán hiện thực. Thơ Tản Đà thường làm theo thể thơ cổ phong, cũng có khi làm bằng Đường luật, đường luật phá thể, lục bát, song thất lục bát. Ông còn có tài sáng tác thơ dựa trên từ khúc, một hình thức âm nhạc của Trung Hoa, những bài "Tống biệt", "Cảm thu tiễn thu" nhờ sự phá cách, phối hợp nhiều thể loại thơ, có thể coi là cách tân về hình thức khá táo bạo. Một kiểu văn vần đặc biệt nữa mà ở đó, Tản Đà được sánh ngang với Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát..., là hát nói hay ca trù (nay được xem như một thể loại thơ). Hát nói của Tản Đà thể hiện một triết lý sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man mác nỗi sầu nhân thế. Ngoài thơ tự sáng tác, thơ dịch của Tản Đà cũng được đánh giá rất cao. Những bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường của Tản Đà thường được cho là hay hơn các bản dịch khác, có bài hay hơn cả nguyên tác, vì sự tự nhiên, không bị gò bó mà chuyển tải cả tâm hồn mình vào đó. Ngoài thơ Đường, ông còn dịch những bài thơ dài như Trường Hận ca, dịch ra thể Song thất lục bát, được đánh giá rất cao, Bùi Giáng trong cuốn "Đi vào cõi thơ" tuy không đề cao thơ Tản Đà nhưng gọi bản dịch này là "vô tiền khoáng hậu". Văn. Chủ yếu là thể loại văn xuôi. Ngoài ra, còn có tùy bút, bút ký... Đả kích trực diện vào bọn quan lại bất lương, đồng thời bảo vệ những người nghèo. Báo chí. Làm báo chí là một phần trong sự nghiệp rất phong phú của Tản Đà. Ông có phong cách làm báo đặc biệt, thường xuất hiện trong những cuộc bút chiến với những giọng điệu khó lẫn. Từng là cộng tác viên cho "Nam Phong", sau đó do bất đồng với Phạm Quỳnh mà sang làm chủ bút cho "Hữu Thanh". Về sau ông sáng lập ra "An Nam tạp chí" nhưng ba lần phải chịu cảnh đình bản vì lý do tài chính. Ở giai đoạn cuối đời còn cộng tác với "Văn học tạp chí" và cả "Ngày nay", tờ báo trước đó đã mạt sát ông nặng nề. Có thể nói sự nghiệp báo chí của Tản Đà, cũng như cuộc đời của ông, thường gặp gian nan trắc trở. Song những đóng góp của ông trong thời buổi sơ khai của báo chí Việt Nam, là một cái giá trị mà người ta phải công nhận. An Nam tạp chí. "Xem chi tiết hơn trong bài An Nam tạp chí" Tản Đà người sáng lập ra tờ báo chuyên về văn học đầu tiên của Việt Nam: tờ "An Nam tạp chí". Số đầu tiên ra ngày 1 tháng 7 năm 1926, Tản Đà làm chủ báo, thư ký tòa soạn là Ngô Tất Tố. Tờ báo xem như gắn liền với sự nghiệp làm báo của Tản Đà, song nó không hoạt động yên ổn như ý, cho đến ngày chính thức "chết", tờ báo đã trải qua ba lần đình bản. "An Nam tạp chí" đình bản lần đầu tiên vào tháng 3 năm 1927, sau khi ra được 10 số. Sau đó, đến năm 1929, Tản Đà hợp tác với một người ở Hàng Gai, cho tái bản tạp chí. Theo ông Lâm Tuyền Khách, sự tái bản này là ý của người kia, ra tạp chí để có dịp thu nợ vì Tản Đà nợ ông một món không dễ trả. Trên bìa "An Nam tạp chí" lúc ấy ghi Tản Đà là "chủ sự", còn ông nọ là "chủ nhân". Cũng theo ông Lâm Tuyền Khách, còn một lý do nữa là nếu ngày ấy An Nam tạp chí không tái bản thì sẽ bị thu giấy phép. Lần tái bản này chỉ ra được vài số rồi lại đình bản. Đến tháng 4 năm 1931, "An Nam tạp chí" lại tái bản, lần này hoạt động đến ngày 1 tháng 3 năm 1933 thì đình bản vĩnh viễn vì lý do tài chính. Tản Đà là cây bút chủ lực của "An Nam tạp chí", cách làm báo của ông có thể coi là khá đặc biệt. Theo Lâm Tuyền Khách, ban ngày ông không làm việc, chỉ uống rượu, nói chuyện hay đọc sách, đến hai - ba giờ đêm ông mới trở dậy thắp đèn viết cho đến sáng. Trong tờ báo nhiều khi độc giả thấy những bài viết đang liền mạch, tự nhiên bị bỏ dở trong một thời gian dài mới thấy Tản Đà xuất hiện viết tiếp. Tờ "An Nam tạp chí" tuy tổng cộng chỉ có 48 số, lại hoạt động thất thường, thiếu chuyên nghiệp nhưng được coi là một trong những tờ đầu tiên có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn học Việt Nam thời cận đại theo khuynh hướng hiện thực. Bên cạnh đó nó thể hiện một cách kín đáo lòng yêu nước của Tản Đà, qua những bài tiểu luận, bài thơ đăng rải rác. Phong cách văn chương. - Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái. - Có thể xem thơ văn ông như một gạch nối giữa hai thời văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại. - Ông có lối đi riêng vừa tìm về ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc vừa có những sáng tạo độc đáo tài hoa. Phát ngôn. Những vần thơ tự bạch. Ông lên trời, xưng danh với trời: Khi bước vào sân khấu cuộc đời ông luôn tự hào về quê hương Lấy bút danh Tản Đà, ông hăm hở lập chí Nhưng tính ông lại ham chơi, nên ngòi bút cũng ngang tàng phóng khoáng Cũng ngòi bút ngang tàng ấy, khi hỏng thi ở trường Nam Định ông tự trào Thơ đục vào đá. Từ Đạm là tuần phủ Ninh Bình. Năm 1924, cho đục vào đá núi Non Nước, một bài thơ Nôm: Năm sau Từ Đạm lại cho đục một bàn cờ và một bên đục hai lốt bàn chân của ông ta. Tản Đà thăm cảnh Dục Thúy Sơn, thấy những trò dởm của Từ Đạm, ông bực mình liền thuê thợ khắc đá, khắc bài thơ của mình cạnh bài thơ Từ Đạm. Bài thơ như sau: Đánh giá. Tham khảo. Nguyễn Khắc Xương (con trai trưởng của Tản Đà, biên tập), Tuyển tập Tản Đà, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1996
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Tết Nguyên Đán (còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay đơn giản là Tết) là dịp lễ đầu năm mới theo âm lịch của các nước gia khanh Đông Á như Trung Quốc, Đài Loan (gọi là Tết Trung Quốc), Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên (gọi là Seollal), và các nước Đông Nam Á như Singapore, Malaysia, Indonesia và Việt Nam. Tại Việt Nam trước ngày Tết còn có phong tục như "cúng Táo Quân" (23 tháng Chạp Âm lịch) và "cúng Tất Niên" (29 hoặc 30 tháng Chạp Âm lịch). Vì Tết tính theo Âm lịch nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (hay Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 20 tháng 2 Dương lịch mà rơi vào giữa những ngày này. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng). Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 (hay mùng 1) tháng Giêng âm lịch trên toàn nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Sắm cây đào và cây quất ở Bắc Bộ, hay cây mai ở Trung Bộ và Nam Bộ được coi là sự chuẩn bị không thể thiếu trong những ngày giáp Tết. Sau đó, trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, dành những lời chúc mừng, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên. Từ nguyên. Từ nguyên "tết" trong tiếng Việt là âm Hán Việt cổ của chữ 節, mà âm Hán-Việt hiện đại đọc là "tiết". "Tết" và "tiết" đều bắt nguồn từ âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ “節”. “tết” xuất hiện trước “tiết”, vào giai đoạn chữ "tiết" 節 có âm đọc trong tiếng Hán trung cổ là /tết/. “Tiết” xuất hiện sau “tết”, vào giai đoạn âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ "tiết" 節 đã biến đổi thành /tiết/. Ban đầu cả "tết" và "tiết" đều được phát âm giống như âm đọc của chữ "tiết" 節 trong tiếng Hán ở thời điểm chúng được tiếng Việt vay mượn, về sau do sự biến đổi của ngữ âm tiếng Việt cách phát âm của chúng đã thay đổi thành "tết" và "tiết" như hiện nay. "Tết Nguyên Đán" vốn không phải là "Tiết Nguyên Đán" trong 24 điểm "Tiết khí" (chữ Hán: 節氣) của Thời tiết phân chia theo lịch Mặt trăng (Nông lịch). Từ “nguyên” 元 trong “Nguyên Đán” 元旦 có nghĩa là sự khởi đầu hay là sơ khai và "đán" 旦 có nghĩa là buổi sáng sớm hay là bình minh. Nghĩa gốc của từ “Nguyên Đán” 元旦 là chỉ "Buổi sáng đầu tiên/Ngày đầu tiên (tức ngày mồng một) của một năm Nông lịch". Hiện nay, tại Trung Quốc, Tết âm lịch không còn được gọi là Tết Nguyên Đán nữa. Tại Trung Quốc đại lục, thời Dân quốc, năm thành lập Trung Hoa Dân quốc (năm 1912) được lấy làm mốc khởi thủy để định tên năm dương lịch. Năm thành lập Trung Hoa Dân quốc được coi là Trung Hoa Dân quốc năm thứ nhất. Năm sau Dân quốc năm thứ nhất, tức là Công nguyên năm 1913, là Dân quốc năm thứ hai, năm 1914 là Dân quốc năm thứ ba, năm 1915 là Dân quốc năm thứ tư... Lấy số năm Công nguyên trừ cho 1911 thì sẽ ra số năm Dân quốc tương ứng của năm Công nguyên đó. Ngày 27 tháng 9 năm 1949, tại Hội nghị Toàn thể Khoá I Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc quyết định gọi tên các năm dương lịch theo thứ tự trong kỷ nguyên Công lịch, "chính thức quy định ngày 1 tháng 1 dương lịch (tức Tết Tây) gọi là “Nguyên đán”", ngày mồng một tháng giêng nông lịch gọi là “Xuân tiết” (chữ Hán: , pinyin: chūnjié) (nghĩa là lễ hội mùa xuân). Hai miền Nam Bắc Việt Nam từ sau năm 1975 đều cùng sử dụng múi giờ GMT+7 (trước đó Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sử dụng múi giờ GMT+7, còn Việt Nam Cộng hoà sử dụng múi giờ GMT+8 giống như Trung Quốc), Trung Quốc thì sử dụng múi giờ GMT+8. Do Việt Nam và Trung Quốc sử dụng hai múi giờ khác nhau, âm lịch Việt Nam và âm lịch Trung Quốc cũng có đôi chút khác biệt, có lúc thì chỉ lệch có một giờ, có lúc thì lệch đến một tháng. Vì vậy mà có năm Việt Nam đón Tết cùng ngày với Trung Quốc, có năm lại đón Tết trước hoặc sau Trung Quốc. Lịch sử. Nguồn gốc tết ra đời. Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thừa") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán. Sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán. Năm mới của Việt Nam bị ảnh hưởng bởi nền văn minh lúa nước cổ đại. Việt Nam. Theo "Đại Nam nhất thống chí" nhà Nguyễn , ở các huyện Bất Bạt và Mỹ Lương (Xứ Đoài) hàng năm lấy tháng 11 làm đầu năm. Theo một số nhà nghiên cứu vào thời Hùng Vương, Tết Nguyên đán diễn ra vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch) khi tiết trời chuẩn bị se lạnh. Do vậy, Tết Đoan ngọ vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch rơi vào đúng giữa năm, tiết trời bắt đầu nắng nóng. Sau này, do ảnh hưởng từ Trung Quốc người Việt chuyển sang ăn Tết tháng Dần (tháng 1 âm lịch). Tuy nhiên ở vùng đất Tổ như Sơn Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc vẫn có những nơi ăn Tết hoặc kỷ niệm ngày đầu tháng 11 như: xông đất, mở cửa rừng, ăn những loại đất có khoáng chất vào người … Cũng trong sách "An Nam chí lược" của Lê Tắc, người Việt có phong tục khác biệt với Trung Quốc, dân thường hay vẽ mình, ưa uống rượu, dùng trầu cau đãi khách, hay ăn dưa mắm, những vật dưới biển và đã tổ chức lễ Tết. Ông còn ghi chép rằng dân Việt đón lễ Tết từ tháng giêng cho đến tháng 3 âm lịch, chơi nhiều trò chơi như đá bóng, đá cầu, đánh cờ, đấu vật và tổ chức tế lễ. Một học giả khác là Lê Quý Đôn chép trong sách Kiến văn tiểu lục rằng nước Việt thời nhà Lý, đã thực hiện các lễ nghi quan trọng như lập Đàn phong vân để cầu mưa, lập đàn xã tắc để cầu cho quanh năm được mùa, dùng ngày lập xuân để làm lễ nghinh xuân. Lê Quý Đôn viết rằng thời Hồng Đức (1442-1497) lễ Nguyên đán là ngày lễ quan trọng bậc nhất, trăm quan phải vào chầu vua. Một số khu vực khác. Đông Á. Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ năm Tam Hoàng Ngũ Đế 2852 TCN thay đổi theo từng thời kỳ. Tuy nhiên, Tam Hoàng Ngũ Đế cũng chỉ là những nhân vật truyền thuyết. Lịch sử Trung Quốc cũng cho rằng Tết được thay đổi qua các thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ III TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Song những chi tiết này chỉ tìm thấy trong sách sử Trung Quốc, không có các nguồn tư liệu khác để kiểm chứng. Theo các nghiên cứu gần đây, thực tế cư dân Bách Việt ngày xưa ăn Tết vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch ngày nay) đến thời Hán mới chính thức đổi thành tháng Dần (tháng Giêng). Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng một trong khi miền Nam thì ngày 30 tháng 1). Từ năm 1976, cả hai miền nam bắc mới dùng chung múi giờ GMT+7. Không chỉ có Trung Quốc và Việt Nam có Tết Nguyên Đán, mà một số quốc gia ở Đông Á cũng có Tết này. Chẳng hạn, đối với người Đài Loan, Tết Nguyên Đán là dịp lễ quan trọng nhất, là những ngày mà mọi người ở Đài Loan quây quần bên nhau, cùng nhau đoàn viên sau một năm làm việc vất vả. Họ có lễ hội thả đèn lồng được tổ chức tại làng cổ Thập Phần vào dịp này. Tết Nguyên Đán ở Hồng Kông cũng mang nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc nhưng cách đón Tết của người Hồng Kông vô cùng đặc sắc khi pha trộn giữa nền văn hóa truyền thống Phương Đông với nét văn hóa phóng khoáng, mới mẻ của phương Tây. Lúc chuẩn bị đón Tết, người dân Hồng Kông cũng lau dọn nhà cửa sạch sẽ, trang trí giấy đỏ. Trẻ em thì được lì xì, người lớn chúc tụng nhau một năm mới hạnh phúc. Trong văn hóa Hàn Quốc, ngày lễ lớn nhất trong năm cũng chính là Tết Nguyên Đán, hay còn gọi là Seollal, ngày xua đuổi linh hồn xấu xa, điều xui xẻo và chào đón điều tốt lành. Tương tự như ở Việt Nam, Tết bắt đầu từ ngày 1/1 Âm lịch và thường kéo dài trong 3 ngày. Tết của người dân bán đảo Triều Tiên kéo dài hàng tuần với nhiều phong tục truyền thống như dán hình động vật lên cửa để cầu may, xem tướng số, đón mặt trăng… Ngày lễ Seollal đã từng bị bãi bỏ trong khoảng thời gian dài, nhưng nay được phục hồi và công nhận là ngày lễ quốc gia ở Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc. Tết Âm Lịch hay còn gọi là Tết Tháng Trắng, Tết Nguyên Đán là một trong những dịp lễ lớn nhất trong năm ở Mông Cổ. Đây là thời khắc báo hiệu mùa đông giá lạnh đã kết thúc, là dịp để gia đình sum vầy và thắt chặt mối quan hệ. Những ngày đầu năm, người Mông Cổ sẽ chỉ mặc trang phục dân tộc. Họ quay quần cùng nhau, trò truyện, vui đùa, trao đổi các món ăn và thưởng thức chúng. Ở Nhật Bản mặc dù đã ngừng đón Tết theo âm lịch để chuyển sang đón Tết theo dương lịch (xem Tết Nhật Bản) từ năm 1873 trong thời kỳ Minh Trị duy tân, tuy nhiên ở một số địa phương phía nam Nhật Bản như Okinawa thì người dân vẫn đón Tết theo âm lịch và một số lễ hội Tết âm lịch vẫn được tổ chức ở một vài địa điểm. Nhưng Tết âm lịch không được coi là ngày lễ quốc gia của Nhật Bản nên mọi người vẫn phải đi làm, đi học. Đông Nam Á. Ở Singapore, người dân đón Tết truyền thống cùng thời điểm với Tết Nguyên đán của người Việt Nam. Những ngày Tết ở Singapore thường diễn ra với Lễ hội mùa xuân với 3 sự kiện nổi bật: Lễ hội Hoa đăng, Lễ hội Singapore River Hongbao và Lễ hội đường phố Chingay, kéo dài từ mùng 1 Tết cho đến 15 tháng Giêng âm lịch. Mỗi lễ hội đều mang đậm chất xuân, vui tươi và có rất đông người dân tham gia. Ở Malaysia, một phần tư dân số Malaysia là người Hoa kiều, vì vậy Tết Nguyên đán cũng là một dịp rất quan trọng với họ. Nó cũng được coi là kỳ nghỉ chính thức tại quốc gia này. Các giai đoạn chính trong Tết. Người Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều phải thật sớm và mới. Do đó trước ngày Tết khoảng hơn 2 tuần, các gia đình đã sắm sửa cho ngày Tết. Họ thường quét dọn, trang trí nhà cửa, mua hoa, sắm thức ăn... thật chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả những vật dụng không cần thiết hoặc bị cho là đem lại điềm gở cũng bị vứt bỏ. Rằm tháng Chạp. Rằm tháng Chạp là lễ cúng rằm của tháng tổng kết cuối cùng của một năm, chuẩn bị cho lễ cúng ông Táo và lễ Giao Thừa đón năm mới. Chính vì vậy, nhiều gia đình Việt coi trọng lễ này hơn các lễ cúng rằm khác trong năm. Các lễ nghi và thủ tục cúng rằm tháng Chạp cũng được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng hơn. Rằm tháng Chạp vào ngày 15 tháng cuối cùng âm lịch, tức là chỉ còn 8 ngày nữa đến Tết ông Táo, và khoảng nửa tháng nữa là đến lễ cúng tất niên đón năm mới. Cúng ông Công ông Táo. Công việc chính thức sửa soạn đón Tết của người Việt Nam thường bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo quân). Theo quan điểm của người Việt thì ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà con người đã làm trong năm cũ và báo cáo với Ngọc Hoàng những vấn đề tốt xấu của gia chủ. Ông Táo được cúng vào trưa hoặc chiều ngày 23 tháng Chạp âm lịch hàng năm. Lễ cúng gồm có hương (nhang), nến, hoa quả, vàng mã và hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà kèm theo ba con cá chép (cá chép thật hoặc cá chép làm bằng giấy kèm theo cỗ mũ). Theo sự tích ông Táo, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp Ngọc Hoàng. Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu, trong khi ở thành phố, phong tục này đã bị lãng quên. Theo phong tục, cây nêu được dựng lên để chống lại quỷ dữ và những điềm gở. Cây nêu thường được treo hoặc trang trí thêm những thứ được coi là để dọa ma quỷ như: tỏi, xương rồng, hình nộm và lá dứa. Trước ngày Tết, người Việt cũng chuẩn bị bánh chưng, bánh giầy còn ở miền nam thì loại bánh phổ biến là bánh tét và các món ăn thịnh soạn để dâng lên ông bà tổ tiên. Tất niên. Ngày Tất niên có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu). Đây là ngày gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm buổi tất niên. Buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng Giêng, giờ Tý (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, nó được gọi là "Giao thừa". Để ghi nhận thời khắc này, người ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia tiên tại bàn thờ ở trong nhà mình và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ thì gọi là cúng "Ông Ba Mươi". Một số cộng đồng khác thì có một phần cỗ dành để cúng chúng sinh, cúng những cô hồn lang thang không nơi nương tựa. Sắp dọn bàn thờ. Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông vải). Cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau tùy theo từng nhà. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng và hương là tinh tú. Một bát hương đặt chính giữa (có thể có hai bát hương nhỏ hơn đặt đối xứng hai bên). Phía sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Có nhà cũng cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã) với sự cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc và buôn bán lãi gấp nhiều lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu và vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen hai cái đĩa giữa đèn và hương để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó). Trước bát hương để một bát nước trong để coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu và dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới. Giao thừa. Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Vào dịp này, các địa phương thường tổ chức bắn pháo hoa ở những địa điểm rộng rãi, thoáng mát. Cúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Theo tục lệ cổ truyền thì "Giao thừa" được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (chữ Hán: 天兵, tức 12 vị Hành khiển). Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển (行遣) cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại. Mười hai vị Hành khiển và Phán quan (判官) gồm: Mâm lễ được sắp bày với lòng thành kính tiễn đưa người Nhà Trời đã cai quản mình năm cũ trở lại Thiên đình và đón người mới xuống sẽ làm nhiệm vụ cai quản Hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Trên chiếc hương án có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm các chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, bánh giày, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu hoặc nước và vàng mã. Các quan mặc dầu phút bàn giao bận rộn khẩn trương nhưng vì là... người nhà trời nên có tài thấu hiểu ngay "ruột gan" của gia chủ. Nếu có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót, các vị chỉ nhìn dấu hiệu ở khói hương, lửa đèn là biết ngay, và lập tức các vị dông thẳng, không thèm ngó ngàng gì đến vật cúng giao thừa của các nhà cầu lợi ấy. Trái lại, những nhà chân chất, thật thà, sống bằng lao động, ăn ở tử tế thì có khi chỉ cần chén rượu, nén hương (như Thổ công đánh tín hiệu qua hương đèn), các vị có chức trách biết ngay mà vui vẻ thưởng thức, dốc lòng phù hộ. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa. Cỗ mặn gồm có bánh chưng, giò, chả, xôi gấc, thịt gà, xôi các loại, rượu, bia và các loại thức uống khác. Các món ăn mặn khác tùy theo nhu cầu của gia đình. Cỗ ngọt và chay bao gồm Hương, hoa, đèn nến, bánh kẹo, mứt Tết. Khi cúng Giao thừa trong nhà, các thành viên trong gia đình thường đứng trang nghiêm trước bàn thờ (không cần tất cả, chỉ cần gia chủ và vài ba người nữa) để khấn tổ tiên và xin được các cụ phù hộ độ trì trong nhà mới và cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ thường khấn thần Thổ Công để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ông là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái). Các hoạt động chính. Ba ngày Tân niên. "Ngày mồng Một tháng Giêng" là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng "Tân niên", ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc Tết các ông bố theo tục: "Mồng Một Tết cha". "Ngày mồng Hai tháng Giêng" là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, người ta chúc Tết các bà mẹ theo tục "Mồng Hai Tết mẹ". Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục "Đi sêu". "Ngày mồng Ba tháng Giêng" là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục "Mồng Ba Tết thầy". Trong những ngày này người ta thường đi thăm viếng, về quê, hỏi thăm nhau những điều đã làm trong năm cũ và những điều sẽ làm trong năm mới. Đối với cộng đồng người Công giáo Việt Nam, ba ngày đầu năm họ thường tham dự thánh lễ ở nhà thờ với ý cầu nguyện cho từng ngày: mồng Một cầu nguyện bình an cho năm mới, mồng Hai cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ nếu còn sống và tưởng nhớ nếu đã qua đời, mồng Ba cầu nguyện thánh hóa cho công ăn, việc làm trong năm mới được tốt đẹp. Xông đất. Xông đất (hay "đạp đất", "mở hàng") là tục lệ đã có lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người quan niệm ngày Mồng Một "khai trương" một năm mới. Họ cho rằng vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt. Cách chọn tuổi xông đất: Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới. Thời xưa, chỉ có hai cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuổi hợp tuổi với chủ nhà. Xuất hành và hái lộc. Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần... Tại miền Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục "hái lộc". Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân. Tuy nhiên việc hái lộc ngày nay đã có những quan niệm trái chiều so với trước đó là: Những việc làm này không biết có mang lại may mắn không nhưng nó phản ánh mặt xấu của văn hóa ứng xử của những người trong cuộc. Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc, người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi và có thể đoán được năm mới hên hay xui chẳng hạn: Chúc Tết. Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày "Chính đán", con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc Tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là tăng thêm một tuổi). Mừng tuổi. Lì xì: người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay "hồng bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Theo truyền thuyết: Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ (chứ không phải là tiền chẵn), ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều. Hóa vàng. Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này, người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, đặng phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia. Tục hóa vàng ngày mồng 4 hoặc mồng 5, không ít gia đình vẫn theo truyền thống cũ: làm cơm, đốt vàng mã gửi người thân khuất bóng lời cầu nguyện một năm mới nhiều may mắn. Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, tục "hoá vàng" dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới vô hình bên kia sống gần với dương gian. Vào ngày mồng 4 và mồng 5 tháng Giêng, người ta kiêng xuất hành vì đây là ngày không tốt. Khai hạ. Ngày mồng 7 tháng Giêng là ngày cuối cùng của chuỗi lễ hội Tết. Trong ngày này, người Việt làm lễ hạ Cây nêu, gọi là "lễ Khai hạ", kết thúc dịp Tết Nguyên đán và bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới từ ngày mồng 8 hoặc mồng 9 tháng Giêng. Một số hoạt động Tết truyền thống. Sắm Tết. Chợ Tết là những phiên chợ có phiên họp chợ vào trước Tết từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho Tết Nguyên đán, như lá dong để gói bánh chưng, gạo nếp để gói bánh chưng hoặc nấu xôi, gà trống, hoa và các loại trái cây, dùng thờ cúng (ngũ quả) để cúng tổ tiên... Vì tất cả những người buôn bán hầu như sẽ nghỉ bán hàng trong những ngày Tết, những ngày đầu năm mới không họp chợ, nên phải mua để dùng cho đến khi họp chợ trở lại đưa đến mức cầu rất cao. Người Việt có câu "mồng bốn chợ ma, mồng ba chợ người" nên chợ được họp phiên đầu năm là mồng ba Tết (ngày 3 tháng 1 âm lịch). Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa Tết, những loại trái cây, đặc biệt là dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài... Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước giờ Ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. Kèm theo các chợ mua bán ngày giáp Tết đông đúc, nhiều nơi còn tổ chức các chợ hoa nhằm vui xuân. Hiện nay, nhiều chợ Gốm đã được mở vào ngày giáp Tết để phục vụ người dân. Dọn dẹp, trang trí. Mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi. Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: chuối, bưởi, đào, hồng, quýt hay là chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể thay thế bằng cam, lê-ki-ma, táo, mãng cầu. Nói chung, người miền Bắc không có phong tục khắt khe về mâm ngũ quả và hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc. Cũng như người miền Bắc, mâm ngũ quả của người miền Nam không quy định khắt khe phải có những loại trái cây gì, thường thì gồm mãng cầu Xiêm, sung, dừa, đu đủ, xoài với ngụ ý "cầu sung vừa đủ xài". Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu (kể cả khi đọc trại) như chuối - "chúi nhủi", cam - "cam chịu", lê - "lê lết", sầu riêng - ưu buồn, "bom" (táo), lựu - "lựu đạn"... và không chọn trái có vị đắng, cay. Cây nêu. Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai. Ở Gia Định xưa, sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: ""bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "lên nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ"". Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi". Tranh Tết. Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư... có khi là một chữ Hán ("Tâm" - 心, "Phúc" - 福, "Đức" - 德...). Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam và không chỉ người có tiền mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt. Câu đối Tết. Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Hán (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau: Câu đối thuộc thể loại "văn biền ngẫu", gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam. Ngoài ra, ngày nay vẫn còn tồn tại tục "xin chữ" lấy hên đầu năm, với việc mua những tấm thư pháp viết chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ (chữ Latinh), với mục đích ấy, nhiều phố ông đồ với những ông đồ viết những tấm thư pháp bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ đã được tái lập tại Sài Gòn và Hà Nội. Những năm gần đây, để chấn chỉnh tình trạng lộn xộn và kinh doanh cẩu thả, tại Văn Miếu, Hà Nội đã có những kỳ thi sát hạch các ông đồ trước Tết. Cây và hoa Tết. Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ...; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet, hoa đồng tiền... Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa kèn, huệ tây, lá măng, thạch thảo... cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý nghĩa sum họp cho bình hoa ngày Tết. Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc. Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân. Hoa mai, với miền Nam nước Việt, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới rất thích hợp môi trường cho hoa mai đơm bông nảy mầm mỗi dịp Xuân về Tết đến. Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hơn miền Bắc, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Đối với người miền Nam, nếu hoa mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm ngày mùng một Tết thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc sẽ đến với cả gia đình trong năm đó. Bên cạnh những cây hoa Tết, không thể không nhắc đến cây quất — loại cây thường được bày bố và trang trí tại phòng khách trong những ngày Tết. Cây quất Tết ngày càng có nhiều kiểu dáng cầu kỳ nhưng vẫn phải bảo đảm sự xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống. Ẩm thực ngày Tết. Thành ngữ Việt Nam có câu "Đói giỗ cha, no ba ngày Tết". Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho "già được bát canh, trẻ có manh áo mới". Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người mà nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ. Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là "ăn Tết". Ngoài cơm, ngày Tết còn có: Trong văn hóa-nghệ thuật. Thi ca. Tết, và các tục lệ, được nhắc đến rất nhiều trong ca dao Việt Nam: Tết cũng là đề tài cho nhiều văn, thi sĩ: Hay câu đối Tết như: Nhạc Tết. Dịp Tết là dịp vui vẻ nên không thể thiếu âm nhạc. Trong Tân nhạc Việt Nam có rất nhiều ca khúc sáng tác về chủ đề Tết và mùa Xuân. Trước đây có nhiều ca khúc xưa nổi tiếng như "Ly rượu mừng", "Đón xuân" của Phạm Đình Chương, "Xuân và tuổi trẻ" của La Hối, "Xuân họp mặt" của Văn Phụng, "Xuân đã về" của Minh Kỳ, "Anh cho em mùa xuân" của Nguyễn Hiền, "Mùa xuân đầu tiên" của Tuấn Khanh... Trong thời chiến tranh Việt Nam, có những ca khúc hùng ca cho người chiến sĩ, nung đúc tinh thần họ như bài "Xuân chiến khu" của Xuân Hồng ở miền Bắc, nhưng cũng có những ca khúc buồn nói về sự xa cách như "Xuân này con không về" của bộ ba nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân ở miền Nam. Thập niên 90, nhiều ca khúc vui tươi đã được phổ biến như "Mùa xuân đầu tiên" của Văn Cao, "Thì thầm mùa xuân" của Ngọc Châu, "Hoa cỏ mùa xuân" của Bảo Chấn, "Lắng nghe mùa xuân về" của Dương Thụ, "Ngày Tết quê em" của Từ Huy, "Mùa xuân ơi" của Nguyễn Ngọc Thiện, "Điệp khúc mùa xuân" của Quốc Dũng... Nhưng từ năm 2000 trở lại đây thiếu vắng những bài nhạc Xuân mới tạo được sự nổi tiếng mà thường là các ca sĩ chỉ hát nhạc cũ và phối âm lại, nhưng cũng có ca khúc đạt mức phổ biến cao như "Ngày xuân long phụng sum vầy" của Quang Huy (2011). Ngoài ra, Tết cũng là dịp để các nghệ sĩ thực hiện những show ca múa nhạc Tết và hài kịch phục vụ người ái mộ . Các hãng sản xuất phim cũng có phim Tết đặc biệt. Cụm từ "Tết" được nhắc đến rất nhiều lần trong bài hát ""Ngày Tết quê em" của Từ Huy: Và bài hát "Mùa xuân ơi"" của Nguyễn Ngọc Thiện nhắc nhiều lần cụm từ "Xuân xuân ơi": Phong tục, tập quán ngày Tết. Sinh hoạt ngày Tết. Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm. Đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới để làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hi vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó. Lễ hội Tết. Các lễ hội truyền thống khác như thi đấu cờ người; đua thuyền, đấu vật, đánh còn, múa lân, múa rồng, thi thả chim bồ câu... tùy theo bản sắc văn hóa của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày Tết với những phần "lễ" và phần "hội" chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú. Từ năm 2004, tại Thành phố Hồ Chí Minh có Đường hoa Nguyễn Huệ và Đường sách Tết tại phường Bến Nghé, Quận 1 và Hội hoa Xuân thường niên tại công viên Tao Đàn và từ năm 2009, tại Hà Nội có Lễ hội phố hoa Hà Nội tại phường Tràng Tiền và Lý Thái Tổ thuộc quận Hoàn Kiếm để trang hoàng hoa cho khách thưởng ngoạn, tuy không tổ chức hàng năm và phố Ông đồ ở Văn Miếu. Từ năm 2007, tại phường 7 thuộc địa phận thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang có Đường hoa Hùng Vương tổ chức hàng năm. Ngoài ra còn Đường hoa Bạch Đằng tại Đà Nẵng, Đường hoa Trấn Biên tại Biên Hòa, Đường hoa Bạch Đằng tại Bình Dương, Đường hoa 16/4 tại Ninh Thuận, Đường hoa Phú Mỹ Hưng tại Khu đô thị Phú Mỹ Hưng, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài hội Tết, nhiều địa phương còn tổ chức các lễ hội mùa Xuân đặc biệt, chẳng hạn như: Tại Hà Nội, vào ngày mùng 5 Tết, lễ hội Quang Trung được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc địa phận phường Quang Trung, quận Đống Đa và vào ngày mùng 6 là bắt đầu lễ hội Cổ Loa tại xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh, lễ hội chùa Hương tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, lễ hội đền Hai Bà Trưng tại huyện Mê Linh. Các nơi khác có Chợ Âm Dương mùng 4 ở phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và Chợ Viềng mùng 7 tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản và tại thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực thuộc tỉnh Nam Định, Hội xuân Núi Yên Tử ở xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh. Tại làng cổ Vân Luông thuộc phường Vân Phú nằm ở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ có hội ném đá, gọi là Ném Chài vào ngày 3 tháng giêng. Từ năm 1946 hội Ném Chài thôi tổ chức vì nguy hiểm tính mạng. Năm 2004 lễ hội được phục hồi nhưng thay ném đá bằng túi vải đựng cát. Tại xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ Chuộng tổ chức vào mùng 6 Tết, người dân đến mua bán một số sản vật nông nghiệp để lấy may, còn thanh niên thì đánh nhau để cầu may. Tín ngưỡng ngày Tết. Kiêng kỵ. Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người, có sự giống và khác nhau giữa các miền với niềm tin chính để giữ điều lành trong năm mới. Điển hình, người Việt có một số kiêng kỵ như sau: Miền Bắc Miền Trung Tết của người Việt xa quê hương. Người Việt sống ở nước ngoài nếu không có điều kiện về Việt Nam trong dịp Tết cũng tổ chức những hoạt động trong dịp Tết Âm lịch mang đậm truyền thống văn hóa Việt. Nhiều nơi có đông người Việt sinh sống như tại Mỹ, Úc, Pháp, Nga, Đức... người Việt sinh sống tại đây ăn Tết với bánh chưng gói và bán sẵn cũng như các món ăn được đưa từ Việt Nam sang như nước mắm Phan Thiết, cho đến củ tỏi, củ hành, rau húng, rau thơm... Nhiều gia đình cũng lập bàn thờ Gia tiên, bàn thờ cũng có mâm ngũ quả, bánh chưng, mứt Tết, hương trầm, rượu, kim ngân..., có gia đình treo cả câu đối, và một lọ hoa tươi giống như đón Tết cổ truyền tại Việt Nam. Nhiều nơi, cộng đồng và các hội đoàn người Việt, các chùa Phật giáo, các giáo xứ Công giáo có tổ chức Hội Tết và ca nhạc văn nghệ Tết. Sứ quán Việt Nam và các lãnh sự quán Việt Nam tại nước ngoài cũng có tổ chức các hoạt động vui Tết đón xuân cho kiều bào như các buổi tiệc nhỏ hay văn nghệ Tết, như tại Thái Lan, Canada ... Các khu thương xá của người Việt, các khu chợ Việt như tại Little Saigon ở tiểu bang California, Hackney (hay được gọi là "khu Việt Nam" tại Luân Đôn), Cabramatta (còn gọi là Saigonmatta) ở Sydney, Úc... cũng có bán các mặt hàng mứt, bánh chưng, hạt sen, lá dong tươi để gói bánh chưng, bánh tét, gạo nếp, xôi gấc, dừa khô, măng khô... được chuyển từ Việt Nam sang. Chợ hoa cũng có bán cành đào, cành mai, dưa hấu nhập từ các nước châu Á sang để trưng bày trong nhà. Tại Mỹ, trước Tết Nguyên đán, kiều bào và du học sinh thường kết hợp tổ chức lễ hội mừng Tết lớn cho cộng đồng người Việt và cả cộng đồng người bản xứ. Đặc biệt hơn ở Việt Nam là nơi đây, vào ngày Tết được quyền đốt pháo nên các khu chợ Việt như chợ Lion, khu Little Saigon tràn ngập xác pháo giữa đêm giao thừa cho đến trọn ngày mồng 1 Tết. Hàng năm, vào ngày Tết, đều có các cuộc diễn hành Tết của cộng đồng người Việt tại khắp nơi, với các xe hoa và đoàn múa, lớn nhất là tại San Jose do Hội Diễn hành Xuân ("Vietnamese Spring Festival") tổ chức, với sự kết hợp của nhiều hội đoàn, tổ chức. Hội chợ Tết cũng diễn ra khắp nơi với các phần đốt pháo, múa lân, ca nhạc văn nghệ, tái hiện các làng quê Việt xưa, thi đố vui để học, thi hoa hậu áo dài, thi đấu võ, thi thiếu nhi tài năng, thi gói bánh chưng bánh tét... Như tại Garden Grove, California, công viên Garden Grove Park và trường Bolsa Grande High School hiện nay là địa điểm tổ chức "Hội Tết Sinh viên" hằng năm, với hàng trăm ngàn người tham dự, và do Tổng hội Sinh viên Việt Nam Nam Cali (UVSA) tổ chức liên tục từ năm 1982 đến nay. Hội Tết Sinh viên năm 2013 có chủ đề là "Xuân quê hương - Việt Nam anh hùng" và đã được tổ chức trong 3 ngày 08-09-10 tháng 2 năm 2013. Hội Tết Sinh viên năm 2014 với chủ đề "Mùa Xuân Mới" sẽ được tổ chức trong ba ngày 7 đến 9 tháng 2 năm 2014 tại Orange County Fair & Event Center. Tại bang California, vào cuối tháng 9/2022, ông Gavin Newsom, Thống đốc bang California, đã ký luật chính thức công nhận Tết Nguyên đán là một ngày lễ của bang. Tại Úc, hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán, đều có các cuộc diễn hành Tết và Hội Tết của cộng đồng người Việt tại khắp nơi, mang đậm bản sắc văn hóa Việt, như tại Sydney, Melbourne với hàng trăm ngàn người tham dự . Các hội Tết cũng có các món ăn Việt, những trò chơi dân gian, những gian hàng chợ Tết, bắn pháo hoa, múa lân, tái hiện văn hóa Việt xưa... Đối với nhiều kiều bào có dịp về Việt Nam đón Tết Nguyên Đán cũng được chính quyền của các địa phương đón tiếp nồng hậu. Nhiều buổi họp mặt kiều bào có sự tham dự của đại diện lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân và lãnh đạo Sở ban ngành cấp địa phương. Ngày đầu năm theo Con giáp. Trong bảng này tính các năm từ 1984 đến 2091. Theo quy luật của bảng trên, cứ 2 hoặc 3 năm thì có một năm Tết rơi vào tháng 1, còn lại là tháng 2. Ý tưởng gộp Tết. Những năm gần đây, trên các diễn đàn đã xuất hiện ý tưởng gộp Tết và được bàn tán, tranh luận nhiều. Năm 2005, Giáo sư Võ Tòng Xuân đã nêu ra đề xuất "Nên ăn Tết Ta theo lịch Tây", ông cho rằng "Nên nghỉ Tết dương lịch với thời gian như nghỉ Tết âm lịch hiện nay (từ 26/12 đến 4/1), và nghỉ Tết âm lịch như nghỉ Tết dương lịch hiện nay (khoảng 2 ngày là đủ). Tất cả các hoạt động chào mừng năm mới, lễ họi truyền thống... vẫn tiếp tục gìn giữ và phát huy." Giáo sư này đã nêu lên những bất lợi của Tết Nguyên Đán rằng nó sẽ làm mất cơ hội nắm bắt ngay thời cơ kinh doanh, giao thương với nước ngoài và mất thời giờ của nông dân lo chăm sóc lúa đông-xuân, vụ lúa tiềm năng cao nhất trong năm. Gượng ép thời khóa biểu học tập và thi học kỳ của sinh viên học sinh, làm cho họ mất cả hai tuần lễ học hành; dân chúng nhậu nhẹt, bài bạc dưới nhiều hình thức, rất tốn kém tiền của và thời gian học tập, tổn hại sức khỏe và tính mạng và lãng phí ngày làm việc trong khi quốc tế nghỉ Tết Tây. Giáo sư cho rằng Việt Nam nên gộp như vậy để bắt kịp thế giới, học tập theo gương của nước Nhật Bản (Tết Nhật Bản), thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Vào những ngày đầu năm, vấn đề này lại được báo chí đưa ra bàn luận, với các ý kiến ủng hộ và phản đối trái chiều nhau . Những người ủng hộ cho rằng ăn Tết Ta như hiện nay gây rối loạn kế hoạch sản xuất ở các cơ sở công nghiệp. Nếu tiếp tục thì sẽ bị lạc bước, lỡ nhịp với thế giới, nhất là khi được làm việc với người phương Tây vì người Tây không ăn Tết ta. Tết Ta ngày càng trở nên nhàm chán, Nếu ăn Tết Nguyên Đán theo Dương lịch thì sẽ hội nhập dễ, tiết kiệm thì giờ dành cho Tết, thuận tiện hơn vì chỉ còn một cái Tết Bỏ Tết Nguyên Đán thì tránh được những thủ tục phiền hà, tốn kém và sẽ tiện đủ đường. Nhiều bạn trẻ, nhất là phái nữ cũng phản đối Tết truyền thống vì cho rằng khi về quê, về làng có quá nhiều nghi lễ truyền thống nên cảm thấy không thoải mái nên có xu hướng đi nước ngoài du lịch khi Tết đến. Trái lại, có rất nhiều ý kiến phản đối gay gắt đề xuất này, bao gồm bạn đọc các báo, nghệ sĩ, nhà khoa học... Những người phản đối đã cho rằng nếu thay đổi như vậy thì sẽ gây nên sự mất mát rất lớn về văn hóa thiêng liêng, cổ truyền của dân tộc bởi Tết Nguyên Đán đã ăn sâu trong tâm thức của người dân. Dịp Tết chính là dịp để người thân sum họp sau một năm xa cách. Dịp Tết là dịp để gìn giữ, phát huy văn hóa cổ truyền của dân tộc. Giáo sư Sử học Lê Văn Lan đã chỉ ra rằng Tết Dương lịch chỉ là "món ăn thêm", còn Tết Âm lịch thì đã đi sâu vào máu thịt. Ca sĩ Mỹ Linh đã nói rằng ăn Tết Ta theo Dương lịch là "thảm họa". Mỹ Linh đã chỉ ra rằng Tết Nguyên đán theo cách tổ chức bao nhiêu đời này là những giây phút thiêng liêng cho sự khởi đầu một năm mới...Chứng tỏ rằng truyền thống dân tộc bao đời vẫn luôn được duy trì trong tâm trí mỗi con người Việt. Tuy nhiên các thảo luận nói trên đều mới là ý tưởng cá nhân. Trong chương trình làm việc của cơ quan quyền lực nhà nước, gồm Quốc hội và Chính phủ, là nơi chịu trách nhiệm đưa ra quyết định, chưa hề có dự định nào liên quan đến thay đổi việc ăn Tết cổ truyền của dân tộc. Đại diện của Bộ Tư pháp cũng xác nhận rằng hiện chưa có chỉ đạo nào về việc nghiên cứu vấn đề gộp Tết để sửa đổi quy định pháp luật liên quan.
271
271_tt_dp_mng_nghi
[ "tt", "dp", "mng", "nghi", "ma", "vui", "cy", "lch", "chc", "losar" ]
[ "Lễ hội bánh giầy bánh chưng là lễ hội được tổ chức hàng năm từ ngày 11-13/5 âm lịch, tại Sầm Sơn, Thanh Hoá. Lễ hội này được tổ chức với mục đích tôn vinh tổ nghề dệt xúc và thờ thần Độc Cước của người bản địa và hy vọng cho một mùa màng tươi tốt, an khang thịnh vượng và mong sao cho mưa thuận gió hòa vì đa số người dân làm nghề nông. Lễ hội được khai mạc khi mọi người diễu kiệu quanh các đường phố chính rồi về tập hợp lại khu vực sân Đền Độc Cước để chuẩn bị cho phần nghi lễ chính thức. Sau đó tới một loạt những phần lễ phong tục quan trong khác như phần lễ tế, đọc chúc văn tưởng nhớ công ơn của các tiền bối đi trước, những người đã có công khai phá và xây dựng vùng đất Sầm Sơn và nhờ họ mà dân làng mới được như ngày hôm này. Sau phần nghi lễ, thì bắt đầu những trò chơi vui nhộn với sự tham gia đông đảo của các người dân địa phương với các cuộc thi như thi đi cà kheo, thi kéo co...\nPhần đặc sắc nhất và không kém phần nhộn nhịp trong lễ hội là cuộc thi làm bánh giầy giữa 7 làng của thị xã Sầm Sơn xem ai có tài nhất. Mục đích của cuộc thi chỉ để vui là chính, thắng thua không quan trọng. Những chiếc bánh giầy có đường kính khoảng 30 cm và các bánh chưng có mỗi cạnh 40 cm được làm một cách chu đáo từ khâu đầu cho tới khâu cuối, đã trải qua rất nhiều công đoạn như chọn gạo, đậu, thịt, lá gói đến kỹ thuật chế biến rồi sau đó được đặt sang trọng trên những chiếc kiệu và được dân làng đưa về tế lễ ở khu vực đền Độc Cước. Sau nghi thức, những chiếc bánh chưng, bánh giầy được các làng cùng nhau chấm điểm để xem làng nào làm bánh có mùi vị ngon nhất. Sau khi lễ hội kết thúc, bánh được chia đều cho dân trong làng để họ cùng nhau hưởng lộc, phúc để trong năm gặp nhiều may mắn và bình an.", "Tết Trung thu (chữ Nôm: 節中秋; 中秋節 (Trung thu tiết)/ \"Zhōngqiū jié\"; Tiếng Hàn: 한가을 축제; Tiếng Nhật: お月見の日、中秋節(ちゅうしゅうせつ)、còn được gọi là Tết trông Trăng hay Tết hoa đăng theo Âm lịch là ngày Rằm tháng 8 hằng năm, là một lễ hội truyền thống được kỉ niệm ở văn hóa của Việt Nam. Một văn hoá lâu đời từ Trung Quốc nhưng đến hiện tại đã phát triển thành ngày trẻ em của Việt Nam. Vào ngày lễ này, các gia đình thường ăn bánh nướng, bánh dẻo. Cúng rằm cũng là một hoạt động trong ngày lễ này.\nLễ hội Trung Thu có lịch sử hơn 3.000 năm, được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 âm lịch của lịch Trung Quốc, khi trăng tròn vào ban đêm, tương ứng với giữa tháng 9 đến đầu tháng 10 trong lịch Gregory. Vào ngày này, người Trung Quốc tin rằng Mặt trăng sáng nhất và tròn nhất, trùng với thời điểm thu hoạch giữa mùa Thu.\nNhững lồng đèn với mọi kích cỡ và hình dạng tượng trưng cho ánh sáng chỉ dẫn con đường của con người đến sự thịnh vượng và may mắn. Bánh trung thu là loại bánh ngọt thường được làm từ nhân đậu đỏ, lòng đỏ trứng gà, thịt hoặc nhân sen, và thường được ăn trong lễ hội này. Lễ hội Trung Thu dựa trên truyền thuyết về Hằng Nga, nữ thần Mặt trăng trong thần thoại Trung Quốc.\nCác lễ tương tự được tổ chức ở các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Singapore...\nNguồn gốc.\nTết Trung thu bắt nguồn từ văn hóa Trung Quốc. Có ba truyền thuyết chính được người ta biết đến nhiều nhất để nói về Trung thu đó là Hằng Nga và Hậu Nghệ, vua Đường Minh Hoàng lên cung trăng, và chú Cuội trong cổ tích Việt Nam.\nNgười Trung Hoa đã ăn mừng thu hoạch vào ngày trăng tròn mùa thu kể từ thời Thương (c. 1600–1046 TCN). Từ \"Trung thu\" (中秋) xuất hiện đầu tiên trong Chu Lễ, bộ sách tổng hợp các nghi lễ từ thời Tây Chu (1046–771 TCN). Trong triều đình, Trung thu là lễ tế thần Thái Âm Tinh Quân (太陰星君). Điều này vẫn đúng trong Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian Trung Quốc. Việc chào đón Tết Trung thu như một lễ hội chỉ trở nên phổ biến từ thời nhà Đường. Truyền thuyết kể rằng Hoàng đế Đường Huyền Tông bắt đầu tổ chức lễ hội Trung Thu sau khi có dịp thăm cung trăng trên thiên đình. Tết Trung Thu sau đó được truyền vào Việt Nam, từ thời nhà Lý đã có tổ chức Tết Trung thu như một lễ hội.\nTheo Phan Kế Bính trong sách \"Việt Nam phong tục\", tục treo đèn bày cỗ do điển xưa về việc vua Đường Minh Hoàng. Vào ngày sinh nhật vua Đường Minh Hoàng, truyền cho thiên hạ đâu đâu cũng treo đèn và bày tiệc ăn mừng, từ đó thành tục.\nTục rước đèn có từ đời nhà Tống, do tục truyền rằng: Trong đời vua Tống Nhân Tông, có con cá chép thành yêu, cứ đêm trăng hiện lên biến thành con gái để đi hại người. Bấy giờ có viên quan Bao Công mới hạ lệnh cho dân gian làm đèn con cá giống như hình của nó rồi đem mang ra chơi ngoài đường để cho nó sợ mà không dám hại người.\nCũng theo Phan Kế Bính, tục hát trống quân có từ đời vua Quang Trung (Nguyễn Huệ), \"nguyên khi ông đem quân ra Bắc. Quân sĩ lắm kẻ nhớ nhà. Nguyễn Huệ mới bày ra một cách cho đôi bên giả làm trai gái, hát đối đáp với nhau để cho quân sĩ vui lòng mà đỡ nhớ nhà. Có đánh trống làm nhịp, cho nên gọi là trống quân\".\nTết trung thu tại Việt Nam.\nTheo Phan Kế Bính trong sách \"Việt Nam phong tục\", \"dân ta thế kỷ 19, ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng trăng. Đầu cỗ là bánh mặt trăng và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu sặc sỡ, xanh đỏ, trắng và vàng. Con gái ở phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa, nặn bột làm con tôm, con cá voi...\".\nĐồ chơi trẻ em trong Tết trung thu là các thứ bồi bằng giấy như bươm bướm, bọ ngựa, voi, ngựa, kỳ lân, sư tử, rồng, hươu, tôm, cá...Trẻ em buổi tối đêm trung thu, dắt díu nhau kéo co, bắt cái hồ khoan, rước đèn, rước sư tử, trống, thanh la.\nCũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên vào buổi tối khi Trăng Rằm vừa mới lên cao. Đồng thời trong ngày này, mọi người thường biếu cho ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng và các ân nhân khác Bánh Trung Thu, hoa quả, trà và rượu. Người Trung Hoa thường tổ chức múa rồng vào dịp Trung Thu, còn người Việt múa sư tử hay múa lân. Con Lân tượng trưng cho sự may mắn, thịnh vượng và là điềm lành cho mọi nhà... Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát Trống Quân và treo đèn kéo quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba \"thình, thùng, thình\".\nTheo phong tục người Việt, vào dịp Tết Trung Thu, những người lớn bày cỗ cho trẻ em để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn. Cỗ mừng trung thu gồm bánh Trung Thu, kẹo, mía, bưởi và các thứ hoa quả khác nữa.\nRước đèn.\nTại một số vùng nông thôn, những nơi mà quan hệ hàng xóm láng giềng vẫn còn được bảo tồn và trân trọng, người ta thường tổ chức cho trẻ em cùng nhau rước đèn đi khắp thôn, xóm, khu phố trong đêm trung thu. Lễ hội rước đèn có thể được phát động bởi chính quyền địa phương hoặc những nhóm thanh niên trong làng xóm. Họ phân công nhau làm những lồng đèn ông sao thật lớn hoặc những lồng đèn thật đẹp để thi thố với nhau trong lễ rước đèn. Tại Phan Thiết (Bình Thuận), người ta tổ chức rước đèn quy mô lớn với hàng ngàn học sinh tiểu học và trung học cơ sở diễu hành khắp các đường phố, lễ hội này được xác lập kỷ lục lớn nhất Việt Nam. Đây là lễ hội rước đèn trung thu truyền thống có từ hàng trăm năm nay, và quy mô của lễ hội tại Phan Thiết mỗi năm một hoành tráng và to lớn hơn, tuy nhiên cũng có tính \"thương mại\" hơn. Tại Tuyên Quang cũng có lễ hội rước đèn lớn, huy động hoàn toàn từ sự sáng tạo của người dân, từng làng từng xóm và chưa bị thương mại hóa.\nMúa lân.\nMúa lân (ở miền Bắc thường gọi là múa sư tử) thường được tổ chức vào trước tết Trung Thu nhưng nhộn nhịp nhất là hai đêm 15 và 16.\nBày cỗ.\nMâm cỗ Trung Thu thông thường có trọng tâm là con chó được làm bằng tép bưởi, được gắn 2 hạt đậu đen làm mắt. Xung quanh có bày thêm hoa quả và những loại bánh nướng, bánh dẻo thập cẩm hoặc là loại bánh chay có hình lợn mẹ với đàn lợn con béo mũm mĩm, hoặc hình cá chép là những hình phổ biến. Hạt bưởi thường được bóc vỏ và được xiên vào những dây thép, phơi khô từ 2-3 tuần trước khi đến hôm rằm, và đến đêm Trung Thu, những sợi dây bằng hạt bưởi được đem ra đốt sáng. Những loại quả, thức ăn đặc trưng của dịp này là chuối và cốm, quả thị, hồng đỏ và hồng ngâm màu xanh, vài quả na dai...và bưởi là thứ quả không thể thiếu được.\nĐến khi trăng lên tới đỉnh đầu chính là giây phút phá cỗ, mọi người sẽ cùng thưởng thức hương vị của Tết Trung Thu. Phong tục trông trăng cũng liên quan đến sự tích Chú Cuội trên cung trăng, do một hôm Cuội đi vắng, cây đa quý bị bật gốc bay lên trời, chú Cuội bèn bám vào rễ cây níu kéo lại nhưng không được và đã bị bay lên cung trăng cùng với cây đa của mình. Nhìn lên Mặt Trăng, có thể thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, và trẻ em tin rằng, đó là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa.\nLàm đồ chơi Trung Thu.\nMặt nạ, đèn ông sư, đèn ông sao và đầu sư tử là các loại đồ chơi phổ biến nhất trong dịp lễ tết Trung thu. Tại miền Nam, hai thành phố Hội An và Sài Gòn nổi tiếng khắp nước về thủ công nghệ làm lồng đèn trang trí và các loại đèn giấy dùng trong ngày tết Trung Thu. Trước đây ở miền Bắc, khi còn trong thời kỳ bao cấp (1976 - 1986), các đồ chơi cho trẻ em vào dịp tết Trung thu rất hiếm, phần lớn các gia đình thường tự làm lấy đồ chơi như trống bỏi, đèn ông sư, đèn ông sao, đèn kéo quân, mặt nạ, tò he, chong chóng... cho trẻ em trong gia đình. Ngoài ra còn có các mô hình tàu thủy đồ chơi. Các loại mặt nạ thường được làm bằng bìa hoặc bằng giấy bồi, với các hình phổ biến về các nhân vật trẻ em yêu thích bấy giờ như: đầu sư tử, ông Địa, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Bạch Cốt Tinh...\nNgày nay, phần lớn đồ chơi ở Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc, các loại mặt nạ được làm bằng nhựa mỏng, không đẹp bằng mặt nạ thời trước.\nCác loại bánh trung thu.\nTừ truyền thống đến hiện đại, bánh trung thu ngày càng đa dạng khi các nhà sản xuất sáng tạo trong sử dụng các nguyên liệu và thực phẩm khác nhau đưa vào nhân bánh; dập khuôn kiểu dáng bánh thành nhiều hình thù sinh động; đóng gói với bao bì mẫu mã đẹp mắt. Tuy nhiên, dựa theo công thức làm vỏ bánh thì chỉ có hai loại bánh trung thu là bánh nướng và bánh dẻo.\nBánh nướng được làm với lớp vỏ bánh là bột mì và có chút dầu ăn. Đường để trộn vào vỏ bánh thường được nấu với mạch nha để chuyển thành màu hổ phách và để càng lâu càng tốt (thường các nhà làm bánh sau tết trung thu nấu nước đường, cất kỹ để tới tận mùa sau mới dùng). Trước kia tại Việt Nam nhân bánh nướng thường là nhân thập cẩm, có chút lá chanh thái chỉ, thịt mỡ, mứt, hạt dưa, lạp xường.\nSau khi nặn bánh, ép khuôn, bánh được cho vào lò nướng. Quy trình nướng chia làm hai giai đoạn trong đó khoảng 2/3 thời gian nướng là giai đoạn đầu tiên. Sau đó bánh được dỡ ra, làm nguội, phết lòng đỏ trứng gà lên rồi cho vào nướng tiếp 1/3 thời gian còn lại.\nBánh Pía\nLoại bánh có vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy nhân. Da ngoài dày thường in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo. Ở Việt Nam, Bánh Pía là đặc sản của Sóc Trăng, phổ biến ở nhiều tỉnh, thành miền Nam mà đặc biệt là Tây Nam Bộ.\nBánh Pía được gọi là bánh trung thu của miền Tây, mang ý nghĩa đón trăng rằm tháng 8. Càng về sau bánh pía lại trở thành món ăn tinh thần, tượng trưng sự sum vầy của gia đình..\nTheo truyền thống bánh dẻo trung thu được làm với vỏ bánh là bột gạo nếp rang xay mịn, nước đường kính trắng đun sôi để nguội (không dùng mạch nha như bánh nướng), nước hoa bưởi. Nhân bánh làm từ các thực phẩm, nguyên liệu đã chín. Bánh được nặn xong ép khuôn và có thể sử dụng ngay không cần cho vào lò nướng.\nHát trống quân.\nTết ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Đôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng \"thình thùng thình\" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận tức là hát theo vần, theo ý hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc.\nTục tặng quà.\nTết Trung thu người ta thường tặng quà cho nhau. Quà thường là các hộp bánh, lồng đèn, áo quần, tiền. Các cơ quan, doanh nghiệp cũng tặng quà cho khách hàng, cán bộ công nhân viên có khi mua cả xe tải bánh trung thu. Nhiều công ty có hàng ngàn công nhân, đặt hàng ngàn hộp bánh với số tiền hoa hồng hậu hĩnh.\nTính trên tổng lượng bánh trung thu tiêu thụ năm 2006 (thống kê từ các nhà sản xuất) ước khoảng 6.500- 6.800 tấn, lấy mức giá bình quân của 1 hộp bánh loại 220 - 250gr khoảng 100.000 - 130.000đ, người tiêu dùng đã tiêu pha hết hơn 800 tỉ đồng cho khoảng 7 triệu hộp bánh. Và các hộp bánh đắt như vàng, người nghèo không sao mua nổi cứ chạy lòng vòng từ người nọ sang người kia.\nĐối tượng tặng quà của người lớn thường là các bề trên như cha mẹ, cấp trên, những người cần nhờ vả, thầy cô giáo hoặc cũng có thể hàng xóm, bạn bè hoặc con cháu trong nhà. Thường đối tượng nhận quà càng quan trọng thì giá trị món quà phải càng cao. Việc tặng quà Trung thu là một thói quen phổ biến khi đời sống khá lên sau Đổi Mới, nó có thể là một hình thức tiêu cực khi giá trị món quà quá lớn.\nĐối với các doanh nghiệp hoặc cá nhân việc không có quà Tết biếu có thể bị đánh giá là lơ đễnh hoặc coi thường vì vậy đây là chi phí không nhỏ khi đến dịp trung thu. Chi phí tặng quà thường được chi từ chi phí tiếp khách bằng tiền. Do mức hoa hồng hoặc chiết khấu của các hiệu bánh cao (có thể lên đến 35%) nên nhiều người thích dùng tiền cơ quan biếu xén để hưởng lợi.\nViệc tặng quà trung thu đắt tiền là dịp \"ơn nghĩa\" của người lớn. Không ít người thường lợi dụng dịp này để biếu xen quà cáp nhằm mua quan bán chức. Những hộp bánh Trung thu đặc mà bên trong nhân bánh \"là vàng\", \"là đô la\" đã làm mờ mắt nhiều quan tham và biếu xén trong dịp Tết Trung thu là một lệ của những thành phần này.\nNgắm trăng.\nNgười ta thường ngắm trăng vào đêm trung thu vì thời điểm này là tốt nhất để ngắm trăng, vào giữa đêm\n\"Muốn ăn lúa tháng Năm, trông trăng rằm tháng Tám.\"\nTết Trung thu trong văn học - nghệ thuật.\nThơ về Tết Trung Thu.\nTrung Thu vốn là nguốn cảm hứng lớn cho các thi sĩ từ xưa đến nay, trong đó có nhà thơ đời Đường Đỗ Phủ với bài \"Trung thu\":\nBản dịch của Thái Giang:\nNhà thơ Tản Đà cũng nhắc đến ngày Trung thu với các câu thơ:\nNguyễn Du\nCâu hát về Tết Trung thu.\n \nBài \"Chiếc đèn ông sao\": (Nhạc sĩ: Phạm Tuyên)\nBài \"Đêm trung thu\": (Nhạc sĩ:Phùng Như Thạch)\nBài \"Rước đèn tháng tám: (Nhạc sĩ Đức Quỳnh (tên thật là Vân Thanh)\"\nNhạc sĩ Lê Thương cũng có bài \"Thằng Cuội\" viết về chủ đề này, trong bài hát có đoạn \"\"Bóng trăng trắng ngà có cây đa to, có thằng Cuội già ôm một mối mơ...Có con dế mèn, suốt trong đêm thâu, hát xẩm không tiền, nên nghèo xác xơ...\".\nNhạc sĩ Ngọc Lễ cũng có tác phẩm \"Cắc tùng cắc tùng\" về ngày Tết Trung thu cho các em thiếu nhi: \"Cắc tùng cắc cắc tùng, Em đi chơi trung thu này, Cắc tùng tiếng trống lân tưng bừng...\"\"\nTết Trung thu ở nước ngoài.\nTại Triều Tiên và Hàn Quốc, ngày này là lễ tạ ơn (Chuseok), ngày mà người nông dân làm lễ tạ ơn tổ tiên vì đã cho một mùa màng bội thu, và là ngày tết lớn thứ hai trong năm và ngày nghỉ lễ quốc gia kéo dài 3 ngày. Người Hàn về thăm lại quê quán và ăn những món truyền thống. Trong khi đó ở Nhật Bản mỗi dịp Trung Thu, người dân tụ tập làm những món bánh truyền thống của mình, sau đó họ những khay bánh ở kế bên hiên nhà, gần cửa sổ hay bất cứ chỗ nào để có thể nhìn trăng rõ nhất. Đặc biệt, theo quan niệm của người dân Nhật Bản là nếu có trẻ em đến tự ý ăn bánh nhà mình thì họ sẽ gặp rất nhiều may mắn trong năm. Tết trung thu là dịp mà những người nơi xa xứ trở về, cùng nhau liên hoan và làm những món ăn truyền thống. Họ còn chuẩn bị cho mình những trang phục đẹp để đi lễ hội.\nTại Đài Loan, ngày Tết Trung Thu là ngày nghỉ lễ chính thức cho cả nước và những buổi nướng thịt ngoài trời đã trở thành dịp để thắt chặt tình cảm giữa gia đình và đồng nghiệp trong công ty. Đến năm 2011, thành phố Đài Bắc chỉ định 11 công viên ven sông để làm nơi nướng thịt ngoài trời cho công chúng. Tại Hồng Kông và Ma Cao, ngày tiếp sau rằm tháng 8 là ngày nghỉ lễ chính thức, bởi vì có rất nhiều sự kiện lễ hội được tổ chức vào đêm trước. Những năm gần đây, bảo vệ môi trường đã trở thành một mối quan tâm của công chúng, nhiều nhà sản xuất bánh trung thu tại Hồng Kông đã áp dụng việc giảm vật liệu đóng gói để giới hạn rác thải. Các nhà sản xuất bánh trung thu cũng tạo ra các loại mới của bánh trung thu, chẳng hạn như bánh trung thu kem và bánh trung thu da tuyết.\nTrung Quốc.\nXiamen.\nMột truyền thống độc đáo được tổ chức đặc biệt tại thành phố đảo Xiamen. Trong lễ hội này, gia đình và bạn bè tập trung để chơi trò chơi Bo Bing, một trò đánh bạc sử dụng 6 con xúc xắc. Mọi người lần lượt tung xúc xắc trong một tô sứ và kết quả sẽ quyết định giải thưởng mà họ nhận được. Con số 4 chủ yếu quyết định giải thưởng lớn hay nhỏ.\nHồng Kông và Ma Cao.\nỞ Hồng Kông và Ma Cao, ngày sau Lễ Trung thu là ngày nghỉ lễ chính thức thay vì ngày của lễ hội (trừ khi ngày đó rơi vào Chủ nhật, lúc đó thứ Hai cũng là ngày nghỉ lễ), bởi vì nhiều hoạt động kỷ niệm diễn ra vào buổi tối. Có nhiều hoạt động lễ hội như thắp đèn lồng, nhưng bánh trung thu là yếu tố quan trọng nhất ở đây. Tuy nhiên, người ta thường không mua bánh trung thu cho chính mình, mà mua để tặng cho người thân. Mọi người bắt đầu trao đổi những món quà này từ trước lễ hội một thời gian. Do đó, bánh trung thu được bán trong những hộp sang trọng để trình diễn. Ngoài ra, giá của những hộp này không rẻ - một hộp bánh trung thu gồm bốn chiếc với nhân hạt sen và lòng đỏ trứng, thường có giá từ 40 đô la Mỹ trở lên. Tuy nhiên, vì môi trường bảo vệ đã trở thành một vấn đề quan tâm của công chúng trong những năm gần đây, nhiều nhà sản xuất bánh trung thu ở Hồng Kông đã áp dụng các biện pháp để giảm thiểu vật liệu đóng gói đến mức hợp lý. Các nhà sản xuất bánh trung thu cũng nghiên cứu và tạo ra các loại bánh trung thu mới, như bánh trung thu kem và bánh trung thu vỏ mờ.\nỞ Hồng Kông cũng có những truyền thống khác liên quan đến Lễ Trung thu. Các khu phố trên khắp Hồng Kông tổ chức triển lãm đèn lồng ấn tượng với các buổi biểu diễn truyền thống, gian hàng chơi game, bói toán và nhiều hoạt động lễ hội khác. Những lễ kỷ niệm trọng đại nhất diễn ra tại Công viên Victoria (Hồng Kông). Một trong những nghi lễ sáng sủa nhất là Múa rồng lửa, được ghi nhận là một phần của di sản văn hóa phi vật thể của Trung Quốc. Rồng lửa dài 200 feet cần hơn 300 người tham gia và thay nhau thực hiện. Người dẫn đầu múa rồng lửa sẽ cầu nguyện cho sự bình an, may mắn thông qua các lời chúc trong tiếng Hạc Gia. Sau nghi lễ, rồng lửa sẽ được ném vào biển cùng với đèn lồng và thẻ giấy, điều này có nghĩa là rồng sẽ trở lại biển và mang đi những điều bất hạnh.\nTrước năm 1941, cũng có một số lễ kỷ niệm Lễ Trung thu diễn ra tại các làng nhỏ ở Hồng Kông. Sha Po sẽ tổ chức Lễ Trung thu vào ngày 15 của tháng Tám âm lịch. Người ta gọi Lễ Trung thu là Lễ Quang Tân, họ tổ chức Pok San Ngau Tsai tại Hồ Đà Đồng ở Sha Po. Pok San Ngau Tsai là một sự kiện kỷ niệm Lễ Quang Tân, mọi người sẽ tập trung xem. Trong suốt sự kiện, có người chơi nhạc cụ gõ, một số người làng sau đó sẽ giả điên và tự gọi mình là \"Maoshan Masters\". Họ đốt cháy cây nhang và đánh nhau với kiếm và giáo thật.\nĐài Loan.\nỞ Đài Loan, cùng với các hòn đảo thuộc ngoại ô như Penghu, Kinmen, và Matsu, Lễ Trung thu là một ngày lễ công cộng. Tiệc nướng ngoài trời đã trở thành một sự kiện phổ biến để bạn bè và gia đình tụ tập và thưởng thức sự hiện diện của nhau. Trẻ em cũng làm và đội những chiếc mũ được làm từ vỏ bưởi. Người ta tin rằng Trường Sinh, nàng tiên trên Mặt Trăng, sẽ nhận ra những đứa trẻ mang trái cây yêu thích của mình và ban phước may mắn cho họ.\nCác truyền thống tương tự ở các quốc gia khác.\nCác truyền thống tương tự được tìm thấy ở các vùng khác của châu Á và cũng xoay quanh mặt trăng tròn. Những lễ hội này thường diễn ra vào cùng một ngày hoặc xung quanh Lễ Trung thu.\nĐông Á.\nNhật Bản.\nLễ hội xem trăng của người Nhật, được gọi là (, \"xem trăng\"), cũng được tổ chức vào thời điểm này. Mọi người dạo chơi và uống rượu sake dưới ánh trăng tròn để kỷ niệm mùa màng.\nHàn Quốc.\n (; ; [tɕʰu.sʌk̚]), có nghĩa là \"Đêm thu\", trước đây được gọi là hangawi (; [han.ɡa.ɥi]; từ tiếng Hàn cổ có nghĩa là \"giữa mùa thu lớn\"), là một lễ hội mừng mùa màng lớn và một kỳ nghỉ ba ngày ở Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc, được tổ chức vào ngày 15 của tháng 8 âm lịch Trung Quốc, tức ngày trăng tròn. Nó đã được tổ chức từ thời kỳ Tam Quốc ở triều đại Silla. Như một dịp kỷ niệm mùa màng tốt, người Hàn Quốc thăm thú quê hương tổ tiên, tưởng nhớ tổ tiên trong một buổi lễ gia đình (차례), và cùng nhau thưởng thức một bữa tiệc với các món ăn truyền thống của Hàn Quốc như (), (), và các loại rượu gạo như và .\nĐông Nam Á.\nNhiều lễ hội xoay quanh trăng tròn cũng được tổ chức ở Campuchia, Lào và Myanma. Giống như Lễ Trung thu, những lễ hội này có nguồn gốc từ Phật giáo và xoay quanh trăng tròn. Tuy nhiên, khác với các quốc gia Đông Á, những lễ hội này diễn ra nhiều lần trong năm tương ứng với mỗi trăng tròn thay vì chỉ một ngày duy nhất trong năm. Các lễ hội diễn ra trong tháng âm lịch \"Ashvini\" và \"Kṛttikā\" thường xuyên diễn ra vào thời điểm Lễ Trung thu.\nCampuchia.\nỞ Campuchia, lễ hội này thường được gọi là \"Lễ hội Nước và Trăng\" Bon Om Touk. Lễ hội Nước và Trăng được tổ chức vào tháng 11 hàng năm. Đây là một lễ hội kéo dài ba ngày, bắt đầu bằng cuộc đua thuyền kéo kéo dài hai ngày đầu của lễ hội. Các chiếc thuyền đua được sơn màu sắc tươi sáng và có nhiều thiết kế khác nhau, trong đó thiết kế neak, con rồng biển Campuchia, là phổ biến nhất. Các đàn ông Campuchia tham gia chèo thuyền và đua thuyền trên sông Tonle Sap. Khi đêm xuống, đường phố được lấp đầy người mua đồ ăn và tham dự các buổi hòa nhạc khác nhau. Buổi tối là lễ Sampeah Preah Khae: sự chào đón ánh trăng hoặc cầu nguyện đến ánh trăng. Người Campuchia sắp xếp một loạt các vật phẩm cúng rất được ưa chuộng, chẳng hạn như trái cây và món ăn truyền thống gọi là Ak Ambok trước cửa nhà họ, kèm theo nhang đang cháy để cầu mong ánh trăng. Người Campuchia tin rằng có một truyền thuyết về Con Thỏ và Mặt Trăng, và rằng một con thỏ sống trên Mặt Trăng chăm sóc người Campuchia. Đúng nửa đêm, mọi người lên chùa để cầu nguyện và ước nguyện, và cùng thưởng thức Ak Ambok. Người Campuchia cũng tự làm những chiếc đèn lồng thủ công thường có hình hoa sen hoặc các thiết kế hiện đại khác. Nhang và nến làm sáng lên những chiếc đèn lồng và người Campuchia cầu nguyện rồi thả chúng xuống sông để lời nguyện và ước mong được nghe và nhận được ban cho.\nLào.\nỞ Lào, nhiều lễ hội được tổ chức vào ngày trăng tròn. Lễ hội phổ biến nhất được biết đến là \"Lễ hội That Luang\", liên quan đến truyền thuyết Phật giáo và được tổ chức tại đền Pha That Luang ở Vientiane. Lễ hội thường kéo dài từ ba đến bảy ngày. Một cuộc diễu hành diễn ra và nhiều người đến thăm đền.\nMyanmar.\nỞ Myanmar, nhiều lễ hội được tổ chức vào ngày trăng tròn. Tuy nhiên, \"Lễ hội Thadingyut\" là lễ hội phổ biến nhất và diễn ra vào tháng Thadingyut. Nó cũng diễn ra xung quanh thời điểm Lễ Trung thu, tùy thuộc vào lịch âm. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất ở Myanmar sau lễ Tết Nguyên đán \"Thingyan\". Đây là một lễ hội Phật giáo và nhiều người đến chùa để tôn kính các vị sư và cúng thức ăn. Đây cũng là dịp để tri ân và tôn vinh các vị sư Phật giáo, giáo viên, cha mẹ và người cao tuổi.\nSingapore.\nDù không phải là một ngày nghỉ chính thức của chính phủ, ngày Lễ Trung thu vẫn được quan sát một cách không chính thức tại Singapore.\nNam Á.\nẤn Độ.\nỞ Ấn Độ, Onam là một lễ hội thu hoạch hàng năm tại bang Kerala. Nó diễn ra vào ngày 22 của nakshatra Thiruvonam trong tháng Chingam của lịch Malayalam, trùng với tháng Tám-Tháng Chín trong lịch Gregory. Theo truyền thuyết, lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ Vua Mahabali, linh hồn của ông được cho là đến Kerala vào thời điểm Onam diễn ra.\nOnam là một sự kiện hàng năm quan trọng đối với người Malayali trong và ngoài Kerala. Đây là một lễ hội thu hoạch, một trong ba lễ hội Hindu hàng năm quan trọng cùng với Vishu và Thiruvathira, và được tổ chức với nhiều hoạt động vui chơi. Các hoạt động trong lễ hội Onam bao gồm cuộc đua thuyền Vallam Kali, múa hổ Pulikali, Rangoli hoa Pookkalam, lễ thờ cúng Onathappan, vũ điệu Onam Kali, kéo co, múa nhảy Thumbi Thullal của phụ nữ, múa mặt nạ Kummattikali, võ thuật Onathallu, âm nhạc Onavillu, lễ cúng chuối Kazhchakkula, trang phục Onapottan, các bài hát và múa truyền thống Atthachamayam và các hoạt động khác.\nOnam là lễ hội chính thức của bang Kerala với ngày nghỉ chính thức bắt đầu từ ngày Uthradom (trước ngày Onam). Lễ hội diễn ra tại 30 địa điểm ở Thiruvananthapuram, thủ đô của Kerala. Nó cũng được tổ chức bởi cộng đồng người Malayali trên khắp thế giới. Mặc dù là một lễ hội Hindu, các cộng đồng không Hindu của Kerala cũng tham gia vào lễ hội Onam xem nó như một lễ hội văn hóa.\nSharad Purnima là một lễ hội thu hoạch được tổ chức vào ngày trăng tròn trong tháng Ashvin của lịch âm (tháng Chín-Tháng Mười), kết thúc mùa mưa.\nSri Lanka.\nỞ Sri Lanka, mỗi ngày trăng tròn được gọi là \"Poya\" và mỗi ngày trăng tròn là ngày nghỉ lễ. Cửa hàng và doanh nghiệp đóng cửa trong những ngày này khi người dân chuẩn bị cho đêm trăng tròn. Bên ngoài các tòa nhà được trang trí bằng đèn lồng và người ta thường nấu ăn và đi đến chùa nghe các bài thuyết giảng. \"Binara Full Moon Poya Day\" và \"Vap Full Moon Poya Day\" diễn ra vào thời điểm gần với Lễ hội Trung thu và giống các nước Á tính theo Phật giáo, các lễ hội này kỷ niệm sự thăng thiên và đạt đến đỉnh cao của chuyến thăm đến thiên đường của Đức Phật, còn với lễ hội \"Maha\", nó cũng đánh dấu mùa canh tác.\nTây Á.\nIsrael.\nLễ hội thu hoạch Sukkot của người Do Thái là một lễ kỷ niệm tương tự, bắt đầu vào ngày mười lăm của tháng Tishrei trong lịch âm, đó là tháng thứ bảy trong lịch Hebrew. Do có sự tương đồng giữa lịch này và lịch Trung Quốc, lễ hội này thường trùng khớp với Lễ Trung Thu.\nBắc Mỹ.\nCanada và Hoa Kỳ.\nĐến năm 2014, Lễ Trung Thu thường ít được chú ý bên ngoài các siêu thị và cửa hàng thực phẩm Á-Âu, nhưng kể từ đó, lễ hội này đã trở nên phổ biến tại những khu vực có đông đảo người Hoa sinh sống ở nước ngoài, như New York, Chicago, Los Angeles và San Francisco. Khác với truyền thống ở Trung Quốc, các buổi kỷ niệm tại Hoa Kỳ thường giới hạn trong khoảng thời gian ban ngày và thường kết thúc vào sớm tối.\nSản xuất đồ chơi Trung thu.\nNói đến đồ chơi tết Trung thu là phải nói đến lồng đèn, thứ không thể thiếu để các em đi rước trăng. Từ xưa đến nay, hai thành phố Hội An và Sài Gòn nổi tiếng khắp nước về thủ công nghệ làm lồng đèn trang trí và các loại đèn giấy dùng trong ngày tết Trung Thu. Theo Văn công Lý hiện sống tại Hội An, thì ông tổ ngành làm đèn lồng ở đây tên gọi là Xã Đường. Đèn Hội An độc đáo ít nơi có, đèn lồng Hội An đẹp nhờ có đủ hình thù, kiểu dáng, to nhỏ. Vải bọc đèn thay giấy là loại lụa Hà Đông nổi tiếng, làm cho ánh sáng thêm huyền ảo lung linh.\nTại Sài Gòn, từ trước năm 1975 tới bây giờ, Phú Bình thuộc quận 11 Đô Thành Sài Gòn, cũng vẫn là một trung tâm sản xuất lồng đèn trung thu lớn nhất miền Nam Việt Nam, cung cấp cho cả vùng. Đây là một làng di cư năm 1954, nguyên gốc từ làng Báo Đáp thuộc tỉnh Nam Định. Làng này ở Bắc Phần vốn nổi tiếng với nghề thợ nhuộm. Khi vào nam, dân chúng vẫn sống quây quần với nhau bằng nghề nhuộm, dệt vải và làm giày dép. Phú Bình sau năm 1975 nằm trên địa bàn của phường Phú Trung, quận Tân Phú và Phường 5, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, cách khu du lịch Đầm Sen chừng nửa cây số. Lúc đầu khi vào Nam, Phú Bình chỉ chuyên sản xuất những loại đèn Trung Thu đơn giản như đèn ống sáo, con cá, ngôi sao... cố ý để cho học sinh vui chơi trong đêm lễ.\nTừ năm 1960-1975, Phú Bình mỗi năm sản xuất hơn nửa triệu đèn lồng trung thu, cung cấp khắp các tỉnh thành từ Bến Hải vào tới Cà Mau. Sau này dân chúng ở dây vẫn tiếp tục nghề cũ. Năm 1994, lồng đèn Trung Quốc ồ ạt xâm nhập thị trường Việt Nam, chèn ép đèn Phú Bình, làm cho dân chúng ở đây lâm cảnh điêu đứng đói khổ vì hàng bị ế ẩm bởi lồng đèn Trung Quốc đẹp, kiểu cách mới lạ, lại rất tiện lợi khi ra gió không sợ cháy vì dùng pin, giá thành lại rẻ.\nỞ thị trường Việt Nam ngành công nghệ sản xuất đồ chơi cho trẻ em dịp trung thu giúp tạo việc làm và lợi nhuận cho rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, do nguyên liệu thông dụng và công nghệ đơn giản, vốn ít, sau một thời gian để đồ chơi của Trung Quốc thống lĩnh thị trường đến năm 2006 ngành hàng sản xuất lồng đèn Việt Nam hồi phục và chiếm lĩnh lại thị trường nội địa.", "Tết Nguyên Đán (còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay đơn giản là Tết) là dịp lễ đầu năm mới theo âm lịch của các nước gia khanh Đông Á như Trung Quốc, Đài Loan (gọi là Tết Trung Quốc), Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên (gọi là Seollal), và các nước Đông Nam Á như Singapore, Malaysia, Indonesia và Việt Nam.\nTại Việt Nam trước ngày Tết còn có phong tục như \"cúng Táo Quân\" (23 tháng Chạp Âm lịch) và \"cúng Tất Niên\" (29 hoặc 30 tháng Chạp Âm lịch). Vì Tết tính theo Âm lịch nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (hay Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 20 tháng 2 Dương lịch mà rơi vào giữa những ngày này. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).\nHàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 (hay mùng 1) tháng Giêng âm lịch trên toàn nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Sắm cây đào và cây quất ở Bắc Bộ, hay cây mai ở Trung Bộ và Nam Bộ được coi là sự chuẩn bị không thể thiếu trong những ngày giáp Tết. Sau đó, trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, dành những lời chúc mừng, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên.\nTừ nguyên.\nTừ nguyên \"tết\" trong tiếng Việt là âm Hán Việt cổ của chữ 節, mà âm Hán-Việt hiện đại đọc là \"tiết\". \"Tết\" và \"tiết\" đều bắt nguồn từ âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ “節”. “tết” xuất hiện trước “tiết”, vào giai đoạn chữ \"tiết\" 節 có âm đọc trong tiếng Hán trung cổ là /tết/. “Tiết” xuất hiện sau “tết”, vào giai đoạn âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ \"tiết\" 節 đã biến đổi thành /tiết/. Ban đầu cả \"tết\" và \"tiết\" đều được phát âm giống như âm đọc của chữ \"tiết\" 節 trong tiếng Hán ở thời điểm chúng được tiếng Việt vay mượn, về sau do sự biến đổi của ngữ âm tiếng Việt cách phát âm của chúng đã thay đổi thành \"tết\" và \"tiết\" như hiện nay.\n\"Tết Nguyên Đán\" vốn không phải là \"Tiết Nguyên Đán\" trong 24 điểm \"Tiết khí\" (chữ Hán: 節氣) của Thời tiết phân chia theo lịch Mặt trăng (Nông lịch). Từ “nguyên” 元 trong “Nguyên Đán” 元旦 có nghĩa là sự khởi đầu hay là sơ khai và \"đán\" 旦 có nghĩa là buổi sáng sớm hay là bình minh. Nghĩa gốc của từ “Nguyên Đán” 元旦 là chỉ \"Buổi sáng đầu tiên/Ngày đầu tiên (tức ngày mồng một) của một năm Nông lịch\".\nHiện nay, tại Trung Quốc, Tết âm lịch không còn được gọi là Tết Nguyên Đán nữa. Tại Trung Quốc đại lục, thời Dân quốc, năm thành lập Trung Hoa Dân quốc (năm 1912) được lấy làm mốc khởi thủy để định tên năm dương lịch. Năm thành lập Trung Hoa Dân quốc được coi là Trung Hoa Dân quốc năm thứ nhất. Năm sau Dân quốc năm thứ nhất, tức là Công nguyên năm 1913, là Dân quốc năm thứ hai, năm 1914 là Dân quốc năm thứ ba, năm 1915 là Dân quốc năm thứ tư... Lấy số năm Công nguyên trừ cho 1911 thì sẽ ra số năm Dân quốc tương ứng của năm Công nguyên đó. Ngày 27 tháng 9 năm 1949, tại Hội nghị Toàn thể Khoá I Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc quyết định gọi tên các năm dương lịch theo thứ tự trong kỷ nguyên Công lịch, \"chính thức quy định ngày 1 tháng 1 dương lịch (tức Tết Tây) gọi là “Nguyên đán”\", ngày mồng một tháng giêng nông lịch gọi là “Xuân tiết” (chữ Hán: , pinyin: chūnjié) (nghĩa là lễ hội mùa xuân).\nHai miền Nam Bắc Việt Nam từ sau năm 1975 đều cùng sử dụng múi giờ GMT+7 (trước đó Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sử dụng múi giờ GMT+7, còn Việt Nam Cộng hoà sử dụng múi giờ GMT+8 giống như Trung Quốc), Trung Quốc thì sử dụng múi giờ GMT+8. Do Việt Nam và Trung Quốc sử dụng hai múi giờ khác nhau, âm lịch Việt Nam và âm lịch Trung Quốc cũng có đôi chút khác biệt, có lúc thì chỉ lệch có một giờ, có lúc thì lệch đến một tháng. Vì vậy mà có năm Việt Nam đón Tết cùng ngày với Trung Quốc, có năm lại đón Tết trước hoặc sau Trung Quốc.\nLịch sử.\nNguồn gốc tết ra đời.\nVăn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã \"phân chia\" thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc \"giao thừa\") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán. Sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán. Năm mới của Việt Nam bị ảnh hưởng bởi nền văn minh lúa nước cổ đại.\nViệt Nam.\nTheo \"Đại Nam nhất thống chí\" nhà Nguyễn , ở các huyện Bất Bạt và Mỹ Lương (Xứ Đoài) hàng năm lấy tháng 11 làm đầu năm. Theo một số nhà nghiên cứu vào thời Hùng Vương, Tết Nguyên đán diễn ra vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch) khi tiết trời chuẩn bị se lạnh. Do vậy, Tết Đoan ngọ vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch rơi vào đúng giữa năm, tiết trời bắt đầu nắng nóng. Sau này, do ảnh hưởng từ Trung Quốc người Việt chuyển sang ăn Tết tháng Dần (tháng 1 âm lịch). Tuy nhiên ở vùng đất Tổ như Sơn Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc vẫn có những nơi ăn Tết hoặc kỷ niệm ngày đầu tháng 11 như: xông đất, mở cửa rừng, ăn những loại đất có khoáng chất vào người …\nCũng trong sách \"An Nam chí lược\" của Lê Tắc, người Việt có phong tục khác biệt với Trung Quốc, dân thường hay vẽ mình, ưa uống rượu, dùng trầu cau đãi khách, hay ăn dưa mắm, những vật dưới biển và đã tổ chức lễ Tết. Ông còn ghi chép rằng dân Việt đón lễ Tết từ tháng giêng cho đến tháng 3 âm lịch, chơi nhiều trò chơi như đá bóng, đá cầu, đánh cờ, đấu vật và tổ chức tế lễ. Một học giả khác là Lê Quý Đôn chép trong sách Kiến văn tiểu lục rằng nước Việt thời nhà Lý, đã thực hiện các lễ nghi quan trọng như lập Đàn phong vân để cầu mưa, lập đàn xã tắc để cầu cho quanh năm được mùa, dùng ngày lập xuân để làm lễ nghinh xuân. Lê Quý Đôn viết rằng thời Hồng Đức (1442-1497) lễ Nguyên đán là ngày lễ quan trọng bậc nhất, trăm quan phải vào chầu vua.\nMột số khu vực khác.\nĐông Á.\nTheo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ năm Tam Hoàng Ngũ Đế 2852 TCN thay đổi theo từng thời kỳ. Tuy nhiên, Tam Hoàng Ngũ Đế cũng chỉ là những nhân vật truyền thuyết. \nLịch sử Trung Quốc cũng cho rằng Tết được thay đổi qua các thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ \"tạo thiên lập địa\" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ III TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Song những chi tiết này chỉ tìm thấy trong sách sử Trung Quốc, không có các nguồn tư liệu khác để kiểm chứng. Theo các nghiên cứu gần đây, thực tế cư dân Bách Việt ngày xưa ăn Tết vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch ngày nay) đến thời Hán mới chính thức đổi thành tháng Dần (tháng Giêng).\nTrước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng một trong khi miền Nam thì ngày 30 tháng 1). Từ năm 1976, cả hai miền nam bắc mới dùng chung múi giờ GMT+7.\nKhông chỉ có Trung Quốc và Việt Nam có Tết Nguyên Đán, mà một số quốc gia ở Đông Á cũng có Tết này. Chẳng hạn, đối với người Đài Loan, Tết Nguyên Đán là dịp lễ quan trọng nhất, là những ngày mà mọi người ở Đài Loan quây quần bên nhau, cùng nhau đoàn viên sau một năm làm việc vất vả. Họ có lễ hội thả đèn lồng được tổ chức tại làng cổ Thập Phần vào dịp này.\nTết Nguyên Đán ở Hồng Kông cũng mang nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc nhưng cách đón Tết của người Hồng Kông vô cùng đặc sắc khi pha trộn giữa nền văn hóa truyền thống Phương Đông với nét văn hóa phóng khoáng, mới mẻ của phương Tây. Lúc chuẩn bị đón Tết, người dân Hồng Kông cũng lau dọn nhà cửa sạch sẽ, trang trí giấy đỏ. Trẻ em thì được lì xì, người lớn chúc tụng nhau một năm mới hạnh phúc.\nTrong văn hóa Hàn Quốc, ngày lễ lớn nhất trong năm cũng chính là Tết Nguyên Đán, hay còn gọi là Seollal, ngày xua đuổi linh hồn xấu xa, điều xui xẻo và chào đón điều tốt lành. Tương tự như ở Việt Nam, Tết bắt đầu từ ngày 1/1 Âm lịch và thường kéo dài trong 3 ngày. Tết của người dân bán đảo Triều Tiên kéo dài hàng tuần với nhiều phong tục truyền thống như dán hình động vật lên cửa để cầu may, xem tướng số, đón mặt trăng… Ngày lễ Seollal đã từng bị bãi bỏ trong khoảng thời gian dài, nhưng nay được phục hồi và công nhận là ngày lễ quốc gia ở Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc.\nTết Âm Lịch hay còn gọi là Tết Tháng Trắng, Tết Nguyên Đán là một trong những dịp lễ lớn nhất trong năm ở Mông Cổ. Đây là thời khắc báo hiệu mùa đông giá lạnh đã kết thúc, là dịp để gia đình sum vầy và thắt chặt mối quan hệ. Những ngày đầu năm, người Mông Cổ sẽ chỉ mặc trang phục dân tộc. Họ quay quần cùng nhau, trò truyện, vui đùa, trao đổi các món ăn và thưởng thức chúng.\nỞ Nhật Bản mặc dù đã ngừng đón Tết theo âm lịch để chuyển sang đón Tết theo dương lịch (xem Tết Nhật Bản) từ năm 1873 trong thời kỳ Minh Trị duy tân, tuy nhiên ở một số địa phương phía nam Nhật Bản như Okinawa thì người dân vẫn đón Tết theo âm lịch và một số lễ hội Tết âm lịch vẫn được tổ chức ở một vài địa điểm. Nhưng Tết âm lịch không được coi là ngày lễ quốc gia của Nhật Bản nên mọi người vẫn phải đi làm, đi học.\nĐông Nam Á.\nỞ Singapore, người dân đón Tết truyền thống cùng thời điểm với Tết Nguyên đán của người Việt Nam. Những ngày Tết ở Singapore thường diễn ra với Lễ hội mùa xuân với 3 sự kiện nổi bật: Lễ hội Hoa đăng, Lễ hội Singapore River Hongbao và Lễ hội đường phố Chingay, kéo dài từ mùng 1 Tết cho đến 15 tháng Giêng âm lịch. Mỗi lễ hội đều mang đậm chất xuân, vui tươi và có rất đông người dân tham gia.\nỞ Malaysia, một phần tư dân số Malaysia là người Hoa kiều, vì vậy Tết Nguyên đán cũng là một dịp rất quan trọng với họ. Nó cũng được coi là kỳ nghỉ chính thức tại quốc gia này.\nCác giai đoạn chính trong Tết.\nNgười Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều phải thật sớm và mới. Do đó trước ngày Tết khoảng hơn 2 tuần, các gia đình đã sắm sửa cho ngày Tết. Họ thường quét dọn, trang trí nhà cửa, mua hoa, sắm thức ăn... thật chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả những vật dụng không cần thiết hoặc bị cho là đem lại điềm gở cũng bị vứt bỏ.\nRằm tháng Chạp.\nRằm tháng Chạp là lễ cúng rằm của tháng tổng kết cuối cùng của một năm, chuẩn bị cho lễ cúng ông Táo và lễ Giao Thừa đón năm mới. Chính vì vậy, nhiều gia đình Việt coi trọng lễ này hơn các lễ cúng rằm khác trong năm. Các lễ nghi và thủ tục cúng rằm tháng Chạp cũng được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng hơn. Rằm tháng Chạp vào ngày 15 tháng cuối cùng âm lịch, tức là chỉ còn 8 ngày nữa đến Tết ông Táo, và khoảng nửa tháng nữa là đến lễ cúng tất niên đón năm mới.\nCúng ông Công ông Táo.\nCông việc chính thức sửa soạn đón Tết của người Việt Nam thường bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo quân). Theo quan điểm của người Việt thì ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà con người đã làm trong năm cũ và báo cáo với Ngọc Hoàng những vấn đề tốt xấu của gia chủ. Ông Táo được cúng vào trưa hoặc chiều ngày 23 tháng Chạp âm lịch hàng năm. Lễ cúng gồm có hương (nhang), nến, hoa quả, vàng mã và hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà kèm theo ba con cá chép (cá chép thật hoặc cá chép làm bằng giấy kèm theo cỗ mũ). Theo sự tích ông Táo, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp Ngọc Hoàng. Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu, trong khi ở thành phố, phong tục này đã bị lãng quên. Theo phong tục, cây nêu được dựng lên để chống lại quỷ dữ và những điềm gở. Cây nêu thường được treo hoặc trang trí thêm những thứ được coi là để dọa ma quỷ như: tỏi, xương rồng, hình nộm và lá dứa. Trước ngày Tết, người Việt cũng chuẩn bị bánh chưng, bánh giầy còn ở miền nam thì loại bánh phổ biến là bánh tét và các món ăn thịnh soạn để dâng lên ông bà tổ tiên.\nTất niên.\nNgày Tất niên có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu). Đây là ngày gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm buổi tất niên. Buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng Giêng, giờ Tý (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, nó được gọi là \"Giao thừa\". Để ghi nhận thời khắc này, người ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia tiên tại bàn thờ ở trong nhà mình và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ thì gọi là cúng \"Ông Ba Mươi\". Một số cộng đồng khác thì có một phần cỗ dành để cúng chúng sinh, cúng những cô hồn lang thang không nơi nương tựa.\nSắp dọn bàn thờ.\nTrong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông vải). Cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau tùy theo từng nhà. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng và hương là tinh tú. Một bát hương đặt chính giữa (có thể có hai bát hương nhỏ hơn đặt đối xứng hai bên). Phía sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Có nhà cũng cắm \"cành vàng lá ngọc\" (một thứ hàng mã) với sự cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc và buôn bán lãi gấp nhiều lần năm trước. Ở giữa có trục \"vũ trụ\" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu và vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen hai cái đĩa giữa đèn và hương để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó). Trước bát hương để một bát nước trong để coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu và dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới.\nGiao thừa.\nGiao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Vào dịp này, các địa phương thường tổ chức bắn pháo hoa ở những địa điểm rộng rãi, thoáng mát.\nCúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến.\nTheo tục lệ cổ truyền thì \"Giao thừa\" được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (chữ Hán: 天兵, tức 12 vị Hành khiển). Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển (行遣) cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại. Mười hai vị Hành khiển và Phán quan (判官) gồm:\nMâm lễ được sắp bày với lòng thành kính tiễn đưa người Nhà Trời đã cai quản mình năm cũ trở lại Thiên đình và đón người mới xuống sẽ làm nhiệm vụ cai quản Hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Trên chiếc hương án có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến.\nLễ vật gồm các chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, bánh giày, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu hoặc nước và vàng mã. Các quan mặc dầu phút bàn giao bận rộn khẩn trương nhưng vì là... người nhà trời nên có tài thấu hiểu ngay \"ruột gan\" của gia chủ. Nếu có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót, các vị chỉ nhìn dấu hiệu ở khói hương, lửa đèn là biết ngay, và lập tức các vị dông thẳng, không thèm ngó ngàng gì đến vật cúng giao thừa của các nhà cầu lợi ấy. Trái lại, những nhà chân chất, thật thà, sống bằng lao động, ăn ở tử tế thì có khi chỉ cần chén rượu, nén hương (như Thổ công đánh tín hiệu qua hương đèn), các vị có chức trách biết ngay mà vui vẻ thưởng thức, dốc lòng phù hộ.\nLễ trừ tịch còn là lễ để \"khu trừ ma quỷ\", do đó có từ \"trừ tịch\". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.\nCỗ mặn gồm có bánh chưng, giò, chả, xôi gấc, thịt gà, xôi các loại, rượu, bia và các loại thức uống khác. Các món ăn mặn khác tùy theo nhu cầu của gia đình. Cỗ ngọt và chay bao gồm Hương, hoa, đèn nến, bánh kẹo, mứt Tết.\nKhi cúng Giao thừa trong nhà, các thành viên trong gia đình thường đứng trang nghiêm trước bàn thờ (không cần tất cả, chỉ cần gia chủ và vài ba người nữa) để khấn tổ tiên và xin được các cụ phù hộ độ trì trong nhà mới và cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ thường khấn thần Thổ Công để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ông là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái).\nCác hoạt động chính.\nBa ngày Tân niên.\n\"Ngày mồng Một tháng Giêng\" là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng \"Tân niên\", ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc Tết các ông bố theo tục: \"Mồng Một Tết cha\".\n\"Ngày mồng Hai tháng Giêng\" là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, người ta chúc Tết các bà mẹ theo tục \"Mồng Hai Tết mẹ\". Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục \"Đi sêu\".\n\"Ngày mồng Ba tháng Giêng\" là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục \"Mồng Ba Tết thầy\". Trong những ngày này người ta thường đi thăm viếng, về quê, hỏi thăm nhau những điều đã làm trong năm cũ và những điều sẽ làm trong năm mới.\nĐối với cộng đồng người Công giáo Việt Nam, ba ngày đầu năm họ thường tham dự thánh lễ ở nhà thờ với ý cầu nguyện cho từng ngày: mồng Một cầu nguyện bình an cho năm mới, mồng Hai cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ nếu còn sống và tưởng nhớ nếu đã qua đời, mồng Ba cầu nguyện thánh hóa cho công ăn, việc làm trong năm mới được tốt đẹp.\nXông đất.\nXông đất (hay \"đạp đất\", \"mở hàng\") là tục lệ đã có lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người quan niệm ngày Mồng Một \"khai trương\" một năm mới. Họ cho rằng vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt.\nCách chọn tuổi xông đất:\nNgười đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới. Thời xưa, chỉ có hai cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuổi hợp tuổi với chủ nhà.\nXuất hành và hái lộc.\nXuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần... Tại miền Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một \"cành lộc\" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục \"hái lộc\". Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.\nTuy nhiên việc hái lộc ngày nay đã có những quan niệm trái chiều so với trước đó là:\nNhững việc làm này không biết có mang lại may mắn không nhưng nó phản ánh mặt xấu của văn hóa ứng xử của những người trong cuộc.\nVào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc, người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi và có thể đoán được năm mới hên hay xui chẳng hạn:\nChúc Tết.\nSáng mồng Một Tết còn gọi là ngày \"Chính đán\", con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc Tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu \"chúc thọ\" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là tăng thêm một tuổi).\nMừng tuổi.\nLì xì: người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay \"hồng bao\", gọi là \"lì xì\" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong \"hồng bao\" có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ.\nTheo truyền thuyết: \nTiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là \"Tiền mở hàng\". Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ (chứ không phải là tiền chẵn), ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều.\nHóa vàng.\nNgày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này, người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, đặng phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.\nTục hóa vàng ngày mồng 4 hoặc mồng 5, không ít gia đình vẫn theo truyền thống cũ: làm cơm, đốt vàng mã gửi người thân khuất bóng lời cầu nguyện một năm mới nhiều may mắn. Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, tục \"hoá vàng\" dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới vô hình bên kia sống gần với dương gian. Vào ngày mồng 4 và mồng 5 tháng Giêng, người ta kiêng xuất hành vì đây là ngày không tốt.\nKhai hạ.\nNgày mồng 7 tháng Giêng là ngày cuối cùng của chuỗi lễ hội Tết. Trong ngày này, người Việt làm lễ hạ Cây nêu, gọi là \"lễ Khai hạ\", kết thúc dịp Tết Nguyên đán và bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới từ ngày mồng 8 hoặc mồng 9 tháng Giêng.\nMột số hoạt động Tết truyền thống.\nSắm Tết.\nChợ Tết là những phiên chợ có phiên họp chợ vào trước Tết từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho Tết Nguyên đán, như lá dong để gói bánh chưng, gạo nếp để gói bánh chưng hoặc nấu xôi, gà trống, hoa và các loại trái cây, dùng thờ cúng (ngũ quả) để cúng tổ tiên... Vì tất cả những người buôn bán hầu như sẽ nghỉ bán hàng trong những ngày Tết, những ngày đầu năm mới không họp chợ, nên phải mua để dùng cho đến khi họp chợ trở lại đưa đến mức cầu rất cao. Người Việt có câu \"mồng bốn chợ ma, mồng ba chợ người\" nên chợ được họp phiên đầu năm là mồng ba Tết (ngày 3 tháng 1 âm lịch). Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa Tết, những loại trái cây, đặc biệt là dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài... Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước giờ Ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. Kèm theo các chợ mua bán ngày giáp Tết đông đúc, nhiều nơi còn tổ chức các chợ hoa nhằm vui xuân.\nHiện nay, nhiều chợ Gốm đã được mở vào ngày giáp Tết để phục vụ người dân.\nDọn dẹp, trang trí.\nMâm ngũ quả.\nMâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.\nChọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi.\nMâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: chuối, bưởi, đào, hồng, quýt hay là chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể thay thế bằng cam, lê-ki-ma, táo, mãng cầu. Nói chung, người miền Bắc không có phong tục khắt khe về mâm ngũ quả và hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc.\nCũng như người miền Bắc, mâm ngũ quả của người miền Nam không quy định khắt khe phải có những loại trái cây gì, thường thì gồm mãng cầu Xiêm, sung, dừa, đu đủ, xoài với ngụ ý \"cầu sung vừa đủ xài\". Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu (kể cả khi đọc trại) như chuối - \"chúi nhủi\", cam - \"cam chịu\", lê - \"lê lết\", sầu riêng - ưu buồn, \"bom\" (táo), lựu - \"lựu đạn\"... và không chọn trái có vị đắng, cay.\nCây nêu.\nCây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai. Ở Gia Định xưa, sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: \"\"bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là \"lên nêu\"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ\"\".\nNgười ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là \"hạ nêu\" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi\".\nTranh Tết.\nPhía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư... có khi là một chữ Hán (\"Tâm\" - 心, \"Phúc\" - 福, \"Đức\" - 德...).\nTranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam và không chỉ người có tiền mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.\nCâu đối Tết.\nĐể trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân \"tồn cổ\" vẫn còn trọng tục treo \"câu đối đỏ\" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Hán (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. Bản thân chữ \"câu đối đỏ\" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:\nCâu đối thuộc thể loại \"văn biền ngẫu\", gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam.\nNgoài ra, ngày nay vẫn còn tồn tại tục \"xin chữ\" lấy hên đầu năm, với việc mua những tấm thư pháp viết chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ (chữ Latinh), với mục đích ấy, nhiều phố ông đồ với những ông đồ viết những tấm thư pháp bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ đã được tái lập tại Sài Gòn và Hà Nội. Những năm gần đây, để chấn chỉnh tình trạng lộn xộn và kinh doanh cẩu thả, tại Văn Miếu, Hà Nội đã có những kỳ thi sát hạch các ông đồ trước Tết.\nCây và hoa Tết.\nNgoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ...; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet, hoa đồng tiền... Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa kèn, huệ tây, lá măng, thạch thảo... cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý nghĩa sum họp cho bình hoa ngày Tết. Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc.\nMiền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân.\nHoa mai, với miền Nam nước Việt, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới rất thích hợp môi trường cho hoa mai đơm bông nảy mầm mỗi dịp Xuân về Tết đến. Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hơn miền Bắc, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Đối với người miền Nam, nếu hoa mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm ngày mùng một Tết thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc sẽ đến với cả gia đình trong năm đó.\nBên cạnh những cây hoa Tết, không thể không nhắc đến cây quất — loại cây thường được bày bố và trang trí tại phòng khách trong những ngày Tết. Cây quất Tết ngày càng có nhiều kiểu dáng cầu kỳ nhưng vẫn phải bảo đảm sự xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống.\nẨm thực ngày Tết.\nThành ngữ Việt Nam có câu \"Đói giỗ cha, no ba ngày Tết\". Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho \"già được bát canh, trẻ có manh áo mới\". Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người mà nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ. Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là \"ăn Tết\". Ngoài cơm, ngày Tết còn có:\nTrong văn hóa-nghệ thuật.\nThi ca.\nTết, và các tục lệ, được nhắc đến rất nhiều trong ca dao Việt Nam:\nTết cũng là đề tài cho nhiều văn, thi sĩ:\nHay câu đối Tết như:\nNhạc Tết.\nDịp Tết là dịp vui vẻ nên không thể thiếu âm nhạc. Trong Tân nhạc Việt Nam có rất nhiều ca khúc sáng tác về chủ đề Tết và mùa Xuân. Trước đây có nhiều ca khúc xưa nổi tiếng như \"Ly rượu mừng\", \"Đón xuân\" của Phạm Đình Chương, \"Xuân và tuổi trẻ\" của La Hối, \"Xuân họp mặt\" của Văn Phụng, \"Xuân đã về\" của Minh Kỳ, \"Anh cho em mùa xuân\" của Nguyễn Hiền, \"Mùa xuân đầu tiên\" của Tuấn Khanh... Trong thời chiến tranh Việt Nam, có những ca khúc hùng ca cho người chiến sĩ, nung đúc tinh thần họ như bài \"Xuân chiến khu\" của Xuân Hồng ở miền Bắc, nhưng cũng có những ca khúc buồn nói về sự xa cách như \"Xuân này con không về\" của bộ ba nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân ở miền Nam. Thập niên 90, nhiều ca khúc vui tươi đã được phổ biến như \"Mùa xuân đầu tiên\" của Văn Cao, \"Thì thầm mùa xuân\" của Ngọc Châu, \"Hoa cỏ mùa xuân\" của Bảo Chấn, \"Lắng nghe mùa xuân về\" của Dương Thụ, \"Ngày Tết quê em\" của Từ Huy, \"Mùa xuân ơi\" của Nguyễn Ngọc Thiện, \"Điệp khúc mùa xuân\" của Quốc Dũng... Nhưng từ năm 2000 trở lại đây thiếu vắng những bài nhạc Xuân mới tạo được sự nổi tiếng mà thường là các ca sĩ chỉ hát nhạc cũ và phối âm lại, nhưng cũng có ca khúc đạt mức phổ biến cao như \"Ngày xuân long phụng sum vầy\" của Quang Huy (2011). \nNgoài ra, Tết cũng là dịp để các nghệ sĩ thực hiện những show ca múa nhạc Tết và hài kịch phục vụ người ái mộ . Các hãng sản xuất phim cũng có phim Tết đặc biệt.\nCụm từ \"Tết\" được nhắc đến rất nhiều lần trong bài hát \"\"Ngày Tết quê em\" của Từ Huy:\nVà bài hát \"Mùa xuân ơi\"\" của Nguyễn Ngọc Thiện nhắc nhiều lần cụm từ \"Xuân xuân ơi\":\nPhong tục, tập quán ngày Tết.\nSinh hoạt ngày Tết.\nNgày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm. Đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới để làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hi vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.\nLễ hội Tết.\nCác lễ hội truyền thống khác như thi đấu cờ người; đua thuyền, đấu vật, đánh còn, múa lân, múa rồng, thi thả chim bồ câu... tùy theo bản sắc văn hóa của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày Tết với những phần \"lễ\" và phần \"hội\" chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú.\nTừ năm 2004, tại Thành phố Hồ Chí Minh có Đường hoa Nguyễn Huệ và Đường sách Tết tại phường Bến Nghé, Quận 1 và Hội hoa Xuân thường niên tại công viên Tao Đàn và từ năm 2009, tại Hà Nội có Lễ hội phố hoa Hà Nội tại phường Tràng Tiền và Lý Thái Tổ thuộc quận Hoàn Kiếm để trang hoàng hoa cho khách thưởng ngoạn, tuy không tổ chức hàng năm và phố Ông đồ ở Văn Miếu. Từ năm 2007, tại phường 7 thuộc địa phận thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang có Đường hoa Hùng Vương tổ chức hàng năm. Ngoài ra còn Đường hoa Bạch Đằng tại Đà Nẵng, Đường hoa Trấn Biên tại Biên Hòa, Đường hoa Bạch Đằng tại Bình Dương, Đường hoa 16/4 tại Ninh Thuận, Đường hoa Phú Mỹ Hưng tại Khu đô thị Phú Mỹ Hưng, Thành phố Hồ Chí Minh.\nNgoài hội Tết, nhiều địa phương còn tổ chức các lễ hội mùa Xuân đặc biệt, chẳng hạn như:\nTại Hà Nội, vào ngày mùng 5 Tết, lễ hội Quang Trung được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc địa phận phường Quang Trung, quận Đống Đa và vào ngày mùng 6 là bắt đầu lễ hội Cổ Loa tại xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh, lễ hội chùa Hương tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, lễ hội đền Hai Bà Trưng tại huyện Mê Linh.\nCác nơi khác có Chợ Âm Dương mùng 4 ở phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và Chợ Viềng mùng 7 tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản và tại thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực thuộc tỉnh Nam Định, Hội xuân Núi Yên Tử ở xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh.\nTại làng cổ Vân Luông thuộc phường Vân Phú nằm ở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ có hội ném đá, gọi là Ném Chài vào ngày 3 tháng giêng. Từ năm 1946 hội Ném Chài thôi tổ chức vì nguy hiểm tính mạng. Năm 2004 lễ hội được phục hồi nhưng thay ném đá bằng túi vải đựng cát.\nTại xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ Chuộng tổ chức vào mùng 6 Tết, người dân đến mua bán một số sản vật nông nghiệp để lấy may, còn thanh niên thì đánh nhau để cầu may.\nTín ngưỡng ngày Tết.\nKiêng kỵ.\nTheo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người, có sự giống và khác nhau giữa các miền với niềm tin chính để giữ điều lành trong năm mới. Điển hình, người Việt có một số kiêng kỵ như sau:\nMiền Bắc\nMiền Trung\nTết của người Việt xa quê hương.\nNgười Việt sống ở nước ngoài nếu không có điều kiện về Việt Nam trong dịp Tết cũng tổ chức những hoạt động trong dịp Tết Âm lịch mang đậm truyền thống văn hóa Việt. Nhiều nơi có đông người Việt sinh sống như tại Mỹ, Úc, Pháp, Nga, Đức... người Việt sinh sống tại đây ăn Tết với bánh chưng gói và bán sẵn cũng như các món ăn được đưa từ Việt Nam sang như nước mắm Phan Thiết, cho đến củ tỏi, củ hành, rau húng, rau thơm... Nhiều gia đình cũng lập bàn thờ Gia tiên, bàn thờ cũng có mâm ngũ quả, bánh chưng, mứt Tết, hương trầm, rượu, kim ngân..., có gia đình treo cả câu đối, và một lọ hoa tươi giống như đón Tết cổ truyền tại Việt Nam.\nNhiều nơi, cộng đồng và các hội đoàn người Việt, các chùa Phật giáo, các giáo xứ Công giáo có tổ chức Hội Tết và ca nhạc văn nghệ Tết. Sứ quán Việt Nam và các lãnh sự quán Việt Nam tại nước ngoài cũng có tổ chức các hoạt động vui Tết đón xuân cho kiều bào như các buổi tiệc nhỏ hay văn nghệ Tết, như tại Thái Lan, Canada ... Các khu thương xá của người Việt, các khu chợ Việt như tại Little Saigon ở tiểu bang California, Hackney (hay được gọi là \"khu Việt Nam\" tại Luân Đôn), Cabramatta (còn gọi là Saigonmatta) ở Sydney, Úc... cũng có bán các mặt hàng mứt, bánh chưng, hạt sen, lá dong tươi để gói bánh chưng, bánh tét, gạo nếp, xôi gấc, dừa khô, măng khô... được chuyển từ Việt Nam sang. Chợ hoa cũng có bán cành đào, cành mai, dưa hấu nhập từ các nước châu Á sang để trưng bày trong nhà.\nTại Mỹ, trước Tết Nguyên đán, kiều bào và du học sinh thường kết hợp tổ chức lễ hội mừng Tết lớn cho cộng đồng người Việt và cả cộng đồng người bản xứ. Đặc biệt hơn ở Việt Nam là nơi đây, vào ngày Tết được quyền đốt pháo nên các khu chợ Việt như chợ Lion, khu Little Saigon tràn ngập xác pháo giữa đêm giao thừa cho đến trọn ngày mồng 1 Tết. Hàng năm, vào ngày Tết, đều có các cuộc diễn hành Tết của cộng đồng người Việt tại khắp nơi, với các xe hoa và đoàn múa, lớn nhất là tại San Jose do Hội Diễn hành Xuân (\"Vietnamese Spring Festival\") tổ chức, với sự kết hợp của nhiều hội đoàn, tổ chức. Hội chợ Tết cũng diễn ra khắp nơi với các phần đốt pháo, múa lân, ca nhạc văn nghệ, tái hiện các làng quê Việt xưa, thi đố vui để học, thi hoa hậu áo dài, thi đấu võ, thi thiếu nhi tài năng, thi gói bánh chưng bánh tét... Như tại Garden Grove, California, công viên Garden Grove Park và trường Bolsa Grande High School hiện nay là địa điểm tổ chức \"Hội Tết Sinh viên\" hằng năm, với hàng trăm ngàn người tham dự, và do Tổng hội Sinh viên Việt Nam Nam Cali (UVSA) tổ chức liên tục từ năm 1982 đến nay. Hội Tết Sinh viên năm 2013 có chủ đề là \"Xuân quê hương - Việt Nam anh hùng\" và đã được tổ chức trong 3 ngày 08-09-10 tháng 2 năm 2013. Hội Tết Sinh viên năm 2014 với chủ đề \"Mùa Xuân Mới\" sẽ được tổ chức trong ba ngày 7 đến 9 tháng 2 năm 2014 tại Orange County Fair & Event Center. Tại bang California, vào cuối tháng 9/2022, ông Gavin Newsom, Thống đốc bang California, đã ký luật chính thức công nhận Tết Nguyên đán là một ngày lễ của bang.\nTại Úc, hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán, đều có các cuộc diễn hành Tết và Hội Tết của cộng đồng người Việt tại khắp nơi, mang đậm bản sắc văn hóa Việt, như tại Sydney, Melbourne với hàng trăm ngàn người tham dự . Các hội Tết cũng có các món ăn Việt, những trò chơi dân gian, những gian hàng chợ Tết, bắn pháo hoa, múa lân, tái hiện văn hóa Việt xưa...\nĐối với nhiều kiều bào có dịp về Việt Nam đón Tết Nguyên Đán cũng được chính quyền của các địa phương đón tiếp nồng hậu. Nhiều buổi họp mặt kiều bào có sự tham dự của đại diện lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân và lãnh đạo Sở ban ngành cấp địa phương.\nNgày đầu năm theo Con giáp.\nTrong bảng này tính các năm từ 1984 đến 2091.\nTheo quy luật của bảng trên, cứ 2 hoặc 3 năm thì có một năm Tết rơi vào tháng 1, còn lại là tháng 2.\nÝ tưởng gộp Tết.\nNhững năm gần đây, trên các diễn đàn đã xuất hiện ý tưởng gộp Tết và được bàn tán, tranh luận nhiều. Năm 2005, Giáo sư Võ Tòng Xuân đã nêu ra đề xuất \"Nên ăn Tết Ta theo lịch Tây\", ông cho rằng \"Nên nghỉ Tết dương lịch với thời gian như nghỉ Tết âm lịch hiện nay (từ 26/12 đến 4/1), và nghỉ Tết âm lịch như nghỉ Tết dương lịch hiện nay (khoảng 2 ngày là đủ). Tất cả các hoạt động chào mừng năm mới, lễ họi truyền thống... vẫn tiếp tục gìn giữ và phát huy.\"\nGiáo sư này đã nêu lên những bất lợi của Tết Nguyên Đán rằng nó sẽ làm mất cơ hội nắm bắt ngay thời cơ kinh doanh, giao thương với nước ngoài và mất thời giờ của nông dân lo chăm sóc lúa đông-xuân, vụ lúa tiềm năng cao nhất trong năm. Gượng ép thời khóa biểu học tập và thi học kỳ của sinh viên học sinh, làm cho họ mất cả hai tuần lễ học hành; dân chúng nhậu nhẹt, bài bạc dưới nhiều hình thức, rất tốn kém tiền của và thời gian học tập, tổn hại sức khỏe và tính mạng và lãng phí ngày làm việc trong khi quốc tế nghỉ Tết Tây. Giáo sư cho rằng Việt Nam nên gộp như vậy để bắt kịp thế giới, học tập theo gương của nước Nhật Bản (Tết Nhật Bản), thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc.\nVào những ngày đầu năm, vấn đề này lại được báo chí đưa ra bàn luận, với các ý kiến ủng hộ và phản đối trái chiều nhau .\nNhững người ủng hộ cho rằng ăn Tết Ta như hiện nay gây rối loạn kế hoạch sản xuất ở các cơ sở công nghiệp. Nếu tiếp tục thì sẽ bị lạc bước, lỡ nhịp với thế giới, nhất là khi được làm việc với người phương Tây vì người Tây không ăn Tết ta. Tết Ta ngày càng trở nên nhàm chán, Nếu ăn Tết Nguyên Đán theo Dương lịch thì sẽ hội nhập dễ, tiết kiệm thì giờ dành cho Tết, thuận tiện hơn vì chỉ còn một cái Tết Bỏ Tết Nguyên Đán thì tránh được những thủ tục phiền hà, tốn kém và sẽ tiện đủ đường. Nhiều bạn trẻ, nhất là phái nữ cũng phản đối Tết truyền thống vì cho rằng khi về quê, về làng có quá nhiều nghi lễ truyền thống nên cảm thấy không thoải mái nên có xu hướng đi nước ngoài du lịch khi Tết đến.\nTrái lại, có rất nhiều ý kiến phản đối gay gắt đề xuất này, bao gồm bạn đọc các báo, nghệ sĩ, nhà khoa học... Những người phản đối đã cho rằng nếu thay đổi như vậy thì sẽ gây nên sự mất mát rất lớn về văn hóa thiêng liêng, cổ truyền của dân tộc bởi Tết Nguyên Đán đã ăn sâu trong tâm thức của người dân. Dịp Tết chính là dịp để người thân sum họp sau một năm xa cách. Dịp Tết là dịp để gìn giữ, phát huy văn hóa cổ truyền của dân tộc. Giáo sư Sử học Lê Văn Lan đã chỉ ra rằng Tết Dương lịch chỉ là \"món ăn thêm\", còn Tết Âm lịch thì đã đi sâu vào máu thịt. Ca sĩ Mỹ Linh đã nói rằng ăn Tết Ta theo Dương lịch là \"thảm họa\". Mỹ Linh đã chỉ ra rằng Tết Nguyên đán theo cách tổ chức bao nhiêu đời này là những giây phút thiêng liêng cho sự khởi đầu một năm mới...Chứng tỏ rằng truyền thống dân tộc bao đời vẫn luôn được duy trì trong tâm trí mỗi con người Việt.\nTuy nhiên các thảo luận nói trên đều mới là ý tưởng cá nhân. Trong chương trình làm việc của cơ quan quyền lực nhà nước, gồm Quốc hội và Chính phủ, là nơi chịu trách nhiệm đưa ra quyết định, chưa hề có dự định nào liên quan đến thay đổi việc ăn Tết cổ truyền của dân tộc. Đại diện của Bộ Tư pháp cũng xác nhận rằng hiện chưa có chỉ đạo nào về việc nghiên cứu vấn đề gộp Tết để sửa đổi quy định pháp luật liên quan." ]
tt - dp - mng - nghi - ma - vui - cy - lch - chc - losar
0.690985
true
Lịch sử Việt Nam (Hán-Nôm: 歷史越南) nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì vào khoảng từ năm 700 năm trước công nguyên. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống tại Việt Nam từ thời đại đồ đá cũ thuộc nền văn hóa Tràng An, Ngườm, Sơn Vi và Soi Nhụ. Vào thời kỳ đồ đá mới, nền văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn tại vùng này đã phát triển về chăn nuôi và nông nghiệp, đặc biệt là kỹ thuật trồng lúa nước. Những người Việt tiền sử trên vùng châu thổ sông Hồng – Văn minh sông Hồng và sông Mã này đã khai hóa đất để trồng trọt, tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự nước lụt của các sông, đào kênh để phục vụ cho việc trồng lúa và đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xã. Truyền thuyết kể rằng từ năm 2879 TCN, nhà nước Xích Quỷ của người Việt đã hình thành, cùng thời với truyền thuyết về Tam Hoàng Ngũ Đế tại Trung Quốc. Tuy nhiên, đây chỉ là truyền thuyết dân gian, các nghiên cứu khảo cổ hiện chưa tìm được bằng chứng nào cho thấy nhà nước này từng tồn tại. Đến thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế kỷ 8 TCN đã xuất hiện nhà nước đầu tiên của người Việt được khảo cổ học xác nhận trên miền Bắc Việt Nam ngày nay. Theo sử sách, đó là Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Thời kỳ Vua Hùng được nhiều người ghi nhận là quốc gia có tổ chức đầu tiên của người Việt Nam, bắt đầu với truyền thuyết "Con Rồng cháu Tiên" mà người Việt Nam tự hào truyền miệng từ đời này qua đời khác. Thời kỳ tiền sử. Lịch sử Việt Nam thời tiền sử (trước thời Hồng Bàng) chỉ được ghi nhận, dự đoán thông qua các di tích khảo cổ. Các truyền thuyết, dã sử đều có sau giai đoạn này. Thời đại đồ đá. Khu vực nay là Việt Nam đã có người ở từ thời kỳ đồ đá cũ. Các nhà khảo cổ đã tìm ra các dấu vết người thượng cổ cư ngụ tại hang Thẩm Hoi, Thẩm Khuyên (Lạng Sơn), núi Đọ (Thanh Hóa), Thung Lang (Ninh Bình) và Nga Sơn, Thanh Hóa cách đây hàng trăm nghìn năm. Thời kỳ này mực nước biển thấp hơn, và Việt Nam khi đó nối liền với bán đảo Malaysia, đảo Java, Sumatra và Kalimantan của Indonesia, với khí hậu ẩm và mát hơn bây giờ. Người Việt cổ khai thác đá gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ một mặt, tạo nên những công cụ mũi nhọn, rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang, nạo... bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá vỡ (mảnh tước). Những di tích ở núi Đọ được coi là bằng chứng cổ xưa nhất về sự có mặt của con người tại vùng đất Việt, khi tổ chức xã hội loài người chưa hình thành. Vào thời kỳ mà các nhà nghiên cứu gọi là "Văn hóa Sơn Vi", những nhóm cư dân nguyên thủy tại đây đã sinh sống bằng hái lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt - ẩm với một thế giới động vật và thực vật phong phú, đa dạng cách đây 11-23 nghìn năm, cuối thế Canh Tân ("Late Pleistocene"). Cách đây 15.000 – 18.000 năm trước, đây là thời kỳ nước biển xuống thấp. Đồng bằng Bắc Bộ bấy giờ kéo dài ra mãi đến tận đảo Hải Nam và các khu vực khác. Về mặt địa chất học thời kỳ khoảng 15 nghìn năm trước Công nguyên (cách đây khoảng 18 nghìn năm) là thời kỳ cuối của kỷ băng hà, nước biển dâng cao dần đến khoảng năm 8.000 năm trước đây thì đột ngột dâng cao khoảng 130m (tính từ tâm của kỷ băng hà là khu vực Bắc Mỹ). Nước biển ở lại suốt thời kỳ này cho đến và rút đi vào khoảng 5.500 năm trước đây. Ứng với thời kỳ này cùng với các di chỉ khảo cổ cho thấy nước biển đã ngập toàn bộ khu vực đồng bằng sông Hồng ngày nay đến tận Vĩnh Phúc trong suốt gần 3.000 năm. Do chính đặc trưng về địa chất nên vùng đồng bằng sông Hồng, vịnh Bắc bộ không có điều kiện khai quật nền đất cổ đại có ở khoảng 8.000 năm trước Công nguyên (trước khi có đại hồng thủy) để xác nhận dấu vết của các nền văn minh khác nếu có. Trang sử Việt có một khoảng trống không xác định được từ khoảng năm trước 5.500 năm - 18.000 năm trước. Sau thời kỳ văn hóa Sơn Vi là văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, thuộc thời kỳ đồ đá mới. Văn hóa Hòa Bình được ghi nhận là cái nôi của nền văn minh lúa nước, xuất thân từ Đông Nam Á có niên đại trễ được tìm thấy vào khoảng 15000 năm trước đây. Do đặc trưng địa chất về hồng thủy nên có thể một phần sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa Hòa Bình có thể đã chưa bao giờ được nhận ra và tìm thấy. Các nhà khảo cổ đã liên kết sự khởi đầu của nền văn minh người Việt ở cuối thời kỳ đồ đá mới và đầu thời đại đồ đồng (vào khoảng hơn 5700 năm trước Công nguyên). Thời đại đồ đồng đá. Văn hóa Phùng Nguyên là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm. Phùng Nguyên là tên một làng ở xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra các di chỉ của nền văn hóa này. Thời đại đồ đồng. Văn hóa Đồng Đậu là nền văn hóa thuộc thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam cách ngày nay khoảng 3.000 năm, sau văn hóa Phùng Nguyên, trước văn hóa Gò Mun. Tên của nền văn hóa này đặt theo tên khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Thời đại đồ sắt. Đến khoảng năm 1200 TCN, sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng được khai quật của văn hóa Đông Sơn minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây, nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và lọ chôn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen. Thời kỳ cổ đại (2879–179 TCN). Kỷ Hồng Bàng (?–258 TCN). Truyền thuyết về nước Xích Quỷ. Theo một số sách cổ sử, các tộc người Việt cổ (Bách Việt) sinh sống ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn phía nam sông Trường Giang của Trung Quốc hiện nay đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở miền bắc Việt Nam. Truyền thuyết kể rằng nhà nước Xích Quỷ của các tộc người Việt đã được hình thành từ năm 2879 TCN tại vùng Hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay). Hiện không có chứng cứ khảo cổ để khẳng định sự tồn tại của nước Xích Quỷ, nó chỉ mang tính huyền thoại giống như thời kỳ Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa. Nếu thực sự tồn tại một liên minh của các bộ tộc người Việt cổ (Xích Quỷ) trong thời kỳ này thì có thể nói đây chỉ là một kiểu "liên minh các bộ tộc" lỏng lẻo giữa các nhóm tộc Việt khác nhau như Điền Việt ở Vân Nam, Dạ Lang ở Quý Châu, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Triết Giang, Sơn Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt (Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việt ở miền bắc Việt Nam... Các nhóm tộc Việt này có nhiều điểm khác nhau về ngôn ngữ, tập quán và địa bàn cư trú, quan hệ giữa các tộc này chủ yếu là trao đổi buôn bán chứ không có một nhà nước thống nhất. Đến thời Xuân Thu–Chiến Quốc (thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ III TCN), do các sức ép từ các vương quốc Sở, Tần ở miền Bắc Trung Quốc và làn sóng người Hoa Hạ chạy tị nạn chiến tranh từ miền Bắc xuống nên dần dần các tộc người Việt cổ bị mất lãnh thổ, một số bộ tộc Việt bị đồng hóa vào người Hoa Hạ. Đỉnh điểm là vào thời Tần Thủy Hoàng, lãnh thổ của Trung Hoa kéo xuống tận ven biển phía nam Quảng Đông. Những biến động trong thời kỳ này cũng dẫn tới sự tan rã của liên minh của các tộc người Việt; từ thế kỷ VIII TCN trở đi từ các bộ tộc Việt cư trú tại các khu vực khác nhau ở miền nam sông Dương Tử đã hình thành nên các nhà nước khác nhau ở từng khu vực cũng như thời kỳ như: Nước Việt, Văn Lang, Việt Thường, Nam Việt, Âu Lạc, Quỳ Việt, Mân Việt, Đông Việt... Các bộ tộc này từng bước bị các vương triều của người Hoa Hạ ở miền Bắc sông Dương Tử đánh bại thôn tính, hoặc là tự nội chiến với nhau dẫn tới suy yếu. Đến thời kỳ đế chế Hán khoảng thế kỷ I TCN, tất cả các nhà nước Việt đều bị thôn tính. Nước Văn Lang (Thế kỷ VII–258 TCN hoặc 218 TCN). Đến thế kỷ 8 TCN, các nhà nước độc lập của các tộc người Việt dần được hình thành khắp vùng phía Nam sông Dương Tử. Các tài liệu nghiên cứu hiện đại cũng như các bằng chứng khảo cổ học phần lớn đều đồng ý theo ghi chép của "Việt sử lược" về một vương quốc Văn Lang của người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ VII TCN cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN – 682 TCN) ở Trung Quốc. Vương quốc này tồn tại ở khu vực mà ngày nay là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ cũng như ba tỉnh Thanh Hóa-Nghệ An-Hà Tĩnh. Nhà nước này có thể đã giao lưu buôn bán với các bộ tộc Việt khác, có thể là cả với nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn ở khu vực hạ lưu sông Trường Giang (Trung Quốc) ngày nay. Bộ máy nhà nước Văn Lang đã bước đầu phỏng theo thể chế quân chủ. Ở trung ương do vua Hùng đứng đầu, có các Lạc hầu và Lạc tướng giúp việc. Ở địa phương chia thành 15 bộ (là 15 bộ lạc của vùng đồng bằng Bắc Bộ trước khi nhà nước ra đời) do Lạc tướng cai quản. Dưới bộ là các làng do Bồ chính cai quản. Nhà Thục (257 hoặc 208 TCN – 179 TCN). Đến thế kỷ III TCN, Thục Phán, thủ lĩnh của bộ tộc Âu Việt – một trong những bộ tộc của Bách Việt ở phía Bắc Văn Lang, đã đánh bại Hùng Vương thứ 18 lập nên nhà nước Âu Lạc. Nhà nước liên minh Âu Việt – Lạc Việt đã đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tần. Nhà nước định đô tại Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay. Ông tự xưng là An Dương Vương. Nước Âu Lạc của An Dương Vương bị Triệu Đà (một viên tướng cũ của nhà Tần) thôn tính năm 208 TCN (hoặc 179 TCN). Thời kỳ Bắc thuộc (179 TCN–939 SCN). Nhà Triệu (179 TCN–111 TCN). Bắc thuộc là một vấn đề còn có hai quan điểm khác nhau từ xưa đến nay của lịch sử Việt Nam, phần lớn các quan điểm sử học thời phong kiến đều cho rằng nhà Triệu là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, vì vậy thời Bắc thuộc bắt đầu từ năm 111 TCN khi nhà Hán đánh chiếm nước Nam Việt. Quan điểm thứ hai được xuất hiện từ thế kỷ XVIII khi sử gia Ngô Thì Sĩ phủ nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam vì Triệu Đà vốn là người Hoa ở phương Bắc, là tướng theo lệnh Tần Thủy Hoàng mà đánh xuống phương Nam. Quan điểm này được tiếp nối bởi sử gia Đào Duy Anh trong thế kỷ XX, các sách lịch sử trong nền giáo dục tại Việt Nam hiện nay đều theo quan điểm này. Theo quan điểm thứ hai này thì thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 179 TCN khi nhà Triệu đánh chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương. Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu thời Chiến Quốc, nay là tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc) được nhà Tần bổ nhiệm là Huyện lệnh huyện Long Xuyên, sau được Nhâm Ngao tự ý bổ nhiệm làm Quận úy quận Nam Hải (thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay). Nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN), Triệu Đà đã tách ra cát cứ quận Nam Hải, sau đó đem quân thôn tính sáp nhập vương quốc Âu Lạc và quận Quế Lâm lân cận rồi thành lập một nước riêng, quốc hiệu Nam Việt với kinh đô đặt tại Phiên Ngung (nay là thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông) vào năm 207 TCN. Nước Nam Việt trong thời nhà Triệu bao gồm khu vực hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam ngày nay. Nam Việt được chia thành 4 quận: Nam Hải, Quế Lâm, Giao Chỉ và Cửu Chân. Biên giới phía bắc là hệ thống dãy núi Ngũ Lĩnh, biên giới phía nam là dãy Hoành Sơn. Sau khi nhà Hán được thành lập và thống nhất toàn Trung Quốc, Triệu Đà xưng là Hoàng đế của nước Nam Việt để tỏ ý ngang hàng với nhà Tây Hán. Trong khoảng thời gian 68 năm (179 TCN – 111 TCN), miền Bắc Việt Nam hiện nay là một phần của nước Nam Việt, nước này có vua là người Trung Hoa và vị vua này không công nhận sự cai trị của nhà Hán. Bắc thuộc lần 1 (111 TCN–40 SCN). Năm 111 TCN, đội quân của Hán Vũ Đế xâm chiếm nước Nam Việt và sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán. Người Trung Quốc muốn cai quản miền châu thổ sông Hồng để có điểm dừng cho tàu bè đang buôn bán với Đông Nam Á. Trong thế kỷ I, các tướng Lạc Việt vẫn còn được giữ chức, nhưng Trung Quốc bắt đầu chính sách đồng hóa các lãnh thổ bằng cách tăng thuế và cải tổ luật hôn nhân để biến Việt Nam thành một xã hội phụ hệ để dễ tiếp thu quyền lực chính trị hơn. Hai Bà Trưng (40–43). Một cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã nổ ra ở quận Giao Chỉ, tiếp theo sau đó là các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và các địa phương khác của vùng Lĩnh Nam (mà theo cổ sử Việt ghi nhận là có tất cả 65 thành trì) hưởng ứng trong năm 40. Sau đó, nhà Hán phái tướng Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa này. Sau 3 năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướng Mã Viện đàn áp. Do bị cô lập và quân đội chưa tổ chức hoàn thiện nên Hai Bà Trưng không đủ sức chống cự lại quân do Mã Viện chỉ huy. Hai Bà Trưng đã tự vẫn trên dòng sông Hát để giữ vẹn khí tiết. Bắc thuộc lần 2 (43–544). Tiếp theo sau nhà Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc kế tiếp khác như Đông Ngô, nhà Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, nhà Lương lần lượt thay nhau đô hộ Việt Nam, người Việt cũng đã nhiều lần nổi dậy chống lại sự cai trị của ngoại bang, tuy nhiên tất cả đều không thành công cho mục tiêu giành độc lập. Các cuộc nổi dậy tiêu biểu như khởi nghĩa anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh vào thời thuộc Đông Ngô. Cuộc nổi dậy của anh em Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến từ thời bắc thuộc Lưu Tống, Nam Tề từ năm 468 đến 485. Nhà Tiền Lý (544–602). Năm 541, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa, đã đánh đuổi được thứ sử Tiêu Tư nhà Lương, sau 3 lần đánh bại quân Lương những năm kế tiếp, Lý Bí tự xưng đế tức là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân vào năm 544. Đến năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục. Sau khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục đánh đuổi được quân Lương vào năm 550, bảo vệ được nước Vạn Xuân. Ông tự xưng là Triệu Việt Vương, đến năm 571, một người cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 20 năm nữa cho đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602. Bắc thuộc lần 3 (602– 905). Kế tiếp nhà Tùy, nhà Đường đô hộ Việt Nam gần 300 năm. Trung Quốc đến thời Đường đạt tới cực thịnh, bành trướng ra 4 phía, phía bắc lập ra An Bắc đô hộ phủ, phía đông đánh nước Cao Ly lập ra An Đông đô hộ phủ, phía tây lập ra An Tây đô hộ phủ và phía nam lập ra An Nam đô hộ phủ, tức là lãnh thổ nước Vạn Xuân cũ. Trong thời kỳ thuộc nhà Đường, đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc của người Việt như khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, khởi nghĩa Mai Hắc Đế, khởi nghĩa Phùng Hưng và khởi nghĩa Dương Thanh từ cuối thế kỷ VII đến thế kỷ IX. Từ sau loạn An Sử (756–763), nhà Đường suy yếu và bị mất thực quyền kiểm soát với nhiều địa phương do các phiên trấn cát cứ, không kiểm soát nổi phía nam. An Nam đô hộ phủ bị các nước láng giềng Nam Chiếu, Chăm Pa, Sailendra vào cướp phá và giết hại người bản địa rất nhiều, riêng Nam Chiếu đã giết và bắt đến 15 vạn người, quân Đường bị đánh bại nhiều lần. Tới năm 866, nhà Đường kiểm soát trở lại và đổi gọi là Tĩnh Hải quân. Cuối thế kỷ IX, nhà Đường bị suy yếu trầm trọng sau cuộc nổi loạn của Hoàng Sào và các chiến tranh quân phiệt tại Trung Quốc. Tại Việt Nam, năm 905, một hào trưởng địa phương người Việt là Khúc Thừa Dụ đã chiếm giữ thủ phủ Đại La, bắt đầu thời kỳ tự chủ của người Việt. Ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam. Các triều đại này cố gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc Hán. Tuy vậy, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng về tổ chức thể chế chính trị, xã hội, văn hóa của Trung Quốc, nhưng người Việt Nam vẫn giữ được nhiều bản chất nền tảng văn hóa dân tộc vốn có của mình sau một nghìn năm đô hộ. Người Việt cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa đang phát triển ở Đông Á, mặc dù lúc đó Đông Nam Á đã chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Đại thừa được hòa trộn với Nho giáo, Lão giáo và thêm vào đó là các tín ngưỡng dân gian địa phương. Thời kỳ tự chủ (905–939). Họ Khúc (905–923 hoặc 930). Năm 905, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho nền độc lập của Việt Nam. Thời kỳ quân chủ (939–1945). Thời kỳ độc lập (939–1407). Năm 939, Ngô Quyền xưng vương sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng trước quân Nam Hán. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh xưng đế, lập nên nhà Đinh (968–980) và đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi vua, lập nên nhà Tiền Lê (980–1009). Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập nên nhà Lý (1009–1225). Năm 1054, vua Lý Thánh Tông đổi tên thành Đại Việt. Việt Nam giai đoạn này trải qua nhiều chế độ phong kiến: Nhà Ngô (939–965), nhà Đinh (968–980), nhà Tiền Lê (980–1009), nhà Lý (1009–1225), nhà Trần (1226–1400) và nhà Hồ (1400–1407). Trong thời kỳ này, các vương triều phương Bắc ở Trung Hoa, Mông Cổ mang quân sang xâm lược, nhưng đều bị Việt Nam đẩy lùi: Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đẩy lui hai lần quân nhà Tống (năm 981 và 1076), nhà Trần đánh bại quân Mông Cổ năm 1258 và kế tiếp là nhà Nguyên vào năm 1285 và 1288. Đầu thế kỷ XV, nhà Minh xâm chiếm được Đại Việt và cai trị trong 20 năm, nhưng cũng bị Lê Lợi nổi lên đánh đuổi năm 1428 và thành lập nhà Hậu Lê. Năm 1789, nhà Thanh sang xâm lược cũng bị Nguyễn Huệ đánh bại. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XVIII trở đi, phong kiến Việt Nam đã bắt đầu suy yếu. Từ thế kỷ X tới thế kỷ XIV, các triều đại Đại Việt xây dựng nhà nước trên cơ sở Phật giáo cùng với những ảnh hưởng Nho giáo từ Trung Quốc. Tới cuối thế kỷ XIV, ảnh hưởng của Phật giáo dần thu hẹp và ảnh hưởng của Nho giáo tăng lên, sự phát triển nhà nước Nho giáo theo mô hình kiểu Trung Hoa, sang đến thế kỷ XV thì Đại Việt có một cơ cấu chính quyền tương tự nước láng giềng Trung Hoa, cơ cấu luật pháp, hành chính, văn chương và nghệ thuật đều theo kiểu Trung Hoa. Cùng với việc thu nhận mô hình chính trị, tổ chức xã hội của Trung Hoa, các triều đại Việt Nam từ thế kỷ X trở đi từng bước mở rộng vùng ảnh hưởng ra ngoài khu vực đồng bằng sông Hồng. Từ triều Lý, thông qua các cuộc hôn nhân, quân sự và tấn phong thủ lĩnh các bộ tộc miền núi, các vương triều Lý, Trần, Lê đã lần lượt sáp nhập và đưa các sắc tộc khác ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc vào quốc gia Đại Việt. Cùng với người Việt, các bộ tộc miền núi đã cùng chung sức với người Việt trong các công cuộc chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Việt Nam trong thời phong kiến phát triển vẫn dựa vào nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa nước để cung cấp lương thực, từng triều đại đã lần lượt cho đắp đê ngăn lũ lụt, đào kênh dẫn nước cũng như giao thông đi lại, khai hoang các vùng đất đồng bằng ven biển để tăng diện tích trồng trọt. Các hoạt động thương mại, ngoại thương cũng đã được hình thành. Ngoài hai quốc gia láng giềng Trung Quốc và Chăm Pa, vào thời nhà Lý, nhà Trần đã có buôn bán thêm với các vương quốc trong vùng Đông Nam Á tại thương cảng Vân Đồn (Quảng Ninh), thời Hậu Lê có buôn bán thêm với châu Âu, Nhật Bản tại các trung tâm như Thăng Long và Hội An. Bắc thuộc lần 4 (1407–1427). Năm 1407, quân Minh sang xâm lược Đại Ngu với cớ đánh đuổi nhà Hồ khôi phục nhà Trần (Phù Trần diệt Hồ). Quân Minh nhanh chóng đánh bại quân Đại Ngu, giai đoạn này gọi là Bắc thuộc lần 4. Các lực lượng của Nhà Hậu Trần đã nổi dậy từ 1407–1413 để chống lại quân Minh nhưng cũng bị đánh dẹp. Một thủ lĩnh Giao Chỉ là Lê Lợi khởi nghĩa chống lại sự đô hộ của Nhà Minh. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi năm 1427, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra Nhà Hậu Lê. Thời kỳ trung hưng (1428–1527). Năm 1427, Lê Lợi sau khi đánh bại quân Minh lập ra Nhà Hậu Lê, giai đoạn này còn được gọi là Nhà Lê sơ. Thời kỳ chia cắt (1527–1802). Bắt nguồn từ thời kỳ Nam – Bắc triều, năm 1527, sau khi giành ngôi từ nhà Hậu Lê, Mạc Đăng Dung đã lập nên nhà Mạc. Nhà Hậu Lê (sử gọi là nhà Lê trung hưng) được tái lập vài năm sau đó với sự giúp đỡ của Nguyễn Kim, một tướng cũ và giành được sự kiểm soát khu vực từ Thanh Hóa vào Bình Định. Sau khi Nguyễn Kim chết, người con rể là Trịnh Kiểm đã giành quyền bính, 60 năm kế tiếp, Trịnh Kiểm và các con cháu của ông đã giành được chiến thắng trước nhà Mạc vào năm 1592 và mở đầu cho thời kỳ đặc biệt trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thời kỳ vua Lê chúa Trịnh. Việt Nam giai đoạn này trải qua nhiều chế độ phong kiến: Nhà Mạc (1527–1592), nhà Lê trung hưng (1533–1789), chúa Trịnh (1545–1787), chúa Nguyễn (1558–1777) và nhà Tây Sơn (1778–1802). Trịnh – Nguyễn phân tranh. Sự mâu thuẫn giữa hai người cận thần của nhà Lê trung hưng là Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng (trấn thủ xứ Thuận Hóa và Quảng Nam) đã bắt đầu cho sự phân chia đất nước ra thành hai lãnh thổ. Trong khi Trịnh Kiểm tìm cớ giết Nguyễn Uông (con cả của Nguyễn Kim) thì Nguyễn Hoàng chạy vào Thuận Hóa lập cát cứ, hai chính quyền riêng biệt là Đàng Ngoài và Đàng Trong với sông Gianh (Quảng Bình) làm biên giới. Các con cháu của Trịnh Kiểm lần lượt kế tiếp nhau nắm quyền ở Đàng Ngoài được gọi là các chúa Trịnh, các con cháu của Nguyễn Hoàng kế tiếp nhau cầm quyền ở Đàng Trong được gọi là các chúa Nguyễn, các vua Lê chỉ có danh vị hoàng đế của Đại Việt trên danh nghĩa. Thời kỳ Đại Việt chia thành hai lãnh thổ riêng biệt Đàng Ngoài và Đàng Trong cũng là thời kỳ hoạt động ngoại thương sôi động, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều tham gia vào hệ thống giao thương toàn cầu bởi các thương nhân châu Âu, Nhật Bản, Trung Hoa đến Đại Việt buôn bán. Người Hà Lan, Anh, Pháp lập các thương điếm tại Kẻ Chợ (Hà Nội), người Bồ Đào Nha, Anh, Nhật Bản đặt các thương điếm tại Faifo (Hội An). Các mặt hàng chính được xuất khẩu từ Đại Việt là tơ lụa, hồ tiêu, gốm sứ. Tuy nhiên, sang đến thế kỷ XVIII thì hoạt động thương mại giảm sút ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Cùng với sự giao thương buôn bán với các nước phương Tây và Nhật Bản, đạo Công giáo cũng bắt đầu được truyền vào Đại Việt qua các giáo sĩ phương Tây theo các tàu buôn vào giảng đạo ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong. Nền tảng vững chắc của Công giáo tại Việt Nam được các thừa sai Dòng Tên xây dựng vào thế kỉ 17. Mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Dấu ấn về việc mở rộng đất nước trong thời kỳ phong kiến này chính là sự bành trướng xuống phương Nam, cuộc Nam tiến nhằm tìm đất nông nghiệp để cung cấp lương thực cho sự gia tăng dân số của Đại Việt. Với một quân đội có tổ chức tốt hơn, từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV, sau các cuộc chiến tranh cũng như hôn nhân chính trị giữa Đại Việt và Chăm Pa, lãnh thổ Đại Việt đã được mở rộng thêm từ dãy Hoành Sơn (bắc Quảng Bình) tới đèo Cù Mông (bắc Phú Yên). Từ thế kỷ XVII, Đàng Trong là một lãnh thổ, chính quyền riêng biệt với Đàng Ngoài, do các chúa Nguyễn cai quản. Các chúa Nguyễn về danh nghĩa là quan của nhà Hậu Lê, nhận lệnh vua Lê cai quản phía Nam, nhưng thực tế họ cai trị Đàng Trong tương đối độc lập, ít khi nhận lệnh từ nhà Hậu Lê. Nhằm tiếp tục tìm kiếm thêm diện tích đất đai cho sự gia tăng dân số, cũng như tăng cường quyền lực các chúa Nguyễn đã lần lượt tiến hành các cuộc chiến tranh với Chăm Pa và sáp nhập hoàn toàn phần lãnh thổ còn lại của người Chăm (từ Phú Yên tới Bình Thuận) vào năm 1693. Tiếp đó, sau các cuộc di dân của người Việt từ Đàng Trong vào sinh sống ở vùng đất của người Khmer, các chúa Nguyễn lần lượt thiết lập chủ quyền từng phần trên vùng đất Nam Bộ, sau các cuộc chiến với vương quốc Khmer, vương quốc Ayutthaya cũng như các yếu tố chính trị khác, từ năm 1698 đến năm 1757, chính quyền Đàng Trong đã giành được hoàn toàn Nam Bộ ngày nay vào sự kiểm soát của mình. Cùng với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, chính quyền Đàng Trong lần lượt đưa người ra khai thác và kiểm soát các hòn đảo lớn và quần đảo trên biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và kiểm soát từ đầu thế kỷ XVII, Côn Đảo từ năm 1704, Phú Quốc từ năm 1708 và quần đảo Trường Sa từ năm 1816. Sự khác biệt về văn hóa giữa hai miền có lẽ bắt nguồn từ cuộc Nam tiến này. Văn hóa Nho giáo trong chính quyền miền Nam không phát triển nhiều, do họ chịu ảnh hưởng phần nào của văn hóa Champa, văn hóa Khmer. Ngày nay, người miền Bắc tiết kiệm, bảo vệ nhóm, giỏi ứng xử; người miền Nam thoải mái trong đời sống, trong suy nghĩ và thẳng thắn. Tổ chức hành chính cũng khác biệt. Cách tổ chức chính quyền tỉ mỉ ở miền Bắc đã được đơn giản hóa ở miền Nam. Thời kỳ thống nhất (1802–1858). Từ giữa thế kỷ XVIII, các cuộc chiến liên tục giữa Đàng Trong với vương quốc Khmer, Ayutthaya cũng như các cuộc tranh chấp ở Đàng Ngoài làm cho đời sống người dân thêm cùng quẫn. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra, song phần lớn chịu thất bại. Tới phong trào nổi dậy của Tây Sơn bùng nổ năm 1771 tại Quy Nhơn (Bình Định) đã phát triển rộng lớn đánh bại hai chế độ cai trị của hai họ Nguyễn, Trịnh, chấm dứt việc chia đôi đất nước, cũng như bãi bỏ nhà Hậu Lê vốn chỉ còn trên danh nghĩa. Nhà Tây Sơn đã đánh bại 5 vạn quân Xiêm La (năm 1784) tại miền Nam và 29 vạn quân Mãn Thanh (năm 1789) xâm lược tại miền Bắc. Vua Tây Sơn là Nguyễn Huệ chính thức trở thành vua của Đại Việt, lấy niên hiệu là Quang Trung, thống nhất hầu hết lãnh thổ từ miền Bắc vào tới Gia Định. Tuy nhiên sau cái chết của ông năm 1792, nội bộ lục đục khiến chính quyền Tây Sơn càng ngày càng suy yếu. Một người thuộc dòng dõi chúa Nguyễn ở miền Nam là Nguyễn Phúc Ánh, với sự hậu thuẫn và cố vấn của một số người Pháp, đã đánh bại được nhà Tây Sơn vào năm 1802. Ông lên làm vua, lấy niên hiệu là Gia Long và trở thành vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn, với lãnh thổ gồm hai đồng bằng phì nhiêu nối với nhau bằng một dải duyên hải. Năm 1804, ông cho đổi tên nước từ Đại Việt thành Việt Nam. Gia Long (1802–1820) đóng đô ở Huế, ông cho xây dựng kinh đô Huế tương tự như Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Gia Long và con trai Minh Mạng (cai trị 1820–1841) đã cố gắng xây dựng Việt Nam theo khái niệm và phương pháp hành chính của Trung Quốc thời nhà Thanh. Từ thập niên 1830, giới trí thức Việt Nam (đại diện tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ) đã nhận thấy sự tụt hậu và trì trệ của đất nước, họ đề nghị triều đình nên học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp – thương mại, nhưng các quan lại này chỉ là thiểu số. Đáp lại, vua Minh Mạng và những người kế tục Thiệu Trị (1841–1847) và Tự Đức (1847–1883) chọn chính sách đã lỗi thời là coi trọng phát triển nông nghiệp (dĩ nông vi bản), tiếp tục cấm buôn bán với nước ngoài. Ngoài ra, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức ngăn cấm truyền bá Công giáo mà họ coi là "tả đạo". Tiếp nối các thừa sai Dòng Tên dưới quy chế bảo trợ Bồ Đào Nha là các thừa sai Pháp và Tây Ban Nha đến truyền giáo từ nửa sau thế kỉ 17. Một số giáo sĩ Pháp nổi bật cũng hỗ trợ nhân lực và vật lực cho nhà Nguyễn trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn dẫn đến chiến thắng của vua Gia Long. Đến giữa thế kỷ 19, có khoảng 450.000 người Công giáo. Chính quyền nhà Nguyễn dưới các triều vua này lo ngại sự lớn mạnh của một tôn giáo khác biệt và có tổ chức nên đã ra lệnh cấm truyền đạo Công giáo, đồng thời đàn áp những người theo đạo Công giáo và san bằng nhiều xóm đạo. Thời kỳ hiện đại (1858–nay). Thời kỳ Pháp thuộc (1858–1945). Ngày 31 tháng 8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó rút vào xâm chiếm Sài Gòn. Tháng 6 năm 1862, Vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thuộc địa Nam Kỳ ("Cochinchine"). Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở Bắc Kỳ. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát nổi mối bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của mình và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng thì người Pháp đã chiến thắng. Pháp tuyên bố là họ sẽ "bảo hộ" Bắc Kỳ ("Tonkin") và Trung Kỳ ("Annam"), nơi họ tiếp tục duy trì các vua nhà Nguyễn cho đến Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến 1945) cùng bộ máy quan lại. Nhà Nguyễn tuy tiếp tục tồn tại ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ nhưng chỉ còn quyền lực hạn chế, mọi vấn đề lớn phải được Toàn quyền Đông Dương của Pháp thông qua. Vào năm 1885, các quan lại Việt Nam tổ chức phong trào kháng chiến Cần Vương chống Pháp nhưng thất bại. Các vua Nguyễn là Hàm Nghi, Duy Tân và Thành Thái có ý phản kháng đều bị Pháp truất ngôi và đưa đi đày. Vào năm 1887, hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam, người Pháp đã tổ chức ra một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Ở trung ương là Phủ toàn quyền Đông Dương (ban đầu thủ phủ ở Sài Gòn, năm 1902 đặt ở Hà Nội). Đứng đầu Phủ toàn quyền gọi là Toàn quyền Đông Dương, là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Cao Miên. Đứng đầu ở 3 kỳ là: Thống đốc Nam Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ và Thống sứ Bắc Kỳ, cả ba đều nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1893, quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao. Sau thất bại của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19, người Pháp đã cũng cố hoàn toàn việc tổ chức cai trị tại Việt Nam. Cuộc cải cách trong giáo dục trong thập niên 1910 đã xóa bỏ hoàn toàn nền nho học với chữ Hán cả nghìn năm trong chế độ phong kiến Việt Nam để thay thế bằng phong trào tân học theo chữ quốc ngữ đã tạo ra một tầng lớp trí thức mới, đó là những người xuất thân từ truyền thống nho giáo nhưng được tiếp cận với văn hóa phương Tây. Đại diện tiêu biểu cho giới này là Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu đã mở đầu cho Phong trào Duy Tân và Phong trào Đông Du vận động tăng cường dân trí, dân chủ, nhân quyền và cải cách xã hội cho người Việt trước tầng lớp người Pháp cai trị. Tuy nhiên sự phát triển các phong trào này sau đó bị chính quyền thực dân dẹp bỏ vì nhận thấy nguy cơ đối với chế độ thuộc địa của họ. Cuối thập niên 1920, những người Việt cấp tiến dưới ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam Dân đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Tuy nhiên, đến năm 1930, sau khi cuộc Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân Đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm đó, một số thanh niên Việt Nam theo Chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận Bình dân trong chính quyền Pháp. Đệ Nhị Thế Chiến. Nhật Bản tấn công Đông Dương vào năm 1940 và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để cho Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Chính quyền thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật tấn công toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính quyền thân Nhật với quốc vương Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim, đặt quốc hiệu mới đế quốc Việt Nam và quốc kỳ là cờ quẻ ly. Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội) thành lập năm 1941 với vai trò một mặt trận của Đảng Cộng sản Đông Dương được điều hành từ Pắc Bó (ở biên giới Việt – Trung) bởi Hồ Chí Minh khi ông trở về nước lần đầu tiên kể từ năm 1911 (năm ông rời Việt Nam), mặc dù ông có liên hệ với những người Cộng sản trong nước trong các thập niên 1920 và 1930. Ngày 11 tháng 3 năm 1945 khi quân đội Nhật Bản làm cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Bảo hộ của Pháp, được sự hậu thuẫn và kiểm soát của Nhật, hoàng đế Bảo Đại ban ra một chiếu chỉ với nguyên văn: Trần Trọng Kim được bổ nhiệm làm thủ tướng một chính phủ mới với danh xưng Đế quốc Việt Nam, nhưng hầu hết quyền lực của chính phủ này do lực lượng phát xít Nhật nắm giữ. Trên thực tế, Đế quốc Việt Nam là một chính phủ bù nhìn do Đế quốc Nhật Bản dựng lên. Đến ngày 14 tháng 8 năm 1945 khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh (bao gồm cả Việt Minh tại Việt Nam), chính quyền Trần Trọng Kim bên bờ vực sụp đổ. Lúc này, Việt Minh kiểm soát toàn bộ khu vực nông thôn, chính quyền Trần Trọng Kim và quân đội Nhật chỉ còn cố cầm cự ở một số thành phố lớn. Trong thời gian cầm quyền, chính phủ Trần Trọng Kim không tổ chức được Tổng tuyển cử nên không trở thành chính phủ chính thức mà chỉ là chính phủ lâm thời, chưa phải là người đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam. Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này. Thời kỳ cộng hòa (1945–nay). Tuyên bố độc lập. Tuyên bố Potsdam của Anh, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc gửi Nhật ngày 26 tháng 7 năm 1945 không nói rõ phần lãnh thổ nào của Đông Dương sẽ do ai giải giới vũ khí mà chỉ nói các vùng lãnh thổ do Nhật Bản chiếm được bằng vũ lực sẽ được các nước đồng minh vào giải giới. Tuyên bố cũng không nhắc đến việc vùng nào do ai giải giới mà chỉ nói là phe Đồng minh (bao gồm cả Việt Minh) sẽ tham gia giải giới. Tuy nhiên, Thủ tướng Nhật lúc đó là Suzuki tuyên bố bác bỏ Tuyên bố Potsdam cũng như Tuyên bố Cairo trước đó. Tới ngày 10 tháng 8 năm 1945, phía Nhật mới chấp nhận Tuyên bố Potsdam và đầu hàng quân Đồng Minh. Trước đó, lực lượng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã liên tục chống phát xít Nhật và thực dân Pháp từ thập niên 1930. Đặc biệt, trong năm 1945, Việt Minh đã nhiều lần tổ chức cho quần chúng nhân dân cướp các kho gạo của Nhật để cứu đói. Tới tháng 8 năm 1945, lực lượng Việt Minh lãnh đạo đã tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám, giành lấy quyền lực ở hầu khắp các tỉnh tại Việt Nam (trừ một số tỉnh biên giới giáp Trung Quốc). Chính quyền phát xít Nhật khi đó đã đầu hàng Đồng Minh, Hoàng đế Bảo Đại thoái vị và trở thành cố vấn tối cao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập và thống nhất từ miền Bắc tới miền Nam. Đầu năm 1946, một cuộc bầu cử toàn quốc đã được tổ chức. Các đại biểu Việt Minh chiếm ưu thế, song các phe phái khác cũng được mời tham gia chính phủ một cách rộng khắp. Quốc kỳ được chọn là cờ nền đỏ, sao vàng năm cánh, hiến pháp được thông qua. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức trở thành người đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam. Kháng chiến chống Pháp (1946–1954). Tuy nhiên, nền độc lập của Việt Nam bị đe dọa chỉ sau 2 tuần. Ở miền Bắc, Đồng Minh chỉ định quân đội quốc gia Trung Hoa giải giới Nhật Bản. Quân Trung Hoa duy trì ở đó đến tháng 5 năm 1946 rồi chuyển giao cho Pháp trong sự chịu đựng của chính quyền Hồ Chí Minh. Ngược lại, ở miền Nam, quân Nhật được giải giới bởi quân Anh–Ấn. Sau đó, quân Anh–Ấn đã chuyển giao miền Nam cho Pháp khi Pháp trở lại miền Nam Việt Nam vào cuối năm 1945. Trong suốt năm 1946, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đàm phán hòa bình với Pháp, mặc dù vậy hai bên cũng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh. Pháp chỉ công nhận quyền tự trị trong Liên hiệp Pháp của Việt Nam chứ không đống ý cho Việt Nam độc lập. Sau khi Pháp ra tối hậu thư đòi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đầu hàng, chiến tranh giữa Việt Nam và thực dân Pháp bùng nổ tháng 12 năm 1946. Vào đầu năm 1947, Pháp có vẻ thắng thế và nắm được toàn bộ các đô thị lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên trì với chiến lược "chiến tranh nhân dân" và chiến thuật du kích, tổ chức và đào tạo nhân dân cho một cuộc chiến vũ trang lâu dài khiến Pháp sa lầy. Tới năm 1949, để giảm bớt gánh nặng, Pháp đàm phán với các chính trị gia người Việt chống nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để thành lập một chính phủ mới là Quốc gia Việt Nam. Người đứng đầu chính phủ này là Bảo Đại, vốn là vua cuối cùng của nhà Nguyễn, với cờ Quẻ Ly là quốc kỳ. Chính phủ này có sự tham gia của các quan lại cũ thân Pháp. Pháp hỗ trợ tài chính, vũ khí cũng như nắm quyền chỉ huy, còn Quân đội Quốc gia Việt Nam góp quân tham gia cùng Pháp hòng dập tắt phong trào kháng chiến của Việt Minh. Năm 1950, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên Xô bắt đầu trợ giúp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vũ khí. Bên kia, Pháp được Mỹ hậu thuẫn, hỗ trợ phần lớn chiến phí, nhưng đầu thập niên 1950, thế trận của Pháp bắt đầu yếu đi ở Đông Dương. Thất bại ở trận Điện Biên Phủ vào ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã kết thúc hoàn toàn nỗ lực của Pháp và Mỹ nhằm chiếm giữ Việt Nam và toàn bộ Đông Dương. Sau trận Điện Biên Phủ, các bên tham chiến đã họp tại Genève năm 1954 để kế thúc chiến tranh. Kết quả Hiệp định Genève được ký kết với nội dung là đình chiến và tạm thời phân chia Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự tạm thời có ranh giới tại vĩ tuyến 17, ranh giới này không được coi là biên giới chính trị hay biên giới quốc gia. Miền Bắc là nơi tập kết của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh. Miền Nam là nơi tập kết quân của Liên hiệp Pháp (bao gồm Quốc gia Việt Nam). Tập kết chính trị tại chỗ, tập kết dân sự theo nguyên tắc tự nguyện. Theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định, sau 2 năm, khi Pháp rút quân xong thì cả hai miền sẽ tổ chức tuyển cử để thống nhất đất nước. Dân chúng có quyền lựa chọn cư trú tại miền Bắc hoặc miền Nam. Khoảng 1 triệu người, gồm phần lớn là người theo Công giáo ở miền Bắc đã di cư vào Nam, trong khi 150.000 người (gồm phần lớn là bộ đội chống Pháp người miền Nam) tập kết ra miền bắc. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền bắc do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã kêu gọi những giá trị mang tính cộng đồng, hướng lên xã hội chủ nghĩa, bao gồm nông nghiệp - công nghiệp tập thể. Đa số dân chúng đã ủng hộ hết mình cho chính quyền Hồ Chí Minh. Cải cách ruộng đất trong thập niên 1950 đã giải quyết được vấn đề công bằng ruộng đất cho nông dân nghèo, tuy nhiên một số sai lầm gây ra sự xáo trộn đời sống xã hội miền Bắc trong giai đoạn đầu. Về mặt kinh tế, các nhà máy công nghiệp mới bắt đầu được xây dựng với sự hỗ trợ về vốn, công nghệ của các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem Hiệp định Genève là một thắng lợi quan trọng vì Hiệp định này quy định một cuộc tổng tuyển cử để thành lập một quốc gia độc lập và thống nhất. Họ tin rằng mình sẽ thắng cử vì uy tín rộng khắp của Hồ Chí Minh lúc đó. Tuy nhiên, cuộc tuyển cử đã không bao giờ diễn ra. Pháp rút quân, Tổng thống Mỹ Eisenhower được báo cáo của CIA cho biết khoảng 80% người Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử Hoa Kỳ quyết định hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ riêng biệt ở phía Nam vĩ tuyến 17, không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tố cáo đây là hành động phá hoại Hiệp định Genève. Chiến tranh Việt Nam (1955–1975). Trong thời gian 1956-1958, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị Quốc gia Việt Nam thi hành tuyển cử thống nhất đất nước, nhưng bị từ chối. Năm 1955, với sự trợ giúp của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã gian lận để chiến thắng trong Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, cho phép ông phế truất Bảo Đại, lên làm Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam và sau này trở thành Tổng thống của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Bảo Đại phải lưu vong sang Pháp. Mỹ bắt đầu viện trợ cho Ngô Đình Diệm để xây dựng cải cách điền địa, cũng như củng cố quân đội để giữ vững chính phủ thân Mỹ. Tuy nhiên, chính phủ Ngô Đình Diệm đã tổ chức đàn áp chính trị và tôn giáo khiến hàng trăm nghìn người thiệt mạng. Vào năm 1959, số quân Mỹ tại miền Nam Việt Nam chỉ vào khoảng vài nghìn người, dưới hình thức là các "cố vấn" cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên những xáo trộn chính trị vào cuối thập niên 1950 tạo nên sự bất ổn lớn trong xã hội miền Nam. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa bắt đầu thực thi những chính sách "Tố cộng, Diệt cộng", nhiều cuộc thảm sát xảy ra như Vĩnh Trinh, Hướng Điền (Quảng Trị), ở nhà tù Phú Lợi (tàn sát hàng nghìn tù nhân tình nghi là người cộng sản hoặc thân cộng bằng cách bỏ độc vào cơm ăn, nước uống). Các cuộc biểu tình của Phật giáo vốn chiếm số đông trong các tầng lớp dân chúng cũng bị đàn áp, gây ra mâu thuẫn tôn giáo sâu sắc. Từ năm 1959, tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời và được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn nhằm kêu gọi chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đầu thập niên 1960, lực lượng vũ trang của Mặt trận này là Quân Giải phóng miền Nam được thành lập và tổ chức bảo vệ các cơ sở chính trị cũ của Việt Minh cũng như bảo vệ người dân trước sự đàn áp của chính quyền Diệm. Mặt trận đã kiểm soát một khu vực rộng lớn ở nông thôn miền nam, và mở nhiều vụ tấn công vào các căn cứ đối phương. Trước đó, Hoa Kỳ đã hỗ trợ tài chính, vũ khí và cố vấn cho chính phủ Ngô Đình Diệm từ năm 1954 để ngăn chặn sự lớn mạnh của Việt Minh tại miền Nam (do tập kết chính trị được phép tiến hành tại chỗ nên các cơ sở chính trị của Việt Nam không phải ra Bắc cùng Quân đội Nhân dân Việt Nam). Hoa Kỳ tăng cường viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa và gửi 17.500 nhân viên quân sự đến Việt Nam dưới danh nghĩa "cố vấn". Tuy nhiên, những mâu thuẫn giữa chính phủ Ngô Đình Diệm với phật giáo Việt Nam, việc chống quân Giải phóng miền Nam không đạt mục tiêu và thái độ không phục tùng của Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ quyết định loại bỏ Ngô Đình Diệm bằng cách ủng hộ Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến hành đảo chính. Tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa đảo chính và ám sát Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng hòa và thành lập nền Đệ Nhị Cộng hòa. Sau sự kiện này Hoa Kỳ tuyên bố sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, tình hình chính trường miền Nam sau đảo chính hết sức hỗn loạn, chính phủ Việt Nam Cộng hòa bên bờ vực sụp đổ. Trên chiến trường, Quân lực Việt Nam Cộng hòa liên tiếp thất bại trong chiến lược chiến tranh đặc biệt. Để cứu vãn tình thế, sau khi dựng lên Sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 4 năm 1964, Tổng thống Mỹ Johnson có cớ ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, theo đó gửi quân đội Mỹ đến Việt Nam trực tiếp tham chiến. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1965 lần lượt các đoàn quân được chuyển tới chiến trường Việt Nam cùng với khoảng 20.000 "cố vấn" đã có từ trước, số lượng quân đội Mỹ lên tới khoảng 540.000 người vào thời điểm năm 1968. Chiến tranh bùng nổ ác liệt năm 1964 ở khu vực Nam Việt Nam, các vùng biên giới với Campuchia và Lào, và các trận không kích của Mỹ đánh vào miền Bắc Việt Nam. Một bên là Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và các đồng minh của Hoa Kỳ gồm Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand, Philippines tham chiến trực tiếp. Một bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham chiến, còn Liên Xô và Trung Quốc chỉ cung cấp viện trợ quân sự và huấn luyện. Sau giai đoạn đảo chính liên tiếp, năm 1967, Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống nền Đệ nhị Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa. Ở miền Bắc, Lê Duẩn là lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời vào năm 1969. Đầu năm 1968, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân dân địa phương mở cuộc tổng tấn công Chiến dịch Tết Mậu Thân vào hầu hết các thành phố chính ở miền Nam Việt Nam, tuy thất bại về mặt chiến thuật nhưng đã đạt được mục đích đề ra: khiến cho Chính phủ và dân chúng Mỹ mất lòng tin vào khả năng chiến thắng của quân đội Mỹ ở Việt Nam cũng như buộc Chính phủ Mỹ phải ngồi đàm phán với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tới tháng 11 năm 1968, Johnson tuyên bố dừng hoàn toàn "tất cả cuộc không kích, pháo kích và hải chiến với Bắc Việt Nam" và đồng ý ngồi vào đàm phán. Tuy nhiên, 1 năm sau, Tổng thống kế nhiệm Richard Nixon thông báo Mỹ quay trở lại, Nixon và cố vấn Henry Kissinger cho ra đời chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Vào tháng 6 năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Cùng với chiến sự ở chiến trường, cả hai bên đều tìm kiếm giải pháp chấm dứt chiến tranh thông qua các cuộc hội đàm ở Paris. Nội dung đàm phán được thực hiện qua các phiên họp kín giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vốn là 2 bên thực sự điều khiển cuộc chiến (2 đoàn còn lại là Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam chỉ tham gia cho có đủ danh nghĩa). Mãi đến tháng 1 năm 1973, Hiệp định Hòa bình Paris mới được ký giữa 4 bên, sau thất bại nặng nề của Mỹ trong các cuộc không kích vào Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác ở miền Bắc Việt Nam do không lực Hoa Kỳ tiến hành cuối năm 1972. Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã tấn công vào quần đảo Hoàng Sa lúc đó đang do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát và chiếm đóng hoàn toàn quần đảo này. Sau Hiệp định Paris 1973, quân viễn chinh Mỹ rút khỏi Việt Nam – theo đúng điều khoản đầu tiên của hiệp định là công nhận sự "độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam. Các điều khoản khác là đình chiến và giữ lãnh thổ của mỗi bên trước khi đình chiến, tổng tuyển cử để xác định chính quyền tương lai ở miền Nam. Hiệp định nói rõ Hoa Kỳ phải triệt thoái quân hoàn toàn trong vòng 60 ngày. Mặc dù đã có hiệp định nhưng Chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp diễn do Quân lực Việt Nam Cộng hòa vi phạm hiệp định. Tiêu biểu, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, QLVNCH đã tấn công cảng Cửa Việt của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Với sự rút quân của Hoa Kỳ cùng với những điểm yếu nội tại của mình, Quân lực Việt Nam Cộng hòa không thể tòn tại được lâu. Đến giữa tháng 3 năm 1975, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tấn công ở Tây Nguyên, khởi đầu những chiến dịch nối tiếp nhau. Quân Việt Nam Cộng hòa thất bại liên tục, để mất Tây Nguyên rồi Huế, Đà Nẵng sau chưa đầy 1 tháng. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giành được quyền kiểm soát Sài Gòn, chính phủ của Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Thời kỳ đầu sau thống nhất (1976–1986). Ngày 25 tháng 4 năm 1976, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất về mặt nhà nước thành một quốc gia có tên chính thức là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, do những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan như: chủ trương thống nhất mọi mặt theo tiêu chuẩn miền Bắc (thí dụ, kế hoạch xã hội hóa toàn bộ kinh tế miền Nam nhằm hợp nhất với kinh tế miền Bắc); các cuộc tấn công liên tục vào Nam bộ của quân đội Khmer Đỏ, thiên tai và lũ lụt năm 1977 và 1978, Trung Quốc tấn công vào các tỉnh biên giới phía Bắc, di chứng chiến tranh như chất độc da cam, bom mìn chưa nổ... đã làm cho nền kinh tế quốc gia rơi vào khủng hoảng. Sự đe dọa của chiến tranh, đời sống sút kém gây ra một làn sóng người vượt biên ra nước ngoài (thuyền nhân) bắt đầu từ năm 1978, chủ yếu là người Hoa. Đầu thập niên 1980, kinh tế – xã hội ở Việt Nam lâm vào trì trệ, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986. Những khủng hoảng này đã gây sức ép đổi mới cả về chính trị và quản lý kinh tế. Sau chiến tranh Việt Nam, Campuchia nhiều lần xâm phạm lãnh thổ của Việt Nam dù cho Việt Nam đã có nhiều động thái để duy trì hòa bình. Tháng 5 năm 1975, Khmer Đỏ đã tấn công đảo Phú Quốc và Thổ Chu của Việt Nam. Từ năm 1975–1978, tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra thường xuyên, với sự hậu thuẫn của Trung Quốc, quân đội Khmer Đỏ nhiều lần tiến hành các cuộc đột kích vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam, theo thống kê, có khoảng 30.000 thường dân và hàng nghìn quân lính Việt Nam bị quân đội Khmer Đỏ giết hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới trong thời gian này. Vào tháng 12 năm 1978, quân Khmer Đỏ mở các cuộc tấn công lớn vào các tỉnh biên giới từ Tây Ninh đến Kiên Giang, thị xã Hà Tiên bị chiếm. Quân đội Việt Nam tổ chức phản công, tới ngày 7 tháng 1 năm 1979, họ tiến quân vào thủ đô Phnom Penh đánh đuổi Khmer Đỏ. Trước việc Khmer Đỏ tổ chức diệt chủng ở Campuchia và tấn công xâm lược vào lãnh thổ của Việt Nam, quân đội Việt Nam buộc phải tiến hành can thiệp. Ngày 8 tháng 1, với sự hậu thuẫn của Việt Nam, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng 10 ngày sau, hội đồng này ký hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia. Tới năm 1989, quân đội Việt Nam rút về nước sau khi chính quyền của Campuchia ổn định, lực lượng diệt chủng bị đẩy lùi. Sự kiện Việt Nam phản công và lật đổ chế độ Khmer Đỏ ở Campuchia là cái cớ để Trung Quốc, vốn ủng hộ chế độ Khmer Đỏ, có lý do tấn công xâm lược Việt Nam, với tuyên bố của Chủ tịch Trung Quốc là Đặng Tiểu Bình: "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam một bài học". Ngày 17 tháng 2 năm 1979, với lực lượng khoảng 400.000 quân, Trung Quốc đã bất ngờ tấn công vào các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam từ Quảng Ninh tới Lai Châu, sau 3 tuần đã chiếm được thủ phủ các tỉnh này. Sau sự yếu thế ban đầu, Việt Nam đã tổ chức phản công lại và cùng với những quân đoàn thiện chiến được chuyển từ chiến trường Campuchia ra đã dần giành lại được lợi thế. Tới ngày 18 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi những vùng biên giới mà họ đánh chiếm được. Sự kiện này đã gây nên cuộc khủng hoảng "Hoa kiều" ở trong nước. Đầu thập niên 1980, nhiều người gốc Hoa do lo sợ chiến tranh giữa hai nước nên đã chạy khỏi Việt Nam về Trung Quốc, hoặc trở thành "thuyền nhân" chạy sang nước khác. Cuộc chiến này cũng đưa tới việc cắt đứt quan hệ ngoại giao giữa hai nước, hơn 13 năm sau, tới năm 1992, hai nước mới bình thường hóa lại quan hệ ngoại giao. Cũng trong thời gian này, tháng 3 năm 1988, Trung Quốc sử dụng tàu chiến để tấn công các tàu công binh của phía Việt Nam, mở cuộc hải chiến vào các bãi đá Cô Lin, Len Đao, Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa và chiếm đóng Gạc Ma, phía Việt Nam bảo vệ được bãi Cô Lin và Len Đao thành công. Thời kỳ đổi mới (1986–nay). Năm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI tiến hành chính sách "Đổi Mới", đứng đầu là ông Nguyễn Văn Linh, để hợp lý hóa cơ cấu hành chính, cải cách cơ cấu Đảng, chính quyền pháp quyền, dân chủ hơn, cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường với định hướng Xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới được phát hành toàn diện, tình hình kinh tế đã được cải thiện đáng kể, từ một nước nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài thành nước xuất khẩu. Trước 1989, Việt Nam nhập khẩu lương thực nhưng từ năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu 1–1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; và tăng dần hàng năm: 4,5 triệu tấn (năm 2004), 4,9 triệu tấn (năm 2005), đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67,4%) và năm 2005 lạm phát chỉ còn 8,5%. Trong thời gian 1991–1995, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng 6 năm 1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ 67,1% (1991) xuống còn 12,7% (1995) và 4,7% (1996). Năm 2004, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng là 7,7% cao hơn mức tăng trưởng năm trước và đứng thứ 2 trong khu vực, sau Singapore. (Tổng sản phẩm quốc nội đạt 35 tỷ USD, khoảng bằng GDP của bang Mecklenburg-Vorpommern của Đức). Sự phát triển bền vững được thể hiện qua sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu (tăng 30%) cũng như sự tăng trưởng của sản xuất công nghiệp và xây dựng (10,2%). Năm 2005, tăng trưởng GDP của Việt Nam là 8,5%. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Năm 1995, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, và tiếp đó gia nhập ASEAN, APEC, thành viên diễn đàn ASEM. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau 11 năm đàm phán. Vào ngày 16 tháng 10 năm 2007, Việt Nam đã được bầu làm một trong các thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008–2009. Ngay sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng chậm lại do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cho Đảng Cộng sản Việt Nam phải ngăn chặn, khắc phục triệt để một bộ phận cán bộ, Đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, song song với việc đề cao cảnh giác các thế lực thù địch. Đến năm 2015, kinh tế Việt Nam đã bắt đầu có những dấu hiệu hồi phục mạnh mẽ. Về các tác động ngoại cảnh, các sự kiện tranh chấp ở biển Đông như tàu địa chấn Bình Minh 02 bị hải giám Trung Quốc cắt cáp, Vụ giàn khoan Hải Dương 981 và việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo ở biển Đông là các sự kiện chính ảnh hưởng đến tình hình chính trị Việt Nam hiện nay. Điều này thúc đẩy Việt Nam tiếp tục đóng góp nhiều hơn vào việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ, ký các Hiệp định thương mại tự do với Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên minh châu Âu. Tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Ngày 31 tháng 12 năm 2015, Việt Nam chính thức tham gia thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN – ASEAN Economic Community, viết tắt AEC, gồm 10 quốc gia thành viên. AEC sẽ là cơ hội quý báu để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, nhanh chóng bắt nhịp với xu thế và trình độ phát triển kinh tế của khu vực và thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi lớn, AEC ra đời, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức. Việc cạnh tranh về dịch vụ đầu tư của các nước ASEAN sẽ dẫn đến một số ngành, doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi thị trường. Các nước sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam nhưng đồng thời Việt Nam cũng phải mở cửa cho hàng hóa cạnh tranh của các nước trong ASEAN. Việc tham gia AEC cũng sẽ là cơ hội lớn để Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế, hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao trình độ phát triển. Tuy nhiên, trong những năm tới, Việt Nam cũng đứng trước sức ép rất lớn về cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ khoa học – công nghệ và năng lực cạnh tranh, trong bối cảnh ASEAN nhảy vọt từ nấc Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) lên nấc thang Cộng đồng Kinh tế (AEC). Hiện nay, trình độ phát triển của Việt Nam còn kém xa nhiều quốc gia trong ASEAN như: Singapore, Malaysia, Thái Lan... Do vậy, sức ép cải cách đặt ra với Việt Nam là rất lớn. Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố cho năm 2015–2016, Việt Nam ở hạng thấp trong khu vực và chỉ đứng thứ 56 trên tổng số 144 nền kinh tế. Nền quản lý hành chính lạc hậu, nhiều thủ tục rườm rà gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh, chi phí về thời gian và tiền bạc của doanh nghiệp Việt Nam, đơn cử như việc các doanh nghiệp Việt Nam vào năm 2010 cần đến 872 giờ/năm để đóng thuế trong khi bình quân của dịch vụ đó ở các nước ASEAN-6 chỉ là 172 giờ/năm. Thực tế này cho thấy, cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ khoa học – công nghệ và năng lực cạnh tranh đang là đòi hỏi cấp thiết đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn tới. Tên nước qua các thời kỳ. Tên gọi của Việt Nam qua các thời như sau:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Người Việt hay người Kinh, là một dân tộc hình thành tại khu vực địa lý mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Đây là dân tộc chính, chiếm khoảng 86,2% dân số Việt Nam và được gọi chính thức là dân tộc Kinh để phân biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính của người Việt là tiếng Việt, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Việt của ngữ hệ Nam Á. Người Việt sinh sống trên khắp đất nước Việt Nam và một số nước khác. Cộng đồng người Việt hải ngoại đông nhất định cư ở Hoa Kỳ. Nguồn gốc. Truyền thuyết. Theo truyền thuyết, những người Việt đầu tiên là con cháu của một thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người đã lấy nhau, sinh sống cùng nhau và đẻ ra một bọc 100 trứng, số trứng này nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là "cùng bọc" (hay còn gọi là Đồng bào) và "đồng bào" là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều có chung một nguồn gốc. Nhân chủng học. Có hai luồng quan điểm về nguồn gốc của người Việt. Một số học giả tin rằng người Việt đầu tiên di chuyển từ quần đảo Indonesia thông qua bán đảo Mã Lai và Thái Lan cho đến khi họ định cư ở khu vực đồng bằng sông Hồng, bằng cách lần theo con đường của các công cụ đá từ cuối Thế Pleistocen (600.000-12.000 trước Công nguyên), trên đảo Java, bán đảo Malaysia, Thái Lan và phía bắc Miến Điện. Những công cụ bằng đá được cho là các công cụ con người đầu tiên được sử dụng trong khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ tin rằng vào thời điểm này Hymalaya, một dãy núi ở miền bắc Miến Điện và Trung Quốc, tạo ra một rào cản băng giá cô lập người dân Đông Nam Á. Một số khác cho rằng người Việt đầu tiên vốn là một bộ tộc gốc Mông Cổ ở Tây Tạng, di cư xuống phía nam từ thời đồ đá cũ. Nhóm dân tộc này định cư tại vùng Bắc Bộ, thượng nguồn sông Hồng ngày nay và tạo nên nền văn minh Đông Sơn. Nhóm bộ tộc này cũng có sự tương đồng rất lớn về nhân chủng, văn hóa với các tộc người ở phía Nam Trung Quốc - mà sử Trung Quốc còn gọi là cộng đồng Bách Việt. Vào năm 257 TCN An Dương Vương thành lập vương quốc Âu Lạc, tại miền Bắc Việt Nam bây giờ. Vào năm 208 TCN vua nước Nam Việt là Triệu Đà tiến đánh và chiếm được Âu Lạc. Triệu Đà hợp nhất Âu Lạc vào Nam Việt. Năm 2019, các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu Tế bào gốc - công nghệ gen Vinmec công bố kết quả nghiên cứu về bộ gen người Việt khẳng định sự khác biệt giữa quần thể người Hán và quần thể người Việt. Người Việt có nguồn gốc chính từ người Đông Nam Á cổ đại. Nghiên cứu của Vinmec cũng củng cố giả thuyết khoa học về việc con người từ châu Phi di cư tới các nước Đông Nam Á. Sau đó, con người di cư sâu vào lục địa theo hướng từ phía Nam lên phía Bắc. Phân bố. Trên thế giới. Vào thế kỷ 16, một số người Việt di cư lên phía bắc vào Trung Quốc. Tuy đã bị ảnh hưởng Trung Hoa nhiều hơn, con cháu những người này vẫn còn nói tiếng Việt và được công nhận là một dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. Trong thời Pháp thuộc, một số người Việt làm công nhân đồn điền, khai mỏ tại Tân Đảo (nay là Nouvelle-Calédonie và Vanuatu)... Ngoài ra còn một số cộng đồng người Việt ở Réunion, Haiti... thành lập từ những chí sĩ yêu nước bị đày ải. Tại Xiêm, Trung Quốc, Lào, Campuchia cũng có khá nhiều người Việt sinh sống. Cũng trong thời kỳ này, một số người Việt yêu nước đã sang Xiêm, Trung Quốc, Liên Xô... thành lập các tổ chức cách mạng nhằm tránh sự bắt bớ của chính quyền thuộc địa tại Việt Nam. Khi thực dân Pháp rời khỏi Việt Nam vào năm 1954, một số người Việt di cư sang Pháp, gần 900.000 người từ miền Bắc di cư vào miền nam. Sau Chiến tranh Việt Nam, hơn 1 triệu người Việt di tản và vượt biên. Phần lớn những người này tái định cư tại Bắc Mỹ, Tây Âu và Úc. Tại Hoa Kỳ có một cộng đồng người Mỹ gốc Việt khá lớn. Tại Việt Nam. Tuy gốc từ miền Bắc Việt Nam, người Việt đã Nam tiến và chiếm đất đai của vương quốc Chiêm Thành qua thời gian. Hiện nay họ là dân tộc đa số trong phần lớn các tỉnh tại Việt Nam. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Kinh ở Việt Nam có dân số 73.594.427 người, chiếm 85,7% dân số cả nước, cư trú tại tất cả 63 tỉnh, thành phố. Các tỉnh, thành phố có số lượng người Kinh lớn nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh (6.699.124 người), Hà Nội (6.370.244 người), Thanh Hóa (2.801.321 người), Nghệ An (2.489.952 người), Đồng Nai (2.311.315 người), An Giang (2.029.888 người). Người Kinh là dân tộc đa số tại Việt Nam, tuy nhiên tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, người Kinh lại là dân tộc thiểu số: Lào Cai (212.528 người, chiếm 34,6% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số), Hòa Bình (207.569 người, chiếm 26,4% dân số toàn tỉnh, người Mường là dân tộc đa số ở Hòa Bình, chiếm 63,9%), Sơn La (189.461 người, chiếm 17,6% dân số toàn tỉnh, người Thái là dân tộc đa số ở Sơn La), Lạng Sơn (124.433 người, chiếm 17,0% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số), Hà Giang (95.969 người, chiếm 13,2% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số), Điện Biên (90.323 người, chiếm 18,4% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số), Lai Châu (56.630 người, chiếm 15,3% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số), Bắc Kạn (39.280 người, chiếm 13,4% dân số toàn tỉnh, người Tày là dân tộc đa số ở tỉnh này), Cao Bằng (29.189 người, chỉ chiếm 5,76% dân số toàn tỉnh, tỉnh này không có dân tộc đa số). Kinh tế. Có thể nói nền kinh tế mạnh nhất là nền nông nghiệp lúa nước. Nền văn minh lúa nước đã được khai sinh từ rất ngàn đời xưa và đạt được trình độ nhất định. Nền nông nghiệp phát triển cũng nhờ một phần vào sự đào đê, đào nương. Ngoài nghề nông nghiệp, người Kinh cũng làm một số các nghề khác ví dụ như chăn nuôi gia súc, làm đồ thủ công... Văn hóa. Văn học. Văn học của người Việt đã từng tồn tại từ rất lâu và được truyền miệng qua truyển cổ, ca dao, tục ngữ... Nghệ thuật phong phú như ca hát, âm nhạc, điêu khắc, hội họa, múa, diễn xướng... Hàng năm thì theo truyền thống các làng đều tổ chức hội làng với các sinh hoạt cộng đồng. Khoảng sau Công Nguyên, người Kinh bị Bắc thuộc nên đã dùng chữ Hán, nhưng về sau tự tạo thêm chữ viết riêng là chữ Nôm. Tuy nhiên chữ Hán vẫn là ngôn ngữ chính thức được dùng trong hành chính và giáo dục. Từ khoảng thế kỷ thứ 16 các giáo sĩ truyền giáo đến từ phương Tây thấy cần dùng chữ cái Latin để ký âm tiếng Việt. Từ đó xuất hiện chữ Quốc Ngữ được sử dụng rộng rãi ngày nay. Năm 1945, 95% dân số Việt Nam mù chữ nhưng đến năm 2010 tỷ lệ biết chữ ở người lớn là 97,3%. Tuy nhiên tỷ lệ đọc sách của người Việt khá thấp ở mức 0,8 cuốn sách/người/năm. Người Việt có truyền thống ăn trầu cau, hút thuốc lá, nước vối, nước chè, hút thuốc lào, các loại cơm, cháo, xôi, mắm tôm, thịt chó, trứng vịt lộn. Việc hút thuốc lá, thuốc lào có lẽ sau thế kỷ 16, sau khi cây thuốc lá nhập vào Việt Nam từ châu Mỹ. Ngoài các giá trị vật chất, người Việt còn có những giá trị tâm linh như việc thờ cúng tổ tiên, giỗ và các lễ hội như Tết. Các tôn giáo phổ biến như Phật giáo, Công giáo Rôma, đạo Cao Đài... Trang phục. Nói chung người Việt Nam dù ở Bắc, Trung hay Nam đều có cách mặc gần giống nhau. Các loại quần áo như áo ngắn mặc với quần lá tọa ống rộng, quần có cạp hoặc dùng dây rút. Thời xưa thì đàn ông để tóc dài, búi tó, hoặc thắt khăn đầu rìu... Vào các lễ hội đặc biệt thì mặc áo dài khăn đống, mùa áo đơn giản không có văn hoa. Chân thì đi guốc mộc. Vào thời xưa thì phụ nữ người Kinh ai cũng mặc yếm. Váy thì váy dài với dây thắt lưng. Các loại nón thông thường như thúng, ba tầm... Trong những ngày hội thì người phụ nữ thường mặc áo dài. Các thiếu nữ thì hay làm búi tóc đuôi gà. Các đồ trang sức truyền thống như trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách tùy theo từng vùng. Phụ nữ Nam Bộ thường mặc áo bà ba với các kiểu cổ như tròn, trái tim, bà lai với các khăn trùm đầu. Nón lá có thể nói là nón được sử dụng rộng rãi nhất cho phụ nữ thời xưa do nó có thể tự làm và che nắng rất tốt. Xã hội. Theo truyền thống ngàn đời thì người Kinh sống theo làng. Nhiều làng họp lại thì thành một xã. Mỗi làng có thể có nhiều xóm. Nếu tính ra một thôn của miền Bắc thì bằng với một ấp của miền Nam. Trong các làng và xã đều có luật lệ riêng mà mọi người đều phải thi hành. Các làng miền Bắc thường được che chắn bằng cách trồng tre hoặc xây cổng kiên cố. Mỗi làng đều có nơi hội tụ và thờ lạy chung. Một số làng có đình thờ thành hoàng làng, là người được coi là thần bảo hộ của làng. Vào thời xưa thì phụ nữ bị cấm không được đến đình làng. Tầm vóc. Hiện nay, chiều cao trung bình của nam thanh niên Việt Nam là 168,1 cm, nữ cao trung bình 156,2 cm. Mức tăng chiều cao của thanh niên Việt Nam trong giai đoạn 1990-2020 tương đương thời kỳ vàng của Nhật Bản về tăng chiều cao thanh niên trong giai đoạn 1955-1995. Nhà cửa. Phong cách và hình dạng nhà cửa tùy theo từng vùng và miền. Chủ yếu là nhà được xây dựng bằng những vật liệu sẵn có như cỏ khô, rơm rạ, tre nứa. Nhà điển hình là nhà lá 3 gian hoặc 5 gian. Tuy nhiên do điều kiện thời tiết khí hậu nên nhà cửa ở miền trung và miền nam có chút ít khác biệt nhưng nhìn chung vẫn là kết cấu nhà 5 gian. Hiện nay, do nhiều nguyên nhân nên nhà ở đã có sự thay đổi cả về kết cấu và vật liệu xây dựng. Hầu như nhà nào cũng có phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn và nhà bếp (đôi khi phòng ăn và nhà bếp là một). Hôn nhân gia đình. Tuổi kết hôn hợp pháp là nam đủ 20 tuổi và nữ đủ 18 tuổi. Chế độ một vợ một chồng. Gia đình của mẹ gọi là nhà ngoại, gia đình của bố gọi là nhà nội. Hôn nhân đồng tính hiện không bị cấm (Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2014) tuy nhiên vẫn "không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính" (khoản 2 Điều 8 của luật này). Đánh giá. Những đánh giá về người Việt Nam hiện đại (thế kỷ 20-21) đã được một số học giả trong và ngoài nước đưa ra trong các tác phẩm báo chí, tác phẩm văn học, các tiểu luận hay các công trình nghiên cứu xã hội học và dân tộc học. Các đánh giá này được nêu tại những thời điểm lịch sử khác nhau, trong đó có một phần đáng kể về vai trò và tính hai mặt, ưu và nhược điểm trong tư duy, tính cách, tâm lý và tập quán người Việt trong tiến trình phát triển của dân tộc. Các tổng kết dựa trên các nghiên cứu còn một số khác là nhận định cá nhân hay suy diễn logic của các học giả nổi tiếng. Tính hai mặt của người Việt Nam đã được đa số các học giả thừa nhận và khẳng định trong các công trình nghiên cứu về tâm lý, văn hóa, xã hội và lịch sử dân tộc. Những đặc điểm phổ biến trong tư duy, tính cách, tâm lý và tập quán của người Việt mà các tác giả đã chỉ ra cũng không bất biến mà thay đổi theo sự thay đổi của những điều kiện xã hội cùng với sự giao lưu kinh tế, văn hóa, tư tưởng, học thuật với thế giới.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục. Dầu mỏ tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. Dầu mỏ là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, dầu diesel và xăng nhiên liệu. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất nhiên liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là nguồn năng lượng không tái tạo nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn kiệt dầu trong một tương lai không xa. Nó thường được tinh chế thành nhiều loại nhiên liệu. Các thành phần dầu mỏ được tách ra bằng cách sử dụng một kỹ thuật được gọi là chưng cất phân đoạn tức là tách hỗn hợp chất lỏng thành các chất khác nhau ở điểm sôi tương ứng của chất đó bằng phương pháp chưng cất, thường sử dụng cột phân đoạn. Nó bao gồm hydrocarbon của các trọng lượng phân tử khác nhau và hợp chất hữu cơ khác. Tên "dầu khí" bao gồm cả "dầu thô chưa chế biến" và sản phẩm dầu mỏ được tạo thành từ tinh dầu thô. Là một dạng nhiên liệu hóa thạch, dầu được hình thành khi số lượng lớn sinh vật chết, thường là động vật phù du và tảo, được chôn dưới đá trầm tích và chịu nhiệt độ lẫn áp suất cao. Dầu mỏ chủ yếu được thu hồi bằng khoan dầu (lò xo dầu mỏ tự nhiên hiếm). Việc khoan được thực hiện sau các nghiên cứu về địa chất cấu trúc (ở quy mô hồ chứa), phân tích lưu vực trầm tích và đặc tính hồ chứa (chủ yếu về mặt độ xốp và độ thấm của cấu trúc hồ địa chất) đã được hoàn thành. Nó được tinh chế và tách biệt, dễ dàng nhất bởi chưng cất, thành nhiều sản phẩm tiêu dùng, từ xăng (xăng) và dầu hỏa đến nhựa đường và hóa chất thuốc thử được sử dụng để sản xuất nhựa và dược phẩm. Dầu mỏ được sử dụng trong sản xuất nhiều loại vật liệu, và người ta ước tính rằng thế giới tiêu thụ khoảng 95 triệu thùng mỗi ngày. Lo ngại về cạn kiệt dầu của trữ lượng hữu hạn của Trái Đất, và tác động này sẽ có đối với xã hội phụ thuộc vào nó, là một khái niệm được gọi là dầu cao điểm. Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch, chẳng hạn như dầu mỏ, có tác động tiêu cực đến sinh quyển của Trái Đất, làm tổn hại hệ sinh thái thông qua các sự kiện như tràn dầu và giải phóng một loạt các chất gây ô nhiễm vào không khí bao gồm mặt đất ozone và sulfur dioxide từ các tạp chất lưu huỳnh trong nhiên liệu hóa thạch. Việc đốt các nhiên liệu hóa thạch đóng một vai trò quyết định cho hiện tượng ấm lên toàn cầu. Hình thành. "Có nhiều lý thuyết giải thích việc hình thành dầu mỏ": Thuyết sinh vật học. Đa số các nhà địa chất coi dầu lửa giống như than và khí tự nhiên là sản phẩm của sự nén và nóng lên của các vật liệu hữu cơ trong các thời kỳ địa chất. Theo lý thuyết này, nó được tạo thành từ các vật liệu còn sót lại sau quá trình phân rã xác các động vật và tảo biển nhỏ thời tiền sử (các cây cối trên mặt đất thường có khuynh hướng hình thành than). Qua hàng thiên niên kỷ vật chất hữu cơ này trộn với bùn, và bị chôn sâu dưới các lớp trầm tích dày. Kết quả làm tăng nhiệt và áp suất khiến cho những thành phần này bị biến hoá, đầu tiên thành một loại vật liệu kiểu sáp được gọi là kerogen, và sau đó thành một hydrocarbons khí và lỏng trong một quá trình được gọi là catagenesis. Bởi vì hydrocarbon có mật độ nhỏ hơn đá xung quanh, chúng xâm nhập lên phía trên thông qua các lớp đá ngay sát đó cho tới khi chúng bị rơi vào bẫy bên dưới những tảng đá không thể ngấm qua, bên trong những lỗ xốp đá gọi là bể chứa. Sự tập trung hydrocarbon bên trong một bẫy hình thành nên một giếng dầu, từ đó dầu lỏng có thể được khai thác bằng cách khoan và bơm. Các nhà địa chất cũng đề cập tới "cửa sổ dầu" ("oil window"). Đây là tầm nhiệt độ mà nếu thấp hơn thì dầu không thể hình thành, còn cao hơn thì lại hình thành khí tự nhiên. Dù nó tương thích với những độ sâu khác nhau ở những vị trí khác nhau trên thế giới, một độ sâu 'điển hình' cho cửa sổ dầu có thể là 4–6 km. Cần nhớ rằng dầu cũng có thể rơi vào các bẫy ở độ sâu thấp hơn, thậm chí nếu nó không được hình thành ở đó. Cần có ba điều kiện để hình thành nên bể dầu: có nhiều đá, mạch dẫn dầu xâm nhập, và một bẫy (kín) để tập trung hydrocarbon. Các phản ứng tạo thành dầu mỏ và khí tự nhiên thường như những phản ứng phân rã giai đoạn đầu, khi kerogen phân rã thành dầu và khí tự nhiên thông qua nhiều phản ứng song song, và dầu cuối cùng phân rã thành khí tự nhiên thông qua một loạt phản ứng khác. Thuyết vô cơ. Cuối thế kỷ XIX, nhà hóa học người Nga Dmitri Ivanovich Mendeleev đã đưa ra lý thuyết vô cơ giải thích sự hình thành của dầu mỏ. Theo lý thuyết này dầu mỏ phát sinh từ phản ứng hóa học giữa carbide kim loại với nước tại nhiệt độ cao ở sâu trong lòng Trái Đất tạo thành các hiđrocacbon và sau đó bị đẩy lên trên. Các vi sinh vật sống trong lòng đất qua hàng tỷ năm đã chuyển chúng thành các hỗn hợp hydrocarbon khác nhau. Lý thuyết này là một đề tài gây nhiều tranh cãi trong giới khoa học, tạo thành trường phái Nga - Ukraina trong việc giải thích nguồn gốc dầu mỏ. Thuyết hạt nhân. Lý thuyết thứ ba, được giải thích trong nguyệt san khoa học "Scientific American" vào năm 2003, cho rằng các hợp chất hyđrocacbon được tạo ra bởi những phản ứng hạt nhân trong lòng Trái Đất. Lịch sử. Do nhẹ hơn nước nên dầu xuất hiện lộ thiên ở nhiều nơi, vì thế loài người đã tìm thấy dầu hằng ngàn năm trước Công Nguyên. Thời đó dầu thường được sử dụng trong chiến tranh ngoài ra còn được sử dụng để làm đèn và đuốc. Còn rất nhiều dấu tích của việc khai thác dầu mỏ được tìm thấy ở Trung Quốc khi dân cư bản địa khai thác dầu mỏ để sử dụng trong việc sản xuất muối ăn như các ống dẫn dầu bằng tre được tìm thấy có niên đại vào khoảng thế kỷ IV. Khi đó người ta sử dụng dầu mỏ để đốt làm bay hơi nước biển trong các ruộng muối. Mãi đến thế kỷ XIX, người ta mới bắt đầu khai thác dầu theo mô hình công nghiệp, xuất phát từ việc tìm kiếm một chất đốt cho đèn vì dầu cá voi quá đắt tiền chỉ những người giàu mới có khả năng dùng trong khi nến làm bằng mỡ thì lại có mùi khó ngửi. Vì thế giữa thế kỷ thứ XIX, một số nhà khoa học đã phát triển nhiều phương pháp để khai thác dầu một cách thương mại. Năm 1852 một nhà bác sĩ và địa chất người Canada tên là Abraham Gessner đã đăng ký một bằng sáng chế sản xuất một chất đốt rẻ tiền và đốt tương đối sạch. Năm 1855 nhà hóa học người Mỹ Benjamin Silliman đề nghị dùng axit sunfuric làm sạch dầu mỏ dùng để làm chất đốt. Người ta cũng bắt đầu đi tìm những mỏ dầu lớn. Những cuộc khoan dầu đầu tiên được tiến hành trong thời gian từ 1857 đến 1859. Lần khoan dầu đầu tiên có lẽ diễn ra ở Wietze, Đức, nhưng cuộc khoan dầu được toàn thế giới biết đến là của Edwin L. Drake vào ngày 27 tháng 8 năm 1859 ở Oil Creek, Pennsylvania. Drake khoan dầu theo lời yêu cầu của nhà công nghiệp người Mỹ George H. Bissel và đã tìm thấy mỏ dầu lớn đầu tiên chỉ ở độ sâu 21,2 m. Lịch sử ban đầu. Dầu mỏ, dưới dạng này hay dạng khác, đã được sử dụng từ thời cổ đại, và bây giờ là quan trọng trong xã hội, bao gồm cả về kinh tế, chính trị và công nghệ. Sự gia tăng tầm quan trọng là do phát minh ra động cơ đốt trong, sự gia tăng hàng không thương mại và tầm quan trọng của dầu mỏ đối với hóa hữu cơ công nghiệp, đặc biệt là tổng hợp nhựa, phân bón, dung môi, chất kết dính và thuốc trừ sâu. Hơn 4000 năm trước, theo Herodotus và Diodorus Siculus, nhựa đường được sử dụng trong việc xây dựng các bức tường và tháp của Babylon; có những hố dầu gần Ardericca (gần Babylon), và một cái lò cao trên Zacynthus. Số lượng lớn của nó đã được tìm thấy trên bờ sông Issus, một trong những nhánh của sông Euphrates. Viên thuốc Ba Tư cổ đại cho thấy việc sử dụng thuốc và ánh sáng của dầu khí ở các cấp trên của xã hội của họ. Việc sử dụng xăng dầu ngày trở lại Trung Quốc cổ đại hơn 2000 năm trước. Ở I Ching, một trong những tác phẩm đầu tiên của Trung Quốc trích dẫn việc sử dụng dầu ở trạng thái thô mà không tinh chế lần đầu tiên được phát hiện, chiết xuất và sử dụng ở Trung Quốc trong thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Ngoài ra, người Trung Quốc là người đầu tiên sử dụng dầu mỏ làm nhiên liệu vào đầu thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Vào năm 347 sau Công Nguyên, dầu được sản xuất từ ​​các giếng khoan tre ở Trung Quốc. Những nhà thám hiểm người Anh đầu tiên đến Myanmar ghi nhận một ngành khai thác dầu hưng thịnh có trụ sở tại Yenangyaung, vào năm 1795, đã có hàng trăm giếng đào được sản xuất. Pechelbronn (Pitch đài phun nước) được cho là mỏ dầu đầu tiên của châu Âu, nơi dầu mỏ đã được khám phá và sử dụng. Erdpechquelle vẫn còn hoạt động, một con suối, nơi dầu mỏ xuất hiện trộn với nước đã được sử dụng từ năm 1498, đặc biệt là cho các mục đích y tế. Cát dầu đã được khai thác từ thế kỷ 18. Ở Wietze ở Lower Saxony, nhựa đường / bitum tự nhiên đã được khám phá từ thế kỷ 18. Cả hai trong Pechelbronn như ở Wietze, ngành công nghiệp than chiếm ưu thế trong công nghệ dầu mỏ. Lịch sử hiện đại. Nhà hóa học James Young nhận thấy một sự rò rỉ dầu mỏ tự nhiên trong các lò rèn Riddings tại Alfreton, Derbyshire, từ đó ông chưng cất một loại dầu mỏng nhẹ thích hợp để sử dụng làm dầu đèn, đồng thời thu được một loại dầu nhớt hơn thích hợp cho máy bôi trơn. Năm 1848, Young thành lập một doanh nghiệp nhỏ tinh chế dầu thô. Cuối cùng, Young đã thành công, bằng cách chưng cất than đá ở nhiệt độ thấp, tạo ra một chất lỏng giống như dầu mỏ, khi được xử lý giống như dầu thấm cho các sản phẩm tương tự. Young nhận thấy rằng bằng cách chưng cất chậm chạp anh ta có thể thu được một số chất lỏng hữu ích từ nó, một trong số đó anh ta đặt tên là "dầu parafin" vì ở nhiệt độ thấp, nó được kết hợp thành một chất giống sáp parafin. Việc sản xuất các loại dầu này và sáp parafin rắn từ than tạo thành chủ đề của bằng sáng chế của ông ngày 17 tháng 10 năm 1850. Năm 1850 Young & Meldrum và Edward William Binney hợp tác dưới tiêu đề EW Binney & Co. tại Bathgate ở West Lothian và E Meldrum & Co. tại Glasgow; công trình của họ tại Bathgate được hoàn thành vào năm 1851 và trở thành công trình dầu thực sự thương mại đầu tiên trên thế giới với nhà máy lọc dầu hiện đại đầu tiên, sử dụng dầu chiết xuất từ ​​torbanite khai thác, đá phiến sét và bitum để sản xuất naphtha và dầu bôi trơn; paraffin để sử dụng nhiên liệu và parafin rắn không được bán cho đến năm 1856. [cần dẫn nguồn] Đá phiến sét gần Broxburn, 3 trong tổng số 19 ở West Lothian. Nhà máy lọc dầu đầu tiên trên thế giới được xây dựng vào năm 1856 bởi Ignacy Łukasiewicz. Thành tựu của ông cũng bao gồm việc phát hiện ra cách chưng cất dầu hỏa từ dầu thấm, phát minh ra đèn dầu hiện đại (1853), sự ra đời của đèn đường hiện đại đầu tiên ở châu Âu (1853), và xây dựng giếng dầu hiện đại đầu tiên trên thế giới (1854). Nhu cầu xăng dầu làm nhiên liệu cho chiếu sáng ở Bắc Mỹ và trên toàn thế giới nhanh chóng phát triển. Edwin Drake năm 1859 gần Titusville, Pennsylvania, được coi là giếng hiện đại đầu tiên. Đã 1858 Georg Christian Konrad Hunäus đã tìm thấy một lượng dầu mỏ đáng kể trong khi khoan cho than non 1858 ở Wietze, Đức. Wietze sau đó cung cấp khoảng 80% lượng tiêu thụ của Đức trong kỷ nguyên Wilhelminian. Việc sản xuất dừng lại vào năm 1963, nhưng Wietze đã tổ chức Bảo tàng Dầu khí từ năm 1970. Cái giếng của Drake có thể được tháo ra bởi vì nó đã được khoan, không đào; bởi vì nó sử dụng động cơ hơi nước; bởi vì có một công ty liên kết với nó; và bởi vì nó chạm vào một sự bùng nổ lớn. Tuy nhiên, có hoạt động đáng kể trước Drake ở nhiều nơi trên thế giới vào giữa thế kỷ 19. Một nhóm được chỉ huy bởi Thiếu tá Alexeyev thuộc Quân đoàn Kỹ sư Khai thác Bakinskii đã khoan giếng ở vùng Baku năm 1848. Có giếng khoan động cơ ở Tây Virginia trong cùng năm với giếng của Drake. Một giếng thương mại đầu tay được đào tại Ba Lan năm 1853, và một chiếc khác ở Romania gần đó vào năm 1857. Cùng thời điểm đó, nhà máy lọc dầu nhỏ đầu tiên trên thế giới được khai trương tại Jasło ở Ba Lan, và mở rộng tại Ploiești ở Romania ngay sau. Romania là quốc gia đầu tiên trên thế giới có sản lượng dầu thô hàng năm được ghi nhận chính thức trong số liệu thống kê quốc tế: 275 tấn cho năm 1857. Giếng dầu thương mại đầu tiên ở Canada đã hoạt động vào năm 1858 tại Oil Springs, Ontario (sau đó là Canada West). Doanh nhân James Miller Williams đào một số giếng từ năm 1855 đến năm 1858 trước khi phát hiện trữ lượng dầu dồi dào ở độ sâu dưới bốn mét [xác định] Williams đã khai thác 1,5 triệu lít dầu thô vào năm 1860, tinh chế nhiều dầu thành dầu đèn dầu hỏa. Williams cũng đã trở thành thương mại khả thi một năm trước khi hoạt động của Drake Pennsylvania và có thể được lập luận là giếng dầu thương mại đầu tiên ở Bắc Mỹ. Việc khám phá tại Oil Springs đã gây ra một sự bùng nổ về dầu khiến hàng trăm nhà đầu cơ và công nhân đến khu vực này. Những tiến bộ trong khoan tiếp tục vào năm 1862 khi máy khoan địa phương Shaw đạt đến độ sâu 62 mét bằng phương pháp khoan lò xo cực. Vào ngày 16 tháng 1 năm 1862, sau một vụ nổ khí đốt tự nhiên, chiếc máy ép dầu đầu tiên của Canada được đưa vào sản xuất, bắn vào không khí với tốc độ ghi nhận là 3.000 thùng mỗi ngày. Vào cuối thế kỷ 19, Đế quốc Nga, đặc biệt là công ty Branobel ở Azerbaijan, đã đi đầu trong sản xuất.. Tìm kiếm mỏ dầu đã đang và vẫn là một yếu tố chính trong một số xung đột quân sự của thế kỷ XX, kể cả Thế chiến II, trong đó các cơ sở dầu mỏ là một tài sản chiến lược lớn và bị đánh bom rộng rãi. Cuộc xâm lăng của Liên Xô của Đức bao gồm mục tiêu chiếm giữ các mỏ dầu Baku, vì nó sẽ cung cấp nhiều nguồn cung cấp dầu cần thiết cho quân đội Đức đang bị phong tỏa. Việc thăm dò dầu mỏ ở Bắc Mỹ vào đầu thế kỷ 20 sau đó đã dẫn đến việc Mỹ trở thành nhà sản xuất hàng đầu vào giữa thế kỷ này. Khi sản xuất dầu mỏ ở Mỹ đạt đỉnh điểm trong những năm 1960, tuy nhiên, Hoa Kỳ đã bị vượt qua bởi Ả Rập Xê Út. Thành phần. Theo nghĩa hẹp nhất, dầu mỏ chỉ bao gồm dầu thô, nhưng sử dụng phổ biến nó bao gồm tất cả các hydrocarbon lỏng, khí và rắn. Dưới điều kiện áp suất và nhiệt độ bề mặt, các hydrocarbon nhẹ hơn mêtan, ethane, propane và butan xảy ra dưới dạng khí, trong khi pentane và các hydrocarbon nặng hơn ở dạng chất lỏng hoặc chất rắn. Tuy nhiên, trong một bể chứa dầu ngầm, tỷ lệ khí, chất lỏng và chất rắn phụ thuộc vào điều kiện dưới bề mặt và trên sơ đồ pha của hỗn hợp dầu mỏ. Một giếng dầu sản xuất chủ yếu dầu thô, với một số khí tự nhiên hòa tan trong đó. Bởi vì áp suất thấp hơn bề mặt so với dưới lòng đất, một số khí sẽ thoát ra khỏi dung dịch và được thu hồi (hoặc đốt cháy) như khí hoặc dung dịch khí liên quan. Khí đốt tạo ra khí tự nhiên chủ yếu. Tuy nhiên, do nhiệt độ và áp suất ngầm cao hơn bề mặt, khí có thể chứa các hydrocarbon nặng hơn như pentan, hexan và heptan trong trạng thái khí. Ở điều kiện bề mặt, chúng sẽ ngưng tụ ra khỏi khí để tạo thành "khí ngưng tụ tự nhiên", thường được rút ngắn lại thành ngưng tụ. Condensate tương tự như xăng và có thành phần tương tự với một số loại dầu thô nhẹ dễ bay hơi. Tỷ lệ hydrocarbon nhẹ trong hỗn hợp dầu mỏ thay đổi rất nhiều giữa các mỏ dầu khác nhau, từ 97% trọng lượng trong các loại dầu nhẹ đến 50% trong dầu và bitum nặng hơn. Các hydrocarbon trong dầu thô chủ yếu là các ankan, cycloalkan và các hydrocarbon thơm khác nhau, trong khi các hợp chất hữu cơ khác chứa nitơ, oxy và lưu huỳnh, và theo dõi một lượng kim loại như sắt, niken, đồng và vanadi. Nhiều hồ chứa dầu chứa vi khuẩn sống. Thành phần phân tử chính xác của dầu thô thay đổi rất nhiều từ hình thành đến hình thành nhưng tỷ lệ các nguyên tố hóa học thay đổi theo giới hạn khá hẹp như sau: Các thành phần hóa học của dầu mỏ được chia tách bằng phương pháp chưng cất phân đoạn. Các sản phẩm thu được từ việc lọc dầu có thể kể đến là dầu hỏa, benzen, xăng, sáp parafin, nhựa đường, dầu diesel, khí đốt v.v. Một cách chính xác thì dầu mỏ là hỗn hợp của các hydrocarbon, là hợp chất của hiđrô và cacbon. Trong điều kiện thông thường, bốn alkan nhẹ nhất — CH4 (mêtan), C2H6 (êtan), C3H8 (prôpan) và C4H10 (butan) — ở dạng khí, sôi ở nhiệt độ -161.6 °C, -88.6 °C, -42 °C, và -0.5 °C tương ứng (-258.9°, -127.5°, -43.6°, và -31.1 °F). Các chuỗi trong khoảng C5-7 là các sản phẩm dầu mỏ nhẹ, dễ bay hơi. Chúng được sử dụng làm dung môi, chất làm sạch bề mặt và các sản phẩm làm khô nhanh khác. Các chuỗi từ C6H14 đến C12H26 bị pha trộn lẫn với nhau được sử dụng trong đời sống với tên gọi là xăng. Dầu hỏa là hỗn hợp của các chuỗi từ C10 đến C15, tiếp theo là dầu điêzen/dầu sưởi (C10 đến C20) và các nhiên liệu nặng hơn được sử dụng cho động cơ tàu thủy. Tất cả các sản phẩm từ dầu mỏ này trong điều kiện nhiệt độ phòng là chất lỏng. Các dầu bôi trơn và mỡ (dầu nhờn) (kể cả Vadơlin®) nằm trong khoảng từ C16 đến C20. Các chuỗi trên C20 tạo thành các chất rắn, bắt đầu là sáp parafin, sau đó là hắc ín và nhựa đường bitum. Khoảng nhiệt độ sôi của các sản phẩm dầu mỏ trong chưng cất phân đoạn trong điều kiện áp suất khí quyển tính theo độ C là: Khai thác. Muốn khai thác dầu, người ta khoan những lỗ khoan gọi là giếng dầu. Khi khoan trúng lớp dầu lỏng, thông thường dầu sẽ tự phun lên do áp suất cao của vỉa. Khi lượng dầu giảm thì áp suất cũng giảm đi, người ta phải dùng bơm hút dầu lên hoặc bơm nước hay khí xuống để duy trì áp suất cần thiết. Một số nước có phần lớn các giếng dầu nằm trên đất liền và tương đối nông như Mỹ, Nga, khu vực Trung Đông. Tuy nhiên tại nhiều khu vực khác các giếng dầu được khoan và khai thác ngoài biển kéo theo chi phí khá cao. Phân loại. Ngành công nghiệp dầu mỏ phân chia "dầu thô" theo khu vực mà nó xuất phát (ví dụ "West Texas Intermediate" (WTI) hay "Brent") thông thường theo tỷ trọng và độ nhớt tương đối của nó ("nhẹ", "trung bình" hay "nặng"); các nhà hóa dầu còn nói đến chúng như là "ngọt", nếu nó chứa ít lưu huỳnh, hoặc là "chua", nếu nó chứa đáng kể lưu huỳnh và phải mất nhiều công đoạn hơn để có thể sản xuất nó theo các thông số hiện hành. Các thùng ("barrel") tiêu chuẩn trên thế giới là: OPEC cố gắng giữ giá của giỏ Opec giữa các giới hạn trên và dưới, bằng cách tăng hoặc giảm sản xuất. Điều này rất quan trọng trong phân tích thị trường. Giỏ OPEC, bao gồm hỗn hợp của dầu thô nặng và nhẹ là nặng hơn cả Brent và WTI. "Xem thêm Các dạng dầu mỏ ." Tầm quan trọng trong kinh tế. Dầu mỏ là một trong những nhiên liệu quan trọng nhất của xã hội hiện đại dùng để sản xuất điện và cũng là nhiên liệu của tất cả các phương tiện giao thông vận tải. Hơn nữa, dầu cũng được sử dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất các chất dẻo ("plastic") và nhiều sản phẩm khác. Vì thế dầu thường được ví như là "vàng đen". Tùy theo nguồn tính toán, trữ lượng dầu mỏ thế giới nằm trong khoảng từ 1.148 tỉ thùng ("barrel") (theo BP Statistical Review 2004) đến 1.260 tỉ thùng (theo Oeldorado 2004 của ExxonMobil). Đến năm 2017, tổng trữ lượng dầu mỏ thế giới đã tăng lên mức 1.780 tỷ thùng do việc phát hiện thêm một số mỏ dầu mới. Trữ lượng dầu mỏ tìm thấy và có khả năng khai thác mang lại hiệu quả kinh tế với kỹ thuật hiện tại đã tăng lên trong những năm gần đây và đạt mức cao nhất. Dự đoán trữ lượng dầu mỏ sẽ đủ dùng đến năm 2070. Năm 2011 trữ lượng dầu mỏ nhiều nhất là ở các nước như Hoa Kỳ (55 tỷ thùng), Ả Rập Xê Út (262,6 tỉ thùng), Venezuela (211,2 tỉ thùng), Canada (175,2 tì thùng), Iran (137 tỉ thùng), Iraq (115,0 tỉ thùng), kế đến là ở Kuwait, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Nga, Libya, và Nigeria . Nước khai thác dầu nhiều nhất thế giới trong năm 2003 là Ả Rập Xê Út (496,8 triệu tấn), Nga (420 triệu tấn), Mỹ (349,4 triệu tấn), México (187,8 triệu tấn) và Iran (181,7 triệu tấn). Việt Nam được xếp vào các nước xuất khẩu dầu mỏ từ năm 1991 khi sản lượng xuất được vài ba triệu tấn. Đến nay, sản lượng dầu khí khai thác và xuất khẩu hàng năm đạt vào khoảng 20 triệu tấn/năm (trữ lượng dầu mỏ của Việt Nam năm 2017 là 4,4 tỷ thùng dầu). Vì tầm quan trọng kinh tế, dầu mỏ cũng là lý do cho những mâu thuẫn chính trị. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã sử dụng dầu mỏ như vũ khí trong cuộc xung đột Trung Đông và tạo ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973 và 1979. Ảnh hưởng đến môi trường. Dầu mỏ bị tràn ra biển gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đời sống sinh vật biển. Dầu mỏ đem đốt cũng gây ra ô nhiễm vì sinh ra nhiều khí như SO2, CO2. Xe cộ, máy móc... chạy bằng xăng góp phần làm Trái Đất nóng lên. Bởi vì dầu mỏ là một chất tự nhiên, sự hiện diện của nó trong môi trường không phải là kết quả của các nguyên nhân của con người như tai nạn và các hoạt động thường quy (thăm dò địa chấn, khoan, khai thác, lọc và đốt). Hiện tượng như seeps và tar pits là những ví dụ về các khu vực mà dầu khí ảnh hưởng đến sự tham gia của con người. Bất kể nguồn, hiệu ứng của xăng dầu khi thải vào môi trường cũng tương tự như biển bị acid hóa. Axit hóa nước biển. Sự axit hóa đại dương là sự gia tăng tính axit của các đại dương của Trái Đất gây ra bởi sự hấp thụ khí carbon dioxide (CO2) từ khí quyển. Sự gia tăng tính axit này ức chế tất cả các sinh vật biển - có ảnh hưởng lớn hơn đến các sinh vật nhỏ hơn cũng như các sinh vật có vỏ (xem sò điệp). Sự ấm lên toàn cầu Khi bị đốt cháy, dầu khí thải ra carbon dioxide, một loại khí nhà kính. Cùng với việc đốt than, đốt dầu có thể là nguồn đóng góp lớn nhất cho sự gia tăng CO2 trong khí quyển. [Cần dẫn nguồn] CO2 khí quyển đã tăng lên trong 150 năm qua đến mức hiện tại trên 390 ppmv, từ 180 - 300 ppmv của trước 800 nghìn năm Sự gia tăng nhiệt độ này có thể làm giảm băng băng Bắc Cực xuống 1.100.000 dặm vuông (2.800.000 km2), [cần dẫn nguồn] nhỏ hơn bao giờ được ghi lại.</ref> This rise in temperature may have reduced the Arctic ice cap to , smaller than ever recorded. Bởi vì điều này tan chảy, dự trữ dầu nhiều hơn đã được tiết lộ. Khoảng 13% lượng dầu chưa được khám phá của thế giới nằm ở Bắc Cực. Khai thác Khai thác dầu chỉ đơn giản là loại bỏ dầu từ hồ chứa (hồ dầu). Dầu thường được thu hồi dưới dạng nhũ tương nước trong dầu và các hóa chất đặc biệt được gọi là chất khử nhũ tương được sử dụng để tách dầu khỏi nước. Khai thác dầu là tốn kém và đôi khi gây hại cho môi trường. Thăm dò ngoài khơi và khai thác dầu làm xáo trộn môi trường biển xung quanh. Sự cố tràn dầu Thông tin thêm: Tràn dầu và Danh sách tràn dầu Dầu thô và tràn nhiên liệu tinh chế từ tai nạn tàu chở dầu đã làm hư hại hệ sinh thái tự nhiên ở Alaska, Vịnh Mexico, Quần đảo Galápagos, Pháp và nhiều nơi khác. Số lượng dầu tràn trong các vụ tai nạn đã dao động từ vài trăm tấn đến vài trăm nghìn tấn (ví dụ, dầu tràn Deepwater Horizon, SS Atlantic Empress, Amoco Cadiz). Sự cố tràn nhỏ hơn đã được chứng minh là có tác động lớn đến các hệ sinh thái, chẳng hạn như vụ tràn dầu Exxon Valdez. Sự cố tràn dầu trên biển thường gây thiệt hại nhiều hơn so với những người trên đất liền, vì chúng có thể lây lan cho hàng trăm hải lý trong một vụn dầu mỏng có thể che phủ những bãi biển bằng một lớp dầu mỏng. Điều này có thể giết chết chim biển, động vật có vú, động vật có vỏ và các sinh vật khác mà nó phủ lên. Sự cố tràn dầu trên đất sẽ dễ dàng hơn nếu một đập đất tạm thời có thể bị đẩy nhanh chóng xung quanh khu vực tràn dầu trước khi hầu hết dầu bị lở, và động vật trên cạn có thể tránh được dầu dễ dàng hơn. Kiểm soát sự cố tràn dầu rất khó, đòi hỏi các phương pháp đặc biệt, và thường là một lượng nhân lực lớn. Việc thả bom và các thiết bị gây cháy từ máy bay trên xác tàu SS Torrey Canyon tạo ra kết quả kém, kỹ thuật hiện đại bao gồm bơm dầu từ xác tàu, như tràn dầu Prestige hoặc tràn dầu Erika. Mặc dù dầu thô chủ yếu bao gồm các hydrocarbon khác nhau, một số hợp chất dị vòng nitơ nhất định, như pyridin, picoline và quinoline được báo cáo là chất gây ô nhiễm liên quan đến dầu thô, cũng như các cơ sở chế biến đá phiến dầu hoặc than đá. các vị trí điều trị. Những hợp chất này có độ hòa tan trong nước rất cao, và do đó có xu hướng hòa tan và di chuyển với nước. Một số vi khuẩn xuất hiện tự nhiên, như Micrococcus, Arthrobacter và Rhodococcus đã được chứng minh là làm suy giảm các chất ô nhiễm này. Các nguồn năng lượng khác. Do trữ lượng dầu mỏ có hạn nên các nguồn nhiên liệu tái sinh như năng lượng mặt trời, năng lượng gió đang được tìm cách sử dụng với một hiệu quả kinh tế đáng kể. Tế bào nhiên liệu ("fuel "cell), sử dụng hiđrô làm nguyên liệu, cũng là một ngành công nghệ mới có nhiều triển vọng để thay thế cho dầu mỏ trong tương lai. Tham khảo. 3. 10 mỏ dầu lớn nhất thế giới
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Kim Vân Kiều () là một tác phẩm tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân, tác giả đời nhà Minh, Trung Quốc biên soạn vào cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17. Nguyễn Du nhân đọc quyển tiểu thuyết này đã cảm hứng viết "Truyện Kiều" – một tác phẩm được xem là "áng văn chương bất hủ" của Văn học Việt Nam. Tác giả. Thanh Tâm Tài Nhân (青心才人) sống vào đời nhà Minh, tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ Vị, còn có một số bút danh khác là "Thiện Tri", "Thanh đằng", "Điền Thủy Nguyệt". Theo nhiều tư liệu, sử sách chép ông sinh năm 1521, mất năm 1593, đương thời với ca kỹ tên Vương Thúy Kiều. Ông quê ở huyện Sơn Âm, tỉnh Chiết Giang, học giỏi, hiểu biết rộng, nhưng đi thi không đỗ, bèn làm mặc khách của Hồ Tông Hiến. Sinh thời, đã có lần Thanh Tâm Tài Nhân thảo tờ biểu "Dâng hươu trắng" cho vua nên trở thành nổi tiếng. Ngoài tác phẩm chính "Kim Vân Kiều truyện", ông còn có loạt kịch Tứ thanh viên (Vượn kêu bốn tiếng) gồm 4 vở kịch: "Ngư dương lộng", "Thúy nương mộng", "Hoa mộc lan" và "Nữ trạng nguyên". Nguồn gốc của Kim Vân Kiều truyện. Theo Trần Đình Sử trong "Thi pháp Truyện Kiều", Kim Vân Kiều truyện đã qua sáu lần biên soạn lại: Văn bản Kim Vân Kiều truyện. Bản chữ Hán ở Việt Nam. Chỉ có một bản gốc duy nhất, đó là bản chép tay ở Viễn Đông Bác Cổ Học viện, ký hiệu A953, nhan đề "Kim Vân Kiều - Thanh Tâm Tài Tử biên thứ", lập ngày 23 - 3 - 1954 (Archives micronormalisées - Photoza - Paris), hiện nay ở phòng Microfilm Thư viện Khoa học Xã hội, Hà Nội. Bản này gồm 4 quyển chép tay với 478 trang chữ Hán. Cột bên trái trang mục lục và đầu mỗi hồi đều đề: "Thánh Thán ngoại thư - Quán Hoa Đường bình luận - Thanh Tâm Tài Tử biên thứ". Sách được chia làm 20 hồi, đầu mỗi hồi là "Lời bình" của Kim Thánh Thán trước khi đi vào nội dung cụ thể. Bản chữ Hán ở Trung Quốc và nước ngoài. Theo Nguyễn Hữu Sơn và Nguyễn Đăng Na, ở Trung Quốc và nước ngoài đã sưu tầm được 13 loại bản khác nhau. Văn bản chính nguyên thể gồm 20 hồi nhưng cũng có nhiều bản rách nát hoặc thu gọn, có bản rút gọn chỉ còn 12 hồi như bản duy nhất còn được lưu trữ ở trường Đại học Hamfret (Hoa Kỳ). Lại có bản tới 28 hồi. Tựu trung đến nay có hai loại văn bản về Kim Vân Kiều truyện: Bản dịch tiếng Việt. Kim Vân Kiều truyện cũng đã được dịch ra tiếng Mãn Châu, tiếng Nhật. Kết cấu. "Kim Vân Kiều" là một bộ tiểu thuyết chương hồi có lối kết cấu truyền thống theo kiểu văn xuôi cổ điển Trung Quốc. Sách gồm 20 hồi, trước mỗi hồi đều có phần giới thiệu tóm lược nội dung, lời bình phẩm mà người đời sau thường xem là lời của Kim Thánh Thán. Cuối mỗi hồi đều có câu: "muốn biết sự việc thế nào, xin xem hồi sau phân giải…" Mục lục 20 hồi như sau: Kết cấu của tác phẩm "Kim Vân Kiều" được miêu tả theo tuyến tính thời gian, trình tự diễn biến của sự kiện và quá trình hành động của nhân vật chính. Tác phẩm kèm nhiều lời bình giảng, giáo huấn đạo lý; bên cạnh đó là việc sử dụng rất nhiều điển tích, điển cố, nhân vật gặp cảnh ngộ vui buồn, éo le đều thường làm thơ, tứ, kệ, hoạ đàn… nhân đó mà bày tỏ tâm trạng, tình cảm của mình khiến cho văn chương trong "Kim Vân Kiều" càng đậm nét cổ. Bàn về "Kim Vân Kiều". Trên thực tế, ở Trung Hoa, truyện về Thúy Kiều của Nguyễn Du đã được nhiều người biên soạn thành truyện ngắn, tiểu thuyết nhưng chỉ có Kim Vân Kiều của Thanh Tâm tài nhân là có quy mô phong phú hơn cả. Theo một nhà phê bình nổi tiếng là Kim Thánh Thán bình luận trong một cuốn sách như sau: Chủ đề của "Kim Vân Kiều" là "tình" 情 và "khổ" 苦: Nhận xét của Đổng Văn Thành về Kim Vân Kiều :
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (, viết tắt OPEC) là tổ chức đảm bảo thu nhập ổn định cho các quốc gia thành viên và đảm bảo nguồn cung dầu mỏ cho các khách hàng. OPEC là tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela trong hội nghị tại Bagdad (10-14/9/1960). Các thành viên Qatar (1961), Libya (1962), UAE (1967), Algérie (1969) và Nigeria (1971) lần lượt gia nhập tổ chức sau đó. Ecuador (1973–1992), Indonesia (1962-2008) và Gabon (1975–1994) cũng từng là thành viên của OPEC. Trong 5 năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Viên, Áo từ tháng 9/1965. Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng 75% trữ lượng dầu thế giới. Lịch sử. Vào ngày 10-14/9/1960, theo sáng kiến của Bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Venezuelan Juan Pablo Pérez Alfonso và bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Ả Rập Xê Út Abdullah al-Tariki, các chính phủ Iraq, Iran, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela nhóm họp tại Baghdad để thảo luận các phương án nhằm tăng giá dầu thô sản xuất ở các quốc gia này OPEC được thành lập nhằm thống nhất và phối hợp các chính sách về dầu mỏ của các quốc gia thành viên. Giữa năm 1960 và 1975, tổ chức này đã mở rộng bao gồm các thành viên mới như Qatar (1961), Indonesia (1962), Libya (1962), Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (1967), Algérie (1969), và Nigeria (1971). Ecuador và Gabon trước đây từng là thành viên của OPEC, nhưng Ecuador đã rút lui ngày 31/12/1992 do họ không sẵn sàng hay không thể chi trả 2 triệu đô la tiền phí thành viên và cảm giác rằng họ cần sản xuất nhiều dầu hơn chỉ tiêu mà OPEC cho phép, dù vậy họ gia nhập trở lại vào tháng 10/2007. Các mối quan tâm tương tự cũng đã thúc đẩy Gabon ngừng làm thành viên vào tháng 1/1995. Angola gia nhập đầu năm 2007. Na Uy và Nga tham dự các hội nghị của OPEC với tư cách là quan sát viên. OPEC không phải không thích mở rộng nữa, Mohammed Barkindo, tổng thư ký OPEC gần đây đã đề nghị Sudan gia nhập. Iraq vẫn là thành viên của OPEC, nhưng sản lượng của Iraq không nằm trong bất kỳ chỉ tiêu thỏa thuận nào của OPEC kể từ tháng 3/1998. Tháng 5/2008, Indonesia tuyên bố rời khỏi OPEC khi hết hạn thành viên và vào cuối năm đó, nước này trở thành quốc gia nhập khẩu dầu và không thể đạt được chỉ tiêu sản xuất dầu của họ. 1 bản tuyên bố do OPEC đưa ra ngày 10/9 n/2008 đã xác nhận Indonesia rút khỏi tổ chức này, trong đó có đoạn "thật tiếc là chúng tôi phải chấp nhận mong muốn của Indonesia để dừng tư cách thành viên trong Tổ chức OPEC và hy vọng rằng Quốc gia này sẽ sẵn sàng gia nhập trở lại trong một tương lai không xa." Indonesia vẫn xuất khẩu dầu ngọt nhẹ và nhập khẩu dầu chua hơn (chứa nhiều lưu huỳnh), nặng hơn để tận dụng chênh lệch giá (nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu). Tổ chức. OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu lửa của các nước thành viên và qua đó có khả năng khống chế giá dầu. Hội nghị các bộ trưởng phụ trách năng lượng và dầu mỏ thuộc tổ chức OPEC được tổ chức mỗi năm 2 lần nhằm đánh giá thị trường dầu mỏ và đề ra các biện pháp phù hợp để bảo đảm việc cung cấp dầu. Bộ trưởng các nước thành viên thay nhau theo nguyên tắc xoay vòng làm chủ tịch của tổ chức hai năm một nhiệm kỳ. Thành viên. Hiện nay tổ chức này có 11 nước thành viên được liệt kê dưới đây với ngày tháng gia nhập. Mục tiêu. Mục tiêu chính thức được ghi vào hiệp định thành lập của OPEC là ổn định thị trường dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới và ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp cưỡng chế vì các quyết định của OPEC. Nhưng thật ra nhiều biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong các cơn khủng hoảng dầu, OPEC chẳng những đã không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính sách cao giá trong thời gian dài. Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá. OPEC dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra khan hiếm hoặc dư dầu giả tạo nhằm thông qua đó có thể tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC như là một liên minh độc quyền ("cartel") luôn tìm cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất cho các thành viên.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Quận Cam hay Quận Orange () là một quận (hạt) ở miền nam tiểu bang California, Hoa Kỳ. Với dân số 3.010.232 theo Thống kê Dân số 2010 của Mỹ, Quận Cam là quận đông dân đứng thứ nhì tại tiểu bang này và thứ ba toàn quốc. Địa lý. Theo Điều tra Dân số 2010 của Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, Quận Cam có tổng diện tích 2.460 km² trong đó đất liền là 2.050 km² mặt nước chiếm 410 km² (16,6% tổng diện tích). Quận giáp Thái Bình Dương về phía tây, Quận Los Angeles về phía bắc, Quận San Bernardino về phía đông bắc, Quận Riverside về phía đông và Quận San Diego về phía nam. Điểm cao nhất của Quận là (1.734 m) cách phía đông Santa Ana khoảng 32 km. Gần Santiago Peak là chỉ thấp hơn 60 m, đỉnh của nó được biết với cái tên Saddleback có thể thấy được từ hầu hết mọi nơi trong Quận. Danh lam thắng cảnh. Thời tiết ấm áp và các bãi biển quanh năm tại khu vực này thu hút hàng triệu du khách hàng năm. Huntington Beach là một điểm nóng để tắm nắng và lướt sóng. Nhiều cuộc thi lướt sóng ("surfing") được tổ chức tại thành phố này hàng năm. Một số công viên giải trí nổi tiếng trên thế giới có tại quận này, như Disneyland và Disney's California Adventure tại Anaheim và Knott's Berry Farm tại Buena Park. Trường Đại học California tại Irvine và nơi sinh trưởng của cố Tổng thống Richard Nixon cũng ở trong quận này. Khu vực Little Saigon (Tiểu Sài Gòn) trong quận này cũng đáng được chú ý, vì đây là nơi cư ngụ của số người Việt đông đảo nhất ngoài lãnh thổ Việt Nam. Dân số. Theo thống kê, quận này có 3.010.232 người, 935.287 hộ và 667.794 gia đình. Mật độ dân số là 1.392 người/km². Có 969.484 đơn vị nhà cửa. Các dân tộc trong quận này gồm có 64,81% người da trắng, 1,67% người Mỹ gốc Phi, 0,70% người da đỏ, 13,59% người Mỹ gốc Á, 0,31% người gốc các đảo Thái Bình Dương, 14,80% các dân tộc khác, và 4,12% lai nhiều hơn một chủng tộc. 30,76% dân số là người Hispanic. Vào năm 2007, có khoảng 135.000 người gốc Việt trong số 3 triệu dân trong quận, và có 10 người Việt được bầu vào các cơ quan chính quyền địa phương như Hội đồng thành phố, Ban lãnh đạo nhà trường và Hội đồng quận. Cuối năm 2014, lần đầu tiên cả ba thành phố nằm cận kề nhau ở Quận Cam, nơi có đông người Việt sinh sống, đều có thị trưởng là người gốc Việt Nam: Tạ Đức Trí thị trưởng của thành phố Westminster, Michael Võ thị trưởng ở thành phố Fountain Valley và Bảo Nguyễn, thị trưởng thành phố Garden Grove.
5
5_km2_tra_tui_65
[ "km2", "tra", "tui", "65", "2000", "vung", "18", "hoa", "dn", "qun" ]
[ "Quận Caroline là một quận thuộc tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.\nQuận này được đặt tên theo. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, quận có dân số người. Quận lỵ đóng ở.\nĐịa lý.\nTheo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước.", "Quận Henry là một quận thuộc tiểu bang Tennessee, Hoa Kỳ.\nQuận này được đặt tên theo. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, quận có dân số người. Quận lỵ đóng ở.\nĐịa lý.\nTheo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước.", "Quận Lee là một quận thuộc tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.\nQuận này được đặt tên theo. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, quận có dân số người. Quận lỵ đóng ở.\nĐịa lý.\nTheo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước." ]
km2 - tra - tui - 65 - 2000 - vung - 18 - hoa - dn - qun
1
false
Pétrus Trương Vĩnh Ký (tên chữ Hán: 張永記, 1837 – 1898), tên hồi nhỏ là Trương Chánh Ký, sau này đổi tên đệm thành Trương Vĩnh Ký, hiệu Sĩ Tải; là một nhà chính trị, học giả, nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục học và khảo cứu văn hóa của Việt Nam trong thế kỷ 19. Ông là người am tường và có cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây, nên được kết nạp làm thành viên thứ 18 của hội "Savants du Monde", một hội gồm nhiều nhà khoa học, văn học Pháp (một số nguồn Việt Nam hiểu nhầm, cho rằng ông "đứng thứ 18 trong các đại văn hào thế giới", nhưng thực ra "Savants du Monde" chỉ là tên gọi khoa trương, về bản chất đây là một hội tự lập mang tính giao lưu cá nhân và thành viên chỉ toàn người Pháp mà thôi). Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật... Riêng đối với báo chí viết chữ Quốc ngữ tại Việt Nam, ông được coi là người tiên phong vì đã sáng lập, là Tổng biên tập tờ báo viết chữ quốc ngữ đầu tiên mang tên là "Gia Định báo". Tuy nhiên, ông cũng bị phê phán vì đã trợ giúp cho thực dân Pháp xâm chiếm và cai trị Việt Nam, và làm cố vấn cho Pháp trong việc đàn áp Phong trào Cần Vương của những người kháng chiến chống Pháp. Có những người đã xếp Trương Vĩnh Ký vào nhóm người Việt cộng tác với thực dân Pháp tiêu biểu trong thế kỷ 19, cùng với Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Lê Hoan. Tiểu sử và sự nghiệp. Ông sinh ngày 6 tháng 12 năm 1837 (tức năm Đinh Dậu, Minh Mạng thứ 17) tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lệ, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay là Vĩnh Thành, Chợ Lách, Bến Tre). Trương Vĩnh Ký là con thứ 3 (sau người chị đầu mất sớm và anh cả là Trương Vĩnh Sử) của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Ông là cháu 5 đời của Trương Đạt gốc làng Trường Dục, xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Họ tộc gần của ông có Trương Minh Giảng. Đi học. Lúc 5 tuổi, Vĩnh Ký cùng anh trai là Trương Vĩnh Sử được đi học chữ Hán với một thầy đồ tên Học ở trong xóm dạy. Năm ông 8 tuổi , cha ông được triều đình cử đi phò tá đoàn sứ thần sang Cao Miên (Campuchia ngày nay), rồi mất vì bệnh ở bên ấy. Thấy ông ngoan và cần mẫn, Cố Tám (một tu sĩ Công giáo từng được ông Thi che giấu lúc nhà Nguyễn cấm đạo gắt gao) đã khuyên mẹ ông cho ông đi học chữ Quốc ngữ và cải theo đạo Công giáo. Sau đó, ông có tên là Jean-Baptiste Pétrus Trương Chánh Ký, sau này đổi tên đệm là Pétrus Trương Vĩnh Ký, viết và gọi tắt là Pétrus Ký. Đến khi Linh mục Long từ Pháp sang, Cố Tám (ít lâu sau ông mất) cho Pétrus Ký theo hầu nhà truyền giáo này. Thấy ông thông minh và ham học, Linh mục Long đã tận tình dạy dỗ chữ Latinh, đồng thời dành riêng cho ông một chỗ ở trong nhà Giảng vừa mới thành lập ở Cái Nhum (1846). Năm 11 tuổi (1848), theo đề nghị của Linh mục Long, vị Giám mục chủ quản xứ đạo lúc bấy giờ cho Pétrus Ký theo học với Cố đạo Hòa (tức Linh mục người Pháp Bouillevaux), đang giữ chức Cai tại trường đạo Pinha-lu ở Phnom Penh (Cao Miên). Ở đây, có các học sinh là người Cao Miên (Campuchia), Ai Lao (Lào), Miến Điện (Myanmar), Trung Quốc;... ông lân la làm quen và rồi học luôn các thứ tiếng ấy. Năm 1851, Pétrus Ký lại được gửi vào trường đạo Dulalma ở Penang (đây là một hòn đảo nhỏ trên vùng biển Hạ Châu, tức Nam Dương, nay thuộc Malaysia). Ban đầu, đoàn du học (có Linh mục Long đi theo) đi theo đường bộ xuất phát từ Nam Vang, nhưng rồi đoàn bị lạc giữa rừng, lại gặp bão ở Biển Hồ, nên phải trở về Sài Gòn để xuống tàu thủy qua Penang... Trong khoảng thời gian theo học tại đây, ông còn học thêm các thứ tiếng khác, như: Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Mã Lai, Nhật Bản, Hy Lạp, Thái Lan, Pháp... Năm 21 tuổi (1858), Trương Vĩnh Ký học xong và về nước đúng vào lúc mẹ ông qua đời. Lúc Pétrus Ký trở về quê hương Cái Mơn, cũng là lúc thực dân Pháp đem quân sang xâm chiếm Việt Nam (Đà Nẵng bị tấn công ngày 1 tháng 9 năm 1858). Vì thế, việc cấm đạo Công giáo cũng diễn ra gay gắt hơn. Bắt tay với thực dân Pháp. Lược kê ra một số sự kiện đáng chú ý: Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, trung tá hải quân Jean Bernard Jaureguiberry và 800 lính ở lại giữ thành Gia Định. Pétrus Ký viết thư cho Jean, trong đó kêu gọi quân Pháp nhanh chóng đánh đuổi quân nhà Nguyễn để hỗ trợ các tín hữu Ki-tô giáo tại Việt Nam. Thư có đoạn như sau: Không du học nữa, và cũng không thể ở quê nhà vì chuyện đã viết thư cầu viện Pháp, Pétrus Ký chạy lên Sài Gòn vào tá túc nhà vị Giám mục người Pháp Dominique Lefèbre, và được ông này giới thiệu làm thông ngôn cho Jauréguiberry vào ngày 20 tháng 12 năm 1860. Năm 1861 Pétrus Ký thành hôn với bà Vương Thị Thọ (con gái ông Vương Tấn Ngươn, hương chủ làng Nhơn Giang [Chợ Quán] do Linh mục Đoan họ đạo Nhơn Giang mối mai) và dời về cư ngụ ở Chợ Quán, Sài Gòn. Hay tin Pétrus Ký, một con người nhiều học vấn, sẽ ra làm việc với Pháp, một số quan lại nhà Nguyễn rất nghi kỵ ông, nhiều người phê phán Pétrus Ký là kẻ phản quốc. Để biện minh cho việc ông cộng tác với thực dân Pháp, sau này có người đã mượn câu cách ngôn Latinh của Pétrus Ký trong thư gửi người bạn Pháp: "Ở với họ mà không theo họ" ("Sic vos non vobis"). Nhưng thực ra việc dịch "sic vos non vobis" thành "Ở với họ mà không theo họ" là sai hẳn hàm ý của câu văn nói trên. Câu "sic vos non vobis" thật ra có nguồn gốc từ những vần thơ của thi hào Virgil. Toàn thể câu văn mà Petrus Ký viết phải được dịch như sau: "Điều duy nhất mà tôi theo đuổi là làm sao thành có ích, tuy phải nói thêm rằng: (ích lợi đó) không phải cho tôi. Đó là số phận và là niềm an ủi của tôi." Như vậy, câu "sic vos non vobis" chỉ là Pétrus Ký đang tâm sự với bạn về triết lý sống là "không vì bản thân", chứ không liên quan gì đến việc cộng tác với Pháp. Ngày 8 tháng 5 năm 1862, Pháp thành lập trường Thông ngôn ("Collège des Interprètes"), ông được nhận vào dạy. Cũng trong năm này, ông theo sứ thần Simo đáp thuyền Forbin ra Huế bàn việc nghị hòa. Trong hiệp ước nghị hòa, nhà Nguyễn phải chịu mất 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, điều này khiến nhiều người Việt căm phẫn và chỉ trích Pétrus Ký vì ông đã giúp Pháp thương thảo hiệp ước này. Năm 1863, triều đình Huế cử một phái đoàn do Phan Thanh Giản đứng đầu sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, và ông Giản đã xin Pétrus Ký đi theo làm thông ngôn. Sang Pháp, Pétrus Ký cùng phái đoàn nhà Nguyễn được triều kiến Hoàng đế Napoléon III, gặp nhiều nhân vật tên tuổi thuộc nhiều lãnh vực khác nhau. Ngoài ra, ông còn được sang thăm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý và được yết kiến Giáo hoàng tại Rôma. Ngày 18 tháng 3 năm 1864, phái đoàn về đến Sài Gòn. Năm 1865, Pétrus Ký xin lập một tờ báo quốc ngữ mang tên là "Gia Định báo". Lời yêu cầu của ông được chấp thuận và Nghị định cho phép xuất bản được ký ngày 1 tháng 4 năm 1865, nhưng không phải ký cho ông mà lại ký cho một người Pháp tên là Ernest Potteaux, một viên thông ngôn làm việc tại Soái phủ Nam Kỳ. Mãi đến ngày 16 tháng 5 năm 1869 mới có Nghị định của Chuẩn Đô đốc Ohier ký giao Gia Định báo cho Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc, Huỳnh Tịnh Của làm Chủ bút; và khi ấy tờ báo mới thật sự được khởi sắc. Từ năm 1866 đến 1868, ông được bổ làm Giáo sư dạy tiếng Pháp ở trường Thông ngôn Sài Gòn. Ngày 3/9/1868, Trương Vĩnh Ký gửi thư cho ông Giám đốc Nội trị để xin từ chức. Trong đó có những câu bày tỏ lòng trung thành với nước Pháp: Năm 1869, Sứ thần Tây Ban Nha sang Việt Nam nhằm ký thương ước với triều đình Huế. Tới Sài Gòn, vị sứ thần này đã xin Chính quyền Pháp ở Nam Kỳ cho phép Pétrus Ký đi theo giúp đỡ. Nhiệm vụ hoàn thành, nhân thời gian rãnh rỗi, ông sang thăm Hồng Kông, Ma Cao, Quảng Đông, Quảng Tây... Năm 1872, Pétrus Ký được Pháp thăng chức Tri huyện hạng nhất, đồng thời được bổ làm Đốc học (Giám đốc) trường Sư phạm dạy người Pháp học tiếng phương Đông, kiêm chức thư ký Hội đồng châu thành Chợ Lớn (1 tháng 6 năm 1872). Ngày 1 tháng 1 năm 1874, Pétrus Ký lãnh chức Giáo sư dạy chữ Việt và chữ Pháp cho người Pháp và người Tây Ban Nha tại trường Tham biện Hậu bổ ("Collège des administrateurs stagiaires"), rồi làm Chánh đốc học trường ấy, đồng thời lãnh chức Ủy viên thượng Hội đồng Giáo dục (17 tháng 11 năm 1874). Cũng trong năm này, Pétrus Ký được bình chọn đứng hàng thứ 17 trong 18 thành viên của hội "Savants du Monde", một hội gồm nhiều các khoa học, văn học Pháp Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ Duperré cử ông ra Bắc Kỳ tìm hiểu tình hình miền Bắc. Khi về Sài Gòn, ông viết cuốn "Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876)". Trong đó, ông mô tả về tài nguyên ở Bắc Kỳ, đồng thời kêu gọi Pháp nên giành lấy xứ này như đã làm với Nam kỳ: "Và tất nhiên, xứ sở chẳng thiếu tài nguyên, đất đai mà tôi dám quyết rằng có thể sánh với thổ nhưỡng của nước Pháp, ít ra là đối với Algérie, chất chứa nhiều của cải đủ để làm nên tài sản cho một quốc gia. Đất này tiện lợi cho những vụ trồng trọt các mùa thay đổi khác nhau. Những cuộc thí nghiệm trồng nho và gieo lúa mì cho thấy những kỳ vọng chắc chắn... Tôi chưa nói tới ở đây những tài nguyên khoáng chất, người ta bảo là bao la, và tôi xin được phép nói rằng dân của xứ này đã chết đói trên một chiếc giường đầy vàng." Trong chuyến đi này, Petrus Key được tiếp xúc rất nhiều người, ví dụ như linh mục Trần Lục, Chánh xứ Phát Diệm, cánh tay bản xứ của Giám mục Puginier – người tuyển mộ cho Francis Garnier từ 12.000 tới 14.000 lính đánh thuê (đa số là giáo dân Công giáo) trong cuộc xâm chiếm Bắc kỳ của Pháp năm 1873. Ông cũng mô tả việc mình đã tán dương uy thế của Pháp trước các quan lại nhà Nguyễn ở Bắc Kỳ: Năm 1877, ông là hội viên duy nhất và đầu tiên người Nam, được cử làm Ủy viên Hội đồng cai trị Sài Gòn. Ngày 17 tháng 5 năm 1883, ông được Hàn Lâm Viện Pháp phong danh hiệu Viện sĩ ("Officier d'Académie") . Trong thư gửi cho một bác sĩ người Pháp, Alexis Chavanne, đề ngày 6/8/1887, Trương Vĩnh Ký bày tỏ lòng cảm kích với những ưu đãi mà chính quyền thực dân Pháp ban cho ông: Hỗ trợ Pháp đàn áp phong trào kháng chiến của người Việt. Năm 1886, Paul Bert (nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật học) được cử sang Đông Dương làm Khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ, trong bối cảnh sau khi Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi làm cuộc binh biến chống Pháp thất bại. Vốn là bạn từ trước, nên Paul Bert mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc. Khoảng đầu tháng 6 năm ấy, Pétrus Ký ra Huế, được vua Đồng Khánh cho lãnh chức trong Cơ mật viện Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ. Trong vai trò này, Pétrus Ký chủ trương người Việt không thể chống lại Pháp được, mà phải tuân theo họ, nhất là sau khi cuộc nổi dậy của vua Hàm Nghi thất bại. Pétrus Ký coi những người tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp chỉ là "đám phiến loạn" không hiểu thời cuộc, ông cho rằng rằng tinh thần ái quốc của họ chỉ là do sự hận thù đối với các con chiên Công giáo cộng tác với người Pháp (Theo Pháp tuyên bố thì quân Cần Vương đã sát hại hơn 20.000 giáo dân trong thời kỳ này khiến giáo dân phải tự vệ bằng cách chuyển sang ủng hộ quân Pháp) Pétrus Ký đề nghị Paul Bert cho huấn luyện và cấp vũ khí cho các đơn vị lính người Việt, dùng các đơn vị này để trấn áp các cuộc nổi dậy của phong trào Cần Vương. Trong các bức thư gửi Toàn quyền Pháp, Pétrus Ký bày cho ông ta cách đàn áp phong trào kháng chiến Cần Vương như sau: Ông cũng cho rằng: về phương diện chính trị và kinh tế, nước Pháp là người đi đồng hóa, còn người An Nam là kẻ chịu đồng hóa. Ông tin rằng việc người Pháp tấn công Việt Nam là một "sứ mệnh mà Thiên Chúa giao phó", và người Pháp với tư cách là "chủ nhân", cần giảng dạy người An Nam những tư tưởng và khái niệm cần thiết cho việc cải tạo người An Nam. Năm 1886, Paul Bert được Trương Vĩnh Ký tư vấn, ép vua Đồng Khánh nhượng cho Pháp khu đất nằm giữa trấn Bình Đài và Linh Hựu Quán để Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bốt, nhà thương, kho hậu cần... Linh Hựu Quán bị triệt giải từ đó. Và cũng từ đó người dân ở Huế gọi khu nhượng địa mới này là Mang Cá Lớn, khu Trấn Bình Đài cũ là Mang Cá Nhỏ. Pétrus Ký đề ra nhiều chính sách có lợi cho Pháp, nên Toàn quyền Pháp Paul Bert cho rằng sẽ rất có lợi cho Pháp nếu giữ Pétrus Ký làm việc lâu dài ở triều đình nhà Nguyễn. Ông này viết: Nhà sử học Chailley đã nhận định: "Paul Bert dùng Trương Vĩnh Ký không phải ở tài năng của ông này, cũng không phải vì ông là người Thiên chúa giáo, mà chỉ vì những công tác đã thể hiện rất được việc và nhất là sự trung thành kiên định của Trương đối với nước Pháp" Pierre Vieillard thì nhận xét: "Petrus Ký có nhiệm vụ thuyết phục nhà vua và triều đình hợp tác một cách thẳng thắn và trung thành với Pháp. Petrus Ký hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cực kỳ tinh tế này và hòa bình yên ổn được thiết lập ở An Nam trong vòng 60 năm" Trương Vĩnh Ký phục vụ đắc lực cho lợi ích của Pháp nên được tưởng thưởng rất hậu hĩnh. Ông được chính phủ Pháp ban tặng huy chương Đệ Ngũ Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh, và được chính phủ thuộc địa bỏ tiền mua sách, cấp cho tiền lương mỗi năm là 13.800 quan (kể cả tiền dạy học). Để so sánh, lúc đó lương của Thống đốc Nam Kỳ cũng chỉ có 18.000 quan, lương của ông Tổng thư ký là 15.000 quan. Như vậy lương của Trương Vĩnh Ký đứng hàng thứ ba, chỉ sau hai viên chức cao cấp nhất người Pháp. Nhưng ngày 11 tháng 11 năm đó, Paul Bert bất ngờ bị bệnh chết. Mất người bảo hộ, Trương Vĩnh Ký bị nhóm thực dân Pháp không cùng cánh bỏ rơi, bạc đãi; và bản thân Pétrus Ký sau đó cũng bị triều đình Huế nghi kỵ và trù dập nên ông lấy cớ đau phổi xin từ chức về lại Sài Gòn dạy học tại trường Hậu Bổ, trường Thông ngôn và viết sách... Cuối đời. Mặc dù đã trở về đời sống của một viên chức nhỏ, nhưng Pétrus Ký vẫn bị những người khác phe tìm cách hạ bậc lương và làm khó dễ việc vào ngạch Giáo sư sinh ngữ Đông Phương của ông. Khi trước, lúc còn được người Pháp ưu ái, những sách của Pétrus Ký đều được nhà cầm quyền Pháp bỏ tiền ra in, để phân phối cho học sinh. Nhưng từ khi bị hắt hủi, lui về ẩn dật ở Chợ Quán, ông phải bỏ tiền riêng ra in ấn và tự phát hành. Sách ế ẩm khiến Pétrus Ký phải mắc nhiều nợ. Năm 1887, sau khi đi công tác ở Bangkok để giải quyết vấn đề giữa Thái Lan và Đông Dương, ông nghỉ hưu. Năm 1888, ông xuất bản tạp chí tư nhân "Thông Loại Khóa Trình" (Miscellanées), ra được 18 số (1888-1889) thì tạp chí đóng cửa. Cũng trong năm này, trường Thông ngôn đóng cửa, Pétrus Ký gần như thất nghiệp. Sống trong cảnh buồn chán do không còn được người Pháp trọng dụng, ông bệnh hoạn luôn. Pétrus Ký qua đời vào ngày 1 tháng 9 năm 1898. Ngày 8 tháng 1 năm 1870, ông có lời di huấn: "Người đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khói. Nên phải liệu sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho xong...". Bài thơ ông sáng tác lúc gần lâm chung: Trên cửa nhà mồ của ông có ghi một câu văn bằng tiếng Latinh: "Miseremini Mei Saltem Vos Amici Mei" ("Xin hãy thương xót tôi, hỡi các anh chị là những người bạn của tôi"). Đây là một câu văn trích ra từ cuốn thánh kinh Sách của Gióp (Job 19:21-27) trong Cựu ước, thuật lại chuyện Gióp bị Thượng đế và loài người lìa bỏ và là lời đối ca khi rước nhập lễ của lễ cầu hồn trong đạo Công giáo . Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông), hiện nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng thuộc Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoại ngữ. Theo "Tiểu dẫn về cuộc đời Trương Vĩnh Ký" in trong "Tổng tập dư địa chí Việt Nam", Trương Vĩnh Ký sử dụng thông thạo hoặc biết qua 27 ngoại ngữ, nên ông trở thành một trong số ít những người biết nhiều thứ tiếng ở Việt Nam, và đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới. Tuy nhiên, không rõ mỗi ngôn ngữ ông biết ở trình độ nào. Theo Trương Vĩnh Ký ghi trong hồ sơ cá nhân thì ông biết hoặc đã học kỹ 7 ngoại ngữ, các ngôn ngữ còn lại có lẽ ông chỉ biết chút ít. Căn cứ theo các tác phẩm, thì trong tuổi thanh niên, Trương Vĩnh Ký có thể biết được 5, 6 thứ tiếng. Sau này, Trương Vĩnh Ký nghiên cứu thêm chữ Hán và chữ Nôm, và có thể biết (đọc, viết hoặc nói) được 7 - 8 thứ tiếng, trong đó dùng rất thông thạo tiếng Việt viết chữ Hán Nôm và tiếng Pháp. Mức đó là khá tốt đối với một học giả ở cuối thế kỷ 19. Chức vụ, huân huy chương. Trong quá trình hoạt động, ông đã được nhận các chức vụ và huân huy chương từ Giáo hội Thiên Chúa Vatican, thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn: Một số tác phẩm. Ông có trên một trăm tác phẩm (có nguồn ghi 119 tác phẩm), nhiều quyển đáng chú ý, như: Tổng cộng Trương Vĩnh Ký cho ra 121 tác phẩm chữ Việt và chữ Pháp mà nội dung được ông viết trong thư năm 1882 rằng: Đánh giá. Về học thuật. Ở cuối thế kỷ 19, học giả Pháp tên là Jean Bouchot đã gọi Trương Vĩnh Ký là ""một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cho đến ở nước Trung Hoa hiện đại nữa." Ngoài ra, ông này còn viết: Về sự hợp tác với Pháp. Nhờ công lao phục vụ đắc lực cho chính quyền thực dân Pháp và góp phần quan trọng giúp Paul Bert đập tan phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi nên ngày 20/5/1886, Khâm sứ Pháp ở Đông Dương là Paul Bert gửi thư cho Ngoại trưởng Pháp để tán đồng đề nghị của Thống Đốc Nam kỳ, ban thưởng huy chương cao cấp Đệ Ngũ Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh cho Trương Vĩnh Ký. Đương thời và sau này, nhiều ý kiến phê phán, buộc tội Trương Vĩnh Ký đã cộng tác với thực dân Pháp. Đương thời, Trương Vĩnh Ký bị giới nho sỹ Bắc Hà nhạo báng, châm biếm bằng những câu thơ, đối chương lên báo chí. Hiện nay, nhiều tác giả như Lê Thanh trong quyển "Trương Vĩnh Ký", Trần Huy Liệu trong "Lịch sử 80 năm chống Pháp", Phạm Long Điền và Nguyễn Sinh Duy trong quyển "Cuốn sổ bình sanh của Trương Vĩnh Ký"... cũng phê phán Trương Vĩnh Ký vì sự cộng tác với thực dân Pháp của ông. Đương thời, Trương Vĩnh Ký cũng đã nhận ra thân phận cô đơn của mình giữa những người Pháp cầm quyền: "Có nhiều người ganh ghét tôi, ngu ngốc thậm chí là hung ác, họ có thể và biết cách hãm hại tôi" (Thư gửi Paul Bert) và cả sự coi thường của người Việt Nam: "Trong con mắt của đồng bào tôi, tôi đã bị lên án nặng nề". Nhà sử học Trần Văn Giàu đã nhận xét: Nhà sử học Trần Huy Liệu thì nhận xét: Ông Nguyễn Sinh Duy, trong cuốn "Trương Vĩnh Ký – cuốn sổ bình sanh" viết: Tiến sỹ Bùi Kha sống ở nước ngoài thì nhận xét: Ông Nguyễn Đắc Xuân, trong cuốn "Pétrus Trương Vĩnh Ký nhìn từ những khía cạnh và nhận thức khác nhau" viết: Tên đường và tên trường. Từ thời Pháp thuộc cho đến năm 1975, tên của ông đã được đặt cho một ngôi trường trung học lớn ở Đô thành Sài Gòn dành cho nam sinh: Trường Trung học Petrus Ký. Sau năm 1975, trường này được đổi tên là trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong. Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (lúc đó gọi là Sài Gòn và Gia Định) có tới hai con đường mang tên ông với 2 tên gọi khác nhau. Đường Petrus Ký của Đô thành Sài Gòn cũ hiện nay là đường Lê Hồng Phong ở quận 5 và quận 10; còn đường Trương Vĩnh Ký của tỉnh Gia Định cũ nay là đường Nguyễn Văn Bảo ở quận Gò Vấp. Hiện nay vẫn còn một con đường lớn mang tên ông tại quận Tân Phú thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có một ngôi trường mang tên ông tại xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Sách tham khảo. Đặng Thúc Liêng (1927). Trương Vĩnh Ký hành trạng. Nhà in Xưa Nay, Sài Gòn.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Hải Dương là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam . Năm 2021, Hải Dương là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 8 về số dân với 1.936.774 người, tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,5%. GRDP đạt 149.700 tỉ đồng (tương ứng với 6,480 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 77 triệu đồng (tương ứng với 3.347 USD). Hải Dương thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương (hiện là đô thị loại I), cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía Đông, cách trung tâm thành phố Hải Phòng 45 km về phía Tây. Theo quy hoạch năm 2007, Hải Dương nằm trong vùng thủ đô với vai trò là một trung tâm công nghiệp của toàn vùng. Địa lý. Vị trí địa lý. Hải Dương là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng, trải dài từ 20°43' đến 21°14' độ vĩ Bắc, 106°03' đến 106°38' độ kinh Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 57 km về phía tây, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 45 km về phía đông, có vị trí địa lý: Địa hình. Hải Dương có diện tích 1.662 km², là tỉnh có diện tích trung bình trong số các tỉnh thành ở Việt Nam, được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía bắc của tỉnh thuộc thành phố Chí Linh và thị xã Kinh Môn, chiếm khoảng 11% diện tích tự nhiên. Đây là vùng đồi núi thấp, phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất màu mỡ, thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm. Khí hậu. Hải Dương nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt (mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông). Vào giai đoạn từ tiết lập xuân đến tiết thanh minh (khoảng đầu tháng 2 - đầu tháng 4 dương lịch) có hiện tượng mưa phùn và nồm là giai đoạn chuyển tiếp từ mùa khô sang mùa mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. Khí hậu thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm cây lương thực, thực phẩm và cây ăn quả, đặc biệt là sản xuất cây rau màu vụ đông. Tài nguyên. Các khoáng sản chính: Lịch sử. Xuất xứ tên gọi Hải Dương. Tên gọi Hải Dương (海 陽) chính thức có từ năm 1469. Hải (海) là biển. Dương (陽) là mặt trời. Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long. Hướng Đông cũng là hướng mặt trời mọc. Vì vậy Hải Dương có nghĩa là "mặt trời biển Đông" hay "ánh sáng từ miền duyên hải (phía đông) chiếu về". Thời phong kiến (trước năm 1887), Hải Dương là một miền đất rộng lớn, phía tây đến Bần Yên Nhân, Đạo Khê - bên cầu Lực Điền (thuộc Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên), phía đông đến vùng biển An Dương (nay thuộc thành phố Hải Phòng), phía bắc từ Trạm Điền xuống núi Tam Ban, Yên Tử (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh), phía nam đến Tứ Kỳ, Vĩnh Bảo. Miền đất Hải Dương luôn ở vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong "Dư địa chí", Nguyễn Trãi đã đánh giá Hải Dương là trấn thứ nhất trong bốn kinh trấn và là phên giậu phía đông của kinh thành Thăng Long. Lỵ sở của Hải Dương. 1.Từ thời Hùng Vương đến cuối thời Trần, lỵ sở của Hải Dương đặt thành Dền (Ngọc Lặc, Tứ Kỳ). 2.Từ cuối đời Trần đến năm 1740, lỵ sở chuyển sang đặt tại Dinh Vạn (Thành Vạn) thuộc thôn Kiều Quan, xã Mặc Động, huyện Chí Linh. 3.Từ năm 1740-41 (sau cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ ở đất Ninh Xá) đến năm 1804, lỵ sở đặt ở ở Dinh Dậu (Mao Điền - Cẩm Giàng) 4.Từ năm 1804 đến nay đặt ở Thành Đông (trấn Hàm), huyện Cẩm Giàng (nay là thành phố Hải Dương). Như vậy, khu vực Thành Dền có lịch sử lâu đời; trong khi Chí Linh cũng có thời gian là lỵ sở Hải Dương khá dài trên dưới 400 năm. Lịch sử hành chính. Đời Hùng Vương, địa bàn tỉnh Hải Dương ngày nay thuộc bộ Dương Tuyền, thời nhà Tần thuộc Tượng quận, thời nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ, thời Đông Ngô thuộc Giao Châu, nhà Đường đặt ra Hải Môn trấn, sau đổi thành Hồng Châu. Nhà Đinh chia làm đạo, vùng Hải Dương vẫn mang tên là Hồng Châu, nhà Tiền Lê cũng theo như nhà Đinh. Thời Nhà Lý đổi thành lộ Hồng, sau đổi thành lộ Hải Đông. Đến thời Nhà Trần đổi lại thành lộ Hồng, rồi lại đổi thành lộ Hải Đông. Sau đó đổi làm 4 lộ: Hồng Châu thượng, Hồng Châu hạ và Nam Sách thượng, Nam Sách hạ, (còn gọi chung là Nam Sách Giang). Năm Quang Thái thứ 10 (1397), vua Trần Thuận Tông đổi lộ Hải Đông thành trấn Hải Đông. Thời kỳ thuộc Minh (1407-1427), vùng đất Hải Dương thuộc hai phủ Lạng Giang và Tân An. Thời Nhà Hậu Lê, niên hiệu Thuận Thiên (1428-1433), vua Lê Thái Tổ cho thuộc Đông Đạo. Khoảng niên hiệu Diên Ninh (1454-1459), vua Lê Nhân Tông chia lại thành 2 lộ là Nam Sách thượng và Nam Sách hạ. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), vua Lê Thánh Tông đặt thừa tuyên Nam Sách. Năm 1469 đổi làm thừa tuyên Hải Dương. Danh xưng Hải Dương chính thức ra đời, lúc này Lỵ sở đặt tại Trấn Doanh Vạn, Ải Vạn (hay còn gọi là Dinh Vạn) Xã Mạc Động huyện Chí Linh đây là trung tâm hành chính của thừa tuyên Hải Dương đến năm 1739. Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đổi làm xứ Hải Dương. Năm Hồng Thuận thứ nhất (1509), vua Lê Tương Dực đổi làm trấn Hải Dương. Từ năm 1527 đến năm 1592, Nhà Mạc gọi là đạo Hải Dương. Năm 1529, Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) trao ngôi vua cho con là Mạc Đăng Doanh còn Mạc Đăng Dung làm Thái thượng hoàng về Cổ Trai, lấy Nghi Dương làm Dương Kinh, trích phủ Thuận An ở Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình ở Sơn Nam cho lệ thuộc vào Dương Kinh. Đời nhà Lê trung hưng, khoảng niên hiệu Quang Hưng (1578-1599), vua Lê Thế Tông đổi làm trấn theo nguyên như cũ. Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), vua Lê Hiển Tông chia làm 4 đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, Đông Triều và An Lão. Nhà Tây Sơn đem phủ Kinh Môn thuộc Hải Dương đổi thuộc vào Yên Quảng. Năm 1802, vua Gia Long đem Kinh Môn thuộc về trấn cũ và cho lệ thuộc vào Bắc Thành. Năm 1804, đời vua Gia Long, lỵ sở Hải Dương được chuyển từ Mao Điền (Cẩm Giàng) về phía đông 15 km thuộc tổng Hàn Giang, huyện Cẩm Giàng, đặt trên vùng đất cao thuộc ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt với mục tiêu trấn thành án ngữ vùng biên hải phía đông Kinh đô Thăng Long, vì vậy có tên gọi là Thành Đông, nghĩa là đô thành ở phía đông (nay là Thành phố Hải Dương ). Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), đổi phủ Thượng Hồng làm phủ Bình Giang, phủ Hạ Hồng làm phủ Ninh Giang, còn hai đạo Đông Triều và An Lão thì đặt làm hai huyện. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia thành một tỉnh độc lập và đổi làm tỉnh Hải Dương gồm 5 phủ và 19 huyện. Năm 1887, thực dân Pháp tách một số huyện ven biển của Hải Dương, đặt thành tỉnh Hải Phòng. Ngày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hải Phòng và Hà Nội - thành phố Hải Phòng chính thức có tên trên bản đồ Liên bang Đông Dương. Theo sắc lệnh thành phố Hải Phòng được tách ra từ tỉnh Hải Phòng, phần còn lại của tỉnh Hải Phòng lập thành tỉnh Kiến An. Năm 1923, Toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập thành phố Hải Dương. Tháng 3 năm 1947, chia thành phố Hải Dương thành 2 quận rồi trở về thành thị xã. Năm 1968, tỉnh Hải Dương sáp nhập với Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, tỉnh lỵ là thị xã Hải Dương. Năm 1977, hợp nhất 2 huyện Cẩm Giàng và Bình Giang thành huyện Cẩm Bình. Năm 1979, hợp nhất 2 huyện Gia Lộc và Tứ Kỳ thành huyện Tứ Lộc; hợp nhất 2 huyện Kim Thành và Kinh Môn thành huyện Kim Môn; hợp nhất 2 huyện Nam Sách và Thanh Hà thành huyện Nam Thanh; hợp nhất 2 huyện Ninh Giang và Thanh Miện thành huyện Ninh Thanh. Ngày 27 tháng 1 năm 1996, chia 2 huyện Tứ Lộc và Ninh Thanh thành 4 huyện như cũ. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tái lập tỉnh Hải Dương từ tỉnh Hải Hưng. Khi tách ra, tỉnh Hải Dương có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Hải Dương và 8 huyện: Cẩm Bình, Chí Linh, Gia Lộc, Kim Môn, Nam Thanh, Ninh Giang, Thanh Miện, Tứ Kỳ. Ngày 17 tháng 2 năm 1997, chia lại các huyện Cẩm Bình, Kim Môn và Nam Thanh thành 6 huyện như cũ. Ngày 6 tháng 8 năm 1997, chuyển thị xã Hải Dương thành thành phố Hải Dương. Ngày 17 tháng 5 năm 2009, thành phố Hải Dương được công nhận là đô thị loại II. Ngày 12 tháng 2 năm 2010, chuyển huyện Chí Linh thành thị xã Chí Linh. Ngày 1 tháng 3 năm 2019, chuyển thị xã Chí Linh thành thành phố Chí Linh. Ngày 17 tháng 5 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 580/QĐ-TTg công nhận thành phố Hải Dương mở rộng đạt tiêu chí đô thị loại I trực thuộc tỉnh Hải Dương. Ngày 1 tháng 11 năm 2019, chuyển huyện Kinh Môn thành thị xã Kinh Môn. Tỉnh Hải Dương có 2 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện như hiện nay. Hành chính. Tỉnh Hải Dương có 12 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện với 235 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 47 phường, 178 xã và 10 thị trấn. Dân số. Năm 2020 Tỉnh Hải Dương có 1.936.774 người. Đây cũng là tỉnh đông dân nhất Bắc Bộ (nếu không tính Hà Nội và Hải Phòng - 2 thành phố trực thuộc Trung ương). Thành phần dân số: Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 6 tôn giáo khác nhau, đạt 62.274 người. Nhiều nhất là Công giáo có 52.812 người, tiếp theo là Phật giáo có 9.290 người, đạo Tin Lành có 163 người. Còn lại các tôn giáo khác như: Hồi giáo có bảy người, Phật giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài mỗi tôn giáo chỉ có một người. Kinh tế. Trên cơ sở số liệu ước tính được Tổng cục Thống kê công bố, Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP theo giá 2010) ước tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước và là mức tăng thấp thứ 2 (năm 2015 – 8,2%) trong vòng 5 năm trở lại đây, cao hơn bình quân cả nước (ước tăng gần 7,0%); thấp hơn một số tỉnh lân cận như Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nam, Ninh Bình; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản (NLTS) giảm 3,1%; công nghiệp - xây dựng tăng 11,9% (công nghiệp +12,2%, xây dựng +10,1%); dịch vụ tăng 6,7%. Đóng góp vào tăng trưởng chung 8,6%, nhóm ngành NLTS làm giảm 0,3 điểm%; công nghiệp, xây dựng đóng góp 6,7 điểm% (trong đó, công nghiệp đóng góp 6,1 điểm%, xây dựng đóng góp 0,6 điểm%); dịch vụ đóng góp 2,2 điểm%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ; cơ cấu kinh tế ước đạt 8,8% - 59,7% - 31,5% (năm 2018 là 9,9% - 57,3% - 32,8%). Ngành NLTS năm 2018 tăng trưởng cao (+5,9%) nên đóng góp làm tăng GRDP 0,7 điểm%; tuy nhiên năm 2019 ước giảm 3,1% đã kéo "lùi" tăng trưởng của tỉnh xuống 0,3 điểm%. Đây là nguyên nhân chính làm cho GRDP của tỉnh tăng thấp hơn năm trước 0,7 điểm% (NLTS làm giảm 1 điểm%); nguyên nhân do giá trị, sản lượng cây lúa, cây vải giảm, chăn nuôi bị ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi. Ngành công nghiệp, xây dựng của tỉnh vẫn duy trì mức tăng trưởng cao, trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là điểm sáng, động lực chính của tăng trưởng kinh tế với mức tăng cao 13,5%, đó là nhờ sự đóng góp chủ lực của các ngành sản xuất sản phẩm điện tử; ngành sản xuất trang phục; ngành sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng... Ngành xây dựng vẫn duy trì mức tăng trưởng cao, tốc độ tăng 10,1%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. "Về thu hút đầu tư trong nước", năm 2019, đã chấp thuận đầu tư cho 192 dự án trong nước ngoài khu công nghiệp (gồm: 128 dự án mới và 64 dự án điều chỉnh), tổng số vốn đầu tư thu hút khoảng 10.764,6 tỷ đồng, thu hồi 23 dự án. "Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài", đã thu hút được 808,3 triệu USD tăng 25% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó cấp mới cho 65 dự án với số vốn đăng ký 461,1 triệu USD; điều chỉnh tăng vốn đầu tư cho 30 lượt dự án với số vốn tăng thêm 362,2 triệu USD. Tổng vốn đầu tư thực hiện ước đạt 700 triệu USD. Trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện có 451 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn 8.382,4 triệu USD. Năm 2019, quy mô kinh tế Hải Dương đứng thứ 5 trong khu vực các tỉnh trọng điểm kinh tế Bắc bộ, đứng thứ 11 trong cả nước, thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 19 và thu ngân sách Nhà nước đạt 20.024 tỷ đồng - là một trong 16 tỉnh, thành tự cân đối thu chi ngân sách từ năm 2017. Văn hóa. Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực ở Hải Dương như: vải thiều Thanh Hà, bánh đa Lộ Cương, rươi Tứ Kỳ, thịt trâu chợ Vé, nếp cái hoa vàng Kinh Môn, rượu Phú Lộc, bún cá rô đồng, mắm cáy An Thanh, giò chả Gia Lộc, bánh gai Ninh Giang, củ đậu Kim Thành, bún tươi Đông Cận, chim cút Hà Tràng, na Hoàng Tiến, bánh cuốn Hàn Giang, cốm làng Thạc, táo thiện phiến Gia Lộc, bánh đậu xanh Hải Dương, bột sắn dây Kinh Môn, mì gạo Tống Buồng, thịt chó An Xá, giò chả Tân Hương, hành sấy Mạn Đê, gà đồi Chí Linh, cà rốt Đức Chính, chả ốc Thanh Miện, bánh đa nướng Kẻ Sặt, rươi Vĩnh Lập, nếp quýt Kim Thành, cau đông Thanh Hà, giò chả Thái Thịnh, giải ngó khoai Lê Hồng, gỏi cá mè Cẩm Hoàng, mì gạo Tống Buồng, ổi Liên Mạc, thịt chuột chợ Giống, bánh dày Gia Lộc, bánh lòng Huề Trì, dưa kiệu Ngọc Liên, mì gạo Hội Yên, rượu Văn Giang, hành tỏi Kinh Môn, bánh đa nướng Đào Lâm. Di tích - danh thắng. Một số di tích được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng (gắn liền với nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử hay văn hóa địa phương): Lễ hội. Một số lễ hội chính gắn liền với nhân vật, sự kiện lịch sử và tục thờ mẫu, tứ phủ trong cộng đồng: Nghệ thuật chèo ở Hải Dương. Trong "Tứ chiếng chèo" đồng bằng sông Hồng thì Hải Dương là trung tâm của chiếng chèo Đông (vùng đất gồm Hải Dương, Hải Phòng, đông Hưng Yên, tây Quảng Ninh ngày nay). Hải Dương là cái nôi chèo lớn của Việt Nam với những tên tuổi như Huyền Nữ Phạm Thị Trân và các cố NSND Trùm Thịnh, Trùm Bông, cố NSND Trịnh Thị Lan, cố NSND Nguyễn Thị Minh Lý, NSND Minh Huệ, NSND Thúy Mơ... Đặc biệt, Nghệ nhân Phạm Thị Trân đã được vua Đinh Tiên Hoàng phong chức Ưu Bà và giao cho việc dạy múa hát trong cung đình và cho quân lính. Bà được được ghi danh là Tổ nghề đầu tiên trong lịch sử sân khấu chèo Việt Nam. Nghệ thuật chèo được hình thành từ thế kỷ 10 tại Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) dưới thời nhà Đinh. Ưu bà Phạm Thị Trân đã truyền dạy nghệ thuật chèo cho cung nữ và quân lính. Sau đó chèo phát triển rộng ra lãnh thổ Đại Cồ Việt (vùng châu thổ Bắc Bộ và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh trở ra). Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình. Chèo trở về với nông dân, gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt. Nghệ thuật chèo Đồng bằng sông Hồng trở thành cái nôi chèo với Tứ chiếng chèo Đông, Đoài, Nam, Bắc. Chiếng Chèo là những phường Chèo hoạt động trong một vùng văn hóa, địa lý nhất định. Phong trào hát chèo xưa phân vùng chèo châu thổ sông Hồng thành 4 chiếng chèo Đông, chèo Đoài, chèo Nam, chèo Bắc với kinh đô Thăng Long - Hà Nội ở vị trí trung tâm. Mỗi chiếng có những "ngón nghề" riêng, kỹ thuật riêng, khó lưu truyền và phát triển ra đến bên ngoài do sự khác nhau trong phong cách nghệ thuật dựa trên cơ sở dân ca, dân vũ và văn hóa địa phương, chỉ người trong chiếng mới diễn được với nhau. Chiếng chèo Đông gồm khu vực các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh và phía đông bắc Hưng Yên. Số liệu thống kê các hội diễn ở Hải Dương năm 2020 cho thấy có tới 80% số tiết mục là chèo, 20% số tiết mục còn lại là ca nhạc, múa. Có những đội chèo có tới trên 50 năm liên tục hoạt động như An Bình, Nam Hưng (Nam Sách), Nhân Quyền, Kiến Quốc (Bình Giang), An Lạc (Chí Linh), Bông Sen (Kinh Môn). Riêng ở xã An Bình từ một đội chèo của toàn xã, nay đã phát triển lên 4 CLB văn nghệ ở 4 thôn, mỗi CLB có trên 30 diễn viên, nhạc công, người trẻ nhất 30 tuổi, cao nhất 82 tuổi. Nhà hát Chèo Hải Dương là đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp của tỉnh Hải Dương; có chức năng tổ chức biểu diễn, nghiên cứu, liên kết, hướng dẫn, truyền nghề về nghệ thuật chèo nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của mọi tầng lớp nhân dân, góp phần bảo tồn và phát triển nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Giáo dục - Y tế. Giáo dục. Hải Dương là đất học từ xa xưa, vùng đất Xứ Đông này là quê hương của nhiều nho sĩ, Trạng nguyên Việt Nam và Thủ khoa Đại Việt. Trong thời kì phong kiến Hải Dương có 12 Trạng nguyên (tính theo đơn vị hành chính mới, 15 vị tính theo đơn vị hành chính cũ) đứng thứ hai cả nước (sau Bắc Ninh) và có 3 Thủ khoa Đại Việt, hàng ngàn tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa. Nằm bên đường quốc lộ 5, cách thành phố Hải Dương 15 km về phía bắc, thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), văn miếu Mao Điền được biết tới là một trong số ít văn miếu hàng tỉnh còn tồn tại ở Việt Nam. Lịch sử của văn miếu bắt đầu từ hơn 500 năm về trước. Từ giữa thế kỷ 15 cho đến khoa thi cuối cùng của nhà Nguyễn, nơi đây trở thành nơi thi hương của vùng trấn Hải Dương. Đặc biệt trong thời Nhà Mạc (1527-1593) đã bốn lần tổ chức thi đại khoa ở Mao Điền. Chỉ đứng sau Văn Miếu - Quốc Tử Giám, với hơn 500 năm tồn tại và thờ hơn 600 vị tiến sĩ, văn miếu Mao Điền đã trở thành niềm tự hào về truyền thống hiếu học của con người Xứ Đông. Nền giáo dục hiện tại của Hải Dương được xem là một trong cái nôi đào tạo nhân tài của Việt Nam. Nhiều học sinh gốc từ Hải Dương đã đạt giải cao trong các kỳ thi Olympic Quốc tế. Trong kỳ thi toán Quốc tế, nổi bật như Đinh Tiến Cường huy chương vàng toán Quốc tế năm 1989 với số điểm tuyệt đối 42/42, hiện tại là giáo sư toán học tại Đại học Paris 6 . Trong các kỳ thi Cao đẳng và Đại học, cũng như các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Hải Dương luôn trong nhóm dẫn đầu của Việt Nam. Trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia 2012, Hải Dương đứng thứ 5 cả nước (theo đơn vị tỉnh thành) về tổng số huy chương . Trên địa bàn Hải Dương có các trường Đại học và cao đẳng: Y tế. Ở Hải Dương có hàng chục bệnh viện phục vụ cho người dân, trong đó một số bệnh viện nổi bật như: 15.Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh (CDC Hải Dương) 16. Các Trung tâm Y tế của Thành phố, Thị xã và các huyện trong tỉnh 17. Bệnh viện Mắt Quốc tế DND Hải Dương Giao thông. Đường bộ. Hải Dương là tỉnh có nhiều đoạn quốc lộ chạy qua: Đường sắt. Hải Dương có tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với đường 5, vận chuyển hàng hóa, hành khách qua 7 ga trong tỉnh Hải Dương. Ngoài ra còn có tuyến đường sắt Yên Viên - Cái Lân chạy qua Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng lâm, nông, thổ sản ở các tỉnh miền núi phía bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân (Quảng Ninh), cũng như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh này. Đường thủy. Hải Dương có 16 tuyến sông chính nối với các sông nhỏ dài 400 km; các loại tàu, thuyền trọng tải 500 tấn có thể qua lại. Cảng Cống Câu công suất 300.000 tấn/năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thủy một cách thuận lợi. Hệ thống giao thông trên là điều kiện cho việc giao lưu kinh tế từ trong tỉnh đi cả nước và nước ngoài thuận lợi.Hiện tại trên địa bàn tỉnh Hải Dương có 12 tuyến sông do Trung ương quản lý như Sông Thái Bình, sông Thương, sông Luộc, sông Kinh Thầy, sông Kinh Môn... Tổng chiều dài 274,5 km, trong đó có sông Thái Bình, sông Luộc là những tuyến đường thủy quan trọng của khu vực đồng bằng sông Hồng. Các tuyến xe buýt. Hiện tại, có tất cả 16 tuyến xe buýt xuất phát từ thành phố Hải Dương đi đến trung tâm các huyện trong tỉnh Hải Dương và các tỉnh, thành lân cận.
0
0_huyn_ngikm_yn_long
[ "huyn", "ngikm", "yn", "long", "tch", "thuc", "an", "ninh", "vnh", "giang" ]
[ "Mộc Hóa là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam.\nMộc Hóa từng là tỉnh lỵ của tỉnh Kiến Tường cũ trong giai đoạn 1956 - 1975 dưới thời Việt Nam Cộng hòa (tỉnh lỵ có tên là \"Mộc Hóa\"). Năm 1976, tỉnh Kiến Tường bị giải thể và sáp nhập vào tỉnh Long An. Ngày 18 tháng 3 năm 2013, một phần diện tích và dân số của huyện Mộc Hóa bao gồm thị trấn Mộc Hóa và một số xã lân cận được tách ra để thành lập mới thị xã Kiến Tường trực thuộc tỉnh Long An.\nĐịa lý.\nHuyện Mộc Hóa nằm ở phía tây tỉnh Long An, cách thành phố Tân An khoảng 70 km, là huyện thuộc vùng Đồng Tháp Mười, hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ lụt, có vị trí địa lý:\nTheo thống kê năm 2019, huyện có diện tích 297,64 km², dân số là 28.165 người, mật độ dân số đạt 95 người/km².\nĐịa hình.\nHuyện Mộc Hoá nằm ở vùng chuyển tiếp giữa bậc thềm phù sa cổ với vùng thượng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long nên có 2 kiểu cảnh quan chính là bồn trủng phèn và khối đất xám dọc biên giới Việt Nam - Campuchia.\nKhí hậu.\nMộc Hoá chịu ảnh hưởng vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào chia làm 2 mùa mưa nắng rõ rệt:\nNhiệt độ trung bình 27,3 °C, thấp nhất 16 °C, cao nhất 38 °C.\nTài nguyên.\nChủ yếu là đất trủng phèn và đất xám:\nY tế.\nToàn huyện có 1 bệnh viện đa khoa, Trung tâm Y tế huyện và 1 Trung tâm Dân số kế hoạch hóa gia đình Mộc Hóa. Tính đến năm 2010, huyện Mộc Hóa có 100% xã đạt chuẩn Quốc gia Y tế.\nLịch sử.\nThời phong kiến.\nVào thời nhà Nguyễn, Mộc Hóa chỉ là tên gọi một tổng thuộc huyện Quang Hóa, phủ Tây Ninh, tỉnh Gia Định. Vùng đất Mộc Hóa ngày nay khi ấy vừa thuộc tổng Mộc Hóa, huyện Quang Hóa, phủ Tây Ninh, tỉnh Gia Định và thuộc tổng Hưng Long, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường. Tổng Mộc Hóa gồm cả vùng rộng lớn nằm hai bên sông Vàm Cỏ Tây.\nThời Pháp thuộc.\nSau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (gồm Biên Hòa, Gia Định và Định Tường), đến năm 1867 thực dân Pháp bãi bỏ phân chia hành chính cũ của thời nhà Nguyễn và đặt ra các hạt Thanh tra mới. Hai tổng Mộc Hóa (nguyên thuộc huyện Quang Hóa, tỉnh Gia Định) và Hưng Long (nguyên thuộc huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường) khi đó cùng thuộc hạt Thanh tra Tân An. Năm 1872, tổng Hưng Long gồm 25 làng và tổng Mộc Hóa gồm 9 làng.\nNăm 1876, Pháp đổi tên các hạt Thanh tra thành hạt tham biện. Đến ngày 1 tháng 1 năm 1900, lại đổi các hạt tham niện thành tỉnh. Hai tổng Hưng Long và Mộc Hóa khi đó cùng thuộc tỉnh Tân An. Năm 1910, hai tổng Hưng Long và Mộc Hóa có các làng trực thuộc như sau:\nQuận Mộc Hóa được thành lập từ ngày 15 tháng 5 năm 1917, thuộc tỉnh Tân An, gồm có 2 tổng: Thanh Hoà Thượng với 9 làng, Thanh Hoà Hạ với 8 làng. Hai tổng cũ là Mộc Hóa và Hưng Long đều bị giải thể. Quận lỵ Mộc Hóa đặt tại làng Tuyên Thạnh vốn trước đó thuộc tổng Mộc Hóa.\nGiai đoạn 1956-1976.\nViệt Nam Cộng hòa.\nNgày 17 tháng 2 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành số Sắc lệnh 21-NV về việc thành lập tỉnh Mộc Hóa. Đất đai tỉnh Mộc Hóa bao gồm toàn bộ quận Mộc Hóa (thuộc tỉnh Tân An), một phần quận Thủ Thừa (thuộc tỉnh Tân An), một phần đất tỉnh Sa Đéc và một phần đất tỉnh Mỹ Tho. Tỉnh lỵ đặt tại Mộc Hóa.\nNgày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm lại ban hành Sắc lệnh 143-NV để \"thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam\". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Kiến Tường được thành lập do đổi tên từ tỉnh Mộc Hóa trước đó. Tỉnh lỵ tỉnh Kiến Tường vẫn giữ nguyên tên là \"Mộc Hóa\", về mặt hành chánh thuộc xã Tuyên Thạnh, quận Châu Thành.\nNgày 24 tháng 4 năm 1957, tỉnh Kiến Tường bao gồm ba quận: Châu Thành, Tuyên Bình và Ấp Bắc.\nNgày 7 tháng 6 năm 1958, tỉnh Kiến Tường bao gồm ba quận: Châu Thành, Tuyên Bình, Kiến Bình. Trong đó, quận Kiến Bình đổi tên từ quận Ấp Bắc.\nNgày 10 tháng 3 năm 1959, tỉnh Kiến Tường được lập thêm quận mới là quận Tuyên Nhơn, do tách từ quận Kiến Bình. Cho đến năm 1975, tỉnh Kiến Tường bao gồm bốn quận: Châu Thành, Kiến Bình, Tuyên Nhơn và Tuyên Bình.\nChính quyền Cách mạng.\nVề phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, để đối phó kịp thời với âm mưu địch và chỉ đạo sát đúng với thực tế tình hình địa phương, tháng 7 năm 1957 tách Mộc Hóa ra khỏi tỉnh Tân An, lập đơn vị hành chính cấp tỉnh, vẫn lấy tên là tỉnh Kiến Tường như bên chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, bên dưới tỉnh Kiến Tường chia làm bốn vùng, mỗi vùng tương ứng với một quận của phía Việt Nam Cộng hòa:\nSau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì tên gọi tỉnh Kiến Tường cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng \"quận\" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng \"huyện\" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).\nBên cạnh đó, chính quyền Cách mạng cũng tách một phần đất đai xã Tân Bình (thuộc quận Kiến Bình cũ) và một phần đất đai xã Tân Đông (thuộc quận Tuyên Nhơn cũ) cùng thuộc tỉnh Kiến Tường để sáp nhập vào địa bàn tỉnh Mỹ Tho lúc bấy giờ (ngày nay là tỉnh Tiền Giang). Hiện nay, vùng đất này tương ứng với các xã Tân Hòa Đông, Thạnh Mỹ, Thạnh Tân, Thạnh Hòa cùng thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.\nNgày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc \"nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước\". Theo Nghị quyết này, tỉnh Long Châu Tiền, tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến Tường sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.\nNhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Long An, tỉnh Hậu Nghĩa và tỉnh Kiến Tường được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh.\nTừ năm 1976 đến nay.\nTháng 3 năm 1976, tỉnh Kiến Tường bị giải thể, sáp nhập vào tỉnh Long An. Ban đầu, toàn bộ đất tỉnh Kiến Tường cũ được chuyển thành một huyện mới: huyện Mộc Hóa của tỉnh Long An. Huyện Mộc Hóa lúc đó bao gồm 5 huyện và 1 thị xã vùng Đồng Tháp Mười ngày nay (thuộc tỉnh Long An) và có diện tích tự nhiên 2.296 km² với 21.390 hộ và khoảng 130.000 dân. Huyện Mộc Hóa khi đó bao gồm thị trấn Mộc Hóa và 29 xã: Bắc Hòa, Bình Hiệp, Bình Hòa, Bình Phong Thạnh, Hậu Thạnh, Hưng Điền A, Hưng Điền B, Kiến Bình, Nhơn Hòa Lập, Nhơn Ninh, Tân Đông, Tân Hòa, Tân Lập, Tân Ninh, Thái Bình Trung, Thái Trị, Thạnh Phú, Thạnh Phước, Thạnh Trị, Thuận Nghĩa Hòa, Thủy Đông, Tuyên Bình, Tuyên Thạnh, Vĩnh Châu A, Vĩnh Châu B, Vĩnh Đại, Vĩnh Lợi, Vĩnh Thanh, Vĩnh Trị.\nNgày 30 tháng 3 năm 1978, chia tách huyện Mộc Hóa thành 2 huyện: Mộc Hóa và Vĩnh Hưng. Huyện Mộc Hóa lúc này còn 19 xã: Tuyên Bình, Tân Lập, Bình Hòa, Nhơn Ninh, Bình Hiệp, Thạnh Trị, Tuyên Thạnh, Tân Hòa, Nhơn Hòa Lập, Hậu Thạnh, Bắc Hòa, Thuận Nghĩa Hòa, Tân Đông, Thủy Đông, Thạnh Phước, Bình Phong Thạnh, Tân Ninh, Kiến Bình, Thạnh Phú và thị trấn Mộc Hóa.\nNgày 20 tháng 7 năm 1978, chia xã Bình Hòa thành 2 xã: Bình Hòa Đông và Bình Hòa Tây.\nNgày 19 tháng 9 năm 1980, Hội đồng Chính phủ Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 298-CP, chia huyện Mộc Hóa thành 2 huyện: Mộc Hóa và Tân Thạnh. Huyện Mộc Hóa lúc này còn 10 xã: Tuyên Bình, Tuyên Thạnh, Bình Hiệp, Thạnh Trị, Bình Hòa Tây, Bình Hòa Đông, Bình Phòng Thạnh, Thạnh Phước, Tân Lập, Thạnh Phú và thị trấn Mộc Hóa.\nNgày 4 tháng 4 năm 1989, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định 37-HĐBT. Theo đó: \nNgày 26 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 74/HĐBT. Theo đó:\nNgày 24 tháng 3 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 27-CP. Theo đó:\nTừ đó, huyện Mộc Hóa có 13 đơn vị hành chính, bao gồm thị trấn Mộc Hóa và 12 xã: Bình Hiệp, Bình Hòa Đông, Bình Hòa Tây, Bình Hòa Trung, Bình Phong Thạnh, Bình Tân, Bình Thạnh, Tân Lập, Tân Thành, Thạnh Hưng, Thạnh Trị, Tuyên Thạnh.\nNgày 18 tháng 3 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Mộc Hóa như sau:\nNgày 1 tháng 1 năm 2020, chuyển xã Bình Phong Thạnh thành thị trấn Bình Phong Thạnh (thị trấn huyện lỵ huyện Mộc Hóa), huyện Mộc Hóa có 1 thị trấn và 6 xã như hiện nay.\nHành chính.\nHuyện Mộc Hóa có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Bình Phong Thạnh (huyện lỵ) và 6 xã: Bình Hòa Đông, Bình Hòa Tây, Bình Hòa Trung, Bình Thạnh, Tân Lập, Tân Thành.", "Châu Phú là một huyện thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam. Châu Phú là huyện nằm trong tứ giác Long Xuyên ở phía Hữu ngạn sông Hậu. Đồng thời nằm ở trung tâm của tỉnh An Giang. Được thiên nhiên ưu đãi, hàng năm tiếp nhận lượng phù sa đáng kể. Dự kiến huyện Châu Phú sẽ trở thành thị xã Châu Phú trực thuộc tỉnh An Giang vào năm 2030.\nĐịa lý.\nHuyện Châu Phú nằm ở khu vực trung tâm của tỉnh An Giang, có vị trí địa lý:\nHuyện lỵ của huyện là thị trấn Cái Dầu, cách thành phố Long Xuyên 33 km về phía bắc và cách thành phố Châu Đốc 22 km về phía nam. Huyện có diện tích tự nhiên 425,7 km², trên địa bàn huyện có nhiều kinh rạch dẫn nước vào đồng như: rạch Thầy Phó, rạch Hóa Cù, kinh xáng Cây Dương (Bình Mỹ), rạch Phù Dật, rạch Voi (Cái Dầu), kinh xáng Vịnh Tre (Vĩnh Thạnh Trung), kinh Cần Thảo, kinh Đào (Mỹ Đức)...\nDân số.\nTính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số của huyện là 206.676 người, mật độ dân số đạt 485 người/km². Trong đó dân số nam là 102.793 người, nữ là 103.883 người. So với thời điểm năm 2009, dân số huyện Châu Phú đã giảm đi gần 38.500 người.\nLịch sử.\nHuyện Châu Phú có nhiều di tích lịch sử. Tại đây có vị anh hùng dân tộc Trần Văn Thành, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa. Dân chúng đa số theo đạo Hòa Hảo, mỗi nhà thường có ảnh thờ Huỳnh Phú Sổ, là Giáo chủ của đạo.\nThời phong kiến.\nChâu Phú xưa bao gồm cả thành phố Châu Đốc ngày nay, là vùng đất hoang vu ngập nước, rừng rậm, nhiều thú dữ thuộc đạo Châu Đốc của dinh Long Hồ. Thời vua Gia Long, Châu Phú thuộc huyện Vĩnh Định của trấn Vĩnh Thanh.\nCho đến giữa thế kỷ 18, vùng Châu Phú chỉ có rải rác vài nhóm lưu dân người Việt sinh sống ở ven bờ, cồn bãi sông Hậu. Bên cạnh người Việt, người Hoa, còn có số người Chăm đến định cư lập làng ở vùng ngang chợ Châu Đốc (Châu Giang ngày nay), ở cù lao Cổ Tầm Bon (Khánh Hòa ngày nay). Số dân này tổ chức thành từng đội có quan hiệp quản cầm đầu.\nNăm 1783 ông Dương Văn Hóa nên khai khẩn cù lao Năng Gù lập thôn đặt tên Bình Lâm (nay là Bình Thủy) một trong những nơi được khai phá đầu tiên trên địa bàn huyện, ông cũng lập Đình Bình Lâm vào năm này nay là Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Bình Thủy.\nThời Gia Long trên địa bàn châu Châu Phú ngày nay có ba thôn theo tứ tự từ Bắc xuống Nam gồm: Bình Thạnh Tây, Bình Trung, Bình Lâm. Thời Minh Mạng có bốn thôn: Mỹ Đức (thôn mới), Vĩnh Thạnh Trung (Bình Thạnh Tây cũ), Bình Mỹ (Bình Trung cũ), Bình Lâm. Ngoài ra còn cón các thôn mà ngày nay không còn nằm trên địa bàn Châu Phú. Châu Phú lúc này là một tổng của huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Phủ trị và huyện trị đặt tại thôn Mỹ Đức.\nThời Pháp thuộc.\nNăm 1867, sau khi chiếm toàn bộ Nam Kỳ, thực dân Pháp chia tỉnh An Giang thành nhiều khu vực gọi là hạt tham biện. Châu Phú thuộc hạt tham biện Châu Đốc. Từ năm 1867 đến 1873, Quản cơ Trần Văn Thành tập hợp nghĩa binh tại Láng Linh - Bảy Thưa để chống Pháp. Hiện đền thờ ông tọa lạc tại xã Thạnh Mỹ Tây, bên bờ kênh xáng Vịnh Tre.\nNăm 1899, Pháp bỏ hạt lập tỉnh, vùng đất này thuộc quận Châu Thành, tỉnh Châu Đốc. Năm 1917, huyện Châu Phú ngày nay tương ứng với các xã Bình Long, Bình Mỹ, Khánh Hoà, Thạnh Mỹ Tây, Vĩnh Thạnh Trung của tổng An Lương và các xã Mỹ Đức, Châu Phú của tổng Châu Phú, quận Châu Thành, tỉnh Châu Đốc, bao gồm cả phần đất của thành phố Châu Đốc bây giờ.\nNăm 1919, quận Châu Thành đổi thành quận Châu Phú thuộc tỉnh Châu Đốc. Tuy nhiên năm 1939 lại đổi về tên quận Châu Thành như cũ. Quận lỵ đặt tại làng Châu Phú thuộc tổng Châu Phú. Thời Pháp thuộc, làng Châu Phú vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc.\nSau Cách mạng tháng Tám (1945), huyện Châu Phú vẫn thuộc tỉnh Châu Đốc. Năm 1948 huyện Châu Phú chia làm hai huyện: huyện Châu Phú A thuộc tỉnh Long Châu Hậu và huyện Châu Phú B (nay là huyện An Phú) thuộc tỉnh Long Châu Tiền. Năm 1950 huyện Châu Phú A thuộc tỉnh Long Châu Hà. Năm 1951 huyện Châu Phú B thuộc tỉnh Long Châu Sa. Năm 1954 huyện Châu Phú trở lại tên cũ là huyện Châu Thành thuộc tỉnh Châu Đốc.\nGiai đoạn 1956-1975.\nNgày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thành lập tỉnh An Giang trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên trước đó. Cũng sau năm 1956, các làng gọi là xã.\nLúc này ở vùng đất cả hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc trước đó đều có quận Châu Thành cả. Tuy nhiên, do tỉnh lỵ tỉnh An Giang có tên là \"Long Xuyên\" và được đặt ở quận Châu Thành thuộc tỉnh Long Xuyên cũ, cho nên quận Châu Thành thuộc tỉnh Châu Đốc cũ được đổi tên là quận Châu Phú như ở giai đoạn 1919-1939. Quận lỵ Châu Phú đặt tại xã Châu Phú thuộc tổng Châu Phú.\nNgày 24 tháng 4 năm 1957, quận Châu Phú thuộc tỉnh An Giang, gồm 3 tổng (Châu Phú, An Phú, An Lương) với 27 xã. Ngày 6 tháng 8 năm 1957, tách một phần phía bắc quận Châu Phú để thành lập quận An Phú bao gồm tổng An Phú với 9 xã và 4 xã của tổng Châu Phú là Đa Phước, Vĩnh Hậu, Vĩnh Phong, Vĩnh Trường. Quận Châu Phú còn lại 2 tổng với 14 xã:\nNgày 8 tháng 9 năm 1964, chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định tái lập tỉnh Châu Đốc. Quận Châu Phú trở lại thuộc tỉnh Châu Đốc cho đến năm 1975. Sau năm 1965, tất cả các tổng đều bị giải thể. Lúc bấy giờ, xã Châu Phú thuộc quận Châu Phú vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Phú và đồng thời cũng là tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc trong giai đoạn 1964-1975. Tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc khi đó lại có tên là \"Thị xã Châu Phú\", do nằm trong khu vực xã Châu Phú, quận Châu Phú.\nNăm 1957, chính quyền Cách mạng cũng đặt huyện Châu Phú thuộc tỉnh An Giang, giống như sự phân chia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Giữa năm 1966, tách xã Châu Phú ra khỏi huyện Châu Phú để thành lập thị xã Châu Đốc trực thuộc tỉnh An Giang.\nTrong giai đoạn 1964-1971, địa bàn tỉnh Châu Đốc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh An Giang của chính quyền Cách mạng quản lý. Chính vì vậy, trong giai đoạn này chính quyền Cách mạng vẫn đặt huyện Châu Phú và thị xã Châu Đốc cùng thuộc tỉnh An Giang.\nTháng 12 năm 1968, chính quyền Cách mạng lại điều chỉnh hành chính trong tỉnh An Giang như sau: huyện Châu Phú cắt 5 xã là Châu Giang, Hưng Nhơn, Hiệp Xương, Bình Thạnh Đông và Hoà Lạc nhập với 4 xã Long Sơn, Phú Lâm, Phú An, Hoà Hảo của huyện Tân Châu để thành lập huyện Phú Tân.\nNăm 1971, Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập tỉnh Châu Hà, tách ra từ tỉnh An Giang, trên phần đất tỉnh Châu Đốc và tỉnh Hà Tiên trước năm 1956. Lúc này, huyện Châu Phú vẫn thuộc về tỉnh An Giang. Tháng 5 năm 1974, huyện Châu Phú thuộc tỉnh Long Châu Hà.\nSau năm 1975.\nSau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt huyện Châu Phú trực thuộc tỉnh Long Châu Hà.\nĐầu năm 1976, huyện Châu Phú trở lại thuộc tỉnh An Giang, ban đầu gồm 8 xã: Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Mỹ Đức, Khánh Hoà, Vĩnh Thạnh Trung, Thạnh Mỹ Tây, Bình Long và Bình Mỹ.\nNgày 27 tháng 1 năm 1977, sáp nhập xã Vĩnh Nguơn vào thị xã Châu Đốc theo Quyết định số 199/TC.UB của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.\nNgày 25 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 181-CP điều chỉnh địa giới và đổi tên một số xã và thị trấn thuộc tỉnh An Giang, theo đó:\nNgày 23 tháng 8 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 300-CP về việc điều chỉnh địa giới một số huyện và thị xã thuộc tỉnh An Giang, theo đó:\nNgày 12 tháng 1 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 8-HĐBT. Theo đó:\nNgày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1107/NQ-UBTVQH14 thành lập thị trấn Vĩnh Thạnh Trung trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Vĩnh Thạnh Trung (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2021). Huyện Châu Phú có 2 thị trấn và 11 xã trực thuộc như hiện nay.\nNgày 29 tháng 4 năm 2022, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 354/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Cái Dầu mở rộng (bao gồm thị trấn Cái Dầu và hai xã Bình Long, Bình Mỹ) là đô thị loại IV.\nHành chính.\nNgày nay, huyện Châu Phú có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Cái Dầu (huyện lỵ), Vĩnh Thạnh Trung và 11 xã: Bình Long, Bình Mỹ, Bình Chánh, Bình Phú, Bình Thủy, Đào Hữu Cảnh, Khánh Hòa, Mỹ Đức, Mỹ Phú, Ô Long Vĩ, Thạnh Mỹ Tây được chia thành 100 khóm - ấp.\nVăn hóa.\nNhiều lễ hội tại Châu Phú mang sắc thái dân tộc độc đáo như: lễ Kỳ Yên và đua thuyền đình thần đình Bình Thủy, lễ vía Quản cơ Trần Văn Thành. Châu Phú có nhiều món ẩm thực đa dạng, mang chậm bản chất làng quê như: Cá lóc nướng trui, Lẫu cháo Cá lóc rau đắng, khô cá tra phồng và ba sa.\nĐặc biệt, sau mùa nước nổi (nước lũ ngập đồng), mọi ngõ ngách, mọi con kênh ở huyện cơ man nào là cá linh, cá thác lát, cá chốt, cá leo... dân chúng đánh bắt bằng chày lưới, gió cất, gió gạc, thả đáy... cá đầy ghe xuồng, ăn không hết phải phơi khô, làm mắm, nước mắm, những ai từng sống ở An Giang giờ tha hương không bao giờ quên mùa nước nổi.", "Hà Nội là thủ đô, thành phố trực thuộc trung ương và là một trong hai đô thị loại đặc biệt của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là thành phố lớn thứ hai, có vị trí là trung tâm chính trị, văn hóa, giáo dục, một trong hai trung tâm kinh tế quan trọng tại Việt Nam. Hà Nội nằm về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, với địa hình bao gồm vùng đồng bằng trung tâm và vùng đồi núi ở phía bắc và phía tây thành phố. Với diện tích 3.359,82 km², và dân số 8,4 triệu người, Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất Việt Nam, đồng thời cũng là thành phố đông dân thứ hai và có mật độ dân số cao thứ hai trong 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh của Việt Nam, nhưng phân bố dân số không đồng đều. Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12 quận, 17 huyện và 1 thị xã.\nHà Nội đã sớm trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Với vai trò thủ đô, Hà Nội là nơi tập trung nhiều địa điểm văn hóa giải trí, công trình thể thao quan trọng của đất nước, đồng thời cũng là địa điểm được lựa chọn để tổ chức nhiều sự kiện chính trị và thể thao quốc tế. Đây là nơi tập trung nhiều làng nghề truyền thống, đồng thời cũng là một trong ba vùng tập trung nhiều hội lễ của miền Bắc Việt Nam. Thành phố có chỉ số phát triển con người ở mức cao, dẫn đầu trong số các đơn vị hành chính của Việt Nam. Nền ẩm thực Hà Nội với nhiều nét riêng biệt cũng là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch tới thành phố. Năm 2019, Hà Nội là đơn vị hành chính Việt Nam xếp thứ 2 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 8 về GRDP bình quân đầu người và đứng thứ 41 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Thành phố được UNESCO trao tặng danh hiệu \"Thành phố vì hòa bình\" vào ngày 16 tháng 7 năm 1999. Khu Hoàng thành Thăng Long cũng được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.\nTên gọi.\nTrước khi có tên gọi như hiện nay, Hà Nội đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau. Tên gọi “Hà Nội” bắt đầu được dùng làm địa danh ở Việt Nam từ năm Minh Mạng thứ 12 (năm 1831) khi có một tỉnh có tên là tỉnh Hà Nội được thành lập ở Bắc Thành. “Hà Nội” viết bằng chữ Hán là “”, nghĩa là \"bao quanh bởi các con sông\", tên gọi này phản ánh vị trí địa lý của tỉnh Hà Nội. Tỉnh này nằm giữa hai con sông là sông Nhị ở phía đông bắc và sông Thanh Quyết ở phía tây nam.\nTỉnh Hà Nội gồm có bốn phủ là Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hoà và Lý Nhân. Toà thành nơi có đặt trị sở của tỉnh Hà Nội, tức tỉnh lị của tỉnh Hà Nội, được gọi là thành Hà Nội theo tên tỉnh. Thành Hà Nội nằm trên địa phận hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Cả hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận đều cùng thuộc phủ Hoài Đức. Ngày 1 tháng 10 năm 1888, vua Đồng Khánh ký chỉ dụ cắt toàn bộ huyện Thọ Xương và một phần huyện Vĩnh Thuận của tỉnh Hà Nội làm nhượng địa cho Pháp để Pháp thành lập thành phố Hà Nội. Trước đó, ngày 19 tháng 7, tổng thống Pháp Marie François Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội trước khi có sự công nhận của Triều đình Việt Nam. Năm 1890, phủ Lý Nhân bị tách khỏi tỉnh Hà Nội, đổi thành tỉnh Hà Nam.\nNăm 1896, tỉnh lị của tỉnh Hà Nội được dời ra làng Cầu Đơ thuộc tổng Thanh Oai Thượng, huyện Thanh Oai. Để tránh trùng tên với thành phố Hà Nội, năm 1902, tỉnh Hà Nội được đổi tên thành tỉnh Cầu Đơ theo tên của tỉnh lị. Ngày 6 tháng 12 năm 1904, quan toàn quyền Đông Dương ra nghị định đổi tên tỉnh Cầu Đơ và tỉnh lị của tỉnh này thành “Hà Đông”. Tên gọi “Hà Đông” là do quan đốc học tỉnh Cầu Đơ Vũ Phạm Hàm đề xuất, lấy từ một câu nói của Lương Huệ vương được ghi trong sách Mạnh Tử là “” (âm Hán Việt: \"Hà Nội hung, tắc di kỳ dân ư Hà Đông, di kỳ túc ư Hà Nội\"), có nghĩa là Hà Nội bị mất mùa thì chuyển dân ở Hà Nội sang Hà Đông, chuyển lương thực ở Hà Đông sang Hà Nội. “Hà Nội” trong câu nói trên của Lương Huệ vương là chỉ vùng phía bắc sông Hoàng Hà, còn “Hà Đông” là chỉ vùng phía đông sông Hoàng Hà, thuộc tây nam bộ tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc ngày nay.\nLịch sử.\nThời kỳ tiền Thăng Long.\nNhững di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên vùng núi. Phải tới khoảng 4 hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người mới quay lại sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời đại văn hóa: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. Những cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai đoạn tiền sử này tương ứng với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thế kỷ III trước Công Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về chính trị và xã hội.\nThất bại của Thục Phán đầu thế kỷ II trước Công Nguyên đã kết thúc giai đoạn độc lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một ngàn năm do các triều đại phong kiến Trung Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, Âu Lạc cũ được chia thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó thuộc quận Giao Chỉ. Vắng bóng trong sử sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng năm 454–456 thời Lưu Tống, Hà Nội mới được ghi lại là trung tâm của huyện Tống Bình. Năm 226 Nhà Hán khi cai trị Giao Châu đã đổi tên Tống Bình thành Long Uyên (hoặc Long Biên). Năm 544, Lý Bí nổi dậy chống lại nhà Lương, tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Uyên. Người cháu của Lý Bí là Lý Phật Tử tới đóng đô ở Cổ Loa, nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài tới năm 602. Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Long Uyên lại được đổi thành Tống Bình, là trung tâm của An Nam đô hộ phủ. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành trì mới, Tống Bình được đổi tên thành \"Đại La\" – thủ phủ của Tĩnh Hải quân. Theo truyền thuyết, khi đắp thành, Cao Biền thấy một vị thần hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy, sử sách còn gọi Thăng Long là đất \"Long Đỗ\". Thế kỷ X, sau chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán, Cổ Loa một lần nữa trở thành kinh đô của nước Việt.\nThăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh.\nSau khi lên ngôi năm 1009 tại Hoa Lư, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời đô về Đại La. Theo một truyền thuyết phổ biến, khi tới Đại La, Lý Thái Tổ nhìn thấy một con rồng bay lên, vì vậy đặt tên kinh thành mới là \"Thăng Long\". Kinh thành Thăng Long khi đó giới hạn bởi ba con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô phía Bắc và sông Kim Ngưu phía Nam. Khu hoàng thành được xây dựng gần hồ Tây với cung điện hoàng gia cùng các công trình chính trị. Phần còn lại của đô thị là những khu dân cư, bao gồm các phường cả nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Ngay trong thế kỷ X, nhiều công trình tôn giáo nhanh chóng được xây dựng như chùa Diên Hựu phía Tây hoàng thành xây năm 1049, chùa Báo Thiên xây năm 1057, Văn Miếu xây năm 1070, Quốc Tử Giám dựng năm 1076. Chỉ sau một thế kỷ, Thăng Long trở thành trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả quốc gia.\nNhà Trần nối bước nhà Lý cai trị Đại Việt, coi Thăng Long là kinh đô thứ nhất và Thiên Trường là kinh đô thứ hai, nơi các Thượng hoàng ở. Kinh thành Thăng Long tiếp tục được xây dựng. Hoàng thành được củng cố và xuất hiện thêm những cung điện. Năm 1230, Thăng Long được chia thành 61 phường, kinh thành đông đúc hơn dù địa giới không thay đổi. Giai đoạn này cũng ghi nhận sự xuất hiện của những cư dân ngoại quốc, như người Hoa, người Java và người Ấn Độ. Nền kinh tế công thương nghiệp cũng sản sinh tầng lớp thị dân và Thăng Long còn là nơi quy tụ của nhiều học giả, trí thức như Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu và Chu Văn An. Trong cuộc chiến tranh với nhà Nguyên, kinh thành Thăng Long ba lần bị chiếm giữ nhưng đều kết thúc trong chiến thắng của Đại Việt. Cuối thế kỷ XIV, thời kỳ nhà Trần suy vi, một quý tộc ngoại thích là Hồ Quý Ly thâu tóm quyền lực, ép vua Trần dời kinh đô về Thanh Hóa. Khi Hồ Quý Ly chính thức lên ngôi, lập nên nước Đại Ngu năm 1400, kinh đô mới mang tên Tây Đô, Thăng Long được đổi thành \"Đông Đô\". Nhưng vương triều của nhà Hồ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành \"Đông Quan\". Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt đầu từ năm 1407 và kéo dài tới năm 1428. Các nho sĩ và người dân Thăng Long thời ấy cũng thường tự nhận Thăng Long là \"Tràng An\", mang ý nghĩa \"bình yên lâu dài\" hoặc \"phồn thịnh mãi mãi\". Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu cho rằng Tràng An là để chỉ vùng đất của Ninh Bình chứ không phải Thăng Long .\nSau chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và Đông Đô cũng lấy lại vị thế kinh thành. Năm 1430, thành phố được đổi tên thành \"Đông Kinh\", đến 1466 được gọi là phủ Trung Đô. Hoàng thành Thăng Long dưới thời nhà Lê tiếp tục được mở rộng. Bên cạnh, khu vực dân cư được chia thành 2 huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường. Thời kỳ này, đứng đầu bộ máy hành chính là chức Phủ doãn. Thành phố tiếp tục một thời kỳ của những phường hội buôn bán, tuy bị hạn chế bởi tư tưởng ức thương của nhà Lê. Trong giai đoạn tranh giành quyền lực giữa nhà Lê, nhà Mạc và chúa Trịnh, Thăng Long vẫn duy trì vị trí kinh đô. Sự phức tạp của chính trị thời kỳ này cũng đem lại cho thành phố một điểm đặc biệt: Bên cạnh hoàng thành của vua Lê, phủ Chúa Trịnh được xây dựng và là trung tâm quyền lực thực sự. Nhờ nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của ngoại thương, đô thị Thăng Long bước vào thời kỳ phồn vinh, thu hút thêm nhiều cư dân tới sinh sống. Câu ca \"Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến\" nói lên sự sầm uất giàu có của thành phố, giai đoạn này còn có tên gọi khác là \"Kẻ Chợ\". Nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes ước tính dân số Thăng Long khi đó khoảng 1 triệu người. William Dampier, nhà phiêu lưu người Anh, đưa ra con số thường được xem hợp lý hơn, khoảng 2 vạn nóc nhà.\nMùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra miền Bắc lật đổ chính quyền chúa Trịnh, chấm dứt hai thế kỷ chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài. Sau khi Nguyễn Huệ cùng quân Tây Sơn quay về miền Nam, năm 1788, nhà Thanh đưa quân xâm lược Đại Việt. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi ngày 22 tháng 12 năm 1788 rồi đưa quân ra Bắc. Sau chiến thắng ở trận Ngọc Hồi – Đống Đa, nhà Tây Sơn trị vì Đại Việt với kinh đô mới ở Phú Xuân. Hoàng đế Quang Trung đổi tên Thăng Long thành \"Bắc Thành\".\nThời nhà Nguyễn và Pháp thuộc.\nTriều đại Tây Sơn sụp đổ sau một thời gian ngắn ngủi, Gia Long lên ngôi năm 1802 lấy kinh đô ở Phú Xuân, bắt đầu nhà Nguyễn. Năm 1805, Gia Long cho phá tòa thành cũ của Thăng Long, xây dựng thành mới mà dấu vết còn lại tới ngày nay, bao bọc bởi các con đường Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Trần Phú và Phùng Hưng. Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng, toàn quốc được chia thành 29 tỉnh, Thăng Long thuộc tỉnh \"Hà Nội\". Với hàm nghĩa \"nằm trong sông\", tỉnh Hà Nội khi đó gồm 4 phủ, 15 huyện, nằm giữa sông Hồng và Sông Đáy. Tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Sơn Tây, và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam; trong đó Phủ Hoài Đức gồm 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm; phủ Thường Tín gồm 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên; phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện: Sơn Minh (nay là Ứng Hòa), Hoài An (nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức), Chương Đức (nay là Chương Mỹ – Thanh Oai); và phủ Lý Nhân gồm 5 huyện: Nam Xang (nay là Lý Nhân), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục. Hà Nội có tên gọi bắt đầu từ đây.\nNền kinh tế Hà Nội nửa đầu thế kỷ XIX cũng khác biệt so với Thăng Long trước đó. Các phường, thôn phía Tây và Nam chuyên về nông nghiệp, còn phía Đông, những khu dân cư sinh sống nhờ thương mại, thủ công làm nên bộ mặt của đô thị Hà Nội. Bên cạnh một số cửa ô được xây dựng lại, Hà Nội thời kỳ này còn xuất hiện thêm những công trình tín ngưỡng, tôn giáo như đền Ngọc Sơn, chùa Báo Ân. \nNăm 1858, Pháp bắt đầu nổ súng xâm chiếm Đông Dương. Sau khi chiếm ba tỉnh Đông Nam Kỳ, quân đội Pháp dưới sự chỉ đạo của Francis Garnier tiến đến Hà Nội đầu tháng 11 năm 1873. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn chủ hòa, nhưng dân chúng Hà Nội vẫn tiếp tục chống lại người Pháp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. Năm 1884, nhà Nguyễn ký hòa ước công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hà Nội cũng bước vào thời kỳ thuộc địa.\nNgày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội. Thành phố Hà Nội lúc này có diện tích nhỏ bao gồm 2 huyện Thọ Xương và huyện Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức. Phạm vi thành phố bó hẹp nằm trong khu vực thành Đại La mở rộng thời nhà Mạc. 3 phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa thuộc về tỉnh Hà Đông. Phủ Lý Nhân tách ra tạo thành tỉnh Hà Nam. Một thời gian ngắn sau, khu vực phía Tây vườn bách thảo và khu vực tương ứng với các quận Đống Đa, Tây Hồ ngày nay được tách ra thành huyện Hoàn Long, trực thuộc tỉnh Hà Đông, đến khoảng năm 1940 thì sáp nhập trở lại.\nĐến năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Liên bang Đông Dương. Nhờ sự quy hoạch của người Pháp, thành phố dần có được bộ mặt mới. Lũy thành thời Nguyễn đã bị triệt hạ, chỉ còn lại Cột Cờ, Cửa Bắc với vết đạn năm 1873, Đoan Môn và lan can rồng đá ở trong hoàng thành cũ; đến năm 1897 thì lũy thành hầu như bị phá hủy hoàn toàn. Năm 1901, các công trình phủ Thống sứ, Nhà bưu điện, Kho bạc, Nhà đốc lý, Nhà hát lớn, cầu Long Biên, Ga Hà Nội, những quảng trường, bệnh viện... được xây dựng. Hà Nội cũng có thêm trường đua ngựa, các nhà thờ Cơ Đốc giáo, trường Đại học Y khoa, Đại học Đông dương, Đại học Mỹ thuật, các trường Cao đẳng Pháp lý, Nông lâm cùng những nhà máy sản xuất rượu bia, diêm, hàng dệt, điện, nước... Khi những nhà tư bản người Pháp tới Hà Nội ngày một nhiều hơn, các rạp chiếu phim, nhà hát, khách sạn... dần xuất hiện, những con phố cũng thay đổi để phù hợp với tầng lớp dân cư mới. Vào năm 1921, toàn thành phố có khoảng 4.000 dân châu Âu và 100.000 dân bản địa.\nSự xuất hiện của tầng lớp tư sản Việt Nam khiến văn hóa Hà Nội cũng thay đổi. Nền văn hóa phương Tây theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam kéo theo những xáo trộn trong xã hội. Không còn là một kinh thành thời phong kiến, Hà Nội ít nhiều mang dáng dấp của một đô thị châu Âu. Thành phố vẫn tiếp tục giữ vai trò trung tâm tri thức, nghệ thuật của cả quốc gia, nơi tập trung các nhà thơ mới, những nhạc sĩ tân nhạc cùng những trí thức, học giả nổi tiếng.\nTrong hai cuộc chiến tranh.\nGiữa thế kỷ XX, Hà Nội chịu những biến cố phức tạp của lịch sử. Sự kiện Nhật Bản tấn công Đông Dương năm 1940 khiến Việt Nam phải nằm dưới sự cai trị của cả đế quốc Pháp và Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, tại Hà Nội, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Nhưng chỉ năm tháng sau, quốc gia này phải đầu hàng quân Đồng Minh, kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào thời điểm thuận lợi đó, lực lượng Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, lật đổ nhà nước Đế quốc Việt Nam, buộc vua Bảo Đại thoái vị, giành lấy quyền lực ở Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội. Sau độc lập, thành phố chia thành các khu phố, đổi tên nhiều vườn hoa, đường phố, như đại lộ (\"Avenue\") Paul Doumer đổi tên là Nhân quyền, đường (\"Rue de la\") République đổi tên là Dân Quyền, đại lộ Puginier đổi tên là Dân Chủ Cộng Hòa, đường Ollivier đổi là Hạnh Phúc, đường Dr Morel đổi là Tự Do...\nCuối năm 1945, quân đội Pháp quay lại Đông Dương. Sau những thương lượng không thành, Chiến tranh Đông Dương bùng nổ vào tháng 12 năm 1946 và thành phố Hà Nội nằm trong vùng kiểm soát của người Pháp. Sau khi Quốc gia Việt Nam được thành lập năm 1949, Hà Nội được Pháp chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam quản lý. Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam Bảo Đại bổ nhiệm dược sĩ Thẩm Hoàng Tín làm Thị trưởng thành phố. Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ giúp Việt Minh kiểm soát toàn bộ miền Bắc Việt Nam, Hà Nội tiếp tục giữ vị trí thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 30 tháng 9 năm 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp ký Hiệp định chuyển giao Hà Nội về quân sự; ngày 2 tháng 10, ký Hiệp định chuyển giao Hà Nội về hành chính. Vào thời điểm được tiếp quản, thành phố gồm 4 quận nội thành với 34 khu phố, 37.000 dân và 4 quận ngoại thành với 45 xã, 16.000 dân. Cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, Hà Nội nhiều lần thay đổi về hành chính và địa giới. Năm 1958, bốn quận nội thành bị xóa bỏ và thay bằng 12 khu phố. Năm 1959, khu vực nội thành được chia lại thành 8 khu phố, Hà Nội cũng có thêm 4 huyện ngoại thành. Tháng 4 năm 1961, Quốc hội quyết định mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm một số xã của Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên. Toàn thành phố có diện tích 584 km², dân số 91.000 người. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, bốn khu phố nội thành Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa và 4 huyện ngoại thành Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm được thành lập.\nKhi cuộc Chiến tranh Việt Nam leo thang, Hà Nội phải hứng chịu những cuộc tấn công trực tiếp từ Hoa Kỳ. Riêng trong chiến dịch Linebacker II năm 1972, trong khoảng 2.200 người dân bị thiệt mạng ở miền Bắc, số nạn nhân ở Hà Nội được thống kê là 1.318 người. Nhiều cơ quan, trường học phải sơ tán tới các tỉnh lân cận.\nHà Nội ngày nay.\nSau chiến tranh, Hà Nội tiếp tục giữ vai trò thủ đô của quốc gia Việt Nam thống nhất. Hà Nội đã được UNESCO trao danh hiệu \"Thành phố vì hòa bình\" vào ngày 16 tháng 7 năm 1999. Năm 2000, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tặng thưởng thành phố Hà Nội danh hiệu \"Thủ đô anh hùng\" vào ngày 4 tháng 10. Với tuổi đời hơn 1000 năm, Hà Nội chính là thủ đô lâu đời nhất trong 11 thủ đô của các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á.\nNgày 21 tháng 12 năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh Phú là Mê Linh, Sóc Sơn. Dân số Hà Nội lên tới con số 2,5 triệu người. Bên cạnh lượng dân cư các tỉnh tới định cư ở thành phố, trong khoảng thời gian từ 1977 tới 1984, Hà Nội cũng đưa 12.861 hộ, 21.587 nhân khẩu tới Lâm Đồng theo chính sách xây dựng kinh tế mới. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, ranh giới Hà Nội lại được điều chỉnh, chuyển lại 5 huyện và 1 thị xã đã lấy của Hà Sơn Bình năm 1978 cho Hà Tây và Mê Linh được nhập vào tỉnh Vĩnh Phúc. Hà Nội còn lại 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, với diện tích đất tự nhiên 924 km².\nNgày 28 tháng 10 năm 1995, quận Tây Hồ được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 3 phường Bưởi, Thụy Khuê, Yên Phụ thuộc quận Ba Đình và 5 xã Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng thuộc huyện Từ Liêm. Ngày 26 tháng 11 năm 1996, quận Thanh Xuân được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Thượng Đình, Kim Giang, Phương Liệt cùng một phần phường Nguyễn Trãi và Khương Thượng thuộc quận Đống Đa, với toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Nhân Chính thuộc huyện Từ Liêm và xã Khương Đình thuộc huyện Thanh Trì. Cùng lúc đó, quận Cầu Giấy cũng được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 4 thị trấn Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Mai Dịch và 3 xã Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa thuộc huyện Từ Liêm.\nNgày 6 tháng 11 năm 2003, thành lập quận Long Biên trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 10 xã Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và 3 thị trấn Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng thuộc huyện Gia Lâm. Cùng lúc đó, quận Hoàng Mai cũng được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 9 xã Định Công, Đại Kim, Hoàng Liệt, Thịnh Liệt, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam, Trần Phú, Yên Sở cùng một phần diện tích xã Tứ Hiệp thuộc huyện Thanh Trì, và toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường Mai Động, Tương Mai, Tân Mai, Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hai Bà Trưng.\nSau thời kỳ bao cấp, từ cuối thập niên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu vực ngoại ô Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa. Những cao ốc mọc lên ở khu vực nội đô và các trung tâm công nghiệp cũng được xây dựng ở những huyện ngoại thành. Sự phát triển cũng kéo theo những hệ lụy. Do không được quy hoạch tốt, giao thông thành phố thường xuyên ùn tắc khi số lượng xe máy tăng cao. Nhiều khu phố phải chịu tình trạng ngập úng mỗi khi mưa lớn. Mật độ dân số quá cao khiến những dân cư nội ô phải sống trong tình trạng chật chội và thiếu tiện nghi. Vào năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một người. Mật độ cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m²/người, thuộc hàng rất thấp so với các thành phố trên thế giới. Song việc tăng dân số quá nhanh cùng quá trình đô thị hóa thiếu quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở nên chật chội, ô nhiễm và giao thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc đang dần biến mất, thay vào đó là những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên các con phố. Hà Nội còn là một thành phố phát triển không đồng đều với giữa các khu vực như giữa các quận nội thành và huyện ngoại thành, nhiều nơi người dân vẫn chưa có được những điều kiện sinh hoạt thiết yếu. Năm 2012, Hà Nội được đánh giá là một trong những thành phố ô nhiễm nhất khu vực Đông Nam Á, với hàm lượng bụi cao gấp nhiều lần mức cho phép.\nNgày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội Việt Nam thông qua nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ 1 tháng 8 cùng năm. Theo nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được sáp nhập về Hà Nội. Từ diện tích gần 1.000 km² và dân số khoảng 3,4 triệu người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km² và dân số 6.232.940 người, nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới. Ngày 8 tháng 5 năm 2009, địa giới các huyện Thạch Thất và Quốc Oai được điều chỉnh lại. Cũng trong cùng thời điểm này, quận Hà Đông được thành lập từ thành phố Hà Đông trước đây và thành phố Sơn Tây được chuyển thành thị xã Sơn Tây như cũ.\nNăm 2010, Hà Nội đã tổ chức thành công Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội để lại dấu ấn trong lòng người dân và bạn bè quốc tế. Hoàng thành Thăng Long, văn bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám và Lễ hội Thánh Gióng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Nhiều công trình quan trọng như cầu Vĩnh Tuy, Bảo tàng Hà Nội, công viên Hòa Bình đã được khánh thành. Ngày 27 tháng 12 năm 2013, huyện Từ Liêm được chia thành hai quận là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm. Ngày 4 tháng 7 năm 2023, quận Đông Anh được thành lập trên cơ sở nguyên trạng diện tích tự nhiên và dân số của huyện Đông Anh cũ. Từ đó, Hà Nội có 13 quận, 12 huyện và 1 thị xã.\nĐịa lý.\nVị trí và lãnh thổ.\nThủ đô Hà Nội nằm về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, trong phạm vi từ 20°34' đến 21°18' vĩ độ Bắc và từ 105°17' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp với 8 tỉnh là Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Hà Nội cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km, cách thành phố Nam Định 87 km tạo thành 3 cực chính của Đồng bằng sông Hồng. Hiện nay, thành phố có diện tích 3358,6 km², chiếm khoảng 1% diện tích tự nhiên của cả nước, đứng hàng thứ 41 về diện tích trong 63 tỉnh, thành phố ở nước ta , và là 1 trong 17 thủ đô có diện tích trên 3000 km².\nCác điểm cực của thủ đô Hà Nội là:\nĐịa hình.\nĐại bộ phận diện tích Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Địa hình của Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông phản ánh rõ nét qua hướng dòng chảy tự nhiên của các con sông chính chảy qua Hà Nội, và có thể chia ra làm hai vùng.\nVùng đồng bằng thấp và khá bằng phẳng, chiếm đại bộ phận diện tích của các huyện thị xã và các quận nội thành, được bồi đắp bởi các dòng sông với các bãi bồi hiện đại, bãi bồi cao và các bậc thềm. Xen giữa các bãi bồi hiện đại và các bãi bồi cao còn có các vùng trũng với các hồ, đầm (dấu vết của các dòng sông cổ). Đó là các ô trũng tự nhiên rất dễ bị úng ngập trong mùa mưa lũ và khi có mưa lớn ở các huyện Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Thanh Oai, Quốc Oai, Chương Mỹ, Ứng Hòa, Mỹ Đức. Do được khai phá và canh tác từ lâu đời nên hiện nay ở Hà Nội có hệ thống đê điều ngăn lũ chạy dọc những triền sông. Hệ thống đê điều này khiến cho các cánh đồng trong đê không được bồi đắp phù sa hằng năm và phải xây dựng nhiều công trình thủy lợi để tưới và tiêu nước.\nVùng đồi núi tập trung ở ngoại thành phía bắc và phía tây thành phố, thuộc các huyện Sóc Sơn, Thạch Thất, Ba Vì, Quốc Oai và Mỹ Đức, với các đỉnh núi cao như Ba Vì (1296 m) , Viên Nam (1031 m), Hàm Lợn (462 m); trong đó đỉnh Ba Vì là điểm cao nhất của thành phố Hà Nội. Khu vực nội thành có một số gò đồi thấp như gò Đống Đa, núi Nùng, núi Sưa. Phần lớn các gò đồi trong nội thành tập trung ở quận Ba Đình.\nThủy văn.\nSông Hồng là con sông chính của thành phố, bắt đầu chảy vào Hà Nội ở huyện Ba Vì và ra khỏi thành phố ở khu vực huyện Phú Xuyên tiếp giáp Hưng Yên rồi xuôi về Nam Định, đã có nhiều gắn kết với Thăng Long từ thời nhà Trần. Sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm khoảng một phần ba chiều dài của con sông này trên đất Việt Nam. Hà Nội còn có sông Đà là ranh giới giữa Hà Nội với Phú Thọ, hợp lưu với sông Hồng ở phía Bắc thành phố tại huyện Ba Vì. Ngoài ra, trên địa phận Hà Nội còn nhiều sông khác như sông Đáy, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ... Các sông nhỏ chảy trong khu vực nội thành như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu... là những đường tiêu thoát nước của Hà Nội.\nHà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, là dấu vết còn lại của các dòng sông cổ. Trong khu vực nội thành, hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng 500 ha, đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh đô thị, ngày nay được bao quanh bởi nhiều khách sạn, biệt thự. Hồ Gươm nằm ở trung tâm lịch sử của thành phố, khu vực sầm uất nhất, luôn giữ một vị trí đặc biệt đối với Hà Nội. Trong khu vực nội ô có thể kể tới những hồ khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ... Ngoài ra, còn nhiều đầm hồ lớn nằm trên địa phận Hà Nội như Đồng Mô, Suối Hai, Đồng Quan, Mèo Gù, Xuân Khanh, Đồng Đò, Tuy Lai - Quan Sơn.\nDo quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần lớn các sông hồ Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Theo PGS–TS Trần Đức Hạ – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Cấp thoát nước và Môi trường thuộc Hội Cấp thoát nước Việt Nam, lượng nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi trường quá lớn. Chỉ tính riêng trong khu vực nội đô, mỗi ngày lượng nước thải xả thẳng ra hệ thống sông hồ vào khoảng 650.000 m³/ngày (2015). Sông Tô Lịch, trục tiêu thoát nước thải chính của thành phố, hàng ngày phải tiếp nhận khoảng 250.000 m³ nước thải xả thẳng xuống dòng sông mà không hề qua xử lý. Nó bị ô nhiễm nặng nề: nước sông càng lúc càng cạn, màu nước càng ngày càng đen và bốc mùi hôi thối nặng. Với chiều dài gần 20 km chảy qua địa bàn thủ đô, nhiều khúc của sông Nhuệ nước đen kịt, đặc quánh, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc và gần như không còn xuất hiện sự sống dưới lòng sông. Tương tự, sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ nước thải sinh hoạt mỗi ngày. Sông Lừ và sông Sét trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngưu khoảng 110.000 m³. Lượng nước thải sinh hoạt và công nghiệp này đều có hàm lượng hóa chất độc hại cao. Các sông mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu thoát nước còn phải nhận thêm một phần rác thải của người dân và chất thải công nghiệp. Những làng nghề thủ công cũng góp phần vào gây nên tình trạng ô nhiễm này.\nKhí hậu.\nKhí hậu Hà Nội mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa, được nêu trên trang web chính thức của Hà Nội. Tuy nhiên, dựa theo Phân loại khí hậu Köppen, trang web \"ClimaTemps.com\" lại xếp Hà Nội mang khí hậu cận nhiệt đới ẩm với mã Cwa.\nThời tiết có sự khác biệt rõ ràng giữa mùa nóng và mùa lạnh, do nằm khá sâu trong nội địa và gần như không có một vùng nước lớn nào giúp điều hoà khí hậu. Mặc dù thời tiết được chia làm hai mùa chính là mùa mưa – từ tháng 4 tới tháng 10 – và mùa khô – từ tháng 11 tới tháng 3, nhưng Hà Nội vẫn được tận hưởng thời tiết bốn mùa nhờ các tháng giao mùa. Mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 8, khí hậu nóng ẩm vào đầu mùa và cuối mùa mưa nhiều rồi mát mẻ, khô ráo vào tháng 9 và tháng 10. Mùa lạnh bắt đầu từ cuối tháng 11 đến hết tháng 3 năm sau. Từ cuối tháng 11 đến nửa đầu tháng 2 rét và hanh khô, từ nửa cuối tháng 2 đến hết tháng 3 lạnh ẩm và mưa phùn kéo dài từng đợt. Đôi khi mưa phùn còn có thể kéo dài đến tận cuối tháng 4. Trong khoảng tháng 9 đến giữa tháng 11, Hà Nội có những ngày thu với tiết trời mát mẻ (rõ rệt hơn Hải Phòng, Nam Định và nhiều tỉnh phía Bắc khác) do đón vài đợt không khí lạnh yếu tràn về. Tuy nhiên, do chịu sự tác động mạnh mẽ của gió mùa nên thời gian bắt đầu và kết thúc của mỗi mùa thường không đồng đều nhau giữa các năm, nên sự phân chia các tháng chỉ mang tính tương đối.\nNhiệt độ trung bình mùa đông của thành phố từ tháng 11 đến tháng 3 không vượt quá 22 °C, với tháng lạnh nhất là tháng 1 với nhiệt độ trung bình 16,4 °C, lúc thấp xuống tới 2,7 °C. Nhiệt độ trung bình mùa hạ của Hà Nội từ tháng 5 đến tháng 9 đều vượt 27 °C, với tháng nóng nhất là tháng 7 với nhiệt độ trung bình đạt 29,2 °C, lúc cao nhất lên tới 42,8 °C. Nhiệt độ trung bình cả năm là 23,6 °C, lượng mưa trung bình hàng năm vào mức 1.500mm đến 1.900mm. Vào tháng 5 năm 1926, nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức kỷ lục 42,8 °C. Tháng 1 năm 1955, nhiệt độ xuống mức thấp nhất, 2,7 °C do chịu ảnh hưởng của La Niña. Vào đầu tháng 6 năm 2017 với việc bị ảnh hưởng bởi El Niño trên toàn thế giới, Hà Nội phải hứng chịu đợt nóng dữ dội trong 1 tuần với nhiệt độ lên tới 42,5 °C, là nhiệt độ kỷ lục ghi nhận trong lịch sử. Hơn nữa, do chịu ảnh hưởng của hiệu ứng đô thị và là vùng khí hậu có độ ẩm cao nên những đợt nắng nóng, nhiệt độ cảm nhận thực tế luôn cao hơn mức đo đạc, có thể lên tới 50 °C. Nơi có tuyết vào mùa đông ở Hà Nội là đỉnh núi Ba Vì ngày 24 tháng 1 năm 2016 với mức nhiệt đo được là 0 °C.\nMôi trường.\nHà Nội thường xuyên nằm ở top đầu các thành phố ô nhiễm, thậm chí nhiều ngày trong năm là thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới, với chỉ số bụi mịn ở mức nguy hiểm cho sức khỏe con người. Theo Báo cáo chất lượng không khí toàn cầu 2018, Hà Nội có hàm lượng bụi mịn cao gấp 4 lần mức khuyến cáo của WHO (40,8 mg/m³, mức khuyến cáo: 10 mg/m³). Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam thì Hà Nội là thành phố ô nhiễm không khí nhất với số ngày chất lượng không khí lên mức kém, xấu, nguy hại chiếm tỷ lệ cao. Ngoài ra, các con sông chảy qua Hà Nội (sông Nhuệ, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Lừ, sông Sét) và các hồ cũng bị ô nhiễm rất nặng do 78% nước thải của Hà Nội xả thẳng trực tiếp ra sông, hồ mà không qua xử lý, trong đó mỗi con sông của Hà Nội tiếp nhận hàng vạn m³ nước thải đổ vào mỗi ngày.\nTổ chức hành chính và chính quyền.\nTổ chức hành chính.\nHà Nội là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được xếp vào đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt và cũng đồng thời là đô thị loại đặc biệt, thỏa mãn các tiêu chuẩn như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động trên 90%, quy mô dân số trên 5 triệu, mật độ dân số bình quân từ 15.000 người/km² trở lên, cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh.\nSau những thay đổi về địa giới hành chính, tính đến năm 2023, Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 13 quận, 16 huyện, 1 thị xã với 579 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 360 xã, 199 phường và 20 thị trấn. Đây là thành phố trực thuộc trung ương duy nhất của Việt Nam có thị xã.\nChính quyền.\nCũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội do người dân thành phố trực tiếp bầu lên, là cơ quan quyền lực Nhà nước ở thành phố. Hội đồng Nhân dân Hà Nội hiện nay, nhiệm kỳ 2021–2026, gồm 95 đại biểu. Chủ tịch HĐND Hà Nội hiện nay là ông Nguyễn Ngọc Tuấn.\nỦy ban nhân dân thành phố Hà Nội là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ và các nghị quyết của hội đồng nhân dân thành phố. Chủ tịch UBND Hà Nội hiện nay là ông Trần Sỹ Thanh. Ngoài các sở, ban như những tỉnh khác, thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội còn có thêm báo \"Hà Nội mới\", báo \"Kinh tế và Đô thị\", Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội, Ban Chỉ đạo 1000 năm Thăng Long, Ban quản lý khu phố cổ... và một số tổng công ty trên địa bàn thành phố. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Hà Nội có trụ sở nằm ở số 12 phố Lê Lai, bên cạnh hồ Hoàn Kiếm.\nTòa án nhân dân thành phố Hà Nội là cơ quan xét xử ở thành phố. Chánh án TAND Hà Nội hiện nay là ông Nguyễn Hữu Chính.\nVề phía Đảng ủy, Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội – thường gọi tắt là Thành ủy Hà Nội – là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Thành phố Hà Nội giữa hai kỳ đại hội đại biểu của Đảng bộ Thành phố. Ban chấp hành Đảng bộ Hà Nội khóa XVII nhiệm kỳ 2020-2025 gồm có 71 người, bầu ra Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội 2020–2025 gồm 16 ủy viên. Đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy và phải là ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Bí thư Thành ủy hiện tại là ông Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII.\nỦy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hà Nội nhiệm kỳ XVII (2019–2024) được Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam TP Hà Nội lần thứ XVII (2019–2024) bầu ngày 25 tháng 7 năm 2019 gồm 132 ủy viên, bầu ra Ban thường trực UBMTTQ Thành phố gồm 12 thành viên. Chủ tịch UBMTTQ TP Hà Nội đương nhiệm là bà Nguyễn Lan Hương (được bầu ngày 14 tháng 3 năm 2019 thay thế ông Vũ Hồng Khanh đã nhận quyết định nghỉ hưu từ ngày 1-2-2019.).\nKiến trúc và quy hoạch đô thị.\nLịch sử lâu đời cùng nền văn hóa phong phú đã giúp Hà Nội có được kiến trúc đa dạng và mang dấu ấn riêng. Nhưng sau một thời gian phát triển thiếu quy hoạch, thành phố hiện nay tràn ngập những ngôi nhà ống trên các con phố lắt léo, những công trình tôn giáo nằm sâu trong các khu dân cư, những cao ốc bên các khu phố cũ, những cột điện chăng kín dây... Nhưng thiếu vắng không gian công cộng. Năm 2010, Hà Nội lập \"Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050\" cho một thành phố 9,1 triệu dân vào năm 2030 và trên 10 triệu người vào năm 2050. Về mặt kiến trúc, có thể chia Hà Nội ngày nay thành bốn khu vực: khu phố cổ, khu thành cổ, khu phố Pháp và các khu mới quy hoạch.\nKhu phố cổ.\nKhu phố cổ Hà Nội, trung tâm lịch sử của thành phố, hiện nay vẫn là khu vực đông đúc nhất. Địa giới không gian khu phố cổ có thể coi là một hình tam giác cân với đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía Đông là đê sông Hồng, cạnh phía Tây là Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông–Hàng Gai–Cầu Gỗ. Qua nhiều năm, những cư dân sinh sống nhờ các nghề thủ công, buôn bán tiểu thương đã hình thành những con phố nghề đặc trưng mang những cái tên như Hàng Bạc, Hàng Bồ, Hàng Đường, Hàng Thùng...\nTất cả các ngôi nhà hai bên đường khu phố cổ đều theo kiểu nhà ống, mang nét đặc trưng: bề ngang hẹp, chiều dài sâu, đôi khi thông sang phố khác. Bên trong các ngôi nhà này cũng có cách bố trí gần như nhau: gian ngoài là nơi bán hoặc làm hàng, tiếp đó là khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng, trên sân có bể cạn trang trí, quanh sân là cây cảnh, giàn hoa, gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối tiếp là khu phụ. Những năm gần đây, mật độ dân số cao khiến phố cổ Hà Nội xuống cấp khá nghiêm trọng. Một phần cư dân ở đây phải sống trong điều kiện thiếu tiện nghi, thậm chí bất tiện, nguy hiểm. Một vài trường hợp đặc biệt được ghi nhận như ba người sống trong một diện tích 1,5 m² hay bốn người sống trong một căn phòng 10 m² nhưng trên nóc một nhà vệ sinh chung. Trong khu 36 phố phường thuộc dự án bảo tồn, hiện chỉ còn một vài nhà cổ có giá trị, còn lại hầu hết đã được xây mới hoặc cải tạo tùy tiện.\nKhu thành cổ.\nKhu thành cổ, tức hoàng thành Thăng Long, nằm ở khoảng giữa hồ Tây và hồ Hoàn Kiếm, xuất hiện cùng với kinh đô Thăng Long. Trải qua nhiều lần phá hủy, xây dựng lại rồi tiếp tục bị tàn phá, hoàng thành Thăng Long hiện chỉ lưu lại ở một vài dấu vết. Trên phố Phan Đình Phùng hiện nay còn cửa Bắc của thành được xây bằng đá và gạch rất kiên cố. Cột cờ Hà Nội xây năm 1812 hiện nằm trên đường Điện Biên Phủ. Công trình cao 40 mét này gồm ba nền thềm rộng và tháp cổ hình lăng trụ, bên trong có cầu thang xoắn ốc dẫn lên kỳ đài. Phía Nam thành cổ còn lưu lại được một quần thể di tích đa dạng là Văn Miếu-Quốc Tử Giám, được xây từ đầu thế kỷ XI. Gồm hai di tích chính, Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Chu Văn An – và Quốc Tử Giám – trường quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam – công trình không chỉ là điểm du lịch hấp dẫn mà còn là nơi tổ chức nhiều hoạt động văn hóa.\nNgày 31 tháng 7 năm 2010, tại kỳ họp lần thứ 34 tại Brasilia, thủ đô của Brasil, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO đã công nhận khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long là di sản văn hóa thế giới dựa trên 3 tiêu chí: Chiều dài lịch sử văn hóa, Tính liên tục của tài sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và Các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú. Sáng ngày 1 tháng 10 năm 2010, trong buổi khai mạc Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Tổng Giám đốc UNESCO Irina Bokova đã trao bằng Di sản văn hóa thế giới khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long cho lãnh đạo Thành phố Hà Nội.\nKhu phố Pháp.\nNăm 1883, người Pháp bắt đầu lên kế hoạch xây dựng lại thành phố. Dựa trên các khu phố Hà Nội vốn có, những kiến trúc sư người Pháp vạch thêm các con đường mới, xây dựng các công trình theo hướng thích nghi với môi trường sở tại, tạo nên một phong cách ngày nay được gọi là kiến trúc thuộc địa. Khu vực đô thị do người Pháp quy hoạch và xây dựng gồm ba khu: nhượng địa, thành cũ và nam hồ Hoàn Kiếm, ngày nay mang tên chung là khu phố cũ, hay khu phố Pháp.\nKhu nhượng địa mang hình chữ nhật được giới hạn bởi các con phố Bạch Đằng, Tràng Tiền, Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Nguyễn Huy Tự hiện nay. Vốn là đồn thủy quân của Hà Nội cổ, đến năm 1875, khu vực này được nhượng lại cho quân đội Pháp xây doanh trại, dinh thự và bệnh viện. Những công trình kiến trúc ở đây có mái lợp ngói đá đen, hành lang xung quanh, nhà cuốn hình cung. Dinh thự Tổng tham mưu trưởng quân Pháp, ngày nay là Nhà khách Bộ Quốc phòng xây dựng trong khoảng thời gian 1874 đến 1877. Bệnh viện Lanessan, hiện là Quân y viện 108 và Bệnh viện Hữu Nghị, khánh thành năm 1893. Khu thành cũ gồm các phố Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Hoàng Diệu, Điện Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Chu Văn An, Trần Phú. Những con đường ở đây rộng, dài và được trồng nhiều cây xanh. Các biệt thự mang kiến trúc miền Bắc nước Pháp với trang trí cầu kỳ, tỷ mỉ. Một công trình kiến trúc tiêu biểu và quan trọng của khu thành cũ là Phủ Toàn quyền, ngày nay là Phủ Chủ tịch, được xây dựng trong khoảng 1900 đến 1902. Khu nam hồ Hoàn Kiếm cũng là một hình chữ nhật với hai cạnh dài là phố Tràng Thi – Tràng Tiền và phố Trần Hưng Đạo, hai cạnh ngang là phố Phan Bội Châu và phố Phan Chu Trinh. Khu vực này được xây dựng đồng thời với khu thành cũ song quy trình quy hoạch có chậm hơn do phải giải tỏa nhiều làng xóm. Một công trình quan trọng của thành phố là Nhà hát Lớn nằm ở đầu phố Tràng Tiền, được xây từ 1902 tới 1911, theo mẫu Opéra Garnier của Paris.\nKiến trúc Pháp thường được xem như một di sản của Hà Nội, nhưng ngày nay đã phải chịu nhiều biến đổi. Những công trình cao tầng và các ngôi nhà giả phong cách Pháp làm khu phố cũ trở nên khó nhận diện. Bên cạnh đó, nhiều thửa đất được sáp nhập để xây dựng các cao ốc khiến cảnh quan bị phá vỡ. Những hàng rào thấp dọc các con phố, những màu sắc tiêu biểu – tường vàng và cửa gỗ màu xanh – cũng bị thay đổi và che lấp bởi các biểu hiệu quảng cáo. Hiện Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội với sự giúp đỡ của vùng Île-de-France đang triển khai dự án bảo tồn và phát triển khu phố này.\nKiến trúc hiện đại.\nVào những năm 1960 và 1970, hàng loạt các khu nhà tập thể theo kiểu lắp ghép xuất hiện ở những khu phố Khương Thượng, Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Thanh Xuân Bắc... Do sử dụng các cấu kiện bê tông cốt thép sản xuất theo quy trình thủ công, với những dãy nhà 4 tầng đầu tiên ở khu Khương Thượng và sau đó là 5 tầng. Riêng khu Kim Liên xây dựng nhà hộp kiểu Trung Quốc. những công trình này hiện rơi vào tình trạng xuống cấp nghiệm trọng. Không chỉ vậy, do thiếu diện tích sinh hoạt, các cư dân những khu nhà tập thế lắp ghép còn xây dựng thêm những lồng sắt gắn ngoài trời xung quanh các căn hộ – thường được gọi là chuồng cọp – gây mất mỹ quan đô thị. Hiện những nhà tập thể này đang dần được thay thể bởi các chung cư mới.\nCuối thập niên 1990 và thập niên 2000, nhiều con đường giao thông chính của Hà Nội, như Giải Phóng, Nguyễn Văn Cừ, Láng Hạ, Ngọc Khánh, Thái Hà... được mở rộng. Các khách sạn, cao ốc văn phòng mọc lên, những khu đô thị mới như Khu đô thị mới Nam Thăng Long, Bắc Thăng Long, Du lịch Hồ Tây, Định Công, Bắc Linh Đàm... Cũng dần xuất hiện. Khoảng thời gian gần đây, khu vực Mỹ Đình được đô thị hóa nhanh chóng với hàng loạt những ngôi nhà cao tầng mọc lên. Tuy vậy, các khu đô thị mới này cũng gặp nhiều vấn đề, như công năng không hợp lý, thiếu quy hoạch đồng bộ, không đủ không gian công cộng. Trong trận mưa kỷ lục cuối năm 2008, Mỹ Đình là một trong những khu vực chịu thiệt hại nặng nề vì nước ngập.\nCùng với dự phát triển, đô thị hóa các khu vực Hà Nội mở rộng, nhiều đường phố mới đã được đặt tên: Năm 2010 là 43 và năm 2012 là 34 đường, phố mới. Khoảng thời gian 2010–2012 chứng kiến sự bùng nổ các dự án đầu tư xây dựng các khu đô thị, tòa cao ốc, chung cư bình dân và cao cấp, trung tâm thương mại với giá bán cao hơn giá thành tương đối nhiều. Tính đến giữa năm 2017, cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố Hà Nội thống kê được 994 tòa nhà cao tầng.\nCác công trình nổi bật.\nTrước khi trở thành một trung tâm chính trị – vào thế kỷ V với triều đại nhà Tiền Lý – Hà Nội đã là một trung tâm của Phật giáo với các thiền phái danh tiếng. Theo văn bia, từ giữa thế kỷ VI, chùa Trấn Quốc được xây dựng trên bãi Yên Hoa ngoài sông Hồng, tới 1615 do bãi sông bị lở, chùa mới dời về địa điểm hiện nay. Đến thế kỷ XI, với sự xuất hiện của kinh đô Thăng Long, khi Phật giáo trở thành quốc giáo, các chùa chiền, thiền viện, sư tăng mới phát triển thực sự mạnh mẽ. Trong nhiều thế kỷ, Hà Nội tiếp tục xây dựng các ngôi chùa, trong đó một số vẫn tồn tại tới ngày nay. Có thể kể tới các ngôi chùa như chùa Một Cột xây lần đầu năm 1049, chùa Láng từ thế kỷ XII, chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên xuất hiện vào thế kỷ XVII. Tuy vậy, hầu hết các ngôi chùa trong nội ô ngày nay đều được xây dựng lại vào thế kỷ XIX. Những triều đại Lý, Trần, Lê để lại rất ít dấu tích.\nVùng ngoại thành Hà Nội cũng có nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Ở xã Hương Sơn, Mỹ Đức, huyện Mỹ Đức, một quần thể văn hóa–tôn giáo gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ thần, các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp... thường được gọi chung là Chùa Hương. Từ lâu, di tích này đã trở thành một địa điểm du lịch quan trọng, đặc biệt với lễ hội Chùa Hương được tổ chức vào mỗi mùa xuân. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây, Chùa Thầy nằm trên địa phận của xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai. Ngôi chùa, thường gắn liền với tên tuổi vị thiền sư Từ Đạo Hạnh, là một di sản kiến trúc, văn hóa, lịch sử giá trị. Giống như Chùa Hương, lễ hội Chùa Thầy cũng được tổ chức vào mùa xuân, đầu tháng 3 hàng năm.\nCùng với các ngôi chùa, Hà Nội còn có không ít đền thờ Đạo Lão, Đạo Khổng hay các thần bảo hộ như Thăng Long tứ trấn, Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Đền Ngọc Sơn... Trong khu phố cổ còn nhiều ngôi đình vẫn được những người dân thường xuyên tới lui tới bày tỏ lòng thành kính. Kitô giáo theo chân những người châu Âu vào Việt Nam, giúp Hà Nội có được Nhà thờ Lớn, Nhà thờ Cửa Bắc, Nhà thờ Hàm Long... Ngoài ra có thánh đường Hồi Giáo Jamia Al Noor tại Hàng Lược, Thánh thất Cao Đài thủ đô. Các công trình tôn giáo ngày nay là một phần quan trọng của kiến trúc thành phố, nhưng không ít hiện phải nằm trong những khu dân cư đông đúc, thiếu không gian.\nThời kỳ thuộc địa đã để lại Hà Nội rất nhiều các công trình kiến trúc lớn, hiện vẫn đóng vai trò quan trọng về công năng, như Nhà hát Lớn, Phủ Chủ tịch, Bắc Bộ phủ, trụ sở Bộ Ngoại giao, Bảo tàng Lịch sử, Khách sạn Sofitel Metropole... Một số công trình bị phá bỏ để xây mới – như Tòa thị chính được thay thế bằng trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố – hoặc tu sửa nhưng không giữ được kiến trúc cũ – như ga Hàng Cỏ. Thời kỳ tiếp theo, Hà Nội cũng có thêm các công trình mới. Lăng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hội trường Ba Đình, ghi đậm dấu ấn của giai đoạn này.\nTừ những năm 2000, cùng với sự phát triển về kinh tế, rất nhiều cao ốc và khách sạn như Daewoo, Sofitel Plaza, Melia, tòa nhà Tháp Hà Nội... Mọc lên mang lại cho thành phố dáng vẻ hiện đại. Hà Nội cũng chứng kiến sự ra đời của những công trình quan trọng như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình... Để kỷ niệm lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, hiện nay rất nhiều công trình được xây dựng, có thể kể đến Keangnam Hanoi Landmark Tower, Lotte Center Hà Nội, Bảo tàng Hà Nội và Tòa nhà Quốc hội.\nKinh tế.\nTổng quan.\nNăm 2010 Hà Nội đạt được những kết quả khả quan trọng trong phát triển kinh tế. GDP tăng 11%, thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ đạt 2.000 Đô la Mỹ. Tổng thu ngân sách trên địa bàn vượt 100.000 tỷ đồng. Năm 2019, Hà Nội là đơn vị hành chính Việt Nam xếp thứ 2 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 8 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 41 về tốc độ tăng trưởng GRDP. GRDP của thành phố đạt 971.700 tỷ đồng (41,85 tỷ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 120,6 triệu đồng (5.200 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,62%. Quy mô GRDP năm 2020 theo giá hiện hành ước đạt 1.016 nghìn tỷ đồng, xếp thứ hai các tỉnh thành cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 122,7 triệu đồng (5.285 USD, xếp hạng 7), GRDP theo giá so sánh năm 2010 ước tăng 3,94%, cao gấp khoảng 1,5 lần mức tăng của cả nước (xếp hạng 26) (báo cáo của địa phương, Tổng cục Thống kê sẽ công bố số liệu đánh giá lại). Thu nhập bình quân đầu người sơ bộ năm 2019 là 6,403 triệu đồng/tháng (xếp hạng 3). \nNăm 2020, GRDP của Thành phố tăng 3,98% so với năm 2019 (quý 1 tăng 4,13%; quý II tăng 1,76%; quý III tăng 3,95%; quỷ IV tăng 3,77%), đạt mức thấp so với kế hoạch và mức tăng trưởng của năm 2019, chủ yếu do ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19. \nKhu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2020 ước tính tăng 4.2% so với năm 2019, đóng góp 0,09% vào mức tăng GRDP. Đây là khu vực ghi nhận tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung và cao hơn mức tăng của nhiều năm qua. Nguyên nhân chủ yếu do dịch tả lợn châu Phi cơ bản được kiểm soát, công tác tái đàn được quan tâm, quy mô đàn lợn hiện có 1,36 triệu con, tăng 26,2% so với cùng kỳ; chăn nuôi gia cầm và hoạt động thủy sản phát triển tốt (quy mô đàn gia cầm hiện có 39,9 triệu con, tăng 9,3%; sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng năm 2020 tăng 25,3%; sản lượng thủy sản tăng 3,5%). Bên cạnh đó, thời tiết giai đoạn lúa trỗ bông khá thuận lợi, cùng với công tác bảo vệ thực vật được chú trọng đã góp phần tăng năng suất lúa; sản lượng lúa vụ mùa 2020 toàn Thành phố ước đạt 447,2 nghìn tắn, tăng 2,4% so với vụ mùa 2019. \nKhu vực công nghiệp và xây dựng ước tính năm 2020 tăng 6,39% so với năm 2019, đóng góp 1,43% vào mức tăng GRDP. Trong đó: Ngành công nghiệp cả năm tăng 4,91%, đóng góp 0,69% vào mức tăng chung. Năm 2020, ngành công nghiệp Hà Nội đang dần chuyển dịch theo hướng phát triển các khu vực công nghiệp hiện đại có giá trị xuất khẩu lớn như: Điều khiển kỹ thuật số, tự động hóa, rô-bốt, nano, plasma, laser, công nghệ sinh học. Tuy nhiên, ngành này cũng chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19, nhất là các ngành sản xuất, xuất khẩu sản phẩm và sử dụng nhiều nguyên, vật liệu, phụ kiện nhập khẩu; Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ cũng ảnh hưởng đến ngành sản xuất đồ uống của Thành phố. Ngành xây dựng tiếp tục tăng cao 8,9% so với năm 2019, đóng góp 0,74% vào mức tăng chung, trong đó công tác giải ngân vốn đầu tư công có chuyền biến tích cực; đã khởi công một số công trình lớn và hoàn thành đưa vào sử dụng một số công trình trọng điểm, góp phần phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô. \nKhu vực dịch vụ năm 2020 tăng 3,29% so với năm trước (đóng góp 2,1% vào mức tăng GRDP), thấp hơn nhiều so với mức tăng 7,27% năm 2018 và 7,59% năm 2019 do chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại địch Covid-19, nhất là các ngành, lĩnh vực: Du lịch, khách sạn, nhà hàng, vận tải, xuất nhập khẩu, vui chơi, giải trí... Ngành bán buôn, bán lẻ là điểm sáng trong khu vực dịch vụ năm 2020 với mức tăng 8,84%, là một trong những ngành đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của Thành phố (đóng góp 0,81% vào mức tăng GRDP). Một số ngành duy trì tăng trưởng khá: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 7,21%; thông tin và truyền thông tăng 6,89%. \nNăm 2020, hoạt động y tế, giáo dục được quan tâm, chú trọng; giá trị tăng thêm ngành y tế và trợ giúp xã hội ước tăng 14,23% so với năm 2019; ngành giáo dục và đào tạo tăng 7,01%. Một số ngành dịch vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid-19 có mức tăng trưởng âm trong năm nay, trong đó: Dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 18,93% so với 2019; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ (trong đó du lịch, lữ hành chiếm 30%) giảm 16,88%; hoạt động nghệ thuật, vui chơi và giải trí giảm 6,15%; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,25%; kinh doanh bất động sản giảm 0,16%. \nQuy mô GRDP năm 2020 theo giá hiện hành ước đạt 1.016 nghìn tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đạt 122,7 triệu đồng (tương đương 5.285 USD), tăng 2,34% so với năm 2019. Cơ cấu khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 2,24% GRDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 23,67%; khu vực dịch vụ chiếm 62,79%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 11,3% (Cơ cầu tương ứng năm 2019 là: 2,02%; 22,9%; 63,73% và 1 1,35%). Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn năm 2020 ước thực hiện 280,5 nghìn tỷ đồng, đạt 100,6% dự toán HĐND Thành phố giao, tăng 3,9% so với thực hiện năm 2019, trong đó: Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước thực hiện 18,9 nghìn tỷ đồng, đạt 102,7% dự toán và bằng 99,8% so với thực hiện năm 2019; thu từ dầu thô 2,1 nghìn tỷ đồng, đạt 99,5% và bằng 63,2%; thu nội địa (không kể đầu thô) 259,5 nghìn tỷ, đạt 100,5% và tăng 4,7%.\nDu lịch.\nSo với các tỉnh, thành phố khác của Việt Nam, Hà Nội là một thành phố có tiềm năng để phát triển du lịch. Trong nội ô, cùng với các công trình kiến trúc, Hà Nội còn sở hữu một hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Thành phố cũng có nhiều lợi thế trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam với du khách nước ngoài thông qua các nhà hát sân khấu dân gian, các làng nghề truyền thống. Du lịch Hà Nội đang ngày càng trở nên hấp dẫn hơn với các du khách. Năm 2007, Hà Nội đón 1,1 triệu lượt khách du lịch ngoại quốc. Năm 2008, trong 9 triệu lượt khách của thành phố, có 1,3 triệu lượt khách nước ngoài. \nTỷ lệ du khách tới thăm các bảo tàng Hà Nội cũng không cao. Một trong các bảo tàng thu hút nhiều khách tham quan nhất là Bảo tàng dân tộc học. Hàng năm, Bảo tàng Dân tộc học, điểm đến được yêu thích trong các sách hướng dẫn du lịch, có 180.000 khách tới thăm, trong đó một nửa là người nước ngoài.\nTheo thống kê năm 2019, Hà Nội có 3.499 cơ sở lưu trú với tổng số 60.812 buồng phòng. Trong số này 561 cơ sở lưu trú du lịch đã xếp hạng với 22.749 buồng phòng bao gồm 67 khách sạn được xếp hạng từ 3–5 sao và 7 khu căn hộ du lịch cao cấp từ 4–5 sao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3–5 sao ở Hà Nội hiện dao động từ 80% đến 90%. Ngoài 11 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza, và InterContinental, Crown Plaza, Marriot, thành phố còn 6 khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao.\nDu lịch ở Hà Nội cũng còn không ít những tệ nạn, tiêu cực. Trang Lonely Planet cảnh báo tình trạng du khách nước ngoài bị taxi và xe buýt lừa đến một số khách sạn giả danh và bị đòi giá cao; ở quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm du khách đồng tính nam có thể bị mời mọc vào những quán karaoke, nơi hóa đơn thanh toán cho một vài đồ uống có thể tới 100 USD hoặc hơn.\nXã hội.\nDân cư.\nTừ rất lâu, Thăng Long đã trở thành điểm đến của những người dân tứ xứ. Vào thế kỷ XV, dân các trấn về Thăng Long quá đông khiến vua Lê Thánh Tông có ý định buộc tất cả phải về nguyên quán. Nhưng khi nhận thấy họ chính là lực lượng lao động và nguồn thuế quan trọng, triều đình đã cho phép họ ở lại. Tìm đến kinh đô Thăng Long còn có cả những cư dân ngoại quốc, phần lớn là người Hoa. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rất nhiều những người Hoa đã ở lại sinh sống thành phố này. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, vẫn có những người Hoa tới xin phép cư ngụ lại Thăng Long. Theo \"Dư địa chí\" của Nguyễn Trãi, trong số 36 phường họp thành kinh đô Thăng Long có một phường người Hoa là phường Đường Nhân, nay có thể là khu vực phố Hàng Ngang. Những thay đổi về dân cư vẫn diễn ra liên tục và kéo dài cho tới ngày nay. Cùng với đó, quá trình đổi thay liên tục của địa giới hành chính (đặc biệt là sau khi sát nhập Gia Lâm trong thời gian 1954 – 1961, phần lớn tỉnh Phúc Yên khoảng năm 1980 và toàn bộ tỉnh Hà Tây năm 2008), đã phần nào thay đổi định nghĩa \"người Hà Nội\" trong từng thời kỳ lịch sử.\nTrong thời kỳ Pháp thuộc, với vai trò là thủ phủ của Liên bang Đông Dương, Hà Nội đã thu hút một lượng đáng kể người Pháp, người Hoa và người Việt từ những vùng lân cận. Vào thập niên 1940, dân số thành phố được thống kê là 132.145 người, nhưng đến năm 1954 thì giảm xuống chỉ còn 53.000 dân trên một diện tích 152 km², điều này là do phần lớn người dân đã di tản lên những vùng Việt Minh kiểm soát sau khi thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Hà Nội năm 1946. Sau khi chính quyền Việt Minh tiếp quản Hà Nội, hầu hết người Pháp và người Hoa đã rời bỏ thành phố để vào miền Nam hoặc trở về quê hương. Ở những làng ngoại thành, ven đô cũ, nơi người dân sống chủ yếu nhờ nông nghiệp, thường không có sự thay đổi lớn. Nhiều gia đình nơi đây vẫn giữ được gia phả từ những thế kỷ XV, XVI. Trong nội thành, chỉ còn lại vài dòng họ đã định cư liên tục tại Thăng Long từ thế kỉ XV như dòng họ Nguyễn ở phường Đông Tác. Do tính chất của công việc, nhiều thương nhân và thợ thủ công ít khi trụ nhiều đời tại một điểm. Gặp khó khăn trong kinh doanh, những thời điểm sa sút, họ tìm tới vùng đất khác. Cũng có những trường hợp, một gia đình có người đỗ đạt được bổ nhiệm làm quan tỉnh khác và đem theo gia quyến, đôi khi cả họ hàng.\nCác thống kê trong lịch sử cho thấy dân số Hà Nội tăng nhanh trong nửa cuối thế kỷ XX. Vào thời điểm năm 1954, thành phố có 53.000 dân, trên một diện tích 152 km². Đến năm 1961, thành phố mở rộng diện tích lên 584 km² với dân số 91.000 người. Năm 1978, Quốc hội quyết định mở rộng thủ đô lần thứ hai với diện tích đất tự nhiên 2.136 km², dân số 2,5 triệu người. Tới năm 1991, địa giới Hà Nội tiếp tục thay đổi, chỉ còn 924 km², nhưng dân số vẫn ở mức hơn 2 triệu người. Trong suốt thập niên 1990, với việc các khu vực ngoại ô dần được đô thị hóa, dân số Hà Nội tăng đều đặn, đạt con số 2.675.166 người vào năm 1999. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố Hà Nội có hơn 6,23 triệu dân và nằm trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Theo kết quả cuộc điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009, dân số toàn Hà Nội là 6.451.909 người. Dân số trung bình của thành phố năm 2010 là 6.561.900 người. Tính đến hết năm 2015, dân số Hà Nội là 7.558.956 người. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số Hà Nội là 8.053.663 người, trong đó 49,2% dân số (tức 3,96 triệu người) sống ở thành thị, và 50,8% dân số sống ở nông thôn (tức 4,09 triệu người).\nVề cơ cấu dân số, cư dân Hà Nội chủ yếu là người Kinh, chiếm tỷ lệ khoảng 99%, theo sau là người Mường, người Tày và các dân tộc thiểu số khác. Đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống xen kẽ với người Kinh ở tất cả 30 đơn vị hành chính cấp huyện của thành phố, trong đó cư trú tập trung ở 14 xã của 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ và Mỹ Đức. Tính đến năm 2019, toàn thành phố có 278.450 người theo 9 tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Công giáo có 192.958 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 80.679 người, đạo Tin lành có 4.226 người, còn lại các tôn giáo khác như đạo Cao Đài, Hồi giáo, Baha'i giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Minh Lý đạo, Minh Sư đạo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam.\nHà Nội là đơn vị hành chính cấp tỉnh đông dân thứ hai Việt Nam với 8,05 triệu dân cư (2019), trong đó 49,2% dân cư là người thành thị. Cũng theo số liệu năm 2019, mật độ dân số của Hà Nội là 2.398 người/km², cao thứ hai trong tất cả các tỉnh, nhưng phân bố dân số không đồng đều; khoảng cách về dân số giữa quận và huyện, giữa thành thị và nông thôn còn lớn với xu hướng tiếp tục gia tăng. Mật độ dân số cao nhất là ở quận Đống Đa lên tới hơn 42.000 người/km² (2018), trong khi đó, ở những huyện ngoại thành như Ba Vì, Mỹ Đức mật độ dưới 1.000 người/km².\nNhà ở.\nMặc dù là thủ đô của một quốc gia thu nhập bình quân đầu người trung bình thấp, nhưng Hà Nội lại là một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế giới và giá bất động sản không thua kém các quốc gia giàu có. Điều này đã khiến người dân Hà Nội, đặc biệt tầng lớp có thu nhập thấp, phải sống trong điều kiện chật chội, thiếu tiện nghi. Theo số liệu năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một người. Ở những khu phố trung tâm, tình trạng còn bi đát hơn rất nhiều. Nhà nước cũng không đủ khả năng để hỗ trợ cho người dân. Chỉ khoảng 30% cán bộ, công nhân, viên chức được phân phối nhà ở. Do truyền thống văn hóa và những khó khăn về chỗ ở, hiện tượng ba, bốn thế hệ cùng sống chung trong một ngôi nhà rất phổ biến ở Hà Nội.\nHầu hết các hộ dân cư của thành phố đều có nhà ở và chủ yếu sống trong các loại nhà kiên cố và bán kiên cố. Mỗi năm, thành phố xây dựng mới hàng triệu mét vuông nhà, nhưng giá vẫn ở mức quá cao so với phần lớn người dân. Gần như 100% các gia đình trẻ ở Hà Nội chưa có nhà ở, phải sống ghép chung hoặc thuê nhà ở tạm. Với giá từ 500 triệu tới 1,5 tỷ đồng một căn hộ chung cư, một người dân có thu nhập trung bình chỉ có thể mua được sau nhiều năm tích lũy tài chính. Bên cạnh những khu chung cư mới mọc thêm ngày càng nhiều, vẫn còn những bộ phận dân cư phải sống trong những điều kiện hết sức lạc hậu. Tại các khu vực ven sông Hồng và các bãi bồi thuộc trung tâm thành phố, hàng trăm gia đình sống trong những ngôi nhà lợp mái tre, không có điện, không có trường học và không được chăm sóc về y tế.\nY tế.\nNăm 2010, thành phố Hà Nội có 650 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế thành phố, trong đó có 40 bệnh viện, 29 phòng khám khu vực và 575 trạm y tế. Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế Hà Nội là 11.536 giường, chiếm khoảng một phần hai mươi số giường bệnh toàn quốc; tính trung bình ở Hà Nội 569 người/giường bệnh so với 310 người/giường bệnh ở Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều bệnh viện 1 giường bệnh có đến 2-3 bệnh nhân nằm điều trị là thường xuyên gặp. Cũng theo thống kê năm 2010, thành phố Hà Nội có 2.974 bác sĩ, 2.584 y sĩ và 3.970 y tá.\nDo sự phát triển không đồng đều, những bệnh viện lớn của Hà Nội, cũng là của cả miền Bắc, chỉ tập trung trong khu vực nội ô thành phố. Các bệnh viện Việt Đức, Bạch Mai, Bệnh viện Nhi Trung ương và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đều trong tình trạng quá tải. Cùng với hệ thống y tế của nhà nước, Hà Nội cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển. Năm 2007, toàn thành phố có 8 bệnh viện tư nhân với khoảng 300 giường bệnh. Theo đề án đang được triển khai, đến năm 2010, Hà Nội sẽ có thêm 8 đến 10 bệnh viện tư nhân. Khi đó, tổng số giường bệnh tư nhân sẽ lên tới khoảng 2.500 giường.\nĐiều kiện chăm sóc y tế giữa nội ô và các huyện ngoại thành Hà Nội có sự chênh lệch lớn. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính năm 2008, mức chênh lệch này càng tăng, thể hiện qua các chỉ số y tế cơ bản. Nếu như tại địa phận Hà Nội cũ, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 9,7%, thì ở Hà Tây, con số lên tới 17%. Tương tự, tuổi thọ trung bình tại khu vực Hà Nội cũ khá cao, 79 tuổi, nhưng sau khi mở rộng, con số này bị giảm xuống còn 75,6 tuổi. Tại không ít khu vực thuộc các huyện ngoại thành, cư dân vẫn phải sống trong điều kiện vệ sinh yếu kém, thiếu nước sạch để sinh hoạt, phải sử dụng nước ao, nước giếng.\nGiáo dục.\nTừ nhiều thế kỷ, vị thế kinh đô đã giúp Thăng Long – Hà Nội trở thành trung tâm giáo dục của Việt Nam. Từ giữa thế kỷ XV cho tới cuối thế kỷ XIX, Hà Nội luôn là một trong những địa điểm chính để tổ chức các cuộc thi thuộc hệ thống khoa bảng, nhằm chọn những nhân vật tài năng bổ sung vào bộ máy quan lại. Tuy vậy, về số lượng trạng nguyên, Hà Nội lại thấp hơn những vùng đất truyền thống khác như Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định. Tới thời Pháp thuộc, với vị trí là thủ đô của Liên bang Đông Dương. Một thời kì trường thi Hà Nội bị nhập vào với trường Nam Định gọi là trường Hà Nam thi tại Nam Định (1884 đến 1915). Hà Nội là một trung tâm giáo dục của khu vực, nơi người Pháp đặt các trường dạy nghề và giáo dục bậc đại học, trong đó có Viện Đại học Đông Dương, Trường Y khoa Đông Dương, Trường Bách nghệ Hà Nội là các trường mà sau này trở thành nền móng của giáo dục đại học ở Việt Nam.\nNăm 2009, Hà Nội có 677 trường tiểu học, 581 trường trung học cơ sở và 186 trường trung học phổ thông (THPT) với 27.552 lớp học, 982.579 học sinh. Hệ thống trường trung học phổ thông, Hà Nội có 40 trường công lập, một vài trong số đó có chất lượng giảng dạy và truyền thống lâu đời, như trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam, trường THPT chuyên Nguyễn Huệ, trường THPT Chu Văn An, trường THPT Trần Phú. Bên cạnh các trường công lập, thành phố còn có 65 trường dân lập và 5 trường bán công. Hà Nội cũng là địa điểm của ba trường trung học đặc biệt, trực thuộc các trường đại học, là trường THPT chuyên ngoại ngữ thuộc trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, trường THPT chuyên Khoa học Tự nhiên thuộc trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và trường THPT chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội thuộc trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Cùng với các trung học danh tiếng, hệ thống giáo dục của thành phố vẫn duy trì những trường bổ túc và cả các lớp học xóa mù chữ. Sau khi Hà Tây được sáp nhập vào thành phố, Hà Nội hiện đứng đầu Việt Nam về số lượng người không biết chữ. Năm 2008, toàn thành phố có gần 235.000 người mù chữ trên tổng số 1,7 triệu người của cả quốc gia, tuy nhiên đến năm 2017, thành phố xác nhận đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ mức độ 2.\nLà một trong hai trung tâm giáo dục đại học lớn nhất quốc gia, trên địa bàn Hà Nội có trên 50 trường đại học cùng nhiều cao đẳng, đạo tạo hầu hết các ngành nghề quan trọng. Năm 2007, tại thành phố có 606.207 sinh viên, Hà Tây cũng tập trung 29.435 sinh viên. Nhiều trường đại học ở đây như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện An ninh nhân dân, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Ngoại thương, Đại học Sư phạm Hà Nội, Học viện Nông nghiệp Việt Nam là những trường đào tạo đa ngành và chuyên ngành hàng đầu của Việt Nam. Dù vậy, giáo dục đại học phải đối mặt với nhiều bất cập. Khuôn viên có tính truyền thống, phong cách sư phạm và có hồn văn hóa của những trường lập ra từ xưa nay bị xẻ thịt thành nhà ở, nhà hàng, nhà băng... Đại học Bách khoa bị cắt bởi đường phố, và còn lập ra cả phường như phường Bách Khoa quận Hai Bà Trưng. Khuôn viên cổ kính của Viện Đại học Đông Dương thì chen vào nhà hàng 23 Lê Thánh Tông phục vụ dân nhậu. Các ký túc xá cũ lẫn mới thường được tạo điều kiện để sinh viên \"không\" ở được, như cho hộ gia đình thuê trọ, mở nhà hàng.. để sinh viên tự tìm chỗ ở yên tĩnh mà học tập, từ đó chuyển đổi sử dụng ký túc. Phái thực dụng còn lên tiếng đòi các trường phải di dời đi đâu đó quang đãng mà học, nhường lại \"đất vàng\" cho các hoạt động hái ra tiền trước mắt. \nVăn hóa.\nThể thao.\nVới vai trò thủ đô, Hà Nội là nơi tập trung nhiều câu lạc bộ thể thao lớn cùng các công trình thể thao quan trọng của Việt Nam. Hiện nay thành phố có một câu lạc bộ bóng đá nam: Hà Nội FC thi đấu tại V.League 1 và hai câu lạc bộ bóng đá nữ: Câu lạc bộ bóng đá nữ Hà Nội I và Câu lạc bộ bóng đá nữ Hà Nội II. Ngoài ra, trong quá khứ, Hà Nội từng có nhiều đội bóng mạnh như Thể Công, Công an Hà Nội, Tổng cục Đường sắt, Tổng cục Bưu điện (thành lập năm 1957), Phòng không Không quân, Thanh niên Hà Nội, Quân khu Thủ đô, Công nhân Xây dựng Hà Nội. Những vận động viên của Hà Nội luôn đóng vai trò quan trọng trong đoàn thể thao Việt Nam tham dự các kỳ thi đấu quốc tế. Từ năm 2001 đến 2003, các vận động viên của thành phố đã đạt được tổng cộng 3.414 huy chương, gồm: 54 huy chương thế giới, 95 huy chương châu Á, 647 huy chương Đông Nam Á và quốc tế, cùng 2.591 huy chương tại các giải đấu quốc gia. Hà Nội dẫn đầu Việt Nam về tỷ lệ người thường xuyên tập luyện thể thao với 28,5%. Nhưng dân số quá đông, không gian đô thị ngày càng chật chội khiến những địa điểm thể thao trở nên khan hiếm và không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân. Hầu hết các trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội đều trong tình trạng thiếu sân chơi. Một vài trường có diện tích rộng, nhưng lại sử dụng một phần để xây dựng sân quần vợt với hiệu suất sử dụng không cao. Các sinh viên của thành phố thường phải chơi bóng trong những khoảng sân có diện tích nhỏ hẹp.\nSau nhiều năm sử dụng Sân vận động Hàng Đẫy, được xây dựng năm 1958, nằm trong trung tâm thành phố làm nơi thi đấu chính, từ năm 2003, Hà Nội có thêm Sân vận động Mỹ Đình nằm tại phía Nam thành phố, sức chứa 40.192 chỗ ngồi.\nSân vận động Quốc gia Mỹ Đình, nằm trong Liên hợp thể thao quốc gia, từng là địa điểm chính của Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003, nơi tổ chức lễ khai mạc, lễ bế mạc, các trận thi đấu bóng đá nam & các cuộc tranh tài trong môn điền kinh. Tại Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2008, trước bốn vạn khán giả, Mỹ Đình là nơi chứng kiến Đội tuyển quốc gia Việt Nam bước lên ngôi cao nhất của bóng đá Đông Nam Á. Một số trung tâm thể thao lớn khác của thành phố có thể kể tới như Nhà thi đấu Quần Ngựa, Trung tâm Huấn luyện thể thao Quốc gia I... Cùng hơn 20 điểm sân bãi, nhà tập khác.\nNgày 8 tháng 11 năm 2012, Hà Nội được Hội đồng Thể thao châu Á trao quyền đăng cai ASIAD 18, nhưng đến ngày 17 tháng 4 năm 2014, Việt Nam đã xin rút quyền đăng cai giải do vấn đề về kinh phí tổ chức.\nĐịa điểm văn hóa, giải trí.\nTheo con số giữa năm 2008, toàn thành phố Hà Nội có 17 rạp hát, trong đó 12 rạp thuộc hai quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng. Nhà hát Lớn của thành phố, nằm tại số 1 phố Tràng Tiền, quận Hoàn kiếm do người Pháp xây dựng và hoàn thành vào năm 1911. Ngày nay, đây là nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cổ điển như opera, nhạc thính phòng, kịch nói, cũng là trung tâm của các hội nghị, gặp gỡ. Nằm tại số 91 phố Trần Hưng Đạo, Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội cũng là một địa điểm biểu diễn quan trọng, nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thời trang, các cuộc thi hoa hậu... Cùng các hoạt động khoa học, hội thảo, hội nghị, triển lãm.Dành cho sân khấu kịch, thành phố có Nhà hát Tuổi trẻ tại số quận Hai Bà Trưng với 650 chỗ ngồi, Nhà hát Chuông Vàng tại quận Hoàn kiếm với 250 ghế ngồi, Nhà hát Kịch Việt Nam nằm trên con đường nhỏ sau lưng Nhà hát Lớn với 170 ghế. Các môn nghệ thuật truyền thống của Việt Nam cũng có sân khấu riêng. Nhà hát Hồng Hà tại Đường Thành dành cho sân khấu tuồng. Nhà hát Cải lương Trung ương nằm tại quận Hai Bà Trưng. Môn nghệ thuật chèo cũng có riêng Nhà hát Chèo Việt Nam ở khu Văn công Mai Dịch, huyện Từ Liêm, và từ năm 2007 thêm một điểm biểu diễn ở Kim Mã, Giang Văn Minh. Rạp múa rối nước Thăng Long ở phố Đinh Tiên Hoàng, bờ hồ Hoàn Kiếm, thường được nhiều khách du lịch tìm đến.[125]\nHà Nội là thành phố có hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Một phần lớn trong số đó là các bảo tàng lịch sử, như Bảo tàng Lịch sử Quân sự, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Chiến thắng B52, Bảo tàng Cách mạng... Các lĩnh vực khác có thể kể tới Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. \nTổng cộng, Hà Nội có hơn 10 bảo tàng, so với hệ thống gần 120 bảo tàng của Việt Nam. Năm 2009, tại Hà Nội có 32 thư viện do địa phương quản lý với lượng sách 565 nghìn bản. Như vậy, số thư viện địa phương của Hà Nội hiện nay lớn hơn Thành phố Hồ Chí Minh – 26 thư viện với 2.420 ngàn cuốn – nhưng lượng sách chỉ bằng khoảng một phần tư. Ngoài hệ thống thư viện địa phương, tại Hà Nội còn phải kể tới các thư viện trong trường đại học. Thư viện Quốc gia tọa lạc tại 31 phố Tràng Thi, với 800.752 đầu sách, 8.677 tựa báo, tạp chí, có thể xem như thư viện quan trọng nhất của Việt Nam.\nTrong hơn 10 rạp chiếu phim của Hà Nội, chỉ một vài rạp được trang bị hiện đại và thu hút khán giả, như hệ thống rạp CGV, Lotte Cinema, Platinum Cineplex, Galaxy Cinema, BHD Star Cineplex hay Trung tâm Chiếu phim Quốc gia. Những rạp khác như Đặng Dung, Tháng 8 thì vắng người xem hơn. \"Fansland\", rạp chiếu phim một thời với các tác phẩm điện ảnh kinh điển, đã phải đóng cửa vào giữa năm 2008 bởi không có khán giả. Các quán bar, vũ trường cũng là điểm đến của một bộ phận thanh niên Hà Nội, trong đó nổi bật là vũ trường 1900 Le Theatre nằm trong top 100 vũ trường nổi tiếng nhất thế giới năm 2019 của tạp chí DJ Mag. Nhiều vũ trường từng nổi tiếng nhưng chỉ tồn tại một thời gian rồi đóng cửa vì nhiều lý do. Vũ trường New Century trên phố Tràng Thi mở cửa từ năm 1999, từng là tụ điểm ăn chơi bậc nhất của Hà Nội, đã phải đóng cửa vào năm 2007 bởi dính líu tới mại dâm và ma túy. Trước đó, vũ trường Đêm Màu Hồng ở phố Hàng Chiếu cũng kết thúc trong một vụ cháy lớn vào năm 1999.\nNằm ở quận Tây Hồ, Công viên nước Hồ Tây là một địa điểm giải trí hấp dẫn của Hà Nội. Công viên có diện tích 35.560 m², chia thành 5 khu vui chơi được trang bị hiện đại với các đường trượt cao tốc, bể tạo sóng, bể massage. Trong nội ô thành phố cũng có một vài công viên lớn như Công viên Thống Nhất, Công viên Thủ Lệ, Công viên Tuổi Trẻ, Công viên Yên Sở. Hàng loạt các trung tâm thương mại lớn được xây dựng như: Vinhomes Royal City, Vinhomes Times City, AEON Mall Long Biên, Aeon Mall Hà Đông, Big C Thăng Long, Metro Hoàng Mai, Metro Từ Liêm, Melinh Plaza... Là nơi tập trung mua sắm của đông đảo người dân. Khu vực phố đi bộ Hồ Gươm được đưa vào hoạt động ngày 1 tháng 9 năm 2016 gồm 16 tuyến phố.\nLàng nghề truyền thống.\nThành phố Hà Nội trước kia đã có những làng nghề phong phú, thể hiện qua câu thành ngữ quen thuộc \"Hà Nội 36 phố phường\". Theo thời gian, bộ mặt đô thị của khu phố cổ đã có nhiều thay đổi, nhưng những con phố nơi đây vẫn giữ nguyên những cái tên thuở trước và không ít trong số đó vẫn là nơi buôn bán, kinh doanh những mặt hàng truyền thống cũ. Sau khi Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội, Hà Nội còn có thêm nhiều làng nghề danh tiếng khác. Theo số liệu cuối năm 2008, toàn Hà Nội có 1.264 làng nghề, là nơi tập trung làng nghề đông đúc bậc nhất Việt Nam.\nNằm trong trung tâm khu phố cổ, Hàng Bạc trước đây là nơi tập trung những người sinh sống bằng các nghề đúc bạc nén, kim hoàn và đổi tiền. Những thợ kim hoàn của Hàng Bạc có kỹ thuật tinh xảo, xuất thân từ ba làng nghề làm đồ vàng bạc của miền Bắc Việt Nam: làng Châu Khê ở tỉnh Hải Dương, làng Định Công ở quận Hoàng Mai và làng Đồng Xâm thuộc tỉnh Thái Bình. Thế kỷ XV, Lưu Xuân Tín, vị quan thượng thư bộ Lại vốn người làng Châu Khê, được triều đình nhà Lê giao cho việc lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thǎng Long. Nhờ vậy, những người thợ Châu Khê tới Hà Nội và không chỉ làm bạc nén, họ làm cả nghề trang trí vàng bạc. Khi nhà Nguyễn lấy Huế làm kinh đô, xưởng đúc bạc nén cũng chuyển tới kinh thành mới, nhưng những người thợ Châu Khê vẫn ở lại Thăng Long và lập nên con phố Hàng Bạc ngày nay. Vào thời kỳ thuộc địa, con phố Hàng Bạc còn được mang tên \"Rue changeurs\", có nghĩa \"phố Đổi Bạc\". Dân cư ở đây không chỉ sản xuất đồ kim hoàn mà còn buôn bán, đổi bạc nén lấy bạc vụn. Ngày nay, nghề buôn bán vàng bạc xuất hiện ở nhiều con phố khác, nhưng Hàng Bạc vẫn là nơi đông đúc bậc nhất.\nLàng gốm Bát Tràng nằm ở huyện Gia Lâm, phía Nam thành phố từ lâu đã có các sản phẩm gốm mang tên chính ngôi làng này. Làng xuất hiện vào thế kỷ XIV khi những người dân làm gốm từ làng Bồ Bát, Ninh Bình và làng Ninh Tràng, Thanh Hóa tụ họp về đây lập nên ngôi làng mới mang tên Bát Tràng. Những người dân Bát Tràng trước kia ít sống với nghề gốm và nông nghiệp, chủ yếu buôn bán cau khô, nước mắm. Nghề gốm ở đây chỉ thực sự phát triển sau năm 1954, khi miền Bắc Việt Nam bước vào thời kỳ hòa bình. Nhiều mẫu mã, các loại men truyền thống được những nghệ nhân của làng phục hồi, sản phẩm gốm Bát Tràng nhanh chóng đạt được danh tiếng. Bát Tràng hiện nay không chỉ là một làng nghề sản xuất thuần túy. Với nhiều công trình tín ngưỡng, văn hóa cùng sản phẩm gốm, ngôi làng trở thành một địa điểm du lịch thu hút của thành phố Hà Nội.\nMột làng nghề khác của Hà Nội ngày nay là làng lụa Vạn Phúc, vốn thuộc thành phố Hà Đông tỉnh Hà Tây trước đây, nay là quận Hà Đông. Sản phẩm lụa của làng từ rất lâu đã có tiếng với tên gọi \"lụa Hà Đông\", từng được ca ngợi trong âm nhạc, thi ca và điện ảnh. Tương truyền, bà tổ làng lụa Vạn Phúc vốn người Hàng Châu, Trung Quốc, theo chồng chinh chiến rồi tới ở lại và truyền nghề dệt cho làng. Theo một truyền thuyết khác, cách đây hơn 1200 năm, một cô gái người Cao Bằng tên là A Lã Thị Nương đã đến làm dâu và mang nghề dệt lụa tới làng. Trải qua thời gian, nghề lụa trở thành nghề truyền thống của Vạn Phúc. Ngày nay, phần lớn các gia đình ở đây vẫn sống bằng nghệ dệt. Bên cạnh các khung dệt cổ, nhiều gia đình sử dụng những khung dệt cơ khí hiện đại. Các con phố Hàng Gai, Hàng Đào của Hà Nội là nơi tập trung nhiều cửa hàng bán sản phẩm lụa Vạn Phúc.\nLễ hội truyền thống.\nThăng Long – Hà Nội là một trong ba vùng tập trung nhiều hội lễ của miền Bắc Việt Nam, cùng với vùng đất tổ Phú Thọ và xứ Kinh Bắc. Cũng như các vùng đất khác, những lễ hội truyền thống ở khu vực Hà Nội được tổ chức nhiều nhất vào mùa xuân. Phần nhiều các lễ hội tưởng nhớ những nhân vật lịch sử, truyền thuyết như Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Quang Trung, An Dương Vương... Một vài lễ hội có tổ chức những trò chơi dân gian độc đáo như hội thổi cơm thi làng Thị Cấm, hội bơi cạn và bắt chạch làng Hồ, hội chạy cờ làng Đơ Thao, lễ hội thả diều truyền thống Bá Giang.\nLễ hội Bình Đà, di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đầu tiên của thành phố Hà Nội, được tổ chức hàng năm tại làng Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai. Đây là lễ hội cổ truyền từ xa xưa, một trong những lễ hội lớn nhất trong vùng và cả nước. Lễ hội kéo dài từ ngày 24 tháng 2 đến ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch hằng năm nhằm kết hợp lễ tưởng nhớ Quốc tổ Lạc Long Quân, và Thành Hoàng Làng Linh Lang Đại Vương đã có nhiều công đức trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Với lòng thành kính, từ hàng nghìn năm nay, người dân Bình Đà đã duy trì lễ hội truyền thống với những hình thức thực hành tín ngưỡng độc đáo. Nghi thức thả bánh thánh đặc biệt và thần bí, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử – văn hóa đặc sắc, thu hút đông đảo các thế hệ dân cư trong vùng và địa phương khác về dự hội. Đây là lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa của người Việt Nam nhằm ôn lại ký ức của buổi đầu khai sinh lập địa.\nTừ ngày 9 đến 12 tháng Giêng âm lịch, lễ hội Triều Khúc được tổ chức tại ngôi làng cùng tên, thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, nơi có nghề làm nón quai thao và may các đồ thờ như lọng, tàn, trướng, y môn, tán tía. Lễ hội được mở đầu bằng lễ rước long bào từ đình Sắc về đình Lớn. Khi cuộc tế lễ trong đình bắt đầu thì ngoài sân đình các trò vui cũng được tổ chức. Một trong những trò vui được nhiều người ưa thích nhất là trò \"con đĩ đánh bồng\". Đĩ đánh bồng do hai nam thanh niên mặc trang phục nữ giới biểu diễn, nhún nhảy và đánh chiếc trống Bồng đeo trước bụng. Nhiều trò vui khác như múa lân hí cầu, đấu vật, hát Chèo Tàu sẽ được tổ chức cho tới ngày 12, hội kết thúc bằng lễ rã đám.\nMột trong những hội lễ lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ là lễ hội Thánh Gióng hay còn gọi là hội làng Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, xuất phát từ một câu chuyện truyền thuyết về Thánh Gióng, một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Vào 9 tháng 4 âm lịch hàng năm, những người dân ở khắp nơi tụ hội về đây tham dự, xem lễ hội làng. Lễ hội làng Gióng được cử hành trên một diễn trường rộng lớn dài khoảng 3 km gồm đền Thượng, đền Mẫu và chùa Kiến Sơ. Bắt đầu từ ngày 6, người dân làng tổ chức rước lễ rước cờ tới đền Mẫu, rước cơm chay lên đền Thượng và ngày chính hội tổ chức hội trận, tái hiện cảnh Thánh Gióng phá giặc Ân. Các ngày từ 10 đến 12 được tiếp nối bằng các lễ rửa khí giới, rước cờ báo tin thắng trận với trời đất và cuối cùng là lễ khao quân, đến đêm có hát chèo. Ngoài lễ hội chính tại làng Phù Đổng, một vài nơi khác cũng tổ chức hội Gióng như hội đền Sóc ở huyện Sóc Sơn, hội Gióng Xuân Tảo ở phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, hội Phù Thánh Gióng ở làng Chi Nam, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm.\nTrong nội ô thành phố, vào ngày 5 Tết Nguyên Đán, lễ hội Đống Đa được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc quận Đống Đa. Địa điểm này từng là nơi diễn ra trận đánh giữa nhà Tây Sơn và quân Thanh vào đêm 4 rạng ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu, tức 1789. Lễ hội Đống Đa được tổ chức với nhiều trò vui, trong đó tiết mục rước rồng lửa do thanh niên mặc quần áo võ sinh thời cổ rước đi quanh sân lớn, cùng một đám võ sinh múa côn quyền tái hiện hình ảnh của quá khứ.\nỞ xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, lễ hội chùa Hương tấp nập du khách từ giữa tháng 1 tới tận tháng 3 âm lịch, nhưng đông nhất vào khoảng từ ngày rằm tháng giêng đến 18 tháng 2. Với cảnh núi non, sông nước cùng quần thể di tích chùa Hương, lễ hội là điểm đến của các tăng ni, phật tử, những người hành hương và khách du lịch. Theo hành trình phổ biến, khách trẩy hội thường bắt đầu từ bến Đục, ngồi đò theo dòng suối Yến ghé lễ đền Trình. Từ đó, du khách tiếp tục đi qua cầu Hội, hang Sơn thủy hữu tình, núi Đồi Chèo, núi Con Voi, núi Mâm Xôi, núi Con Gà... Rồi cập bến vào chùa Thiên Trù. Từ đây, du khách bắt đầu hành trình đi bộ thăm chùa Tiên, chùa Giải Oan, đền Cửa Võng và đến đệ nhất động Hương Tích. Đây là một trong những lễ hội lớn và kéo dài nhất Việt Nam.\nẨm thực.\nLà trung tâm văn hóa của cả miền Bắc từ nhiều thế kỷ, tại Hà Nội có thể tìm thấy và thưởng thức những món ăn của nhiều vùng đất khác, nhưng ẩm thực Hà Nội cũng có những nét riêng biệt. Cốm làng Vòng được những người dân của ngôi làng cùng tên thuộc quận Cầu Giấy làm đặc trưng bởi mùi thơm và màu sắc. Cốm làm từ giống nếp vàng gặt khi còn non, gói trong những tàu lá sen màu ngọc thạch và được những người bán hàng rao bán ngay từ sáng sớm. Tuy phổ biến nhất là cốm tươi, nhưng món ăn này còn được chế biến thành món chả cốm. Đây cũng là một món quà được dùng trong các dịp vui.\nThanh Trì, làng vùng ngoại ô khác thuộc phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai, với món bánh cuốn Thanh Trì. Bánh được làm từ gạo gié cánh, tám thơm, tráng mỏng như tờ giấy. Những phụ nữ vùng Thanh Trì cho bánh vào thúng, đội trên đầu và đi rao khắp các ngõ phố của Hà Nội. Bánh xếp trong thúng, từng lớp gối nhau trên những tàu lá chuối. Khi ăn, bánh được bóc từng lớp rồi cuộn lại, bày trên những chiếc đĩa. Món bánh cuốn Thanh Trì được ăn cùng với loại nước mắm pha theo công thức đặc biệt của người Thanh Trì xưa kia được thêm tinh dầu từ con Cà cuống với mùi thơm đặc trưng, đậu phụ rán nóng, chả quế. Ngày nay, bánh còn được ăn với thịt ba chỉ quay giòn. \nMột món ăn khác có tiếng của Hà Nội là chả cá Lã Vọng. Vào thời Pháp thuộc, gia đình họ Đoàn phố Hàng Sơn, ngày nay là 14 phố Chả Cá, đã tạo nên một món ăn mà danh tiếng của nó làm thay đổi cả tên con phố. Chả được làm từ thịt cá lăng – hoặc cá quả, cá nheo nhưng sẽ kém ngon hơn – thái mỏng ướp với nước riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm rồi kẹp vào cặp tre nướng trên lò than ngay trên bàn ăn của thực khách. Chả cá Lã Vọng phải ăn nóng, kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ, chấm với mắm tôm.\nPhở là món ăn rất phổ biến ở Việt Nam, nhưng phở Hà Nội có những cách chế biến đặc trưng riêng. Phở Hà Nội mang vị ngọt của xương bò, thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà không dai, màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Sau khi được trần qua nước nóng, bánh phở được dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt mỏng cùng hành hoa, rau thơm. Cùng với thời gian, nhiều món phở mới xuất hiện với những cách chế biến khác nhau, như phở xào, phở rán, phở cuốn.\nLàng Lệ Mật nổi tiếng với những món ăn chế biến từ rắn. Rượu ngâm xương rắn được phục vụ miễn phí.\nỞ Hà Nội còn có nhiều món ăn đặc trưng khác như phở cuốn, bún thang, bún chả, bún nem, bún bung, bún mọc, đậu phụ Mơ, bánh tôm Hồ Tây, bún ốc, xôi Phú Thượng, bánh tẻ Phú Nhi, tào phớ An Phú, nem chua Đông Ngạc, nem Phùng, giò chả Ước Lễ.\nVăn hóa ứng xử.\nHà Nội thường được xem như nơi tập trung những tinh hoa văn hóa của miền Bắc và cả Việt Nam. Trong hàng ngàn năm, vị trí kinh đô khiến thành phố này trở thành nơi quy tụ của những nhân vật ưu tú, những thương nhân, những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề. Họ tới đây lập nghiệp, mang theo những phong tục, tập quán địa phương và \"tỉnh\" Hà Nội trở thành mảnh đất tiêu biểu cho nền văn hóa của cả Việt Nam. Những danh nhân, nhân vật của Việt Nam phần đông xuất thân từ những vùng đất khác, nhưng kinh đô Thăng Long thường là nơi họ xây dựng nên sự nghiệp. Môi trường cạnh tranh của đất kinh thành khiến những thương nhân, thợ thủ công trụ vững lại Hà Nội phải là những người xuất sắc, tài năng. Khi những người dân tứ xứ về định cư tại Thăng Long, các phong tục tập quán mà họ mang theo cũng dần thay đổi, tạo nên nét văn hóa của Hà Nội.\nThăng Long – Hà Nội, kinh đô của Việt Nam, còn là nơi giao thoa của những nền văn hóa lớn. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc đã để lại trên vùng đất Hà Nội ít nhiều những dấu ấn của nền văn minh Trung Hoa. Khi những người Pháp vào Việt Nam, nhiều người trong số họ chỉ coi Hà Nội như một tỉnh của Trung Quốc, hoặc đơn thuần là một vùng chuyển tiếp giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Qua những người Pháp, Hà Nội – trung tâm văn hóa của quốc gia – biết tới nền văn minh phương Tây để rồi xây dựng nên những cơ sở đầu tiên của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại với tân nhạc, thơ mới, hội họa, văn học hiện đại, điện ảnh, nhiếp ảnh. Nhưng Hà Nội đầu thế kỷ XX cũng là nơi những giá trị Pháp thống trị, cửa sổ mở ra thế giới mới của giới thượng lưu Việt Nam. Như lời của sử gia về Đông Nam Á Pierre-Richard Féray: \"Ngay khi một người Việt Nam đạt được giàu sang và sống tại thành phố, anh ta bắt đầu trở nên đặc trưng Pháp. Anh ta cố gắng nói đúng giọng Pháp. Anh ta ăn, sống và thở theo cách Pháp\". Những thập niên gần đây, Hà Nội cùng Việt Nam lại tiếp nhận những làn sóng văn hóa từ châu Âu và Mỹ.\nTuy là thủ đô, trung tâm văn hóa của Việt Nam, nhưng một số sự kiện văn hóa tổ chức ở Hà Nội gần đây đã xảy ra nhiều sự việc đáng chú ý, điển hình là vụ tàn phá hoa của người Hà Nội tại Lễ hội hoa anh đào diễn ra giữa thủ đô năm 2008, hay những hành động thiếu ý thức, kém văn minh tại Lễ hội phố hoa Hà Nội vào Tết Dương lịch 2009 tổ chức tại hồ Hoàn Kiếm, dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ dư luận cả nước trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặt câu hỏi lớn về \"văn hóa người Tràng An\" trong thời đại ngày nay. Có nhiều ý kiến nhận xét lối cư xử nhã nhặn, thanh lịch của người Hà Nội đang mất dần, thay vào đó là cách cư xử thiếu văn hóa nhất là ở giới trẻ Hà Nội. Hà Nội còn có \"\"bún mắng, cháo chửi\" ngày càng trở nên phổ biến đã bị nhiều báo phản ánh và phê phán tuy nhiên các quán ăn có phong cách phục vụ vô văn hóa, thô lỗ, xem thường, xúc phạm khách hàng này vẫn thu hút được nhiều người đến ăn. Sau sự kiện \"bún chửi\" Hà Nội lên sóng CNN trong mục \"món ăn đặc sắc\" tháng 9 năm 2016 thì giới chức Hà Nội \"tuyên chiến với nói tục, chửi bậy\".\nÂm nhạc.\nHà Nội là một niềm cảm hứng sáng tác của nhiều nhạc sĩ. Đã có hàng nghìn bài hát viết về Hà Nội trong nhiều đề tài. Trước hết đó là hình ảnh của một Hà Nội với khí thế hào hùng và mạnh mẽ trong vị thế thủ đô trong cuộc đấu tranh vệ quốc. Trong những năm tháng này, Văn Cao đã viết cho Hà Nội một số hành khúc như Thăng Long hành khúc ca, Gò Đống Đa, Tiến về Hà Nội. Khi những người lính thuộc Trung đoàn Thủ Đô phải rời xa Hà Nội, một trong số đó, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi đã viết ca khúc \"Người Hà Nội\", ngày nay đã trở nên quen thuộc. Hình ảnh Hà Nội trong cuộc chiến với thực dân Pháp cũng là đề tài của các tác phẩm như: \"Sẽ về Thủ đô\" của Huy Du, \"Cảm xúc tháng Mười\" của Nguyễn Thành, \"Ba Đình nắng\" của Bùi Công Kỳ. Trong những tháng năm chống Mỹ, Thủ đô anh hùng trong chiến đấu và kiến thiết được khắc họa đâm nét trong các tác phẩm như \"Bài ca Hà Nội\" của Vũ Thanh, \"Hà Nội – Điện Biên Phủ\" của Phạm Tuyên, \"Khi thành phố lên đèn\" của Thái Cơ, \"Tiếng nói Hà Nội\" của Văn An v.v... Bên cạnh đó, Hà Nội hiện lên với dáng vẻ cổ xưa, kiêu kỳ và lãng mạn, với \"ánh đèn giăng mắc\", \"có bóng trăng thơ in trên mặt hồ\", với hình ảnh người con gái \"khăn san bay lả lơi trên vai ai\", \"áo trắng Trưng Vương, Tây Sơn em tan trường về\" trong những nhạc phẩm mang nhiều tính chất hoài niệm như Hướng về Hà Nội của Hoàng Dương, Nỗi lòng người đi của Anh Bằng, Hà Nội ngày tháng cũ của Song Ngọc hay Gửi người em gái miền Nam của Đoàn Chuẩn. Vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật, con người, truyền thống lịch sử và nét thanh lịch độc đáo của Hà Nội được khắc họa đậm nét qua giai điệu của nhiều nhạc sĩ Việt Nam thuộc nhiều thế hệ khác nhau, như Hoàng Hiệp với \"Nhớ về Hà Nội\", Phan Nhân với \"Hà Nội niềm tin và hy vọng\", Hoàng Vân với \"Tình yêu Hà Nội\", Văn Ký với \"Trời Hà Nội xanh\" và \"Hà Nội mùa xuân\", Nguyễn Đức Toàn với \"Hà Nội trái tim hồng\", Trần Hoàn với \"Khúc hát người Hà Nội\", Trịnh Công Sơn với \"Nhớ mùa thu Hà Nội\", Nguyễn Cường với \"Mãi vẫn là tuổi thơ tôi Hà Nội\", Dương Thụ với \"Mong về Hà Nội\", Phú Quang với \"Em ơi, Hà Nội phố\", \"Hà Nội ngày trở về\", \"Im lặng đêm Hà Nội\", Phạm Minh Tuấn với \"Hà Nội ơi thầm hát trong tôi\", Nguyễn Tiến với \"Chiều mưa Hà Nội\", Trần Quang Lộc với \"Có phải em mùa thu Hà Nội\", Trương Quý Hải với \"Hà Nội mùa vắng những con mưa\", Lê Vinh với \"Hà Nội và tôi\", Vũ Quang Trung với \"Chiều Hà Nội\" v.v... Một số địa danh của Hà Nội cũng đi trở thành chủ đề sáng tác trong âm nhạc như \"Một thoáng Tây Hồ\" của Phó Đức Phương, \"Ngẫu hứng sông Hồng\" của Trần Tiến, \"Chiều Hồ Gươm\" của Đặng An Nguyên, \"Truyền thuyết Hồ Gươm\" của Hoàng Phúc Thắng, \"Bên lăng Bác Hồ\" của Dân Huyền v.v... Có một số tác phẩm tuy không nhắc đến địa danh Hà Nội trong tựa đề hoặc trong ca từ nhưng được lấy cảm hứng hoặc viết về chính mảnh đất này như: \"Những ánh sao đêm\" của Phan Huỳnh Điểu, \"Từ một ngã tư đường phố\" của Phạm Tuyên, \"Mùa xuân làng lúa làng hoa\" của Ngọc Khuê, \"Hoa sữa\" của Hồng Đăng, \"Thu quyến rũ\" của Đoàn Chuẩn, \"Phố nghèo\", \"Ngẫu hứng phố\" của Trần Tiến.. Một Hà Nội với ngập tràn các loài hoa đã được nhạc sĩ Giáng Son khắc họa trong \"Hà Nội 12 mùa hoa\" – Đây cũng là một vẻ đẹp rất riêng của thủ đô Hà Nội.\nVăn học.\nTrong văn học Việt Nam, Hà Nội hiện ra như một đô thị có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống và bản sắc văn hóa. Thời phong kiến, thành Thăng Long từng là đề tài của nhiều bài thơ như \"Long thành cầm giả ca\" của Nguyễn Du hay \"Thăng Long thành hoài cổ\" của Bà Huyện Thanh Quan. Ba nhà văn thường được nhắc đến khi nói về đề tài Hà Nội trong văn học là Nguyễn Tuân, Vũ Bằng và Thạch Lam. Nguyễn Tuân, người sinh ra và lớn lên trong môi trường nho giáo, thất vọng bởi cuộc sống trong xã hội \"kim khí\" xô bồ, thường tìm về những giá trị cũ. Bóng dáng Hà Nội trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là những thú chơi của các bậc tao nhân mặc khách trong \"Vang bóng một thời\" như thưởng trà, thả thơ, đánh thơ, hát ca trù... Vũ Bằng lại qua những trang viết, như \"Miếng ngon Hà Nội\" và \"Thương nhớ mười hai\", thể hiện nỗi nhớ và tình yêu Hà Nội, ca ngợi sự tinh tế của các món ăn, khung cảnh thiên nhiên, đất trời, cảnh vật, con người, văn hóa của thành phố. Thạch Lam được biết đến qua tập bút ký \"Hà Nội 36 phố phường\". Tác phẩm của Thạch Lam thể hiện sự thương xót trước những người nghèo khó, miêu tả hương vị của những món quà quê, những tiếng rao... tất cả những thứ tạo nên văn hóa Hà Nội. Nhiều nhà văn khác cũng có các tác phẩm về thành phố này như \"Phố\" của Chu Lai, \"Sống mãi với thủ đô\" của Nguyễn Huy Tưởng. Bảo Ninh trong \"Nỗi buồn chiến tranh\" cũng dành nhiều trang viết về Hà Nội. \nĐiện ảnh và truyền hình.\nHình ảnh Hà Nội xuất hiện rất nhiều trên cả màn ảnh lớn và màn ảnh nhỏ. Sau khi được giải phóng vào năm 1954, không ít những bộ phim của điện ảnh cách mạng đã nói về Hà Nội, trong đó có thể đến đến \"Giông tố\", \"Sao tháng Tám\", \"Hà Nội mùa đông năm 1946\", \"Em bé Hà Nội\", \"Phía bắc Thủ đô\", \"Tiền tuyến gọi\". \"Em bé Hà Nội\", tác phẩm của đạo diễn Hải Ninh, khắc họa cuộc sống của Hà Nội trong thời gian quân đội Hoa Kỳ ném bom miền Bắc đã giành Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1975 và giải đặc biệt của ban giám khảo LHP Liên hoan phim Moskva cùng năm đó. Sau khi Việt Nam thống nhất, một số bộ phim điện ảnh khai thác đề tài về lớp thanh niên sống ở Hà Nội thời kỳ sau chiến tranh, như \"Tuổi mười bảy\", \"Những người đã gặp\", \"Hãy tha thứ cho em\", \"Cách sống của tôi\", \"Hà Nội mùa chim làm tổ\". Dưới thời bao cấp, bộ phim tài liệu của đạo diễn Trần Văn Thủy \"Hà Nội trong mắt ai\" đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho không khí của giai đoạn nhưng cũng từng vấp phải không ít tranh cãi ở khâu kiểm duyệt. Kể từ năm 1990, trong suốt một thập niên, phim về Hà Nội dường như vắng bóng trên màn ảnh của điện ảnh Việt Nam. Năm 2000, đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng về Việt Nam sản xuất \"Mùa hè chiều thẳng đứng\", một bộ phim chính kịch, xoay quanh cuộc sống của ba chị em gái với bối cảnh Hà Nội. Để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhiều nhà làm phim Việt Nam đã sản xuất một vài bộ phim về đề tài này.\nHội họa.\nTrong hội họa, họa sĩ Bùi Xuân Phái là một trong những người thành công và gắn bó nhất với Hà Nội. Trong tranh của Bùi Xuân Phái, Hà Nội mang đầy vẻ xưa cũ với những ngôi nhà mái nâu, những con phố nhỏ. Những bức vẽ về phố cổ Hà Nội của Bùi Xuân Phái ngày nay thường được biết đến với tên gọi \"Phố Phái\". Ngoài ra, còn có một số họa phẩm của các họa sĩ khác vẽ về người Hà Nội đã đi vào lịch sử như \"Thiếu nữ bên hoa huệ\" của Tô Ngọc Vân, \"Em Thúy\" của Trần Văn Cẩn, \"Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi\" của Nguyễn Đỗ Cung.\nGiao thông.\nLà thành phố thủ đô và có vị trí ở khu vực trung tâm của miền Bắc, bên cạnh con sông Hồng, giao thông từ Hà Nội đến các tỉnh khác của Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường không, đường bộ, đường thủy và đường sắt. Giao thông đường không, ngoài sân bay quốc tế Nội Bài cách trung tâm khoảng 35 km, thành phố còn có sân bay Gia Lâm ở phía Đông, thuộc quận Long Biên, từng là sân bay chính của Hà Nội những năm 1970, hiện sân bay Gia Lâm chỉ phục vụ cho các chuyến bay dịch vụ của trực thăng, gồm cả dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó là sân bay Bạch Mai thuộc quận Thanh Xuân được xây dựng từ năm 1919 và có thời gian đóng vai trò như một sân bay quân sự. Ngoài ra, Hà Nội còn có sân bay quân sự Hòa Lạc tại huyện Thạch Thất, sân bay quân sự Miếu Môn tại huyện Chương Mỹ. Hà Nội là đầu mối giao thông của năm tuyến đường sắt trong nước và một tuyến liên vận sang Bắc Kinh, Trung Quốc, đi nhiều nước châu Âu, một tuyến quốc tế sang Côn Minh, Trung Quốc. Các bến xe Phía Nam, Gia Lâm, Nước Ngầm, Giáp Bát, Yên Nghĩa, Mỹ Đình là nơi các xe chở khách liên tỉnh tỏa đi khắp đất nước theo các Quốc lộ 1 xuyên Bắc – Nam và rẽ Quốc lộ 21 đi Nam Định, Quốc lộ 2 đến Hà Giang, Quốc lộ 3 đến Bắc Kạn, Cao Bằng, Thái Nguyên; Quốc lộ 5 đi Hải Phòng, Quốc lộ 17 đi Quảng Ninh, Quốc lộ 6 và Quốc lộ 32 đi các tỉnh Tây Bắc.\nHà Nội có nhiều tuyến đường cao tốc trên địa bàn như Đại lộ Thăng Long, Pháp Vân – Cầu Giẽ, Hà Nội – Bắc Giang, Hà Nội – Hải Phòng, Nội Bài – Lào Cai, Hà Nội – Thái Nguyên, Hà Nội – Hòa Bình, được xây dựng và hoàn thành nhằm kết nối nhanh chóng, thuận tiện thủ đô với các tỉnh. Về giao thông đường thủy, Hà Nội cũng là đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà Đen đi Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì và bến Hàm Tử Quan đi Phả Lại. \nTrong nội ô, các con phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ tầng đô thị còn thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn – đặc biệt là xe máy –, và ý thức chưa tốt của các cư dân thành phố. Lại thêm khâu xử lý vi phạm giao thông của cảnh sát giao thông hiện nay chưa nghiêm, việc quản lý nhà nước và tổ chức giao thông còn nhiều bất cập, luôn thay đổi tùy tiện. Giáo sư Seymour Papert – nhà khoa học máy tính từ Viện Công nghệ Massachusetts bị tai nạn ở Hà Nội vào cuối năm 2006 – đã miêu tả giao thông của thành phố như một ví dụ minh họa cho giả thuyết về \"hành vi hợp trội\", phương thức mà các đám đông, tuân theo các nguyên tắc đơn giản và không cần sự lãnh đạo, tạo ra các vận động và hệ thống phức tạp. Trên những đường phố Hà Nội, vỉa hè thường bị chiếm dụng khiến người đi bộ phải đi xuống lòng đường. Trong những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát triển thêm 5 tới 10 km đường mỗi năm. Nhiều trục đường của thành phố thiết kế chưa khoa học, không đồng bộ và hệ thống đèn giao thông ở một vài điểm cũng thiếu hợp lý. Thêm nữa, hiện tượng ngập úng mỗi khi mưa lớn cũng gây khó khăn cho người tham gia giao thông. Trong thập niên 2000, hệ thống xe buýt – loại hình phương tiện giao thông công cộng duy nhất – của thành phố có phát triển mạnh, nhưng phần đông người dân vẫn sử dụng các phương tiện cá nhân, chủ yếu là xe máy.\nTheo quy hoạch giao thông Hà Nội được Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt năm 2008, chi phí cho phần phát triển đường bộ lên tới 100.000 tỷ đồng. Ba tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục chính cùng nhiều tuyến phố sẽ được xây dựng mới hoặc cải tạo lại. Cho đến cuối năm 2011, Hà Nội có 7.365 km đường giao thông, trong đó 20% là trục đường chính, 7 trục hướng tâm và 3 tuyến vành đai, cũng như đang quản lý hơn 4,3 triệu phương tiện giao thông các loại, trong đó riêng xe máy chiếm gần 4 triệu.\nVinh danh.\nTên gọi của thành phố cũng được sử dụng cho nhiều loài sinh vật :\nTên Hà Nội còn được đặt cho tiểu hành tinh 7816 Hanoi phát hiện năm 1987 có đường kính gần 3 km." ]
huyn - ngikm - yn - long - tch - thuc - an - ninh - vnh - giang
1
false
Sao Thiên Vương (tiếng Anh: Uranus) hay Thiên Vương Tinh (chữ Hán: 天王星) là hành tinh thứ bảy tính từ Mặt Trời; là hành tinh có bán kính lớn thứ ba và có khối lượng lớn thứ tư trong Hệ Mặt Trời. Sao Thiên Vương có thành phần tương tự như Sao Hải Vương. Cả hai có thành phần hóa học khác so với hai hành tinh khí khổng lồ lớn hơn là Sao Mộc và Sao Thổ. Vì vậy, các nhà thiên văn thỉnh thoảng đưa các hành tinh này vào danh sách "hành tinh băng khổng lồ". Khí quyển của Sao Thiên Vương tương tự như của Sao Mộc và Sao Thổ về thành phần cơ bản như hiđrô và heli. Khác là chúng chứa nhiều hợp chất dễ bay hơi như nước, amonia và methan cùng với lượng nhỏ hydrocarbon. Hành tinh này có bầu khí quyển lạnh nhất trong số các hành tinh trong Hệ Mặt Trời, với nhiệt độ cực tiểu bằng 49 K (−224 °C). Nó có cấu trúc tầng mây phức tạp. Khả năng những đám mây thấp nhất chứa chủ yếu nước trong khi methan lại chiếm chủ yếu trong những tầng mây phía trên. Ngược lại, cấu trúc bên trong Sao Thiên Vương chỉ chứa chủ yếu một lõi băng và đá. Giống như những hành tinh khí khổng lồ khác, Sao Thiên Vương có một hệ thống vành đai, từ quyển và rất nhiều vệ tinh tự nhiên. Hệ thống Sao Thiên Vương có cấu trúc độc nhất bởi vì trục tự quay của nó bị nghiêng rất lớn, gần như song song với mặt phẳng quỹ đạo của hành tinh. Do vậy cực bắc và cực nam của hành tinh này nằm gần như tại vị trí xích đạo so với những hành tinh khác. Năm 1986, những ảnh chụp của tàu không gian "Voyager 2" cho thấy Sao Thiên Vương qua ánh sáng khả kiến hiện lên với một màu gần như đồng nhất mà không có các dải mây hay cơn bão như những hành tinh khí khổng lồ khác. Các nhà thiên văn thực hiện quan sát từ mặt đất phát hiện ra dấu hiệu của sự thay đổi mùa và sự gia tăng hoạt động thời tiết trong những năm gần đây khi nó tiếp cận đến vị trí điểm phân trên quỹ đạo. Tốc độ gió trên Sao Thiên Vương đạt tới 250 mét trên giây (900 km/h). Lịch sử. Trái ngược lại với niềm tin của một số người. Dù rằng trên bầu trời tối đen, người ta vẫn có thể nhìn thấy hành tinh này bằng mắt thường như 5 hành tinh khác đã biết từ thời cổ đại. Sao Thiên Vương không được người xưa phát hiện bởi vì nó quá mờ và di chuyển rất chậm trên quỹ đạo. William Herschel đã phát hiện ra hành tinh này (lúc đầu ông nghĩ là sao chổi) vào ngày 13 tháng 3 năm 1781, mở rộng hiểu biết của con người ra những vùng xa xôi của Hệ Mặt Trời lần đầu tiên trong lịch sử thiên văn. Sao Thiên Vương cũng là hành tinh đầu tiên được phát hiện bằng kính thiên văn. Phát hiện. Một số nhà lịch sử khoa học cho rằng Sao Thiên Vương có thể đã từng được nhìn thấy bởi vài người trước khi nó được phát hiện là một hành tinh, nhưng người ta đã coi là một ngôi sao. Ghi chép sớm nhất về việc quan sát thấy nó đó là năm 1690 khi John Flamsteed đã nhìn thấy hành tinh này ít nhất sáu lần, và ông gọi nó là 34 Tauri. Nhà thiên văn Pierre Lemonnier đã quan sát thấy Sao Thiên Vương ít nhất 12 lần từ 1750 đến 1769, bao gồm trong bốn đêm liên tiếp. William Herschel quan sát thấy hành tinh này vào đêm 13 tháng 3 năm 1781 khi đang ở vườn nhà của ông tại số 19 đường New King ở thị trấn Bath, Somerset, Vương quốc Anh (bây giờ là Bảo tàng thiên văn học Herschel), mặc dù thoạt đầu ông thông báo (ngày 26 tháng 4 năm 1781) đó là một "sao chổi". Herschel "say mê thực hiện một loạt các quan sát về thị sai của những ngôi sao cố định", bằng một kính thiên văn do ông tự thiết kế. Ông ghi lại trong tạp chí là "Trong điểm tứ phân vị gần sao ζ Tauri (Thiên Quan)... hoặc là một Ngôi sao mờ hoặc có lẽ là một sao chổi". Ngày 17 tháng 3, ông đã viết, "Tôi lại nhìn vào Sao chổi hoặc một Ngôi sao mờ và thấy rằng nó phải là Sao chổi, bởi vì nó đã thay đổi vị trí". Khi ông trình bày khám phá của mình tại Hội Hoàng gia, ông tiếp tục nói đó là một sao chổi trong khi cũng ngầm ý nói đó là một hành tinh: Herschel thông báo cho Nhà thiên văn Hoàng gia, Nevil Maskelyne, về khám phá của ông và nhận được thư phúc đáp một cách bối rối từ ông ngày 23 tháng 4: "Tôi không biết phải gọi nó là gì. Nó giống như một hành tinh bình thường chuyển động trên quỹ đạo gần tròn quanh Mặt Trời trong khi sao chổi lại di chuyển trên quỹ đạo có độ lệch tâm lớn. Tôi vẫn chưa nhìn thấy đầu hay đuôi của nó (sao chổi)". Trong khi Herschel tiếp tục miêu tả một cách thận trọng vật thể ông mới phát hiện là sao chổi, những nhà thiên văn khác đã bắt đầu nghĩ theo cách khác. Nhà thiên văn Anders Johan Lexell là người đầu tiên tính ra quỹ đạo của thiên thể mới này và kết quả của quỹ đạo gần tròn buộc ông kết luận nó là hành tinh hơn là một sao chổi. Nhà thiên văn Johann Elert Bode ở Berlin nói về khám phá của Herschel là "một ngôi sao chuyển động có thể nghĩ đó là một hành tinh chưa biết đến tạm thời-như vật thể quay trên quỹ đạo tròn bên ngoài Sao Thổ". Bode cũng kết luận rằng quỹ đạo gần tròn của nó khiến nó là hành tinh hơn là một sao chổi. Vật thể mới này sớm được chấp nhận rộng rãi là một hành tinh mới. Cho đến 1783, Herschel đã tự tiếp nhận khẳng định này khi chủ tịch Hội Hoàng gia Joseph Banks nói: "Theo khám phá của nhà thiên văn học hàng đầu châu Âu thì nó hiện lên như là một ngôi sao mới, mà tôi có vinh dự được công bố vào tháng 3 năm 1781, ngôi sao mới đó là một Hành tinh Chính trong Hệ Mặt Trời của chúng ta." Để công nhận thành tựu của ông, Vua George III trao cho Herschel một khoản tiền hàng năm là £200 với điều kiện ông sẽ chuyển đến thị trấn Windsor, Berkshire và do vậy Gia đình Hoàng gia sẽ có cơ hội quan sát bầu trời qua kính thiên văn của ông. Đặt tên. Maskelyne hỏi Herschel "liệu cộng đồng các nhà thiên văn có thể gọi một tên gọi nào đó cho hành tinh của ngài, mà ngài có thể tự đặt tên cho nó, [và] chúng tôi hoàn toàn thừa nhận công lao khám phá ra của ngài." Đáp lại thỉnh cầu của Maskelyne, Herschel quyết định đặt tên cho thiên thể này là "Georgium Sidus" (Ngôi sao George), hoặc "Hành tinh George" để vinh danh người bảo trợ mới của ông, vua George III. Ông giải thích quyết định này trong một lá thư gửi Joseph Banks: Đề xuất của Herschel không phổ biến ở bên ngoài Vương quốc Anh, và đã sớm có những tên gọi khác cho hành tinh. Nhà thiên văn Jérôme Lalande đề xuất tên gọi "Herschel" để vinh danh chính người đã khám phá ra nó. Trong khi nhà thiên văn Erik Prosperin lại đề xuất tên "Neptune" mà được một số người khác ủng hộ với ý tưởng kỷ niệm chiến thắng của hạm đội Hải quân Hoàng gia Anh trong Cách mạng Mỹ bằng cách đặt tên cho hành tinh mới là "Neptune George III" hoặc "Neptune Great Britain". Bode nêu ra tên "Uranus", cách gọi Latin hóa của vị thần bầu trời, Ouranos. Bode lập luận rằng giống như Saturn là cha của Jupiter, hành tinh mới này nên đặt tên theo cha của Saturn. Năm 1789, một người bạn cùng Viện hàn lâm của Bode là Martin Klaproth đã đặt tên cho nguyên tố ông mới phát hiện ra là "urani" nhằm ủng hộ lựa chọn của Bode. Cuối cùng, đề xuất của Bode đã được sử dụng rộng rãi, và được chính thức công nhận năm 1850 khi Cơ quan Niên giám Hàng hải HM, chuyển cách sử dụng từ tên gọi "Georgium Sidus" thành "Uranus". Tên gọi. Sao Thiên Vương đặt tên theo vị thần bầu trời của người Hy Lạp cổ Uranus (), cha của Cronus (Saturn) và ông của Zeus (Jupiter), trong tiếng Latin viết là "Ūranus". Nó là hành tinh duy nhất lấy theo tên từ một vị thần trong thần thoại Hy Lạp thay vì trong thần thoại La Mã. Sao Thiên Vương có hai ký hiệu thiên văn. Ký hiệu được đề xuất đầu tiên là, , do Lalande đề xuất đầu tiên năm 1784. Trong một lá thư gửi Herschel, Lalande miêu tả "un globe surmonté par la première lettre de votre nom" ("một quả cầu nằm bên dưới chữ cái đầu trong họ của ngài"). Đề xuất sau đó, , là biểu tượng lai giữa ký hiệu của Sao Hỏa và Mặt Trời bởi vì Uranus là vị thần của bầu trời trong thần thoại Hy Lạp, là con của nữ thần Gaia, và ông cũng lấy chính mẹ của mình để đẻ ra sáu người con trai và sáu người con gái, tạo ra thế hệ thần Titan và Titanides. Trong tiếng Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, và tiếng Việt, tên gọi của hành tinh thường dịch thành "Thiên Vương Tinh" (天王星). Quỹ đạo và sự tự quay. Chu kỳ quỹ đạo của Sao Thiên Vương bằng 84 năm Trái Đất, và trung bình phải mất 7 năm để hành tinh đi qua hết một chòm sao trong hoàng đạo. Khoảng cách trung bình từ hành tinh đến Mặt Trời xấp xỉ 3 tỷ km (khoảng 20 AU). Sự chênh lệch giữa khoảng cách tối thiểu và khoảng cách tối đa của Sao Thiên Vương so với Mặt Trời là 1,8 AU, lớn hơn bất kỳ hành tinh nào khác nhưng không lớn bằng hành tinh lùn Sao Diêm Vương. Cường độ ánh sáng Mặt Trời chiếu lên Sao Thiên Vương bằng 1/400 so với trên Trái Đất. Các tham số quỹ đạo của hành tinh lần đầu tiên được tính ra bởi Pierre-Simon Laplace năm 1783. Theo thời gian, xuất hiện sự sai lệch trong tính toán lý thuyết về quỹ đạo và quan sát thực tế, và vào năm 1841, John Couch Adams lần đầu tiên đề xuất sự sai lệch trong tính toán có thể do lực hút hấp dẫn của một hành tinh chưa được khám phá. Năm 1845, nhà thiên văn học Urbain Le Verrier tự tính ra quỹ đạo của Sao Thiên Vương với giả sử còn có một hành tinh ở bên ngoài Sao Thiên Vương. Ngày 23 tháng 9 năm 1846, Johann Gottfried Galle thông báo đã quan sát thấy một hành tinh mới, sau này được đặt tên là Sao Hải Vương, ở vị trí gần với vị trí tiên đoán của Le Verrier. Chu kỳ tự quay của phần cấu trúc bên trong Sao Hải Vương bằng 17 giờ, 14 phút, theo chiều kim đồng hồ (nghịch hành). Giống như trên mọi hành tinh khí khổng lồ, bên trên khí quyển hành tinh có những cơn gió rất mạnh thổi theo hướng tự quay của nó. Ở một số vĩ độ, như khoảng hai phần ba tính từ xích đạo đến cực nam, các đặc điểm nhìn thấy trên khí quyển chuyển động nhanh hơn, với chu kỳ quay ít hơn 14 giờ. Độ nghiêng trục quay. Sao Thiên Vương có độ nghiêng trục quay bằng 97,77 độ, cho nên trục quay của nó gần song song với mặt phẳng quỹ đạo trong Hệ Mặt Trời. Nguyên nhân này làm cho sự thay đổi theo mùa hoàn toàn khác hẳn so với những hành tinh còn lại. Các hành tinh khác có thể hình dung như một con quay quay trên mặt phẳng trong Hệ Mặt Trời, trong khi Sao Thiên Vương có thể hình dung như là một bánh xe lăn trên quỹ đạo của nó. Gần khoảng thời gian của điểm chí Sao Thiên Vương, một cực của hành tinh hướng về phía Mặt Trời trong khi cực kia hướng theo hướng ngược lại. Chỉ có một vùng rất hẹp quanh xích đạo của nó là trải qua sự biến đổi chu kỳ ngày - đêm rất nhanh, nhưng với Mặt Trời ở bên dưới rất thấp chân trời như đối với các vùng cực trên Trái Đất. Ở nửa còn lại của quỹ đạo, hướng của hai cực thay đổi cho nhau. Mỗi cực được Mặt Trời chiếu sáng liên tục trong 42 năm, sau đó là 42 năm liên tục trong bóng tối. Gần thời gian của điểm phân, Mặt Trời chiếu thẳng vào vùng xích đạo của Sao Thiên Vương và nó có chu kỳ ngày đêm giống như ở trên các hành tinh khác., Sao Thiên Vương đến điểm phân lần gần đây nhất là ngày 7 tháng 12 năm 2007. Một hệ quả của sự nghiêng trục quay của hành tinh này là, trung bình trong một năm (84 năm Trái Đất), hai vùng cực nhận được nhiều năng lượng từ Mặt Trời hơn vùng xích đạo. Tuy nhiên, nhiệt độ trung bình của vùng xích đạo cao hơn so với hai vùng cực, do vùng xích đạo liên tục nhận bức xạ Mặt Trời, trong khi vùng cực có tới 42 năm trong bóng tối. Nhưng các nhà khoa học vẫn chưa biết cơ chế thực sự ẩn dưới điều này. Họ cũng chưa biết tại sao trục tự quay của Sao Thiên Vương lại nghiêng kỳ lạ như vậy, nhưng có một giả thiết chung đó là trong giai đoạn hình thành Hệ Mặt Trời, một tiền hành tinh kích cỡ Trái Đất đã va chạm với Sao Thiên Vương, làm lệch trục quay của hành tinh. Khi con tàu "Voyager 2" bay qua Sao Thiên Vương năm 1986, cực nam của hành tinh đang hướng trực tiếp về phía Mặt Trời. Các nhà thiên văn học đã định nghĩa cực này là "cực nam" của hành tinh dựa theo định nghĩa trong một hội nghị của Hiệp hội Thiên văn Quốc tế, rằng cực bắc của một hành tinh hay vệ tinh tự nhiên sẽ là cực chỉ về phía mặt phẳng bất biến của Hệ Mặt Trời (mặt phẳng đi qua khối tâm của Hệ Mặt Trời và vuông góc với vectơ mô men động lượng), bất kể hướng tự quay của hành tinh hay vệ tinh là như thế nào. Một cách thuận tiện khác đôi khi sử dụng để định nghĩa cực bắc hay cực nam của vật thể đó là áp dụng quy tắc bàn tay phải trong liên hệ với hướng tự quay của vật thể/hành tinh. Theo cách sử dụng quy tắc này thì "cực bắc" của Sao Thiên Vương đang được chiếu sáng vào năm 1986. Quan sát. Từ năm 1995 đến 2006, cấp sao biểu kiến của Sao Thiên Vương thay đổi trong khoảng +5,6 và +5,9, và nằm trong giới hạn cho phép quan sát bằng mắt thường với cấp sao +6,5. Đường kính góc của nó có giá trị trong khoảng 3,4 và 3,7 giây cung, so với 16 đến 20 giây cung của Sao Thổ và 32 đến 45 giây cung của Sao Mộc. Tại vị trí xung đối, Sao Thiên Vương có thể nhìn bằng mắt thường trong trời tối, và trở thành mục tiêu quan sát ngay cả ở trong đô thị với kính nhòm. Đối với những kính thiên văn nghiệp dư lớn hơn với đường kính của vật kính từ 15 đến 23 cm, hành tinh hiện lên thành một đĩa nhạt màu lục lam với rìa biên tối (limb darkening) rõ ràng. Với kính thiên văn lớn hơn 25 cm hoặc rộng lớn, chúng ta có thể quan sát thấy các đám mây, một số vệ tinh lớn như Titania và Oberon. Cấu trúc bên trong. Khối lượng của Sao Thiên Vương lớn hơn của Trái Đất gần 14,5 lần, và là hành tinh khí khổng lồ nhẹ nhất. Đường kính của nó hơi lớn hơn Sao Hải Vương khoảng 4 lần đường kính Trái Đất. Khối lượng riêng trung bình của nó bằng 1,27 g/cm³ và là hành tinh có mật độ trung bình nhỏ thứ hai, chỉ lớn hơn của Sao Thổ. Giá trị này cho thấy nó có thành phần chủ yếu gồm các loại băng, như nước, amonia, và methan. Các nhà khoa học vẫn chưa biết chính xác tổng khối lượng băng bên trong Sao Thiên Vương, do số liệu sẽ khác nhau phụ thuộc vào từng mô hình cấu trúc hành tinh; nó có thể nằm giữa 9,3 đến 13,5 lần khối lượng Trái Đất. Hiđrô và Heli chỉ chứa một phần nhỏ với khối lượng từ 0,5 đến 1,5 M⊕. Phần vật chất còn lại không phải băng có khối lượng 0,5 đến 3,7 M⊕ chủ yếu là đá. Mô hình chuẩn về cấu trúc Sao Thiên Vương chứa ba lớp: một lõi (silicat/sắt-nikel) tại tâm, một lớp phủ băng ở giữa và bầu khí quyển chứa khí hiđrô/heli bên ngoài cùng. Lõi hành tinh tương đối nhỏ, với khối lượng chỉ bằng 0,55 lần khối lượng Trái Đất và bán kính nhỏ hơn 20% bán kính Sao Thiên Vương; lớp phủ chiếm khối lượng nhiều nhất, với khối lượng xấp xỉ 13,4 M⊕, trong khi tầng khí quyển chỉ chiếm 0,5 lần M⊕ và có kích thước mở rộng ít nhất 20% bán kính hành tinh. Khối lượng riêng của lõi hành tinh xấp xỉ bằng 9 g/cm³, với áp suất tại tâm bằng 8 triệu bars (800 GPa) và nhiệt độ xấp xỉ 5000 K. Lớp phủ băng thực tế không hoàn toàn chứa băng theo nghĩa thông thường, đó là một chất lỏng đặc và nóng gồm nước, amonia và những hợp chất dễ bay hơi khác. Chất lỏng này có độ dẫn điện cao, đôi khi được gọi là đại dương nước–amonia. Thành phần chủ yếu của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương rất khác so với Sao Mộc và Sao Thổ, hợp chất băng chiếm đa số so với hợp chất khí, và do đó các nhà khoa học còn phân loại hai hành tinh này thành "hành tinh băng đá khổng lồ". Có thể có một lớp nước ion nơi các phân tử nước bị phân ly thành các ion hiđrô và oxy, và càng sâu xuống dưới đó là nước ở trạng thái siêu ion (superionic water) trong đó các nguyên tử oxy kết tụ lại thành mạng tinh thể trong khi các ion hiđrô có thể di chuyển tự do trong dàn tinh thể oxy. Tuy mô hình miêu tả ở trên có thể là tiêu chuẩn, nó không phải là duy nhất; có những mô hình khác cũng phù hợp với quan sát. Ví dụ, nếu lượng lớn hiđrô và vật liệu đá trộn lẫn vào lớp phủ băng, tổng khối lượng của phần băng bên trong sẽ thấp hơn, và tương ứng tổng khối lượng đá và hiđrô sẽ cao hơn. Những dữ liệu hiện tại không cho phép khoa học xác định được mô hình cấu trúc hành tinh nào là đúng. Tồn tại cấu trúc chất lỏng bên trong Sao Thiên Vương có nghĩa là hành tinh này không có bề mặt rắn. Khi đi từ bên ngoài vào trong, các chất khí trong bầu khí quyển dần dần chuyển sang pha lỏng khi tiến tới lớp phủ lỏng bên trong. Để thuận tiện, các nhà khoa học hình dung ra một hình phỏng cầu tự quay với định nghĩa nơi có áp suất khí quyển bằng 1 bar (100 kPa) làm "bề mặt" của nó. Sao Thiên Vương có bán kính tại xích đạo và vùng cực lần lượt là và . Mặt này được sử dụng trong toàn bài viết với định nghĩa độ cao tại mặt này bằng 0. Nội nhiệt. Nội nhiệt của Sao Thiên Vương dường như thấp hơn so với các hành tinh khác; theo thuật ngữ thiên văn học, nó có thông lượng nhiệt thấp. Các nhà thiên văn vẫn chưa hiểu được tại sao nhiệt độ bên trong hành tinh này lại thấp như thế. Sao Hải Vương, là một hành tinh gần giống về đường kính và thành phần, lại phát nhiệt năng vào không gian vũ trụ cao gấp 2,61 lần năng lượng bức xạ mà nó nhận được từ Mặt Trời. Sao Thiên Vương, ngược lại khó có thể phát ra lượng nhiệt nhiều hơn nó nhận được. Tổng năng lượng phát ra từ hành tinh trong bước sóng hồng ngoại gần (như là nhiệt năng) trong phổ bức xạ bằng lần năng lượng Mặt Trời nó hấp thụ qua khí quyển. Thực tế, thông lượng nhiệt Sao Thiên Vương chỉ bằng thấp hơn cả thông lượng nội nhiệt của Trái Đất bằng 0,075 W/m². Nhiệt độ thấp nhất đo được trong khoảng lặng tầng đối lưu (tropopause) của Sao Thiên Vương là 49 K (−224 °C), hay nó là hành tinh lạnh nhất trong Hệ Mặt Trời. Một trong những giả thuyết giải thích cho sự khác biệt này là Sao Thiên Vương đã từng bị va chạm với một tiền hành tinh khối lượng lớn, và cú va chạm đã lấy đi phần lớn nội nhiệt nguyên thủy của nó để lại một lõi lạnh bên trong. Một giả thuyết khác đó là có một lớp ngăn chặn nội nhiệt phát vào không gian tồn tại trong tầng thượng quyển Sao Thiên Vương. Ví dụ, sự đối lưu có thể xảy ra trong một số lớp có thành phần khác nhau, và ngăn cản sự dẫn nhiệt ra bên ngoài hành tinh; có khả năng sự đối lưu khuếch tán giữa hai lớp (double diffusive convection) là một yếu tố giới hạn nội nhiệt hành tinh phát ra bên ngoài. Khí quyển. Tuy không có một bề mặt rắn cụ thể trong Sao Thiên Vương, phần bao phủ chứa các khí bên ngoài mà có thể quan trắc từ xa được các nhà khoa học gọi là khí quyển. Khả năng quan trắc từ xa có thể mở rộng sâu xuống dưới 300 km bên dưới mức 1 bar (100 kPa), ở độ sâu có áp suất khoảng 100 bar (10 MPa) và nhiệt độ bằng 320 K. Khí quyển Sao Thiên Vương có một vành nhật hoa mờ nhạt mở rộng ra bên ngoài tới 2 lần bán kính hành tinh tính từ mặt có mức áp suất 1 bar. Các nhà thiên văn chia khí quyển hành tinh này thành 3 tầng: tầng đối lưu, có cao độ từ −300 đến 50 km và áp suất từ 100 giảm đến 0,1 bar; (10 MPa xuống 10 kPa), tầng bình lưu, có cao độ từ 50 đến 4000 km và áp suất trong 0,1 - 10−10 bar (10 kPa giảm đến 10 µPa), và tầng nhiệt/vành nhật hoa mở rộng từ 4.000 km đến khoảng cách 50.000 km tính từ bề mặt hành tinh. Hành tinh này không có tầng trung lưu. Thành phần. Thành phần trong khí quyển Sao Thiên Vương khác so với những lớp còn lại của hành tinh này, chứa chủ yếu phân tử hiđrô và heli. Tỷ lệ mol heli, số nguyên tử heli trên phân tử khí, bằng bên trên tầng đối lưu, hay tương đương với tỉ số khối lượng . Giá trị này rất gần với tỉ số khối lượng của heli trong lúc hình thành Hệ Mặt Trời với tỉ số , kết quả này cho thấy heli vẫn chưa rơi xuống dưới hành tinh giống như ở những hành tinh khí khổng lồ khác. Hợp chất nhiều thứ ba có trong khí quyển Sao Thiên Vương là methan . Methan có dải vạch hấp thụ nổi bật trong quang phổ ánh sáng khả kiến và gần hồng ngoại (IR) và là nguyên nhân chính hành tinh này hiện lên với màu xanh berin hay xanh lơ. Các phân tử methan chiếm khoảng 2,3% khí quyển theo tỷ lệ mol tập trung tại các đám mây methan ở áp suất 1,3 bar (130 kPa); lượng này cao hơn lượng cacbon trong Mặt Trời từ 20 đến 30 lần. Tỉ số trộn của methan là thấp trong tầng thượng quyển bởi ở đây có nhiệt độ rất thấp, làm hạ thấp mức bão hòa và khiến nhiều phân tử methan bị đóng băng. Các nhà khoa học biết rất ít về các hợp chất ít bay hơi như amonia, nước và hiđrô sunfit ở tầng thấp khí quyển. Có lẽ tỷ lệ của chúng cao hơn so với giá trị của những phân tử này trong Mặt Trời. Cùng với methan, có một ít lượng các loại hydrocarbon đã được phát hiện trong tầng bình lưu của Sao Thiên Vương, mà người ta nghĩ rằng chúng là sản phẩm của chuỗi phản ứng trong đó methan bị quang ly do bức xạ tử ngoại (UV) từ Mặt Trời. Các hydrocarbon gồm êtan , acetylen , metyl acetylen , và diacetylen . Thông qua quang phổ các nhà khoa học cũng phát hiện sự có mặt của hơi nước, CO và CO2 ở tầng thượng quyển, mà những hợp chất này chỉ có nguồn gốc từ bên ngoài như bụi hoặc sao chổi rơi vào hành tinh. Khoảng lặng đối lưu. Tầng đối lưu là tầng thấp nhất và dày đặc nhất của khí quyển, nó được đặc trưng bởi sự giảm nhiệt độ theo độ cao. Nhiệt độ giảm từ 320 K tại mức cao độ −300 km xuống còn 53 K tại cao độ 50 km của tầng đối lưu. Nhiệt độ trong vùng lạnh nhất cao hơn của tầng đối lưu (khoảng lặng đối lưu, tropopause) biến đổi trong phạm vi 49 đến 57 K phụ thuộc vào từng vĩ độ hành tinh. Tại vùng lặng đối lưu phát ra lượng lớn bức xạ nhiệt bước sóng hồng ngoại xa (trong khoảng 15 µm đến 1 mm), và các nhà khoa học đo được nhiệt độ hữu hiệu của vùng này bằng . Tầng đối lưu có thể gồm một cấu trúc phức tạp các đám mây; các đám mây nước nằm trong vùng có mức áp suất 50 đến 100 bar (5 đến 10 MPa), đám mây amonium hiđrôsunfit nằm ở mức 20 đến 40 bar (2 đến 4 MPa), các đám mây amonia hoặc hiđrôsunfit nằm trong khoảng 3 tới 10 bar (0,3 đến 1 MPa) và cuối cùng là những đám mây mà các nhà khoa học nhìn trực tiếp được nằm ở mức áp suất 1 tới 2 bar (0,1 tới 0,2 MPa). Tầng đối lưu là một phần hoạt động mạnh của bầu khí quyển, nơi đây tồn tại gió mạnh, những đám mây sáng màu và sự thay đổi theo mùa. Tầng thượng quyển. Tầng giữa của khí quyển Sao Thiên Vương là tầng bình lưu, với nhiệt độ nói chung tăng theo độ cao từ 53 K bắt đầu tại khoảng lặng đối lưu đến 800 hoặc 850 K tại nơi tiếp giáp với tầng nhiệt. Nhiệt độ của tầng bình lưu do các phân tử methan và hydrocarbon hấp thụ bức xạ UV và IR đến từ Mặt Trời, trong đó các hydrocarbon hình thành từ quá trình quang ly của methan dưới tác dụng của ánh sáng. Năng lượng nhiệt cũng được dẫn từ tầng nhiệt nóng bên trên. Các hydrocarbon nằm ở phạm vi cao độ tương đối hẹp giữa 100 và 300 km tương ứng với áp suất 10 giảm tới 0,1 mBar (1000 xuống 10 kPa) và nhiệt độ trong khoảng 75 tới 170 K. Những hydrocarbon phổ biến nhất là methan, acetylen và êtan với tỉ số trộn bằng xấp xỉ 10−7 so với hiđrô. Tỉ số trộn của cacbon mônôxít là cũng giống như thế ở những độ cao này. Những hydrocarbon nặng hơn và cacbon dioxide có tỉ số trộn gấp ba bậc độ lớn so với hydrocarbon nhẹ hơn. Tỉ số của nước bằng 7. Êtan và acetylen có xu hướng ngưng tụ lại trong những vùng lạnh hơn của tầng bình lưu và ở khoảng lặng đối lưu (với mức áp suất dưới 10 mBar) tạo nên những đám mây mờ mịt, đây chính là một phần trong những dải mây xuất hiện trên hình ảnh của Sao Thiên Vương. Độ tập trung của các hydrocarbon trong tầng bình lưu bên trên lớp mây mờ mịt nhỏ hơn so với độ tập trung của các hợp chất này trong tầng bình lưu của những hành tinh khí khổng lồ khác. Tầng ngoài cùng của khí quyển Sao Thiên Vương là tầng nhiệt và vành nhật hoa (corona) của hành tinh, chúng có nhiệt độ đồng đều xung quanh 800 đến 850 K. Các nhà thiên văn vẫn chưa hiểu nguồn nhiệt năng nào duy trì giá trị nhiệt độ cao như vậy, hoặc là từ nguồn bức xạ nhiệt tia tử ngoại Mặt Trời hoặc là do hoạt động của cực quang cung cấp nguồn năng lượng cần thiết cho tầng ngoài cùng khí quyển. Ảnh hưởng của sự lạnh đi cũng nhỏ do thiếu hụt những hydrocarbon trong tầng bình lưu ở mức áp suất trên 0,1 mBar cũng có thể là yếu tố làm cho nhiệt độ của tầng nhiệt cao như thế. Ngoài phân tử hiđrô, tầng nhiệt và corona còn chứa rất nhiều nguyên tử hiđrô tự do. Do chúng có khối lượng nhỏ kết hợp với nhiệt độ cao tại tầng này có thể giải thích tại sao vành nhật hoa hành tinh lại mở rộng xa đến 50.000 km hay gấp hai lần bán kính Sao Thiên Vương. Vành nhật hoa (corona) mở rộng là một đặc điểm chỉ có ở hành tinh này. Ảnh hưởng của vành này bao gồm nó kéo những hạt nhỏ quay quanh Sao Thiên Vương, dẫn đến suy giảm dần những hạt bụi trong vành đai hành tinh. Tầng nhiệt Sao Thiên Vương, cùng với phần phía trên của tầng bình lưu, tương ứng chính là tầng ion của hành tinh. Quan trắc cho thấy tầng ion nằm ở độ cao từ 2.000 đến 10.000 km. Tầng ion của Sao Thiên Vương có mật độ dày đặc hơn so với của Sao Thổ và Sao Hải Vương, mà những tầng này xuất hiện từ sự bay lên của những hydrocarbon phân bố thưa thớt trong tầng bình lưu của Sao Thổ và Sao Hải Vương. Tầng ion của Sao Thiên Vương được duy trì chủ yếu bởi bức xạ UV và mật độ của tầng phụ thuộc vào cường độ hoạt động của gió Mặt Trời. Hoạt động cực quang trên hành tinh là không đáng kể so với của Sao Mộc và Sao Thổ. Vành đai hành tinh. Hệ thống vành đai hành tinh chứa đa phần là các hạt phản xạ ánh sáng rất kém, với kích cỡ thay đổi từ vài micrô mét đến vài phần mét. Cho tới nay các nhà khoa học đếm được 13 vành đai trong hệ thống, vành sáng nhất có tên gọi vành ε. Ngoại trừ hai vành, còn lại đều có bề rộng rất hẹp— chúng thường chỉ rộng vài kilômét. Có thể tuổi của hệ thống vành đai còn khá trẻ; và thông qua tính động lực của chúng các nhà khoa học nghĩ rằng chúng không hình thành cùng với giai đoạn hình thành Sao Thiên Vương. Vật chất trong các vành có thể là một phần sót lại của một vệ tinh (hoặc nhiều vệ tinh) đã bị vỡ nát sau những cú va chạm lớn. Từ rất nhiều mảnh vụn bắn ra sau các vụ chạm theo thời gian chỉ còn lại một số nhỏ những hạt bụi hay hòn đá nhỏ tồn tại trên quỹ đạo ổn định và hình thành lên hệ thống vành đai ngày nay. William Herschel từng đoán có khả năng tồn tại vành đai hành tinh quay quanh Sao Thiên Vương vào năm 1789. Nhưng những quan sát sau đó không thể phát hiện ra vành đai nào do chúng quá mờ nhạt và khoảng cách lớn đến hành tinh, và trong vòng hai thế kỷ sau đó không ai đề xuất có tồn tại hệ thống vành đai trên hành tinh này. Mặc dù thế, Herschel đã có ước đoán và miêu tả chính xác về quỹ đạo vành ε, góc của nó khi nhìn từ Trái Đất, nó có màu đỏ, và vị trí biểu kiến của nó thay đổi khi Sao Thiên Vương quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Hệ thống vành đai được chính thức phát hiện vào ngày 10 tháng 3 năm 1977 bởi James L. Elliot, Edward W. Dunham, và Douglas J. Mink sử dụng Đài quan sát Kuiper đặt trên máy bay. Phát hiện này là tình cờ; do mục đích ban đầu của họ là dựa vào sự kiện Sao Thiên Vương che khuất ngôi sao "SAO 158687" nhằm nghiên cứu khí quyển hành tinh này. Khi họ phân tích kết quả quan sát, họ thấy rằng ánh sáng phát ra từ ngôi sao bị che lại trong thời gian ngắn cách quãng 5 lần trước và sau khi hành tinh che khuất ngôi sao. Các nhà thiên văn đã kết luận rằng phải có một hệ thống vành đai hành tinh xung quanh Sao Thiên Vương. Sau đó, họ còn phát hiện thêm bốn vành đai trong hệ thống này. Tàu "Voyager 2" chụp ảnh trực tiếp hệ thống vành đai khi nó bay qua hành tinh năm 1986. "Voyager 2" cũng phát hiện thêm hai vành mờ nữa mang lại tổng số vành trong hệ thống lúc đó lên 11 vành đai. Tháng 12 năm 2005, kính thiên văn không gian Hubble chụp được hai vành đai mờ mà trước đó chưa biết. Vành lớn nhất mới phát hiện nằm cách xa hành tinh hai lần so với những vành đai đã biết. Hai vành mới này nằm rất xa hành tinh do vậy các nhà khoa học gọi chúng là hệ thống vành đai bên ngoài. Hubble cũng phát hiện thêm 2 vệ tinh nhỏ, trong số đó vệ tinh Mab có cùng quỹ đạo với vành đai ngoài cùng mới phát hiện. Những vành mới phát hiện nâng tổng số vành đai quay quanh Sao Thiên Vương lên con số 13. Tháng 4 năm 2006, kính thiên văn Keck chụp ảnh những vành đai mới và thu được vành xa nhất có màu xanh lam trong khi vành còn lại có màu đỏ. Các nhà khoa học nêu giả thuyết giải thích màu sắc của chúng đó là vành ngoài cùng có màu lục lam là do nó chứa những hạt bụi rất nhỏ của băng nước phát ra từ bề mặt của vệ tinh Mab, chúng đủ nhỏ để tán xạ ánh sáng với bước sóng xanh. Ngược lại, những vành đai phía trong lại có màu xám và tối. Từ quyển. Trước khi "Voyager 2" bay qua hành tinh, chưa có một đo lường nào về từ quyển của Sao Thiên Vương, và vì vậy bản chất và tính chất của nó là một bí ẩn. Trước năm 1986, các nhà thiên văn nghĩ rằng từ trường của Sao Thiên Vương phải gióng theo gió Mặt Trời, vì thông thường từ trường hướng theo phương của hai cực hành tinh theo đường Hoàng Đạo. Dữ liệu tàu "Voyager" gửi về cho thấy từ trường của hành tinh rất kỳ lạ, bởi vì trục từ trường không đi qua khối tâm của hành tinh, và bởi vì nó nghiêng 59° so với trục tự quay. Thực tế lưỡng cực từ bị lệch khỏi tâm hành tinh về phía cực nam một khoảng bằng một phần ba bán kính hành tinh (xem hình bên). Sự lệch hình học này gây ra một từ quyển hành tinh bất đối xứng, với cường độ từ trường tại bề mặt của bán cầu nam thấp bằng 0,1 gauss (10 µT), trong khi bán cầu bắc có giá trị cao tới 1,1 gauss (110 µT). Cường độ trung bình tại bề mặt hành tinh bằng 0,23 gauss (23 µT). Để so sánh, từ trường Trái Đất mạnh gần ở các cực từ của nó, và "xích đạo từ" gần song song với xích đạo địa lý của Trái Đất. Mô men lưỡng cực từ của từ trường Sao Thiên Vương bằng 50 lần so với của Trái Đất. Sao Hải Vương cũng có từ trường lệch hình học và nghiêng tương tự như của Sao Thiên Vương, gợi ra rằng có thể đây là đặc điểm chung của các hành tinh băng đá khổng lồ. Có một giả thuyết giải thích cho từ trường của hành tinh, đó là không giống như từ trường của các hành tinh đất đá và hành tinh khí khổng lồ, mà sinh ra từ sự hoạt động dynamo của lõi, từ trường của các hành tinh băng đá khổng lồ là do chuyển động của những lớp phủ tương đối nông, ví dụ trong đại dương nước–amonia, nước bị phân rã thành các ion hydro và oxy mang điện, sự chuyển động của các dòng hải lưu bên trong đại dương mang điện giải thích cho từ trường méo mó lệch tâm của sao thiên vương. Nếu trái đất có một từ trường như vậy, 2 cực sẽ nằm ở Cairo (Ai Cập) hoặc Brisbane (Australia). Mặc dù có sự lệch kỳ lạ như vậy, những đặc điểm khác của từ quyển cũng giống như đối với các hành tinh khác: nó có một vùng sốc hình cung (bow shock) nằm phía trước Sao Thiên Vương ở khoảng cách 23 lần bán kính hành tinh, vùng tiếp giáp giữa từ quyển và gió Mặt Trời (magnetopause) nằm ở khoảng cách 18 lần bán kính Sao Thiên Vương, hành tinh cũng có đuôi từ (magnetotail) đầy đủ và vành đai bức xạ. Trên tổng thể, cấu trúc của từ trường Sao Thiên Vương khác so với của Sao Mộc nhưng khá giống với của Sao Thổ. Đuôi từ của hành tinh kéo dài ra sau nó hàng triệu kilômét và có hình xoắn ốc. Trong từ quyển Sao Thiên Vương có các hạt tích điện: proton và electron với một lượng nhỏ ion H2+. Các nhà khoa học không phát hiện ra những ion nặng hơn. Đa số những ion này có lẽ hình thành từ vành nhật hoa khí quyển nóng của hành tinh. Năng lượng của ion và electron có thể cao tới lần lượt 4 và 1,2 MeV. Mật độ của những ion năng lượng thấp hơn (dưới 1 keV) ở bên trong từ quyển là 2 cm−3. Sự phân bố của những hạt ion bị ảnh hưởng mạnh bởi các vệ tinh Sao Thiên Vương khi chúng quét qua từ quyển để lại một khoảng trống dễ nhận ra. Thông lượng của các hạt ion đủ cao để làm tối hoặc phong hóa không gian (space weathering) bề mặt các vệ tinh "khá nhanh" trong 100.000 năm nếu tính theo thang thời gian thiên văn học. Đây có thể là nguyên nhân làm đa số bề mặt các vệ tinh và vành đai của Sao Thiên Vương có màu tối. Hành tinh cũng có hiện tượng cực quang, hiện lên với những cung sáng ở gần hai vùng cực từ. Không giống như Sao Mộc, cực quang của Sao Thiên Vương dường như nhỏ không có ảnh hưởng đến mức cân bằng năng lượng của tầng nhiệt hành tinh. Khí hậu. Quan sát qua bước sóng tử ngoại và khả kiến, khí quyển Sao Thiên Vương hiện lên gần như đồng đều so với sự hoạt động mãnh liệt trong khí quyển của những hành tinh khí khổng lồ khác, ngay cả như Sao Hải Vương, một hành tinh có nhiều đặc tính cấu trúc và thành phần giống với nó. Khi tàu "Voyager 2" bay qua Sao Thiên Vương năm 1986, nó quan sát được tổng cộng 10 đám mây trên khí quyển hành tinh. Một cách giải thích cho sự tĩnh lặng trong khí quyển hành tinh đó là nội nhiệt của Sao Thiên Vương dường như thấp hơn hẳn so với những hành tinh khác. Con tàu ghi lại được nhiệt độ thấp nhất trong khoảng lặng đối lưu (tropopause) bằng 49 K, và nó là hành tinh lạnh nhất trong Hệ Mặt Trời, lạnh hơn cả Sao Hải Vương cho dù hành tinh này xa Mặt Trời hơn rất nhiều so với Sao Thiên Vương. Cấu trúc dải khí quyển, gió và mây. Năm 1986 "Voyager 2" tìm thấy bán cầu nam đang được chiếu ánh sáng Mặt Trời có thể chia thành hai vùng: vùng chỏm khí quyển ở cực nam có màu sáng (đỏ thẫm) và những dải tối về phía xích đạo (xem hình bên phải). Biên giới giữa hai vùng nằm ở vĩ độ khoảng −45 độ. Một dải hẹp chia tách nằm ở vĩ độ từ −45 và −50 độ (màu trắng) là đặc điểm lớn sáng nhất trên bán cầu được chiếu sáng của hành tinh. Nó được gọi là "vòng" (collar) phương nam. Chỏm cực và vòng có thể là những vùng đậm đặc của mây methan nằm ở cao độ có áp suất từ 1,3 đến 2 bar (xem ở trên). Bên cạnh cấu trúc lớn của những dải khí quyển, Voyager 2 đã quan sát thấy 10 đám mây sáng nhỏ, đa số nằm cách vài độ về phía bắc so với vòng sáng. Nhưng nhìn chung Sao Thiên Vương dường như là hành tinh chết không còn hoạt động khí quyển khi quan sát năm 1986. Nhưng cũng bởi vì Voyager 2 chỉ quan sát được bán cầu nam hành tinh và các nhà khoa học không thể biết khí quyển ở bán cầu bắc như thế nào. Vào đầu thể kỷ 21, khi vùng bán cầu bắc bắt đầu được Mặt Trời chiếu sáng, kính thiên văn không gian Hubble (HST) kính thiên văn Keck bắt đầu thực hiện quan sát và các nhà khoa học đã không nhìn thấy chỏm cực khí quyển hay vòng sáng ở bán cầu bắc. Do vậy Sao Thiên Vương hiện lên bất đối xứng trong cấu trúc khí quyển: những vùng sáng nằm gần cực nam và vùng tối đều nằm ở phía bắc tính từ vòng sáng phương nam (bao gồm cả vùng xích đạo tối). Năm 2007, khi Sao Thiên Vương đến vị trí điểm phân, vòng sáng phương nam (collar) hầu như biến mất, trong khi đó có một vòng mờ phương bắc xuất hiện ở vĩ độ 45 độ. Trong thập niên 1990, số lượng các đám mây sáng tăng lên đáng kể một phần nhờ kỹ thuật quan sát và chụp ảnh phân giải cao. Đa số các đám mây này ở bán cầu bắc khi chúng bắt đầu hiện ra. Một cách giải thích ban đầu—rằng những đám mây sáng dễ dàng nhận ra trong phần tối của hành tinh, trong khi ở bán cầu nam vòng sóng đã làm mờ chúng đi—là không đúng: số lượng thực sự các đám mây đã tăng lên đáng kể. Tuy thế có sự khác biệt giữa những đám mây ở mỗi bán cầu. Các đám mây bán cầu bắc nhỏ hơn, sắc nét hơn và sáng hơn so với đám mây ở bán cầu nam. Dường như chúng nằm ở cao độ lớn hơn. Thời gian tồn tại của các đám mây cũng có sự khác biệt. Một số đám mây nhỏ tồn tại trong vòng vài giờ, trong khi nhiều đám mây ở bán cầu nam đã tồn tại từ chuyến bay qua của Voyager năm 1986. Những quan sát gần đây cũng phát hiện ra đặc điểm của những đám mây trên Sao Thiên Vương có rất nhiều điểm chung với mây trên Sao Hải Vương. Ví dụ, các Vết tối tồn tại trên Sao Hải Vương chưa từng được quan sát trên Sao Thiên Vương trước năm 2006, khi Vết tối đầu tiên được chụp ảnh và các nhà khoa học đặt tên nó là Vết Tối Sao Thiên Vương. Người ta nghĩ rằng Sao Thiên Vương trở lên giống với Sao Hải Vương trong thời gian nó ở điểm phân. Việc theo dõi một số lớn các đám mây cho phép các nhà thiên văn xác định được tốc độ gió trên tầng đối lưu của Sao Thiên Vương. Tại xích đạo gió thổi theo hướng nghịch, có nghĩa là nó thổi ngược hướng với hướng tự quay của hành tinh. Tốc độ gió ở đây trong khoảng −100 đến −50 m/s. Tốc độ gió tăng lên theo khoảng cách đến xích đạo (tính theo giá trị âm), đạt giá trị bằng 0 tại vĩ độ ±20°, nơi có nhiệt độ cực tiểu của tầng đối lưu. Gần hơn về phía hai cực, gió đổi hướng và thổi theo hướng thuận chiều với chiều tự quay hành tinh. Tốc độ gió tiếp tục tăng và đạt cực đại tại vĩ độ ±60° trước khi giảm trở lại giá trị 0 tại hai cực. Tốc độ gió tại vĩ độ −40° biến đổi từ 150 tới 200 m/s. Do vòng khí quyển (collar) che khuất mọi đám mây bên dưới nó và song song với nó, tốc độ gió trong tầng đối lưu thuộc vĩ độ giữa vòng sáng và cực nam không thể đo được. Ngược lại, trong bán cầu bắc tốc độ gió cực đại cao tới 240 m/s ở vĩ độ gần +50 độ. Sự biến đổi của mùa. Trong thời gian ngắn từ tháng 3 tới tháng 5 năm 2004, có một số đám mây lớn xuất hiện trong khí quyển Sao Thiên Vương, và hành tinh hiện lên giống như Sao Hải Vương. Các quan sát cũng ghi nhận kỷ lục mới về tốc độ gió cỡ 229 m/s (824 km/h) và một cơn giông tồn tại lâu mà các nhà khoa học gọi là "Pháo hoa ngày 4 tháng 7". Ngày 23 tháng 8 năm 2006, các nhà nghiên cứu ở Viện Khoa học Không gian (Boulder, CO) và Đại học Wisconsin phát hiện thấy một vết tối trên khí quyển Sao Thiên Vương, cho phép các nhà thiên văn học hiểu sâu hơn về hoạt động khí quyển của hành tinh. Họ vẫn chưa hiểu được đầy đủ tại sao có sự bất thình lình xuất hiện vết tối này, nhưng dường như độ nghiêng trục quay của hành tinh đã gây ra quá trình biến đổi khắc nghiệt theo mùa của Sao Thiên Vương. Việc xác định bản chất của sự biến đổi mùa là rất khó bởi vì những dữ liệu tin cậy về khí quyển của Sao Thiên Vương mới chỉ thu thập trong khoảng thời gian nhỏ hơn 84 năm, hay một năm của Sao Thiên Vương. Các nhà khoa học cũng phát hiện thêm một số hiện tượng mới. Sử dụng kỹ thuật đo thông lượng bức xạ điện từ (photometry) phát ra từ hành tinh trong khoảng thời gian một nửa năm Sao Thiên Vương (bắt đầu trong thập niên 1950) đã cho thấy có sự biến đổi đều về độ sáng trong hai dải phổ, với độ sáng cực đại xuất hiện vào lúc hành tinh ở điểm chí và cực tiểu khi nó ở điểm phân. Một hiện tượng biến đổi tuần hoàn khác, với cực đại tại điểm chí, thông qua phép đo sóng vi ba đối với tầng đối lưu sâu phía dưới bắt đầu thực hiện từ thập niên 1960. Những đo lường về nhiệt độ của tầng bình lưu thực hiện từ thập niên 1970 cũng chỉ ra giá trị cực đại gần thời gian của hành tinh ở điểm chí năm 1986. Yếu tố chính của sự biến đổi này xảy ra là do ảnh hưởng của góc quan sát hình học khi theo dõi Sao Thiên Vương từ Trái Đất. Có một số lý do để tin rằng sự thay đổi của các tính chất vật lý theo mùa đang xảy ra trên Sao Thiên Vương. Thực tế hành tinh có một vòng sáng và chỏm cực khí quyển ở vùng cực nam, trong khi phần còn lại bao gồm cả bán cầu bắc lại khá mờ nhạt và tĩnh lặng trong bước sóng khả kiến, hay nó không tương thích với mô hình về sự thay đổi mùa nêu ở trên. Trong thời gian của hành tinh ở điểm chí năm 1944, Sao Thiên Vương có một số điểm sáng và cực bắc của nó không phải luôn luôn mờ nhạt. Thông tin này cho thấy các cực có lúc sáng lên trước lúc điểm chí và tối đi sau lúc điểm phân. Những phân tích chi tiết từ dữ liệu đo qua bước sóng khả kiến và vi ba cho thấy có sự biến đổi chu kỳ về độ sáng không hoàn toàn đối xứng xung quanh thời gian hành tinh ở điểm chí, và các nhà khoa học cũng quan sát thấy có sự biến đổi trong suất phản chiếu hình học dọc theo kinh tuyến (bắc-nam) của hành tinh. Cuối cùng trong thập niên 1990, khi Sao Thiên Vương đi ra khỏi điểm chí, kính thiên văn không gian Hubble và những kính mặt đất phát hiện thấy chỏm cực khí quyển ở cực nam đã tối đi đáng kể (ngoại trừ vòng sáng (collar) bán cầu nam, nó không bị biến đổi độ sáng), trong khi ở bán cầu bắc bắt đầu có sự gia tăng hoạt động trong khí quyển, như bắt đầu hình thành các đám mây, gió thổi mạnh hơn, củng cổ thêm dự đoán bán cầu bắc sẽ có màu sáng dần lên. Điều này thực sự đã diễn ra vào năm 2007 khi hành tinh đến vị trí điểm phân: xuất hiện một vòng khí quyển mờ ở bán cầu bắc, trong khi vòng bán cầu nam gần như biến mất, mặc dù sự phân bố gió thổi dọc theo vĩ độ vẫn còn khá lệch, với gió ở bán cầu bắc thổi chậm hơn gió ở bán cầu nam. Cơ chế vật lý cho sự thay đổi vẫn chưa biết rõ ràng. Gần thời gian đông chí và hạ chí, hai bán cầu của Sao Thiên Vương hoặc là được chiếu hoàn toàn bởi ánh sáng Mặt Trời hoặc là nằm trong bóng tối. Sự sáng lên trong bán cầu được chiếu sáng được cho là kết quả từ sự phản chiếu của những đám mây methan và lớp khói bụi nằm trong tầng đối lưu. Vòng sáng nằm ở vĩ độ −45°Cũng có sự liên hệ với các đám mây methan. Những sự thay đổi khác trong vùng cực nam có thể giải thích bằng sự thay đổi của những lớp mây ở cao độ thấp trong khí quyển. Sự biến đổi trong tín hiệu bức xạ vi ba phát ra từ Sao Thiên Vương có khả năng là do sự thay đổi của hiện tượng vận động trong khí quyển ở sâu trong tầng đối lưu, bởi vì những đám mây dày và bụi khói ở cực có thể cản trở bức xạ vi ba. Sự thay đổi động lực khí quyển cũng như hiện tượng đối lưu cũng thay đổi theo mùa khi Sao Thiên Vương đến điểm phân hoặc điểm chí. Sự hình thành. Thommeslập luận rằng sự khác nhau giữa hành tinh băng đá và hành tinh khí khổng lồ có thể bao gồm trong cả quá trình hình thành lên chúng. Một giả thuyết cho rằng Hệ Mặt Trời hình thành từ một đám khí và bụi mà người ta gọi là tinh vân tiền Mặt Trời. Đa số các đám tinh vân này chứa chủ yếu là hiđrô và heli, thành phần chủ yếu của Mặt Trời, trong khi các hạt bụi và thiên thạch cũng như tiểu hành tinh tụ tập lại hình thành lên những tiền hành tinh. Theo thời gian, một số bồi tụ đủ vật chất để lực hấp dẫn của nó có thể bắt giữ được khí trong tinh vân nguyên thủy. Chúng bắt giữ càng nhiều khí thì càng trở lên lớn hơn; hành tinh càng lớn hơn thì lại càng thu hút nhiều khí về phía nó cho đến một điểm giới hạn, thì kích thước hành tinh bắt đầu tăng theo hàm mũ. Những hành tinh băng đá, với khối lượng chỉ vài lần cho đến khoảng vài chục lần khối lượng Trái Đất, không bao giờ đạt đến điểm giới hạn này. Những mô phỏng gần đây về quá trình hình thành Hệ Mặt Trời cho thấy các hành tinh băng đá từng có quỹ đạo gần Mặt Trời hơn so với hiện tại, trong quá trình hình thành và bồi tụ khí chúng có bán quỹ đạo tăng dần đẩy chúng ra xa khỏi quỹ đạo ban đầu sau khi hình thành. Những giả thuyết này được miêu tả chi tiết trong "mô hình Nice" về sự hình thành và động lực của Hệ Mặt Trời, do "Observatoire de la Côte d'Azur" ở Nice phát triển. Vệ tinh tự nhiên. Cho tới nay các nhà thiên văn biết Sao Thiên Vương có 27 vệ tinh tự nhiên. Tên gọi của những vệ tinh được chọn theo tên của các nhân vật trong các tác phẩm của danh hào Shakespeare và Alexander Pope. Năm vệ tinh lớn nhất là Miranda, Ariel, Umbriel, Titania và Oberon. Tổng khối lượng các vệ tinh của hành tinh này là nhỏ nhất trong số các hành tinh khổng lồ khác; thực vậy, tổng khối lượng của 5 vệ tinh chính thậm chí còn nhỏ hơn một nửa khối lượng của một mình vệ tinh Triton của Sao Hải Vương. Vệ tinh lớn nhất, Titania, có bán kính chỉ bằng 788,9 km hay nhỏ hơn một nửa của Mặt Trăng, nhưng hơi lớn hơn vệ tinh Rhea, vệ tinh lớn thứ hai của Sao Thổ, và Titania là vệ tinh lớn thứ 8 trong Hệ Mặt Trời. Các vệ tinh có suất phản chiếu thấp; từ 0,20 đối với Umbriel cho đến 0,35 đối với Ariel (trong ánh sáng xanh). Đa số các vệ tinh có thành phần băng-đá với khoảng 50% băng và 50% đá. Băng có thể bao gồm băng amonia và băng cacbon dioxide. Trong các vệ tinh này, Ariel có bề mặt trẻ nhất với chỉ một vài hố va chạm, trong khi Umbriel là vệ tinh già nhất. Miranda có một khe đứt gãy địa chất với độ sâu 20 kilômét, các nếp gấp trong địa hình, và sự biến đổi hỗn độn trên bề mặt theo thời gian. Hoạt động địa chất trong quá khứ của Miranda bị ảnh hưởng bởi nội nhiệt thủy triều (tidal heating) khi quỹ đạo của nó có độ lệch tâm lớn hơn so với hiện tại, có lẽ là do kết quả của quỹ đạo cộng hưởng hiện tại 3:1 với vệ tinh Umbriel. Quá trình thâm nhập, tách giãn và trồi sụt của bề mặt đã dẫn đến xuất hiện những khe nứt giống như "đường đua" - như các miệng hố va chạm có hình vương miện (corona). Vệ tinh Ariel cũng có khả năng từng có quỹ đạo cộng hưởng 4:1 với vệ tinh Titania. Sao Thiên Vương có ít nhất một vật thể trên quỹ đạo gần điểm Lagrange L3 của Mặt Trời và Sao Thiên Vương—một vùng quỹ đạo không ổn định hấp dẫn tại vị trí đối diện 180º trên quỹ đạo của nó, đó là vật thể 83982 Crantor. Crantor hiện tại trên một quỹ đạo tạm thời hình móng ngựa trong vùng đồng quỹ đạo với Sao Thiên Vương. có thể sẽ là một vật thể thứ hai tương tự trên quỹ đạo hình móng ngựa đi theo hành tinh này. Thăm dò. Năm 1986, tàu không gian "Voyager 2" bay liên hành tinh đã lướt qua Sao Thiên Vương. Cho đến nay đến là con tàu duy nhất bay qua hành tinh này ở khoảng cách ngắn, và cũng chưa có một kế hoạch gửi một tàu nào đến thăm dò nó. Phóng lên năm 1977, "Voyager 2" bay gần Sao Thiên Vương nhất vào ngày 24 tháng 1 năm 1986, cách những đám mây trên cao của hành tinh ở khoảng 81.500 kilômét, trước khi tiếp tục bay lướt qua Sao Hải Vương. "Voyager 2" đã nghiên cứu cấu trúc và thành phần hóa học trong khí quyển, bao gồm đặc điểm thời tiết kỳ lạ so độ nghiêng trục quay 97,77°Của hành tinh. Nó cũng chụp ảnh và quan trắc năm vệ tinh lớn nhất của Sao Thiên Vương, và khám phá ra thêm 10 vệ tinh mới. Con tàu cũng khảo sát 9 vành đai đã biết và phát hiện thêm 2 vành mới. "Voyager 2" cũng mang theo thiết bị nghiên cứu từ trường hành tinh, cấu trúc bất thường của nó, độ nghiêng trục quay và đuôi từ xoắn ốc của Sao Thiên Vương. Các nhà khoa học từng đề xuất kế hoạch gửi tàu Cassini đến Sao Thiên Vương trong hội nghị về mở rộng chương trình thám hiểm của tàu năm 2009 nhưng cuối cùng kế hoạch này bị hủy bỏ. Nếu gửi đi, con tàu sẽ mất khoảng 20 năm hành trình từ Sao Thổ đến Sao Thiên Vương. Một tàu quay quanh hành tinh và thiết bị thăm dò khí quyển Sao Thiên Vương cũng được đề xuất trong hội nghị kế hoạch Khảo sát thế kỷ Khoa học Hành tinh giai đoạn 2013–2022 vào năm 2011; với kế hoạch phóng tàu vào năm 2020–2023 và thời gian hành trình 13 năm đến Sao Thiên Vương. Thiết bị thả xuống khí quyển Sao Thiên Vương có thể sử dụng kiểu thiết kế của thiết bị "Pioneer Venus Multiprobe" và thả rơi 1 đến 5 thiết bị vào khí quyển hành tinh này. Cơ quan ESA cũng đã đánh giá một phi vụ lớp trung bình gọi là "Uranus Pathfinder". Một tàu quỹ đạo "New Frontiers Uranus Orbiter" đã được nêu ra và khuyến nghị trong chương trình nghiên cứu, "The Case for a Uranus Orbiter". Những phi vụ này có đề xuất gửi một tàu với khối lượng trên 1500 kg bằng tên lửa Atlas 521 với hành trình khoảng 12 năm. Trong văn hóa. Trong chiêm tinh học, Sao Thiên Vương () là hành tinh cai trị cung Bảo Bình. Vì hành tinh này hiện lên có màu xanh lơ và thần Uranus thường đi kèm với sức mạnh của sét, và màu xanh điện (electric blue), màu gần với màu xanh lơ, thường đi kèm với ký hiệu (♒) của chòm sao này. Nguyên tố hóa học urani, do nhà hóa lý người Đức Martin Heinrich Klaproth phát hiện năm 1789, được ông đặt tên này nhằm ủng hộ cho tên gọi trong thời gian hành tinh này mới được phát hiện. "Uranus, the Magician" là một chương trong bản nhạc thính phòng "The Planets" của nhạc sĩ Gustav Holst, viết trong giai đoạn 1914 và 1916. Chiến dịch Sao Thiên Vương là một chiến dịch quân sự trong Chiến tranh thế giới lần II do Hồng quân Liên Xô tổ chức tấn công nhằm bảo vệ thành phố Stalingrad và đánh dấu bước ngoặt trong chiến tranh vệ quốc chống lại quân đội Wehrmacht. Dòng thơ, "Then felt I like some watcher of the skies/When a new planet swims into his ken", trong bài thơ "On First Looking Into Chapman's Homer" của nhà thơ người Anh John Keats chính là nhắc về khám phá của Herschel về Sao Thiên Vương. Tên tiếng Anh "Uranus" cũng thường sử dụng như một câu nói đùa trong cách phát âm thông tục của từ này. Tuy nhiên, cách nói đùa này không phản ánh tính ưu tiên trong sự phát âm của các nhà thiên văn học, mà là "you-ranus", với trọng âm rơi vào âm tiết thứ nhất.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Kỹ thuật, hay là ngành kỹ sư, là việc ứng dụng kiến thức khoa học để mang lại giá trị thực tiễn. Một số hoạt động kỹ thuật có thể kể đến là thiết kế, chế tạo, vận hành những công trình, máy móc, quy trình, và hệ thống hóa một cách hiệu quả và kinh tế nhất. Ngành kỹ thuật vô cùng rộng, nó bao gồm một loạt các lĩnh vực kỹ thuật đặc thù hơn, mỗi lĩnh vực nhấn mạnh đến những lĩnh vực công nghệ và những kiểu ứng dụng riêng. Những người hành nghề kỹ thuật được gọi là "kỹ sư". Tổ chức ECPD (tiền thân của tổ chức ABET) của các kỹ sư Hoa Kỳ định nghĩa "kỹ thuật" là "việc ứng dụng một cách sáng tạo những nguyên lý khoa học vào việc thiết kế hay phát triển các cấu trúc, máy móc, công cụ, hay quy trình chế tạo, hay những công trình sử dụng chúng một cách riêng lẻ hay kết hợp với nhau; hay vào việc xây dựng hay vận hành những đối tượng vừa kể với sự ý thức đầy đủ về thiết kế của chúng; hay để dự báo đặc tính hoạt động của chúng khi được vận hành trong những điều kiện nhất định; tất cả những việc này đều hướng đến một tính năng mong muốn, tính kinh tế khi vận hành, và sự an toàn đối với con người và của cải." Trong tiếng Việt, các từ "khoa học", "kỹ thuật", và "công nghệ" đôi khi được dùng với nghĩa tương tự nhau hay được ghép lại với nhau (chẳng hạn "khoa học kỹ thuật", "kỹ thuật công nghệ"). Tuy vậy, kỹ thuật khác với khoa học và công nghệ. Khoa học là hệ thống kiến thức về những định luật, cấu trúc, và cách vận hành của thế giới tự nhiên, được đúc kết thông qua việc quan sát, mô tả, đo đạc, thực nghiệm, phát triển lý thuyết bằng các phương pháp khoa học. Công nghệ là sự ứng dụng những phát minh khoa học vào những mục tiêu hoặc sản phẩm thực tiễn và cụ thể phục vụ đời sống con người, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp hoặc thương mại. Lịch sử. Ngành kỹ thuật đã tồn tại từ thời cổ đại, khi nhân loại nghĩ ra những phát minh đầu tiên như cái nêm, đòn bẩy, bánh xe, ròng rọc. Thuật ngữ "kỹ thuật" ("engineering") và "kỹ sư" ("engineer") có nguồn gốc từ thế kỷ 14, từ thuật ngữ "engine'er" nhằm nói về "những người chế tạo vũ khí quân sự", còn "engine" được dùng để nói về các thiết bị dùng làm vũ khí công thành như máy bắn đá, máy lăng đá. Sau đó, khi việc thiết kế công trình dân sự, như nhà ở hoặc cầu, dần phát triển trở thành một ngành kỹ thuật, thuật ngữ "kỹ thuật xây dựng dân dụng" ("civil engineering") bắt đầu chính thức được dùng để phân biệt những kỹ sư có chuyên môn về công trình phi quân sự và những kỹ sư về quân sự. Thời cổ đại. Những công trình vĩ đại như kim tự tháp Ai Cập cổ, đài chiêm tinh Ziggurat vùng Lưỡng Hà, thành Acropolis và đền Parthenon ở Hy Lạp, Đền Solomon ở Jerusalem, hệ thống cầu máng Pont du Gard, đại lộ Appia ("Via Appia") và Đấu trường La Mã, thành phố Teotihuacan, đền Brihadishvara... là những ví dụ minh chứng cho trình độ và tài năng của những kỹ sư thời cổ đại. Những công trình khác, tuy không còn tồn tại, như Vườn treo Babylon và Hải đăng Alexandria, là những thành tựu kỹ thuật quan trọng vào thời xa xưa và được xem là Bảy kỳ quan của thế giới cổ đại. Các loại máy cơ đơn giản được nghiên cứu và đề cập đến đầu tiên bởi nhà khoa học người Hy Lạp, Archimedes vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, khi ông viết hai tác phẩm "Về sự cân bằng của các hành tinh" ("On the Equilibrium of Planes") và "Về các vật thể nổi" ("On Floating Bodies"). Tuy nhiên, việc phát minh ra các loại máy cơ đơn giản đã có từ rất lâu trước đó. Cái nêm và đòn bẩy được biết đến từ thời Đồ Đá. Bánh xe cùng với hệ cơ học "trục và bánh xe" được phát minh ở vùng Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) vào khoảng thiên niên kỷ thứ 5 TCN. Đòn bẩy chính thức được ứng dụng làm công cụ lần đầu tiên vào khoảng 5.000 năm trước ở vùng Cận Đông, khi đó được người Ai Cập cổ đại sử dụng để làm cân và di chuyển những vật nặng. Đòn bẩy còn được ứng dụng làm cần kéo nước ("shadoof" hoặc "shaduf") – loại cần cẩu đầu tiên của nhân loại – ở vùng Lưỡng Hà vào khoảng 3.000 năm TCN và ở Ai Cập khoảng 2.000 năm TCN. Bằng chứng sớm nhất về việc sử dụng ròng rọc được tìm thấy ở vùng Lưỡng Hà từ khoảng 2.000 năm TCN và ở Ai Cập cổ đại vào thời Vương triều thứ Mười Hai (1991–1802 TCN). Đinh ốc, loại máy cơ học đơn giản phát minh sau cùng, được tìm thấy ở vùng Lưỡng Hà vào thời Đế quốc Tân Assyria (911–609 TCN). Người Ai Cập cổ đại đã ứng dụng ba trong số sáu máy cơ học đơn giản kể trên – mặt phẳng nghiêng, nêm, và đòn bẩy – để xây dựng những công trình vĩ đại như Đại kim tự tháp Giza. Những loại máy thủy lực đầu tiên như guồng nước, cối xay nước, được sử dụng sớm nhất ở thời Đế quốc Ba Tư (Iraq và Iran ngày nay) vào khoảng thế kỷ thứ 4 TCN. Imhotep, một người sống vào thời Ai Cập cổ đại, thường được ghi nhận là kỹ sư đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Vốn là vị tể tướng dưới thời vua Pharaon triều đại thứ Ba Djoser, ông được cho là người đã thiết kế và giám sát việc xây dựng Kim tự tháp Djoser (kim tự tháp bậc thang) ở Saqqara, Ai Cập vào khoảng năm 2625 TCN. Công trình Kim tự tháp Djoser do Imhotep xây dựng được xem là đại kim tự tháp bằng đá đầu tiên ở Ai Cập vì các lăng mộ Pharaon trước đó chỉ làm bằng gỗ hoặc gạch bùn phơi khô đồng thời góp phần giúp Ai Cập trở thành vùng đất của những công trình đá vĩ đại. Imhotep đã giải quyết những vấn đề kỹ thuật khó khăn khi xây dựng kim tự tháp như tìm cách tạo bề mặt nền móng bằng phẳng bằng cách đào kênh dẫn nước sông Nile vào và dùng nước để làm chuẩn khi xây dựng. Ông cũng tìm ra cách xẻ đá và vận chuyển những khối đá lớn để xây dựng kim tự tháp. Người Hy Lạp cổ đại cũng phát minh ra những loại máy móc cơ học để sử dụng trong lĩnh vực quân sự và xây dựng. Máy Antikythera, được xem là máy tính analog cơ đầu tiên của nhân loại, cùng với những phát minh của nhà khoa học thiên tài Archimedes, được xem là những ví dụ cho sự phát triển của ngành kỹ thuật của người Hy Lạp cổ. Archimedes là người chú trọng về việc thực nghiệm và ứng dụng những kết quả của lý thuyết vào thực tế, với những phát minh trong lĩnh vực cơ học như bơm trục vít Archimedes (vẫn được dùng đến ngày nay), máy Antikythera (nghiên cứu các hiện tượng thiên văn), pa lăng (bộ gồm nhiều ròng rọc), máy bắn đá, tia chiếu hội tụ... Việc phát minh ra máy Antikythera đòi hỏi kiến thức sâu sắc về hệ truyền động vi sai ("differential gearing") và ngoại luân ("epicyclic gearing") –hai nguyên lý chính yếu trong lý thuyết cơ học máy, sau này được ứng dụng trong thiết kế hệ truyền động bánh răng vào thời Cách mạng công nghiệp và vẫn được tiếp tục sử dụng đến ngày nay trong rất nhiều lĩnh vực, như kỹ thuật ô tô hoặc robot học. Quân đội của những đế chế cổ đại như Trung Hoa, Hy Lạp, La Mã, và Hung đã ứng dụng những phát minh quân sự trong các trận chiến của họ, như cung tên (được phát minh bởi người Hy Lạp từ khoảng thế kỷ thứ 4 TCN), tàu chiến ba tầng ("trireme"), máy phóng đá ("ballista"), và máy bắn đá. Máy lăng đá ("trebuchet") được phát minh vào thời Trung Cổ. Thời Trung Cổ. Những loại máy chạy bằng sức gió đầu tiên như cối xay gió hay bơm gió ("wind pump") được phát minh vào thời đại hoàng kim Hồi giáo, khoảng thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên, ở vùng cộng đồng Hồi giáo (khu vực các nước Iran, Afghanistan, và Pakistan ngày nay). Những loại máy vận hành bằng hơi nước, như máy nướng thịt chạy bằng tuabin hơi nước, được mô tả lần đầu tiên bởi Taqi ad-Din Muhammad ibn Ma'ruf khoảng năm 1551 vào thời kì Ai Cập thuộc Ottoman. Máy tách sợi bông ("cotton gin") đầu tiên được phát minh tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên, và guồng quay tơ (guồng xe sợi) được phát minh đầu tiên tại vùng cộng đồng Hồi giáo vào khoảng thế kỷ 11 sau Công nguyên, cả hai phát minh này được xem là nền tảng phát triển của ngành công nghiệp sợi bông sau này. Guồng quay tơ là tiền thân của máy xe nhiều sợi ("spinning jenny") – thiết bị quan trọng trong giai đoạn đầu của thời kỳ Cách mạng công nghiệp vào thế kỷ thứ 18. Trục khuỷu và trục cam được phát minh bởi Ismail al-Jazari ở vùng Thượng Lưỡng Hà vào khoảng năm 1206, và sau này trở thành bộ phận quan trọng trong các loại máy móc hiện đại như động cơ hơi nước, động cơ đốt trong, và cơ cấu điều khiển tự động. Những thiết bị lập trình đầu tiên được phát minh ở khu vực cộng đồng Hồi giáo. Bộ sắp xếp dãy âm thanh ("audio sequencer"), một dụng cụ âm nhạc lập trình được, là loại thiết bị lập trình xuất hiện sớm nhất. Bộ sắp xếp dãy âm thanh đầu tiên là máy thổi sáo tự động, được phát minh bởi anh em Banu Musa, được ghi chép trong tác phẩm "Sách về những thiết bị tân tiến" "(Book of Ingenious Devices)", vào khoảng thế kỷ thứ 9. Vào năm 1206, Ismail al-Jazari đã phát minh ra những robot lập trình đầu tiên. Ông mô tả bốn vị nhạc công tự động, bao gồm những tay trống được vận hành bởi máy đánh trống lập trình có thể chơi các tiết tấu và nhịp điệu khác nhau. Ismail al-Jazari cũng phát minh ra tháp đồng hồ, một loại đồng hồ thiên văn cơ học thủy lực, được xem là loại máy tính analog khả trình đầu tiên. Trước khi các ngành kỹ thuật hiện đại phát triển như ngày nay, những thợ thủ công như thợ máy, thợ đồng hồ, người đo đạc, đã ứng dụng toán học vào công việc của mình. Trong khi đó, những trường đại học được cho rằng đã không đóng góp gì đáng kể đến sự phát triển của công nghệ. Hệ thống tiêu chuẩn cho kỹ thuật cơ khí đầu tiên được đề cập đến trong trước tác về ngành kỹ thuật khai khoáng "Về bản chất của các kim loại" ("De re metallica") ra đời năm 1556, trong trong thời kỳ Phục Hưng. Tác phẩm "De re metallica" đề cập đến nhiều chủ đề bao gồm địa chất học và khai khoáng; đồng thời là tiêu chuẩn tham khảo cho ngành hóa học trong suốt 180 năm sau đó. Thời kỳ hiện đại. Lĩnh vực cơ học cổ điển, hay còn gọi là cơ học Newton, được xem là nền tảng của những ngành kỹ thuật hiện đại. Nhờ vào sự phát triển mạnh khi công việc kỹ sư dần trở thành những nghề nghiệp có chuyên môn cao vào thế kỷ 18, thuật ngữ "kỹ thuật" được dùng cho những lĩnh vực có ứng dụng đến toán học và khoa học. Tương tự, những lĩnh vực thuộc nhóm ngành kỹ nghệ cơ học thời Trung cổ ("mechanic arts") như nông nghiệp, quân sự, xây dựng, luyện kim..., dần được tập hợp chung thành nhóm các ngành "kỹ thuật". John Smeaton, kỹ sư người Anh, được xem là "cha đẻ" của ngành kỹ thuật xây dựng. Ông từng đảm trách việc thiết kế nhiều công trình như cầu, kênh đào, hải cảng, và hải đăng. Ông cũng là một kỹ sư cơ khí tài năng và đồng thời là nhà vật lý lừng lẫy. Smeaton đã nghiên cứu và tiến hành thực nghiệm dựa trên mô hình bánh xe nước trong suốt bảy năm nhằm tìm cách tăng hiệu suất hoạt động của nó. Ông cũng đã ứng dụng trục và bánh răng bằng sắt vào những bánh xe nước, đồng thời cải tiến động cơ hơi nước của Newcomen. Ngoài ra, Smeaton là người đầu tiên sử dụng "vữa vôi thủy hóa" ("hydraulic lime", một dạng vữa vôi được hydrat hóa) và kỹ thuật sử dụng những khối đá granit làm mộng đuôi én trong việc xây dựng Hải đăng Eddystone (1755–1759). Smeaton được xem là người có đóng góp lớn đến việc phát triển của xi măng hiện đại vì ông đã tìm ra công thức pha trộn thích hợp để đạt tính hóa cứng ("hydraulicity") cho vữa vôi, giúp dẫn đến việc phát minh ra xi măng Portland sau này. Những ngành khoa học ứng dụng cũng đã giúp dẫn đến sự phát triển của động cơ hơi nước với hàng loạt phát minh trong thế kỷ 17 và 18. Evangelista Torricelli, nhà khoa học người Ý và là học trò của Galileo, đã phát minh ra áp kế và cách đo áp suất khí quyển vào năm 1643. Đến năm 1656, nhà sáng chế người Đức Otto von Guericke đã minh họa lực tác động tạo ra bởi áp suất khí quyển bằng thí nghiệm sử dụng quả cầu Magdeburg. Nhà vật lý người Pháp, Denis Papin, đã tạo mô hình thí nghiệm động cơ hơi nước và piston vào năm 1707. Edward Somerset, Hầu tước đệ Nhị xứ Worcester, đã xuất bản cuốn sách tổng hợp 100 phát minh trong đó có phương pháp nâng khối lượng nước. Samuel Morland, nhà phát minh người Anh chuyên về các loại bơm, đã để quên những bản thảo thiết kế bơm hơi nước ở văn phòng Bộ lãnh thổ quốc phòng ("Ordinance Office") và Thomas Savery, một nhà phát minh người Anh khác, tình cờ tìm thấy. Savery sau đó đã thiết kế bơm hơi nước đầu tiên vào năm 1698, mà ông đặt tên là "Bạn của thợ mỏ" ("The miner's friend"); loại bơm này sử dụng cả áp suất chân không và áp suất dương. Thomas Newcomen, nhà phát minh người Anh, người đã tạo ra động cơ hơi nước có piston được sử dụng thương mại đầu tiên vào năm 1712, được cho rằng chưa được đào tạo bài bản về khoa học trước đó. Việc ứng dụng xi lanh gang xám chạy bằng hơi nước dùng để cung cấp khí nén cho lò luyện gang giúp tăng sản lượng sản xuất sắt trong thế kỷ 18. Nhờ năng lượng hơi nước, nhiệt độ lò cao tăng lên, đá vôi được sử dụng, giúp chuyển đổi nhiên liệu đốt từ than củi sang than cốc. Những phát minh này làm hạ giá thành sản xuất sắt, giúp việc sử dụng đoàn xe ngựa kéo và xây dựng cầu sắt trở nên dễ dàng hơn. Quy trình khuấy luyện, phát minh bởi Henry Cort vào năm 1784, cho phép tăng hiệu suất sản xuất sắt rèn lên. Phương pháp thổi gió nóng, được phát minh bởi James Beaumont Neilson vào năm 1828, giúp giảm lượng nhiên liệu cần thiết để nấu chảy quặng sắt. Ngoài ra, sự phát triển của động cơ hơi nước áp suất cao dẫn đến sự phổ biến của những động cơ đầu kéo hơi nước và tàu hơi nước. Những quy trình sản xuất thép tiên tiến như quy trình Bessemer hay lò nung đáy bằng (lò Martin) đã mở đường cho sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng vào cuối thế kỷ 19. Một trong những kỹ sư nổi tiếng nhất giai đoạn giữa thế kỷ 19 là Isambard Kingdom Brunel, với nhiều công trình như đường ray xe lửa, xưởng sửa chữa đóng tàu, và tàu hơi nước. Cách mạng công nghiệp đã tạo ra nhu cầu rất lớn về máy móc bằng kim loại, từ đó dẫn đến sự phát minh ra nhiều loại máy công cụ. John Wilkinson, nhà sáng chế người Anh, phát minh ra máy khoan bàn (hay còn gọi là máy khoan đứng) vào năm 1774 được xem là loại máy công cụ đầu tiên. Máy khoan đứng của Wilkinson, với khả năng có thể khoan lỗ có đường kính lên tới 1.250mm với sai số chỉ 1mm, được xem là một bước tiến vượt bậc vào thời đó và giúp hỗ trợ sự phát triển mạnh mẽ của các động cơ hơi nước. Các loại máy công cụ khác cũng lần lượt ra đời, như máy tiện ren, máy phay, máy tiện vô tâm ("turret lathe"), máy bào kim loại. Kỹ thuật cơ khí chính xác được phát triển vào nửa đầu thế kỷ 19. Các loại khuôn dẫn, gá lắp, bắt đầu được sử dụng để định hướng và cố định vật liệu khi gia công, giúp tăng độ chính xác. Những loại máy công cụ bắt đầu có thể sản xuất ra những linh kiện có thể thay thế được, từ đó dẫn đến việc sản xuất quy mô lớn vào cuối thế kỷ 19. Theo thống kê điều tra dân số Hoa Kỳ vào năm 1850, số lượng "kỹ sư" vào khoảng 2.000 người. Trước năm 1865, chưa đến 50 người tốt nghiệp đào tạo về ngành kỹ thuật ở Mỹ. Năm 1870, chỉ khoảng 12 sinh viên tốt nghiệp ngành kỹ thuật cơ khí, sau đó tăng lên 43 người tốt nghiệp vào năm 1875. Đến năm 1890, có khoảng 6.000 kỹ sư trong các ngành kỹ thuật xây dựng, khai khoáng, cơ khí, và điện. Trước năm 1875, đại học Cambridge chưa đào tạo ngành cơ học ứng dụng; còn đại học Oxford đến năm 1907 mới bắt đầu có ngành kỹ thuật đầu tiên. Nước Đức thành lập các trường đại học về kỹ thuật sớm hơn các đại học ở Anh. Bằng Tiến sĩ Kỹ thuật (gọi đúng hơn là "Tiến sĩ Khoa học ứng dụng và Kỹ thuật") đầu tiên ở Hoa Kỳ được trao cho Josiah Willard Gibbs tại Đại học Yale vào năm 1863. Đây cũng là bằng Tiến sĩ về khoa học thứ hai được trao tại Hoa Kỳ. Ngành kỹ thuật điện được hình thành vào thế kỷ 19 nhờ vào những thí nghiệm của những nhà khoa học như Alessandro Volta, Michael Faraday, Georg Ohm, cùng với sự phát minh ra điện báo vào năm 1816 bởi Francis Ronalds và động cơ điện vào năm 1837 bởi Thomas Davenport. Những công trình nghiên cứu lý thuyết của James Maxwell và Heinrich Hertz vào cuối thế kỷ 19 đã mở đường cho sự ra đời của lĩnh vực điện tử. Những phát minh sau đó, như đèn điện tử chân không và transistor, đã giúp lĩnh vực kỹ thuật điện–điện tử thu hút nhiều kỹ sư hơn bất kỳ ngành kỹ thuật nào khác. Ngành kỹ thuật hóa học được phát triển vào cuối thế kỷ 19. Việc sản xuất quy mô công nghiệp đòi hỏi phải sử dụng những loại vật liệu mới và quy trình sản xuất mới; chưa kể nhu cầu sản xuất hóa chất số lượng nhiều đã dẫn đến việc ra đời một lĩnh vực kỹ thuật riêng biệt. Vai trò của các kỹ sư hóa học liên quan đến việc thiết kế những nhà máy và quy trình sản xuất hóa chất. Ngành kỹ thuật hàng không là lĩnh vực thiết kế máy bay trong khi ngành kỹ thuật hàng không vũ trụ là một lĩnh vực mới, liên quan đến việc thiết kế tàu vũ trụ. Những người khởi đầu các ngành này là những nhà tiên phong vào đầu thế kỷ 20 tuy đã được nghiên cứu bởi George Cayley từ cuối thế kỷ 18. Những kiến thức thuở sơ khai của ngành kỹ thuật hàng không phần lớn đến từ kinh nghiệm cộng với những lý thuyết và kỹ năng tích lũy từ các lĩnh vực kỹ thuật khác. Chỉ một thế kỷ sau chuyến bay thành công của anh em nhà Wright, ngành kỹ thuật hàng không đã đạt bước tiến mạnh mẽ, khi phát triển những loại chiến đấu cơ phục vụ cho Thế chiến thứ Nhất. Trong khi đó, những nghiên cứu về khoa học cơ bản vẫn được tiếp tục nhờ vào việc kết hợp vật lý lý thuyết và thực nghiệm. Những ngành chính. Kỹ thuật là một ngành rộng và thường được chia thành nhiều ngành con. Những ngành này liên quan đến những lĩnh vực công việc kỹ thuật khác nhau. Mặc dù ban đầu người kỹ sư có thể được đào tạo trong một ngành cụ thể, nhưng trong suốt sự nghiệp của mình người này có thể làm việc liên quan đến nhiều ngành và trong những lĩnh vực công việc khác nhau. Kỹ thuật thường được xem là có bốn ngành chính: kỹ thuật cơ khí, kỹ thuật điện, kỹ thuật hóa học, và kỹ thuật xây dựng. Kỹ thuật cơ khí. Kỹ thuật cơ khí là lĩnh vực nghiên cứu, thiết kế, và chế tạo những hệ thống cơ học dựa trên những hiểu biết về những lĩnh vực cơ bản như động học, tĩnh học, nhiệt động lực học, cơ học lưu chất, truyền nhiệt, và cơ tính vật liệu. Kỹ thuật cơ khí có bốn phân nhánh quan trọng: thiết bị–máy móc dùng để sản xuất hàng hóa, sản xuất năng lượng, thiết bị quân sự, và kiểm soát môi trường. Những ứng dụng của kỹ thuật cơ khí bao gồm hệ thống cung cấp điện và năng lượng, sản phẩm hàng không và không gian, hệ thống vũ khí, phương tiện vận tải, động cơ đốt trong, tàu điện, chuỗi động ("kinematic chain"), công nghệ chân không, thiết bị cách ly rung động, robot, tuabin, thiết bị âm thanh, hệ thống sản xuất công nghiệp, kỹ thuật nhiệt, và cơ điện tử. Kỹ thuật điện. Kỹ thuật điện là lĩnh vực nghiên cứu, thiết kế, và chế tạo những hệ thống điện và điện tử. Những lĩnh vực chuyên ngành của kỹ thuật điện bao gồm: hệ thống năng lượng (như hệ thống sản xuất, truyền tải, phân phối và tiêu thụ điện), kỹ thuật điện tử (mạch điện tử và các linh kiện như điện trở, tụ điện, diode bán dẫn, transistor), kỹ thuật điều khiển–tự động hóa (như bộ xử lý tín hiệu số DSP, vi điều khiển, PLC, dụng cụ đo), vi mạch điện tử (như vi mạch tích hợp, công nghệ vi chế tạo, công nghệ micro, công nghệ nano), hệ thống viễn thông (như cáp đồng trục, cáp quang), hệ thống máy tính (như máy tính cá nhân hay hệ thống điều khiển trung tâm). Thông thường, hai phân ngành kỹ thuật điện tử và kỹ thuật máy tính được tách riêng thành hai lĩnh vực độc lập với kỹ thuật điện. Kỹ thuật hóa học. Kỹ thuật hóa học là lĩnh vực thực hiện sự biến đổi vật chất dựa trên những nguyên lý cơ bản về hóa học, vật lý, và toán học. Những khái niệm đặc trưng của ngành kỹ thuật hóa học bao gồm: tính toán, thiết kế và vận hành nhà máy, thiết kế quá trình hóa học (như sấy, lọc, trích ly, bay hơi) và hiện tượng vận chuyển (như truyền khối, truyền nhiệt, cơ lưu chất). Những kỹ sư hóa học tham gia nghiên cứu, thiết kế và vận hành những quá trình hóa học ở quy mô công nghiệp như sản xuất hóa chất cơ bản, lọc–hóa dầu, dược phẩm, polyme (như nhựa, sợi tổng hợp), giấy, năng lượng hạt nhân, luyện kim, nhiên liệu... Kỹ thuật xây dựng. Kỹ thuật xây dựng là lĩnh vực thiết kế, xây dựng, và bảo trì những công trình công cộng–tư nhân, như hạ tầng cơ sở (sân bay, cảng, đường bộ, đường sắt, hệ thống cấp nước và hệ thống xử lý nước, v.v...), cầu, đập nước, và các tòa nhà. Kỹ thuật xây dựng được chia thành nhiều chuyên ngành như kỹ thuật kết cấu, kỹ thuật môi trường, kỹ thuật khảo sát xây dựng. Về mặt lịch sử, ngành kỹ thuật xây dựng được tách ra từ ngành kỹ thuật quân sự. Những ngành kỹ thuật khác. Kỹ thuật hàng không vũ trụ. Kỹ thuật hàng không vũ trụ chuyên nghiên cứu, thiết kế, và chế tạo máy bay, vệ tinh, hỏa tiễn, trực thăng... Lĩnh vực này nghiên cứu sâu về sự chênh lệch áp suất và các hệ khí động lực học của một thiết bị nhằm đảm bảo an toàn và hiệu suất cao nhất. Vì đây là lĩnh vực nghiên cứu về lưu chất nói chung, nên có thể ứng dụng vào bất kỳ loại phương tiện di chuyển nào, ví dụ như xe hơi. Kỹ thuật hàng hải. Kỹ thuật hàng hải là lĩnh vực liên quan đến bất cứ thứ gì có mặt trên mặt biển hoặc ở gần biển. Một số ví dụ về đối tượng nghiên cứu của kỹ thuật hàng hải bao gồm: tàu thủy, tàu ngầm, giàn khoan dầu, hệ thống thủy lực, cảng biển... Lĩnh vực này sử dụng kiến thức kết hợp từ nhiều lĩnh vực kỹ thuật khác như kỹ thuật cơ khí, điện, xây dựng, lập trình. Kỹ thuật máy tính. Kỹ thuật máy tính là lĩnh vực kết hợp bởi ngành khoa học máy tính và kỹ thuật điện tử nhằm phát triển thiết bị phần cứng và phần mềm máy tính. Những kỹ sư máy tính thường được đào tạo về nhiều lĩnh vực chuyên môn như kỹ thuật điện tử (hoặc kỹ thuật điện), thiết kế phần mềm, tích hợp phần cứng–phần mềm, thay vì chỉ là kỹ thuật phần mềm hoặc kỹ thuật điện tử riêng lẻ. Kỹ thuật hệ thống. Kỹ thuật hệ thống là lĩnh vực chuyên về phân tích, thiết kế và điều khiển hệ thống kỹ thuật. Lĩnh vực này tập trung vào khoa học và công nghệ của hệ thống công nghiệp, nhằm phân tích và thiết kế hệ thống để sản xuất hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả. Kỹ thuật liên ngành. Kỹ thuật liên ngành là những lĩnh vực ứng dụng nhiều chuyên ngành kỹ thuật cơ bản khác nhau. Trong quá khứ, ngành kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật khai khoáng từng là những phân ngành kỹ thuật chính. Những lĩnh vực kỹ thuật liên ngành khác bao gồm: Kỹ thuật sản xuất, kỹ thuật âm thanh, kỹ thuật ăn mòn, kỹ thuật điều khiển–tự động, kỹ thuật không gian, kỹ thuật máy tính, kỹ thuật điện tử, kỹ thuật thông tin, kỹ thuật dầu khí, kỹ thuật môi trường, kỹ thuật hệ thống, kỹ thuật thu âm, kỹ thuật kiến trúc, kỹ thuật nông nghiệp, kỹ thuật hệ sinh học, kỹ thuật sinh học dược, kỹ thuật địa chất, kỹ thuật dệt, kỹ thuật công nghiệp, kỹ thuật vật liệu, và kỹ thuật hạt nhân. Những chuyên ngành kỹ thuật này thuộc 36 viện thành viên thuộc Hội đồng Kỹ thuật Anh quốc. Một số chuyên ngành mới, được kết hợp với những lĩnh vực truyền thống để tạo nên những lĩnh vực kỹ thuật hoàn toàn mới – như ngành kỹ thuật và quản lý hệ Trái Đất bao gồm nhiều lĩnh vực chuyên môn như phương pháp nghiên cứu kỹ thuật, khoa học môi trường, đạo đức kỹ thuật, và nguyên lý kỹ thuật.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Chăm Pa (tiếng Phạn: चम्पा, chữ Hán: 占婆 "Chiêm Bà", tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192 đến năm 1832. Cương vực của Chăm Pa lúc mở rộng nhất tương ứng với miền Trung Việt Nam ngày nay, trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía nam và từ biển Đông cho đến tận miền núi phía tây của nước Lào ngày nay. Qua một số danh xưng Lâm Ấp, Panduranga, Chăm Pa trên phần đất nay thuộc miền Trung Việt Nam. Văn hóa Chăm Pa chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Java, đã từng phát triển rực rỡ với những đỉnh cao nghệ thuật là phong cách Đồng Dương và phong cách Mỹ Sơn mà nhiều di tích đền tháp và các công trình điêu khắc đá, đặc biệt là các hiện vật có hình linga vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, cho thấy ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo là hai tôn giáo chính của chủ nhân vương quốc Chăm Pa khi xưa. Chăm Pa hưng thịnh nhất vào thế kỷ 9 và 10 và sau đó dần dần suy yếu dưới sức ép của các vương triều Đại Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer. Năm 1471, Chăm Pa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía bắc vào Đại Việt. Phần lãnh thổ còn lại của Chăm Pa bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và sau đó tiếp tục dần dần bị các chúa Nguyễn thôn tính và đến năm 1832 toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng. Lịch sử. Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính: Vương quốc Chăm Pa không phải là một quốc gia có thể chế chính trị "Trung ương tập quyền" mà là một dạng nhà nước liên bang gồm tộc người Chăm theo Đạo Bàlamôn, Phật giáo và Hồi giáo chiếm đa số và một số tộc người nhỏ hơn ở vùng núi Đêga Tây Nguyên điển hình cùng ngôn ngữ như Êđê, Giarai đã từng là cư dân vùng trung Chămpa duy trì tín ngưỡng dân gian Nam Đảo bản địa, nay hầu hết chuyển sang Kitô giáo từ giữa thế kỷ 19. Có những nguồn tài liệu cho biết Chăm Pa có thể được kết hợp từ bốn tiểu quốc là Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Mỗi tiểu quốc đều có thể chế chính trị theo hình thức tự trị và có quyền ly khai khỏi liên bang để xây dựng quốc gia riêng độc lập. Vương quốc Chăm Pa đã trải qua nhiều triều đại với nhiều lần dời đô từ Bắc vào Nam và ngược lại. Theo sử thi người Chăm, dân tộc chính của Chăm Pa là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía bắc và Chăm ở phía nam. Nhóm Nam Chăm thuộc bộ tộc Cau (Kramuta Vanusa) và nhóm Bắc Chăm thuộc bộ tộc Dừa (Naeikela Vanusa). Hai bộ tộc này vừa liên minh với nhau, vừa cạnh tranh nhau quyền đứng đầu Vương quốc Chăm Pa. Thời tiền sử. Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Mã Lai-Polynesia di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ 1 và 2 trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Văn hóa Sa Huỳnh. Văn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại đồ đồng rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ cacbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam từ khoảng năm 200. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng. Lâm Ấp (192 - 757). Theo sử liệu Trung Quốc, quốc gia cổ Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên với sự ra đời và tồn tại của Vương triều Sinhapura hay còn gọi là vương quốc Lâm Ấp (Liu) mà vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công. Vào thế kỷ 4, từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm. Vị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361 ở kinh đô Kandapurpura (Phật Thệ) thuộc Huế ngày nay. Tại thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó. Đầu năm 2013, các nhà khảo cổ công bố phát hiện khu di tích thành cổ tại làng Viên Thành, thôn Trung Đông, xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên. Đoạn tường thành dài khoảng 20 m, bề ngang 2 m đắp bằng đất sét; cùng các hiện vật khác như Kendi. Nhóm khảo cổ nhận định đây là khu thành bao bọc quanh kinh đô Sinhapura của Vương quốc Chăm Pa, được xây dựng khoảng thế kỷ 4-5. Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc. Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756. Vào cuối thời kỳ này, sử sách Trung Quốc vẫn ghi Chăm Pa là Lâm Âp, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là đến năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là đến năm 657. Sách sử Trung Hoa như sách Thông điển còn ghi nhận một loạt các quốc gia phía Nam Lâm Ấp như Tây Đồ (Trà Kiệu), Ba Liêu (Châu Sa), Khuất Đồ Kiển (Kauthara)... Hoàn Vương (757 - 859). Vào năm 757, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã chuyển từ Trà Kiệu xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với kinh đô Virapura gần Phan Rang ngày nay và thánh địa tôn giáo ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Po Nagar ở Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java tấn công kinh đô Virapura và đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga. Chiêm Thành-Champa (875 - 1471). Năm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay). Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ Bồ Tát Quán Thế Âm ("Avalokiteśvara"). Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ 9 và 10. Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Chăm Pa kết thúc năm 925, bắt đầu nhường bước với sự phục hồi của đạo thờ thần Siva, với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Siva giáo vào khoảng thế kỷ 10, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn, đây là thời kỳ văn minh Chăm Pa đạt đến đỉnh cao. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau này chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Chân Lạp ở phía tây nam. Các cuộc chiến tranh với Chân Lạp đã dẫn tới có hai giai đoạn Chăm Pa thuộc sự cai trị của người Khmer, đó là các giai đoạn 1145–1149 và giai đoạn 1190-1220, tiếp đó là cuộc chiến thành công chống lại đạo quân xâm lược của đế quốc Nguyên Mông vào năm 1283 do tướng Toa Đô (Sogetu) cầm đầu với ý định chiếm nơi đây làm bàn đạp tấn công Đại Việt . Tuy nhiên dấu ấn mạnh nhất vẫn là các cuộc chiến tranh với Đại Việt, không như các cuộc chiến với Chân Lạp và Trung Quốc, những cuộc chiến tranh với người Việt đã làm vương quốc Chăm Pa lần lượt mất lãnh thổ và dần suy yếu dẫn tới sụp đổ. Năm 938 người Việt đã giành được độc lập từ tay người Trung Quốc. Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt mở cuộc nam chinh đầu tiên, quân Đại Việt đã đánh chiếm và tàn phá kinh đô Indrapura, giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt bắt đầu gọi là Đồ Bàn hoặc Chà Bàn. Trong 5 thế kỷ tiếp theo giữa Chăm Pa và Đại Việt đã xảy ra rất nhiều các cuộc chiến tranh, Chăm Pa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021, 1026, 1044. Tiếp đó, vào năm 1069 quân Việt tấn công Chăm Pa. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính ở phía bắc gần biên giới với Đại Việt để lấy tự do. Vào năm 1307 khi quan hệ giữa Cham Pa và Đại Việt tương đối tốt đẹp, vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), đã nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Sau sự kiện này, Chăm Pa chỉ còn lại lãnh thổ từ sông Thu Bồn trở vào. Vị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Che Bonguar (Chế Bồng Nga) lên ngôi năm 1360. Từ năm 1371 đến năm 1389, ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra Thăng Long kinh đô của Đại Việt. Ông chết trong lần tấn công cuối cùng năm 1389 và một vị tướng của ông là La Ngai (La Khải) rút về Vijaya để lên ngôi thay thế. Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, đến lượt Chăm Pa liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công và bị mất dần lãnh thổ. Sau các cuộc tấn công vào các năm 1402 và 1446, tới năm 1471 vua Lê Thánh Tông chỉ huy tấn công Chăm Pa, phá hủy kinh đô Vijaya, vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường tới Thăng Long. Lê Thánh Tông đã sáp nhập các địa khu Amaravati và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam. Theo sử Việt Nam, sau khi mất vùng Vijaya, một tướng Chăm là Bô Trì Trì chạy vào nam chiếm vùng Panduranga xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần với Đại Việt. Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (Hoa Anh) tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay và nước Nam Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên). Chính thất bại này đã dẫn đến việc người Chăm lần đầu tiên di cư với số lượng lớn sang Campuchia và Malacca. Hoa Anh-Kauthara (1471 - 1611). Người được vua Lê Thánh Tông phong vương xứ Kauthara (Hoa Anh) là Bàn La Trà Duyệt. Bàn La Trà Duyệt từng là đại quan trong triều đình Maha Vijaya. Bàn La Trà Duyệt ngầm xây dựng lực lượng nhằm giành lại Vijaya, mặt khác sai sứ sang nhà Minh trợ giúp, tuy nhiên bị thất bại và bị quân Lê Thánh Tông bắt vào năm 1490, đưa Trai Á Ma Phất Am (Jayavarman) lên ngôi vua Hoa Anh. Năm 1578, Lương Văn Chánh là tướng của chúa Nguyễn Hoàng cầm quân tiến vào Kauthara, vây và hạ Thành Hồ – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Champa, nằm tại huyện Phú Hòa, phía Tây thành phố Tuy Hòa ngày nay - đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chánh cũng đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn. Trong khoảng 3 năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỉ XVII, Panduranga từ phía Nam nhiều lần tái chiếm Kauthara, đuổi người Việt khỏi miền đất này. Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm, mà sử Việt gọi là Văn Phong, đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Sang năm 1653, nhân việc vua Chăm Pa là Po Nraop (Bà Tấm) quấy phá biên giới phía nam, chúa Nguyễn Phúc Tần đã gởi một đoàn quân sang tấn công Chăm Pa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop đưa về Huế. Trên vùng đất cũ của tiểu vương quốc Kauthara chúa Nguyễn Phúc Tần lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa và Vạn Ninh) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh, Nha Trang, Cam Lâm và Cam Ranh). Vậỵ là vào năm 1653 Kauthara hoàn toàn bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Kauthara thất thủ, đền Po Nagar ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước tượng Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một đền ở Mông Đức gần làng Hữu Đức (Phan Rang) bây giờ. Panduranga (1611 - 1698). Phần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa từ sau năm 1471 mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ đèo Cả ngày nay trở về nam, gồm hai địa khu Kauthara và Panduranga. Năm 1594 vua Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp sultan xứ Johor tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca. Năm 1611 Nguyễn Hoàng đã thực hiện cuộc Nam tiến đầu tiên sau khi trấn giữ Thuận Quảng. Tiến chiếm đất từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa) của vương quốc Chăm Pa khi đó đã suy yếu rất nhiều, lập thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Văn Phong trấn giữ. Năm 1629, Văn Phong liên kết với người Chăm Pa nổi lên chống lại chúa Nguyễn. Chúa Sãi cử Phó tướng Nguyễn Hữu Vinh đem quân dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên. Năm 1631, chúa gả con gái là Ngọc Khoa (có sách gọi là Ngọc Hoa) cho vua Chăm Pa là Po Rome. Cuộc hôn phối này làm quan hệ Việt - Chăm diễn ra tốt đẹp Năm 1653, Bà Thấm quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền cho 3000 quân sang đánh, quân Nguyễn hạ được thành. Bà Thấm trốn chạy, sau phải dâng thư xin hàng, vùng phía đông sông đến địa đầu Phú Yên (vùng Kauthara) bị mất vào tay chúa Nguyễn, chỉ còn phần phía tây sông (vùng Panduranga) là thuộc về Chăm Pa. Tới năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tấn công vào Panduranga, bắt vua Po Sout đưa về Phú Xuân và đưa em trai của Po Sout là Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) lên làm vua, Panduranga được đổi thành Thuận Thành Trấn và vua Chăm được gọi là Trấn Vương cai trị Thuận Thành Trấn với sự giám sát chặt chẽ của các quan lại của chúa Nguyễn. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1838 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn. Tuy nhiên, các đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận. Thuận Thành Trấn (1693 - 1832). Ngay sau khi Minh Mạng lên ngôi, ông phân bố lại hành chính, chia Bình Thuận trấn thành 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Minh Mạng hạn chế hơn nữa quyền lực của hoàng gia Chăm. Năm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can), vị vua cuối cùng của Champa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia. Năm 1832 người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp có cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở phía nam nhưng không thành công. Chính quyền tự trị hạn chế của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm 1832, khi Hoàng đế Minh Mạng đổi Thuận Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp. Lịch sử vương quốc Chăm Pa chính thức dừng lại ở đây. Lịch sử miền đất Đêga Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm 1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) còn chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục thì vua Lê Thánh Tông phong cho dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương, đây là một quốc gia cổ sơ khai của người Giarai và Ê đê và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Đêga Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá của người Ê đê và Giarai tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc. Địa lý. Cương vực. Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15, lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa có nhiều biến động về biên giới phía bắc với Đại Việt. Lãnh thổ Chăm Pa ban đầu là vùng mà ngày nay bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Đến năm 1069, vua Rudravarman (Chế Củ) của Chăm Pa đã nhượng ba châu Địa Lý (Lệ Thủy, Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình ngày nay), Ma Linh (Bến Hải, Quảng Trị ngày nay) và Bố Chính (các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa tỉnh Quảng Bình ngày nay) cho vua Lý Thánh Tông của Đại Việt và lãnh thổ Chăm Pa chỉ còn từ nam Quảng Trị ngày nay trở xuống. Đến năm 1306, vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) nhượng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần. Nhà Trần đổi hai châu này thành hai châu Thuận và châu Hóa nay là vùng từ nam Quảng Trị cho đến Đà Nẵng, Điện Bàn. Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi đánh bại quân Chiêm và sáp nhập phần lớn lãnh thổ Chiêm đã xác lập lãnh thổ Chiêm chỉ bao gồm các tỉnh Phú Yên – Khánh Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay. Về phía tây, tuy lãnh thổ Chăm Pa bao gồm cả Tây Nguyên và đôi khi còn mở rộng sang tận Lào ngày nay, nhưng người Chăm vẫn duy trì lối sống của những người đi biển với các hoạt động thương mại đường biển, và chỉ định cư ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tách phần đất thuộc Tây Nguyên ngày nay thành nước Nam Bàn thành tiểu quốc gia sơ khai riêng cho người Giarai và Ê đê và từ đây miền đất này không còn thuộc cương vực của Chăm Pa. Các địa khu. Kể từ năm 757, trên lãnh thổ Champa hiện diện 5 địa khu với tên gọi phát xuất từ lịch sử Ấn Độ. Vị trí và cương vực của mỗi lãnh địa như sau: Văn hóa nghệ thuật. Văn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đều có ảnh hưởng đến văn hóa Chăm Pa. Từ thế kỷ 4 vương quốc Phù Nam ở Campuchia và miền Nam Việt Nam ngày nay đã truyền bá văn minh Ấn Độ vào xã hội Chăm. Tiếng Phạn trở thành ngôn ngữ học thuật, và Ấn giáo, đặc biệt là Shiva giáo, trở thành quốc giáo. Từ thế kỷ 10, các thương nhân Ả Rập đã mang tôn giáo và văn hóa đạo Hồi vào khu vực. Chăm Pa có vai trò trung chuyển quan trọng trên con đường hồ tiêu từ vịnh Pec-xich tới miền nam Trung quốc và sau này là con đường thương mại trên biển của người Ả Rập, xuất phát từ bán đảo Đông Dương - nơi xuất khẩu trầm hương. Mặc dù giữa Chăm Pa và đế quốc Khmer luôn có chiến tranh, nhưng thương mại và văn hóa vẫn được giao lưu về cả hai phía. Hoàng gia của hai vương quốc cũng thường xuyên lấy lẫn nhau. Chăm Pa còn có quan hệ thương mại và văn hóa với các đế quốc hùng mạnh trên biển như Srivijaya và sau này với Majapahit trên bán đảo Mã Lai. Tôn giáo, tín ngưỡng. Trước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1311, tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ. Ấn Độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Shiva giáo, tức là đạo thờ thần Shiva, và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng chính của tôn giáo Shiva của người Chăm là linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và kosa. Việc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh Quảng Nam ngày nay) theo Phật giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáo Chăm Pa thời Đồng Dương được công nhận là một trong những phong cách độc đáo. Trong thế kỷ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáo chính của Chăm Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáo và cũng là các công trình kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như Mỹ Sơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Chánh Lộ và Tháp Mẫm. Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ 10, nhưng chỉ sau năm 1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ 17 thì hoàng gia Chăm đã theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắt đầu theo đạo này, và khi vùng đất này bị sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớn người Chăm ở đây đã theo đạo Hồi (xem Hồi giáo Chăm Bani). Phần lớn người Chăm đều là người Hồi giáo và cũng giống như người Java ở Indonesia, họ còn chịu nhiều ảnh hưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn ghi lại câu chuyện công chúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến chồng là Kertawijaya, người cai trị đời thứ bảy của Majapahit, tương tự như câu chuyện với Parameshwara, người đã cải đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit. Ngôi mộ của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn còn thấy ở Trowulan, nơi xưa kia là kinh đô của Majapahit. Kiến trúc, điêu khắc. Kiến trúc Chăm Pa được phân tích qua các tháp Chăm thờ các vị thần Ấn Độ giáo và các vị vua Chăm được hóa thần còn sót lại cũng như dấu tích của các tòa thành cổ, tu viện phật giáo thời Indrapura. Về phong cách kiến trúc điêu khắc các tháp được các nhà nghiên cứu thường chia ra làm nhiều thời kỳ, mỗi một thời kỳ có những thay đổi khác nhau, dấu ấn riêng biệt của người Chăm là kỹ thuật làm gạch kết dính để xây tháp và chạm trổ trên đá. Cùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc Chăm Pa là một trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm cỡ thế giới. Tuy ảnh hưởng nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer nhưng điêu khắc Chăm Pa vẫn có những tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới tượng tròn của hầu như tất cả các hình chạm khắc dưới dạng phù điêu, trong điêu khắc Chăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn mạnh vào từng hình tượng, ví dụ như bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm thấy ở Trà Kiệu thể hiện bàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc của Chăm Pa mang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là đặc điểm quan trọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa. Chữ viết, bia ký. Văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng vào Chăm Pa từ những thời kỳ đầu, dẫn tới các trước tác về luật pháp, chính trị xã hội đều có mặt ở Chăm Pa, được các vua chúa Chăm áp dụng và ưa thích. Chữ bắc Phạn (Sanskrit) đã được người Chăm tiếp thu từ những thế kỷ đầu công nguyên, các chữ viết trên bia Võ Cạnh ở thế kỷ 3 với cách viết rất gần với kiểu viết của các bia ký vùng Amaravati ở Nam Ấn Độ, tuy nhiên chữ viết của Chăm Pa trong hơn 10 thế kỷ tồn tại của mình cũng liên tục thay đổi tương ứng với những thời kỳ ảnh hưởng từ các vùng khác nhau ở Ấn Độ, từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 8, chữ Phạn ở Chăm Pa có dạng tự vuông của vùng bắc Ấn, nhưng từ thế kỷ 9 trở đi chữ Phạn ở Chăm Pa lại có dạng tự tròn của vùng nam Ấn, có thể nhận định Chăm Pa là quốc gia đầu tiên có chữ viết sớm nhất Đông Nam Á. Xuất phát từ dạng tự của chữ Phạn, người Chăm đã bỏ các phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành một dạng chữ Phạn-Champa, theo các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (Akhar Thrah) của Ấn Độ. Theo thống kê của các học giả người Pháp vào năm 1923, số bia ký Chăm đã được biết là 170, tất cả các bia ký Chăm đều được khắc lên đá thành những tấm bia to và đẹp và một số bia ký khác được khắc lên tường của các tháp Chăm. Các văn bia cổ Chăm Pa là những văn bản gần như duy nhất thể hiện ý tưởng của các vị vua và triều đình, trong số 123 bia ký có thể hiểu được nội dung thì 92 bia nói về Shiva giáo, 5 bia về thần Brahma, 3 bia về thần Visnu, 7 bia về đức Phật và 21 bia không rõ tính tôn giáo. Văn học, ghi chép. Do chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ cho nên ý nghĩa văn chương được thể hiện trong các bia ký, các tác giả bia ký cố gắng dùng lời lẽ văn hoa, nhiều điển tích và ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện ý tưởng của mình, vì thế mà văn bia Chăm Pa là một mảng quan trọng nhất của văn học Chăm Pa, các bia ký Chăm Pa bằng chữ Phạn được viết chủ yếu theo những thể thơ của Ấn Độ, văn học Ấn Độ qua hình thức truyền khẩu trong dân gian chắc cũng có mặt ở Chăm Pa, điều này được thế hiện qua việc người Chăm dựng đền thờ Rsi Valmiki, người được coi là tác giả của sử thi Ramayana cũng như các bức phù điêu thể hiện các nhân vật có trong sử thi Ramayana như chàng Rama, nàng Sita. Ngoài bộ sử thi Ramayana, các bộ sử thi khác của Ấn Độ cũng được phổ biến ở Chăm Pa như bộ Mahabharata và thậm chí là truyện ngụ ngôn Ấn Độ qua bộ Bhagavata. Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là "Ying-yai Sheng-lan" (Doanh nhai thắng lãm), thì văn bản ghi chép trong xã hội Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả: Âm nhạc, ca múa. Âm nhạc và ca múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, ở các tín ngưỡng như lễ năm mới "Rija Nagar", lễ "Kate" vào tháng 7 Chăm lịch, lễ cầu đảo, lễ mở cửa tháp. Việc dùng các hình thức nhạc cụ tùy thuộc vào tính chất các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau. Trống "Baranâng" và trống "gineng" là loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn "Saranai" có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng rất phong phú và độc đáo, người Chăm có các điệu múa khác nhau như: múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể, múa độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng. Tổ chức xã hội. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu dân tộc học và điền dã cũng như tổng quan các nghiên cứu về xã hội người Chăm đều tập trung vào người Chăm hiện đại. Đến nay chưa có một công trình nghiên cứu lịch sử nào, nhất là các công trình dựa trên khảo cứu văn bia hay văn tịch cổ của người Chăm cho ra các kết luận khách quan có chứng cứ về xã hội Chăm Pa cổ, tuy nhiên từ những sử liệu, bia ký rời rạc chúng ta có thể điểm được một số yếu tố trong tổ chức xã hội Chăm Pa. Luật pháp. Các bia ký và các tác phẩm điêu khắc không thể hiện cho thấy bất kỳ một thiết chế luật pháp nào, tuy nhiên qua ghi chép của Mã Đoan tới đây vào đầu thế kỷ 15 có thể cho chúng ta thấy một phần nào về luật pháp của Chăm Pa thời kỳ đó: Hệ thống đẳng cấp. Một số nghiên cứu dựa trên nền văn hóa Ấn hóa của người Chăm đều trình bày xã hội dưới dạng các đẳng cấp ("caste") trong kinh Vệ Đà trước khi đi vào khảo cứu các di tích văn hóa nghệ thuật Chăm Pa còn lại. Theo đó, xã hội Vệ Đà có bốn đẳng cấp, đứng đầu là đẳng cấp giáo sĩ Brahman chuyên về thờ cúng, tiếp theo là đẳng cấp Ksatria tức chiến binh có nhiệm vụ bảo vệ các đẳng cấp kia. Các học giả hiện đại theo xu hướng nghiên cứu thực chứng đã tỏ ra dè dặt hơn và không đề cập gì từ phương diện nghiên cứu sử học, nhất là từ các tài liệu văn bia về cơ cấu xã hội của Chăm Pa cổ. Các sự kiện lịch sử, như việc Lưu Kế Tông, một người Việt chứ không phải người Chăm làm vua Chăm Pa cho dù chỉ có ba năm (983-986) rồi bị người Chăm đoạt lại vương vị cũng chứng tỏ cơ cấu xã hội Chăm Pa cổ phức tạp hơn trong kinh Vệ Đà nhiều. Tóm lại, việc xem xã hội Chăm Pa cổ là xã hội Vệ Đà với bốn đẳng cấp như ở Ấn Độ cổ (hay năm đẳng cấp với đẳng cấp thứ năm là ngoại nhân) cần được nhìn nhận rất thận trọng vì chưa có công trình nghiên cứu nào từ cứ liệu văn khắc Chăm cổ chứng minh. Chế độ mẫu hệ. Nhiều học giả trong nước trên cơ sở nghiên cứu chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại của người Chăm hiện nay và trên cơ sở nghiên cứu cụ thể các cặp linga-yoni, đặc biệt là linga phân tầng, cả linga phân làm ba tầng thể trimutri (ba thể của Thượng đế) và hai tầng (linga và yoni - âm và dương) được đặt trên bệ đá hình vuông có khe để nước chảy thoát ra chính là yoni được đặt bên dưới linga, thì cho rằng ở xã hội Chăm cổ vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũng rất to lớn. Tuy nhiên, cũng giống như ở trên, đấy mới chỉ là một suy luận chứ chưa có các tài liệu văn bia chứng minh và chưa có công trình nghiên cứu lịch sử dựa trên các văn khắc Chăm cổ nào đề cập đến việc này. Thể chế chính trị. Nền quân chủ. Vương quốc Chăm Pa bị diệt vong, di tích để lại cũng như những ghi chép từ sử liệu không đủ để xác định tất cả các đời vua và các thông tin chi tiết về năm cai trị của tất cả các vua. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu, trong đó có cả các bia khảo cổ, di tích của người Chăm, tới nay xác định được khoảng 10 triều đại với gần 100 vị vua Chăm Pa. Một số vua Chăm Pa được gọi tên phiên âm theo tiếng Hán, theo cách gọi của các thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc. Một số vị có tên Chăm được phục hồi qua đối chiếu tên bằng tiếng Phạn và tiếng Hán, như "Cambhuvarman" tức "Phạm Phan Chí" hoặc "Kandharpadjarma" tức "Phạm Đầu Lê"..., do được xuất hiện trong cả bi ký Chăm và thư tịch Hán. Hệ thống Mandaladasia. Các học giả hiện đại quan niệm thể chế chính trị và hành chính của vương quốc Chăm Pa theo hai thuyết đối lập nhau. Mặc dù các học giả đều thống nhất việc vương quốc Chăm Pa bị chia nhỏ thành bốn địa khu (Panduranga, Kauthara, Vijaya, Amaravati) chạy từ nam lên bắc dọc theo bờ biển Việt Nam ngày nay và được thống nhất bởi ngôn ngữ, văn hóa và di sản chung. Tuy nhiên, các học giả không thống nhất việc các địa khu này có cùng thuộc một thực thể chính trị đơn nhất, hay là các địa khu hoàn toàn độc lập với nhau như là các tiểu quốc. Nhiều tác giả quan niệm Chăm Pa là một liên bang bao gồm nhiều tiểu quốc, tuy có chính quyền trung ương thống nhất nhưng các tiểu vương hoàn toàn tự quyết cai trị tiểu quốc của mình. Một thực tế là không phải lúc nào các tài liệu lịch sử cũng phong phú đối với mỗi địa khu ở tất cả các giai đoạn. Ví dụ, vào thế kỷ 10, tài liệu về Indrapura rất phong phú trong khi ở thế kỷ 12 lại rất giàu tài liệu về Vijaya; còn sau thế kỷ 15 thì tài liệu về Panduranga rất phong phú. Một số học giả xem việc biến động của các tài liệu lịch sử trên là phản ánh việc di dời của thủ đô Chăm Pa và quan niệm Chăm Pa nếu không phải là một thể chế chính trị đơn nhất thì cũng là một liên bang các tiểu quốc và việc tài liệu phong phú chính minh chứng cho điều này là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả nhận thấy, thế kỷ 10 tài liệu về Indrapura rất phong phú, có lẽ xuất phát từ lý do đây là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả khác không nhất trí như vậy và cho rằng Chăm Pa chưa bao giờ là một quốc gia thống nhất và không cho rằng việc giàu cứ liệu ở một giai đoạn lịch sử là cơ sở để cho rằng đó là thủ đô của quốc gia thống nhất. Kinh tế. Trong khi có nhiều công trình nghiên cứu về đời sống, hoạt động kinh tế và cơ cấu, tổ chức và các mặt khác nhau của người Chăm hiện đại thì chưa có những công trình nghiên cứu như vậy cho vương quốc Chăm Pa cổ. Lý do cũng thật dễ nhận thấy vì những gì thuộc về thượng tầng kiến trúc là những thứ khó còn lại với thời gian và sử liệu về một vương quốc có thời đã dựng nền những đền tháp rực rỡ chạy dài suốt ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay cũng chỉ còn qua các phế tích. Qua các công trình nghiên cứu lịch sử, các tác giả cho rằng nền kinh tế Chăm Pa xưa chủ yếu dựa vào các hoạt động nông nghiệp, sản xuất đồ thủ công và thương mại. Các dấu vết còn lại ở miền Trung Việt Nam của những hệ thống thủy lợi phức tạp và những giống lúa có chất lượng cao đặc trưng riêng của miền Trung được xem là các bằng chứng của một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển cao. Vương quốc Chăm Pa xưa có được vị trí thuận lợi cho sự phát triển thương mại đường biển. Các cảng biển của vương quốc là những điểm trung chuyển giao lưu hàng hóa quốc tế cũng như để xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu từ khai thác rừng ở miền thượng của các đồng bằng ven biển và Tây Nguyên. Từ thế kỷ 10, các cảng của Chăm Pa đã được biết đến như là những thương cảng quan trọng trên Biển Đông, nằm trên hành trình thương mại đường biển giữa phương Đông và phương Tây vẫn được gọi là "Con đường tơ lụa trên biển". Các sản phẩm xuất cảng của Chăm Pa là sản phẩm của sản xuất đồ thủ công như các đồ gốm sứ, đất nung và cả các sản phẩm khai thác miền rừng như sừng tê, ngà voi, và đặc biệt là trầm hương, và cả của hoạt động khai thác tổ yến trên các đảo ngoài khơi. Về phương tiện thanh toán trong giao dịch thương mại, Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là "Ying-yai Sheng-lan" (Doanh nhai thắng lãm), thì giao dịch thời kỳ này được miêu tả: Dân tộc dân cư. Người Chăm trong thời vương quốc Chăm Pa lịch sử bao gồm hai bộ tộc chính là bộ tộc Dừa (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa). Bộ tộc Dừa sống ở Amaravati và Vijaya trong khi bộ tộc Cau sống ở Kauthara và Pandaranga. Hai bộ tộc có những cách sinh hoạt và trang phục khác nhau và có nhiều lợi ích xung đột dẫn đến tranh chấp thậm chí chiến tranh. Nhưng trong lịch sử vương quốc Chăm Pa các mối xung đột này thường được giải quyết để duy trì sự thống nhất của đất nước thông qua hôn nhân. Bên cạnh người Chăm, chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa còn có cả các tộc người thiểu số gốc Nam Đảo và Mon-Khmer và ở phía Bắc Chăm Pa còn có cả người Việt. Di sản ngày nay. Rất nhiều tháp cổ của người Chăm vẫn còn ở miền Trung Việt Nam. Một điển hình về kiến trúc là thánh địa Mỹ Sơn gần Hội An. Thánh địa Mỹ Sơn bị bom Mỹ hủy hoại nặng nề trong chiến tranh nhưng đã được phục chế lại sau chiến tranh từ thập niên 1980 với những đóng góp to lớn của kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997). Năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Ngoài ra còn có các di tích tháp Chăm ở miền Trung vẫn được cộng đồng người Chăm hiện nay sử dụng để thờ tự như: Các hiện vật điêu khắc Chăm phong phú nhất có tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng (trước đây là "Musée Henri Parmentier") ở thành phố biển Đà Nẵng. Viện bảo tàng được thành lập từ năm 1915 bởi học giả người Pháp và đến nay vẫn được xem là một trong những bảo tàng lớn ở Đông Nam Á. Các hiện vật Chăm cũng có mặt tại các viện bảo tàng khác như:
449
449_pa_chm_po_panduranga
[ "pa", "chm", "po", "panduranga", "indravarman", "kauthara", "vijaya", "champa", "vua", "khmer" ]
[ "Panduranga (tiếng Hindi: पाण्डुराग / Pāṇḍuraṅga ; chữ Hán: 潘朧 / Phan-lung, 潘郎 / Phan-lang, 環王 / Hoàn-vương) là một tiểu quốc tồn tại trong giai đoạn 757 - 1832, tương ứng khu vực hiện nay là Ninh Thuận và Bình Thuận. Panduranga được biết đến là xứ Champa có cương vực rộng nhất và tồn tại sau cùng, khi vương quốc Chămpa bị người Việt triệt phá vào các năm 1471 và 1653.\nLịch sử.\nLịch sử Chăm Pa thời kỳ đầu qua các sử liệu và bia ký chỉ cho thấy những thông tin ở miền Bắc tại vùng Amaravati và Vijaya. Thông tin về các địa khu/tiểu quốc phía nam như Panduraga và Kauthara nhắc tới muộn hơn. Có những công trình nghiên cứu cho rằng trước khi hợp nhất vào Lâm Ấp, Panduranga là vùng lãnh thổ chư hầu của vương quốc Phù Nam.\nSau sự sụp đổ của các vương triều phía bắc trong thời kỳ Lâm Ấp, vào năm 757 một vương triều mới ở phía Nam lên nắm quyền kiểm soát toàn Chăm Pa, với kinh đô là Virapura, trong thời kỳ tiểu quốc Panduranga. Virapura nói riêng và Panduranga nói chung thực sự là trung tâm quyền lực của vương quốc, và đến năm 859 mới kết thúc vai trò trung tâm của mình đến thế kỷ 15. Tuy nhiên với thời gian, Panduranga lại trở thành nạn nhân của sự thịnh vượng, các thế lực lân bang liên tục tràn vào cướp phá. Trong suốt 21 năm, từ 854 đến 875, quân của đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến đánh Panduranga, chiếm nhiều vùng đất rộng lớn dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng qua cao nguyên Langbian, đột nhập vào lãnh thổ Panduranga cướp phá. Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh Vikrantasvara), không người kế tự, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp. Năm 859, một vương tôn có nhiều chiến công, tên là Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, được triều thần đưa lên ngôi, hiệu Jaya Indravarman II. Quốc hiệu Campapura (đất nước của người Chăm -theo tiếng Phạn cổ) được Indravarman II chính thức sử dụng. Sử sách Trung Hoa phiên âm là \"Changcheng\" hoặc Chiêm Thành hoặc Chiêm Bà, tiếng Tây phương là Champa.\nTừ năm 1471, sau khi kinh đô Vijaya thất thủ trước Đại Việt, Chăm Pa mất các lãnh thổ miền bắc từ đèo Cù Mông trở ra. Người Chăm tập trung quay về khu vực phía Nam với vương quốc mới là Panduranga, từ lúc đó địa khu Panduranga lại trở thành trung tâm hành chính của người Chăm tới năm 1832 khi nhà Nguyễn xóa hẳn quy chế tự trị.\nTriều đại.\nThời kỳ Hoàn Vương (757 - 859).\nHoàn Vương quốc ra đời sau một cuộc thay đổi quyền lực ở Lâm Ấp, vương quốc vốn tồn tại tại vùng này trước đó.\nNăm 757, một tiểu vương ở phía nam Lâm Ấp nổi lên hạ bệ Bhadravarman II - nhà vua trẻ của Lâm Ấp vừa lên ngôi - rồi tự xưng vương, hiệu Prithi Indravarman, chấm dứt dòng Gangaraja phía bắc.\nTheo bia ký đọc được, Prithi Indravarman là người đã thống nhất lãnh thổ Chăm pa một cách chính danh nhất, vì được triều thần công nhận là \"người thống lãnh toàn bộ đất nước như Indra, thần của các vị thần\". Tuy đất nước đã được thống nhất, lãnh thổ này vẫn chưa có tên. Khi sang Trung Hoa triều cống, không biết sứ thần của Prithi Indravarman đã giải thích như thế nào mà sử liệu cổ Trung Hoa đặt tên lãnh thổ mới của người Chăm trong thời kỳ này là Hoàn Vương quốc (tức vương quyền trở về quê cũ). Việc làm đầu tiên của Prithi Indravarman là dời kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử tức Trà Kiệu, Quảng Nam ngày nay) về Virapura.\nDưới thời Prithi Indravarman, văn minh và văn hóa Ấn Độ từ phía nam đưa lên lấn át toàn bộ sinh hoạt của người Chăm phía bắc; tiếng Phạn được phổ biến rộng rãi trong giới vương quyền và các nơi thờ phụng; đạo Bà la môn được đông đảo người theo; đạo Phật nguyên thủy Thượng toạ bộ (\"Theravada\") phát triển mạnh trong dân gian; đền đài, dinh thự và chùa tháp được xây dựng lên khắp nơi, nhiều nhất là tại Khu Lật (Huế), Amavarati (Mỹ Sơn), Sinhapura (Trà Kiệu)... để tạ ơn thần linh. Tuy vậy nguyên tắc tự trị của các tiểu vương quốc phía bắc vẫn được tôn trọng, vì không thấy di ảnh hay hình tượng nữ thần Bhagavati - vị thần bảo hộ Panduranga được Prithi Indravarman chọn làm \"Bà Mẹ xứ sở\" để dân chúng thờ phụng – trong các di tích khảo cổ trên lãnh thổ phía bắc.\nNgôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma (646-653) được Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aia Trang (Nha Trang), trên một ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati (bằng vàng). Tháp này về sau được biết dưới tên Po Nagar, hay Tháp Bà.\nPrithi Indravarman là một quân vương tài giỏi, đất nước thái bình và rất phồn vinh. Sự giàu có của Hoàn Vương quốc hấp dẫn các vương quốc lân bang, đặc biệt là Srivijaya (Palembang), Malayu (Malaysia), Javadvipa (Java), Nagara Phatom (Thái Lan), Sriksetra (Miến Điện) và Angkor (Chân Lạp); họ đến để trao đổi hoặc chờ dịp cướp phá.\nNăm 774, quân Nam Đảo (người Java và Mã Lai) từ ngoài khơi đổ bộ vào Kauthara và Panduranga, chiếm Virapura. Vua Prithi Indravarman đã chống trả lại mãnh liệt nhưng bị chết trong đám loạn quân (sau này được dân chúng tôn thờ dưới pháp danh Rudraloka). Một bia ký đọc được ở tháp Po Nagar ghi \"những người đen đủi và gầy yếu từ miền xa đến, ăn những thức ăn khủng khiếp hơn xác chết, lại có tính hung ác. Bọn người này đến cướp đi tượng linga của thần Sri Sambhu, đốt phá đền thờ [Po Nagar]\". Sau cuộc tấn công này quân Nam Đảo cướp đi rất nhiều báu vật, trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng.\nNgay khi Prithi Indravarman vừa tử trận, một người cháu gọi ông bằng cậu tên là Cri Satyavarman được hoàng tộc tôn lên thay thế. Nhưng vừa lên ngôi, Satyavarman đã cùng hoàng tộc chạy lên miền bắc (Bình Định) lánh nạn. Tại đây, vua được cộng đồng người Chăm và người Thượng địa phương (Ba Na, Hrê) giúp thành lập một đạo quân hùng mạnh tiến xuống Kauthara tấn công quân Nam Đảo. Trước uy lực của Satyavarman, quân Nam Đảo lên thuyền bỏ chạy ra khơi, tân vương dẫn hoàng gia về lại Virapura. Tại đây, nhà vua xây thêm một cung điện mới trong thành Krong Laa và không ngờ đã sáng chế ra một phong tục mới mà các đời vua sau bắt chước theo, đó là tục trồng cây Kraik, biểu tượng của hoàng gia, trước cung điện. Đền Po Nagar, bị quân Nam Đảo phá hủy, được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, năm 784 thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. Năm 786, Satyavarman mất (được dân chúng thờ phụng dưới pháp danh Isvaraloka), em trai út của ông được hoàng tộc đưa lên ngôi, hiệu Indravarman I(còn gọi là Nhân Đà La Bạt Ma) (786-801).\nHay tin Satyavarman chết, năm 787, quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào Virapura cướp phá, sát hại rất nhiều binh sĩ và dân chúng, phá tháp Hòa Lai thờ thần Bhadradhipatisvara tại phía Tây thành Virapura (gần Phan Rang ngày nay). Quân Nam Đảo chia ra làm hai nhóm, một nhóm bắt theo nhiều phụ nữ cùng báu vật chở về nước, một nhóm khác chiếm giữ Panduranga. Đến năm 799, Indravarman I mới đuổi được quân Nam Đảo ra khơi để kiến thiết lại xứ sở. Tại Virapura, nhà vua xây lại tháp Hòa Lai bằng ba tháp mới, gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các thần Indrabhadresvara, Sankara và Narayana. Indravarman I dẹp yên được giặc giã nổi lên từ khắp nơi, như tại Candra (phía Bắc), Indra (Đông Bắc), Agni (Đông), Yama (Đông Nam), quan trọng nhất là loạn Yakshas (Nam). Yakshas là những bộ lạc người Thượng cư ngụ trên lãnh thổ đế quốc Angkor chứ không phải là quân Khmer.\nĐầu thế kỷ thứ 9, Indravarman I mất, em rể là hoàng thân Deva Rajadhiraja lên thay, hiệu Harivarman I (Kha Lê Bạt Ma). Trong hai năm đầu tân vương dồn mọi nỗ lực xây dựng lại đất nước và phục hồi thế lực quân sự. Để nhận thêm sự ủng hộ của quần chúng, nhà vua sai tể tướng Senapati Pangro trùng tu lại tháp Po Nagar vào năm 817 và xây thêm hai tháp mới cạnh tháp chính, một ở hướng Nam và một ở hướng Tây Bắc để dân chúng đến chiêm bái tượng nữ thần Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương.\nSau những cố gắng vượt bực, Hoàn Vương quốc hưng thịnh trở lại, Harivarman I quyết định tấn công những quốc gia đã cướp bóc đất nước trước đó. Tháng 1 năm 803, quân Chăm tấn công châu Hoan (Tỷ Cảnh, nay là Nghệ An) và châu Ái (Hải Âm, nay là Thanh Hóa), mang về rất nhiều phẩm vật. Với lượng lúa gạo mang về từ miền bắc, thủy quân Hoàn Vương quốc xuất dương trừng phạt vương quốc Kelantan ở Java và Patani ở Malaysia. Khi trở về, nhà vua cho người lên miền núi mộ thêm binh sĩ. Với đạo quân này, hai lần (năm 803 và 817), Harivarman I tiến vào cao nguyên Đồng Nai thượng, đánh bại quân Khmer và kiểm soát một vùng đất rộng lớn.\nĐể có thêm nguồn lương thực, năm 808, Harivarman I đem quân đánh chiếm châu Hoan và châu Ái lần nữa, nhưng bị thái thú Trương Châu đánh bại: 59 người trong hoàng tộc bị bắt sống, nhiều thớt voi, tàu chiến và quân trang quân dụng bị tịch thu, hơn 30.000 người bỏ xác tại trận. Qua năm sau, năm 809, Harivarman I tái chiếm châu Hoan và châu Ái một cách dễ dàng và mang về rất nhiều phẩm vật.\nCon trai Harivarman I là tiểu vương đất Panduranga lên kế vị năm 817, hiệu Vikrantavarman III (Thích Lợi Tì Kiên Đà Bạt Ma). Vì tân vương còn nhỏ tuổi, triều thần phong tể tướng Senapati Par, tiểu vương đất Manidhi làm phụ chính. Viên tể tướng này đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Kambujas (Campuchia ngày nay), do vua Jayavarman II cai trị, phá nhiều thành trì Khmer trên cao nguyên Đồng Nai thượng. Để tạ ơn Bà Mẹ Xứ Sở, trong khuôn viên Po Nagar, Senapati Par cho xây thêm hai tháp mới về phía tây và tây nam, thời gian sau xây thêm ba tháp khác: một tại khu trung tâm thờ Sri Shambu, một phía Tây Bắc thờ Shandhaka và một phía Nam thờ Ganesha. Mặc dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo vẫn được duy trì tại Virapura, thủ phủ Panduranga.\nDưới thời Vikrantavarman III, Hoàn Vương quốc là một đất nước phồn thịnh, quân đội hùng mạnh. Một bia ký, tìm được tại tháp Po Nagar, miêu tả Vikrantavarman III như sau:\nThư tịch cổ Trung Hoa (Cựu Đường thư) miêu tả thêm: \"[Vua] mặc áo cổ bối bạch diệp... trên đeo thêm trân châu, dây chuyền vàng làm thành chuỗi...\". Đẳng cấp quý tộc và phụ nữ cung đình cũng đeo trang sức quý: \"Phu nhân mặc vải cổ bối triệu hà... mình trang sức dây chuyền vàng, chuỗi ngọc trai\" hay \"... quân đội được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau...\".\nThời kỳ 859 - 1471.\nThời kỳ này Panduranga được cai trị bởi các vua Chăm Pa từ Simhapura (Trà Kiệu) và Vijaya (Đồ Bàn). Panduranga nhiều lần bị đế chế Khmer xâm chiếm. \nPo Klong Garai.\nLà vua Chăm Pa có gốc Panduranga, ông cai trị trong khoảng 50 năm, Po Klong Garai đã có công lãnh đạo dân tộc Chăm đương cự với ngoại xâm, bình ổn đất nước và phát triển nông nghiệp, được người Chăm suy tôn như vị thần thủy lợi.\nThời kỳ 1471 - 1692.\nSau khi bị Đại Việt chinh phục năm 1471, nhóm hoàng tộc Chăm từ Nam Bàn (từ Quảng Nam đến Đồ Bàn) do Bố Trì Trì là cháu của Trà Toàn chạy về Nam Chăm Pa lánh nạn và tranh chấp quyền bính với các dòng vương tôn địa phương tại Phan Rang (Virapura). Dân chúng địa phương được kêu gọi không thừa nhận dòng họ Bố Trì Tri (Jayavarman Mafoungnan) vì chỉ là cấp thừa hành của các tiên vương. \nDòng họ Bố Trì Tri không trị vì lâu. Năm 1478, Bố Trì Tri mất em là Koulai lên thay nhưng bị ám sát năm 1505. Con Koulai kế nghiệp và trị vì đến 1530 thì mất. Kể từ sau ngày đó con cháu dòng vương tôn Nam Bàn được hoàng triều và dân chúng tôn lên làm vua. Con Trà Toại, em của Trà Toàn vua cuối cùng của Vijaya, là hoàng thân Po Krut Drak được tôn lên làm vua kế nghiệp Chakou Poulo cai quản xứ Panduranga. \nThuận Thành trấn (1693 - 1832).\nTrước sức ép nam tiến của người Việt, tới năm 1693 tướng Nguyễn Hữu Cảnh đã tấn công và sáp nhập vùng đất cuối cùng của chính quyền Chăm Pa vào lãnh thổ xứ Đàng Trong, tuy nhiên từ năm 1693-1697 người Chăm đã kháng cự mãnh liệt đồng thời chính quyền Đàng Trong cũng muốn dành nguồn lực cho việc chinh phạt Chân Lạp nên tới năm 1697 đã trả lại quyền hành cho các vua người Chăm, nhưng đổi tên trong văn bản thành Trấn Thuận Thành, hay Thuận Thành trấn. Trấn Thuận Thành là một lãnh thổ tự trị và đồng thời là chư hầu của chính quyền Đàng Trong. Kinh đô đặt ở Băl Canar, nay thuộc tỉnh Bình Thuận.\nTrong chiến tranh Tây Sơn, Thuận Thành trấn là chiến trường nơi tranh chấp giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Từ năm 1794, đất Panduranga được xem như một tiền đồn của chúa Nguyễn nhằm ngăn bước tiến của quân Tây Sơn vào đất Gia Định - thủ phủ của quân Nguyễn bấy giờ. \nTuy nhiên từ năm 1828-1832, chính quyền Chăm Pa ở đây nằm dưới sự bảo hộ của tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt. Sau khi Lê Văn Duyệt chết, vua Minh Mạng đã xóa bỏ chế độ tự trị của người Chăm và thành lập tỉnh Bình Thuận. Chính quyền cuối cùng của Thuận Thành trấn nói riêng, và Chăm Pa nói chung, kết thúc từ đấy. Vương quốc Chămpa không còn tồn tại nữa sau năm 1832.\nĐặc trưng.\nPanduranga cùng với Kauthara là hai địa khu của bộ tộc Cau sinh sống, một trong hai bộ tộc chính hình thành nên người Chăm sau này, tại Panduranga sớm hình thành các đô thị ven biển mà người chăm vốn lành nghề về hàng hải. Các đô thị vẫn còn tồn tại đến ngày nay tại Việt Nam với các tên gọi chuyển sang Hán Việt như: Parang thành Phan Rang, Panrik thành Phan Rí, Pajai thành Phan Thiết. Các công trình kiến trúc về tôn giáo như các tháp Chăm được xây dựng liên tục qua các thời kỳ, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 17. Các tháp Po Nagar (ở thế kỷ 8), tháp Hòa Lai, tháp Phú Hài, tháp Po Dam (thế kỷ 9), tháp Po Klaung Garai (thế kỷ 13), tháp Po Rome (thế kỷ 17).\nPanduranga là địa khu cuối cùng của người Chăm trước khi bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam năm 1832. Vì thế hiện nay, số lượng người Chăm tập trung và sinh sống ở đây nhiều nhất nước. Các khu vực đông người Chăm sống là các làng ở Phan Rang, Ninh Phước, Ninh Hải tỉnh Ninh Thuận các làng ở Bắc Bình, Tuy Phong tỉnh Bình Thuận. Hiện nay người Chăm ở đây đang còn khoảng 100.000 người và vẫn giữ lại được các tập tục cổ xưa.", "Chăm Pa (tiếng Phạn: चम्पा, chữ Hán: 占婆 \"Chiêm Bà\", tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192 đến năm 1832. Cương vực của Chăm Pa lúc mở rộng nhất tương ứng với miền Trung Việt Nam ngày nay, trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía nam và từ biển Đông cho đến tận miền núi phía tây của nước Lào ngày nay.\nQua một số danh xưng Lâm Ấp, Panduranga, Chăm Pa trên phần đất nay thuộc miền Trung Việt Nam. Văn hóa Chăm Pa chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Java, đã từng phát triển rực rỡ với những đỉnh cao nghệ thuật là phong cách Đồng Dương và phong cách Mỹ Sơn mà nhiều di tích đền tháp và các công trình điêu khắc đá, đặc biệt là các hiện vật có hình linga vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, cho thấy ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo là hai tôn giáo chính của chủ nhân vương quốc Chăm Pa khi xưa.\nChăm Pa hưng thịnh nhất vào thế kỷ 9 và 10 và sau đó dần dần suy yếu dưới sức ép của các vương triều Đại Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer. Năm 1471, Chăm Pa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía bắc vào Đại Việt. Phần lãnh thổ còn lại của Chăm Pa bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và sau đó tiếp tục dần dần bị các chúa Nguyễn thôn tính và đến năm 1832 toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng.\nLịch sử.\nLịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính:\nVương quốc Chăm Pa không phải là một quốc gia có thể chế chính trị \"Trung ương tập quyền\" mà là một dạng nhà nước liên bang gồm tộc người Chăm theo Đạo Bàlamôn, Phật giáo và Hồi giáo chiếm đa số và một số tộc người nhỏ hơn ở vùng núi Đêga Tây Nguyên điển hình cùng ngôn ngữ như Êđê, Giarai đã từng là cư dân vùng trung Chămpa duy trì tín ngưỡng dân gian Nam Đảo bản địa, nay hầu hết chuyển sang Kitô giáo từ giữa thế kỷ 19. Có những nguồn tài liệu cho biết Chăm Pa có thể được kết hợp từ bốn tiểu quốc là Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Mỗi tiểu quốc đều có thể chế chính trị theo hình thức tự trị và có quyền ly khai khỏi liên bang để xây dựng quốc gia riêng độc lập. Vương quốc Chăm Pa đã trải qua nhiều triều đại với nhiều lần dời đô từ Bắc vào Nam và ngược lại.\nTheo sử thi người Chăm, dân tộc chính của Chăm Pa là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía bắc và Chăm ở phía nam. Nhóm Nam Chăm thuộc bộ tộc Cau (Kramuta Vanusa) và nhóm Bắc Chăm thuộc bộ tộc Dừa (Naeikela Vanusa). Hai bộ tộc này vừa liên minh với nhau, vừa cạnh tranh nhau quyền đứng đầu Vương quốc Chăm Pa.\nThời tiền sử.\nNgười dân Chăm Pa có nguồn gốc Mã Lai-Polynesia di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ 1 và 2 trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo.\nVăn hóa Sa Huỳnh.\nVăn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại đồ đồng rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ cacbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam từ khoảng năm 200. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.\nLâm Ấp (192 - 757).\nTheo sử liệu Trung Quốc, quốc gia cổ Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên với sự ra đời và tồn tại của Vương triều Sinhapura hay còn gọi là vương quốc Lâm Ấp (Liu) mà vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công. Vào thế kỷ 4, từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.\nVị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361 ở kinh đô Kandapurpura (Phật Thệ) thuộc Huế ngày nay. Tại thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó.\nĐầu năm 2013, các nhà khảo cổ công bố phát hiện khu di tích thành cổ tại làng Viên Thành, thôn Trung Đông, xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên. Đoạn tường thành dài khoảng 20 m, bề ngang 2 m đắp bằng đất sét; cùng các hiện vật khác như Kendi. Nhóm khảo cổ nhận định đây là khu thành bao bọc quanh kinh đô Sinhapura của Vương quốc Chăm Pa, được xây dựng khoảng thế kỷ 4-5.\nVào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc. Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756. Vào cuối thời kỳ này, sử sách Trung Quốc vẫn ghi Chăm Pa là Lâm Âp, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là đến năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là đến năm 657.\nSách sử Trung Hoa như sách Thông điển còn ghi nhận một loạt các quốc gia phía Nam Lâm Ấp như Tây Đồ (Trà Kiệu), Ba Liêu (Châu Sa), Khuất Đồ Kiển (Kauthara)...\nHoàn Vương (757 - 859).\nVào năm 757, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã chuyển từ Trà Kiệu xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với kinh đô Virapura gần Phan Rang ngày nay và thánh địa tôn giáo ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Po Nagar ở Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java tấn công kinh đô Virapura và đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga.\nChiêm Thành-Champa (875 - 1471).\nNăm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay). Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ Bồ Tát Quán Thế Âm (\"Avalokiteśvara\"). Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ 9 và 10. Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Chăm Pa kết thúc năm 925, bắt đầu nhường bước với sự phục hồi của đạo thờ thần Siva, với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Siva giáo vào khoảng thế kỷ 10, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn, đây là thời kỳ văn minh Chăm Pa đạt đến đỉnh cao. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau này chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Chân Lạp ở phía tây nam. Các cuộc chiến tranh với Chân Lạp đã dẫn tới có hai giai đoạn Chăm Pa thuộc sự cai trị của người Khmer, đó là các giai đoạn 1145–1149 và giai đoạn 1190-1220, tiếp đó là cuộc chiến thành công chống lại đạo quân xâm lược của đế quốc Nguyên Mông vào năm 1283 do tướng Toa Đô (Sogetu) cầm đầu với ý định chiếm nơi đây làm bàn đạp tấn công Đại Việt . Tuy nhiên dấu ấn mạnh nhất vẫn là các cuộc chiến tranh với Đại Việt, không như các cuộc chiến với Chân Lạp và Trung Quốc, những cuộc chiến tranh với người Việt đã làm vương quốc Chăm Pa lần lượt mất lãnh thổ và dần suy yếu dẫn tới sụp đổ.\nNăm 938 người Việt đã giành được độc lập từ tay người Trung Quốc. Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt mở cuộc nam chinh đầu tiên, quân Đại Việt đã đánh chiếm và tàn phá kinh đô Indrapura, giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt bắt đầu gọi là Đồ Bàn hoặc Chà Bàn. Trong 5 thế kỷ tiếp theo giữa Chăm Pa và Đại Việt đã xảy ra rất nhiều các cuộc chiến tranh, Chăm Pa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021, 1026, 1044. Tiếp đó, vào năm 1069 quân Việt tấn công Chăm Pa. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính ở phía bắc gần biên giới với Đại Việt để lấy tự do. Vào năm 1307 khi quan hệ giữa Cham Pa và Đại Việt tương đối tốt đẹp, vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), đã nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Sau sự kiện này, Chăm Pa chỉ còn lại lãnh thổ từ sông Thu Bồn trở vào.\nVị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Che Bonguar (Chế Bồng Nga) lên ngôi năm 1360. Từ năm 1371 đến năm 1389, ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra Thăng Long kinh đô của Đại Việt. Ông chết trong lần tấn công cuối cùng năm 1389 và một vị tướng của ông là La Ngai (La Khải) rút về Vijaya để lên ngôi thay thế. Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, đến lượt Chăm Pa liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công và bị mất dần lãnh thổ. Sau các cuộc tấn công vào các năm 1402 và 1446, tới năm 1471 vua Lê Thánh Tông chỉ huy tấn công Chăm Pa, phá hủy kinh đô Vijaya, vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường tới Thăng Long. Lê Thánh Tông đã sáp nhập các địa khu Amaravati và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam.\nTheo sử Việt Nam, sau khi mất vùng Vijaya, một tướng Chăm là Bô Trì Trì chạy vào nam chiếm vùng Panduranga xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần với Đại Việt. Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (Hoa Anh) tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay và nước Nam Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên). Chính thất bại này đã dẫn đến việc người Chăm lần đầu tiên di cư với số lượng lớn sang Campuchia và Malacca.\nHoa Anh-Kauthara (1471 - 1611).\nNgười được vua Lê Thánh Tông phong vương xứ Kauthara (Hoa Anh) là Bàn La Trà Duyệt. Bàn La Trà Duyệt từng là đại quan trong triều đình Maha Vijaya. Bàn La Trà Duyệt ngầm xây dựng lực lượng nhằm giành lại Vijaya, mặt khác sai sứ sang nhà Minh trợ giúp, tuy nhiên bị thất bại và bị quân Lê Thánh Tông bắt vào năm 1490, đưa Trai Á Ma Phất Am (Jayavarman) lên ngôi vua Hoa Anh. \nNăm 1578, Lương Văn Chánh là tướng của chúa Nguyễn Hoàng cầm quân tiến vào Kauthara, vây và hạ Thành Hồ – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Champa, nằm tại huyện Phú Hòa, phía Tây thành phố Tuy Hòa ngày nay - đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chánh cũng đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn. Trong khoảng 3 năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỉ XVII, Panduranga từ phía Nam nhiều lần tái chiếm Kauthara, đuổi người Việt khỏi miền đất này.\nNăm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm, mà sử Việt gọi là Văn Phong, đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Sang năm 1653, nhân việc vua Chăm Pa là Po Nraop (Bà Tấm) quấy phá biên giới phía nam, chúa Nguyễn Phúc Tần đã gởi một đoàn quân sang tấn công Chăm Pa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop đưa về Huế. Trên vùng đất cũ của tiểu vương quốc Kauthara chúa Nguyễn Phúc Tần lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa và Vạn Ninh) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh, Nha Trang, Cam Lâm và Cam Ranh). Vậỵ là vào năm 1653 Kauthara hoàn toàn bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Kauthara thất thủ, đền Po Nagar ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước tượng Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một đền ở Mông Đức gần làng Hữu Đức (Phan Rang) bây giờ.\nPanduranga (1611 - 1698).\nPhần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa từ sau năm 1471 mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ đèo Cả ngày nay trở về nam, gồm hai địa khu Kauthara và Panduranga. Năm 1594 vua Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp sultan xứ Johor tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca.\nNăm 1611 Nguyễn Hoàng đã thực hiện cuộc Nam tiến đầu tiên sau khi trấn giữ Thuận Quảng. Tiến chiếm đất từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa) của vương quốc Chăm Pa khi đó đã suy yếu rất nhiều, lập thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Văn Phong trấn giữ.\nNăm 1629, Văn Phong liên kết với người Chăm Pa nổi lên chống lại chúa Nguyễn. Chúa Sãi cử Phó tướng Nguyễn Hữu Vinh đem quân dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.\nNăm 1631, chúa gả con gái là Ngọc Khoa (có sách gọi là Ngọc Hoa) cho vua Chăm Pa là Po Rome. Cuộc hôn phối này làm quan hệ Việt - Chăm diễn ra tốt đẹp\nNăm 1653, Bà Thấm quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền cho 3000 quân sang đánh, quân Nguyễn hạ được thành. Bà Thấm trốn chạy, sau phải dâng thư xin hàng, vùng phía đông sông đến địa đầu Phú Yên (vùng Kauthara) bị mất vào tay chúa Nguyễn, chỉ còn phần phía tây sông (vùng Panduranga) là thuộc về Chăm Pa.\nTới năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tấn công vào Panduranga, bắt vua Po Sout đưa về Phú Xuân và đưa em trai của Po Sout là Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) lên làm vua, Panduranga được đổi thành Thuận Thành Trấn và vua Chăm được gọi là Trấn Vương cai trị Thuận Thành Trấn với sự giám sát chặt chẽ của các quan lại của chúa Nguyễn. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1838 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn. Tuy nhiên, các đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận.\nThuận Thành Trấn (1693 - 1832).\nNgay sau khi Minh Mạng lên ngôi, ông phân bố lại hành chính, chia Bình Thuận trấn thành 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Minh Mạng hạn chế hơn nữa quyền lực của hoàng gia Chăm. Năm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can), vị vua cuối cùng của Champa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia.\nNăm 1832 người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp có cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở phía nam nhưng không thành công. Chính quyền tự trị hạn chế của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm 1832, khi Hoàng đế Minh Mạng đổi Thuận Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp. Lịch sử vương quốc Chăm Pa chính thức dừng lại ở đây.\nLịch sử miền đất Đêga Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm 1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) còn chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục thì vua Lê Thánh Tông phong cho dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương, đây là một quốc gia cổ sơ khai của người Giarai và Ê đê và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Đêga Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá của người Ê đê và Giarai tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc.\nĐịa lý.\nCương vực.\nTừ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15, lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa có nhiều biến động về biên giới phía bắc với Đại Việt. Lãnh thổ Chăm Pa ban đầu là vùng mà ngày nay bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Đến năm 1069, vua Rudravarman (Chế Củ) của Chăm Pa đã nhượng ba châu Địa Lý (Lệ Thủy, Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình ngày nay), Ma Linh (Bến Hải, Quảng Trị ngày nay) và Bố Chính (các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa tỉnh Quảng Bình ngày nay) cho vua Lý Thánh Tông của Đại Việt và lãnh thổ Chăm Pa chỉ còn từ nam Quảng Trị ngày nay trở xuống. Đến năm 1306, vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) nhượng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần. Nhà Trần đổi hai châu này thành hai châu Thuận và châu Hóa nay là vùng từ nam Quảng Trị cho đến Đà Nẵng, Điện Bàn. Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi đánh bại quân Chiêm và sáp nhập phần lớn lãnh thổ Chiêm đã xác lập lãnh thổ Chiêm chỉ bao gồm các tỉnh Phú Yên – Khánh Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay.\nVề phía tây, tuy lãnh thổ Chăm Pa bao gồm cả Tây Nguyên và đôi khi còn mở rộng sang tận Lào ngày nay, nhưng người Chăm vẫn duy trì lối sống của những người đi biển với các hoạt động thương mại đường biển, và chỉ định cư ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tách phần đất thuộc Tây Nguyên ngày nay thành nước Nam Bàn thành tiểu quốc gia sơ khai riêng cho người Giarai và Ê đê và từ đây miền đất này không còn thuộc cương vực của Chăm Pa.\nCác địa khu.\nKể từ năm 757, trên lãnh thổ Champa hiện diện 5 địa khu với tên gọi phát xuất từ lịch sử Ấn Độ. Vị trí và cương vực của mỗi lãnh địa như sau:\nVăn hóa nghệ thuật.\nVăn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đều có ảnh hưởng đến văn hóa Chăm Pa. Từ thế kỷ 4 vương quốc Phù Nam ở Campuchia và miền Nam Việt Nam ngày nay đã truyền bá văn minh Ấn Độ vào xã hội Chăm. Tiếng Phạn trở thành ngôn ngữ học thuật, và Ấn giáo, đặc biệt là Shiva giáo, trở thành quốc giáo. Từ thế kỷ 10, các thương nhân Ả Rập đã mang tôn giáo và văn hóa đạo Hồi vào khu vực. Chăm Pa có vai trò trung chuyển quan trọng trên con đường hồ tiêu từ vịnh Pec-xich tới miền nam Trung quốc và sau này là con đường thương mại trên biển của người Ả Rập, xuất phát từ bán đảo Đông Dương - nơi xuất khẩu trầm hương. Mặc dù giữa Chăm Pa và đế quốc Khmer luôn có chiến tranh, nhưng thương mại và văn hóa vẫn được giao lưu về cả hai phía. Hoàng gia của hai vương quốc cũng thường xuyên lấy lẫn nhau. Chăm Pa còn có quan hệ thương mại và văn hóa với các đế quốc hùng mạnh trên biển như Srivijaya và sau này với Majapahit trên bán đảo Mã Lai.\nTôn giáo, tín ngưỡng.\nTrước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1311, tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ. Ấn Độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Shiva giáo, tức là đạo thờ thần Shiva, và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng chính của tôn giáo Shiva của người Chăm là linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và kosa.\nViệc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh Quảng Nam ngày nay) theo Phật giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáo Chăm Pa thời Đồng Dương được công nhận là một trong những phong cách độc đáo.\nTrong thế kỷ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáo chính của Chăm Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáo và cũng là các công trình kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như Mỹ Sơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Chánh Lộ và Tháp Mẫm.\nHồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ 10, nhưng chỉ sau năm 1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ 17 thì hoàng gia Chăm đã theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắt đầu theo đạo này, và khi vùng đất này bị sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớn người Chăm ở đây đã theo đạo Hồi (xem Hồi giáo Chăm Bani). Phần lớn người Chăm đều là người Hồi giáo và cũng giống như người Java ở Indonesia, họ còn chịu nhiều ảnh hưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn ghi lại câu chuyện công chúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến chồng là Kertawijaya, người cai trị đời thứ bảy của Majapahit, tương tự như câu chuyện với Parameshwara, người đã cải đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit. Ngôi mộ của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn còn thấy ở Trowulan, nơi xưa kia là kinh đô của Majapahit.\nKiến trúc, điêu khắc.\nKiến trúc Chăm Pa được phân tích qua các tháp Chăm thờ các vị thần Ấn Độ giáo và các vị vua Chăm được hóa thần còn sót lại cũng như dấu tích của các tòa thành cổ, tu viện phật giáo thời Indrapura. Về phong cách kiến trúc điêu khắc các tháp được các nhà nghiên cứu thường chia ra làm nhiều thời kỳ, mỗi một thời kỳ có những thay đổi khác nhau, dấu ấn riêng biệt của người Chăm là kỹ thuật làm gạch kết dính để xây tháp và chạm trổ trên đá.\nCùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc Chăm Pa là một trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm cỡ thế giới. Tuy ảnh hưởng nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer nhưng điêu khắc Chăm Pa vẫn có những tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới tượng tròn của hầu như tất cả các hình chạm khắc dưới dạng phù điêu, trong điêu khắc Chăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn mạnh vào từng hình tượng, ví dụ như bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm thấy ở Trà Kiệu thể hiện bàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc của Chăm Pa mang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là đặc điểm quan trọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa.\nChữ viết, bia ký.\nVăn hóa Ấn Độ ảnh hưởng vào Chăm Pa từ những thời kỳ đầu, dẫn tới các trước tác về luật pháp, chính trị xã hội đều có mặt ở Chăm Pa, được các vua chúa Chăm áp dụng và ưa thích. Chữ bắc Phạn (Sanskrit) đã được người Chăm tiếp thu từ những thế kỷ đầu công nguyên, các chữ viết trên bia Võ Cạnh ở thế kỷ 3 với cách viết rất gần với kiểu viết của các bia ký vùng Amaravati ở Nam Ấn Độ, tuy nhiên chữ viết của Chăm Pa trong hơn 10 thế kỷ tồn tại của mình cũng liên tục thay đổi tương ứng với những thời kỳ ảnh hưởng từ các vùng khác nhau ở Ấn Độ, từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 8, chữ Phạn ở Chăm Pa có dạng tự vuông của vùng bắc Ấn, nhưng từ thế kỷ 9 trở đi chữ Phạn ở Chăm Pa lại có dạng tự tròn của vùng nam Ấn, có thể nhận định Chăm Pa là quốc gia đầu tiên có chữ viết sớm nhất Đông Nam Á. Xuất phát từ dạng tự của chữ Phạn, người Chăm đã bỏ các phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành một dạng chữ Phạn-Champa, theo các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (Akhar Thrah) của Ấn Độ.\nTheo thống kê của các học giả người Pháp vào năm 1923, số bia ký Chăm đã được biết là 170, tất cả các bia ký Chăm đều được khắc lên đá thành những tấm bia to và đẹp và một số bia ký khác được khắc lên tường của các tháp Chăm. Các văn bia cổ Chăm Pa là những văn bản gần như duy nhất thể hiện ý tưởng của các vị vua và triều đình, trong số 123 bia ký có thể hiểu được nội dung thì 92 bia nói về Shiva giáo, 5 bia về thần Brahma, 3 bia về thần Visnu, 7 bia về đức Phật và 21 bia không rõ tính tôn giáo.\nVăn học, ghi chép.\nDo chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ cho nên ý nghĩa văn chương được thể hiện trong các bia ký, các tác giả bia ký cố gắng dùng lời lẽ văn hoa, nhiều điển tích và ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện ý tưởng của mình, vì thế mà văn bia Chăm Pa là một mảng quan trọng nhất của văn học Chăm Pa, các bia ký Chăm Pa bằng chữ Phạn được viết chủ yếu theo những thể thơ của Ấn Độ, văn học Ấn Độ qua hình thức truyền khẩu trong dân gian chắc cũng có mặt ở Chăm Pa, điều này được thế hiện qua việc người Chăm dựng đền thờ Rsi Valmiki, người được coi là tác giả của sử thi Ramayana cũng như các bức phù điêu thể hiện các nhân vật có trong sử thi Ramayana như chàng Rama, nàng Sita. Ngoài bộ sử thi Ramayana, các bộ sử thi khác của Ấn Độ cũng được phổ biến ở Chăm Pa như bộ Mahabharata và thậm chí là truyện ngụ ngôn Ấn Độ qua bộ Bhagavata.\nTheo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là \"Ying-yai Sheng-lan\" (Doanh nhai thắng lãm), thì văn bản ghi chép trong xã hội Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả: \nÂm nhạc, ca múa.\nÂm nhạc và ca múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, ở các tín ngưỡng như lễ năm mới \"Rija Nagar\", lễ \"Kate\" vào tháng 7 Chăm lịch, lễ cầu đảo, lễ mở cửa tháp. Việc dùng các hình thức nhạc cụ tùy thuộc vào tính chất các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau. Trống \"Baranâng\" và trống \"gineng\" là loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn \"Saranai\" có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng rất phong phú và độc đáo, người Chăm có các điệu múa khác nhau như: múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể, múa độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng.\nTổ chức xã hội.\nCho đến nay, các công trình nghiên cứu dân tộc học và điền dã cũng như tổng quan các nghiên cứu về xã hội người Chăm đều tập trung vào người Chăm hiện đại. Đến nay chưa có một công trình nghiên cứu lịch sử nào, nhất là các công trình dựa trên khảo cứu văn bia hay văn tịch cổ của người Chăm cho ra các kết luận khách quan có chứng cứ về xã hội Chăm Pa cổ, tuy nhiên từ những sử liệu, bia ký rời rạc chúng ta có thể điểm được một số yếu tố trong tổ chức xã hội Chăm Pa.\nLuật pháp.\nCác bia ký và các tác phẩm điêu khắc không thể hiện cho thấy bất kỳ một thiết chế luật pháp nào, tuy nhiên qua ghi chép của Mã Đoan tới đây vào đầu thế kỷ 15 có thể cho chúng ta thấy một phần nào về luật pháp của Chăm Pa thời kỳ đó:\nHệ thống đẳng cấp.\nMột số nghiên cứu dựa trên nền văn hóa Ấn hóa của người Chăm đều trình bày xã hội dưới dạng các đẳng cấp (\"caste\") trong kinh Vệ Đà trước khi đi vào khảo cứu các di tích văn hóa nghệ thuật Chăm Pa còn lại. Theo đó, xã hội Vệ Đà có bốn đẳng cấp, đứng đầu là đẳng cấp giáo sĩ Brahman chuyên về thờ cúng, tiếp theo là đẳng cấp Ksatria tức chiến binh có nhiệm vụ bảo vệ các đẳng cấp kia. Các học giả hiện đại theo xu hướng nghiên cứu thực chứng đã tỏ ra dè dặt hơn và không đề cập gì từ phương diện nghiên cứu sử học, nhất là từ các tài liệu văn bia về cơ cấu xã hội của Chăm Pa cổ. Các sự kiện lịch sử, như việc Lưu Kế Tông, một người Việt chứ không phải người Chăm làm vua Chăm Pa cho dù chỉ có ba năm (983-986) rồi bị người Chăm đoạt lại vương vị cũng chứng tỏ cơ cấu xã hội Chăm Pa cổ phức tạp hơn trong kinh Vệ Đà nhiều. Tóm lại, việc xem xã hội Chăm Pa cổ là xã hội Vệ Đà với bốn đẳng cấp như ở Ấn Độ cổ (hay năm đẳng cấp với đẳng cấp thứ năm là ngoại nhân) cần được nhìn nhận rất thận trọng vì chưa có công trình nghiên cứu nào từ cứ liệu văn khắc Chăm cổ chứng minh.\nChế độ mẫu hệ.\nNhiều học giả trong nước trên cơ sở nghiên cứu chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại của người Chăm hiện nay và trên cơ sở nghiên cứu cụ thể các cặp linga-yoni, đặc biệt là linga phân tầng, cả linga phân làm ba tầng thể trimutri (ba thể của Thượng đế) và hai tầng (linga và yoni - âm và dương) được đặt trên bệ đá hình vuông có khe để nước chảy thoát ra chính là yoni được đặt bên dưới linga, thì cho rằng ở xã hội Chăm cổ vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũng rất to lớn. Tuy nhiên, cũng giống như ở trên, đấy mới chỉ là một suy luận chứ chưa có các tài liệu văn bia chứng minh và chưa có công trình nghiên cứu lịch sử dựa trên các văn khắc Chăm cổ nào đề cập đến việc này.\nThể chế chính trị.\nNền quân chủ.\nVương quốc Chăm Pa bị diệt vong, di tích để lại cũng như những ghi chép từ sử liệu không đủ để xác định tất cả các đời vua và các thông tin chi tiết về năm cai trị của tất cả các vua. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu, trong đó có cả các bia khảo cổ, di tích của người Chăm, tới nay xác định được khoảng 10 triều đại với gần 100 vị vua Chăm Pa.\nMột số vua Chăm Pa được gọi tên phiên âm theo tiếng Hán, theo cách gọi của các thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc. Một số vị có tên Chăm được phục hồi qua đối chiếu tên bằng tiếng Phạn và tiếng Hán, như \"Cambhuvarman\" tức \"Phạm Phan Chí\" hoặc \"Kandharpadjarma\" tức \"Phạm Đầu Lê\"..., do được xuất hiện trong cả bi ký Chăm và thư tịch Hán.\nHệ thống Mandaladasia.\nCác học giả hiện đại quan niệm thể chế chính trị và hành chính của vương quốc Chăm Pa theo hai thuyết đối lập nhau. Mặc dù các học giả đều thống nhất việc vương quốc Chăm Pa bị chia nhỏ thành bốn địa khu (Panduranga, Kauthara, Vijaya, Amaravati) chạy từ nam lên bắc dọc theo bờ biển Việt Nam ngày nay và được thống nhất bởi ngôn ngữ, văn hóa và di sản chung. Tuy nhiên, các học giả không thống nhất việc các địa khu này có cùng thuộc một thực thể chính trị đơn nhất, hay là các địa khu hoàn toàn độc lập với nhau như là các tiểu quốc. Nhiều tác giả quan niệm Chăm Pa là một liên bang bao gồm nhiều tiểu quốc, tuy có chính quyền trung ương thống nhất nhưng các tiểu vương hoàn toàn tự quyết cai trị tiểu quốc của mình. Một thực tế là không phải lúc nào các tài liệu lịch sử cũng phong phú đối với mỗi địa khu ở tất cả các giai đoạn. Ví dụ, vào thế kỷ 10, tài liệu về Indrapura rất phong phú trong khi ở thế kỷ 12 lại rất giàu tài liệu về Vijaya; còn sau thế kỷ 15 thì tài liệu về Panduranga rất phong phú. Một số học giả xem việc biến động của các tài liệu lịch sử trên là phản ánh việc di dời của thủ đô Chăm Pa và quan niệm Chăm Pa nếu không phải là một thể chế chính trị đơn nhất thì cũng là một liên bang các tiểu quốc và việc tài liệu phong phú chính minh chứng cho điều này là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả nhận thấy, thế kỷ 10 tài liệu về Indrapura rất phong phú, có lẽ xuất phát từ lý do đây là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả khác không nhất trí như vậy và cho rằng Chăm Pa chưa bao giờ là một quốc gia thống nhất và không cho rằng việc giàu cứ liệu ở một giai đoạn lịch sử là cơ sở để cho rằng đó là thủ đô của quốc gia thống nhất.\nKinh tế.\nTrong khi có nhiều công trình nghiên cứu về đời sống, hoạt động kinh tế và cơ cấu, tổ chức và các mặt khác nhau của người Chăm hiện đại thì chưa có những công trình nghiên cứu như vậy cho vương quốc Chăm Pa cổ. Lý do cũng thật dễ nhận thấy vì những gì thuộc về thượng tầng kiến trúc là những thứ khó còn lại với thời gian và sử liệu về một vương quốc có thời đã dựng nền những đền tháp rực rỡ chạy dài suốt ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay cũng chỉ còn qua các phế tích.\nQua các công trình nghiên cứu lịch sử, các tác giả cho rằng nền kinh tế Chăm Pa xưa chủ yếu dựa vào các hoạt động nông nghiệp, sản xuất đồ thủ công và thương mại. Các dấu vết còn lại ở miền Trung Việt Nam của những hệ thống thủy lợi phức tạp và những giống lúa có chất lượng cao đặc trưng riêng của miền Trung được xem là các bằng chứng của một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển cao.\nVương quốc Chăm Pa xưa có được vị trí thuận lợi cho sự phát triển thương mại đường biển. Các cảng biển của vương quốc là những điểm trung chuyển giao lưu hàng hóa quốc tế cũng như để xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu từ khai thác rừng ở miền thượng của các đồng bằng ven biển và Tây Nguyên. Từ thế kỷ 10, các cảng của Chăm Pa đã được biết đến như là những thương cảng quan trọng trên Biển Đông, nằm trên hành trình thương mại đường biển giữa phương Đông và phương Tây vẫn được gọi là \"Con đường tơ lụa trên biển\". Các sản phẩm xuất cảng của Chăm Pa là sản phẩm của sản xuất đồ thủ công như các đồ gốm sứ, đất nung và cả các sản phẩm khai thác miền rừng như sừng tê, ngà voi, và đặc biệt là trầm hương, và cả của hoạt động khai thác tổ yến trên các đảo ngoài khơi.\nVề phương tiện thanh toán trong giao dịch thương mại, Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là \"Ying-yai Sheng-lan\" (Doanh nhai thắng lãm), thì giao dịch thời kỳ này được miêu tả: \nDân tộc dân cư.\nNgười Chăm trong thời vương quốc Chăm Pa lịch sử bao gồm hai bộ tộc chính là bộ tộc Dừa (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa). Bộ tộc Dừa sống ở Amaravati và Vijaya trong khi bộ tộc Cau sống ở Kauthara và Pandaranga. Hai bộ tộc có những cách sinh hoạt và trang phục khác nhau và có nhiều lợi ích xung đột dẫn đến tranh chấp thậm chí chiến tranh. Nhưng trong lịch sử vương quốc Chăm Pa các mối xung đột này thường được giải quyết để duy trì sự thống nhất của đất nước thông qua hôn nhân.\nBên cạnh người Chăm, chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa còn có cả các tộc người thiểu số gốc Nam Đảo và Mon-Khmer và ở phía Bắc Chăm Pa còn có cả người Việt.\nDi sản ngày nay.\nRất nhiều tháp cổ của người Chăm vẫn còn ở miền Trung Việt Nam. Một điển hình về kiến trúc là thánh địa Mỹ Sơn gần Hội An. Thánh địa Mỹ Sơn bị bom Mỹ hủy hoại nặng nề trong chiến tranh nhưng đã được phục chế lại sau chiến tranh từ thập niên 1980 với những đóng góp to lớn của kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997). Năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.\nNgoài ra còn có các di tích tháp Chăm ở miền Trung vẫn được cộng đồng người Chăm hiện nay sử dụng để thờ tự như:\nCác hiện vật điêu khắc Chăm phong phú nhất có tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng (trước đây là \"Musée Henri Parmentier\") ở thành phố biển Đà Nẵng. Viện bảo tàng được thành lập từ năm 1915 bởi học giả người Pháp và đến nay vẫn được xem là một trong những bảo tàng lớn ở Đông Nam Á. Các hiện vật Chăm cũng có mặt tại các viện bảo tàng khác như:", "Lịch sử Chăm Pa là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (\"Campanagara\") và Thuận Thành (\"Nagar Cam\"), thành lập từ năm 192 và kết thúc vào năm 1832.\nTrước thế kỷ thứ II, vùng đất của vương quốc Chăm Pa cổ đã được nhắc đến với tên Hồ Tôn Tinh (trong truyền thuyết), rồi tên huyện Tượng Lâm (thuộc quận Nhật Nam thời nhà Hán) khi nằm dưới sự thống trị của Trung Quốc. Lãnh thổ này được ghi nhận là từ miền Trung trở vào miền Nam Việt Nam, thay đổi tùy thời kỳ. Từ 1694 đến 1832, chúa Chăm Pa (Trấn vương Thuận Thành) nằm dưới sự đô hộ của các chúa Nguyễn, vua nhà Tây Sơn và vua nhà Nguyễn cho đến lúc bị sáp nhập hoàn toàn.\nLịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính:\nTên gọi Chăm Pa.\nDanh xưng Champa xuất hiện đầu tiên trong các bia ký vào thế kỷ thứ VII. Bia ký C96 ở Mỹ Sơn năm 658 đề cập đến danh từ \"Campapuryyam\" (thành bang Champa), \"Campapura-pamesvara\" (chúa tể của thành bang Champa) và \"Campanagara\" (Vương quốc Champa). Bia C73 tại Mỹ Sơn nhắc đến danh từ \"Campadesa\" (người mang lại thịnh vượng cho Champa). Danh xưng Champa còn xuất hiện qua văn bia vua Kandarpadharma tại Huế. Tại Angkor, một bia ký của Đế chế Khmer ghi nhận vào năm 657, người trị vì Champa (Campesvara) đã sai sứ bộ đến Campuchia.\nThời tiền sử.\nNgười dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ I và thứ II trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (\"Austronesian\").\nVăn hóa Sa Huỳnh.\nVăn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại Đồng Thau rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200 công nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.\nNhà nước Lâm Ấp.\nTheo tài liệu lịch sử Trung Quốc, nhà nước Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên là vương quốc Lâm Ấp bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công.\nTừ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Các học giả đã xác định thời điểm bắt đầu của Chăm Pa là thế kỷ thứ IV Công nguyên, khi quá trình Ấn hóa đang diễn ra. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.\nVị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361. Ở thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó.\nVào thời Bhadravarman, kinh đô của Lâm Ấp là kinh thành Simhapura (\"thành phố Sư tử\"), nằm ở dọc hai con sông và bao quanh bởi tường thành có chu vi dài đến tám dặm. Theo ghi chép lại của một người Trung Quốc thì người Lâm Ấp vừa ưa thích ca nhạc nhưng cũng lại hiếu chiến, và có \"mắt sâu, mũi thẳng và cao, và tóc đen và xoăn\".\nCũng theo tài liệu Trung Quốc, Sambhuvarman lên ngôi vua Lâm Ấp năm 529. Các tài liệu cũng mô tả vị vua này đã cho khôi phục lại ngôi đền thờ Bhadresvara sau một vụ cháy. Sambhuvarman cũng đã cử sứ thần sang cống tuế Trung Quốc, và đã xâm lược không thành phần đất mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam. Năm 605, tướng Lưu Phương nhà Tùy xâm lược Lâm Ấp, và đã chiến thắng sau khi dụ tượng binh của Lâm Ấp đến và tiêu diệt tại trận địa mà trước đó ông đã cho đào nhiều hố nhỏ và phủ cỏ lên. Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc.\nCác tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756 Công nguyên. Sau đó trong một thời gian dài, các sách sử Trung quốc gọi Chăm Pa là \"Hoàn Vương\". Tài liệu Trung Quốc sớm nhất sử dụng tên có dạng \"Chăm Pa\" là vào năm 877, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là từ năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là từ năm 657.\nHoàn Vương.\nTừ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ X, người Chăm kiểm soát việc buôn bán hồ tiêu và tơ lụa giữa Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và đế quốc Abbassid ở Baghdad. Người Chăm còn bổ sung thêm cho nguồn thu nhập của mình từ thương mại, không chỉ bằng việc xuất khẩu ngà voi và trầm hương mà còn bằng cả các hoạt động cướp phá trên biển và các nước láng giềng ven biển.\nThánh địa Mỹ Sơn.\nVào nửa cuối thế kỷ thứ VII, các ngôi đền của hoàng gia bắt đầu được xây dựng tại Mỹ Sơn. Tôn giáo chính lúc này là thờ thần Shiva nhưng các ngôi đền cũng thờ cả thần Vishnu. Các học giả gọi phong cách kiến trúc thời kỳ này là phong cách Mỹ Sơn E1, để chỉ các di tích ở Mỹ Sơn điển hình theo phong cách này. Các công trình còn đến nay của phong cách này bao gồm bệ đá hình linga được biết với tên gọi là bệ đá Mỹ Sơn E1 và phần trán tường có hình Brahma được sinh ra từ hoa sen nở từ rốn của thần Vishnu đang ngủ.\nTrong một văn bia khắc năm 657 tìm thấy ở Mỹ Sơn, vua Prakasadharma, người lấy hiệu là Vikrantavarman I, đã tự xưng có bên ngoại là hậu duệ của Brahman Kaundinya và công chúa rắn Soma, người theo truyền thuyết cũng là thủy tổ của người Khmer. Chính văn bia này đã cho thấy mối quan hệ về văn hóa và chủng tộc giữa vương quốc Chăm Pa và đế quốc Khmer. Bia được khắc nhân dịp vua cho dựng tượng đài, có lẽ là linga, cho thần Shiva. Một văn bia khác mô tả lời cầu nguyện chân thành của vua khi hiến tế cho Shiva: người là nguồn khởi thủy của sự kết thúc vĩnh viễn sự sống, điều rất khó đạt được; mà bản chất thực sự nằm ngoài suy nghĩ và lời nói của con người, tuy nhiên những ai mà ý niệm tương đồng với vũ trụ thì hình thái của người sẽ hiện ra.\nThời hưng thịnh của Kauthara.\nVào thế kỷ thứ VIII, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã tạm thời chuyển từ Mỹ Sơn xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với trung tâm ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Bà - Po Nagar ở gần Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java lại đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga.\nChiêm Thành.\nTriều đại Phật giáo ở Indrapura.\nNăm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (thành Đồng Dương, ở huyện Thăng Bình, Việt Nam ngày nay). Vua Indravarman tự xưng là hậu duệ của Bhrigu trong sử thi Mahabharata, và quyết đoán rằng chính kinh thành Indrapura đã từng được chính Bhrigu ở thời cổ đại xây dựng nên.\nIndravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ bồ tát Lokesvara (Quán Thế Âm). Di tích này đã bị hủy hoại trong chiến tranh Việt Nam, chỉ còn lại một số hình ảnh và bản vẽ từ trước chiến tranh. Một số tượng đá từ tu viện cũng được gìn giữ tại các viện bảo tàng ở Việt Nam. Các học giả đã gọi phong cách nghệ thuật điển hình tại Indrapura là phong cách Đồng Dương. Phong cách đặc trưng bởi tính năng động và tính hiện thực về mặt dân tộc học khi mô tả người Chăm. Các tác phẩm còn lại của phong cách này có một số bức tượng dvarapala hay hộ pháp rất dữ tợn trước đây được đặt ở quanh tu viện. Thời kỳ Phật giáo thống trị, Chăm Pa kết thúc năm 925, lúc phong cách Đồng Dương đã bắt đầu nhường bước cho các phong cách tiếp theo có mối liên hệ với sự phục hồi của đạo thờ thần Si-va.\nCác vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ thứ IX và thứ X. Các đền tháp này ở Mỹ Sơn đã xác định một phong cách kiến trúc và nghệ thuật khác mà các học giả gọi là phong cách Mỹ Sơn A1, dùng để chỉ tất cả các di tích ở Mỹ Sơn điển hình cho phong cách này. Với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Si-va giáo vào khoảng thế kỷ thứ X, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn.\nChăm Pa đạt đến đỉnh cao của văn minh Chăm ở Indrapura nằm tại khu vực Đồng Dương và Mỹ Sơn ngày nay. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Khmer ở phía Tây và Nam.\nLịch sử Bắc Chăm Pa (Indrapura và Vijaya) phát triển đồng thời với vương quốc láng giềng là nền văn minh Angkor của người Khmer nằm ở phía bắc hồ lớn Tonle Sap trên phần đất mà ngày nay là Campuchia. Sau khi vương triều Chăm ở Indrapura được thiết lập năm 875 thì chỉ hai năm sau tức năm 877 tại Roluos, vua Indravarman I đã thiết lập đế quốc Khmer. Lịch sử của Chăm Pa và đế quốc Khmer cũng đều phát triển rực rỡ trong thế kỷ X đến thế kỷ XII, rồi đều dần suy yếu và tan rã vào thế kỷ thứ XV. Năm 1238, đế quốc Khmer mất miền đất phía tây xung quanh Sukhothai sau một cuộc nổi dậy của người Xiêm. Thành công của cuộc nổi dậy không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập của người Xiêm mà còn báo trước sự tan rã của Angkor năm 1431 sau khi bị người Xiêm từ vương quốc Ayutthaya phá hủy và rồi bị sáp nhập vào Sukhothai năm 1376. Sự suy yếu của Chăm Pa cũng diễn ra đồng thời với Angkor, dưới sức ép từ Đại Việt, quốc gia nằm ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, và chấm hết khi kinh thành Vijaya (tức Chà Bàn) bị người Việt chinh phục và phá hủy vào năm 1471.\nKhmer xâm lăng Kauthara.\nNăm 944 và 945, quân đội Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara. Khoảng năm 950, người Khmer đã phá hủy đền Po Nagar và lấy đi tượng nữ thần. Năm 960, vua Chăm là Jaya Indravaman I đã cử sứ thần sang nhà Tống (lúc này đóng đô ở Khai Phong). Năm 965, nhà vua đã cho xây dựng lại đền thờ Po Nagar và tượng nữ thần để thay thế cho bức tượng đã bị lấy đi.\nChiến tranh với Đại Cồ Việt.\nVào nửa cuối thế kỷ thứ X, các vua của triều đại Indrapura đã tiến hành chiến tranh với Đại Cồ Việt. Trước đó, An Nam (Việt Nam) đã tách ra độc lập, chấm dứt danh nghĩa là một phiên thuộc Trung Quốc. Sau khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, đất nước lại trải qua thời kỳ loạn các sứ quân và được Đinh Bộ Lĩnh thống nhất năm 968 với quốc hiệu Đại Cồ Việt và kinh đô ở Hoa Lư thuộc địa phận Trường Yên tỉnh Ninh Bình ngày nay.\nNăm 979, vua Chăm là Parameshvaravarman I (sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi là Bê Mi Thuế) đã cử hạm đội sang tấn công Hoa Lư. Tuy nhiên, toàn bộ quân viễn chinh đã bị tan rã sau một cơn bão. Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt đã cử ba sứ thần sang Indrapura. Sau khi các sứ thần bị giam giữ, vua Lê Hoàn đã quyết định đánh Chăm Pa. Quân Đại Việt đã chiếm Indrapura và giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt thời Lý gọi là Phật Thệ.\nNăm 983, một quản giáp người Kinh tên Lưu Kỳ Tông nổi lên giết chết quan cai trị trực tiếp nhà Lê, xây sửa thành Phật Thệ, rồi mộ hơn 10.000 người và nhiều voi ngựa đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành tiến quân xuống đánh nhưng đại quân của nhà Tiền Lê chịu không nổi sương lam chướng khí phải rút về. Năm 986, hay tin vua Indravarman IV của người Chăm từ trần, Lưu Kỳ Tông liền tự xưng vương và xin nhà Tống thừa nhận. Vua Lê Kỳ Tông làm vua xứ Champa từ năm 986 cho đến khi bị lật đổ bởi vua Harivarman II vào năm 989.\nChiến tranh với nhà Lý.\nMâu thuẫn giữa Champa và Đại Việt đã không chấm dứt với việc người Chăm từ bỏ kinh đô Indrapura. Champa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021 và 1026. Năm 1044, một trận đại chiến diễn ra giữa Đại Việt và Champa đã dẫn đến cái chết của vua Jaya Simhavarman II (sách sử Việt gọi là Sạ Đẩu) và việc vua Lý Thái Tông của Đại Việt trực tiếp chỉ huy cuộc triệt hạ kinh đô Vijaya. Quân Việt mang về nước voi, nhạc công và cả hoàng hậu Mỵ Ê, người đã nhảy xuống sông tự tử trên đường về Thăng Long. Từ đó, Champa bắt đầu nộp cống cho các vua Đại Việt, và vào năm 1065 đã cống nạp một con tê giác trắng. Năm 1068, vua Vijaya là Rudravarman III (tức Chế Củ) lại tấn công Đại Việt để trả thù trận thua năm 1044. Một lần nữa vương quốc Champa bị thất bại và Đại Việt lại chiếm và đốt phá kinh đô Vijaya. Kinh đô Vijaya bị đốt phá một lần nữa vào năm 1069, khi tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy hải quân tấn công Champa và chiếm Vijaya. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính lấy tự do. Lợi dụng tình hình chiến sự, các thủ lĩnh người Chăm ở phía Nam đã dựng lên một vương quốc độc lập. Đến năm 1084, các vua Bắc Champa mới có thể tái thống nhất đất nước. Trong năm 1075, quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy lại tấn công Champa nhưng không thắng được và phải rút quân về. Tuy không thắng nhưng Lý Thường Kiệt đã cho vẽ họa đồ ba châu mới lấy được và đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh và đồng thời chiêu mộ dân chúng đến đấy ở.\nKhmer xâm chiếm Bắc Champa.\nNăm 1074, vua Harivarman IV lên ngôi đã cho phục dựng lại các đền tháp ở Mỹ Sơn và mở ra một thời kỳ thịnh vượng ngắn ngủi. Harivarman thiết lập quan hệ hòa bình với Đại Việt nhưng lại mở ra cuộc chiến với người Khmer của đế chế Angkor. Năm 1080, quân đội Khmer đã tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Champa. Các đền tháp và tu viện đã bị phá hủy; các di sản văn hóa đã bị lấy đi. Sau những thất bại này, quân Champa dưới sự chỉ huy của vua Harivarman đã đẩy lùi quân địch, khôi phục lại kinh đô và các đền tháp.\nKhoảng năm 1080, một triều đại mới đã ra đời ở cao nguyên Korat trên đất Thái Lan ngày nay đã chiếm ngai vàng Angkor của đế quốc Khmer. Ngay sau đó, các vua của triều đại mới đã tiến hành mở rộng đế quốc. Sau thất bại của các cuộc tấn công Đại Việt năm 1132 và 1137, các vua Angkor đã quay sang Chăm Pa. Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người đã xây dựng Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và chiếm toàn bộ miền Bắc Champa. Tuy nhiên, năm 1149, vua Jaya Harivarman, lãnh đạo của tiểu quốc Panduranga ở phía Nam, đã đánh bại quân xâm lược và lên ngôi vua của các vua tại Vijaya. Ông đã dành thời gian trị vị còn lại để đàn áp các cuộc nổi loạn tại Amaravati và Panduranga.\nNgười Chăm tấn công Angkor.\nNăm 1167, Jaya Indravarman IV (sử Việt gọi ông là Chế Chí) lên ngôi vua Chăm Pa. Tài liệu văn bia mô tả ông dũng cảm, sử dụng thành thạo mọi loại vũ khí, và thông hiểu triết học, thuộc hết các lý lẽ Dharmasutra (một kinh Ấn Độ giáo) và các học thuyết Phật giáo Đại thừa. Sau khi thiết lập hòa bình với Đại Việt năm 1170, vua Jaya Indravarman đã đánh sang Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ lớn Tonle Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm.\nNgười Khmer chinh phục Vijaya và nội chiến.\nNgười Khmer nhanh chóng ủng hộ nhà vua mới Jayavarman VII người đã đẩy lùi quân Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Khi Jaya Indravarman IV một lần nữa tấn công Khmer năm 1190, Jayavarman VII đã giao cho một hoàng tử người Chăm là Vidyanandana làm tổng chỉ huy quân Khmer. Vidyanandana đã đánh bại quân xâm lược Chăm và thậm chí tiến lên chiếm Vijaya và bắt sống vua Jaya Indravarman về Angkor.\nSau khi chinh phục Vijaya, vua Khmer chọn người em rể là Hoàng tử In làm vua bù nhìn ở Chăm Pa. Nội chiến nổ ra tại Chăm Pa giữa các phe phái Vijaya và Panduranga. Cuối cùng Hoàng tử In chiến thắng nhưng lại tuyên bố Chăm Pa độc lập khỏi vương quốc Khmer. Quân Khmer đã cố gắng chiếm lại Chăm Pa nhưng không thành trong suốt những năm 1190. Năm 1203, cuối cùng thì tướng của vua Jayavarman VII cũng chiếm được Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220. Jaya Paramecvaravarman II lên ngôi năm 1226, từ đây người Chân Lạp tự ý rút khỏi Champa. Sau đó, Vijaya đi vào giai đoạn suy thoái kéo dài hơn hai thế kỷ. Thời kỳ này đi đến kết thúc bởi Đại Việt và chỉ có một gián đoạn ngắn ngủi trong những cố gắng quân sự của vua Che Bonguar.\nCuộc xâm lược của quân Nguyên Mông.\nNăm 1270, Kublai Khan dựng nên nhà Nguyên ở Bắc Kinh và dần dần chiếm hết miền Nam Trung Quốc do nhà Nam Tống cai trị. Năm 1280, Kublai Khan quay sang thôn tính Chăm Pa và Đại Việt. Năm 1283, quân Nguyên dưới sự chỉ huy của tướng Sogetu đánh Chăm Pa và chiếm kinh thành Vijaya. Việc xâm lược Chăm Pa không có kết quả lâu dài. Thay vì tấn công trực diện, vua Chăm đã cho rút quân lên Tây Nguyên và tiến hành chiến tranh du kích. Hai năm sau, quân Nguyên phải rút lui và Sogetu bị giết trên đất Đại Việt trong một trận chiến khác trên đường rút quân về.\nJaya Simhavarman III.\nNăm 1307, vua Chăm là Jaya Simhavarman III (sử Việt gọi là Chế Mân), đã dựng đền thờ Po Klaung Garai ở Panduranga (Phan Rang), và nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Không lâu sau hôn lễ, nhà vua băng hà, Đại Việt cử người cướp công chúa trở về để tránh bị hỏa táng theo tục lệ của người Chăm. Tuy nhiên phần đất hồi môn của Chế Mân đã không trở về với Chăm Pa. Để giành lại miền đất này, và nhân cơ hội Đại Việt suy yếu trong thế kỷ thứ XIV, quân Chăm bắt đầu thường xuyên xâm nhập biên giới vào sâu trong đất Đại Việt ở phía Bắc.\nChế Bồng Nga.\nVị vua hùng mạnh cuối cùng của vương quốc Chăm Pa là Chế Bồng Nga. Không có văn bia Chăm Pa nào đề cập đến ông và Biên Niên Sử cũng không ghi chép về ông. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1491), ông cai trị từ năm 1360 đến năm 1390. Ông tấn công vào Đại Việt nhiều lần.\nQuân đội Chăm Pa đã đánh phá Thăng Long vào các năm 1372 và 1378. Trong lần tấn công cuối cùng của Quân đội Chăm Pa vào lãnh thổ nhà Trần là vào năm 1389. Tuy lúc đầu bị quân đội nhà Trần do Hồ Quý Ly chỉ huy chặn lại, nhưng sau đó do dùng mưu dụ quân đội nhà Trần truy kích mà Quân đội Chăm Pa tiến lên thắng lớn. Nhờ có mưu kế của tướng Nguyễn Đa Phương nên quân đội nhà Trần mới có thể rút lui bảo toàn lực lượng. Quân đội Chăm Pa dưới sự chỉ huy của Chế Bồng Nga và La Khải theo hai đường thủy bộ tiến đến tận Hải Triều (khúc sông Luộc chảy qua huyện Phù Tiên, Hải Hưng và huyện Hưng Hà, Thái Bình ngày nay). Tại đây, sau trận thủy chiến với Trần Khát Chân, Chế Bồng Nga đã chết tại trận, La Khải bèn nhân cơ hội rút quân về nước tự lập làm vua. Đó là năm 1390. Đây là lần tấn công cuối cùng của quân đội Chiêm Thành vào Đại Việt nhưng cũng đã đủ để đặt dấu chấm hết cho nhà Trần.\nXung đột với nhà Hồ.\nNăm 1391, Hồ Quý Ly đem đại quân tới tận biên giới Việt - Chăm và cử Hoàng Phụng Thế đem quân tấn công Chăm Pa nhưng quân Chăm Pa đặt mai phục thắng lớn khiến toàn quân Việt tan vỡ chỉ có Phụng Thế thoát được về. Ngay trong năm đó Quý Ly cũng rút quân về.\nĐến năm 1402, Hồ Hán Thương lại đem quân đi đánh Chăm Pa. Tiền quân Việt do viên tướng người Chăm là Chế Đa Biệt (tên Việt là Đinh Đại Trung) giao tranh quyết liệt với quân Chăm do Chế Tra Nan chỉ huy khiến hai bên đều tổn thất, cả hai viên tướng đều bị chết nhưng cũng làm cho vua Chăm là Jaya Indravarman VII (sách sử Việt gọi là Ba Đích Lại) (là con của La Ngai) phải nhường đất Chiêm Động (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Thăng và Hoa, nay là đất các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam) và cả đất Cổ Lũy (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Tư và Nghĩa nay là các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi) cho nhà Hồ.\nNăm 1403, Hồ Hán Thương lại giao Nguyên Khôi thống lĩnh quân thủy bộ tiến đánh Chăm Pa nhưng vì lương thực tiếp tế không đủ lại có hải quân Minh giúp quân Chăm nên phải rút quân về.\nNăm 1407, nhân khi quân Minh sang xâm lược Đại Việt, quân Chăm Pa cũng tấn công Đại Việt và lấy lại được đất cũ (Chiêm Động và Cỗ Lũy). Tướng Minh là Trương Phụ tiêu diệt các lực lượng chống đối của tàn dư nhà Hồ, giết tướng Hoàng Hối Khanh và thu hàng tướng Đặng Tất; đất đai Trương Phụ thu về nhà Minh chỉ đến Hoá châu, không tiến xuống vùng đất Chăm Pa vừa lấy lại.\nĐại Việt chinh phục và tàn phá Vijaya.\nNăm 1446, quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Trịnh Khả, Lê Thụ và Lê Khắc Phục đã tấn công Chăm Pa. Cuộc tấn công kết thúc thắng lợi và thành Vijaya mà người Việt thời Lê gọi là thành Chà Bàn (hay Đồ Bàn) rơi vào tay quân Việt. Quân Việt cũng bắt sống vua Chăm là Bí Cai (Bichai) và mang về Thăng Long cùng với nhiều phi tần. Tuy nhiên năm sau quân Việt đã bị đẩy lùi.\nNăm 1470, quân Đại Việt do vua Lê Thánh Tông trực tiếp chỉ huy lại tấn công Chăm Pa. Quân Đại Việt lúc này đã rất mạnh và có tổ chức tốt. Ngược lại quân Chăm rất yếu và thiếu tính tổ chức. Thủy quân Đại Việt do các tướng Đinh Liệt và Lê Niệm chỉ huy tấn công trước. Lê Thánh Tông dẫn đại quân theo sau. Tháng 2 năm đó, vua Chăm là Trà Toàn cử em đem tượng binh và bộ binh đến sát trung quân của vua Lê Thánh Tông. Các tướng Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiêm, Lê Thế và Trịnh Văn Sái đem thủy quân chắn giữ cửa biển Sa Kỳ (nay là huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi) chặn lối rút của quân Chăm. Vua Lê Thánh Tông dẫn thủy quân tiến đánh quân Chăm ở cửa Áp (tức cửa Tân Áp, sau là cửa Đại Áp ở huyện Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam) và cửa Tọa (tức cửa Cựu Tọa sau là cửa Tiểu Áp cách cửa Đại Áp hơn 7 dặm). Đồng thời bộ binh Đại Việt do Nguyễn Đức Trung ngầm đi đường núi tấn công quân Chăm khiến quân Chăm phải rút về thành Vijaya. Quân Việt nhanh chóng tiến lên đánh bại quân Chăm và bao vây thành Vijaya\nThành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường chở về Thăng Long. Ít nhất hơn 60.000 người Chăm bị giết và 30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn. Sau chiến thắng vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập các địa khu Amaravati và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam và duy trì vệ quân Thăng Hoa ở đây . Tướng Chăm là Bồ Trì Trì (tên Chăm: ?) chiếm vùng đất Panduranga (sách sử Việt gọi là Phan Lung) xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần và vua Lê Thánh Tông phong Bồ Trì Trì làm vương đất Chăm (sách Toàn thư gọi là Chiêm Thành tức là vùng đất Phan Rang, Thuận Hải ngày nay). Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (sách Toàn thư gọi là Hoa Anh tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay) và nước Nam Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên).\nThất bại năm 1471 đã dẫn đến việc nhiều làn sóng người Chăm di cư sang Campuchia. Cộng đồng người Chăm và người Islam gốc Mã Lai, Java ở Campuchia nhờ đó mà gia tăng thế lực. Biên niên sử \"Sejarah Melayu\" của người Mã Lai cũng ghi nhận sự di cư của người Chăm tới các vương quốc sultan ở Malacca. Thậm chí, một số quý tộc gốc Chăm còn được các sultan ban cho chức quan.\nTiểu quốc Hoa Anh và các chúa Nguyễn.\nSau khi xâm chiếm Champa và tàn phá kinh đô Vijaya, vua Lê Thánh Tông quyết định cắt phần đất Kauthara cũ từ đèo Cù Mông tới đèo Cả lập ra tiểu quốc Hoa Anh, phong vương cho chúa xứ này. Cả Hoa Anh, Panduranga, Jarai trở thành phiên thuộc của nhà Lê sơ.\nNăm 1578, Lương Văn Chánh là tướng của chúa Nguyễn Hoàng cầm quân tiến vào Kauthara, vây và hạ Thành Hồ – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Champa, nằm tại huyện Phú Hòa, phía Tây thành phố Tuy Hòa ngày nay - đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chánh cũng đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn. Trong khoảng 10 năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỉ XVII,do cục diện Chiến tranh Lê–Mạc phân liệt, Panduranga từ phía Nam nhiều lần tái chiếm Kauthara, đuổi người Việt khỏi miền đất này.\nNăm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm, mà sử Việt gọi là Văn Phong, đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Sang năm 1653, nhân việc vua Chăm Pa là Po Nraop (Bà Tấm) quấy phá biên giới phía nam, chúa Nguyễn Phúc Tần đã gởi một đoàn quân sang tấn công Chăm Pa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop đưa về Huế. Trên vùng đất cũ của tiểu vương quốc Kauthara chúa Nguyễn Phúc Tần lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa và Vạn Ninh) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh, Nha Trang, Cam Lâm và Cam Ranh). Vậỵ là vào năm 1653 Kauthara hoàn toàn bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Kauthara thất thủ, đền Po Nagar ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước tượng Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một đền ở Mông Đức gần làng Hữu Đức (Phan Rang) bây giờ.\nPanduranga.\nPhần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa lịch sử mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ Phú Yên ngày nay trở về Nam (Kauthara và Panduranga) và từ năm 1653 Chăm Pa chỉ còn nửa đất phía nam của địa khu Panduranga (tức Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết ngày nay). Tuy nhiên, dưới sự bảo hộ của Đại Việt, vương quốc này vẫn giữ được độc lập dưới sự cai trị của các chúa Chăm.\nMối quan hệ với bán đảo Mã Lai và đạo Islam.\nTừ năm 1414, chính quyền các tiểu quốc ở khu vực bán đảo Mã Lai như Kelantan (được mệnh danh là \"serambi Mekah, cổng tới Mecca\"), Malacca đã bắt đầu lấy đạo Islam làm quốc giáo. Người Chăm trên lãnh thổ Chăm Pa do đó cũng có nhiều nhóm chuyển sang đạo Islam, gọi là Chăm Baruw (Chăm mới), trái với nhóm chưa cải đạo là Chăm Jahed (Chăm cũ).\nMối quan hệ về dân tộc, ngôn ngữ và tôn giáo giữa người Chăm và người Mã Lai ở bán đảo Mã Lai đã tạo nên một cầu nối, liên kết hai khu vực. Nhiều thành phố ở Kelantan mang những cái tên liên quan tới Chăm Pa (Chepa) như Pengkalan Chepa, Kampung Chepa. Văn hóa và ẩm thực Kelentan cũng lưu giữ nhiều dấu ấn Chăm Pa. Biên niên sử \"Hikayat Kelantan\" cũng cho rằng, vị vua Long Yunus (Raja of Kelantan), người sáng lập vương quốc Hồi giáo Kelantan, có tổ tiên đến từ Kebayat Negara hoặc Kembayat Negara, nơi được cho là Chăm Pa. Nữ vương Che Siti Wan Kembang trong huyền thoại Kelantan được cho là mang ba dòng máu Champa-Kelantan-Pattani. Nhiều vị Raja Kelantan cũng có họ hàng với vương tộc Chăm Pa. Biên niên sử \"Babad Kelantan\" còn cho biết, giữa thế kỉ 17, một vị hoàng tử Chăm Pa tên Nik Mustafa đã đến Kelantan học tập nhiều năm, khi trở về nước đã xưng vương là Sultan Abdul Hamid. Truyện cổ Chăm Pa \"Nai Mai Mang Makah\" kể việc một công chúa từ Makah (Kelantan) cố gắng cải đạo chúa Chăm sang Islam.\nNăm 1594 chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca.\nNăm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm mà sử Việt gọi là Văn Phong () đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Kỷ tỵ, năm thứ 16 (1629), Văn Phong ở Phú Yên dùng quân Chiêm Thành để làm phản. Phó tướng Nguyễn Phước Vinh (Nguyễn Hữu Vinh, ) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn Biên.\nTừ năm 1622-1627, Chăm Pa được cai trị bởi một vị vua tên Po Klaong Mah Nai. Trước đó, vị vua theo đạo Hindu là Po Ehklang bị quan Maha Taha (महा तह, tức Po Klaong Mah Nai) giết và cướp ngôi. Po Klaong Mah Nai là người theo đạo Islam. Lúc này tại Chăm Pa, xảy ra chia rẽ và xung đột giữa các nhóm người Chăm theo đạo Hindu và Islam.\nTrong các năm 1627 đến 1651 là giai đoạn chúa Chăm là Po Rome (con rể Po Klaong Mah Nai) xưng vương và lấy con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên là Ngọc Hoa (có sách gọi là Ngọc Khoa, Nguyễn Phúc Ngọc Khoa (阮福玉誇). Po Rome là người gốc Chu Ru, từng sống nhiều năm ở Kelantan và theo đạo Islam. Đây cũng là giai đoạn mà quan hệ Việt – Chăm diễn ra tốt đẹp.\nNăm 1653, chúa Chiêm là Bà Tấm (Po Nraup, còn gọi là Bà Thấm, , Bà Bật, Bà Thâm, là anh em trai của Po Rome) xâm lấn Phú Yên. Chúa Nguyễn Phúc Tần cử cai cơ Hùng Lộc và tham mưu Minh Vũ đem quân vượt qua dãy núi Thạch Bi chiếm đất Chăm đến sát bờ trái sông Phan Rang ngày nay lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân mang thư xin hàng, lấy sông Phan Rang làm giới hạn. Đây cũng là thời điểm Chăm Pa nộp cống xưng thần với các chúa Nguyễn.\nLúc bấy giời tại Campuchia, một vị vua tên Nặc Ông Chân đổi sang đạo Islam và xưng là Sultan Ibrahim (1642-1659). Nặc Ông Chân tin dùng và ưu ái người Chăm Mã Lai, gây bất bình với người Khmer trong nước. Năm 1659, Nặc Ông Chân bị chúa Nguyễn đánh bại, một lượng lớn người Chăm và Mã Lai ở Chân Lạp bỏ chạy sang Ayutthaya tị nạn, tạo thành một cộng đồng người gốc Chăm Pa ở Xiêm.\nTại Chăm Pa, chúa Chăm Bà Tranh (Po Saut, Wan Dam, , cai trị khoảng 1660-1692, con trai của Po Rome) cũng theo đạo Islam và xưng là Paduka Seri Sultan (Điện hạ Sultan). Đây là giai đoạn mà đạo Islam quảng bá mạnh tại khu vực nhờ vào các lực lượng người gốc Mã Lai.\nNăm 1682, các giáo sĩ người Pháp ở Ayudhya báo cáo về việc chúa Chăm Pa triều cống cho vua Xiêm. Có khả năng Bà Tranh muốn nhờ Xiêm giúp đỡ để giảm sức ép từ chúa Nguyễn. Trong khi ghé tại hòn đảo Pulo Ubi (tức hòn Khoai) trong vịnh Thái Lan, ngày 13 tháng 5 năm 1687, nhà du hành người Anh William Dampier đã bắt gặp một tàu buôn từ Chăm Pa đang trên đường đi Malacca. William cho biết tàu buôn này có khoảng 40 người, trang bị vũ khí và mang theo hàng hóa là gạo, đồ sơn mài. Chăm Pa tham gia buôn bán với người Hà Lan ở Malacca.\nChúa Nguyễn và chúa Chăm Kế Bà Tử.\nNăm 1692, Bà Tranh đã tấn công vào phủ Diên Ninh và dinh Bình Khang tức vùng Diên Khánh ngày nay. Cuộc tấn công này đã thất bại và quân Chăm bị tướng Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại vào tháng 3 năm 1693. Chúa Nguyễn đổi tên Chiêm Thành Quốc thành Thuận Thành Trấn, sau đó tháng 8 năm 1693, đổi Thuận Thành Trấn thành Bình Thuận Phủ. Bà Tranh bị giải về Thuận Hóa, người anh em là Tả trà viên Kế Bà Tử (繼婆子, Po Saktiraydaputih) làm Khám lý, ba người con Bà Ân làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người Kinh và sai về để vỗ yên lòng dân.\nCuộc chiến tranh năm 1692-1693 đã khiến một hoàng thân tên Po Chongchan (Po Choncăin) dẫn theo gia quyến và hơn 5.000 người Chăm bỏ sang Campuchia tị nạn. Những nhóm người này được Chính vương Chey Chettha IV cho định cư dọc xung quanh kinh đô Oudong, bên bờ sông Mê Kông. Người Chăm Mã Lai tiếp tục được triều đình Chân Lạp sử dụng làm quân binh hầu cận. Cộng đồng Chăm trong đợt di cư này có lẽ là tổ tiên của nhóm Chăm Jahed (Chăm cũ) hoặc Imam San ở Campuchia ngày nay.\nTháng 12 năm 1693, người Thanh là A Ban (阿班) cùng với Hữu trà viên là Ốc nha Đạt (Ốc nha Thát, 屋牙撻) ở Thuận Thành nổi loạn, đánh chiếm các đất Đại Đồng, Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang. Lúc đó Nguyễn Hữu Cảnh đang đi Tây Chính ở Chân Lạp, và quân Nguyễn ở lại đã bị quân Chăm tiêu diệt hoàn toàn.\nĐầu năm 1694, Bà Tranh chết, quân A Ban lại vây Phan Rang. Tháng 2, A Ban tiến giữ lũy Ô Liêm. Lưu thủ Nhuận và các cai cơ Tống Tuân và Nguyễn Thành chia quân giáp đánh. A Ban chạy về Phố Châm. Sau đó Cai cơ Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) mới dẹp yên.\nKhi Nguyễn Hữu Cảnh trở lại, Kế Bà Tử đã ký hòa ước với chúa Nguyễn Phúc Chu. Tháng 8, chúa cho phủ Bình Thuận trở lại làm trấn Thuận Thành. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã đồng ý khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành Trấn, và chúa Chăm Kế Bà Tử được gọi là T\"huận Thành trấn vương\" (順城鎮王), đóng đô ở Băl Canar, giữ chức Tả đô đốc, phiên vương trấn Thuận Thành của chúa Nguyễn. Theo bộ văn bản hoàng gia Chăm (bản chữ Hán), mối quan hệ phiên thuộc giữa vùng đất cai quản bởi các chúa Chăm và chính quyền trung ương của chúa Nguyễn diễn ra tốt đẹp.\nThuận Thành trấn.\nNăm 1697, chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Bình Thuận (từ Phan Rang trở về tây) chia làm hai huyện An Phước và Hòa Đa. Cũng từ đây vùng đất Chăm còn lại (Phan Rang trở về đông) đã trở thành phiên thuộc của chúa Nguyễn và mối quan hệ giữa chúa Nguyễn và chúa Chăm là mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương.\nTừ những năm 1700 đến 1728, các chúa Nguyễn chủ yếu tập trung binh lực mở rộng ảnh hưởng trên đất Chân Lạp. Mặc dù có nhiều giai đoạn, chính quyền Đàng Trong dồn hết binh lính ở Chân Lạp hoặc suy yếu, chính quyền Chăm Pa vẫn không hề thừa cơ nổi dậy. Rất có thể, mối quan hệ giữa giữa hai chính quyền Po Saktiraydaputih và Nguyễn Phúc Chu rất tốt đẹp và nó còn để lại di sản sau này.\nĐến năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban hành một bản hiệp ước mới gọi là Ngũ điều Nghị định, trong đó khẳng định quyền xét xử của các chúa Chăm đối với các thần dân người Chăm và cũng quy định nghĩa vụ của các chúa Chăm đối với các chúa Nguyễn. Để giải quyết xung đột giữa người Chăm và người Việt, bản hiệp ước quy định các xung đột này sẽ do chúa Chăm tức Trấn Vương cùng với quan Cai bạ và quan Ký lục (cả hai là người Việt) phán quyết. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1832 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn.\nKhởi nghĩa Tây Sơn.\nCác đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận cho đến tận cuộc nội chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn. Từ năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra tại Đàng Trong, lãnh thổ Thuận Thành Trấn trở thành một trong những bãi chiến trường. Nội bộ chính quyền Chăm chia làm nhiều phe phái, ủng hộ Tây Sơn hoặc chúa Nguyễn.\nĐầu những năm 1770, khi phong trào Tây Sơn nhen nhóm, anh em Nguyễn Nhạc đã tìm đến bắt liên lạc, kết thân với Bà chúa Hỏa. Bà chúa Hỏa hay còn gọi là Bà Hỏa, nữ chúa Thị Hỏa là thủ lĩnh của người Chăm quản lĩnh một vùng đất rộng lớn mà sử sách xưa thường gọi là \"nước Hỏa Xá\". Địa bàn của bà chúa Hỏa trải rộng khắp khu vực miền núi ngày nay thuộc phía tây nam Phú Yên kéo dài đến Cheo- reo (Gia Lai, Kon Tum). Nguyễn Lữ, người thứ ba trong \"Tây Sơn tam kiệt\", là người tu theo Minh giáo (còn gọi là đạo Ma-ní), là đệ tử của bà chúa Hỏa, thờ thần lửa và dùng bùa phép để chữa bệnh, trừ tà, nên còn được gọi ông là thầy tư Lữ.\nMột bộ phận người Chăm tại trấn Thuận Thành (nay thuộc tỉnh Bình Thuận) do Kế Pù Tá (Po Tisuntiraidapuran, Nam sử gọi là Nguyễn Văn Tá / 阮文佐) đứng đầu ủng hộ và tham gia phong trào Tây Sơn từ rất sớm thì ở một địa bàn khác là động Thạch Thành (nay thuộc huyện Sơn Hòa và Sơn Thành, tỉnh Phú Yên). Bà chúa Hỏa cũng đem toàn bộ lực lượng của mình gia nhập nghĩa quân khi anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa. Năm Qúy Tị (1773) quân Tây Sơn đã đánh chiếm được Phú Yên, Nguyễn Nhạc phục hồi danh vị Phiên Vương cho bà chúa Hỏa và giao cho bà nhiệm vụ trấn giữ động Thạch Thành.\nMùa hè Giáp Ngọ (1774), chúa Nguyễn sai danh tướng Tống Phúc Hiệp đem quân từ Hòn Khói (nay thuộc Nha Trang) đánh chiếm Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang. Quân Tây Sơn yếu thế phải lui về giữ Phú Yên. Tống Phúc Hiệp trực tiếp chỉ huy quân vượt đèo Tam Độc đánh thẳng vào đội quân của bà chúa Hỏa, bà chúa Hỏa đã tử trận. Tháng 7 năm Ất Mùi (1775), Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Huệ bất ngờ đem quân từ Quy Nhơn vào đánh úp tiêu diệt cả quân thủy và quân bộ của Tống Phúc Hiệp. Năm 1778, thành Quy Nhơn sửa xong, Nguyễn Nhạc xưng là Minh Đức Hoàng Đế, niên hiệu Thái Đức. Hai Vua Thủy Xá và Hỏa Xá được phong Vương tước, sai sứ đưa ra những trầm hương, kỳ nam, hổ phách và voi ngựa làm cống vật và nguyện giữ một lòng trung thành với Tây Sơn.\nNăm 1780, Po Tisuntiraidapuran được hoàng đế Thái Đức nhà Tây Sơn giúp đăng cơ. Tuy nhiên, Po Tisuntiraidapuran liên tục phải chống đỡ các phong trào nổi dậy của người Chăm và hàng loạt cuộc công kích của chúa Nguyễn Ánh từ đất Gia Định.\nNăm 1782, một người anh em cùng huyết thống của Po Tisuntiraidapuran là Cei Krei Brei gây binh biến rồi phế truất ông, khiến thời điểm này Panduranga tạm thời không có người cai trị. Vào năm 1783, Cei Krei Brei tự tuyên bố là tân vương, nhưng liền sau đó quân Tây Sơn xuống vây đánh khiến ông này thất thế và bị tống giam. Ngôi vị của Po Tisuntiraidapuran được khai phục. Cùng năm này, một quân phiệt Chăm Bà-la-môn là Po Tolripho từ Ấn Độ (?) về Panduranga lập chiến khu nhằm chống quân đồn trú Tây Sơn, nhưng chóng bị Bắc Bình vương dẹp. Po Tolripho may mắn tẩu thoát được, bèn trèo đèo vượt suối mấy ngày đường lên Cheo Reo ẩn lánh ở các buôn người Thượng.\nĐến năm 1790, chúa Nguyễn Ánh được đà Thái Đức lâm thế yếu khó vươn được xuống phương Nam, bèn tiến chiếm Panduranga, phong Cei Krei Brei (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Chiêu, nguyên tên là Môn Lai Phù Tử, Po Ci Bri, con của phiên vương trước là Thắng) làm Thuận Thành trấn Khâm sai chưởng cơ. Các quan Chăm là Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Hào làm Khâm sai thống binh cai cơ. Nhưng ít lâu sau thì Nguyễn Văn Chiêu bị bãi chức vì chúa Nguyễn nghi ông theo Quang Trung.\nNăm 1793, chúa Nguyễn Ánh phái binh tiến đánh quân Tây Sơn đồn trú trên đất Panduranga. Phiên vương Thuận Thành là Po Tisuntiraidapuran (Nguyễn Văn Tá / 阮文佐) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại. Nguyễn Ánh sau đó (1794) cho các tướng người Chăm theo mình là Po Ladhuanpuguh (Nam sử gọi là Thôn-bá-hú hoặc Nguyễn Văn Hào / 阮文豪) làm Chánh trấn Thuận Thành, đồng thời phong Po Saong Nyung Ceng (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Chấn / 阮文震) làm phó trấn, đặt chế độ chánh trấn và phó trấn và bỏ chế độ phiên vương. Cả Po Ladhuanpuguh và Po Saong Nyung Ceng vốn là những phú nông người Chăm, không có xuất thân vương tộc.\nBị chúa Nguyễn tước mất vương vị, Po Krei Brei (Nguyễn Văn Chiêu) đành đưa gia quyến bỏ sang tỉnh Tbong Khmum của Chân Lạp định cư. Lần này, người Chăm từ Việt Nam chạy sang Campuchia tị nạn rất đông. Đoàn tị nạn gốc vương tộc này đến an trí tại Roka Po Pram, nơi vốn tập trung rất nhiều lưu dân Chăm và Mã Lai Hồi giáo. Ban sơ Po Krei Brei cũng muốn dựa vào thế lực của triều đình Kampuchea để đòi lại vương vị, nhưng tình hình xứ sở này cũng rất hỗn loạn vì những cuộc giao tranh của Xiêm và Tây Sơn rồi Nguyễn, nên rốt cuộc ông phải chôn mọi tham vọng bá quyền. Hiện chưa rõ Po Krei Brei sinh thác năm nào, ông được cộng đồng Hồi giáo Tbong Khmum và Kampong Cham suy tôn là thủy tổ của mình.\nCuộc nổi loạn ở trấn Thuận Thành.\nVào năm 1796, Po Chongchan - lãnh tụ Chăm được triều Tây Sơn ủng hộ - theo quân Tây Sơn tiến công Băl Canar nhưng bị Po Saong Nyung Ceng tạm thời đẩy lui; tháng 10 cùng năm có một thủ lĩnh người Chăm Mã Lai tự xưng từng sống ở Mecca (thực ra là Kelantan) nhiều năm tên Tuan Phaow (Đồng Phù, Toàn Phù) cùng một tù trưởng khác [Tăng Mã] thừa dịp chúa Nguyễn bận công kích nhà Tây Sơn, xách động một cuộc bạo loạn nhằm khôi phục quyền tự trị hoàn toàn cho Panduranga, nhưng cũng bị Po Saong Nyung Ceng dẹp tan.\nĐại Nam liệt truyện chép:\"Năm Bính Thìn [1796], man trưởng ở Dã Giang (thuộc tỉnh Bình Thuận) là Tăng Mã làm phản, quan quân đón đánh ở Phố Trâm phá tan được, Tăng Mã trốn chạy... Tù trưởng người Man là Đồng Phù [Tuan Phaow] quân bị tan vỡ bỏ chạy. Từ đó các man ở Thuận Thành không dám lại làm phản nữa.\"Đại Nam thực lục ghi chi tiết:\"Bính thìn, năm thứ 17 [1796], Tù trưởng Ba Phủ thuộc Thuận Thành là Toàn Phù (Tuan Phaow) tụ họp hơn 1.000 người, từ núi Đàn Linh ngầm xuống Cà Trập cướp bóc dân địa phương.\"\n\"Đinh tỵ, năm thứ 18 [1797], tháng 2, Nguyễn Công Thái tiến đến Phố Châm, đánh úp phá tan giặc man Ba Phủ. Tù trưởng man là Toàn Phù vượt núi trốn chạy. Quân ta đốt trại kho vựa, bắt sống hơn 100 người man về trú ở bảo Đăng Trại... Tháng 5, người man Ba Phủ là Toàn Phù lại họp đảng hơn nghìn người đến đánh bảo Ma Đế. Thủ binh Thuận Thành chống không được, phải bỏ bảo chạy. Phó tướng quản dinh Bình Thuận là Phan Tiến Hoàng nghe tin báo đem quân thẳng tới, gặp giặc ở Cà Tán (tên đất), bắn chết mười mấy người. Giặc lui... Tháng 9, giặc Man Ba Phủ là Toàn Phù đem quân vây bảo Tà Lạp, lại ủy cho người đảng giữ núi La A để ngăn quân viện của ta. Phó tướng Phan Tiến Hoàng thống quản quân sở bộ và quan binh Thuận Thành, chia đường tiến đến La A. Hoàng cùng Quản đạo Phố Hài là Phạm Tiến Tuấn đánh mặt trước, Cai cơ Lê Văn Niệm đánh mặt sau. Giặc thua vỡ to. Quân ta thừa thắng tiến thẳng đến Thuận Thành. Bọn Cai cơ Nguyễn Văn Vĩnh ở Tà Lạp nghe tin quân viện đến, mở bảo ra đánh, Toàn Phù bèn giải vây, vượt núi chạy. Hoàng thấy xứ ấy đường núi hiểm xa, chuyển vận rất khó, lại thêm mưa lụt lam chướng, quân nhiều người ốm, bèn rút quân về, để quân Thuận Thành đóng giữ các bảo Đăng Trại, Cà Tán, dâng sớ xin đợi đến mùa đông tạnh ráo sẽ cất quân đánh dẹp.\"\n\"Tháng 11, vua nước Chân Lạp là Nặc Ấn chết.\" \"Con là Nặc Chăn nối ngôi... Tháng 12, sai Phó tướng Phan Tiến Hoàng đem tướng sĩ Tiền chi và Trung chi Tiền quân cùng Xiêm binh và hương binh hơn 1.600 người, tiến đánh giặc Man Ba Phủ. Khi quân đến Phố Châm thì Toàn Phù trốn xa, dư chúng ra hàng nhiều. Bèn dẫn quân về.\"Về nhân vật Tuan Phaow (Đồng Phù), có ý kiến cho rằng ông ta trốn chạy sang Campuchia với tên Tuon Set Asmit và được vua Ang Eng thu dùng, cho làm tỉnh trưởng Tbong Khmum. Tuan Phaow sau đó làm tới chức Tể tướng dưới triều vua Ang Chan II với tên gọi Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha). Năm 1820, Đồng Phù bị phát hiện thân phận và bị triều đình nhà Nguyễn xử tử. Tuy nhiên, xét theo Đại Nam thực lục và liệt truyện, Tuan Phaow có thể không phải là vị Tể tướng gốc Chăm tên Tôn La Ca Đồng Phù thời vua Ang Chan II. Việc xử tử Đồng Phù là do Ang Chan II nhờ triều Nguyễn bắt giúp để trị tội đại nghịch vô đạo với vua Chân Lạp.\nĐến tháng 7 năm 1799, Po Ladhuanpuguh băng hà, nhờ vào uy tín sẵn có mà Po Saong Nyung Ceng được cử làm tân vương.\nLoạn Lê Văn Khôi.\nNgay sau khi Minh Mạng lên ngôi (1820), ông phân bố lại hành chính, chia Bình Thuận trấn thành 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Minh Mạng hạn chế hơn nữa quyền lực của hoàng gia Chăm.\nNăm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can-Po Chơn), vị vua cuối cùng của Champa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia.\nTháng 10 năm 1832, chúa Chăm cuối cùng là Po Phaok The (Nguyễn Văn Thừa (阮文承)) trả lại toàn bộ dân và đất cho vua Minh Mạng và trở thành một viên quan địa phương triều Nguyễn. Vua Minh Mạng đã xóa trấn Thuận Thành và đặt phủ Ninh Thuận vào cùng năm đó, cho Nguyễn Văn Thừa làm Quản cơ, thuộc hạ là các Chánh đội trưởng Nguyễn Văn Giảng, Nguyễn Văn Thuận và Nguyễn Văn Thanh đều cho làm Cai đội. Năm 1833, Minh Mạng định phong cho tước cho Nguyễn Văn Thừa là Diên An bá, chức Vệ úy, hàm Tòng tam phẩm. Nhưng sau đó có án nghi Thừa câu kết với Lê Văn Khôi nên thôi.\nTheo sách Tiễu Bình Thuận Man Phỉ Phương Luộc (1835) và bộ Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ Nhị Kỷ (1860), sau khi chúa Po Phaok The thoái vị và trở thành viên quan triều Nguyễn, nhóm Lê Văn Khôi ở miền Nam bắt tay với Po Phaok The và một số quý tộc cũng như lãnh đạo tôn giáo Islam Chăm như Lá Buôn Vương, Thầy Điên. Lúc đó triều Nguyễn đang đánh Lê Văn Khôi ở miền Nam, và quân Nguyễn ở lại Ninh Thuận, Bình Thuận bị phiến quân Chăm và các bộ lạc miền núi tấn công mà chưa kịp đối phó. Có một số quý tộc thì lại theo vua Minh Mạng và không tham gia phiến quân, cộng đồng Chăm và các bộ lạc miền núi bị chia rẽ giữa hai phe: phe Lê Văn Khôi (phe chúa Chăm cũ) và phe vua Minh Mạng.\nPhong trào Hồi giáo Katip Sumat.\nKatip Sumat hay Katip Tamat là một tu sĩ Hồi giáo (imam) sinh ở Campuchia, đã từng sang Makah (tiểu vương quốc Kelantan) du học về triết lý Hồi giáo. Katip Sumat chỉ huy một đoàn quân đa số là người Chăm và Mã Lai sinh sống ở Campuchia sang Champa để hình thành một phong trào đấu tranh chống triều đình Huế vào năm 1833. Đây có thể coi như phong trào jihad (Thánh chiến) duy nhất đến nay trong lịch sử Việt Nam. Cuộc nổi dậy của Katip Sumat gây mối đe dọa thật sự cho triều đình Huế, buộc vua Minh Mạng phải gởi một đội binh hùng mạnh hơn 1000 người và ra lệnh vũ trang những cư dân Việt thuộc phủ Bình Thuận để họ tham gia trực tiếp vào cuộc chiến chống quân nổi loạn. Phong trào Hồi Giáo của Katip Sumat đã bị dập tắt vào tháng 7 năm Tỵ lịch Chăm, tức là cuối năm 1833 hay đầu năm 1834.\nPhong trào của Katip Sumat có lẽ được sự hậu thuẫn của vị Sultan Muhamad I ở Kelantan (1800-1837).\nKhởi nghĩa Ja Thak Wa.\nJa Thak Wa của Katip Thak Wa, một người Chăm Bani làng Văn Lâm, Phan Rang từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình Panduranga-Champa thời trước. Với tổ chức quy mô hơn, Ja Thak Wa xây dựng một chiến khu tại vùng cao nguyên Đồng Nai Thượng và Kauthara (Nha Trang-Phú Yên) vào năm 1834.\nJa Thak Wa sau đó triệu tập một hội đồng để chỉ định Po War Palei (tiếng Việt gọi là La Bôn Vương), dân tộc Raglai, thuộc làng Cadang, lên làm quốc vương (Po Patrai) của Panduranga. Po War Palei là anh rể của Po Dhar Kaok (tên Việt là Nguyễn Văn Nguyên), tức là cựu phó vương Panduranga dưới thời vua Po Phaok The (1828-1832). Sau đó, Ja Thak Wa đề nghị tấn phong một người gốc Churu mang chức là Cei Aia Harei (hoàng tử mặt trời) làm hoàng tử kế vị và Ja Yok Ai gốc người Chăm làm Panraong Sa-ai (đại quan quân sự).\nQuân của Ja Thak Wa làm chủ tình hình vào đầu năm Ất Vị (1835), kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Panduranga cũ gồm huyện An Phước, Hòa Đa, Tuy Tịnh và phủ Bình Thuận.\nTrước sự đàn áp của nhà Nguyễn, nổi dậy Ja Thak Wa tại Panduranga kéo dài cho đến tháng thứ 4 năm 1835 thì kết thúc sau khi cả Po War Palei và Ja Thak Wa đều tử trận gần thôn Hữu Đức, Văn Lâm, Phan Rang.\nThời kỳ cuối của trấn Thuận Thành.\nKhi vua Minh Mạng đưa quân tiêu diệt phiến quân Chăm và các bộc lạc miền núi, Thị Khăn Oa (Nai Khan Wa), công nữ Chăm hợp tác với vua Minh Mạng kêu gọi tất cả phiến quân còn lại đầu hàng, trở về phía triều đình. Công nữ đã thuyết phục thành công. Vua Minh Mạng đồng ý duy trì hoàng gia Chăm (gia đình chúa Chăm). Các hoàng tử Chăm đời đời nhận chức Tri huyện Huyện Hòa Đa Thổ (tức Quận Phan Lý Chàm thời chính quyền Sài Gòn) dưới triều Nguyễn. Theo các bộ sắc phong mà các hoàng tử Chăm được vua Nguyễn các đời gửi (bản chữ Hán), mối quan hệ giữa các ông tri huyện huyện Hòa Đa Thổ và chính quyền Huế diễn ra tốt đẹp đến tận năm 1945.\nNăm 1945, hoàng tử Dụng Gạch (em trai công nữ Nguyễn Thị Thềm) đang là chức hương bộ và được gọi là Bộ Gạch, làm việc tại palei Kalon tức ấp Trinh Hòa (nay là xã Phan Sơn, Phan Lâm, huyện Bắc Bình và Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kalon Sông Mao) nơi mà Bà Nai Khan Wa cùng các bộ lạc miền núi khai hoang. Hoàng tử Dụng Gạch đã hưởng ứng lời kêu gọi cách mạng tháng Tám, bảo cho bà con Chăm và các dân tộc miền núi theo cách mạng. Sau cách mạng thành công, Hoàng tử Dụng Gạch giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Lâm thời Huyện Hòa Đa phụ trách miền núi.\nLịch sử miền đất Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm 1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) còn chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục thì vua Lê Thánh Tông phong cho dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc. Còn một số Bon, Palei phía Nam Lâm Đồng thì triều Nguyễn đặt Phủ Di Dinh Thổ (tức Phủ Di Linh Thượng), đưa viên quan Chăm cai trị cho đến năm 1945 nên mối quan hệ giữa hoàng gia Chăm và các bộ lạc miền núi rất mật thiết như việc hoàng tử Dụng Gạch được các bộ lạc miền núi tin tưởng." ]
pa - chm - po - panduranga - indravarman - kauthara - vijaya - champa - vua - khmer
0.983117
true
Phù Nam (chữ Hán : 扶南, tiếng Anh : Funan) là tên gọi được đặt cho một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện khoảng thế kỉ 1 trước Công Nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Theo nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, thì trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này về phía Đông, đã kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ (Việt Nam), về phía Tây đến Thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Mã Lai. Quốc gia này tồn tại cho đến khoảng nửa đầu thế kỷ 7 (sau năm 627) thì bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp (Campuchia). Mãi đến thế kỷ 17-thế kỷ 18, 1 phần lãnh thổ xưa kia được coi là trung tâm của Phù Nam tách khỏi Chân Lạp để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay. Yếu tố sắc tộc-ngôn ngữ của cư dân Phù Nam vẫn còn đang được tranh luận, chưa thể đưa ra được kết luận cụ thể từ các bằng chứng hiện có. Một số giả thuyết cho rằng đa phần dân cư Phù Nam nói các tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, có giả thuyết lại cho rằng họ nói một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo, lại có giả thuyết khác cho rằng Phù Nam là một xã hội đa sắc tộc. Tên gọi. Được biết đến trong các ngôn ngữ ngày nay của khu vực như là "Vnom" (Khmer) hay "Nokor Phnom" (Khmer), (tiếng Thái), , tên gọi "Phù Nam" không được tìm thấy trong bất kỳ văn bản nào có nguồn gốc tại khu vực này trong thời kỳ đó, và người ta cũng không rõ người Phù Nam dùng tên gọi gì để nói tới chính thể của mình. Tên gọi Phù Nam trong tiếng Việt là phiên dịch từ tên gọi tiếng Trung, do tên gọi 扶南 xuất hiện trong các thư tịch Trung Hoa khi mô tả về vương quốc này, và phần lớn các mô tả đó chủ yếu dựa trên báo cáo của hai sứ giả Trung Hoa là Khang Thái (康泰) và Chu Ứng (朱應) đã từng sống tại đây trong khoảng giữa thế kỷ 3 cho vua Đông Ngô ở Nam Kinh. Chung quanh tên gọi Phù Nam hiện vẫn còn nhiều tranh cãi. Ý kiến được nhiều người tán đồng, đó là Phù Nam do chữ "Fou Nan" mà ra (gọi theo cách phát âm của người Trung Hoa). Từ ngữ này xuất phát từ ngôn ngữ Môn cổ: bnam hay vnam, mà ngày nay được đọc là "phnom", có nghĩa là "núi" hoặc "đồi". Tuy nhiên, nhà nghiên cứu văn khắc Claude Jacques chỉ ra rằng diễn giải này dựa trên sự phiên âm sai từ tiếng Phạn "parvatabùpála" trong các văn khắc cổ như là tương đương với từ Khmer "bnaṃ" và đồng nhất hóa sai lệch vua Bhavavarman I đề cập trong các văn khắc này như là người chinh phục Phù Nam. Jacques cũng đề xuất loại bỏ việc sử dụng tên gọi Funan trong các ngôn ngữ phương Tây và thay vì thế sử dụng các tên gọi như "Bhavapura", "Aninditapura", "Shresthapura" hay "Vyadhapura", được biết đến từ các văn khắc đã từng được sử dụng vào thời gian đó để chỉ các đô thị trong khu vực và cung cấp ý tưởng chính xác hơn về địa lý của các khu vực Khmer cổ so với các tên gọi như "Funan" hay "Zhenla" (Chân Lạp), những tên gọi không được biết đến trong tiếng Khmer cổ. Theo tác giả Lương Ninh thì một danh từ chung chỉ núi non không thể là nguồn gốc của tên đất nước, mà phải là cái khác, quý báu hơn: tên tộc người bản địa: "Bnam". Theo đó các vua Phù Nam là những người thuộc dòng "Vua Núi" - "Kurung bnam". Kinh đô của Phù Nam, theo sách Lương thư và Tân Đường thư là thành "Đặc Mục" (特牧). Học giả G. Coedes cho đó là phiên âm của từ trong tiếng Phạn là Vyadhapura (pura: "thành phố/kinh đô", Vyadha: "người đi săn"), và thành này ở gần ngọn núi Ba Phnom ở làng Banam, thuộc tỉnh Prey Veng (Campuchia) ngày nay. Ngược lại, một số tác giả như Paul Pelliot (1903), P. Dupont (1955), L. Malleret (1962) không tán thành thuyết đó, họ cho rằng kinh đô của Phù Nam có thể là Angkor Borei do nhiều hiện vật khảo cổ có niên đại và phong cách Phù Nam tìm thấy ở đây. Lịch sử. Huyền thoại lập quốc. Theo sứ giả Khang Thái của Ngô Tôn Quyền thời Tam Quốc chép trong sách "Phù Nam thổ tục" thì ông vua đầu tiên của nước Phù Nam, có lẽ là một quý tộc người Ấn Độ hay là một tăng lữ Bà-la-môn tên là Hỗn Điền. Một số học giả phương Tây cho rằng truyền thuyết Hỗn Điền là dị bản của truyền thuyết Ấn Độ về Kaundinya. Vương triều của Kaundinya tồn tại khoảng hơn 150 năm, trải qua 3 đời vua. Các thư tịch cổ của Trung Quốc phiên âm tên 3 vị vua này là Hỗn Điền, Hỗn Bàn Huống (127-217) và Hỗn Bàn Bàn (217-220). Hưng thịnh. Ngô Văn Doanh (2009) dẫn Lương thư cho biết rằng quốc vương cuối cùng của Vương triều Kaundinya làm vua được 3 năm thì mất. Một vị tướng của Phù Nam mà Lương thư của Trung Quốc phiên âm là Phạm Sư Mạn lên làm vua, lập ra Vương triều họ Phạm. Theo Lương thư, làm vua được 3 năm thì Phạm Sư Mạn mất. Con ông là Phạm Kim Sinh nối ngôi, làm vua được khoảng 5 năm, đến năm 245 thì bị người anh họ tên Phạm Chiên giết chết để đoạt ngôi. Một người con khác của Phạm Sư Mạn là Phạm Trường đã nổi dậy lật đổ được Phạm Chiên, nhưng cũng lập tức bị tướng của Chiên là Phạm Tầm giết. Phạm Tầm lên làm vua. Phù Nam dưới Vương triều họ Phạm trở nên hùng mạnh. Phạm Sư Mạn đã đem quân đi chinh phạt được tới hơn 10 nước, mở rộng đáng kể lãnh thổ. Phạm Chiên đã thúc đẩy quan hệ ngoại giao với Ấn Độ. Còn Phạm Tầm đã thúc đẩy quan hệ ngoại giao với nhà Tấn ở Trung Quốc. Người Phù Nam đã có chữ viết, kiểu chữ viết có nguồn gốc Ấn Độ. Cho đến giờ chưa phát hiện được tư liệu nào nói về thời kỳ tiếp sau Phạm Tầm. Các nhà khoa học cho rằng vào khoảng giữa thế kỷ 4, quyền cai trị Phù Nam một lần nữa lại vào tay người Ấn Độ. Lương thư và Tấn thư có nhắc tới một người là Trúc Chiên Đàn đã triều cống Mục Đế. Các nhà khoa học sau này cho đó là người Ấn Độ tên là Chandan hoặc Chandana. Đến đầu hoặc giữa thế kỷ 5, vẫn là người Ấn Độ nắm quyền cai trị Phù Nam. Lương thư cho biết một người Thiên Trúc là Kiều Trần Như mà các nhà khoa học sau này cho rằng đó có thể là một người Brahman Ấn Độ cũng lại tên là Kaudinya đã thay đổi chế độ nhà nước Phù Nam sang theo kiểu Ấn Độ. Kiều Trần Như ở ngôi khoảng năm 470 đến 514, tự xưng là "Người bảo vệ thánh kinh Vê đa". Vào thời kỳ này, nhiều thương gia Phù Nam sang buôn bán ở Quảng Châu (Trung Quốc). Khi Kaundinya mất, con là Sri Indravarman (Lương thư phiên âm là Trì Lê Đà Bạt Ma) lên thay, và đã cho sứ sang triều cống Tống Văn Đế (nhà Lưu Tống) vào những năm 438, 453 và 438. Cũng theo Lương thư, thì năm 431-432, nước Lâm Ấp muốn đánh Giao Châu của người Việt, nên có yêu cầu vua Phù Nam giúp sức, nhưng Phù Nam đã từ chối. Khi Sri Indravarman mất, người nối ngôi là Jayavarman (Lương thư phiên âm là Xà Gia Bạt Ma). Jayavarman đã phái một nhà sư Ấn Độ tên Nagasena đem lễ vật sang tặng vua Nam Tề năm 484, và yêu cầu nhà vua giúp mình đánh Lâm Ấp nhưng bị từ chối khéo. Các nhà khoa học đã phát hiện bia ký viết bằng chữ Phạn cho hay dưới thời Jayavarman Phù Nam đã xây dựng nhiều công trình thủy lợi, biến nhiều vùng đầm lầy rộng lớn ở hạ lưu sông Mê Kông thành những vùng đồng bằng phì nhiêu, trù phú. Năm 514, Jayavarman mất. Kế vị ngôi là Rudravarman (Lương thư phiên âm là Lưu Đà Bạt Ma), con cả của Jayavarman. Đây là ông vua cuối cùng của Phù Nam. Vào năm 517 và 539, nhà vua đều có sai sứ sang Trung Quốc triều cống. Diệt vong. Giữa thế kỷ 5, Chân Lạp nổi lên, chiếm thành Đặc Mục - kinh đô của Phù Nam, hợp nhất lãnh thổ Phù Nam với Chân Lạp. Nhà vua Phù Nam phải bỏ chạy và lập triều đình lưu vong tại Na Phất Na (vùng Angkor Borei). Phù Nam diệt vong. Sách "Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam" (tr. 20) viết: Sách "Tùy thư" chép tương tự: Sách "Tân Đường thư" do Âu Dương Tu & Tống Kỳ biên soạn cũng đã cho biết đầu niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627-649); "trong nước Phù Nam có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về Na Phất Na." Căn cứ năm 627, sứ giả Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường, nên có thể suy ra nước Phù Nam bị tiêu diệt phải sau năm này. Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, trong sách Trung Quốc đã xuất hiện tên gọi "Thủy Chân Lạp" để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ (Việt Nam); và cũng để phân biệt với vùng đất "Lục Chân Lạp", tức là vùng đất gốc của Vương quốc Chân Lạp. Mặc dầu chiếm đoạt được, nhưng trên thực tế, việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp gặp rất nhiều khó khăn. Trước hết, với truyền thống quen khai thác các vùng đất cao, dân số còn ít ỏi, người Khmer khi đó khó có khả năng tổ chức khai thác trên quy mô lớn một vùng đồng bằng mới bồi lấp, còn ngập nước và sình lầy. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Việc cai trị xứ Thủy Chân Lạp vì vậy vẫn phải giao cho những người thuộc dòng dõi Vua Phù Nam. Theo những tài liệu bi ký còn lại có thể thấy rằng, vào thế kỷ 8 tại vùng trung tâm của Phù Nam trước đây vẫn còn tồn tại một tiểu quốc tên là Aninditapura, do một người thuộc dòng dõi vua Phù Nam tên là Baladitya trị vì. Và khi Phù Nam tan rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ ở Đông Nam Á nổi lên thay thế vai trò đế quốc hàng hải của vương quốc này, mà nổi bật là vương quốc Srivijaya ở đảo Sumatra và vương quốc Sailendra ở đảo Java, thuộc Indonesia ngày nay. Từ cuối thế kỷ 8, vương quốc Sailendra hùng mạnh đã xâm chiếm toàn bộ Thủy Chân Lạp đồng thời đưa Lục Chân Lạp vào vị trí chư hầu của mình, tới đầu thế kỷ 9, Sailendra suy yếu mới từ bỏ vùng đất Thủy Chân Lạp. Văn hóa. Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1944, nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret cho khai quật khảo cổ ở Óc Eo, và đã tìm thấy nhiều di vật quý, có niên đại phù hợp với thời kỳ quốc gia Phù Nam tồn tại ở đây. Tại di chỉ Bình Tả (xã Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An), trong đợt khai quật vào tháng 2 năm 1987 do Lê Trung Khá chủ trì, đã phát hiện một di vật có tên Bhavavarman (tên một hoàng thân Phù Nam) viết bằng chữ Phạn cổ. Đây là một cứ liệu chính xác cho phép gắn liền văn hóa khảo cổ Óc Eo với Vương quốc Phù Nam trong lịch sử. Sau năm 1975, thêm nhiều lần khai quật khảo cổ ở Óc Eo và nhiều nơi khác nữa, thì thấy nền văn hóa này phân bố rất phong phú trên địa bàn các tỉnh như Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Thành phố Hồ Chí Minh... Tất cả theo sách "Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam", đã khẳng định rằng Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, mà chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam. Nền văn hóa này phát triển trên nền tảng văn hóa Đồng Nai, có quan hệ mật thiết với nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, và có quan hệ giao lưu rộng rãi với các nước ở bên ngoài (qua dấu tích vật chất, cho thấy có sự liên hệ khá mật thiết với Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải). "Từ điển Văn hóa Đông Nam Á" cho biết chi tiết: Và qua kết quả xét nghiệm những cốt sọ cùng nhiều hiện vật quý của cư dân Phù Nam, phần lớn các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra một số ý kiến, có thể tóm tắt vào mấy điểm chính như sau: Đúc kết lại, sách "Lịch sử Campuchia" viết: Trong thư tịch cổ. Quyển sách đầu tiên đề cập đến Vương quốc Phù Nam là "Dị vật chí" của Dương Phù thời Đông Hán (25-220). Kế đến là "Ngô thư" thời Tam Quốc (220-280). Theo sách này thì vào tháng Chạp năm Xích Ô thứ 6 (243), vua Phù Nam là Phạm Chiên có sai sứ đến dâng nhạc công và phương vật cho vua Ngô là Tôn Quyền (182-252). Thời gian sau, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, vua Đông Ngô cũng đã sai người đến các nước phương Nam; thì các nước là Phù Nam, Lâm Ấp (Chămpa), Minh Đường thảy đều sai sứ đến dâng cống. "Lương thư" còn cho biết vua (Đông) Ngô là Tôn Quyền đã sai Chu Ứng và Khang Thái đi sứ các nước phía Nam, trong số đó có Phù Nam. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển "Phù Nam thổ tục" còn gọi là "Phù Nam truyện". Các sách có niên đại muộn hơn vào các thế kỷ 6 và 7 như "Trần thư, Tùy thư, Thông điển, Tân Đường thư"... đều có ghi chép về đất nước Phù Nam. Trích một vài đoạn: Di chỉ. Di chỉ Gò Cây Thị (Óc Eo). Di chỉ Gò Cây Thị thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang; là một di chỉ cung đình mang tính tôn giáo, gồm tiền điện, chính điện và 4 ô ngăn; đã được nhà khảo cổ Pháp Louis Malleret khai quật đầu tiên vào năm 1944 (từ tháng 2 đến tháng 4). Di chỉ có diện tích 488,8 m², có dạng gần vuông, quay mặt về hướng Đông, nằm trên cánh đồng Óc Eo, cách di tích khu di tích Nam Linh Sơn (núi Ba Thê) khoảng 1.600 m về phía Đông. Ở quanh khu di chỉ này, Louis Malleret còn tìm được 8 ngôi mộ táng. Hiện vật tìm thấy trong mộ hoặc xung quanh mộ, gồm những thỏi đất nung, mảnh gốm mịn, hạt chuỗi, đá quý, vàng lá, xương răng lợn, xương trâu bò, sừng hươu, than củi… Di chỉ Gò Tháp. Di chỉ Gò Tháp thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, được thám sát vào năm 1931, 1943 và 1984. Đây là khu di chỉ có các loại hình: cư trú, mộ táng và kiến trúc. Di chỉ Gò Thành. Di chỉ Gò Thành thuộc ấp Tân Thành (xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang), được L. Malleret phát hiện năm 1941. Trong nhiều lần khai quật tiếp theo vào những năm: 1979, 1988, 1989, 1990, đã phát hiện ở độ sâu khoảng 1,5 đến 3 m, có nhiều gốm cổ bị vỡ; nhiều vòi bình; nhiều di cốt trâu bò, heo và xương cá; nhiều dấu vết tro, than, vỏ trái cây, lá dừa nước; cùng với vài cọc gỗ có dấu vết gia công. Nơi đây cũng đã phát hiện được 5 kiến trúc bằng gạch và 12 ngôi mộ xây bằng gạch có kích thước lớn nhỏ khác nhau. Trong và quanh mộ, ngoài những hiện vật bằng vàng, bằng gốm, đất nung còn có hai tượng thần Visnu bằng đá có kích cỡ khá lớn... Bằng kỹ thuật chuyên ngành, các nhà khảo cổ đã phân tích một số mẫu vật và kết luận rằng khu di tích khảo cổ Gò Thành có niên đại từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8. Đây là một khu di chỉ đặc biệt vì nó còn lưu giữ khá nguyên vẹn và phong phú về nhiều loại hình di chỉ như: di chỉ cư trú, di chỉ mộ táng, và nhất là di chỉ kiến trúc với nhiều đền tháp ở cạnh nhau có quy mô khác nhau, rất hoành tráng tuy chỉ còn phần nền... Di chỉ Gò Cây Tung. Di chỉ Gò Cây Tung thuộc ấp Thới Thuận, xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, được phát hiện và khai quật vào năm 1994 và 1995. Tại đây, người ta đã phát hiện nhiều ngôi mộ cổ với 23 bộ xương người, trong đó có 9 nam, 7 nữ, còn 7 cá thể chưa rõ giới tính... Ngoài ra, người ta còn tìm được nhiều hiện vật phong phú, bao gồm đồ gốm có vẻ màu, hơn 40 chiếc rìu đá (có hình tứ giác) cùng bàn mài, chày nghiền... Cùng với những di chỉ trên, những di vật và mộ táng được phát hiện rất nhiều ở nơi khác như: Bình Tả (Long An), Gò Cây Duối-Thanh Điền, Tây Ninh, Đá Nổi (Kiên Giang), ND 11 (Khu kinh tế mới Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh), Di chỉ Cây Gáo (Đồng Nai) v.v... đã khẳng định rằng "Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, mà chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam". Phù Nam & Chân Lạp. Sách "Lịch sử Campuchia" viết: Quan điểm nhầm lẫn này được nêu ra đầu tiên trong các công trình nghiên cứu của các học giả của Trường Viễn Đông bác cổ từ nửa đầu thế kỷ 20. Sau, nhờ những nguồn thư tịch cổ của Trung Quốc và các cuộc khai quật khảo cổ, các nhà nghiên cứu mới có đủ bằng chứng để xác định hai quốc gia này không phải là một. "Tùy thư" chép: Sử nhà Lương chép: "Tân Đường thư" mô tả tương tự: Từ đó, rút ra được hai điểm chính: Mãi sang tới thế kỷ 17 - thế kỷ 18, phần lãnh thổ xưa kia được coi là trung tâm của Phù Nam, tách khỏi "đế quốc Ăngco" (tức Chân Lạp) để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay. Bí ẩn về sự tiêu vong. Chu Đạt Quan, một sứ thần nhà Nguyên trên đường sang kinh đô Ăngkor vào khoảng tháng 7 năm Bính Thân (1296), đã miêu tả cảnh Thủy Chân Lạp trong sách "Chân Lạp phong thổ ký" như sau: Vì sao nền văn hóa đa sắc và rực rỡ này biến mất, hiện vẫn chưa có lời giải thích nào có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, một vài ý kiến sau đây đang được người quan tâm chú ý: Bài "Phế đô của vương quốc Phù Nam", đã đăng trên "báo Tuổi Trẻ", nêu ba giả thuyết: Theo nhóm tác giả sách "Lịch sử Campuchia" thì: Trích ý kiến của Võ Sĩ Khải:
449
449_pa_chm_po_panduranga
[ "pa", "chm", "po", "panduranga", "indravarman", "kauthara", "vijaya", "champa", "vua", "khmer" ]
[ "Panduranga (tiếng Hindi: पाण्डुराग / Pāṇḍuraṅga ; chữ Hán: 潘朧 / Phan-lung, 潘郎 / Phan-lang, 環王 / Hoàn-vương) là một tiểu quốc tồn tại trong giai đoạn 757 - 1832, tương ứng khu vực hiện nay là Ninh Thuận và Bình Thuận. Panduranga được biết đến là xứ Champa có cương vực rộng nhất và tồn tại sau cùng, khi vương quốc Chămpa bị người Việt triệt phá vào các năm 1471 và 1653.\nLịch sử.\nLịch sử Chăm Pa thời kỳ đầu qua các sử liệu và bia ký chỉ cho thấy những thông tin ở miền Bắc tại vùng Amaravati và Vijaya. Thông tin về các địa khu/tiểu quốc phía nam như Panduraga và Kauthara nhắc tới muộn hơn. Có những công trình nghiên cứu cho rằng trước khi hợp nhất vào Lâm Ấp, Panduranga là vùng lãnh thổ chư hầu của vương quốc Phù Nam.\nSau sự sụp đổ của các vương triều phía bắc trong thời kỳ Lâm Ấp, vào năm 757 một vương triều mới ở phía Nam lên nắm quyền kiểm soát toàn Chăm Pa, với kinh đô là Virapura, trong thời kỳ tiểu quốc Panduranga. Virapura nói riêng và Panduranga nói chung thực sự là trung tâm quyền lực của vương quốc, và đến năm 859 mới kết thúc vai trò trung tâm của mình đến thế kỷ 15. Tuy nhiên với thời gian, Panduranga lại trở thành nạn nhân của sự thịnh vượng, các thế lực lân bang liên tục tràn vào cướp phá. Trong suốt 21 năm, từ 854 đến 875, quân của đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến đánh Panduranga, chiếm nhiều vùng đất rộng lớn dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng qua cao nguyên Langbian, đột nhập vào lãnh thổ Panduranga cướp phá. Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh Vikrantasvara), không người kế tự, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp. Năm 859, một vương tôn có nhiều chiến công, tên là Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, được triều thần đưa lên ngôi, hiệu Jaya Indravarman II. Quốc hiệu Campapura (đất nước của người Chăm -theo tiếng Phạn cổ) được Indravarman II chính thức sử dụng. Sử sách Trung Hoa phiên âm là \"Changcheng\" hoặc Chiêm Thành hoặc Chiêm Bà, tiếng Tây phương là Champa.\nTừ năm 1471, sau khi kinh đô Vijaya thất thủ trước Đại Việt, Chăm Pa mất các lãnh thổ miền bắc từ đèo Cù Mông trở ra. Người Chăm tập trung quay về khu vực phía Nam với vương quốc mới là Panduranga, từ lúc đó địa khu Panduranga lại trở thành trung tâm hành chính của người Chăm tới năm 1832 khi nhà Nguyễn xóa hẳn quy chế tự trị.\nTriều đại.\nThời kỳ Hoàn Vương (757 - 859).\nHoàn Vương quốc ra đời sau một cuộc thay đổi quyền lực ở Lâm Ấp, vương quốc vốn tồn tại tại vùng này trước đó.\nNăm 757, một tiểu vương ở phía nam Lâm Ấp nổi lên hạ bệ Bhadravarman II - nhà vua trẻ của Lâm Ấp vừa lên ngôi - rồi tự xưng vương, hiệu Prithi Indravarman, chấm dứt dòng Gangaraja phía bắc.\nTheo bia ký đọc được, Prithi Indravarman là người đã thống nhất lãnh thổ Chăm pa một cách chính danh nhất, vì được triều thần công nhận là \"người thống lãnh toàn bộ đất nước như Indra, thần của các vị thần\". Tuy đất nước đã được thống nhất, lãnh thổ này vẫn chưa có tên. Khi sang Trung Hoa triều cống, không biết sứ thần của Prithi Indravarman đã giải thích như thế nào mà sử liệu cổ Trung Hoa đặt tên lãnh thổ mới của người Chăm trong thời kỳ này là Hoàn Vương quốc (tức vương quyền trở về quê cũ). Việc làm đầu tiên của Prithi Indravarman là dời kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử tức Trà Kiệu, Quảng Nam ngày nay) về Virapura.\nDưới thời Prithi Indravarman, văn minh và văn hóa Ấn Độ từ phía nam đưa lên lấn át toàn bộ sinh hoạt của người Chăm phía bắc; tiếng Phạn được phổ biến rộng rãi trong giới vương quyền và các nơi thờ phụng; đạo Bà la môn được đông đảo người theo; đạo Phật nguyên thủy Thượng toạ bộ (\"Theravada\") phát triển mạnh trong dân gian; đền đài, dinh thự và chùa tháp được xây dựng lên khắp nơi, nhiều nhất là tại Khu Lật (Huế), Amavarati (Mỹ Sơn), Sinhapura (Trà Kiệu)... để tạ ơn thần linh. Tuy vậy nguyên tắc tự trị của các tiểu vương quốc phía bắc vẫn được tôn trọng, vì không thấy di ảnh hay hình tượng nữ thần Bhagavati - vị thần bảo hộ Panduranga được Prithi Indravarman chọn làm \"Bà Mẹ xứ sở\" để dân chúng thờ phụng – trong các di tích khảo cổ trên lãnh thổ phía bắc.\nNgôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma (646-653) được Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aia Trang (Nha Trang), trên một ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati (bằng vàng). Tháp này về sau được biết dưới tên Po Nagar, hay Tháp Bà.\nPrithi Indravarman là một quân vương tài giỏi, đất nước thái bình và rất phồn vinh. Sự giàu có của Hoàn Vương quốc hấp dẫn các vương quốc lân bang, đặc biệt là Srivijaya (Palembang), Malayu (Malaysia), Javadvipa (Java), Nagara Phatom (Thái Lan), Sriksetra (Miến Điện) và Angkor (Chân Lạp); họ đến để trao đổi hoặc chờ dịp cướp phá.\nNăm 774, quân Nam Đảo (người Java và Mã Lai) từ ngoài khơi đổ bộ vào Kauthara và Panduranga, chiếm Virapura. Vua Prithi Indravarman đã chống trả lại mãnh liệt nhưng bị chết trong đám loạn quân (sau này được dân chúng tôn thờ dưới pháp danh Rudraloka). Một bia ký đọc được ở tháp Po Nagar ghi \"những người đen đủi và gầy yếu từ miền xa đến, ăn những thức ăn khủng khiếp hơn xác chết, lại có tính hung ác. Bọn người này đến cướp đi tượng linga của thần Sri Sambhu, đốt phá đền thờ [Po Nagar]\". Sau cuộc tấn công này quân Nam Đảo cướp đi rất nhiều báu vật, trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng.\nNgay khi Prithi Indravarman vừa tử trận, một người cháu gọi ông bằng cậu tên là Cri Satyavarman được hoàng tộc tôn lên thay thế. Nhưng vừa lên ngôi, Satyavarman đã cùng hoàng tộc chạy lên miền bắc (Bình Định) lánh nạn. Tại đây, vua được cộng đồng người Chăm và người Thượng địa phương (Ba Na, Hrê) giúp thành lập một đạo quân hùng mạnh tiến xuống Kauthara tấn công quân Nam Đảo. Trước uy lực của Satyavarman, quân Nam Đảo lên thuyền bỏ chạy ra khơi, tân vương dẫn hoàng gia về lại Virapura. Tại đây, nhà vua xây thêm một cung điện mới trong thành Krong Laa và không ngờ đã sáng chế ra một phong tục mới mà các đời vua sau bắt chước theo, đó là tục trồng cây Kraik, biểu tượng của hoàng gia, trước cung điện. Đền Po Nagar, bị quân Nam Đảo phá hủy, được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, năm 784 thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. Năm 786, Satyavarman mất (được dân chúng thờ phụng dưới pháp danh Isvaraloka), em trai út của ông được hoàng tộc đưa lên ngôi, hiệu Indravarman I(còn gọi là Nhân Đà La Bạt Ma) (786-801).\nHay tin Satyavarman chết, năm 787, quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào Virapura cướp phá, sát hại rất nhiều binh sĩ và dân chúng, phá tháp Hòa Lai thờ thần Bhadradhipatisvara tại phía Tây thành Virapura (gần Phan Rang ngày nay). Quân Nam Đảo chia ra làm hai nhóm, một nhóm bắt theo nhiều phụ nữ cùng báu vật chở về nước, một nhóm khác chiếm giữ Panduranga. Đến năm 799, Indravarman I mới đuổi được quân Nam Đảo ra khơi để kiến thiết lại xứ sở. Tại Virapura, nhà vua xây lại tháp Hòa Lai bằng ba tháp mới, gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các thần Indrabhadresvara, Sankara và Narayana. Indravarman I dẹp yên được giặc giã nổi lên từ khắp nơi, như tại Candra (phía Bắc), Indra (Đông Bắc), Agni (Đông), Yama (Đông Nam), quan trọng nhất là loạn Yakshas (Nam). Yakshas là những bộ lạc người Thượng cư ngụ trên lãnh thổ đế quốc Angkor chứ không phải là quân Khmer.\nĐầu thế kỷ thứ 9, Indravarman I mất, em rể là hoàng thân Deva Rajadhiraja lên thay, hiệu Harivarman I (Kha Lê Bạt Ma). Trong hai năm đầu tân vương dồn mọi nỗ lực xây dựng lại đất nước và phục hồi thế lực quân sự. Để nhận thêm sự ủng hộ của quần chúng, nhà vua sai tể tướng Senapati Pangro trùng tu lại tháp Po Nagar vào năm 817 và xây thêm hai tháp mới cạnh tháp chính, một ở hướng Nam và một ở hướng Tây Bắc để dân chúng đến chiêm bái tượng nữ thần Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương.\nSau những cố gắng vượt bực, Hoàn Vương quốc hưng thịnh trở lại, Harivarman I quyết định tấn công những quốc gia đã cướp bóc đất nước trước đó. Tháng 1 năm 803, quân Chăm tấn công châu Hoan (Tỷ Cảnh, nay là Nghệ An) và châu Ái (Hải Âm, nay là Thanh Hóa), mang về rất nhiều phẩm vật. Với lượng lúa gạo mang về từ miền bắc, thủy quân Hoàn Vương quốc xuất dương trừng phạt vương quốc Kelantan ở Java và Patani ở Malaysia. Khi trở về, nhà vua cho người lên miền núi mộ thêm binh sĩ. Với đạo quân này, hai lần (năm 803 và 817), Harivarman I tiến vào cao nguyên Đồng Nai thượng, đánh bại quân Khmer và kiểm soát một vùng đất rộng lớn.\nĐể có thêm nguồn lương thực, năm 808, Harivarman I đem quân đánh chiếm châu Hoan và châu Ái lần nữa, nhưng bị thái thú Trương Châu đánh bại: 59 người trong hoàng tộc bị bắt sống, nhiều thớt voi, tàu chiến và quân trang quân dụng bị tịch thu, hơn 30.000 người bỏ xác tại trận. Qua năm sau, năm 809, Harivarman I tái chiếm châu Hoan và châu Ái một cách dễ dàng và mang về rất nhiều phẩm vật.\nCon trai Harivarman I là tiểu vương đất Panduranga lên kế vị năm 817, hiệu Vikrantavarman III (Thích Lợi Tì Kiên Đà Bạt Ma). Vì tân vương còn nhỏ tuổi, triều thần phong tể tướng Senapati Par, tiểu vương đất Manidhi làm phụ chính. Viên tể tướng này đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Kambujas (Campuchia ngày nay), do vua Jayavarman II cai trị, phá nhiều thành trì Khmer trên cao nguyên Đồng Nai thượng. Để tạ ơn Bà Mẹ Xứ Sở, trong khuôn viên Po Nagar, Senapati Par cho xây thêm hai tháp mới về phía tây và tây nam, thời gian sau xây thêm ba tháp khác: một tại khu trung tâm thờ Sri Shambu, một phía Tây Bắc thờ Shandhaka và một phía Nam thờ Ganesha. Mặc dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo vẫn được duy trì tại Virapura, thủ phủ Panduranga.\nDưới thời Vikrantavarman III, Hoàn Vương quốc là một đất nước phồn thịnh, quân đội hùng mạnh. Một bia ký, tìm được tại tháp Po Nagar, miêu tả Vikrantavarman III như sau:\nThư tịch cổ Trung Hoa (Cựu Đường thư) miêu tả thêm: \"[Vua] mặc áo cổ bối bạch diệp... trên đeo thêm trân châu, dây chuyền vàng làm thành chuỗi...\". Đẳng cấp quý tộc và phụ nữ cung đình cũng đeo trang sức quý: \"Phu nhân mặc vải cổ bối triệu hà... mình trang sức dây chuyền vàng, chuỗi ngọc trai\" hay \"... quân đội được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau...\".\nThời kỳ 859 - 1471.\nThời kỳ này Panduranga được cai trị bởi các vua Chăm Pa từ Simhapura (Trà Kiệu) và Vijaya (Đồ Bàn). Panduranga nhiều lần bị đế chế Khmer xâm chiếm. \nPo Klong Garai.\nLà vua Chăm Pa có gốc Panduranga, ông cai trị trong khoảng 50 năm, Po Klong Garai đã có công lãnh đạo dân tộc Chăm đương cự với ngoại xâm, bình ổn đất nước và phát triển nông nghiệp, được người Chăm suy tôn như vị thần thủy lợi.\nThời kỳ 1471 - 1692.\nSau khi bị Đại Việt chinh phục năm 1471, nhóm hoàng tộc Chăm từ Nam Bàn (từ Quảng Nam đến Đồ Bàn) do Bố Trì Trì là cháu của Trà Toàn chạy về Nam Chăm Pa lánh nạn và tranh chấp quyền bính với các dòng vương tôn địa phương tại Phan Rang (Virapura). Dân chúng địa phương được kêu gọi không thừa nhận dòng họ Bố Trì Tri (Jayavarman Mafoungnan) vì chỉ là cấp thừa hành của các tiên vương. \nDòng họ Bố Trì Tri không trị vì lâu. Năm 1478, Bố Trì Tri mất em là Koulai lên thay nhưng bị ám sát năm 1505. Con Koulai kế nghiệp và trị vì đến 1530 thì mất. Kể từ sau ngày đó con cháu dòng vương tôn Nam Bàn được hoàng triều và dân chúng tôn lên làm vua. Con Trà Toại, em của Trà Toàn vua cuối cùng của Vijaya, là hoàng thân Po Krut Drak được tôn lên làm vua kế nghiệp Chakou Poulo cai quản xứ Panduranga. \nThuận Thành trấn (1693 - 1832).\nTrước sức ép nam tiến của người Việt, tới năm 1693 tướng Nguyễn Hữu Cảnh đã tấn công và sáp nhập vùng đất cuối cùng của chính quyền Chăm Pa vào lãnh thổ xứ Đàng Trong, tuy nhiên từ năm 1693-1697 người Chăm đã kháng cự mãnh liệt đồng thời chính quyền Đàng Trong cũng muốn dành nguồn lực cho việc chinh phạt Chân Lạp nên tới năm 1697 đã trả lại quyền hành cho các vua người Chăm, nhưng đổi tên trong văn bản thành Trấn Thuận Thành, hay Thuận Thành trấn. Trấn Thuận Thành là một lãnh thổ tự trị và đồng thời là chư hầu của chính quyền Đàng Trong. Kinh đô đặt ở Băl Canar, nay thuộc tỉnh Bình Thuận.\nTrong chiến tranh Tây Sơn, Thuận Thành trấn là chiến trường nơi tranh chấp giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Từ năm 1794, đất Panduranga được xem như một tiền đồn của chúa Nguyễn nhằm ngăn bước tiến của quân Tây Sơn vào đất Gia Định - thủ phủ của quân Nguyễn bấy giờ. \nTuy nhiên từ năm 1828-1832, chính quyền Chăm Pa ở đây nằm dưới sự bảo hộ của tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt. Sau khi Lê Văn Duyệt chết, vua Minh Mạng đã xóa bỏ chế độ tự trị của người Chăm và thành lập tỉnh Bình Thuận. Chính quyền cuối cùng của Thuận Thành trấn nói riêng, và Chăm Pa nói chung, kết thúc từ đấy. Vương quốc Chămpa không còn tồn tại nữa sau năm 1832.\nĐặc trưng.\nPanduranga cùng với Kauthara là hai địa khu của bộ tộc Cau sinh sống, một trong hai bộ tộc chính hình thành nên người Chăm sau này, tại Panduranga sớm hình thành các đô thị ven biển mà người chăm vốn lành nghề về hàng hải. Các đô thị vẫn còn tồn tại đến ngày nay tại Việt Nam với các tên gọi chuyển sang Hán Việt như: Parang thành Phan Rang, Panrik thành Phan Rí, Pajai thành Phan Thiết. Các công trình kiến trúc về tôn giáo như các tháp Chăm được xây dựng liên tục qua các thời kỳ, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 17. Các tháp Po Nagar (ở thế kỷ 8), tháp Hòa Lai, tháp Phú Hài, tháp Po Dam (thế kỷ 9), tháp Po Klaung Garai (thế kỷ 13), tháp Po Rome (thế kỷ 17).\nPanduranga là địa khu cuối cùng của người Chăm trước khi bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam năm 1832. Vì thế hiện nay, số lượng người Chăm tập trung và sinh sống ở đây nhiều nhất nước. Các khu vực đông người Chăm sống là các làng ở Phan Rang, Ninh Phước, Ninh Hải tỉnh Ninh Thuận các làng ở Bắc Bình, Tuy Phong tỉnh Bình Thuận. Hiện nay người Chăm ở đây đang còn khoảng 100.000 người và vẫn giữ lại được các tập tục cổ xưa.", "Chăm Pa (tiếng Phạn: चम्पा, chữ Hán: 占婆 \"Chiêm Bà\", tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192 đến năm 1832. Cương vực của Chăm Pa lúc mở rộng nhất tương ứng với miền Trung Việt Nam ngày nay, trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía nam và từ biển Đông cho đến tận miền núi phía tây của nước Lào ngày nay.\nQua một số danh xưng Lâm Ấp, Panduranga, Chăm Pa trên phần đất nay thuộc miền Trung Việt Nam. Văn hóa Chăm Pa chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Java, đã từng phát triển rực rỡ với những đỉnh cao nghệ thuật là phong cách Đồng Dương và phong cách Mỹ Sơn mà nhiều di tích đền tháp và các công trình điêu khắc đá, đặc biệt là các hiện vật có hình linga vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, cho thấy ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo là hai tôn giáo chính của chủ nhân vương quốc Chăm Pa khi xưa.\nChăm Pa hưng thịnh nhất vào thế kỷ 9 và 10 và sau đó dần dần suy yếu dưới sức ép của các vương triều Đại Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer. Năm 1471, Chăm Pa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía bắc vào Đại Việt. Phần lãnh thổ còn lại của Chăm Pa bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và sau đó tiếp tục dần dần bị các chúa Nguyễn thôn tính và đến năm 1832 toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng.\nLịch sử.\nLịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính:\nVương quốc Chăm Pa không phải là một quốc gia có thể chế chính trị \"Trung ương tập quyền\" mà là một dạng nhà nước liên bang gồm tộc người Chăm theo Đạo Bàlamôn, Phật giáo và Hồi giáo chiếm đa số và một số tộc người nhỏ hơn ở vùng núi Đêga Tây Nguyên điển hình cùng ngôn ngữ như Êđê, Giarai đã từng là cư dân vùng trung Chămpa duy trì tín ngưỡng dân gian Nam Đảo bản địa, nay hầu hết chuyển sang Kitô giáo từ giữa thế kỷ 19. Có những nguồn tài liệu cho biết Chăm Pa có thể được kết hợp từ bốn tiểu quốc là Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Mỗi tiểu quốc đều có thể chế chính trị theo hình thức tự trị và có quyền ly khai khỏi liên bang để xây dựng quốc gia riêng độc lập. Vương quốc Chăm Pa đã trải qua nhiều triều đại với nhiều lần dời đô từ Bắc vào Nam và ngược lại.\nTheo sử thi người Chăm, dân tộc chính của Chăm Pa là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía bắc và Chăm ở phía nam. Nhóm Nam Chăm thuộc bộ tộc Cau (Kramuta Vanusa) và nhóm Bắc Chăm thuộc bộ tộc Dừa (Naeikela Vanusa). Hai bộ tộc này vừa liên minh với nhau, vừa cạnh tranh nhau quyền đứng đầu Vương quốc Chăm Pa.\nThời tiền sử.\nNgười dân Chăm Pa có nguồn gốc Mã Lai-Polynesia di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ 1 và 2 trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo.\nVăn hóa Sa Huỳnh.\nVăn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại đồ đồng rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ cacbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam từ khoảng năm 200. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.\nLâm Ấp (192 - 757).\nTheo sử liệu Trung Quốc, quốc gia cổ Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên với sự ra đời và tồn tại của Vương triều Sinhapura hay còn gọi là vương quốc Lâm Ấp (Liu) mà vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công. Vào thế kỷ 4, từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.\nVị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361 ở kinh đô Kandapurpura (Phật Thệ) thuộc Huế ngày nay. Tại thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó.\nĐầu năm 2013, các nhà khảo cổ công bố phát hiện khu di tích thành cổ tại làng Viên Thành, thôn Trung Đông, xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên. Đoạn tường thành dài khoảng 20 m, bề ngang 2 m đắp bằng đất sét; cùng các hiện vật khác như Kendi. Nhóm khảo cổ nhận định đây là khu thành bao bọc quanh kinh đô Sinhapura của Vương quốc Chăm Pa, được xây dựng khoảng thế kỷ 4-5.\nVào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc. Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756. Vào cuối thời kỳ này, sử sách Trung Quốc vẫn ghi Chăm Pa là Lâm Âp, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là đến năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là đến năm 657.\nSách sử Trung Hoa như sách Thông điển còn ghi nhận một loạt các quốc gia phía Nam Lâm Ấp như Tây Đồ (Trà Kiệu), Ba Liêu (Châu Sa), Khuất Đồ Kiển (Kauthara)...\nHoàn Vương (757 - 859).\nVào năm 757, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã chuyển từ Trà Kiệu xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với kinh đô Virapura gần Phan Rang ngày nay và thánh địa tôn giáo ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Po Nagar ở Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java tấn công kinh đô Virapura và đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga.\nChiêm Thành-Champa (875 - 1471).\nNăm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay). Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ Bồ Tát Quán Thế Âm (\"Avalokiteśvara\"). Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ 9 và 10. Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Chăm Pa kết thúc năm 925, bắt đầu nhường bước với sự phục hồi của đạo thờ thần Siva, với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Siva giáo vào khoảng thế kỷ 10, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn, đây là thời kỳ văn minh Chăm Pa đạt đến đỉnh cao. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau này chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Chân Lạp ở phía tây nam. Các cuộc chiến tranh với Chân Lạp đã dẫn tới có hai giai đoạn Chăm Pa thuộc sự cai trị của người Khmer, đó là các giai đoạn 1145–1149 và giai đoạn 1190-1220, tiếp đó là cuộc chiến thành công chống lại đạo quân xâm lược của đế quốc Nguyên Mông vào năm 1283 do tướng Toa Đô (Sogetu) cầm đầu với ý định chiếm nơi đây làm bàn đạp tấn công Đại Việt . Tuy nhiên dấu ấn mạnh nhất vẫn là các cuộc chiến tranh với Đại Việt, không như các cuộc chiến với Chân Lạp và Trung Quốc, những cuộc chiến tranh với người Việt đã làm vương quốc Chăm Pa lần lượt mất lãnh thổ và dần suy yếu dẫn tới sụp đổ.\nNăm 938 người Việt đã giành được độc lập từ tay người Trung Quốc. Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt mở cuộc nam chinh đầu tiên, quân Đại Việt đã đánh chiếm và tàn phá kinh đô Indrapura, giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt bắt đầu gọi là Đồ Bàn hoặc Chà Bàn. Trong 5 thế kỷ tiếp theo giữa Chăm Pa và Đại Việt đã xảy ra rất nhiều các cuộc chiến tranh, Chăm Pa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021, 1026, 1044. Tiếp đó, vào năm 1069 quân Việt tấn công Chăm Pa. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính ở phía bắc gần biên giới với Đại Việt để lấy tự do. Vào năm 1307 khi quan hệ giữa Cham Pa và Đại Việt tương đối tốt đẹp, vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), đã nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Sau sự kiện này, Chăm Pa chỉ còn lại lãnh thổ từ sông Thu Bồn trở vào.\nVị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Che Bonguar (Chế Bồng Nga) lên ngôi năm 1360. Từ năm 1371 đến năm 1389, ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra Thăng Long kinh đô của Đại Việt. Ông chết trong lần tấn công cuối cùng năm 1389 và một vị tướng của ông là La Ngai (La Khải) rút về Vijaya để lên ngôi thay thế. Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, đến lượt Chăm Pa liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công và bị mất dần lãnh thổ. Sau các cuộc tấn công vào các năm 1402 và 1446, tới năm 1471 vua Lê Thánh Tông chỉ huy tấn công Chăm Pa, phá hủy kinh đô Vijaya, vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường tới Thăng Long. Lê Thánh Tông đã sáp nhập các địa khu Amaravati và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam.\nTheo sử Việt Nam, sau khi mất vùng Vijaya, một tướng Chăm là Bô Trì Trì chạy vào nam chiếm vùng Panduranga xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần với Đại Việt. Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (Hoa Anh) tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay và nước Nam Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên). Chính thất bại này đã dẫn đến việc người Chăm lần đầu tiên di cư với số lượng lớn sang Campuchia và Malacca.\nHoa Anh-Kauthara (1471 - 1611).\nNgười được vua Lê Thánh Tông phong vương xứ Kauthara (Hoa Anh) là Bàn La Trà Duyệt. Bàn La Trà Duyệt từng là đại quan trong triều đình Maha Vijaya. Bàn La Trà Duyệt ngầm xây dựng lực lượng nhằm giành lại Vijaya, mặt khác sai sứ sang nhà Minh trợ giúp, tuy nhiên bị thất bại và bị quân Lê Thánh Tông bắt vào năm 1490, đưa Trai Á Ma Phất Am (Jayavarman) lên ngôi vua Hoa Anh. \nNăm 1578, Lương Văn Chánh là tướng của chúa Nguyễn Hoàng cầm quân tiến vào Kauthara, vây và hạ Thành Hồ – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Champa, nằm tại huyện Phú Hòa, phía Tây thành phố Tuy Hòa ngày nay - đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chánh cũng đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn. Trong khoảng 3 năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỉ XVII, Panduranga từ phía Nam nhiều lần tái chiếm Kauthara, đuổi người Việt khỏi miền đất này.\nNăm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm, mà sử Việt gọi là Văn Phong, đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Sang năm 1653, nhân việc vua Chăm Pa là Po Nraop (Bà Tấm) quấy phá biên giới phía nam, chúa Nguyễn Phúc Tần đã gởi một đoàn quân sang tấn công Chăm Pa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop đưa về Huế. Trên vùng đất cũ của tiểu vương quốc Kauthara chúa Nguyễn Phúc Tần lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa và Vạn Ninh) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh, Nha Trang, Cam Lâm và Cam Ranh). Vậỵ là vào năm 1653 Kauthara hoàn toàn bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Kauthara thất thủ, đền Po Nagar ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước tượng Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một đền ở Mông Đức gần làng Hữu Đức (Phan Rang) bây giờ.\nPanduranga (1611 - 1698).\nPhần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa từ sau năm 1471 mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ đèo Cả ngày nay trở về nam, gồm hai địa khu Kauthara và Panduranga. Năm 1594 vua Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp sultan xứ Johor tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca.\nNăm 1611 Nguyễn Hoàng đã thực hiện cuộc Nam tiến đầu tiên sau khi trấn giữ Thuận Quảng. Tiến chiếm đất từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa) của vương quốc Chăm Pa khi đó đã suy yếu rất nhiều, lập thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Văn Phong trấn giữ.\nNăm 1629, Văn Phong liên kết với người Chăm Pa nổi lên chống lại chúa Nguyễn. Chúa Sãi cử Phó tướng Nguyễn Hữu Vinh đem quân dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.\nNăm 1631, chúa gả con gái là Ngọc Khoa (có sách gọi là Ngọc Hoa) cho vua Chăm Pa là Po Rome. Cuộc hôn phối này làm quan hệ Việt - Chăm diễn ra tốt đẹp\nNăm 1653, Bà Thấm quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền cho 3000 quân sang đánh, quân Nguyễn hạ được thành. Bà Thấm trốn chạy, sau phải dâng thư xin hàng, vùng phía đông sông đến địa đầu Phú Yên (vùng Kauthara) bị mất vào tay chúa Nguyễn, chỉ còn phần phía tây sông (vùng Panduranga) là thuộc về Chăm Pa.\nTới năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tấn công vào Panduranga, bắt vua Po Sout đưa về Phú Xuân và đưa em trai của Po Sout là Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) lên làm vua, Panduranga được đổi thành Thuận Thành Trấn và vua Chăm được gọi là Trấn Vương cai trị Thuận Thành Trấn với sự giám sát chặt chẽ của các quan lại của chúa Nguyễn. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1838 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn. Tuy nhiên, các đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận.\nThuận Thành Trấn (1693 - 1832).\nNgay sau khi Minh Mạng lên ngôi, ông phân bố lại hành chính, chia Bình Thuận trấn thành 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Minh Mạng hạn chế hơn nữa quyền lực của hoàng gia Chăm. Năm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can), vị vua cuối cùng của Champa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia.\nNăm 1832 người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp có cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở phía nam nhưng không thành công. Chính quyền tự trị hạn chế của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm 1832, khi Hoàng đế Minh Mạng đổi Thuận Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp. Lịch sử vương quốc Chăm Pa chính thức dừng lại ở đây.\nLịch sử miền đất Đêga Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm 1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) còn chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục thì vua Lê Thánh Tông phong cho dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương, đây là một quốc gia cổ sơ khai của người Giarai và Ê đê và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Đêga Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá của người Ê đê và Giarai tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc.\nĐịa lý.\nCương vực.\nTừ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15, lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa có nhiều biến động về biên giới phía bắc với Đại Việt. Lãnh thổ Chăm Pa ban đầu là vùng mà ngày nay bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Đến năm 1069, vua Rudravarman (Chế Củ) của Chăm Pa đã nhượng ba châu Địa Lý (Lệ Thủy, Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình ngày nay), Ma Linh (Bến Hải, Quảng Trị ngày nay) và Bố Chính (các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa tỉnh Quảng Bình ngày nay) cho vua Lý Thánh Tông của Đại Việt và lãnh thổ Chăm Pa chỉ còn từ nam Quảng Trị ngày nay trở xuống. Đến năm 1306, vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) nhượng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần. Nhà Trần đổi hai châu này thành hai châu Thuận và châu Hóa nay là vùng từ nam Quảng Trị cho đến Đà Nẵng, Điện Bàn. Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi đánh bại quân Chiêm và sáp nhập phần lớn lãnh thổ Chiêm đã xác lập lãnh thổ Chiêm chỉ bao gồm các tỉnh Phú Yên – Khánh Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay.\nVề phía tây, tuy lãnh thổ Chăm Pa bao gồm cả Tây Nguyên và đôi khi còn mở rộng sang tận Lào ngày nay, nhưng người Chăm vẫn duy trì lối sống của những người đi biển với các hoạt động thương mại đường biển, và chỉ định cư ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tách phần đất thuộc Tây Nguyên ngày nay thành nước Nam Bàn thành tiểu quốc gia sơ khai riêng cho người Giarai và Ê đê và từ đây miền đất này không còn thuộc cương vực của Chăm Pa.\nCác địa khu.\nKể từ năm 757, trên lãnh thổ Champa hiện diện 5 địa khu với tên gọi phát xuất từ lịch sử Ấn Độ. Vị trí và cương vực của mỗi lãnh địa như sau:\nVăn hóa nghệ thuật.\nVăn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đều có ảnh hưởng đến văn hóa Chăm Pa. Từ thế kỷ 4 vương quốc Phù Nam ở Campuchia và miền Nam Việt Nam ngày nay đã truyền bá văn minh Ấn Độ vào xã hội Chăm. Tiếng Phạn trở thành ngôn ngữ học thuật, và Ấn giáo, đặc biệt là Shiva giáo, trở thành quốc giáo. Từ thế kỷ 10, các thương nhân Ả Rập đã mang tôn giáo và văn hóa đạo Hồi vào khu vực. Chăm Pa có vai trò trung chuyển quan trọng trên con đường hồ tiêu từ vịnh Pec-xich tới miền nam Trung quốc và sau này là con đường thương mại trên biển của người Ả Rập, xuất phát từ bán đảo Đông Dương - nơi xuất khẩu trầm hương. Mặc dù giữa Chăm Pa và đế quốc Khmer luôn có chiến tranh, nhưng thương mại và văn hóa vẫn được giao lưu về cả hai phía. Hoàng gia của hai vương quốc cũng thường xuyên lấy lẫn nhau. Chăm Pa còn có quan hệ thương mại và văn hóa với các đế quốc hùng mạnh trên biển như Srivijaya và sau này với Majapahit trên bán đảo Mã Lai.\nTôn giáo, tín ngưỡng.\nTrước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1311, tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ. Ấn Độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Shiva giáo, tức là đạo thờ thần Shiva, và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng chính của tôn giáo Shiva của người Chăm là linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và kosa.\nViệc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh Quảng Nam ngày nay) theo Phật giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáo Chăm Pa thời Đồng Dương được công nhận là một trong những phong cách độc đáo.\nTrong thế kỷ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáo chính của Chăm Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáo và cũng là các công trình kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như Mỹ Sơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Chánh Lộ và Tháp Mẫm.\nHồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ 10, nhưng chỉ sau năm 1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ 17 thì hoàng gia Chăm đã theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắt đầu theo đạo này, và khi vùng đất này bị sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớn người Chăm ở đây đã theo đạo Hồi (xem Hồi giáo Chăm Bani). Phần lớn người Chăm đều là người Hồi giáo và cũng giống như người Java ở Indonesia, họ còn chịu nhiều ảnh hưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn ghi lại câu chuyện công chúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến chồng là Kertawijaya, người cai trị đời thứ bảy của Majapahit, tương tự như câu chuyện với Parameshwara, người đã cải đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit. Ngôi mộ của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn còn thấy ở Trowulan, nơi xưa kia là kinh đô của Majapahit.\nKiến trúc, điêu khắc.\nKiến trúc Chăm Pa được phân tích qua các tháp Chăm thờ các vị thần Ấn Độ giáo và các vị vua Chăm được hóa thần còn sót lại cũng như dấu tích của các tòa thành cổ, tu viện phật giáo thời Indrapura. Về phong cách kiến trúc điêu khắc các tháp được các nhà nghiên cứu thường chia ra làm nhiều thời kỳ, mỗi một thời kỳ có những thay đổi khác nhau, dấu ấn riêng biệt của người Chăm là kỹ thuật làm gạch kết dính để xây tháp và chạm trổ trên đá.\nCùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc Chăm Pa là một trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm cỡ thế giới. Tuy ảnh hưởng nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer nhưng điêu khắc Chăm Pa vẫn có những tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới tượng tròn của hầu như tất cả các hình chạm khắc dưới dạng phù điêu, trong điêu khắc Chăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn mạnh vào từng hình tượng, ví dụ như bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm thấy ở Trà Kiệu thể hiện bàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc của Chăm Pa mang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là đặc điểm quan trọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa.\nChữ viết, bia ký.\nVăn hóa Ấn Độ ảnh hưởng vào Chăm Pa từ những thời kỳ đầu, dẫn tới các trước tác về luật pháp, chính trị xã hội đều có mặt ở Chăm Pa, được các vua chúa Chăm áp dụng và ưa thích. Chữ bắc Phạn (Sanskrit) đã được người Chăm tiếp thu từ những thế kỷ đầu công nguyên, các chữ viết trên bia Võ Cạnh ở thế kỷ 3 với cách viết rất gần với kiểu viết của các bia ký vùng Amaravati ở Nam Ấn Độ, tuy nhiên chữ viết của Chăm Pa trong hơn 10 thế kỷ tồn tại của mình cũng liên tục thay đổi tương ứng với những thời kỳ ảnh hưởng từ các vùng khác nhau ở Ấn Độ, từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 8, chữ Phạn ở Chăm Pa có dạng tự vuông của vùng bắc Ấn, nhưng từ thế kỷ 9 trở đi chữ Phạn ở Chăm Pa lại có dạng tự tròn của vùng nam Ấn, có thể nhận định Chăm Pa là quốc gia đầu tiên có chữ viết sớm nhất Đông Nam Á. Xuất phát từ dạng tự của chữ Phạn, người Chăm đã bỏ các phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành một dạng chữ Phạn-Champa, theo các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (Akhar Thrah) của Ấn Độ.\nTheo thống kê của các học giả người Pháp vào năm 1923, số bia ký Chăm đã được biết là 170, tất cả các bia ký Chăm đều được khắc lên đá thành những tấm bia to và đẹp và một số bia ký khác được khắc lên tường của các tháp Chăm. Các văn bia cổ Chăm Pa là những văn bản gần như duy nhất thể hiện ý tưởng của các vị vua và triều đình, trong số 123 bia ký có thể hiểu được nội dung thì 92 bia nói về Shiva giáo, 5 bia về thần Brahma, 3 bia về thần Visnu, 7 bia về đức Phật và 21 bia không rõ tính tôn giáo.\nVăn học, ghi chép.\nDo chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ cho nên ý nghĩa văn chương được thể hiện trong các bia ký, các tác giả bia ký cố gắng dùng lời lẽ văn hoa, nhiều điển tích và ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện ý tưởng của mình, vì thế mà văn bia Chăm Pa là một mảng quan trọng nhất của văn học Chăm Pa, các bia ký Chăm Pa bằng chữ Phạn được viết chủ yếu theo những thể thơ của Ấn Độ, văn học Ấn Độ qua hình thức truyền khẩu trong dân gian chắc cũng có mặt ở Chăm Pa, điều này được thế hiện qua việc người Chăm dựng đền thờ Rsi Valmiki, người được coi là tác giả của sử thi Ramayana cũng như các bức phù điêu thể hiện các nhân vật có trong sử thi Ramayana như chàng Rama, nàng Sita. Ngoài bộ sử thi Ramayana, các bộ sử thi khác của Ấn Độ cũng được phổ biến ở Chăm Pa như bộ Mahabharata và thậm chí là truyện ngụ ngôn Ấn Độ qua bộ Bhagavata.\nTheo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là \"Ying-yai Sheng-lan\" (Doanh nhai thắng lãm), thì văn bản ghi chép trong xã hội Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả: \nÂm nhạc, ca múa.\nÂm nhạc và ca múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, ở các tín ngưỡng như lễ năm mới \"Rija Nagar\", lễ \"Kate\" vào tháng 7 Chăm lịch, lễ cầu đảo, lễ mở cửa tháp. Việc dùng các hình thức nhạc cụ tùy thuộc vào tính chất các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau. Trống \"Baranâng\" và trống \"gineng\" là loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn \"Saranai\" có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng rất phong phú và độc đáo, người Chăm có các điệu múa khác nhau như: múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể, múa độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng.\nTổ chức xã hội.\nCho đến nay, các công trình nghiên cứu dân tộc học và điền dã cũng như tổng quan các nghiên cứu về xã hội người Chăm đều tập trung vào người Chăm hiện đại. Đến nay chưa có một công trình nghiên cứu lịch sử nào, nhất là các công trình dựa trên khảo cứu văn bia hay văn tịch cổ của người Chăm cho ra các kết luận khách quan có chứng cứ về xã hội Chăm Pa cổ, tuy nhiên từ những sử liệu, bia ký rời rạc chúng ta có thể điểm được một số yếu tố trong tổ chức xã hội Chăm Pa.\nLuật pháp.\nCác bia ký và các tác phẩm điêu khắc không thể hiện cho thấy bất kỳ một thiết chế luật pháp nào, tuy nhiên qua ghi chép của Mã Đoan tới đây vào đầu thế kỷ 15 có thể cho chúng ta thấy một phần nào về luật pháp của Chăm Pa thời kỳ đó:\nHệ thống đẳng cấp.\nMột số nghiên cứu dựa trên nền văn hóa Ấn hóa của người Chăm đều trình bày xã hội dưới dạng các đẳng cấp (\"caste\") trong kinh Vệ Đà trước khi đi vào khảo cứu các di tích văn hóa nghệ thuật Chăm Pa còn lại. Theo đó, xã hội Vệ Đà có bốn đẳng cấp, đứng đầu là đẳng cấp giáo sĩ Brahman chuyên về thờ cúng, tiếp theo là đẳng cấp Ksatria tức chiến binh có nhiệm vụ bảo vệ các đẳng cấp kia. Các học giả hiện đại theo xu hướng nghiên cứu thực chứng đã tỏ ra dè dặt hơn và không đề cập gì từ phương diện nghiên cứu sử học, nhất là từ các tài liệu văn bia về cơ cấu xã hội của Chăm Pa cổ. Các sự kiện lịch sử, như việc Lưu Kế Tông, một người Việt chứ không phải người Chăm làm vua Chăm Pa cho dù chỉ có ba năm (983-986) rồi bị người Chăm đoạt lại vương vị cũng chứng tỏ cơ cấu xã hội Chăm Pa cổ phức tạp hơn trong kinh Vệ Đà nhiều. Tóm lại, việc xem xã hội Chăm Pa cổ là xã hội Vệ Đà với bốn đẳng cấp như ở Ấn Độ cổ (hay năm đẳng cấp với đẳng cấp thứ năm là ngoại nhân) cần được nhìn nhận rất thận trọng vì chưa có công trình nghiên cứu nào từ cứ liệu văn khắc Chăm cổ chứng minh.\nChế độ mẫu hệ.\nNhiều học giả trong nước trên cơ sở nghiên cứu chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại của người Chăm hiện nay và trên cơ sở nghiên cứu cụ thể các cặp linga-yoni, đặc biệt là linga phân tầng, cả linga phân làm ba tầng thể trimutri (ba thể của Thượng đế) và hai tầng (linga và yoni - âm và dương) được đặt trên bệ đá hình vuông có khe để nước chảy thoát ra chính là yoni được đặt bên dưới linga, thì cho rằng ở xã hội Chăm cổ vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũng rất to lớn. Tuy nhiên, cũng giống như ở trên, đấy mới chỉ là một suy luận chứ chưa có các tài liệu văn bia chứng minh và chưa có công trình nghiên cứu lịch sử dựa trên các văn khắc Chăm cổ nào đề cập đến việc này.\nThể chế chính trị.\nNền quân chủ.\nVương quốc Chăm Pa bị diệt vong, di tích để lại cũng như những ghi chép từ sử liệu không đủ để xác định tất cả các đời vua và các thông tin chi tiết về năm cai trị của tất cả các vua. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu, trong đó có cả các bia khảo cổ, di tích của người Chăm, tới nay xác định được khoảng 10 triều đại với gần 100 vị vua Chăm Pa.\nMột số vua Chăm Pa được gọi tên phiên âm theo tiếng Hán, theo cách gọi của các thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc. Một số vị có tên Chăm được phục hồi qua đối chiếu tên bằng tiếng Phạn và tiếng Hán, như \"Cambhuvarman\" tức \"Phạm Phan Chí\" hoặc \"Kandharpadjarma\" tức \"Phạm Đầu Lê\"..., do được xuất hiện trong cả bi ký Chăm và thư tịch Hán.\nHệ thống Mandaladasia.\nCác học giả hiện đại quan niệm thể chế chính trị và hành chính của vương quốc Chăm Pa theo hai thuyết đối lập nhau. Mặc dù các học giả đều thống nhất việc vương quốc Chăm Pa bị chia nhỏ thành bốn địa khu (Panduranga, Kauthara, Vijaya, Amaravati) chạy từ nam lên bắc dọc theo bờ biển Việt Nam ngày nay và được thống nhất bởi ngôn ngữ, văn hóa và di sản chung. Tuy nhiên, các học giả không thống nhất việc các địa khu này có cùng thuộc một thực thể chính trị đơn nhất, hay là các địa khu hoàn toàn độc lập với nhau như là các tiểu quốc. Nhiều tác giả quan niệm Chăm Pa là một liên bang bao gồm nhiều tiểu quốc, tuy có chính quyền trung ương thống nhất nhưng các tiểu vương hoàn toàn tự quyết cai trị tiểu quốc của mình. Một thực tế là không phải lúc nào các tài liệu lịch sử cũng phong phú đối với mỗi địa khu ở tất cả các giai đoạn. Ví dụ, vào thế kỷ 10, tài liệu về Indrapura rất phong phú trong khi ở thế kỷ 12 lại rất giàu tài liệu về Vijaya; còn sau thế kỷ 15 thì tài liệu về Panduranga rất phong phú. Một số học giả xem việc biến động của các tài liệu lịch sử trên là phản ánh việc di dời của thủ đô Chăm Pa và quan niệm Chăm Pa nếu không phải là một thể chế chính trị đơn nhất thì cũng là một liên bang các tiểu quốc và việc tài liệu phong phú chính minh chứng cho điều này là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả nhận thấy, thế kỷ 10 tài liệu về Indrapura rất phong phú, có lẽ xuất phát từ lý do đây là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả khác không nhất trí như vậy và cho rằng Chăm Pa chưa bao giờ là một quốc gia thống nhất và không cho rằng việc giàu cứ liệu ở một giai đoạn lịch sử là cơ sở để cho rằng đó là thủ đô của quốc gia thống nhất.\nKinh tế.\nTrong khi có nhiều công trình nghiên cứu về đời sống, hoạt động kinh tế và cơ cấu, tổ chức và các mặt khác nhau của người Chăm hiện đại thì chưa có những công trình nghiên cứu như vậy cho vương quốc Chăm Pa cổ. Lý do cũng thật dễ nhận thấy vì những gì thuộc về thượng tầng kiến trúc là những thứ khó còn lại với thời gian và sử liệu về một vương quốc có thời đã dựng nền những đền tháp rực rỡ chạy dài suốt ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay cũng chỉ còn qua các phế tích.\nQua các công trình nghiên cứu lịch sử, các tác giả cho rằng nền kinh tế Chăm Pa xưa chủ yếu dựa vào các hoạt động nông nghiệp, sản xuất đồ thủ công và thương mại. Các dấu vết còn lại ở miền Trung Việt Nam của những hệ thống thủy lợi phức tạp và những giống lúa có chất lượng cao đặc trưng riêng của miền Trung được xem là các bằng chứng của một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển cao.\nVương quốc Chăm Pa xưa có được vị trí thuận lợi cho sự phát triển thương mại đường biển. Các cảng biển của vương quốc là những điểm trung chuyển giao lưu hàng hóa quốc tế cũng như để xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu từ khai thác rừng ở miền thượng của các đồng bằng ven biển và Tây Nguyên. Từ thế kỷ 10, các cảng của Chăm Pa đã được biết đến như là những thương cảng quan trọng trên Biển Đông, nằm trên hành trình thương mại đường biển giữa phương Đông và phương Tây vẫn được gọi là \"Con đường tơ lụa trên biển\". Các sản phẩm xuất cảng của Chăm Pa là sản phẩm của sản xuất đồ thủ công như các đồ gốm sứ, đất nung và cả các sản phẩm khai thác miền rừng như sừng tê, ngà voi, và đặc biệt là trầm hương, và cả của hoạt động khai thác tổ yến trên các đảo ngoài khơi.\nVề phương tiện thanh toán trong giao dịch thương mại, Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là \"Ying-yai Sheng-lan\" (Doanh nhai thắng lãm), thì giao dịch thời kỳ này được miêu tả: \nDân tộc dân cư.\nNgười Chăm trong thời vương quốc Chăm Pa lịch sử bao gồm hai bộ tộc chính là bộ tộc Dừa (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa). Bộ tộc Dừa sống ở Amaravati và Vijaya trong khi bộ tộc Cau sống ở Kauthara và Pandaranga. Hai bộ tộc có những cách sinh hoạt và trang phục khác nhau và có nhiều lợi ích xung đột dẫn đến tranh chấp thậm chí chiến tranh. Nhưng trong lịch sử vương quốc Chăm Pa các mối xung đột này thường được giải quyết để duy trì sự thống nhất của đất nước thông qua hôn nhân.\nBên cạnh người Chăm, chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa còn có cả các tộc người thiểu số gốc Nam Đảo và Mon-Khmer và ở phía Bắc Chăm Pa còn có cả người Việt.\nDi sản ngày nay.\nRất nhiều tháp cổ của người Chăm vẫn còn ở miền Trung Việt Nam. Một điển hình về kiến trúc là thánh địa Mỹ Sơn gần Hội An. Thánh địa Mỹ Sơn bị bom Mỹ hủy hoại nặng nề trong chiến tranh nhưng đã được phục chế lại sau chiến tranh từ thập niên 1980 với những đóng góp to lớn của kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997). Năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.\nNgoài ra còn có các di tích tháp Chăm ở miền Trung vẫn được cộng đồng người Chăm hiện nay sử dụng để thờ tự như:\nCác hiện vật điêu khắc Chăm phong phú nhất có tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng (trước đây là \"Musée Henri Parmentier\") ở thành phố biển Đà Nẵng. Viện bảo tàng được thành lập từ năm 1915 bởi học giả người Pháp và đến nay vẫn được xem là một trong những bảo tàng lớn ở Đông Nam Á. Các hiện vật Chăm cũng có mặt tại các viện bảo tàng khác như:", "Lịch sử Chăm Pa là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (\"Campanagara\") và Thuận Thành (\"Nagar Cam\"), thành lập từ năm 192 và kết thúc vào năm 1832.\nTrước thế kỷ thứ II, vùng đất của vương quốc Chăm Pa cổ đã được nhắc đến với tên Hồ Tôn Tinh (trong truyền thuyết), rồi tên huyện Tượng Lâm (thuộc quận Nhật Nam thời nhà Hán) khi nằm dưới sự thống trị của Trung Quốc. Lãnh thổ này được ghi nhận là từ miền Trung trở vào miền Nam Việt Nam, thay đổi tùy thời kỳ. Từ 1694 đến 1832, chúa Chăm Pa (Trấn vương Thuận Thành) nằm dưới sự đô hộ của các chúa Nguyễn, vua nhà Tây Sơn và vua nhà Nguyễn cho đến lúc bị sáp nhập hoàn toàn.\nLịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính:\nTên gọi Chăm Pa.\nDanh xưng Champa xuất hiện đầu tiên trong các bia ký vào thế kỷ thứ VII. Bia ký C96 ở Mỹ Sơn năm 658 đề cập đến danh từ \"Campapuryyam\" (thành bang Champa), \"Campapura-pamesvara\" (chúa tể của thành bang Champa) và \"Campanagara\" (Vương quốc Champa). Bia C73 tại Mỹ Sơn nhắc đến danh từ \"Campadesa\" (người mang lại thịnh vượng cho Champa). Danh xưng Champa còn xuất hiện qua văn bia vua Kandarpadharma tại Huế. Tại Angkor, một bia ký của Đế chế Khmer ghi nhận vào năm 657, người trị vì Champa (Campesvara) đã sai sứ bộ đến Campuchia.\nThời tiền sử.\nNgười dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ I và thứ II trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (\"Austronesian\").\nVăn hóa Sa Huỳnh.\nVăn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại Đồng Thau rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200 công nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.\nNhà nước Lâm Ấp.\nTheo tài liệu lịch sử Trung Quốc, nhà nước Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên là vương quốc Lâm Ấp bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công.\nTừ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Các học giả đã xác định thời điểm bắt đầu của Chăm Pa là thế kỷ thứ IV Công nguyên, khi quá trình Ấn hóa đang diễn ra. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.\nVị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361. Ở thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó.\nVào thời Bhadravarman, kinh đô của Lâm Ấp là kinh thành Simhapura (\"thành phố Sư tử\"), nằm ở dọc hai con sông và bao quanh bởi tường thành có chu vi dài đến tám dặm. Theo ghi chép lại của một người Trung Quốc thì người Lâm Ấp vừa ưa thích ca nhạc nhưng cũng lại hiếu chiến, và có \"mắt sâu, mũi thẳng và cao, và tóc đen và xoăn\".\nCũng theo tài liệu Trung Quốc, Sambhuvarman lên ngôi vua Lâm Ấp năm 529. Các tài liệu cũng mô tả vị vua này đã cho khôi phục lại ngôi đền thờ Bhadresvara sau một vụ cháy. Sambhuvarman cũng đã cử sứ thần sang cống tuế Trung Quốc, và đã xâm lược không thành phần đất mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam. Năm 605, tướng Lưu Phương nhà Tùy xâm lược Lâm Ấp, và đã chiến thắng sau khi dụ tượng binh của Lâm Ấp đến và tiêu diệt tại trận địa mà trước đó ông đã cho đào nhiều hố nhỏ và phủ cỏ lên. Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc.\nCác tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756 Công nguyên. Sau đó trong một thời gian dài, các sách sử Trung quốc gọi Chăm Pa là \"Hoàn Vương\". Tài liệu Trung Quốc sớm nhất sử dụng tên có dạng \"Chăm Pa\" là vào năm 877, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là từ năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là từ năm 657.\nHoàn Vương.\nTừ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ X, người Chăm kiểm soát việc buôn bán hồ tiêu và tơ lụa giữa Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và đế quốc Abbassid ở Baghdad. Người Chăm còn bổ sung thêm cho nguồn thu nhập của mình từ thương mại, không chỉ bằng việc xuất khẩu ngà voi và trầm hương mà còn bằng cả các hoạt động cướp phá trên biển và các nước láng giềng ven biển.\nThánh địa Mỹ Sơn.\nVào nửa cuối thế kỷ thứ VII, các ngôi đền của hoàng gia bắt đầu được xây dựng tại Mỹ Sơn. Tôn giáo chính lúc này là thờ thần Shiva nhưng các ngôi đền cũng thờ cả thần Vishnu. Các học giả gọi phong cách kiến trúc thời kỳ này là phong cách Mỹ Sơn E1, để chỉ các di tích ở Mỹ Sơn điển hình theo phong cách này. Các công trình còn đến nay của phong cách này bao gồm bệ đá hình linga được biết với tên gọi là bệ đá Mỹ Sơn E1 và phần trán tường có hình Brahma được sinh ra từ hoa sen nở từ rốn của thần Vishnu đang ngủ.\nTrong một văn bia khắc năm 657 tìm thấy ở Mỹ Sơn, vua Prakasadharma, người lấy hiệu là Vikrantavarman I, đã tự xưng có bên ngoại là hậu duệ của Brahman Kaundinya và công chúa rắn Soma, người theo truyền thuyết cũng là thủy tổ của người Khmer. Chính văn bia này đã cho thấy mối quan hệ về văn hóa và chủng tộc giữa vương quốc Chăm Pa và đế quốc Khmer. Bia được khắc nhân dịp vua cho dựng tượng đài, có lẽ là linga, cho thần Shiva. Một văn bia khác mô tả lời cầu nguyện chân thành của vua khi hiến tế cho Shiva: người là nguồn khởi thủy của sự kết thúc vĩnh viễn sự sống, điều rất khó đạt được; mà bản chất thực sự nằm ngoài suy nghĩ và lời nói của con người, tuy nhiên những ai mà ý niệm tương đồng với vũ trụ thì hình thái của người sẽ hiện ra.\nThời hưng thịnh của Kauthara.\nVào thế kỷ thứ VIII, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã tạm thời chuyển từ Mỹ Sơn xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với trung tâm ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Bà - Po Nagar ở gần Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java lại đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga.\nChiêm Thành.\nTriều đại Phật giáo ở Indrapura.\nNăm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (thành Đồng Dương, ở huyện Thăng Bình, Việt Nam ngày nay). Vua Indravarman tự xưng là hậu duệ của Bhrigu trong sử thi Mahabharata, và quyết đoán rằng chính kinh thành Indrapura đã từng được chính Bhrigu ở thời cổ đại xây dựng nên.\nIndravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ bồ tát Lokesvara (Quán Thế Âm). Di tích này đã bị hủy hoại trong chiến tranh Việt Nam, chỉ còn lại một số hình ảnh và bản vẽ từ trước chiến tranh. Một số tượng đá từ tu viện cũng được gìn giữ tại các viện bảo tàng ở Việt Nam. Các học giả đã gọi phong cách nghệ thuật điển hình tại Indrapura là phong cách Đồng Dương. Phong cách đặc trưng bởi tính năng động và tính hiện thực về mặt dân tộc học khi mô tả người Chăm. Các tác phẩm còn lại của phong cách này có một số bức tượng dvarapala hay hộ pháp rất dữ tợn trước đây được đặt ở quanh tu viện. Thời kỳ Phật giáo thống trị, Chăm Pa kết thúc năm 925, lúc phong cách Đồng Dương đã bắt đầu nhường bước cho các phong cách tiếp theo có mối liên hệ với sự phục hồi của đạo thờ thần Si-va.\nCác vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ thứ IX và thứ X. Các đền tháp này ở Mỹ Sơn đã xác định một phong cách kiến trúc và nghệ thuật khác mà các học giả gọi là phong cách Mỹ Sơn A1, dùng để chỉ tất cả các di tích ở Mỹ Sơn điển hình cho phong cách này. Với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Si-va giáo vào khoảng thế kỷ thứ X, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn.\nChăm Pa đạt đến đỉnh cao của văn minh Chăm ở Indrapura nằm tại khu vực Đồng Dương và Mỹ Sơn ngày nay. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Khmer ở phía Tây và Nam.\nLịch sử Bắc Chăm Pa (Indrapura và Vijaya) phát triển đồng thời với vương quốc láng giềng là nền văn minh Angkor của người Khmer nằm ở phía bắc hồ lớn Tonle Sap trên phần đất mà ngày nay là Campuchia. Sau khi vương triều Chăm ở Indrapura được thiết lập năm 875 thì chỉ hai năm sau tức năm 877 tại Roluos, vua Indravarman I đã thiết lập đế quốc Khmer. Lịch sử của Chăm Pa và đế quốc Khmer cũng đều phát triển rực rỡ trong thế kỷ X đến thế kỷ XII, rồi đều dần suy yếu và tan rã vào thế kỷ thứ XV. Năm 1238, đế quốc Khmer mất miền đất phía tây xung quanh Sukhothai sau một cuộc nổi dậy của người Xiêm. Thành công của cuộc nổi dậy không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập của người Xiêm mà còn báo trước sự tan rã của Angkor năm 1431 sau khi bị người Xiêm từ vương quốc Ayutthaya phá hủy và rồi bị sáp nhập vào Sukhothai năm 1376. Sự suy yếu của Chăm Pa cũng diễn ra đồng thời với Angkor, dưới sức ép từ Đại Việt, quốc gia nằm ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, và chấm hết khi kinh thành Vijaya (tức Chà Bàn) bị người Việt chinh phục và phá hủy vào năm 1471.\nKhmer xâm lăng Kauthara.\nNăm 944 và 945, quân đội Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara. Khoảng năm 950, người Khmer đã phá hủy đền Po Nagar và lấy đi tượng nữ thần. Năm 960, vua Chăm là Jaya Indravaman I đã cử sứ thần sang nhà Tống (lúc này đóng đô ở Khai Phong). Năm 965, nhà vua đã cho xây dựng lại đền thờ Po Nagar và tượng nữ thần để thay thế cho bức tượng đã bị lấy đi.\nChiến tranh với Đại Cồ Việt.\nVào nửa cuối thế kỷ thứ X, các vua của triều đại Indrapura đã tiến hành chiến tranh với Đại Cồ Việt. Trước đó, An Nam (Việt Nam) đã tách ra độc lập, chấm dứt danh nghĩa là một phiên thuộc Trung Quốc. Sau khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, đất nước lại trải qua thời kỳ loạn các sứ quân và được Đinh Bộ Lĩnh thống nhất năm 968 với quốc hiệu Đại Cồ Việt và kinh đô ở Hoa Lư thuộc địa phận Trường Yên tỉnh Ninh Bình ngày nay.\nNăm 979, vua Chăm là Parameshvaravarman I (sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi là Bê Mi Thuế) đã cử hạm đội sang tấn công Hoa Lư. Tuy nhiên, toàn bộ quân viễn chinh đã bị tan rã sau một cơn bão. Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt đã cử ba sứ thần sang Indrapura. Sau khi các sứ thần bị giam giữ, vua Lê Hoàn đã quyết định đánh Chăm Pa. Quân Đại Việt đã chiếm Indrapura và giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt thời Lý gọi là Phật Thệ.\nNăm 983, một quản giáp người Kinh tên Lưu Kỳ Tông nổi lên giết chết quan cai trị trực tiếp nhà Lê, xây sửa thành Phật Thệ, rồi mộ hơn 10.000 người và nhiều voi ngựa đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành tiến quân xuống đánh nhưng đại quân của nhà Tiền Lê chịu không nổi sương lam chướng khí phải rút về. Năm 986, hay tin vua Indravarman IV của người Chăm từ trần, Lưu Kỳ Tông liền tự xưng vương và xin nhà Tống thừa nhận. Vua Lê Kỳ Tông làm vua xứ Champa từ năm 986 cho đến khi bị lật đổ bởi vua Harivarman II vào năm 989.\nChiến tranh với nhà Lý.\nMâu thuẫn giữa Champa và Đại Việt đã không chấm dứt với việc người Chăm từ bỏ kinh đô Indrapura. Champa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021 và 1026. Năm 1044, một trận đại chiến diễn ra giữa Đại Việt và Champa đã dẫn đến cái chết của vua Jaya Simhavarman II (sách sử Việt gọi là Sạ Đẩu) và việc vua Lý Thái Tông của Đại Việt trực tiếp chỉ huy cuộc triệt hạ kinh đô Vijaya. Quân Việt mang về nước voi, nhạc công và cả hoàng hậu Mỵ Ê, người đã nhảy xuống sông tự tử trên đường về Thăng Long. Từ đó, Champa bắt đầu nộp cống cho các vua Đại Việt, và vào năm 1065 đã cống nạp một con tê giác trắng. Năm 1068, vua Vijaya là Rudravarman III (tức Chế Củ) lại tấn công Đại Việt để trả thù trận thua năm 1044. Một lần nữa vương quốc Champa bị thất bại và Đại Việt lại chiếm và đốt phá kinh đô Vijaya. Kinh đô Vijaya bị đốt phá một lần nữa vào năm 1069, khi tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy hải quân tấn công Champa và chiếm Vijaya. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính lấy tự do. Lợi dụng tình hình chiến sự, các thủ lĩnh người Chăm ở phía Nam đã dựng lên một vương quốc độc lập. Đến năm 1084, các vua Bắc Champa mới có thể tái thống nhất đất nước. Trong năm 1075, quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy lại tấn công Champa nhưng không thắng được và phải rút quân về. Tuy không thắng nhưng Lý Thường Kiệt đã cho vẽ họa đồ ba châu mới lấy được và đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh và đồng thời chiêu mộ dân chúng đến đấy ở.\nKhmer xâm chiếm Bắc Champa.\nNăm 1074, vua Harivarman IV lên ngôi đã cho phục dựng lại các đền tháp ở Mỹ Sơn và mở ra một thời kỳ thịnh vượng ngắn ngủi. Harivarman thiết lập quan hệ hòa bình với Đại Việt nhưng lại mở ra cuộc chiến với người Khmer của đế chế Angkor. Năm 1080, quân đội Khmer đã tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Champa. Các đền tháp và tu viện đã bị phá hủy; các di sản văn hóa đã bị lấy đi. Sau những thất bại này, quân Champa dưới sự chỉ huy của vua Harivarman đã đẩy lùi quân địch, khôi phục lại kinh đô và các đền tháp.\nKhoảng năm 1080, một triều đại mới đã ra đời ở cao nguyên Korat trên đất Thái Lan ngày nay đã chiếm ngai vàng Angkor của đế quốc Khmer. Ngay sau đó, các vua của triều đại mới đã tiến hành mở rộng đế quốc. Sau thất bại của các cuộc tấn công Đại Việt năm 1132 và 1137, các vua Angkor đã quay sang Chăm Pa. Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người đã xây dựng Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và chiếm toàn bộ miền Bắc Champa. Tuy nhiên, năm 1149, vua Jaya Harivarman, lãnh đạo của tiểu quốc Panduranga ở phía Nam, đã đánh bại quân xâm lược và lên ngôi vua của các vua tại Vijaya. Ông đã dành thời gian trị vị còn lại để đàn áp các cuộc nổi loạn tại Amaravati và Panduranga.\nNgười Chăm tấn công Angkor.\nNăm 1167, Jaya Indravarman IV (sử Việt gọi ông là Chế Chí) lên ngôi vua Chăm Pa. Tài liệu văn bia mô tả ông dũng cảm, sử dụng thành thạo mọi loại vũ khí, và thông hiểu triết học, thuộc hết các lý lẽ Dharmasutra (một kinh Ấn Độ giáo) và các học thuyết Phật giáo Đại thừa. Sau khi thiết lập hòa bình với Đại Việt năm 1170, vua Jaya Indravarman đã đánh sang Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ lớn Tonle Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm.\nNgười Khmer chinh phục Vijaya và nội chiến.\nNgười Khmer nhanh chóng ủng hộ nhà vua mới Jayavarman VII người đã đẩy lùi quân Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Khi Jaya Indravarman IV một lần nữa tấn công Khmer năm 1190, Jayavarman VII đã giao cho một hoàng tử người Chăm là Vidyanandana làm tổng chỉ huy quân Khmer. Vidyanandana đã đánh bại quân xâm lược Chăm và thậm chí tiến lên chiếm Vijaya và bắt sống vua Jaya Indravarman về Angkor.\nSau khi chinh phục Vijaya, vua Khmer chọn người em rể là Hoàng tử In làm vua bù nhìn ở Chăm Pa. Nội chiến nổ ra tại Chăm Pa giữa các phe phái Vijaya và Panduranga. Cuối cùng Hoàng tử In chiến thắng nhưng lại tuyên bố Chăm Pa độc lập khỏi vương quốc Khmer. Quân Khmer đã cố gắng chiếm lại Chăm Pa nhưng không thành trong suốt những năm 1190. Năm 1203, cuối cùng thì tướng của vua Jayavarman VII cũng chiếm được Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220. Jaya Paramecvaravarman II lên ngôi năm 1226, từ đây người Chân Lạp tự ý rút khỏi Champa. Sau đó, Vijaya đi vào giai đoạn suy thoái kéo dài hơn hai thế kỷ. Thời kỳ này đi đến kết thúc bởi Đại Việt và chỉ có một gián đoạn ngắn ngủi trong những cố gắng quân sự của vua Che Bonguar.\nCuộc xâm lược của quân Nguyên Mông.\nNăm 1270, Kublai Khan dựng nên nhà Nguyên ở Bắc Kinh và dần dần chiếm hết miền Nam Trung Quốc do nhà Nam Tống cai trị. Năm 1280, Kublai Khan quay sang thôn tính Chăm Pa và Đại Việt. Năm 1283, quân Nguyên dưới sự chỉ huy của tướng Sogetu đánh Chăm Pa và chiếm kinh thành Vijaya. Việc xâm lược Chăm Pa không có kết quả lâu dài. Thay vì tấn công trực diện, vua Chăm đã cho rút quân lên Tây Nguyên và tiến hành chiến tranh du kích. Hai năm sau, quân Nguyên phải rút lui và Sogetu bị giết trên đất Đại Việt trong một trận chiến khác trên đường rút quân về.\nJaya Simhavarman III.\nNăm 1307, vua Chăm là Jaya Simhavarman III (sử Việt gọi là Chế Mân), đã dựng đền thờ Po Klaung Garai ở Panduranga (Phan Rang), và nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Không lâu sau hôn lễ, nhà vua băng hà, Đại Việt cử người cướp công chúa trở về để tránh bị hỏa táng theo tục lệ của người Chăm. Tuy nhiên phần đất hồi môn của Chế Mân đã không trở về với Chăm Pa. Để giành lại miền đất này, và nhân cơ hội Đại Việt suy yếu trong thế kỷ thứ XIV, quân Chăm bắt đầu thường xuyên xâm nhập biên giới vào sâu trong đất Đại Việt ở phía Bắc.\nChế Bồng Nga.\nVị vua hùng mạnh cuối cùng của vương quốc Chăm Pa là Chế Bồng Nga. Không có văn bia Chăm Pa nào đề cập đến ông và Biên Niên Sử cũng không ghi chép về ông. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1491), ông cai trị từ năm 1360 đến năm 1390. Ông tấn công vào Đại Việt nhiều lần.\nQuân đội Chăm Pa đã đánh phá Thăng Long vào các năm 1372 và 1378. Trong lần tấn công cuối cùng của Quân đội Chăm Pa vào lãnh thổ nhà Trần là vào năm 1389. Tuy lúc đầu bị quân đội nhà Trần do Hồ Quý Ly chỉ huy chặn lại, nhưng sau đó do dùng mưu dụ quân đội nhà Trần truy kích mà Quân đội Chăm Pa tiến lên thắng lớn. Nhờ có mưu kế của tướng Nguyễn Đa Phương nên quân đội nhà Trần mới có thể rút lui bảo toàn lực lượng. Quân đội Chăm Pa dưới sự chỉ huy của Chế Bồng Nga và La Khải theo hai đường thủy bộ tiến đến tận Hải Triều (khúc sông Luộc chảy qua huyện Phù Tiên, Hải Hưng và huyện Hưng Hà, Thái Bình ngày nay). Tại đây, sau trận thủy chiến với Trần Khát Chân, Chế Bồng Nga đã chết tại trận, La Khải bèn nhân cơ hội rút quân về nước tự lập làm vua. Đó là năm 1390. Đây là lần tấn công cuối cùng của quân đội Chiêm Thành vào Đại Việt nhưng cũng đã đủ để đặt dấu chấm hết cho nhà Trần.\nXung đột với nhà Hồ.\nNăm 1391, Hồ Quý Ly đem đại quân tới tận biên giới Việt - Chăm và cử Hoàng Phụng Thế đem quân tấn công Chăm Pa nhưng quân Chăm Pa đặt mai phục thắng lớn khiến toàn quân Việt tan vỡ chỉ có Phụng Thế thoát được về. Ngay trong năm đó Quý Ly cũng rút quân về.\nĐến năm 1402, Hồ Hán Thương lại đem quân đi đánh Chăm Pa. Tiền quân Việt do viên tướng người Chăm là Chế Đa Biệt (tên Việt là Đinh Đại Trung) giao tranh quyết liệt với quân Chăm do Chế Tra Nan chỉ huy khiến hai bên đều tổn thất, cả hai viên tướng đều bị chết nhưng cũng làm cho vua Chăm là Jaya Indravarman VII (sách sử Việt gọi là Ba Đích Lại) (là con của La Ngai) phải nhường đất Chiêm Động (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Thăng và Hoa, nay là đất các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam) và cả đất Cổ Lũy (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Tư và Nghĩa nay là các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi) cho nhà Hồ.\nNăm 1403, Hồ Hán Thương lại giao Nguyên Khôi thống lĩnh quân thủy bộ tiến đánh Chăm Pa nhưng vì lương thực tiếp tế không đủ lại có hải quân Minh giúp quân Chăm nên phải rút quân về.\nNăm 1407, nhân khi quân Minh sang xâm lược Đại Việt, quân Chăm Pa cũng tấn công Đại Việt và lấy lại được đất cũ (Chiêm Động và Cỗ Lũy). Tướng Minh là Trương Phụ tiêu diệt các lực lượng chống đối của tàn dư nhà Hồ, giết tướng Hoàng Hối Khanh và thu hàng tướng Đặng Tất; đất đai Trương Phụ thu về nhà Minh chỉ đến Hoá châu, không tiến xuống vùng đất Chăm Pa vừa lấy lại.\nĐại Việt chinh phục và tàn phá Vijaya.\nNăm 1446, quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Trịnh Khả, Lê Thụ và Lê Khắc Phục đã tấn công Chăm Pa. Cuộc tấn công kết thúc thắng lợi và thành Vijaya mà người Việt thời Lê gọi là thành Chà Bàn (hay Đồ Bàn) rơi vào tay quân Việt. Quân Việt cũng bắt sống vua Chăm là Bí Cai (Bichai) và mang về Thăng Long cùng với nhiều phi tần. Tuy nhiên năm sau quân Việt đã bị đẩy lùi.\nNăm 1470, quân Đại Việt do vua Lê Thánh Tông trực tiếp chỉ huy lại tấn công Chăm Pa. Quân Đại Việt lúc này đã rất mạnh và có tổ chức tốt. Ngược lại quân Chăm rất yếu và thiếu tính tổ chức. Thủy quân Đại Việt do các tướng Đinh Liệt và Lê Niệm chỉ huy tấn công trước. Lê Thánh Tông dẫn đại quân theo sau. Tháng 2 năm đó, vua Chăm là Trà Toàn cử em đem tượng binh và bộ binh đến sát trung quân của vua Lê Thánh Tông. Các tướng Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiêm, Lê Thế và Trịnh Văn Sái đem thủy quân chắn giữ cửa biển Sa Kỳ (nay là huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi) chặn lối rút của quân Chăm. Vua Lê Thánh Tông dẫn thủy quân tiến đánh quân Chăm ở cửa Áp (tức cửa Tân Áp, sau là cửa Đại Áp ở huyện Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam) và cửa Tọa (tức cửa Cựu Tọa sau là cửa Tiểu Áp cách cửa Đại Áp hơn 7 dặm). Đồng thời bộ binh Đại Việt do Nguyễn Đức Trung ngầm đi đường núi tấn công quân Chăm khiến quân Chăm phải rút về thành Vijaya. Quân Việt nhanh chóng tiến lên đánh bại quân Chăm và bao vây thành Vijaya\nThành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường chở về Thăng Long. Ít nhất hơn 60.000 người Chăm bị giết và 30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn. Sau chiến thắng vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập các địa khu Amaravati và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam và duy trì vệ quân Thăng Hoa ở đây . Tướng Chăm là Bồ Trì Trì (tên Chăm: ?) chiếm vùng đất Panduranga (sách sử Việt gọi là Phan Lung) xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần và vua Lê Thánh Tông phong Bồ Trì Trì làm vương đất Chăm (sách Toàn thư gọi là Chiêm Thành tức là vùng đất Phan Rang, Thuận Hải ngày nay). Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (sách Toàn thư gọi là Hoa Anh tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay) và nước Nam Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên).\nThất bại năm 1471 đã dẫn đến việc nhiều làn sóng người Chăm di cư sang Campuchia. Cộng đồng người Chăm và người Islam gốc Mã Lai, Java ở Campuchia nhờ đó mà gia tăng thế lực. Biên niên sử \"Sejarah Melayu\" của người Mã Lai cũng ghi nhận sự di cư của người Chăm tới các vương quốc sultan ở Malacca. Thậm chí, một số quý tộc gốc Chăm còn được các sultan ban cho chức quan.\nTiểu quốc Hoa Anh và các chúa Nguyễn.\nSau khi xâm chiếm Champa và tàn phá kinh đô Vijaya, vua Lê Thánh Tông quyết định cắt phần đất Kauthara cũ từ đèo Cù Mông tới đèo Cả lập ra tiểu quốc Hoa Anh, phong vương cho chúa xứ này. Cả Hoa Anh, Panduranga, Jarai trở thành phiên thuộc của nhà Lê sơ.\nNăm 1578, Lương Văn Chánh là tướng của chúa Nguyễn Hoàng cầm quân tiến vào Kauthara, vây và hạ Thành Hồ – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Champa, nằm tại huyện Phú Hòa, phía Tây thành phố Tuy Hòa ngày nay - đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chánh cũng đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn. Trong khoảng 10 năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỉ XVII,do cục diện Chiến tranh Lê–Mạc phân liệt, Panduranga từ phía Nam nhiều lần tái chiếm Kauthara, đuổi người Việt khỏi miền đất này.\nNăm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm, mà sử Việt gọi là Văn Phong, đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Sang năm 1653, nhân việc vua Chăm Pa là Po Nraop (Bà Tấm) quấy phá biên giới phía nam, chúa Nguyễn Phúc Tần đã gởi một đoàn quân sang tấn công Chăm Pa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop đưa về Huế. Trên vùng đất cũ của tiểu vương quốc Kauthara chúa Nguyễn Phúc Tần lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa và Vạn Ninh) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh, Nha Trang, Cam Lâm và Cam Ranh). Vậỵ là vào năm 1653 Kauthara hoàn toàn bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Kauthara thất thủ, đền Po Nagar ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước tượng Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một đền ở Mông Đức gần làng Hữu Đức (Phan Rang) bây giờ.\nPanduranga.\nPhần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa lịch sử mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ Phú Yên ngày nay trở về Nam (Kauthara và Panduranga) và từ năm 1653 Chăm Pa chỉ còn nửa đất phía nam của địa khu Panduranga (tức Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết ngày nay). Tuy nhiên, dưới sự bảo hộ của Đại Việt, vương quốc này vẫn giữ được độc lập dưới sự cai trị của các chúa Chăm.\nMối quan hệ với bán đảo Mã Lai và đạo Islam.\nTừ năm 1414, chính quyền các tiểu quốc ở khu vực bán đảo Mã Lai như Kelantan (được mệnh danh là \"serambi Mekah, cổng tới Mecca\"), Malacca đã bắt đầu lấy đạo Islam làm quốc giáo. Người Chăm trên lãnh thổ Chăm Pa do đó cũng có nhiều nhóm chuyển sang đạo Islam, gọi là Chăm Baruw (Chăm mới), trái với nhóm chưa cải đạo là Chăm Jahed (Chăm cũ).\nMối quan hệ về dân tộc, ngôn ngữ và tôn giáo giữa người Chăm và người Mã Lai ở bán đảo Mã Lai đã tạo nên một cầu nối, liên kết hai khu vực. Nhiều thành phố ở Kelantan mang những cái tên liên quan tới Chăm Pa (Chepa) như Pengkalan Chepa, Kampung Chepa. Văn hóa và ẩm thực Kelentan cũng lưu giữ nhiều dấu ấn Chăm Pa. Biên niên sử \"Hikayat Kelantan\" cũng cho rằng, vị vua Long Yunus (Raja of Kelantan), người sáng lập vương quốc Hồi giáo Kelantan, có tổ tiên đến từ Kebayat Negara hoặc Kembayat Negara, nơi được cho là Chăm Pa. Nữ vương Che Siti Wan Kembang trong huyền thoại Kelantan được cho là mang ba dòng máu Champa-Kelantan-Pattani. Nhiều vị Raja Kelantan cũng có họ hàng với vương tộc Chăm Pa. Biên niên sử \"Babad Kelantan\" còn cho biết, giữa thế kỉ 17, một vị hoàng tử Chăm Pa tên Nik Mustafa đã đến Kelantan học tập nhiều năm, khi trở về nước đã xưng vương là Sultan Abdul Hamid. Truyện cổ Chăm Pa \"Nai Mai Mang Makah\" kể việc một công chúa từ Makah (Kelantan) cố gắng cải đạo chúa Chăm sang Islam.\nNăm 1594 chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca.\nNăm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm mà sử Việt gọi là Văn Phong () đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Kỷ tỵ, năm thứ 16 (1629), Văn Phong ở Phú Yên dùng quân Chiêm Thành để làm phản. Phó tướng Nguyễn Phước Vinh (Nguyễn Hữu Vinh, ) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn Biên.\nTừ năm 1622-1627, Chăm Pa được cai trị bởi một vị vua tên Po Klaong Mah Nai. Trước đó, vị vua theo đạo Hindu là Po Ehklang bị quan Maha Taha (महा तह, tức Po Klaong Mah Nai) giết và cướp ngôi. Po Klaong Mah Nai là người theo đạo Islam. Lúc này tại Chăm Pa, xảy ra chia rẽ và xung đột giữa các nhóm người Chăm theo đạo Hindu và Islam.\nTrong các năm 1627 đến 1651 là giai đoạn chúa Chăm là Po Rome (con rể Po Klaong Mah Nai) xưng vương và lấy con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên là Ngọc Hoa (có sách gọi là Ngọc Khoa, Nguyễn Phúc Ngọc Khoa (阮福玉誇). Po Rome là người gốc Chu Ru, từng sống nhiều năm ở Kelantan và theo đạo Islam. Đây cũng là giai đoạn mà quan hệ Việt – Chăm diễn ra tốt đẹp.\nNăm 1653, chúa Chiêm là Bà Tấm (Po Nraup, còn gọi là Bà Thấm, , Bà Bật, Bà Thâm, là anh em trai của Po Rome) xâm lấn Phú Yên. Chúa Nguyễn Phúc Tần cử cai cơ Hùng Lộc và tham mưu Minh Vũ đem quân vượt qua dãy núi Thạch Bi chiếm đất Chăm đến sát bờ trái sông Phan Rang ngày nay lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân mang thư xin hàng, lấy sông Phan Rang làm giới hạn. Đây cũng là thời điểm Chăm Pa nộp cống xưng thần với các chúa Nguyễn.\nLúc bấy giời tại Campuchia, một vị vua tên Nặc Ông Chân đổi sang đạo Islam và xưng là Sultan Ibrahim (1642-1659). Nặc Ông Chân tin dùng và ưu ái người Chăm Mã Lai, gây bất bình với người Khmer trong nước. Năm 1659, Nặc Ông Chân bị chúa Nguyễn đánh bại, một lượng lớn người Chăm và Mã Lai ở Chân Lạp bỏ chạy sang Ayutthaya tị nạn, tạo thành một cộng đồng người gốc Chăm Pa ở Xiêm.\nTại Chăm Pa, chúa Chăm Bà Tranh (Po Saut, Wan Dam, , cai trị khoảng 1660-1692, con trai của Po Rome) cũng theo đạo Islam và xưng là Paduka Seri Sultan (Điện hạ Sultan). Đây là giai đoạn mà đạo Islam quảng bá mạnh tại khu vực nhờ vào các lực lượng người gốc Mã Lai.\nNăm 1682, các giáo sĩ người Pháp ở Ayudhya báo cáo về việc chúa Chăm Pa triều cống cho vua Xiêm. Có khả năng Bà Tranh muốn nhờ Xiêm giúp đỡ để giảm sức ép từ chúa Nguyễn. Trong khi ghé tại hòn đảo Pulo Ubi (tức hòn Khoai) trong vịnh Thái Lan, ngày 13 tháng 5 năm 1687, nhà du hành người Anh William Dampier đã bắt gặp một tàu buôn từ Chăm Pa đang trên đường đi Malacca. William cho biết tàu buôn này có khoảng 40 người, trang bị vũ khí và mang theo hàng hóa là gạo, đồ sơn mài. Chăm Pa tham gia buôn bán với người Hà Lan ở Malacca.\nChúa Nguyễn và chúa Chăm Kế Bà Tử.\nNăm 1692, Bà Tranh đã tấn công vào phủ Diên Ninh và dinh Bình Khang tức vùng Diên Khánh ngày nay. Cuộc tấn công này đã thất bại và quân Chăm bị tướng Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại vào tháng 3 năm 1693. Chúa Nguyễn đổi tên Chiêm Thành Quốc thành Thuận Thành Trấn, sau đó tháng 8 năm 1693, đổi Thuận Thành Trấn thành Bình Thuận Phủ. Bà Tranh bị giải về Thuận Hóa, người anh em là Tả trà viên Kế Bà Tử (繼婆子, Po Saktiraydaputih) làm Khám lý, ba người con Bà Ân làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người Kinh và sai về để vỗ yên lòng dân.\nCuộc chiến tranh năm 1692-1693 đã khiến một hoàng thân tên Po Chongchan (Po Choncăin) dẫn theo gia quyến và hơn 5.000 người Chăm bỏ sang Campuchia tị nạn. Những nhóm người này được Chính vương Chey Chettha IV cho định cư dọc xung quanh kinh đô Oudong, bên bờ sông Mê Kông. Người Chăm Mã Lai tiếp tục được triều đình Chân Lạp sử dụng làm quân binh hầu cận. Cộng đồng Chăm trong đợt di cư này có lẽ là tổ tiên của nhóm Chăm Jahed (Chăm cũ) hoặc Imam San ở Campuchia ngày nay.\nTháng 12 năm 1693, người Thanh là A Ban (阿班) cùng với Hữu trà viên là Ốc nha Đạt (Ốc nha Thát, 屋牙撻) ở Thuận Thành nổi loạn, đánh chiếm các đất Đại Đồng, Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang. Lúc đó Nguyễn Hữu Cảnh đang đi Tây Chính ở Chân Lạp, và quân Nguyễn ở lại đã bị quân Chăm tiêu diệt hoàn toàn.\nĐầu năm 1694, Bà Tranh chết, quân A Ban lại vây Phan Rang. Tháng 2, A Ban tiến giữ lũy Ô Liêm. Lưu thủ Nhuận và các cai cơ Tống Tuân và Nguyễn Thành chia quân giáp đánh. A Ban chạy về Phố Châm. Sau đó Cai cơ Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) mới dẹp yên.\nKhi Nguyễn Hữu Cảnh trở lại, Kế Bà Tử đã ký hòa ước với chúa Nguyễn Phúc Chu. Tháng 8, chúa cho phủ Bình Thuận trở lại làm trấn Thuận Thành. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã đồng ý khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành Trấn, và chúa Chăm Kế Bà Tử được gọi là T\"huận Thành trấn vương\" (順城鎮王), đóng đô ở Băl Canar, giữ chức Tả đô đốc, phiên vương trấn Thuận Thành của chúa Nguyễn. Theo bộ văn bản hoàng gia Chăm (bản chữ Hán), mối quan hệ phiên thuộc giữa vùng đất cai quản bởi các chúa Chăm và chính quyền trung ương của chúa Nguyễn diễn ra tốt đẹp.\nThuận Thành trấn.\nNăm 1697, chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Bình Thuận (từ Phan Rang trở về tây) chia làm hai huyện An Phước và Hòa Đa. Cũng từ đây vùng đất Chăm còn lại (Phan Rang trở về đông) đã trở thành phiên thuộc của chúa Nguyễn và mối quan hệ giữa chúa Nguyễn và chúa Chăm là mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương.\nTừ những năm 1700 đến 1728, các chúa Nguyễn chủ yếu tập trung binh lực mở rộng ảnh hưởng trên đất Chân Lạp. Mặc dù có nhiều giai đoạn, chính quyền Đàng Trong dồn hết binh lính ở Chân Lạp hoặc suy yếu, chính quyền Chăm Pa vẫn không hề thừa cơ nổi dậy. Rất có thể, mối quan hệ giữa giữa hai chính quyền Po Saktiraydaputih và Nguyễn Phúc Chu rất tốt đẹp và nó còn để lại di sản sau này.\nĐến năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban hành một bản hiệp ước mới gọi là Ngũ điều Nghị định, trong đó khẳng định quyền xét xử của các chúa Chăm đối với các thần dân người Chăm và cũng quy định nghĩa vụ của các chúa Chăm đối với các chúa Nguyễn. Để giải quyết xung đột giữa người Chăm và người Việt, bản hiệp ước quy định các xung đột này sẽ do chúa Chăm tức Trấn Vương cùng với quan Cai bạ và quan Ký lục (cả hai là người Việt) phán quyết. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1832 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn.\nKhởi nghĩa Tây Sơn.\nCác đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận cho đến tận cuộc nội chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn. Từ năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra tại Đàng Trong, lãnh thổ Thuận Thành Trấn trở thành một trong những bãi chiến trường. Nội bộ chính quyền Chăm chia làm nhiều phe phái, ủng hộ Tây Sơn hoặc chúa Nguyễn.\nĐầu những năm 1770, khi phong trào Tây Sơn nhen nhóm, anh em Nguyễn Nhạc đã tìm đến bắt liên lạc, kết thân với Bà chúa Hỏa. Bà chúa Hỏa hay còn gọi là Bà Hỏa, nữ chúa Thị Hỏa là thủ lĩnh của người Chăm quản lĩnh một vùng đất rộng lớn mà sử sách xưa thường gọi là \"nước Hỏa Xá\". Địa bàn của bà chúa Hỏa trải rộng khắp khu vực miền núi ngày nay thuộc phía tây nam Phú Yên kéo dài đến Cheo- reo (Gia Lai, Kon Tum). Nguyễn Lữ, người thứ ba trong \"Tây Sơn tam kiệt\", là người tu theo Minh giáo (còn gọi là đạo Ma-ní), là đệ tử của bà chúa Hỏa, thờ thần lửa và dùng bùa phép để chữa bệnh, trừ tà, nên còn được gọi ông là thầy tư Lữ.\nMột bộ phận người Chăm tại trấn Thuận Thành (nay thuộc tỉnh Bình Thuận) do Kế Pù Tá (Po Tisuntiraidapuran, Nam sử gọi là Nguyễn Văn Tá / 阮文佐) đứng đầu ủng hộ và tham gia phong trào Tây Sơn từ rất sớm thì ở một địa bàn khác là động Thạch Thành (nay thuộc huyện Sơn Hòa và Sơn Thành, tỉnh Phú Yên). Bà chúa Hỏa cũng đem toàn bộ lực lượng của mình gia nhập nghĩa quân khi anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa. Năm Qúy Tị (1773) quân Tây Sơn đã đánh chiếm được Phú Yên, Nguyễn Nhạc phục hồi danh vị Phiên Vương cho bà chúa Hỏa và giao cho bà nhiệm vụ trấn giữ động Thạch Thành.\nMùa hè Giáp Ngọ (1774), chúa Nguyễn sai danh tướng Tống Phúc Hiệp đem quân từ Hòn Khói (nay thuộc Nha Trang) đánh chiếm Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang. Quân Tây Sơn yếu thế phải lui về giữ Phú Yên. Tống Phúc Hiệp trực tiếp chỉ huy quân vượt đèo Tam Độc đánh thẳng vào đội quân của bà chúa Hỏa, bà chúa Hỏa đã tử trận. Tháng 7 năm Ất Mùi (1775), Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Huệ bất ngờ đem quân từ Quy Nhơn vào đánh úp tiêu diệt cả quân thủy và quân bộ của Tống Phúc Hiệp. Năm 1778, thành Quy Nhơn sửa xong, Nguyễn Nhạc xưng là Minh Đức Hoàng Đế, niên hiệu Thái Đức. Hai Vua Thủy Xá và Hỏa Xá được phong Vương tước, sai sứ đưa ra những trầm hương, kỳ nam, hổ phách và voi ngựa làm cống vật và nguyện giữ một lòng trung thành với Tây Sơn.\nNăm 1780, Po Tisuntiraidapuran được hoàng đế Thái Đức nhà Tây Sơn giúp đăng cơ. Tuy nhiên, Po Tisuntiraidapuran liên tục phải chống đỡ các phong trào nổi dậy của người Chăm và hàng loạt cuộc công kích của chúa Nguyễn Ánh từ đất Gia Định.\nNăm 1782, một người anh em cùng huyết thống của Po Tisuntiraidapuran là Cei Krei Brei gây binh biến rồi phế truất ông, khiến thời điểm này Panduranga tạm thời không có người cai trị. Vào năm 1783, Cei Krei Brei tự tuyên bố là tân vương, nhưng liền sau đó quân Tây Sơn xuống vây đánh khiến ông này thất thế và bị tống giam. Ngôi vị của Po Tisuntiraidapuran được khai phục. Cùng năm này, một quân phiệt Chăm Bà-la-môn là Po Tolripho từ Ấn Độ (?) về Panduranga lập chiến khu nhằm chống quân đồn trú Tây Sơn, nhưng chóng bị Bắc Bình vương dẹp. Po Tolripho may mắn tẩu thoát được, bèn trèo đèo vượt suối mấy ngày đường lên Cheo Reo ẩn lánh ở các buôn người Thượng.\nĐến năm 1790, chúa Nguyễn Ánh được đà Thái Đức lâm thế yếu khó vươn được xuống phương Nam, bèn tiến chiếm Panduranga, phong Cei Krei Brei (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Chiêu, nguyên tên là Môn Lai Phù Tử, Po Ci Bri, con của phiên vương trước là Thắng) làm Thuận Thành trấn Khâm sai chưởng cơ. Các quan Chăm là Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Hào làm Khâm sai thống binh cai cơ. Nhưng ít lâu sau thì Nguyễn Văn Chiêu bị bãi chức vì chúa Nguyễn nghi ông theo Quang Trung.\nNăm 1793, chúa Nguyễn Ánh phái binh tiến đánh quân Tây Sơn đồn trú trên đất Panduranga. Phiên vương Thuận Thành là Po Tisuntiraidapuran (Nguyễn Văn Tá / 阮文佐) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại. Nguyễn Ánh sau đó (1794) cho các tướng người Chăm theo mình là Po Ladhuanpuguh (Nam sử gọi là Thôn-bá-hú hoặc Nguyễn Văn Hào / 阮文豪) làm Chánh trấn Thuận Thành, đồng thời phong Po Saong Nyung Ceng (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Chấn / 阮文震) làm phó trấn, đặt chế độ chánh trấn và phó trấn và bỏ chế độ phiên vương. Cả Po Ladhuanpuguh và Po Saong Nyung Ceng vốn là những phú nông người Chăm, không có xuất thân vương tộc.\nBị chúa Nguyễn tước mất vương vị, Po Krei Brei (Nguyễn Văn Chiêu) đành đưa gia quyến bỏ sang tỉnh Tbong Khmum của Chân Lạp định cư. Lần này, người Chăm từ Việt Nam chạy sang Campuchia tị nạn rất đông. Đoàn tị nạn gốc vương tộc này đến an trí tại Roka Po Pram, nơi vốn tập trung rất nhiều lưu dân Chăm và Mã Lai Hồi giáo. Ban sơ Po Krei Brei cũng muốn dựa vào thế lực của triều đình Kampuchea để đòi lại vương vị, nhưng tình hình xứ sở này cũng rất hỗn loạn vì những cuộc giao tranh của Xiêm và Tây Sơn rồi Nguyễn, nên rốt cuộc ông phải chôn mọi tham vọng bá quyền. Hiện chưa rõ Po Krei Brei sinh thác năm nào, ông được cộng đồng Hồi giáo Tbong Khmum và Kampong Cham suy tôn là thủy tổ của mình.\nCuộc nổi loạn ở trấn Thuận Thành.\nVào năm 1796, Po Chongchan - lãnh tụ Chăm được triều Tây Sơn ủng hộ - theo quân Tây Sơn tiến công Băl Canar nhưng bị Po Saong Nyung Ceng tạm thời đẩy lui; tháng 10 cùng năm có một thủ lĩnh người Chăm Mã Lai tự xưng từng sống ở Mecca (thực ra là Kelantan) nhiều năm tên Tuan Phaow (Đồng Phù, Toàn Phù) cùng một tù trưởng khác [Tăng Mã] thừa dịp chúa Nguyễn bận công kích nhà Tây Sơn, xách động một cuộc bạo loạn nhằm khôi phục quyền tự trị hoàn toàn cho Panduranga, nhưng cũng bị Po Saong Nyung Ceng dẹp tan.\nĐại Nam liệt truyện chép:\"Năm Bính Thìn [1796], man trưởng ở Dã Giang (thuộc tỉnh Bình Thuận) là Tăng Mã làm phản, quan quân đón đánh ở Phố Trâm phá tan được, Tăng Mã trốn chạy... Tù trưởng người Man là Đồng Phù [Tuan Phaow] quân bị tan vỡ bỏ chạy. Từ đó các man ở Thuận Thành không dám lại làm phản nữa.\"Đại Nam thực lục ghi chi tiết:\"Bính thìn, năm thứ 17 [1796], Tù trưởng Ba Phủ thuộc Thuận Thành là Toàn Phù (Tuan Phaow) tụ họp hơn 1.000 người, từ núi Đàn Linh ngầm xuống Cà Trập cướp bóc dân địa phương.\"\n\"Đinh tỵ, năm thứ 18 [1797], tháng 2, Nguyễn Công Thái tiến đến Phố Châm, đánh úp phá tan giặc man Ba Phủ. Tù trưởng man là Toàn Phù vượt núi trốn chạy. Quân ta đốt trại kho vựa, bắt sống hơn 100 người man về trú ở bảo Đăng Trại... Tháng 5, người man Ba Phủ là Toàn Phù lại họp đảng hơn nghìn người đến đánh bảo Ma Đế. Thủ binh Thuận Thành chống không được, phải bỏ bảo chạy. Phó tướng quản dinh Bình Thuận là Phan Tiến Hoàng nghe tin báo đem quân thẳng tới, gặp giặc ở Cà Tán (tên đất), bắn chết mười mấy người. Giặc lui... Tháng 9, giặc Man Ba Phủ là Toàn Phù đem quân vây bảo Tà Lạp, lại ủy cho người đảng giữ núi La A để ngăn quân viện của ta. Phó tướng Phan Tiến Hoàng thống quản quân sở bộ và quan binh Thuận Thành, chia đường tiến đến La A. Hoàng cùng Quản đạo Phố Hài là Phạm Tiến Tuấn đánh mặt trước, Cai cơ Lê Văn Niệm đánh mặt sau. Giặc thua vỡ to. Quân ta thừa thắng tiến thẳng đến Thuận Thành. Bọn Cai cơ Nguyễn Văn Vĩnh ở Tà Lạp nghe tin quân viện đến, mở bảo ra đánh, Toàn Phù bèn giải vây, vượt núi chạy. Hoàng thấy xứ ấy đường núi hiểm xa, chuyển vận rất khó, lại thêm mưa lụt lam chướng, quân nhiều người ốm, bèn rút quân về, để quân Thuận Thành đóng giữ các bảo Đăng Trại, Cà Tán, dâng sớ xin đợi đến mùa đông tạnh ráo sẽ cất quân đánh dẹp.\"\n\"Tháng 11, vua nước Chân Lạp là Nặc Ấn chết.\" \"Con là Nặc Chăn nối ngôi... Tháng 12, sai Phó tướng Phan Tiến Hoàng đem tướng sĩ Tiền chi và Trung chi Tiền quân cùng Xiêm binh và hương binh hơn 1.600 người, tiến đánh giặc Man Ba Phủ. Khi quân đến Phố Châm thì Toàn Phù trốn xa, dư chúng ra hàng nhiều. Bèn dẫn quân về.\"Về nhân vật Tuan Phaow (Đồng Phù), có ý kiến cho rằng ông ta trốn chạy sang Campuchia với tên Tuon Set Asmit và được vua Ang Eng thu dùng, cho làm tỉnh trưởng Tbong Khmum. Tuan Phaow sau đó làm tới chức Tể tướng dưới triều vua Ang Chan II với tên gọi Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha). Năm 1820, Đồng Phù bị phát hiện thân phận và bị triều đình nhà Nguyễn xử tử. Tuy nhiên, xét theo Đại Nam thực lục và liệt truyện, Tuan Phaow có thể không phải là vị Tể tướng gốc Chăm tên Tôn La Ca Đồng Phù thời vua Ang Chan II. Việc xử tử Đồng Phù là do Ang Chan II nhờ triều Nguyễn bắt giúp để trị tội đại nghịch vô đạo với vua Chân Lạp.\nĐến tháng 7 năm 1799, Po Ladhuanpuguh băng hà, nhờ vào uy tín sẵn có mà Po Saong Nyung Ceng được cử làm tân vương.\nLoạn Lê Văn Khôi.\nNgay sau khi Minh Mạng lên ngôi (1820), ông phân bố lại hành chính, chia Bình Thuận trấn thành 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Minh Mạng hạn chế hơn nữa quyền lực của hoàng gia Chăm.\nNăm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can-Po Chơn), vị vua cuối cùng của Champa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia.\nTháng 10 năm 1832, chúa Chăm cuối cùng là Po Phaok The (Nguyễn Văn Thừa (阮文承)) trả lại toàn bộ dân và đất cho vua Minh Mạng và trở thành một viên quan địa phương triều Nguyễn. Vua Minh Mạng đã xóa trấn Thuận Thành và đặt phủ Ninh Thuận vào cùng năm đó, cho Nguyễn Văn Thừa làm Quản cơ, thuộc hạ là các Chánh đội trưởng Nguyễn Văn Giảng, Nguyễn Văn Thuận và Nguyễn Văn Thanh đều cho làm Cai đội. Năm 1833, Minh Mạng định phong cho tước cho Nguyễn Văn Thừa là Diên An bá, chức Vệ úy, hàm Tòng tam phẩm. Nhưng sau đó có án nghi Thừa câu kết với Lê Văn Khôi nên thôi.\nTheo sách Tiễu Bình Thuận Man Phỉ Phương Luộc (1835) và bộ Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ Nhị Kỷ (1860), sau khi chúa Po Phaok The thoái vị và trở thành viên quan triều Nguyễn, nhóm Lê Văn Khôi ở miền Nam bắt tay với Po Phaok The và một số quý tộc cũng như lãnh đạo tôn giáo Islam Chăm như Lá Buôn Vương, Thầy Điên. Lúc đó triều Nguyễn đang đánh Lê Văn Khôi ở miền Nam, và quân Nguyễn ở lại Ninh Thuận, Bình Thuận bị phiến quân Chăm và các bộ lạc miền núi tấn công mà chưa kịp đối phó. Có một số quý tộc thì lại theo vua Minh Mạng và không tham gia phiến quân, cộng đồng Chăm và các bộ lạc miền núi bị chia rẽ giữa hai phe: phe Lê Văn Khôi (phe chúa Chăm cũ) và phe vua Minh Mạng.\nPhong trào Hồi giáo Katip Sumat.\nKatip Sumat hay Katip Tamat là một tu sĩ Hồi giáo (imam) sinh ở Campuchia, đã từng sang Makah (tiểu vương quốc Kelantan) du học về triết lý Hồi giáo. Katip Sumat chỉ huy một đoàn quân đa số là người Chăm và Mã Lai sinh sống ở Campuchia sang Champa để hình thành một phong trào đấu tranh chống triều đình Huế vào năm 1833. Đây có thể coi như phong trào jihad (Thánh chiến) duy nhất đến nay trong lịch sử Việt Nam. Cuộc nổi dậy của Katip Sumat gây mối đe dọa thật sự cho triều đình Huế, buộc vua Minh Mạng phải gởi một đội binh hùng mạnh hơn 1000 người và ra lệnh vũ trang những cư dân Việt thuộc phủ Bình Thuận để họ tham gia trực tiếp vào cuộc chiến chống quân nổi loạn. Phong trào Hồi Giáo của Katip Sumat đã bị dập tắt vào tháng 7 năm Tỵ lịch Chăm, tức là cuối năm 1833 hay đầu năm 1834.\nPhong trào của Katip Sumat có lẽ được sự hậu thuẫn của vị Sultan Muhamad I ở Kelantan (1800-1837).\nKhởi nghĩa Ja Thak Wa.\nJa Thak Wa của Katip Thak Wa, một người Chăm Bani làng Văn Lâm, Phan Rang từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình Panduranga-Champa thời trước. Với tổ chức quy mô hơn, Ja Thak Wa xây dựng một chiến khu tại vùng cao nguyên Đồng Nai Thượng và Kauthara (Nha Trang-Phú Yên) vào năm 1834.\nJa Thak Wa sau đó triệu tập một hội đồng để chỉ định Po War Palei (tiếng Việt gọi là La Bôn Vương), dân tộc Raglai, thuộc làng Cadang, lên làm quốc vương (Po Patrai) của Panduranga. Po War Palei là anh rể của Po Dhar Kaok (tên Việt là Nguyễn Văn Nguyên), tức là cựu phó vương Panduranga dưới thời vua Po Phaok The (1828-1832). Sau đó, Ja Thak Wa đề nghị tấn phong một người gốc Churu mang chức là Cei Aia Harei (hoàng tử mặt trời) làm hoàng tử kế vị và Ja Yok Ai gốc người Chăm làm Panraong Sa-ai (đại quan quân sự).\nQuân của Ja Thak Wa làm chủ tình hình vào đầu năm Ất Vị (1835), kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Panduranga cũ gồm huyện An Phước, Hòa Đa, Tuy Tịnh và phủ Bình Thuận.\nTrước sự đàn áp của nhà Nguyễn, nổi dậy Ja Thak Wa tại Panduranga kéo dài cho đến tháng thứ 4 năm 1835 thì kết thúc sau khi cả Po War Palei và Ja Thak Wa đều tử trận gần thôn Hữu Đức, Văn Lâm, Phan Rang.\nThời kỳ cuối của trấn Thuận Thành.\nKhi vua Minh Mạng đưa quân tiêu diệt phiến quân Chăm và các bộc lạc miền núi, Thị Khăn Oa (Nai Khan Wa), công nữ Chăm hợp tác với vua Minh Mạng kêu gọi tất cả phiến quân còn lại đầu hàng, trở về phía triều đình. Công nữ đã thuyết phục thành công. Vua Minh Mạng đồng ý duy trì hoàng gia Chăm (gia đình chúa Chăm). Các hoàng tử Chăm đời đời nhận chức Tri huyện Huyện Hòa Đa Thổ (tức Quận Phan Lý Chàm thời chính quyền Sài Gòn) dưới triều Nguyễn. Theo các bộ sắc phong mà các hoàng tử Chăm được vua Nguyễn các đời gửi (bản chữ Hán), mối quan hệ giữa các ông tri huyện huyện Hòa Đa Thổ và chính quyền Huế diễn ra tốt đẹp đến tận năm 1945.\nNăm 1945, hoàng tử Dụng Gạch (em trai công nữ Nguyễn Thị Thềm) đang là chức hương bộ và được gọi là Bộ Gạch, làm việc tại palei Kalon tức ấp Trinh Hòa (nay là xã Phan Sơn, Phan Lâm, huyện Bắc Bình và Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kalon Sông Mao) nơi mà Bà Nai Khan Wa cùng các bộ lạc miền núi khai hoang. Hoàng tử Dụng Gạch đã hưởng ứng lời kêu gọi cách mạng tháng Tám, bảo cho bà con Chăm và các dân tộc miền núi theo cách mạng. Sau cách mạng thành công, Hoàng tử Dụng Gạch giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Lâm thời Huyện Hòa Đa phụ trách miền núi.\nLịch sử miền đất Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm 1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) còn chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục thì vua Lê Thánh Tông phong cho dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc. Còn một số Bon, Palei phía Nam Lâm Đồng thì triều Nguyễn đặt Phủ Di Dinh Thổ (tức Phủ Di Linh Thượng), đưa viên quan Chăm cai trị cho đến năm 1945 nên mối quan hệ giữa hoàng gia Chăm và các bộ lạc miền núi rất mật thiết như việc hoàng tử Dụng Gạch được các bộ lạc miền núi tin tưởng." ]
pa - chm - po - panduranga - indravarman - kauthara - vijaya - champa - vua - khmer
0.833635
false
Các tế bào nhiên liệu (tiếng Anh: "fuel cell"), hay còn gọi là "pin nhiên liệu", biến đổi năng lượng hóa học của nhiên liệu, thí dụ như là hiđrô, trực tiếp thành năng lượng điện. Không giống như pin hoặc ắc quy, tế bào nhiên liệu không bị mất điện và cũng không có khả năng tích điện. Tế bào nhiên liệu hoạt động liên tục khi nhiên liệu (hiđrô) và chất oxy hóa (oxy) được đưa từ ngoài vào. Pin nhiên liệu là loại thiết bị năng lượng có mức thải ô nhiễm gần như "bằng 0", thân thiện với môi trường tuy nhiên giá thành của nó không hề rẻ. Lịch sử. Năm 1839 nhà khoa học tự nhiên người xứ Wales Sir William Robert Grove đã chế tạo ra mô hình thực nghiệm đầu tiên của tế bào nhiên liệu, bao gồm hai điện cực platin được bao trùm bởi hai ống hình trụ bằng thủy tinh, một ống chứa hiđrô và ống kia chứa oxy. Hai điện cực được nhúng trong axít sulfuric loãng là chất điện phân tạo thành dòng điện một chiều. Vì việc chế tạo các hệ thống tế bào nhiên liệu quá phức tạp và giá thành đắt, công nghệ này dừng lại ở đấy cho đến thập niên 1950. Thời gian này ngành du hành vũ trụ và kỹ thuật quân sự cần dùng một nguồn năng lượng nhỏ gọn và có năng suất cao. Các tàu du hành vũ trụ và tàu ngầm cần dùng năng lượng điện không thông qua động cơ đốt trong. NASA đã quyết định dùng cách sản xuất điện trực tiếp bằng phương pháp hóa học thông qua tế bào nhiên liệu trong các chương trình du hành vũ trụ Gemini và Apollo. Các tế bào nhiên liệu sử dụng trong chương trình Gemini được NASA phát triển vào năm 1965. Với công suất khoảng 1 kW các tế bào nhiên liệu này đã cung cấp đồng thời điện và nước uống cho các phi hành gia vũ trụ. Các tế bào nhiên liệu của chương trình Gemini chỉ dài 60 cm và có đường kính là 20 cm. Công việc nghiên cứu về công nghệ tế bào nhiên liệu không phải bị ngưng đến thập niên 50 của thế kỷ 20 mà nó vẫn được tiếp tục phát triển để hoàn thiện. Nhờ chế tạo được các màng ("membrane") có hiệu quả cao và các vật liệu có khả năng chống ăn mòn hóa học tốt hơn và cũng nhờ vào công cuộc tìm kiếm một nguồn năng lượng thân thiện môi trường cho tương lai tế bào nhiên liệu được phát triển mạnh vào đầu thập niên 1990. Thông qua đó việc sử dụng tế bào nhiên liệu dành cho các mục đích dân sự đã trở thành hiện thực. Ngày nay khả năng sử dụng trải dài từ vận hành ô tô, sưởi nhà qua các nhà máy phát điện có công suất hằng 100 kW cho đến những ứng dụng bé nhỏ như trong điện thoại di động hoặc máy vi tính xách tay. Cấu tạo. Một tế bào nhiên liệu có cấu tạo đơn giản bao gồm ba lớp nằm trên nhau. Lớp thứ nhất là điện cực nhiên liệu (cực dương), lớp thứ hai là chất điện phân dẫn ion và lớp thứ ba là điện cực khí oxy (cực âm). Hai điện cực được làm bằng chất dẫn điện (kim loại, than chì...). Chất điện phân được dùng là nhiều chất khác nhau tùy thuộc vào loại của tế bào nhiên liệu, có loại ở thể rắn, có loại ở thể lỏng và có cấu trúc màng. Vì một tế bào riêng lẻ chỉ tạo được một điện thế rất thấp cho nên tùy theo điện thế cần dùng nhiều tế bào riêng lẻ được nối kế tiếp vào nhau, tức là chồng lên nhau. Người ta thường gọi một lớp chồng lên nhau như vậy là stack. Ngoài ra, hệ thống đầy đủ cần có các thiết bị phụ trợ như máy nén, máy bơm, để cung cấp các khí đầu vào, máy trao đổi nhiệt, hệ thống kiểm tra các yêu cầu, sự chắc chắn của sự vận hành máy, hệ thống dự trữ và điều chế nhiên liệu. Nguyên lý hoạt động. Về phương diện hóa học tế bào nhiên liệu là phản ứng ngược lại của sự điện phân. Trong quá trình điện phân nước bị tách ra thành khí hiđrô và khí oxy nhờ vào năng lượng điện. Tế bào năng lượng lấy chính hai chất này biến đổi chúng thành nước. Qua đó, trên lý thuyết, chính phần năng lượng điện đã đưa vào sẽ được giải phóng nhưng thật ra vì những thất thoát qua các quá trình hóa học và vật lý năng lượng thu được ít hơn. Các loại tế bào nhiên liệu đều cùng chung một nguyên tắc được mô tả dựa vào tế bào nhiên liệu PEM (Proton Exchange Membrane - tế bào nhiên liệu màng trao đổi bằng proton) như sau: Ở bề mặt cực dương khí hiđrô bị oxy hóa bằng hóa điện: formula_1 Các điện tử được giải phóng đi từ cực dương qua mạch điện bên ngoài về cực âm. Các proton H+ di chuyển trong chất điện phân xuyên qua màng có khả năng chỉ cho proton đi qua về cực âm kết hợp với khí oxy có sẵn trong không khí (nồng độ 21%) và các điện tử tạo thành nước: formula_2 Tổng cộng: formula_3 Phân loại. Các hệ thống tế bào nhiên liệu được phân loại theo nhiều cách khác nhau tùy theo cách nhìn: Liệt kê dưới đây là sáu loại tế bào nhiên liệu khác nhau: Trong các loại trên thì PEMFC có nhiều triển vọng dùng trong các loại xe cộ. SOFC và APU cũng đều có khả năng trong ứng dụng trên ô tô. PEMFC, MCFD và SOFC cùng có trong tương lai trong ứng dụng trên các trạm phát điện. PAFC là công nghệ mới được nghiên cứu tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề kĩ thuật. DMFC có thể tạo bước đột phá trong lĩnh vực thiết bị di động. AFC được có thể được ứng dụng trong ngành hàng không vũ trụ. Nhiệt độ vận hành của những loại tế bào nhiên liệu khác nhau (nằm trong khoảng từ 60 tới 1000 độ C). Sự khác nhau còn nằm ở cấu trúc điện cực, sự tinh khiết của hydro ở anode (DMFC dùng methanol). Ứng dụng. Tế bào nhiên liệu được sử dụng đầu tiên trong những lĩnh vực mà phí tổn không đóng vai trò quan trọng. Tế bào nhiên liệu nhẹ và hiệu quả hơn ắc quy đồng thời đáng tin cậy và ít ồn ào hơn động cơ Diesel. Những điều này giải thích tại sao giới quân sự và ngành du hành vũ trụ quan tâm đến công nghệ này rất sớm. Một số tàu thuyền trên biển cũng dùng tế bào nhiên liệu. Động cơ thúc đẩy cho các ứng dụng dân sự xuất phát từ nhận thức trữ lượng dầu mỏ trên Trái Đất là có hạn nhưng vẫn mong muốn tiếp tục kinh doanh xe thời kỳ sau dầu mỏ vốn đang mang về nhiều lợi nhuận. Từ 20 năm nay nhiều hãng sản xuất xe (DaimlerChrysler, Ford, Honda, Opel) đã nghiên cứu về xe có nhiên liệu là hiđrô, sử dụng tế bào nhiên liệu để chuyển hóa năng lượng và dùng động cơ điện để vận hành. Kỹ thuật này đã được phát triển cho xe buýt, xe du lịch, xe tải nhẹ.Ở Hamburg (Đức) và Stuttgart (Đức) người ta đang thử nghiệm chạy xe buýt sử dụng nhiên liệu hydro trên các tuyến đường xe buýt bình thường. Từ năm 2003 hai hãng đóng tàu của Đức đã cung cấp loại tàu ngầm vận hành bằng điện được cung cấp từ máy phát điện Diesel hoặc từ một hệ thống tế bào nhiên liệu hiđrô. Các tế bào nhiên liệu sử dụng khí đốt đang chuẩn bị đẩy lùi các thiết bị kết hợp phát điện và sưởi ("combined heat and power plant"). Ở hệ thống này khí đốt được biến đổi thành hiđrô đưa vào tế bào nhiên liệu. Một số vật dụng cầm tay như điện thoại di động, máy vi tính xách tay, máy quay phim, vật liệu cắm trại hay quân sự cũng đang tiến tới ứng dụng loại nguồn cung cấp năng lượng này. Ưu điểm và nhược điểm. Ưu điểm. Trong các ưu điểm của tế bào nhiên liệu so với các hệ thống chuyển đổi cạnh tranh khác phải kể đến độ hiệu quả cao không phụ thuộc vào độ lớn của hệ thống. Chúng cung cấp năng suất năng lượng điện tăng từ 40% đến 70% điện, ngoài ra có thể hơn 85% khi tận dụng cả điện và nhiệt. Ngoài ra việc vận hành tế bào nhiên liệu không phát sinh tiếng ồn và sản phẩm của phản ứng chỉ là nước và dioxide cácbon (nếu sử dụng các nhiên liệu hóa thạch). Tế bào nhiên liệu giảm sự phụ thuộc vào dầu mỏ, giảm lượng dioxide cácbon, một trong các khí gây ra hiệu ứng nhà kính, các oxit của lưu huỳnh và nitơ là các khí gây ô nhiễm môi trường đang là vấn đề lớn cho xã hội. Các tế bào nhiên liệu không cần động cơ quay hay các bộ phận cơ học chuyển động, do đó tăng tuổi thọ và độ tin cậy. Nhiệt độ vận hành khác nhau của tế bào nhiên liệu cho phép dùng cùng với turbine hay những áp dụng hơi nước nóng. Nhược điểm. Giá thành sản xuất pin nhiên liệu quá cao để sản xuất đại trà do pin có các bộ phận sử dụng công nghệ chế tạo và vật liệu đắt tiền như chất xúc tác (bạch kim), màng trao đổi, điện cực. Pin nhiên liệu có thể tích cồng kềnh, nhất là khi người ta muốn nhập vào bên trong xe cộ. Các pin nhiên liệu cần có tuổi thọ tối thiểu 40.000h trong các ứng dụng trong các công trình về trạm phát điện. Đây là một ngưỡng không dễ gì vượt qua với công nghệ hiện hành. Chất đốt hydro khó bảo quản và vận chuyển. Vấn đề môi trường. Để thật sự thân thiện với môi trường và khí hậu, một mặt các tế bào nhiên liệu chỉ được phép thải ra các khí nhà kính và các chất có hại khác càng ít càng tốt, mặt khác quá trình khai thác chất đốt cũng không được phép thải ra các chất khí đó. Vấn đề chính là ở chỗ này vì khí hiđrô không có trong tự nhiên mà phải dùng năng lượng để sản xuất ra. Nước hoặc các hợp chất hydrocarbon như khí tự nhiên, dầu mỏ hoặc mêthanol được xem là nguồn để sản xuất khí hiđrô. Việc tách nước qua điện phân về nguyên tắc là phù hợp với môi trường sinh thái nếu như năng lượng cần dùng cũng được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái sinh như nước, Mặt Trời hoặc gió chứ không phải từ các phương pháp sản xuất điện thông thường. Trong nhiều loại tế bào năng lượng ngày nay thật ra không phải khí hiđrô tinh khiết được dùng làm khí đốt mà lại là một chất đốt hóa thạch như khí tự nhiên, xăng hay methanol. Các loại tế bào nhiên liệu này được sử dụng nhiều nhất là trong công nghiệp ô tô để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc chuyển đổi từ các động cơ thông thường sang các loại động cơ thay thế khác. Trong các kiểu động cơ hỗn hợp này khí tự nhiên được chuyển hóa bằng nhiệt lượng thành oxit cacbon và hiđrô. Hiđrô được dùng trong tế bào nhiên liệu làm chất đốt và được tiêu thụ hoàn toàn nhưng khí oxit cacbon vẫn còn lại, phản ứng với nước tạo thành dioxide cacbon, một khí nhà kính tác hại đến khí hậu. Theo một nghiên cứu của Hội vì môi trường và bảo vệ tự nhiên Đức ("Bund für Umwelt und Naturschutz Deutschland" – BUND) các ô tô dùng tế bào nhiên liệu tuy thải khí ra tại chỗ rất ít hơn so với các động cơ thông dụng nhưng việc sản xuất ra hiđrô từ những nguồn năng lượng hóa thạch lại tạo ra các khí thải nên nếu tổng cộng lại, lượng các khí tạo ra hiệu ứng nhà kính được thải ra tăng lên rất nhiều. Việc thải khí chỉ di chuyển từ ô tô về nơi sản xuất ra hiđrô. Thay vì hiđrô, nếu sử dụng các nguồn năng lượng hóa thạch khác như methanol thì tác động đến khí hậu vẫn như các động cơ Otto. Nhưng ít ra thì các hợp chất của lưu huỳnh và các chất độc hại đến sức khỏe thải ra từ ô tô tế bào nhiên liệu giảm đi rất nhiều. Tóm lại bản nghiên cứu này cho rằng xe tế bào nhiên liệu thật sự là một lựa chọn cho tương lai nhưng chỉ khi hiđrô được sản xuất tái sinh ở khối lượng lớn đủ dùng và có thể tích trữ được. Mặc dù vậy, theo quan điểm của các chuyên gia, xe tế bào nhiên liệu vận hành bằng các chất đốt hóa thạch vẫn có ý nghĩa: Chúng giúp công nghệ này được phổ biến, phát triển và chấp nhận tốt hơn và như thế về lâu dài dọn đường cho các xe thật sự không phát sinh ra khí thải. Khí tự nhiên được xem là chất đốt thích hợp nhất cho các thiết bị sử dụng tế bào nhiên liệu trong các nhà máy phát điện và cho các thiết bị nhỏ hơn dùng cho nhà ở. Kết quả bản nghiên cứu so sánh của BUND cho thấy ở đây khí hiđrô sản xuất tái sinh vẫn là phương cách phù hợp với sinh thái nhất, nhưng mặc dù vậy các thiết bị tế bào nhiên liệu vận hành bằng khí tự nhiên thải ra lượng oxit nitơ ít đi gấp ba lần và thải ra các hợp chất của lưu huỳnh cũng ít đi nhiều. Nếu sử dụng trong các nhà máy phát điện các chuyên gia dự tính việc phát thải các khí nhà kính có thể giảm đến khoảng 4% cho đến năm 2010. Thêm nữa, việc sản xuất điện và nhiệt để sưởi ấm được phân tản tiếp tục, các thiết bị nhỏ dùng cho nhà ở được thực hiện dễ dàng hơn và có hiệu quả nhiều hơn so với các công nghệ thông thường rất nhiều. Tổng kết lại các chuyên gia cũng khẳng định ở phần này là công nghệ tế bào nhiên liệu vẫn thân thiện với môi trường hơn các phương pháp sản xuất điện thông dụng rất nhiều.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Chiêm Thành () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: "Campanagara") trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu thế kỷ thứ 11, Chiêm Thành bao gồm 4 vùng đất (nhiều nguồn gọi là tiểu quốc) là: Amaravati (vùng Quảng Nam, Đà Nẵng ngày nay, và vùng Bình - Trị - Thiên nhưng sau này bị sáp nhập vào Đại Việt), Vijaya (vùng Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay), Kauthara (vùng Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay) và Panduranga (vùng Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay). Các vương triều Chiêm Thành. Từ năm 875, sử Việt Nam gọi Chăm pa là Chiêm Thành Quốc. Riêng, vùng Phan Rang (Panduranga) ngày nay được gọi là Tân Đồng Long. Vương triều thứ sáu (875-982/1000). Sống mãi trong xa hoa, vương triều Panduranga trở nên yếu đuối. Sau hơn 20 năm chinh chiến với Angkor quyền hành trong nước lọt dần vào tay các dòng vương tôn miền Bắc, chính họ đã chống trả lại các đợt xâm lăng của đế quốc Angkor. Năm 859, một vương tôn mang nhiều chiến công, tên Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, được triều thần đưa lên ngôi, hiệu Indravarman II. Trong những năm 861, 862 và 865, quân Chiêm Thành tổ chức nhiều cuộc tấn công vào phủ An Nam, mang về rất nhiều lương thực và của cải. Năm 889 vua Angkor là Yasovarman hai lần tiến quân vào Chiêm Thành nhưng đều bị đánh bại và chết trong rừng sâu (năm 890), một phần đất trên Đồng Nai thượng và lãnh thổ đông-bắc Angkor (cao nguyên Rattanakiri và Mondolkiri) đặt dưới quyền kiểm soát  của Chiêm. Vương triều thứ mười một (1145-1318). Sau đó vào năm 1190, Chiêm Thành chia thành hai tiểu vương quốc riêng: Vương quốc Vijaya và Vương quốc Panduranga. Vào năm 1192 thì lại hợp nhất lại. Vương triều thứ mười bốn (1458-1471). Năm 1470, vua Chiêm là Trà Toàn cầu viện nhà Minh, năm 1469, 1470 Trà Toàn sai quân đi đánh Hoá Châu. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông (1460 1497) thân chinh đi đánh Chiêm Thành (Vương quốc Vijaya Chăm Pa), hạ thành Đồ Bàn, giết 60.000 người, bắt Trà Toàn và hơn 30.000 tù nhân, kết thúc triều đại thứ mười bốn của Chiêm Thành. Tướng Chiêm là Bô Trì Trì sai sứ vào cống xin xưng thần.
449
449_pa_chm_po_panduranga
[ "pa", "chm", "po", "panduranga", "indravarman", "kauthara", "vijaya", "champa", "vua", "khmer" ]
[ "Panduranga (tiếng Hindi: पाण्डुराग / Pāṇḍuraṅga ; chữ Hán: 潘朧 / Phan-lung, 潘郎 / Phan-lang, 環王 / Hoàn-vương) là một tiểu quốc tồn tại trong giai đoạn 757 - 1832, tương ứng khu vực hiện nay là Ninh Thuận và Bình Thuận. Panduranga được biết đến là xứ Champa có cương vực rộng nhất và tồn tại sau cùng, khi vương quốc Chămpa bị người Việt triệt phá vào các năm 1471 và 1653.\nLịch sử.\nLịch sử Chăm Pa thời kỳ đầu qua các sử liệu và bia ký chỉ cho thấy những thông tin ở miền Bắc tại vùng Amaravati và Vijaya. Thông tin về các địa khu/tiểu quốc phía nam như Panduraga và Kauthara nhắc tới muộn hơn. Có những công trình nghiên cứu cho rằng trước khi hợp nhất vào Lâm Ấp, Panduranga là vùng lãnh thổ chư hầu của vương quốc Phù Nam.\nSau sự sụp đổ của các vương triều phía bắc trong thời kỳ Lâm Ấp, vào năm 757 một vương triều mới ở phía Nam lên nắm quyền kiểm soát toàn Chăm Pa, với kinh đô là Virapura, trong thời kỳ tiểu quốc Panduranga. Virapura nói riêng và Panduranga nói chung thực sự là trung tâm quyền lực của vương quốc, và đến năm 859 mới kết thúc vai trò trung tâm của mình đến thế kỷ 15. Tuy nhiên với thời gian, Panduranga lại trở thành nạn nhân của sự thịnh vượng, các thế lực lân bang liên tục tràn vào cướp phá. Trong suốt 21 năm, từ 854 đến 875, quân của đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến đánh Panduranga, chiếm nhiều vùng đất rộng lớn dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng qua cao nguyên Langbian, đột nhập vào lãnh thổ Panduranga cướp phá. Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh Vikrantasvara), không người kế tự, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp. Năm 859, một vương tôn có nhiều chiến công, tên là Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, được triều thần đưa lên ngôi, hiệu Jaya Indravarman II. Quốc hiệu Campapura (đất nước của người Chăm -theo tiếng Phạn cổ) được Indravarman II chính thức sử dụng. Sử sách Trung Hoa phiên âm là \"Changcheng\" hoặc Chiêm Thành hoặc Chiêm Bà, tiếng Tây phương là Champa.\nTừ năm 1471, sau khi kinh đô Vijaya thất thủ trước Đại Việt, Chăm Pa mất các lãnh thổ miền bắc từ đèo Cù Mông trở ra. Người Chăm tập trung quay về khu vực phía Nam với vương quốc mới là Panduranga, từ lúc đó địa khu Panduranga lại trở thành trung tâm hành chính của người Chăm tới năm 1832 khi nhà Nguyễn xóa hẳn quy chế tự trị.\nTriều đại.\nThời kỳ Hoàn Vương (757 - 859).\nHoàn Vương quốc ra đời sau một cuộc thay đổi quyền lực ở Lâm Ấp, vương quốc vốn tồn tại tại vùng này trước đó.\nNăm 757, một tiểu vương ở phía nam Lâm Ấp nổi lên hạ bệ Bhadravarman II - nhà vua trẻ của Lâm Ấp vừa lên ngôi - rồi tự xưng vương, hiệu Prithi Indravarman, chấm dứt dòng Gangaraja phía bắc.\nTheo bia ký đọc được, Prithi Indravarman là người đã thống nhất lãnh thổ Chăm pa một cách chính danh nhất, vì được triều thần công nhận là \"người thống lãnh toàn bộ đất nước như Indra, thần của các vị thần\". Tuy đất nước đã được thống nhất, lãnh thổ này vẫn chưa có tên. Khi sang Trung Hoa triều cống, không biết sứ thần của Prithi Indravarman đã giải thích như thế nào mà sử liệu cổ Trung Hoa đặt tên lãnh thổ mới của người Chăm trong thời kỳ này là Hoàn Vương quốc (tức vương quyền trở về quê cũ). Việc làm đầu tiên của Prithi Indravarman là dời kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử tức Trà Kiệu, Quảng Nam ngày nay) về Virapura.\nDưới thời Prithi Indravarman, văn minh và văn hóa Ấn Độ từ phía nam đưa lên lấn át toàn bộ sinh hoạt của người Chăm phía bắc; tiếng Phạn được phổ biến rộng rãi trong giới vương quyền và các nơi thờ phụng; đạo Bà la môn được đông đảo người theo; đạo Phật nguyên thủy Thượng toạ bộ (\"Theravada\") phát triển mạnh trong dân gian; đền đài, dinh thự và chùa tháp được xây dựng lên khắp nơi, nhiều nhất là tại Khu Lật (Huế), Amavarati (Mỹ Sơn), Sinhapura (Trà Kiệu)... để tạ ơn thần linh. Tuy vậy nguyên tắc tự trị của các tiểu vương quốc phía bắc vẫn được tôn trọng, vì không thấy di ảnh hay hình tượng nữ thần Bhagavati - vị thần bảo hộ Panduranga được Prithi Indravarman chọn làm \"Bà Mẹ xứ sở\" để dân chúng thờ phụng – trong các di tích khảo cổ trên lãnh thổ phía bắc.\nNgôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma (646-653) được Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aia Trang (Nha Trang), trên một ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati (bằng vàng). Tháp này về sau được biết dưới tên Po Nagar, hay Tháp Bà.\nPrithi Indravarman là một quân vương tài giỏi, đất nước thái bình và rất phồn vinh. Sự giàu có của Hoàn Vương quốc hấp dẫn các vương quốc lân bang, đặc biệt là Srivijaya (Palembang), Malayu (Malaysia), Javadvipa (Java), Nagara Phatom (Thái Lan), Sriksetra (Miến Điện) và Angkor (Chân Lạp); họ đến để trao đổi hoặc chờ dịp cướp phá.\nNăm 774, quân Nam Đảo (người Java và Mã Lai) từ ngoài khơi đổ bộ vào Kauthara và Panduranga, chiếm Virapura. Vua Prithi Indravarman đã chống trả lại mãnh liệt nhưng bị chết trong đám loạn quân (sau này được dân chúng tôn thờ dưới pháp danh Rudraloka). Một bia ký đọc được ở tháp Po Nagar ghi \"những người đen đủi và gầy yếu từ miền xa đến, ăn những thức ăn khủng khiếp hơn xác chết, lại có tính hung ác. Bọn người này đến cướp đi tượng linga của thần Sri Sambhu, đốt phá đền thờ [Po Nagar]\". Sau cuộc tấn công này quân Nam Đảo cướp đi rất nhiều báu vật, trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng.\nNgay khi Prithi Indravarman vừa tử trận, một người cháu gọi ông bằng cậu tên là Cri Satyavarman được hoàng tộc tôn lên thay thế. Nhưng vừa lên ngôi, Satyavarman đã cùng hoàng tộc chạy lên miền bắc (Bình Định) lánh nạn. Tại đây, vua được cộng đồng người Chăm và người Thượng địa phương (Ba Na, Hrê) giúp thành lập một đạo quân hùng mạnh tiến xuống Kauthara tấn công quân Nam Đảo. Trước uy lực của Satyavarman, quân Nam Đảo lên thuyền bỏ chạy ra khơi, tân vương dẫn hoàng gia về lại Virapura. Tại đây, nhà vua xây thêm một cung điện mới trong thành Krong Laa và không ngờ đã sáng chế ra một phong tục mới mà các đời vua sau bắt chước theo, đó là tục trồng cây Kraik, biểu tượng của hoàng gia, trước cung điện. Đền Po Nagar, bị quân Nam Đảo phá hủy, được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, năm 784 thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. Năm 786, Satyavarman mất (được dân chúng thờ phụng dưới pháp danh Isvaraloka), em trai út của ông được hoàng tộc đưa lên ngôi, hiệu Indravarman I(còn gọi là Nhân Đà La Bạt Ma) (786-801).\nHay tin Satyavarman chết, năm 787, quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào Virapura cướp phá, sát hại rất nhiều binh sĩ và dân chúng, phá tháp Hòa Lai thờ thần Bhadradhipatisvara tại phía Tây thành Virapura (gần Phan Rang ngày nay). Quân Nam Đảo chia ra làm hai nhóm, một nhóm bắt theo nhiều phụ nữ cùng báu vật chở về nước, một nhóm khác chiếm giữ Panduranga. Đến năm 799, Indravarman I mới đuổi được quân Nam Đảo ra khơi để kiến thiết lại xứ sở. Tại Virapura, nhà vua xây lại tháp Hòa Lai bằng ba tháp mới, gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các thần Indrabhadresvara, Sankara và Narayana. Indravarman I dẹp yên được giặc giã nổi lên từ khắp nơi, như tại Candra (phía Bắc), Indra (Đông Bắc), Agni (Đông), Yama (Đông Nam), quan trọng nhất là loạn Yakshas (Nam). Yakshas là những bộ lạc người Thượng cư ngụ trên lãnh thổ đế quốc Angkor chứ không phải là quân Khmer.\nĐầu thế kỷ thứ 9, Indravarman I mất, em rể là hoàng thân Deva Rajadhiraja lên thay, hiệu Harivarman I (Kha Lê Bạt Ma). Trong hai năm đầu tân vương dồn mọi nỗ lực xây dựng lại đất nước và phục hồi thế lực quân sự. Để nhận thêm sự ủng hộ của quần chúng, nhà vua sai tể tướng Senapati Pangro trùng tu lại tháp Po Nagar vào năm 817 và xây thêm hai tháp mới cạnh tháp chính, một ở hướng Nam và một ở hướng Tây Bắc để dân chúng đến chiêm bái tượng nữ thần Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương.\nSau những cố gắng vượt bực, Hoàn Vương quốc hưng thịnh trở lại, Harivarman I quyết định tấn công những quốc gia đã cướp bóc đất nước trước đó. Tháng 1 năm 803, quân Chăm tấn công châu Hoan (Tỷ Cảnh, nay là Nghệ An) và châu Ái (Hải Âm, nay là Thanh Hóa), mang về rất nhiều phẩm vật. Với lượng lúa gạo mang về từ miền bắc, thủy quân Hoàn Vương quốc xuất dương trừng phạt vương quốc Kelantan ở Java và Patani ở Malaysia. Khi trở về, nhà vua cho người lên miền núi mộ thêm binh sĩ. Với đạo quân này, hai lần (năm 803 và 817), Harivarman I tiến vào cao nguyên Đồng Nai thượng, đánh bại quân Khmer và kiểm soát một vùng đất rộng lớn.\nĐể có thêm nguồn lương thực, năm 808, Harivarman I đem quân đánh chiếm châu Hoan và châu Ái lần nữa, nhưng bị thái thú Trương Châu đánh bại: 59 người trong hoàng tộc bị bắt sống, nhiều thớt voi, tàu chiến và quân trang quân dụng bị tịch thu, hơn 30.000 người bỏ xác tại trận. Qua năm sau, năm 809, Harivarman I tái chiếm châu Hoan và châu Ái một cách dễ dàng và mang về rất nhiều phẩm vật.\nCon trai Harivarman I là tiểu vương đất Panduranga lên kế vị năm 817, hiệu Vikrantavarman III (Thích Lợi Tì Kiên Đà Bạt Ma). Vì tân vương còn nhỏ tuổi, triều thần phong tể tướng Senapati Par, tiểu vương đất Manidhi làm phụ chính. Viên tể tướng này đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Kambujas (Campuchia ngày nay), do vua Jayavarman II cai trị, phá nhiều thành trì Khmer trên cao nguyên Đồng Nai thượng. Để tạ ơn Bà Mẹ Xứ Sở, trong khuôn viên Po Nagar, Senapati Par cho xây thêm hai tháp mới về phía tây và tây nam, thời gian sau xây thêm ba tháp khác: một tại khu trung tâm thờ Sri Shambu, một phía Tây Bắc thờ Shandhaka và một phía Nam thờ Ganesha. Mặc dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo vẫn được duy trì tại Virapura, thủ phủ Panduranga.\nDưới thời Vikrantavarman III, Hoàn Vương quốc là một đất nước phồn thịnh, quân đội hùng mạnh. Một bia ký, tìm được tại tháp Po Nagar, miêu tả Vikrantavarman III như sau:\nThư tịch cổ Trung Hoa (Cựu Đường thư) miêu tả thêm: \"[Vua] mặc áo cổ bối bạch diệp... trên đeo thêm trân châu, dây chuyền vàng làm thành chuỗi...\". Đẳng cấp quý tộc và phụ nữ cung đình cũng đeo trang sức quý: \"Phu nhân mặc vải cổ bối triệu hà... mình trang sức dây chuyền vàng, chuỗi ngọc trai\" hay \"... quân đội được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau...\".\nThời kỳ 859 - 1471.\nThời kỳ này Panduranga được cai trị bởi các vua Chăm Pa từ Simhapura (Trà Kiệu) và Vijaya (Đồ Bàn). Panduranga nhiều lần bị đế chế Khmer xâm chiếm. \nPo Klong Garai.\nLà vua Chăm Pa có gốc Panduranga, ông cai trị trong khoảng 50 năm, Po Klong Garai đã có công lãnh đạo dân tộc Chăm đương cự với ngoại xâm, bình ổn đất nước và phát triển nông nghiệp, được người Chăm suy tôn như vị thần thủy lợi.\nThời kỳ 1471 - 1692.\nSau khi bị Đại Việt chinh phục năm 1471, nhóm hoàng tộc Chăm từ Nam Bàn (từ Quảng Nam đến Đồ Bàn) do Bố Trì Trì là cháu của Trà Toàn chạy về Nam Chăm Pa lánh nạn và tranh chấp quyền bính với các dòng vương tôn địa phương tại Phan Rang (Virapura). Dân chúng địa phương được kêu gọi không thừa nhận dòng họ Bố Trì Tri (Jayavarman Mafoungnan) vì chỉ là cấp thừa hành của các tiên vương. \nDòng họ Bố Trì Tri không trị vì lâu. Năm 1478, Bố Trì Tri mất em là Koulai lên thay nhưng bị ám sát năm 1505. Con Koulai kế nghiệp và trị vì đến 1530 thì mất. Kể từ sau ngày đó con cháu dòng vương tôn Nam Bàn được hoàng triều và dân chúng tôn lên làm vua. Con Trà Toại, em của Trà Toàn vua cuối cùng của Vijaya, là hoàng thân Po Krut Drak được tôn lên làm vua kế nghiệp Chakou Poulo cai quản xứ Panduranga. \nThuận Thành trấn (1693 - 1832).\nTrước sức ép nam tiến của người Việt, tới năm 1693 tướng Nguyễn Hữu Cảnh đã tấn công và sáp nhập vùng đất cuối cùng của chính quyền Chăm Pa vào lãnh thổ xứ Đàng Trong, tuy nhiên từ năm 1693-1697 người Chăm đã kháng cự mãnh liệt đồng thời chính quyền Đàng Trong cũng muốn dành nguồn lực cho việc chinh phạt Chân Lạp nên tới năm 1697 đã trả lại quyền hành cho các vua người Chăm, nhưng đổi tên trong văn bản thành Trấn Thuận Thành, hay Thuận Thành trấn. Trấn Thuận Thành là một lãnh thổ tự trị và đồng thời là chư hầu của chính quyền Đàng Trong. Kinh đô đặt ở Băl Canar, nay thuộc tỉnh Bình Thuận.\nTrong chiến tranh Tây Sơn, Thuận Thành trấn là chiến trường nơi tranh chấp giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Từ năm 1794, đất Panduranga được xem như một tiền đồn của chúa Nguyễn nhằm ngăn bước tiến của quân Tây Sơn vào đất Gia Định - thủ phủ của quân Nguyễn bấy giờ. \nTuy nhiên từ năm 1828-1832, chính quyền Chăm Pa ở đây nằm dưới sự bảo hộ của tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt. Sau khi Lê Văn Duyệt chết, vua Minh Mạng đã xóa bỏ chế độ tự trị của người Chăm và thành lập tỉnh Bình Thuận. Chính quyền cuối cùng của Thuận Thành trấn nói riêng, và Chăm Pa nói chung, kết thúc từ đấy. Vương quốc Chămpa không còn tồn tại nữa sau năm 1832.\nĐặc trưng.\nPanduranga cùng với Kauthara là hai địa khu của bộ tộc Cau sinh sống, một trong hai bộ tộc chính hình thành nên người Chăm sau này, tại Panduranga sớm hình thành các đô thị ven biển mà người chăm vốn lành nghề về hàng hải. Các đô thị vẫn còn tồn tại đến ngày nay tại Việt Nam với các tên gọi chuyển sang Hán Việt như: Parang thành Phan Rang, Panrik thành Phan Rí, Pajai thành Phan Thiết. Các công trình kiến trúc về tôn giáo như các tháp Chăm được xây dựng liên tục qua các thời kỳ, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 17. Các tháp Po Nagar (ở thế kỷ 8), tháp Hòa Lai, tháp Phú Hài, tháp Po Dam (thế kỷ 9), tháp Po Klaung Garai (thế kỷ 13), tháp Po Rome (thế kỷ 17).\nPanduranga là địa khu cuối cùng của người Chăm trước khi bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam năm 1832. Vì thế hiện nay, số lượng người Chăm tập trung và sinh sống ở đây nhiều nhất nước. Các khu vực đông người Chăm sống là các làng ở Phan Rang, Ninh Phước, Ninh Hải tỉnh Ninh Thuận các làng ở Bắc Bình, Tuy Phong tỉnh Bình Thuận. Hiện nay người Chăm ở đây đang còn khoảng 100.000 người và vẫn giữ lại được các tập tục cổ xưa.", "Chăm Pa (tiếng Phạn: चम्पा, chữ Hán: 占婆 \"Chiêm Bà\", tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192 đến năm 1832. Cương vực của Chăm Pa lúc mở rộng nhất tương ứng với miền Trung Việt Nam ngày nay, trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía nam và từ biển Đông cho đến tận miền núi phía tây của nước Lào ngày nay.\nQua một số danh xưng Lâm Ấp, Panduranga, Chăm Pa trên phần đất nay thuộc miền Trung Việt Nam. Văn hóa Chăm Pa chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Java, đã từng phát triển rực rỡ với những đỉnh cao nghệ thuật là phong cách Đồng Dương và phong cách Mỹ Sơn mà nhiều di tích đền tháp và các công trình điêu khắc đá, đặc biệt là các hiện vật có hình linga vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, cho thấy ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo là hai tôn giáo chính của chủ nhân vương quốc Chăm Pa khi xưa.\nChăm Pa hưng thịnh nhất vào thế kỷ 9 và 10 và sau đó dần dần suy yếu dưới sức ép của các vương triều Đại Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer. Năm 1471, Chăm Pa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía bắc vào Đại Việt. Phần lãnh thổ còn lại của Chăm Pa bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và sau đó tiếp tục dần dần bị các chúa Nguyễn thôn tính và đến năm 1832 toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng.\nLịch sử.\nLịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính:\nVương quốc Chăm Pa không phải là một quốc gia có thể chế chính trị \"Trung ương tập quyền\" mà là một dạng nhà nước liên bang gồm tộc người Chăm theo Đạo Bàlamôn, Phật giáo và Hồi giáo chiếm đa số và một số tộc người nhỏ hơn ở vùng núi Đêga Tây Nguyên điển hình cùng ngôn ngữ như Êđê, Giarai đã từng là cư dân vùng trung Chămpa duy trì tín ngưỡng dân gian Nam Đảo bản địa, nay hầu hết chuyển sang Kitô giáo từ giữa thế kỷ 19. Có những nguồn tài liệu cho biết Chăm Pa có thể được kết hợp từ bốn tiểu quốc là Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Mỗi tiểu quốc đều có thể chế chính trị theo hình thức tự trị và có quyền ly khai khỏi liên bang để xây dựng quốc gia riêng độc lập. Vương quốc Chăm Pa đã trải qua nhiều triều đại với nhiều lần dời đô từ Bắc vào Nam và ngược lại.\nTheo sử thi người Chăm, dân tộc chính của Chăm Pa là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía bắc và Chăm ở phía nam. Nhóm Nam Chăm thuộc bộ tộc Cau (Kramuta Vanusa) và nhóm Bắc Chăm thuộc bộ tộc Dừa (Naeikela Vanusa). Hai bộ tộc này vừa liên minh với nhau, vừa cạnh tranh nhau quyền đứng đầu Vương quốc Chăm Pa.\nThời tiền sử.\nNgười dân Chăm Pa có nguồn gốc Mã Lai-Polynesia di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ 1 và 2 trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo.\nVăn hóa Sa Huỳnh.\nVăn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại đồ đồng rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ cacbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam từ khoảng năm 200. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.\nLâm Ấp (192 - 757).\nTheo sử liệu Trung Quốc, quốc gia cổ Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên với sự ra đời và tồn tại của Vương triều Sinhapura hay còn gọi là vương quốc Lâm Ấp (Liu) mà vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công. Vào thế kỷ 4, từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.\nVị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361 ở kinh đô Kandapurpura (Phật Thệ) thuộc Huế ngày nay. Tại thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó.\nĐầu năm 2013, các nhà khảo cổ công bố phát hiện khu di tích thành cổ tại làng Viên Thành, thôn Trung Đông, xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên. Đoạn tường thành dài khoảng 20 m, bề ngang 2 m đắp bằng đất sét; cùng các hiện vật khác như Kendi. Nhóm khảo cổ nhận định đây là khu thành bao bọc quanh kinh đô Sinhapura của Vương quốc Chăm Pa, được xây dựng khoảng thế kỷ 4-5.\nVào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc. Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756. Vào cuối thời kỳ này, sử sách Trung Quốc vẫn ghi Chăm Pa là Lâm Âp, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là đến năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là đến năm 657.\nSách sử Trung Hoa như sách Thông điển còn ghi nhận một loạt các quốc gia phía Nam Lâm Ấp như Tây Đồ (Trà Kiệu), Ba Liêu (Châu Sa), Khuất Đồ Kiển (Kauthara)...\nHoàn Vương (757 - 859).\nVào năm 757, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã chuyển từ Trà Kiệu xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với kinh đô Virapura gần Phan Rang ngày nay và thánh địa tôn giáo ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Po Nagar ở Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java tấn công kinh đô Virapura và đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga.\nChiêm Thành-Champa (875 - 1471).\nNăm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay). Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ Bồ Tát Quán Thế Âm (\"Avalokiteśvara\"). Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ 9 và 10. Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Chăm Pa kết thúc năm 925, bắt đầu nhường bước với sự phục hồi của đạo thờ thần Siva, với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Siva giáo vào khoảng thế kỷ 10, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn, đây là thời kỳ văn minh Chăm Pa đạt đến đỉnh cao. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau này chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Chân Lạp ở phía tây nam. Các cuộc chiến tranh với Chân Lạp đã dẫn tới có hai giai đoạn Chăm Pa thuộc sự cai trị của người Khmer, đó là các giai đoạn 1145–1149 và giai đoạn 1190-1220, tiếp đó là cuộc chiến thành công chống lại đạo quân xâm lược của đế quốc Nguyên Mông vào năm 1283 do tướng Toa Đô (Sogetu) cầm đầu với ý định chiếm nơi đây làm bàn đạp tấn công Đại Việt . Tuy nhiên dấu ấn mạnh nhất vẫn là các cuộc chiến tranh với Đại Việt, không như các cuộc chiến với Chân Lạp và Trung Quốc, những cuộc chiến tranh với người Việt đã làm vương quốc Chăm Pa lần lượt mất lãnh thổ và dần suy yếu dẫn tới sụp đổ.\nNăm 938 người Việt đã giành được độc lập từ tay người Trung Quốc. Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt mở cuộc nam chinh đầu tiên, quân Đại Việt đã đánh chiếm và tàn phá kinh đô Indrapura, giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt bắt đầu gọi là Đồ Bàn hoặc Chà Bàn. Trong 5 thế kỷ tiếp theo giữa Chăm Pa và Đại Việt đã xảy ra rất nhiều các cuộc chiến tranh, Chăm Pa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021, 1026, 1044. Tiếp đó, vào năm 1069 quân Việt tấn công Chăm Pa. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính ở phía bắc gần biên giới với Đại Việt để lấy tự do. Vào năm 1307 khi quan hệ giữa Cham Pa và Đại Việt tương đối tốt đẹp, vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), đã nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Sau sự kiện này, Chăm Pa chỉ còn lại lãnh thổ từ sông Thu Bồn trở vào.\nVị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Che Bonguar (Chế Bồng Nga) lên ngôi năm 1360. Từ năm 1371 đến năm 1389, ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra Thăng Long kinh đô của Đại Việt. Ông chết trong lần tấn công cuối cùng năm 1389 và một vị tướng của ông là La Ngai (La Khải) rút về Vijaya để lên ngôi thay thế. Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, đến lượt Chăm Pa liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công và bị mất dần lãnh thổ. Sau các cuộc tấn công vào các năm 1402 và 1446, tới năm 1471 vua Lê Thánh Tông chỉ huy tấn công Chăm Pa, phá hủy kinh đô Vijaya, vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường tới Thăng Long. Lê Thánh Tông đã sáp nhập các địa khu Amaravati và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam.\nTheo sử Việt Nam, sau khi mất vùng Vijaya, một tướng Chăm là Bô Trì Trì chạy vào nam chiếm vùng Panduranga xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần với Đại Việt. Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (Hoa Anh) tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay và nước Nam Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên). Chính thất bại này đã dẫn đến việc người Chăm lần đầu tiên di cư với số lượng lớn sang Campuchia và Malacca.\nHoa Anh-Kauthara (1471 - 1611).\nNgười được vua Lê Thánh Tông phong vương xứ Kauthara (Hoa Anh) là Bàn La Trà Duyệt. Bàn La Trà Duyệt từng là đại quan trong triều đình Maha Vijaya. Bàn La Trà Duyệt ngầm xây dựng lực lượng nhằm giành lại Vijaya, mặt khác sai sứ sang nhà Minh trợ giúp, tuy nhiên bị thất bại và bị quân Lê Thánh Tông bắt vào năm 1490, đưa Trai Á Ma Phất Am (Jayavarman) lên ngôi vua Hoa Anh. \nNăm 1578, Lương Văn Chánh là tướng của chúa Nguyễn Hoàng cầm quân tiến vào Kauthara, vây và hạ Thành Hồ – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Champa, nằm tại huyện Phú Hòa, phía Tây thành phố Tuy Hòa ngày nay - đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chánh cũng đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn. Trong khoảng 3 năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỉ XVII, Panduranga từ phía Nam nhiều lần tái chiếm Kauthara, đuổi người Việt khỏi miền đất này.\nNăm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm, mà sử Việt gọi là Văn Phong, đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Sang năm 1653, nhân việc vua Chăm Pa là Po Nraop (Bà Tấm) quấy phá biên giới phía nam, chúa Nguyễn Phúc Tần đã gởi một đoàn quân sang tấn công Chăm Pa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop đưa về Huế. Trên vùng đất cũ của tiểu vương quốc Kauthara chúa Nguyễn Phúc Tần lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa và Vạn Ninh) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh, Nha Trang, Cam Lâm và Cam Ranh). Vậỵ là vào năm 1653 Kauthara hoàn toàn bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Kauthara thất thủ, đền Po Nagar ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước tượng Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một đền ở Mông Đức gần làng Hữu Đức (Phan Rang) bây giờ.\nPanduranga (1611 - 1698).\nPhần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa từ sau năm 1471 mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ đèo Cả ngày nay trở về nam, gồm hai địa khu Kauthara và Panduranga. Năm 1594 vua Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp sultan xứ Johor tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca.\nNăm 1611 Nguyễn Hoàng đã thực hiện cuộc Nam tiến đầu tiên sau khi trấn giữ Thuận Quảng. Tiến chiếm đất từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa) của vương quốc Chăm Pa khi đó đã suy yếu rất nhiều, lập thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Văn Phong trấn giữ.\nNăm 1629, Văn Phong liên kết với người Chăm Pa nổi lên chống lại chúa Nguyễn. Chúa Sãi cử Phó tướng Nguyễn Hữu Vinh đem quân dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.\nNăm 1631, chúa gả con gái là Ngọc Khoa (có sách gọi là Ngọc Hoa) cho vua Chăm Pa là Po Rome. Cuộc hôn phối này làm quan hệ Việt - Chăm diễn ra tốt đẹp\nNăm 1653, Bà Thấm quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền cho 3000 quân sang đánh, quân Nguyễn hạ được thành. Bà Thấm trốn chạy, sau phải dâng thư xin hàng, vùng phía đông sông đến địa đầu Phú Yên (vùng Kauthara) bị mất vào tay chúa Nguyễn, chỉ còn phần phía tây sông (vùng Panduranga) là thuộc về Chăm Pa.\nTới năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tấn công vào Panduranga, bắt vua Po Sout đưa về Phú Xuân và đưa em trai của Po Sout là Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) lên làm vua, Panduranga được đổi thành Thuận Thành Trấn và vua Chăm được gọi là Trấn Vương cai trị Thuận Thành Trấn với sự giám sát chặt chẽ của các quan lại của chúa Nguyễn. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1838 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn. Tuy nhiên, các đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận.\nThuận Thành Trấn (1693 - 1832).\nNgay sau khi Minh Mạng lên ngôi, ông phân bố lại hành chính, chia Bình Thuận trấn thành 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Minh Mạng hạn chế hơn nữa quyền lực của hoàng gia Chăm. Năm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can), vị vua cuối cùng của Champa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia.\nNăm 1832 người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp có cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở phía nam nhưng không thành công. Chính quyền tự trị hạn chế của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm 1832, khi Hoàng đế Minh Mạng đổi Thuận Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp. Lịch sử vương quốc Chăm Pa chính thức dừng lại ở đây.\nLịch sử miền đất Đêga Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm 1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) còn chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục thì vua Lê Thánh Tông phong cho dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương, đây là một quốc gia cổ sơ khai của người Giarai và Ê đê và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Đêga Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá của người Ê đê và Giarai tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc.\nĐịa lý.\nCương vực.\nTừ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15, lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa có nhiều biến động về biên giới phía bắc với Đại Việt. Lãnh thổ Chăm Pa ban đầu là vùng mà ngày nay bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Đến năm 1069, vua Rudravarman (Chế Củ) của Chăm Pa đã nhượng ba châu Địa Lý (Lệ Thủy, Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình ngày nay), Ma Linh (Bến Hải, Quảng Trị ngày nay) và Bố Chính (các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa tỉnh Quảng Bình ngày nay) cho vua Lý Thánh Tông của Đại Việt và lãnh thổ Chăm Pa chỉ còn từ nam Quảng Trị ngày nay trở xuống. Đến năm 1306, vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) nhượng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần. Nhà Trần đổi hai châu này thành hai châu Thuận và châu Hóa nay là vùng từ nam Quảng Trị cho đến Đà Nẵng, Điện Bàn. Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi đánh bại quân Chiêm và sáp nhập phần lớn lãnh thổ Chiêm đã xác lập lãnh thổ Chiêm chỉ bao gồm các tỉnh Phú Yên – Khánh Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay.\nVề phía tây, tuy lãnh thổ Chăm Pa bao gồm cả Tây Nguyên và đôi khi còn mở rộng sang tận Lào ngày nay, nhưng người Chăm vẫn duy trì lối sống của những người đi biển với các hoạt động thương mại đường biển, và chỉ định cư ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tách phần đất thuộc Tây Nguyên ngày nay thành nước Nam Bàn thành tiểu quốc gia sơ khai riêng cho người Giarai và Ê đê và từ đây miền đất này không còn thuộc cương vực của Chăm Pa.\nCác địa khu.\nKể từ năm 757, trên lãnh thổ Champa hiện diện 5 địa khu với tên gọi phát xuất từ lịch sử Ấn Độ. Vị trí và cương vực của mỗi lãnh địa như sau:\nVăn hóa nghệ thuật.\nVăn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đều có ảnh hưởng đến văn hóa Chăm Pa. Từ thế kỷ 4 vương quốc Phù Nam ở Campuchia và miền Nam Việt Nam ngày nay đã truyền bá văn minh Ấn Độ vào xã hội Chăm. Tiếng Phạn trở thành ngôn ngữ học thuật, và Ấn giáo, đặc biệt là Shiva giáo, trở thành quốc giáo. Từ thế kỷ 10, các thương nhân Ả Rập đã mang tôn giáo và văn hóa đạo Hồi vào khu vực. Chăm Pa có vai trò trung chuyển quan trọng trên con đường hồ tiêu từ vịnh Pec-xich tới miền nam Trung quốc và sau này là con đường thương mại trên biển của người Ả Rập, xuất phát từ bán đảo Đông Dương - nơi xuất khẩu trầm hương. Mặc dù giữa Chăm Pa và đế quốc Khmer luôn có chiến tranh, nhưng thương mại và văn hóa vẫn được giao lưu về cả hai phía. Hoàng gia của hai vương quốc cũng thường xuyên lấy lẫn nhau. Chăm Pa còn có quan hệ thương mại và văn hóa với các đế quốc hùng mạnh trên biển như Srivijaya và sau này với Majapahit trên bán đảo Mã Lai.\nTôn giáo, tín ngưỡng.\nTrước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1311, tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ. Ấn Độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Shiva giáo, tức là đạo thờ thần Shiva, và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng chính của tôn giáo Shiva của người Chăm là linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và kosa.\nViệc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh Quảng Nam ngày nay) theo Phật giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáo Chăm Pa thời Đồng Dương được công nhận là một trong những phong cách độc đáo.\nTrong thế kỷ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáo chính của Chăm Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáo và cũng là các công trình kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như Mỹ Sơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Chánh Lộ và Tháp Mẫm.\nHồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ 10, nhưng chỉ sau năm 1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ 17 thì hoàng gia Chăm đã theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắt đầu theo đạo này, và khi vùng đất này bị sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớn người Chăm ở đây đã theo đạo Hồi (xem Hồi giáo Chăm Bani). Phần lớn người Chăm đều là người Hồi giáo và cũng giống như người Java ở Indonesia, họ còn chịu nhiều ảnh hưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn ghi lại câu chuyện công chúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến chồng là Kertawijaya, người cai trị đời thứ bảy của Majapahit, tương tự như câu chuyện với Parameshwara, người đã cải đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit. Ngôi mộ của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn còn thấy ở Trowulan, nơi xưa kia là kinh đô của Majapahit.\nKiến trúc, điêu khắc.\nKiến trúc Chăm Pa được phân tích qua các tháp Chăm thờ các vị thần Ấn Độ giáo và các vị vua Chăm được hóa thần còn sót lại cũng như dấu tích của các tòa thành cổ, tu viện phật giáo thời Indrapura. Về phong cách kiến trúc điêu khắc các tháp được các nhà nghiên cứu thường chia ra làm nhiều thời kỳ, mỗi một thời kỳ có những thay đổi khác nhau, dấu ấn riêng biệt của người Chăm là kỹ thuật làm gạch kết dính để xây tháp và chạm trổ trên đá.\nCùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc Chăm Pa là một trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm cỡ thế giới. Tuy ảnh hưởng nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer nhưng điêu khắc Chăm Pa vẫn có những tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới tượng tròn của hầu như tất cả các hình chạm khắc dưới dạng phù điêu, trong điêu khắc Chăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn mạnh vào từng hình tượng, ví dụ như bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm thấy ở Trà Kiệu thể hiện bàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc của Chăm Pa mang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là đặc điểm quan trọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa.\nChữ viết, bia ký.\nVăn hóa Ấn Độ ảnh hưởng vào Chăm Pa từ những thời kỳ đầu, dẫn tới các trước tác về luật pháp, chính trị xã hội đều có mặt ở Chăm Pa, được các vua chúa Chăm áp dụng và ưa thích. Chữ bắc Phạn (Sanskrit) đã được người Chăm tiếp thu từ những thế kỷ đầu công nguyên, các chữ viết trên bia Võ Cạnh ở thế kỷ 3 với cách viết rất gần với kiểu viết của các bia ký vùng Amaravati ở Nam Ấn Độ, tuy nhiên chữ viết của Chăm Pa trong hơn 10 thế kỷ tồn tại của mình cũng liên tục thay đổi tương ứng với những thời kỳ ảnh hưởng từ các vùng khác nhau ở Ấn Độ, từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 8, chữ Phạn ở Chăm Pa có dạng tự vuông của vùng bắc Ấn, nhưng từ thế kỷ 9 trở đi chữ Phạn ở Chăm Pa lại có dạng tự tròn của vùng nam Ấn, có thể nhận định Chăm Pa là quốc gia đầu tiên có chữ viết sớm nhất Đông Nam Á. Xuất phát từ dạng tự của chữ Phạn, người Chăm đã bỏ các phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành một dạng chữ Phạn-Champa, theo các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (Akhar Thrah) của Ấn Độ.\nTheo thống kê của các học giả người Pháp vào năm 1923, số bia ký Chăm đã được biết là 170, tất cả các bia ký Chăm đều được khắc lên đá thành những tấm bia to và đẹp và một số bia ký khác được khắc lên tường của các tháp Chăm. Các văn bia cổ Chăm Pa là những văn bản gần như duy nhất thể hiện ý tưởng của các vị vua và triều đình, trong số 123 bia ký có thể hiểu được nội dung thì 92 bia nói về Shiva giáo, 5 bia về thần Brahma, 3 bia về thần Visnu, 7 bia về đức Phật và 21 bia không rõ tính tôn giáo.\nVăn học, ghi chép.\nDo chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ cho nên ý nghĩa văn chương được thể hiện trong các bia ký, các tác giả bia ký cố gắng dùng lời lẽ văn hoa, nhiều điển tích và ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện ý tưởng của mình, vì thế mà văn bia Chăm Pa là một mảng quan trọng nhất của văn học Chăm Pa, các bia ký Chăm Pa bằng chữ Phạn được viết chủ yếu theo những thể thơ của Ấn Độ, văn học Ấn Độ qua hình thức truyền khẩu trong dân gian chắc cũng có mặt ở Chăm Pa, điều này được thế hiện qua việc người Chăm dựng đền thờ Rsi Valmiki, người được coi là tác giả của sử thi Ramayana cũng như các bức phù điêu thể hiện các nhân vật có trong sử thi Ramayana như chàng Rama, nàng Sita. Ngoài bộ sử thi Ramayana, các bộ sử thi khác của Ấn Độ cũng được phổ biến ở Chăm Pa như bộ Mahabharata và thậm chí là truyện ngụ ngôn Ấn Độ qua bộ Bhagavata.\nTheo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là \"Ying-yai Sheng-lan\" (Doanh nhai thắng lãm), thì văn bản ghi chép trong xã hội Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả: \nÂm nhạc, ca múa.\nÂm nhạc và ca múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, ở các tín ngưỡng như lễ năm mới \"Rija Nagar\", lễ \"Kate\" vào tháng 7 Chăm lịch, lễ cầu đảo, lễ mở cửa tháp. Việc dùng các hình thức nhạc cụ tùy thuộc vào tính chất các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau. Trống \"Baranâng\" và trống \"gineng\" là loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn \"Saranai\" có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng rất phong phú và độc đáo, người Chăm có các điệu múa khác nhau như: múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể, múa độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng.\nTổ chức xã hội.\nCho đến nay, các công trình nghiên cứu dân tộc học và điền dã cũng như tổng quan các nghiên cứu về xã hội người Chăm đều tập trung vào người Chăm hiện đại. Đến nay chưa có một công trình nghiên cứu lịch sử nào, nhất là các công trình dựa trên khảo cứu văn bia hay văn tịch cổ của người Chăm cho ra các kết luận khách quan có chứng cứ về xã hội Chăm Pa cổ, tuy nhiên từ những sử liệu, bia ký rời rạc chúng ta có thể điểm được một số yếu tố trong tổ chức xã hội Chăm Pa.\nLuật pháp.\nCác bia ký và các tác phẩm điêu khắc không thể hiện cho thấy bất kỳ một thiết chế luật pháp nào, tuy nhiên qua ghi chép của Mã Đoan tới đây vào đầu thế kỷ 15 có thể cho chúng ta thấy một phần nào về luật pháp của Chăm Pa thời kỳ đó:\nHệ thống đẳng cấp.\nMột số nghiên cứu dựa trên nền văn hóa Ấn hóa của người Chăm đều trình bày xã hội dưới dạng các đẳng cấp (\"caste\") trong kinh Vệ Đà trước khi đi vào khảo cứu các di tích văn hóa nghệ thuật Chăm Pa còn lại. Theo đó, xã hội Vệ Đà có bốn đẳng cấp, đứng đầu là đẳng cấp giáo sĩ Brahman chuyên về thờ cúng, tiếp theo là đẳng cấp Ksatria tức chiến binh có nhiệm vụ bảo vệ các đẳng cấp kia. Các học giả hiện đại theo xu hướng nghiên cứu thực chứng đã tỏ ra dè dặt hơn và không đề cập gì từ phương diện nghiên cứu sử học, nhất là từ các tài liệu văn bia về cơ cấu xã hội của Chăm Pa cổ. Các sự kiện lịch sử, như việc Lưu Kế Tông, một người Việt chứ không phải người Chăm làm vua Chăm Pa cho dù chỉ có ba năm (983-986) rồi bị người Chăm đoạt lại vương vị cũng chứng tỏ cơ cấu xã hội Chăm Pa cổ phức tạp hơn trong kinh Vệ Đà nhiều. Tóm lại, việc xem xã hội Chăm Pa cổ là xã hội Vệ Đà với bốn đẳng cấp như ở Ấn Độ cổ (hay năm đẳng cấp với đẳng cấp thứ năm là ngoại nhân) cần được nhìn nhận rất thận trọng vì chưa có công trình nghiên cứu nào từ cứ liệu văn khắc Chăm cổ chứng minh.\nChế độ mẫu hệ.\nNhiều học giả trong nước trên cơ sở nghiên cứu chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại của người Chăm hiện nay và trên cơ sở nghiên cứu cụ thể các cặp linga-yoni, đặc biệt là linga phân tầng, cả linga phân làm ba tầng thể trimutri (ba thể của Thượng đế) và hai tầng (linga và yoni - âm và dương) được đặt trên bệ đá hình vuông có khe để nước chảy thoát ra chính là yoni được đặt bên dưới linga, thì cho rằng ở xã hội Chăm cổ vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũng rất to lớn. Tuy nhiên, cũng giống như ở trên, đấy mới chỉ là một suy luận chứ chưa có các tài liệu văn bia chứng minh và chưa có công trình nghiên cứu lịch sử dựa trên các văn khắc Chăm cổ nào đề cập đến việc này.\nThể chế chính trị.\nNền quân chủ.\nVương quốc Chăm Pa bị diệt vong, di tích để lại cũng như những ghi chép từ sử liệu không đủ để xác định tất cả các đời vua và các thông tin chi tiết về năm cai trị của tất cả các vua. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu, trong đó có cả các bia khảo cổ, di tích của người Chăm, tới nay xác định được khoảng 10 triều đại với gần 100 vị vua Chăm Pa.\nMột số vua Chăm Pa được gọi tên phiên âm theo tiếng Hán, theo cách gọi của các thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc. Một số vị có tên Chăm được phục hồi qua đối chiếu tên bằng tiếng Phạn và tiếng Hán, như \"Cambhuvarman\" tức \"Phạm Phan Chí\" hoặc \"Kandharpadjarma\" tức \"Phạm Đầu Lê\"..., do được xuất hiện trong cả bi ký Chăm và thư tịch Hán.\nHệ thống Mandaladasia.\nCác học giả hiện đại quan niệm thể chế chính trị và hành chính của vương quốc Chăm Pa theo hai thuyết đối lập nhau. Mặc dù các học giả đều thống nhất việc vương quốc Chăm Pa bị chia nhỏ thành bốn địa khu (Panduranga, Kauthara, Vijaya, Amaravati) chạy từ nam lên bắc dọc theo bờ biển Việt Nam ngày nay và được thống nhất bởi ngôn ngữ, văn hóa và di sản chung. Tuy nhiên, các học giả không thống nhất việc các địa khu này có cùng thuộc một thực thể chính trị đơn nhất, hay là các địa khu hoàn toàn độc lập với nhau như là các tiểu quốc. Nhiều tác giả quan niệm Chăm Pa là một liên bang bao gồm nhiều tiểu quốc, tuy có chính quyền trung ương thống nhất nhưng các tiểu vương hoàn toàn tự quyết cai trị tiểu quốc của mình. Một thực tế là không phải lúc nào các tài liệu lịch sử cũng phong phú đối với mỗi địa khu ở tất cả các giai đoạn. Ví dụ, vào thế kỷ 10, tài liệu về Indrapura rất phong phú trong khi ở thế kỷ 12 lại rất giàu tài liệu về Vijaya; còn sau thế kỷ 15 thì tài liệu về Panduranga rất phong phú. Một số học giả xem việc biến động của các tài liệu lịch sử trên là phản ánh việc di dời của thủ đô Chăm Pa và quan niệm Chăm Pa nếu không phải là một thể chế chính trị đơn nhất thì cũng là một liên bang các tiểu quốc và việc tài liệu phong phú chính minh chứng cho điều này là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả nhận thấy, thế kỷ 10 tài liệu về Indrapura rất phong phú, có lẽ xuất phát từ lý do đây là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả khác không nhất trí như vậy và cho rằng Chăm Pa chưa bao giờ là một quốc gia thống nhất và không cho rằng việc giàu cứ liệu ở một giai đoạn lịch sử là cơ sở để cho rằng đó là thủ đô của quốc gia thống nhất.\nKinh tế.\nTrong khi có nhiều công trình nghiên cứu về đời sống, hoạt động kinh tế và cơ cấu, tổ chức và các mặt khác nhau của người Chăm hiện đại thì chưa có những công trình nghiên cứu như vậy cho vương quốc Chăm Pa cổ. Lý do cũng thật dễ nhận thấy vì những gì thuộc về thượng tầng kiến trúc là những thứ khó còn lại với thời gian và sử liệu về một vương quốc có thời đã dựng nền những đền tháp rực rỡ chạy dài suốt ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay cũng chỉ còn qua các phế tích.\nQua các công trình nghiên cứu lịch sử, các tác giả cho rằng nền kinh tế Chăm Pa xưa chủ yếu dựa vào các hoạt động nông nghiệp, sản xuất đồ thủ công và thương mại. Các dấu vết còn lại ở miền Trung Việt Nam của những hệ thống thủy lợi phức tạp và những giống lúa có chất lượng cao đặc trưng riêng của miền Trung được xem là các bằng chứng của một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển cao.\nVương quốc Chăm Pa xưa có được vị trí thuận lợi cho sự phát triển thương mại đường biển. Các cảng biển của vương quốc là những điểm trung chuyển giao lưu hàng hóa quốc tế cũng như để xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu từ khai thác rừng ở miền thượng của các đồng bằng ven biển và Tây Nguyên. Từ thế kỷ 10, các cảng của Chăm Pa đã được biết đến như là những thương cảng quan trọng trên Biển Đông, nằm trên hành trình thương mại đường biển giữa phương Đông và phương Tây vẫn được gọi là \"Con đường tơ lụa trên biển\". Các sản phẩm xuất cảng của Chăm Pa là sản phẩm của sản xuất đồ thủ công như các đồ gốm sứ, đất nung và cả các sản phẩm khai thác miền rừng như sừng tê, ngà voi, và đặc biệt là trầm hương, và cả của hoạt động khai thác tổ yến trên các đảo ngoài khơi.\nVề phương tiện thanh toán trong giao dịch thương mại, Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là \"Ying-yai Sheng-lan\" (Doanh nhai thắng lãm), thì giao dịch thời kỳ này được miêu tả: \nDân tộc dân cư.\nNgười Chăm trong thời vương quốc Chăm Pa lịch sử bao gồm hai bộ tộc chính là bộ tộc Dừa (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa). Bộ tộc Dừa sống ở Amaravati và Vijaya trong khi bộ tộc Cau sống ở Kauthara và Pandaranga. Hai bộ tộc có những cách sinh hoạt và trang phục khác nhau và có nhiều lợi ích xung đột dẫn đến tranh chấp thậm chí chiến tranh. Nhưng trong lịch sử vương quốc Chăm Pa các mối xung đột này thường được giải quyết để duy trì sự thống nhất của đất nước thông qua hôn nhân.\nBên cạnh người Chăm, chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa còn có cả các tộc người thiểu số gốc Nam Đảo và Mon-Khmer và ở phía Bắc Chăm Pa còn có cả người Việt.\nDi sản ngày nay.\nRất nhiều tháp cổ của người Chăm vẫn còn ở miền Trung Việt Nam. Một điển hình về kiến trúc là thánh địa Mỹ Sơn gần Hội An. Thánh địa Mỹ Sơn bị bom Mỹ hủy hoại nặng nề trong chiến tranh nhưng đã được phục chế lại sau chiến tranh từ thập niên 1980 với những đóng góp to lớn của kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997). Năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.\nNgoài ra còn có các di tích tháp Chăm ở miền Trung vẫn được cộng đồng người Chăm hiện nay sử dụng để thờ tự như:\nCác hiện vật điêu khắc Chăm phong phú nhất có tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng (trước đây là \"Musée Henri Parmentier\") ở thành phố biển Đà Nẵng. Viện bảo tàng được thành lập từ năm 1915 bởi học giả người Pháp và đến nay vẫn được xem là một trong những bảo tàng lớn ở Đông Nam Á. Các hiện vật Chăm cũng có mặt tại các viện bảo tàng khác như:", "Lịch sử Chăm Pa là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (\"Campanagara\") và Thuận Thành (\"Nagar Cam\"), thành lập từ năm 192 và kết thúc vào năm 1832.\nTrước thế kỷ thứ II, vùng đất của vương quốc Chăm Pa cổ đã được nhắc đến với tên Hồ Tôn Tinh (trong truyền thuyết), rồi tên huyện Tượng Lâm (thuộc quận Nhật Nam thời nhà Hán) khi nằm dưới sự thống trị của Trung Quốc. Lãnh thổ này được ghi nhận là từ miền Trung trở vào miền Nam Việt Nam, thay đổi tùy thời kỳ. Từ 1694 đến 1832, chúa Chăm Pa (Trấn vương Thuận Thành) nằm dưới sự đô hộ của các chúa Nguyễn, vua nhà Tây Sơn và vua nhà Nguyễn cho đến lúc bị sáp nhập hoàn toàn.\nLịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính:\nTên gọi Chăm Pa.\nDanh xưng Champa xuất hiện đầu tiên trong các bia ký vào thế kỷ thứ VII. Bia ký C96 ở Mỹ Sơn năm 658 đề cập đến danh từ \"Campapuryyam\" (thành bang Champa), \"Campapura-pamesvara\" (chúa tể của thành bang Champa) và \"Campanagara\" (Vương quốc Champa). Bia C73 tại Mỹ Sơn nhắc đến danh từ \"Campadesa\" (người mang lại thịnh vượng cho Champa). Danh xưng Champa còn xuất hiện qua văn bia vua Kandarpadharma tại Huế. Tại Angkor, một bia ký của Đế chế Khmer ghi nhận vào năm 657, người trị vì Champa (Campesvara) đã sai sứ bộ đến Campuchia.\nThời tiền sử.\nNgười dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ I và thứ II trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (\"Austronesian\").\nVăn hóa Sa Huỳnh.\nVăn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại Đồng Thau rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200 công nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.\nNhà nước Lâm Ấp.\nTheo tài liệu lịch sử Trung Quốc, nhà nước Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên là vương quốc Lâm Ấp bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công.\nTừ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Các học giả đã xác định thời điểm bắt đầu của Chăm Pa là thế kỷ thứ IV Công nguyên, khi quá trình Ấn hóa đang diễn ra. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.\nVị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361. Ở thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó.\nVào thời Bhadravarman, kinh đô của Lâm Ấp là kinh thành Simhapura (\"thành phố Sư tử\"), nằm ở dọc hai con sông và bao quanh bởi tường thành có chu vi dài đến tám dặm. Theo ghi chép lại của một người Trung Quốc thì người Lâm Ấp vừa ưa thích ca nhạc nhưng cũng lại hiếu chiến, và có \"mắt sâu, mũi thẳng và cao, và tóc đen và xoăn\".\nCũng theo tài liệu Trung Quốc, Sambhuvarman lên ngôi vua Lâm Ấp năm 529. Các tài liệu cũng mô tả vị vua này đã cho khôi phục lại ngôi đền thờ Bhadresvara sau một vụ cháy. Sambhuvarman cũng đã cử sứ thần sang cống tuế Trung Quốc, và đã xâm lược không thành phần đất mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam. Năm 605, tướng Lưu Phương nhà Tùy xâm lược Lâm Ấp, và đã chiến thắng sau khi dụ tượng binh của Lâm Ấp đến và tiêu diệt tại trận địa mà trước đó ông đã cho đào nhiều hố nhỏ và phủ cỏ lên. Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc.\nCác tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756 Công nguyên. Sau đó trong một thời gian dài, các sách sử Trung quốc gọi Chăm Pa là \"Hoàn Vương\". Tài liệu Trung Quốc sớm nhất sử dụng tên có dạng \"Chăm Pa\" là vào năm 877, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là từ năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là từ năm 657.\nHoàn Vương.\nTừ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ X, người Chăm kiểm soát việc buôn bán hồ tiêu và tơ lụa giữa Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và đế quốc Abbassid ở Baghdad. Người Chăm còn bổ sung thêm cho nguồn thu nhập của mình từ thương mại, không chỉ bằng việc xuất khẩu ngà voi và trầm hương mà còn bằng cả các hoạt động cướp phá trên biển và các nước láng giềng ven biển.\nThánh địa Mỹ Sơn.\nVào nửa cuối thế kỷ thứ VII, các ngôi đền của hoàng gia bắt đầu được xây dựng tại Mỹ Sơn. Tôn giáo chính lúc này là thờ thần Shiva nhưng các ngôi đền cũng thờ cả thần Vishnu. Các học giả gọi phong cách kiến trúc thời kỳ này là phong cách Mỹ Sơn E1, để chỉ các di tích ở Mỹ Sơn điển hình theo phong cách này. Các công trình còn đến nay của phong cách này bao gồm bệ đá hình linga được biết với tên gọi là bệ đá Mỹ Sơn E1 và phần trán tường có hình Brahma được sinh ra từ hoa sen nở từ rốn của thần Vishnu đang ngủ.\nTrong một văn bia khắc năm 657 tìm thấy ở Mỹ Sơn, vua Prakasadharma, người lấy hiệu là Vikrantavarman I, đã tự xưng có bên ngoại là hậu duệ của Brahman Kaundinya và công chúa rắn Soma, người theo truyền thuyết cũng là thủy tổ của người Khmer. Chính văn bia này đã cho thấy mối quan hệ về văn hóa và chủng tộc giữa vương quốc Chăm Pa và đế quốc Khmer. Bia được khắc nhân dịp vua cho dựng tượng đài, có lẽ là linga, cho thần Shiva. Một văn bia khác mô tả lời cầu nguyện chân thành của vua khi hiến tế cho Shiva: người là nguồn khởi thủy của sự kết thúc vĩnh viễn sự sống, điều rất khó đạt được; mà bản chất thực sự nằm ngoài suy nghĩ và lời nói của con người, tuy nhiên những ai mà ý niệm tương đồng với vũ trụ thì hình thái của người sẽ hiện ra.\nThời hưng thịnh của Kauthara.\nVào thế kỷ thứ VIII, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã tạm thời chuyển từ Mỹ Sơn xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với trung tâm ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Bà - Po Nagar ở gần Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java lại đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga.\nChiêm Thành.\nTriều đại Phật giáo ở Indrapura.\nNăm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (thành Đồng Dương, ở huyện Thăng Bình, Việt Nam ngày nay). Vua Indravarman tự xưng là hậu duệ của Bhrigu trong sử thi Mahabharata, và quyết đoán rằng chính kinh thành Indrapura đã từng được chính Bhrigu ở thời cổ đại xây dựng nên.\nIndravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ bồ tát Lokesvara (Quán Thế Âm). Di tích này đã bị hủy hoại trong chiến tranh Việt Nam, chỉ còn lại một số hình ảnh và bản vẽ từ trước chiến tranh. Một số tượng đá từ tu viện cũng được gìn giữ tại các viện bảo tàng ở Việt Nam. Các học giả đã gọi phong cách nghệ thuật điển hình tại Indrapura là phong cách Đồng Dương. Phong cách đặc trưng bởi tính năng động và tính hiện thực về mặt dân tộc học khi mô tả người Chăm. Các tác phẩm còn lại của phong cách này có một số bức tượng dvarapala hay hộ pháp rất dữ tợn trước đây được đặt ở quanh tu viện. Thời kỳ Phật giáo thống trị, Chăm Pa kết thúc năm 925, lúc phong cách Đồng Dương đã bắt đầu nhường bước cho các phong cách tiếp theo có mối liên hệ với sự phục hồi của đạo thờ thần Si-va.\nCác vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ thứ IX và thứ X. Các đền tháp này ở Mỹ Sơn đã xác định một phong cách kiến trúc và nghệ thuật khác mà các học giả gọi là phong cách Mỹ Sơn A1, dùng để chỉ tất cả các di tích ở Mỹ Sơn điển hình cho phong cách này. Với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Si-va giáo vào khoảng thế kỷ thứ X, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn.\nChăm Pa đạt đến đỉnh cao của văn minh Chăm ở Indrapura nằm tại khu vực Đồng Dương và Mỹ Sơn ngày nay. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Khmer ở phía Tây và Nam.\nLịch sử Bắc Chăm Pa (Indrapura và Vijaya) phát triển đồng thời với vương quốc láng giềng là nền văn minh Angkor của người Khmer nằm ở phía bắc hồ lớn Tonle Sap trên phần đất mà ngày nay là Campuchia. Sau khi vương triều Chăm ở Indrapura được thiết lập năm 875 thì chỉ hai năm sau tức năm 877 tại Roluos, vua Indravarman I đã thiết lập đế quốc Khmer. Lịch sử của Chăm Pa và đế quốc Khmer cũng đều phát triển rực rỡ trong thế kỷ X đến thế kỷ XII, rồi đều dần suy yếu và tan rã vào thế kỷ thứ XV. Năm 1238, đế quốc Khmer mất miền đất phía tây xung quanh Sukhothai sau một cuộc nổi dậy của người Xiêm. Thành công của cuộc nổi dậy không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập của người Xiêm mà còn báo trước sự tan rã của Angkor năm 1431 sau khi bị người Xiêm từ vương quốc Ayutthaya phá hủy và rồi bị sáp nhập vào Sukhothai năm 1376. Sự suy yếu của Chăm Pa cũng diễn ra đồng thời với Angkor, dưới sức ép từ Đại Việt, quốc gia nằm ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, và chấm hết khi kinh thành Vijaya (tức Chà Bàn) bị người Việt chinh phục và phá hủy vào năm 1471.\nKhmer xâm lăng Kauthara.\nNăm 944 và 945, quân đội Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara. Khoảng năm 950, người Khmer đã phá hủy đền Po Nagar và lấy đi tượng nữ thần. Năm 960, vua Chăm là Jaya Indravaman I đã cử sứ thần sang nhà Tống (lúc này đóng đô ở Khai Phong). Năm 965, nhà vua đã cho xây dựng lại đền thờ Po Nagar và tượng nữ thần để thay thế cho bức tượng đã bị lấy đi.\nChiến tranh với Đại Cồ Việt.\nVào nửa cuối thế kỷ thứ X, các vua của triều đại Indrapura đã tiến hành chiến tranh với Đại Cồ Việt. Trước đó, An Nam (Việt Nam) đã tách ra độc lập, chấm dứt danh nghĩa là một phiên thuộc Trung Quốc. Sau khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, đất nước lại trải qua thời kỳ loạn các sứ quân và được Đinh Bộ Lĩnh thống nhất năm 968 với quốc hiệu Đại Cồ Việt và kinh đô ở Hoa Lư thuộc địa phận Trường Yên tỉnh Ninh Bình ngày nay.\nNăm 979, vua Chăm là Parameshvaravarman I (sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi là Bê Mi Thuế) đã cử hạm đội sang tấn công Hoa Lư. Tuy nhiên, toàn bộ quân viễn chinh đã bị tan rã sau một cơn bão. Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt đã cử ba sứ thần sang Indrapura. Sau khi các sứ thần bị giam giữ, vua Lê Hoàn đã quyết định đánh Chăm Pa. Quân Đại Việt đã chiếm Indrapura và giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt thời Lý gọi là Phật Thệ.\nNăm 983, một quản giáp người Kinh tên Lưu Kỳ Tông nổi lên giết chết quan cai trị trực tiếp nhà Lê, xây sửa thành Phật Thệ, rồi mộ hơn 10.000 người và nhiều voi ngựa đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành tiến quân xuống đánh nhưng đại quân của nhà Tiền Lê chịu không nổi sương lam chướng khí phải rút về. Năm 986, hay tin vua Indravarman IV của người Chăm từ trần, Lưu Kỳ Tông liền tự xưng vương và xin nhà Tống thừa nhận. Vua Lê Kỳ Tông làm vua xứ Champa từ năm 986 cho đến khi bị lật đổ bởi vua Harivarman II vào năm 989.\nChiến tranh với nhà Lý.\nMâu thuẫn giữa Champa và Đại Việt đã không chấm dứt với việc người Chăm từ bỏ kinh đô Indrapura. Champa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021 và 1026. Năm 1044, một trận đại chiến diễn ra giữa Đại Việt và Champa đã dẫn đến cái chết của vua Jaya Simhavarman II (sách sử Việt gọi là Sạ Đẩu) và việc vua Lý Thái Tông của Đại Việt trực tiếp chỉ huy cuộc triệt hạ kinh đô Vijaya. Quân Việt mang về nước voi, nhạc công và cả hoàng hậu Mỵ Ê, người đã nhảy xuống sông tự tử trên đường về Thăng Long. Từ đó, Champa bắt đầu nộp cống cho các vua Đại Việt, và vào năm 1065 đã cống nạp một con tê giác trắng. Năm 1068, vua Vijaya là Rudravarman III (tức Chế Củ) lại tấn công Đại Việt để trả thù trận thua năm 1044. Một lần nữa vương quốc Champa bị thất bại và Đại Việt lại chiếm và đốt phá kinh đô Vijaya. Kinh đô Vijaya bị đốt phá một lần nữa vào năm 1069, khi tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy hải quân tấn công Champa và chiếm Vijaya. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính lấy tự do. Lợi dụng tình hình chiến sự, các thủ lĩnh người Chăm ở phía Nam đã dựng lên một vương quốc độc lập. Đến năm 1084, các vua Bắc Champa mới có thể tái thống nhất đất nước. Trong năm 1075, quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy lại tấn công Champa nhưng không thắng được và phải rút quân về. Tuy không thắng nhưng Lý Thường Kiệt đã cho vẽ họa đồ ba châu mới lấy được và đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh và đồng thời chiêu mộ dân chúng đến đấy ở.\nKhmer xâm chiếm Bắc Champa.\nNăm 1074, vua Harivarman IV lên ngôi đã cho phục dựng lại các đền tháp ở Mỹ Sơn và mở ra một thời kỳ thịnh vượng ngắn ngủi. Harivarman thiết lập quan hệ hòa bình với Đại Việt nhưng lại mở ra cuộc chiến với người Khmer của đế chế Angkor. Năm 1080, quân đội Khmer đã tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Champa. Các đền tháp và tu viện đã bị phá hủy; các di sản văn hóa đã bị lấy đi. Sau những thất bại này, quân Champa dưới sự chỉ huy của vua Harivarman đã đẩy lùi quân địch, khôi phục lại kinh đô và các đền tháp.\nKhoảng năm 1080, một triều đại mới đã ra đời ở cao nguyên Korat trên đất Thái Lan ngày nay đã chiếm ngai vàng Angkor của đế quốc Khmer. Ngay sau đó, các vua của triều đại mới đã tiến hành mở rộng đế quốc. Sau thất bại của các cuộc tấn công Đại Việt năm 1132 và 1137, các vua Angkor đã quay sang Chăm Pa. Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người đã xây dựng Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và chiếm toàn bộ miền Bắc Champa. Tuy nhiên, năm 1149, vua Jaya Harivarman, lãnh đạo của tiểu quốc Panduranga ở phía Nam, đã đánh bại quân xâm lược và lên ngôi vua của các vua tại Vijaya. Ông đã dành thời gian trị vị còn lại để đàn áp các cuộc nổi loạn tại Amaravati và Panduranga.\nNgười Chăm tấn công Angkor.\nNăm 1167, Jaya Indravarman IV (sử Việt gọi ông là Chế Chí) lên ngôi vua Chăm Pa. Tài liệu văn bia mô tả ông dũng cảm, sử dụng thành thạo mọi loại vũ khí, và thông hiểu triết học, thuộc hết các lý lẽ Dharmasutra (một kinh Ấn Độ giáo) và các học thuyết Phật giáo Đại thừa. Sau khi thiết lập hòa bình với Đại Việt năm 1170, vua Jaya Indravarman đã đánh sang Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ lớn Tonle Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm.\nNgười Khmer chinh phục Vijaya và nội chiến.\nNgười Khmer nhanh chóng ủng hộ nhà vua mới Jayavarman VII người đã đẩy lùi quân Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Khi Jaya Indravarman IV một lần nữa tấn công Khmer năm 1190, Jayavarman VII đã giao cho một hoàng tử người Chăm là Vidyanandana làm tổng chỉ huy quân Khmer. Vidyanandana đã đánh bại quân xâm lược Chăm và thậm chí tiến lên chiếm Vijaya và bắt sống vua Jaya Indravarman về Angkor.\nSau khi chinh phục Vijaya, vua Khmer chọn người em rể là Hoàng tử In làm vua bù nhìn ở Chăm Pa. Nội chiến nổ ra tại Chăm Pa giữa các phe phái Vijaya và Panduranga. Cuối cùng Hoàng tử In chiến thắng nhưng lại tuyên bố Chăm Pa độc lập khỏi vương quốc Khmer. Quân Khmer đã cố gắng chiếm lại Chăm Pa nhưng không thành trong suốt những năm 1190. Năm 1203, cuối cùng thì tướng của vua Jayavarman VII cũng chiếm được Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220. Jaya Paramecvaravarman II lên ngôi năm 1226, từ đây người Chân Lạp tự ý rút khỏi Champa. Sau đó, Vijaya đi vào giai đoạn suy thoái kéo dài hơn hai thế kỷ. Thời kỳ này đi đến kết thúc bởi Đại Việt và chỉ có một gián đoạn ngắn ngủi trong những cố gắng quân sự của vua Che Bonguar.\nCuộc xâm lược của quân Nguyên Mông.\nNăm 1270, Kublai Khan dựng nên nhà Nguyên ở Bắc Kinh và dần dần chiếm hết miền Nam Trung Quốc do nhà Nam Tống cai trị. Năm 1280, Kublai Khan quay sang thôn tính Chăm Pa và Đại Việt. Năm 1283, quân Nguyên dưới sự chỉ huy của tướng Sogetu đánh Chăm Pa và chiếm kinh thành Vijaya. Việc xâm lược Chăm Pa không có kết quả lâu dài. Thay vì tấn công trực diện, vua Chăm đã cho rút quân lên Tây Nguyên và tiến hành chiến tranh du kích. Hai năm sau, quân Nguyên phải rút lui và Sogetu bị giết trên đất Đại Việt trong một trận chiến khác trên đường rút quân về.\nJaya Simhavarman III.\nNăm 1307, vua Chăm là Jaya Simhavarman III (sử Việt gọi là Chế Mân), đã dựng đền thờ Po Klaung Garai ở Panduranga (Phan Rang), và nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Không lâu sau hôn lễ, nhà vua băng hà, Đại Việt cử người cướp công chúa trở về để tránh bị hỏa táng theo tục lệ của người Chăm. Tuy nhiên phần đất hồi môn của Chế Mân đã không trở về với Chăm Pa. Để giành lại miền đất này, và nhân cơ hội Đại Việt suy yếu trong thế kỷ thứ XIV, quân Chăm bắt đầu thường xuyên xâm nhập biên giới vào sâu trong đất Đại Việt ở phía Bắc.\nChế Bồng Nga.\nVị vua hùng mạnh cuối cùng của vương quốc Chăm Pa là Chế Bồng Nga. Không có văn bia Chăm Pa nào đề cập đến ông và Biên Niên Sử cũng không ghi chép về ông. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1491), ông cai trị từ năm 1360 đến năm 1390. Ông tấn công vào Đại Việt nhiều lần.\nQuân đội Chăm Pa đã đánh phá Thăng Long vào các năm 1372 và 1378. Trong lần tấn công cuối cùng của Quân đội Chăm Pa vào lãnh thổ nhà Trần là vào năm 1389. Tuy lúc đầu bị quân đội nhà Trần do Hồ Quý Ly chỉ huy chặn lại, nhưng sau đó do dùng mưu dụ quân đội nhà Trần truy kích mà Quân đội Chăm Pa tiến lên thắng lớn. Nhờ có mưu kế của tướng Nguyễn Đa Phương nên quân đội nhà Trần mới có thể rút lui bảo toàn lực lượng. Quân đội Chăm Pa dưới sự chỉ huy của Chế Bồng Nga và La Khải theo hai đường thủy bộ tiến đến tận Hải Triều (khúc sông Luộc chảy qua huyện Phù Tiên, Hải Hưng và huyện Hưng Hà, Thái Bình ngày nay). Tại đây, sau trận thủy chiến với Trần Khát Chân, Chế Bồng Nga đã chết tại trận, La Khải bèn nhân cơ hội rút quân về nước tự lập làm vua. Đó là năm 1390. Đây là lần tấn công cuối cùng của quân đội Chiêm Thành vào Đại Việt nhưng cũng đã đủ để đặt dấu chấm hết cho nhà Trần.\nXung đột với nhà Hồ.\nNăm 1391, Hồ Quý Ly đem đại quân tới tận biên giới Việt - Chăm và cử Hoàng Phụng Thế đem quân tấn công Chăm Pa nhưng quân Chăm Pa đặt mai phục thắng lớn khiến toàn quân Việt tan vỡ chỉ có Phụng Thế thoát được về. Ngay trong năm đó Quý Ly cũng rút quân về.\nĐến năm 1402, Hồ Hán Thương lại đem quân đi đánh Chăm Pa. Tiền quân Việt do viên tướng người Chăm là Chế Đa Biệt (tên Việt là Đinh Đại Trung) giao tranh quyết liệt với quân Chăm do Chế Tra Nan chỉ huy khiến hai bên đều tổn thất, cả hai viên tướng đều bị chết nhưng cũng làm cho vua Chăm là Jaya Indravarman VII (sách sử Việt gọi là Ba Đích Lại) (là con của La Ngai) phải nhường đất Chiêm Động (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Thăng và Hoa, nay là đất các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam) và cả đất Cổ Lũy (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Tư và Nghĩa nay là các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi) cho nhà Hồ.\nNăm 1403, Hồ Hán Thương lại giao Nguyên Khôi thống lĩnh quân thủy bộ tiến đánh Chăm Pa nhưng vì lương thực tiếp tế không đủ lại có hải quân Minh giúp quân Chăm nên phải rút quân về.\nNăm 1407, nhân khi quân Minh sang xâm lược Đại Việt, quân Chăm Pa cũng tấn công Đại Việt và lấy lại được đất cũ (Chiêm Động và Cỗ Lũy). Tướng Minh là Trương Phụ tiêu diệt các lực lượng chống đối của tàn dư nhà Hồ, giết tướng Hoàng Hối Khanh và thu hàng tướng Đặng Tất; đất đai Trương Phụ thu về nhà Minh chỉ đến Hoá châu, không tiến xuống vùng đất Chăm Pa vừa lấy lại.\nĐại Việt chinh phục và tàn phá Vijaya.\nNăm 1446, quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Trịnh Khả, Lê Thụ và Lê Khắc Phục đã tấn công Chăm Pa. Cuộc tấn công kết thúc thắng lợi và thành Vijaya mà người Việt thời Lê gọi là thành Chà Bàn (hay Đồ Bàn) rơi vào tay quân Việt. Quân Việt cũng bắt sống vua Chăm là Bí Cai (Bichai) và mang về Thăng Long cùng với nhiều phi tần. Tuy nhiên năm sau quân Việt đã bị đẩy lùi.\nNăm 1470, quân Đại Việt do vua Lê Thánh Tông trực tiếp chỉ huy lại tấn công Chăm Pa. Quân Đại Việt lúc này đã rất mạnh và có tổ chức tốt. Ngược lại quân Chăm rất yếu và thiếu tính tổ chức. Thủy quân Đại Việt do các tướng Đinh Liệt và Lê Niệm chỉ huy tấn công trước. Lê Thánh Tông dẫn đại quân theo sau. Tháng 2 năm đó, vua Chăm là Trà Toàn cử em đem tượng binh và bộ binh đến sát trung quân của vua Lê Thánh Tông. Các tướng Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiêm, Lê Thế và Trịnh Văn Sái đem thủy quân chắn giữ cửa biển Sa Kỳ (nay là huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi) chặn lối rút của quân Chăm. Vua Lê Thánh Tông dẫn thủy quân tiến đánh quân Chăm ở cửa Áp (tức cửa Tân Áp, sau là cửa Đại Áp ở huyện Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam) và cửa Tọa (tức cửa Cựu Tọa sau là cửa Tiểu Áp cách cửa Đại Áp hơn 7 dặm). Đồng thời bộ binh Đại Việt do Nguyễn Đức Trung ngầm đi đường núi tấn công quân Chăm khiến quân Chăm phải rút về thành Vijaya. Quân Việt nhanh chóng tiến lên đánh bại quân Chăm và bao vây thành Vijaya\nThành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường chở về Thăng Long. Ít nhất hơn 60.000 người Chăm bị giết và 30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn. Sau chiến thắng vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập các địa khu Amaravati và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam và duy trì vệ quân Thăng Hoa ở đây . Tướng Chăm là Bồ Trì Trì (tên Chăm: ?) chiếm vùng đất Panduranga (sách sử Việt gọi là Phan Lung) xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần và vua Lê Thánh Tông phong Bồ Trì Trì làm vương đất Chăm (sách Toàn thư gọi là Chiêm Thành tức là vùng đất Phan Rang, Thuận Hải ngày nay). Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (sách Toàn thư gọi là Hoa Anh tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay) và nước Nam Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên).\nThất bại năm 1471 đã dẫn đến việc nhiều làn sóng người Chăm di cư sang Campuchia. Cộng đồng người Chăm và người Islam gốc Mã Lai, Java ở Campuchia nhờ đó mà gia tăng thế lực. Biên niên sử \"Sejarah Melayu\" của người Mã Lai cũng ghi nhận sự di cư của người Chăm tới các vương quốc sultan ở Malacca. Thậm chí, một số quý tộc gốc Chăm còn được các sultan ban cho chức quan.\nTiểu quốc Hoa Anh và các chúa Nguyễn.\nSau khi xâm chiếm Champa và tàn phá kinh đô Vijaya, vua Lê Thánh Tông quyết định cắt phần đất Kauthara cũ từ đèo Cù Mông tới đèo Cả lập ra tiểu quốc Hoa Anh, phong vương cho chúa xứ này. Cả Hoa Anh, Panduranga, Jarai trở thành phiên thuộc của nhà Lê sơ.\nNăm 1578, Lương Văn Chánh là tướng của chúa Nguyễn Hoàng cầm quân tiến vào Kauthara, vây và hạ Thành Hồ – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Champa, nằm tại huyện Phú Hòa, phía Tây thành phố Tuy Hòa ngày nay - đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chánh cũng đã tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn. Trong khoảng 10 năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỉ XVII,do cục diện Chiến tranh Lê–Mạc phân liệt, Panduranga từ phía Nam nhiều lần tái chiếm Kauthara, đuổi người Việt khỏi miền đất này.\nNăm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm, mà sử Việt gọi là Văn Phong, đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Sang năm 1653, nhân việc vua Chăm Pa là Po Nraop (Bà Tấm) quấy phá biên giới phía nam, chúa Nguyễn Phúc Tần đã gởi một đoàn quân sang tấn công Chăm Pa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop đưa về Huế. Trên vùng đất cũ của tiểu vương quốc Kauthara chúa Nguyễn Phúc Tần lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa và Vạn Ninh) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh, Nha Trang, Cam Lâm và Cam Ranh). Vậỵ là vào năm 1653 Kauthara hoàn toàn bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Kauthara thất thủ, đền Po Nagar ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước tượng Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một đền ở Mông Đức gần làng Hữu Đức (Phan Rang) bây giờ.\nPanduranga.\nPhần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa lịch sử mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ Phú Yên ngày nay trở về Nam (Kauthara và Panduranga) và từ năm 1653 Chăm Pa chỉ còn nửa đất phía nam của địa khu Panduranga (tức Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết ngày nay). Tuy nhiên, dưới sự bảo hộ của Đại Việt, vương quốc này vẫn giữ được độc lập dưới sự cai trị của các chúa Chăm.\nMối quan hệ với bán đảo Mã Lai và đạo Islam.\nTừ năm 1414, chính quyền các tiểu quốc ở khu vực bán đảo Mã Lai như Kelantan (được mệnh danh là \"serambi Mekah, cổng tới Mecca\"), Malacca đã bắt đầu lấy đạo Islam làm quốc giáo. Người Chăm trên lãnh thổ Chăm Pa do đó cũng có nhiều nhóm chuyển sang đạo Islam, gọi là Chăm Baruw (Chăm mới), trái với nhóm chưa cải đạo là Chăm Jahed (Chăm cũ).\nMối quan hệ về dân tộc, ngôn ngữ và tôn giáo giữa người Chăm và người Mã Lai ở bán đảo Mã Lai đã tạo nên một cầu nối, liên kết hai khu vực. Nhiều thành phố ở Kelantan mang những cái tên liên quan tới Chăm Pa (Chepa) như Pengkalan Chepa, Kampung Chepa. Văn hóa và ẩm thực Kelentan cũng lưu giữ nhiều dấu ấn Chăm Pa. Biên niên sử \"Hikayat Kelantan\" cũng cho rằng, vị vua Long Yunus (Raja of Kelantan), người sáng lập vương quốc Hồi giáo Kelantan, có tổ tiên đến từ Kebayat Negara hoặc Kembayat Negara, nơi được cho là Chăm Pa. Nữ vương Che Siti Wan Kembang trong huyền thoại Kelantan được cho là mang ba dòng máu Champa-Kelantan-Pattani. Nhiều vị Raja Kelantan cũng có họ hàng với vương tộc Chăm Pa. Biên niên sử \"Babad Kelantan\" còn cho biết, giữa thế kỉ 17, một vị hoàng tử Chăm Pa tên Nik Mustafa đã đến Kelantan học tập nhiều năm, khi trở về nước đã xưng vương là Sultan Abdul Hamid. Truyện cổ Chăm Pa \"Nai Mai Mang Makah\" kể việc một công chúa từ Makah (Kelantan) cố gắng cải đạo chúa Chăm sang Islam.\nNăm 1594 chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca.\nNăm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm mà sử Việt gọi là Văn Phong () đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên. Kỷ tỵ, năm thứ 16 (1629), Văn Phong ở Phú Yên dùng quân Chiêm Thành để làm phản. Phó tướng Nguyễn Phước Vinh (Nguyễn Hữu Vinh, ) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn Biên.\nTừ năm 1622-1627, Chăm Pa được cai trị bởi một vị vua tên Po Klaong Mah Nai. Trước đó, vị vua theo đạo Hindu là Po Ehklang bị quan Maha Taha (महा तह, tức Po Klaong Mah Nai) giết và cướp ngôi. Po Klaong Mah Nai là người theo đạo Islam. Lúc này tại Chăm Pa, xảy ra chia rẽ và xung đột giữa các nhóm người Chăm theo đạo Hindu và Islam.\nTrong các năm 1627 đến 1651 là giai đoạn chúa Chăm là Po Rome (con rể Po Klaong Mah Nai) xưng vương và lấy con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên là Ngọc Hoa (có sách gọi là Ngọc Khoa, Nguyễn Phúc Ngọc Khoa (阮福玉誇). Po Rome là người gốc Chu Ru, từng sống nhiều năm ở Kelantan và theo đạo Islam. Đây cũng là giai đoạn mà quan hệ Việt – Chăm diễn ra tốt đẹp.\nNăm 1653, chúa Chiêm là Bà Tấm (Po Nraup, còn gọi là Bà Thấm, , Bà Bật, Bà Thâm, là anh em trai của Po Rome) xâm lấn Phú Yên. Chúa Nguyễn Phúc Tần cử cai cơ Hùng Lộc và tham mưu Minh Vũ đem quân vượt qua dãy núi Thạch Bi chiếm đất Chăm đến sát bờ trái sông Phan Rang ngày nay lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân mang thư xin hàng, lấy sông Phan Rang làm giới hạn. Đây cũng là thời điểm Chăm Pa nộp cống xưng thần với các chúa Nguyễn.\nLúc bấy giời tại Campuchia, một vị vua tên Nặc Ông Chân đổi sang đạo Islam và xưng là Sultan Ibrahim (1642-1659). Nặc Ông Chân tin dùng và ưu ái người Chăm Mã Lai, gây bất bình với người Khmer trong nước. Năm 1659, Nặc Ông Chân bị chúa Nguyễn đánh bại, một lượng lớn người Chăm và Mã Lai ở Chân Lạp bỏ chạy sang Ayutthaya tị nạn, tạo thành một cộng đồng người gốc Chăm Pa ở Xiêm.\nTại Chăm Pa, chúa Chăm Bà Tranh (Po Saut, Wan Dam, , cai trị khoảng 1660-1692, con trai của Po Rome) cũng theo đạo Islam và xưng là Paduka Seri Sultan (Điện hạ Sultan). Đây là giai đoạn mà đạo Islam quảng bá mạnh tại khu vực nhờ vào các lực lượng người gốc Mã Lai.\nNăm 1682, các giáo sĩ người Pháp ở Ayudhya báo cáo về việc chúa Chăm Pa triều cống cho vua Xiêm. Có khả năng Bà Tranh muốn nhờ Xiêm giúp đỡ để giảm sức ép từ chúa Nguyễn. Trong khi ghé tại hòn đảo Pulo Ubi (tức hòn Khoai) trong vịnh Thái Lan, ngày 13 tháng 5 năm 1687, nhà du hành người Anh William Dampier đã bắt gặp một tàu buôn từ Chăm Pa đang trên đường đi Malacca. William cho biết tàu buôn này có khoảng 40 người, trang bị vũ khí và mang theo hàng hóa là gạo, đồ sơn mài. Chăm Pa tham gia buôn bán với người Hà Lan ở Malacca.\nChúa Nguyễn và chúa Chăm Kế Bà Tử.\nNăm 1692, Bà Tranh đã tấn công vào phủ Diên Ninh và dinh Bình Khang tức vùng Diên Khánh ngày nay. Cuộc tấn công này đã thất bại và quân Chăm bị tướng Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại vào tháng 3 năm 1693. Chúa Nguyễn đổi tên Chiêm Thành Quốc thành Thuận Thành Trấn, sau đó tháng 8 năm 1693, đổi Thuận Thành Trấn thành Bình Thuận Phủ. Bà Tranh bị giải về Thuận Hóa, người anh em là Tả trà viên Kế Bà Tử (繼婆子, Po Saktiraydaputih) làm Khám lý, ba người con Bà Ân làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người Kinh và sai về để vỗ yên lòng dân.\nCuộc chiến tranh năm 1692-1693 đã khiến một hoàng thân tên Po Chongchan (Po Choncăin) dẫn theo gia quyến và hơn 5.000 người Chăm bỏ sang Campuchia tị nạn. Những nhóm người này được Chính vương Chey Chettha IV cho định cư dọc xung quanh kinh đô Oudong, bên bờ sông Mê Kông. Người Chăm Mã Lai tiếp tục được triều đình Chân Lạp sử dụng làm quân binh hầu cận. Cộng đồng Chăm trong đợt di cư này có lẽ là tổ tiên của nhóm Chăm Jahed (Chăm cũ) hoặc Imam San ở Campuchia ngày nay.\nTháng 12 năm 1693, người Thanh là A Ban (阿班) cùng với Hữu trà viên là Ốc nha Đạt (Ốc nha Thát, 屋牙撻) ở Thuận Thành nổi loạn, đánh chiếm các đất Đại Đồng, Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang. Lúc đó Nguyễn Hữu Cảnh đang đi Tây Chính ở Chân Lạp, và quân Nguyễn ở lại đã bị quân Chăm tiêu diệt hoàn toàn.\nĐầu năm 1694, Bà Tranh chết, quân A Ban lại vây Phan Rang. Tháng 2, A Ban tiến giữ lũy Ô Liêm. Lưu thủ Nhuận và các cai cơ Tống Tuân và Nguyễn Thành chia quân giáp đánh. A Ban chạy về Phố Châm. Sau đó Cai cơ Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) mới dẹp yên.\nKhi Nguyễn Hữu Cảnh trở lại, Kế Bà Tử đã ký hòa ước với chúa Nguyễn Phúc Chu. Tháng 8, chúa cho phủ Bình Thuận trở lại làm trấn Thuận Thành. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã đồng ý khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành Trấn, và chúa Chăm Kế Bà Tử được gọi là T\"huận Thành trấn vương\" (順城鎮王), đóng đô ở Băl Canar, giữ chức Tả đô đốc, phiên vương trấn Thuận Thành của chúa Nguyễn. Theo bộ văn bản hoàng gia Chăm (bản chữ Hán), mối quan hệ phiên thuộc giữa vùng đất cai quản bởi các chúa Chăm và chính quyền trung ương của chúa Nguyễn diễn ra tốt đẹp.\nThuận Thành trấn.\nNăm 1697, chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Bình Thuận (từ Phan Rang trở về tây) chia làm hai huyện An Phước và Hòa Đa. Cũng từ đây vùng đất Chăm còn lại (Phan Rang trở về đông) đã trở thành phiên thuộc của chúa Nguyễn và mối quan hệ giữa chúa Nguyễn và chúa Chăm là mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương.\nTừ những năm 1700 đến 1728, các chúa Nguyễn chủ yếu tập trung binh lực mở rộng ảnh hưởng trên đất Chân Lạp. Mặc dù có nhiều giai đoạn, chính quyền Đàng Trong dồn hết binh lính ở Chân Lạp hoặc suy yếu, chính quyền Chăm Pa vẫn không hề thừa cơ nổi dậy. Rất có thể, mối quan hệ giữa giữa hai chính quyền Po Saktiraydaputih và Nguyễn Phúc Chu rất tốt đẹp và nó còn để lại di sản sau này.\nĐến năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban hành một bản hiệp ước mới gọi là Ngũ điều Nghị định, trong đó khẳng định quyền xét xử của các chúa Chăm đối với các thần dân người Chăm và cũng quy định nghĩa vụ của các chúa Chăm đối với các chúa Nguyễn. Để giải quyết xung đột giữa người Chăm và người Việt, bản hiệp ước quy định các xung đột này sẽ do chúa Chăm tức Trấn Vương cùng với quan Cai bạ và quan Ký lục (cả hai là người Việt) phán quyết. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1832 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn.\nKhởi nghĩa Tây Sơn.\nCác đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận cho đến tận cuộc nội chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn. Từ năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra tại Đàng Trong, lãnh thổ Thuận Thành Trấn trở thành một trong những bãi chiến trường. Nội bộ chính quyền Chăm chia làm nhiều phe phái, ủng hộ Tây Sơn hoặc chúa Nguyễn.\nĐầu những năm 1770, khi phong trào Tây Sơn nhen nhóm, anh em Nguyễn Nhạc đã tìm đến bắt liên lạc, kết thân với Bà chúa Hỏa. Bà chúa Hỏa hay còn gọi là Bà Hỏa, nữ chúa Thị Hỏa là thủ lĩnh của người Chăm quản lĩnh một vùng đất rộng lớn mà sử sách xưa thường gọi là \"nước Hỏa Xá\". Địa bàn của bà chúa Hỏa trải rộng khắp khu vực miền núi ngày nay thuộc phía tây nam Phú Yên kéo dài đến Cheo- reo (Gia Lai, Kon Tum). Nguyễn Lữ, người thứ ba trong \"Tây Sơn tam kiệt\", là người tu theo Minh giáo (còn gọi là đạo Ma-ní), là đệ tử của bà chúa Hỏa, thờ thần lửa và dùng bùa phép để chữa bệnh, trừ tà, nên còn được gọi ông là thầy tư Lữ.\nMột bộ phận người Chăm tại trấn Thuận Thành (nay thuộc tỉnh Bình Thuận) do Kế Pù Tá (Po Tisuntiraidapuran, Nam sử gọi là Nguyễn Văn Tá / 阮文佐) đứng đầu ủng hộ và tham gia phong trào Tây Sơn từ rất sớm thì ở một địa bàn khác là động Thạch Thành (nay thuộc huyện Sơn Hòa và Sơn Thành, tỉnh Phú Yên). Bà chúa Hỏa cũng đem toàn bộ lực lượng của mình gia nhập nghĩa quân khi anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa. Năm Qúy Tị (1773) quân Tây Sơn đã đánh chiếm được Phú Yên, Nguyễn Nhạc phục hồi danh vị Phiên Vương cho bà chúa Hỏa và giao cho bà nhiệm vụ trấn giữ động Thạch Thành.\nMùa hè Giáp Ngọ (1774), chúa Nguyễn sai danh tướng Tống Phúc Hiệp đem quân từ Hòn Khói (nay thuộc Nha Trang) đánh chiếm Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang. Quân Tây Sơn yếu thế phải lui về giữ Phú Yên. Tống Phúc Hiệp trực tiếp chỉ huy quân vượt đèo Tam Độc đánh thẳng vào đội quân của bà chúa Hỏa, bà chúa Hỏa đã tử trận. Tháng 7 năm Ất Mùi (1775), Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Huệ bất ngờ đem quân từ Quy Nhơn vào đánh úp tiêu diệt cả quân thủy và quân bộ của Tống Phúc Hiệp. Năm 1778, thành Quy Nhơn sửa xong, Nguyễn Nhạc xưng là Minh Đức Hoàng Đế, niên hiệu Thái Đức. Hai Vua Thủy Xá và Hỏa Xá được phong Vương tước, sai sứ đưa ra những trầm hương, kỳ nam, hổ phách và voi ngựa làm cống vật và nguyện giữ một lòng trung thành với Tây Sơn.\nNăm 1780, Po Tisuntiraidapuran được hoàng đế Thái Đức nhà Tây Sơn giúp đăng cơ. Tuy nhiên, Po Tisuntiraidapuran liên tục phải chống đỡ các phong trào nổi dậy của người Chăm và hàng loạt cuộc công kích của chúa Nguyễn Ánh từ đất Gia Định.\nNăm 1782, một người anh em cùng huyết thống của Po Tisuntiraidapuran là Cei Krei Brei gây binh biến rồi phế truất ông, khiến thời điểm này Panduranga tạm thời không có người cai trị. Vào năm 1783, Cei Krei Brei tự tuyên bố là tân vương, nhưng liền sau đó quân Tây Sơn xuống vây đánh khiến ông này thất thế và bị tống giam. Ngôi vị của Po Tisuntiraidapuran được khai phục. Cùng năm này, một quân phiệt Chăm Bà-la-môn là Po Tolripho từ Ấn Độ (?) về Panduranga lập chiến khu nhằm chống quân đồn trú Tây Sơn, nhưng chóng bị Bắc Bình vương dẹp. Po Tolripho may mắn tẩu thoát được, bèn trèo đèo vượt suối mấy ngày đường lên Cheo Reo ẩn lánh ở các buôn người Thượng.\nĐến năm 1790, chúa Nguyễn Ánh được đà Thái Đức lâm thế yếu khó vươn được xuống phương Nam, bèn tiến chiếm Panduranga, phong Cei Krei Brei (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Chiêu, nguyên tên là Môn Lai Phù Tử, Po Ci Bri, con của phiên vương trước là Thắng) làm Thuận Thành trấn Khâm sai chưởng cơ. Các quan Chăm là Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Hào làm Khâm sai thống binh cai cơ. Nhưng ít lâu sau thì Nguyễn Văn Chiêu bị bãi chức vì chúa Nguyễn nghi ông theo Quang Trung.\nNăm 1793, chúa Nguyễn Ánh phái binh tiến đánh quân Tây Sơn đồn trú trên đất Panduranga. Phiên vương Thuận Thành là Po Tisuntiraidapuran (Nguyễn Văn Tá / 阮文佐) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại. Nguyễn Ánh sau đó (1794) cho các tướng người Chăm theo mình là Po Ladhuanpuguh (Nam sử gọi là Thôn-bá-hú hoặc Nguyễn Văn Hào / 阮文豪) làm Chánh trấn Thuận Thành, đồng thời phong Po Saong Nyung Ceng (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Chấn / 阮文震) làm phó trấn, đặt chế độ chánh trấn và phó trấn và bỏ chế độ phiên vương. Cả Po Ladhuanpuguh và Po Saong Nyung Ceng vốn là những phú nông người Chăm, không có xuất thân vương tộc.\nBị chúa Nguyễn tước mất vương vị, Po Krei Brei (Nguyễn Văn Chiêu) đành đưa gia quyến bỏ sang tỉnh Tbong Khmum của Chân Lạp định cư. Lần này, người Chăm từ Việt Nam chạy sang Campuchia tị nạn rất đông. Đoàn tị nạn gốc vương tộc này đến an trí tại Roka Po Pram, nơi vốn tập trung rất nhiều lưu dân Chăm và Mã Lai Hồi giáo. Ban sơ Po Krei Brei cũng muốn dựa vào thế lực của triều đình Kampuchea để đòi lại vương vị, nhưng tình hình xứ sở này cũng rất hỗn loạn vì những cuộc giao tranh của Xiêm và Tây Sơn rồi Nguyễn, nên rốt cuộc ông phải chôn mọi tham vọng bá quyền. Hiện chưa rõ Po Krei Brei sinh thác năm nào, ông được cộng đồng Hồi giáo Tbong Khmum và Kampong Cham suy tôn là thủy tổ của mình.\nCuộc nổi loạn ở trấn Thuận Thành.\nVào năm 1796, Po Chongchan - lãnh tụ Chăm được triều Tây Sơn ủng hộ - theo quân Tây Sơn tiến công Băl Canar nhưng bị Po Saong Nyung Ceng tạm thời đẩy lui; tháng 10 cùng năm có một thủ lĩnh người Chăm Mã Lai tự xưng từng sống ở Mecca (thực ra là Kelantan) nhiều năm tên Tuan Phaow (Đồng Phù, Toàn Phù) cùng một tù trưởng khác [Tăng Mã] thừa dịp chúa Nguyễn bận công kích nhà Tây Sơn, xách động một cuộc bạo loạn nhằm khôi phục quyền tự trị hoàn toàn cho Panduranga, nhưng cũng bị Po Saong Nyung Ceng dẹp tan.\nĐại Nam liệt truyện chép:\"Năm Bính Thìn [1796], man trưởng ở Dã Giang (thuộc tỉnh Bình Thuận) là Tăng Mã làm phản, quan quân đón đánh ở Phố Trâm phá tan được, Tăng Mã trốn chạy... Tù trưởng người Man là Đồng Phù [Tuan Phaow] quân bị tan vỡ bỏ chạy. Từ đó các man ở Thuận Thành không dám lại làm phản nữa.\"Đại Nam thực lục ghi chi tiết:\"Bính thìn, năm thứ 17 [1796], Tù trưởng Ba Phủ thuộc Thuận Thành là Toàn Phù (Tuan Phaow) tụ họp hơn 1.000 người, từ núi Đàn Linh ngầm xuống Cà Trập cướp bóc dân địa phương.\"\n\"Đinh tỵ, năm thứ 18 [1797], tháng 2, Nguyễn Công Thái tiến đến Phố Châm, đánh úp phá tan giặc man Ba Phủ. Tù trưởng man là Toàn Phù vượt núi trốn chạy. Quân ta đốt trại kho vựa, bắt sống hơn 100 người man về trú ở bảo Đăng Trại... Tháng 5, người man Ba Phủ là Toàn Phù lại họp đảng hơn nghìn người đến đánh bảo Ma Đế. Thủ binh Thuận Thành chống không được, phải bỏ bảo chạy. Phó tướng quản dinh Bình Thuận là Phan Tiến Hoàng nghe tin báo đem quân thẳng tới, gặp giặc ở Cà Tán (tên đất), bắn chết mười mấy người. Giặc lui... Tháng 9, giặc Man Ba Phủ là Toàn Phù đem quân vây bảo Tà Lạp, lại ủy cho người đảng giữ núi La A để ngăn quân viện của ta. Phó tướng Phan Tiến Hoàng thống quản quân sở bộ và quan binh Thuận Thành, chia đường tiến đến La A. Hoàng cùng Quản đạo Phố Hài là Phạm Tiến Tuấn đánh mặt trước, Cai cơ Lê Văn Niệm đánh mặt sau. Giặc thua vỡ to. Quân ta thừa thắng tiến thẳng đến Thuận Thành. Bọn Cai cơ Nguyễn Văn Vĩnh ở Tà Lạp nghe tin quân viện đến, mở bảo ra đánh, Toàn Phù bèn giải vây, vượt núi chạy. Hoàng thấy xứ ấy đường núi hiểm xa, chuyển vận rất khó, lại thêm mưa lụt lam chướng, quân nhiều người ốm, bèn rút quân về, để quân Thuận Thành đóng giữ các bảo Đăng Trại, Cà Tán, dâng sớ xin đợi đến mùa đông tạnh ráo sẽ cất quân đánh dẹp.\"\n\"Tháng 11, vua nước Chân Lạp là Nặc Ấn chết.\" \"Con là Nặc Chăn nối ngôi... Tháng 12, sai Phó tướng Phan Tiến Hoàng đem tướng sĩ Tiền chi và Trung chi Tiền quân cùng Xiêm binh và hương binh hơn 1.600 người, tiến đánh giặc Man Ba Phủ. Khi quân đến Phố Châm thì Toàn Phù trốn xa, dư chúng ra hàng nhiều. Bèn dẫn quân về.\"Về nhân vật Tuan Phaow (Đồng Phù), có ý kiến cho rằng ông ta trốn chạy sang Campuchia với tên Tuon Set Asmit và được vua Ang Eng thu dùng, cho làm tỉnh trưởng Tbong Khmum. Tuan Phaow sau đó làm tới chức Tể tướng dưới triều vua Ang Chan II với tên gọi Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha). Năm 1820, Đồng Phù bị phát hiện thân phận và bị triều đình nhà Nguyễn xử tử. Tuy nhiên, xét theo Đại Nam thực lục và liệt truyện, Tuan Phaow có thể không phải là vị Tể tướng gốc Chăm tên Tôn La Ca Đồng Phù thời vua Ang Chan II. Việc xử tử Đồng Phù là do Ang Chan II nhờ triều Nguyễn bắt giúp để trị tội đại nghịch vô đạo với vua Chân Lạp.\nĐến tháng 7 năm 1799, Po Ladhuanpuguh băng hà, nhờ vào uy tín sẵn có mà Po Saong Nyung Ceng được cử làm tân vương.\nLoạn Lê Văn Khôi.\nNgay sau khi Minh Mạng lên ngôi (1820), ông phân bố lại hành chính, chia Bình Thuận trấn thành 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Minh Mạng hạn chế hơn nữa quyền lực của hoàng gia Chăm.\nNăm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can-Po Chơn), vị vua cuối cùng của Champa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia.\nTháng 10 năm 1832, chúa Chăm cuối cùng là Po Phaok The (Nguyễn Văn Thừa (阮文承)) trả lại toàn bộ dân và đất cho vua Minh Mạng và trở thành một viên quan địa phương triều Nguyễn. Vua Minh Mạng đã xóa trấn Thuận Thành và đặt phủ Ninh Thuận vào cùng năm đó, cho Nguyễn Văn Thừa làm Quản cơ, thuộc hạ là các Chánh đội trưởng Nguyễn Văn Giảng, Nguyễn Văn Thuận và Nguyễn Văn Thanh đều cho làm Cai đội. Năm 1833, Minh Mạng định phong cho tước cho Nguyễn Văn Thừa là Diên An bá, chức Vệ úy, hàm Tòng tam phẩm. Nhưng sau đó có án nghi Thừa câu kết với Lê Văn Khôi nên thôi.\nTheo sách Tiễu Bình Thuận Man Phỉ Phương Luộc (1835) và bộ Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ Nhị Kỷ (1860), sau khi chúa Po Phaok The thoái vị và trở thành viên quan triều Nguyễn, nhóm Lê Văn Khôi ở miền Nam bắt tay với Po Phaok The và một số quý tộc cũng như lãnh đạo tôn giáo Islam Chăm như Lá Buôn Vương, Thầy Điên. Lúc đó triều Nguyễn đang đánh Lê Văn Khôi ở miền Nam, và quân Nguyễn ở lại Ninh Thuận, Bình Thuận bị phiến quân Chăm và các bộ lạc miền núi tấn công mà chưa kịp đối phó. Có một số quý tộc thì lại theo vua Minh Mạng và không tham gia phiến quân, cộng đồng Chăm và các bộ lạc miền núi bị chia rẽ giữa hai phe: phe Lê Văn Khôi (phe chúa Chăm cũ) và phe vua Minh Mạng.\nPhong trào Hồi giáo Katip Sumat.\nKatip Sumat hay Katip Tamat là một tu sĩ Hồi giáo (imam) sinh ở Campuchia, đã từng sang Makah (tiểu vương quốc Kelantan) du học về triết lý Hồi giáo. Katip Sumat chỉ huy một đoàn quân đa số là người Chăm và Mã Lai sinh sống ở Campuchia sang Champa để hình thành một phong trào đấu tranh chống triều đình Huế vào năm 1833. Đây có thể coi như phong trào jihad (Thánh chiến) duy nhất đến nay trong lịch sử Việt Nam. Cuộc nổi dậy của Katip Sumat gây mối đe dọa thật sự cho triều đình Huế, buộc vua Minh Mạng phải gởi một đội binh hùng mạnh hơn 1000 người và ra lệnh vũ trang những cư dân Việt thuộc phủ Bình Thuận để họ tham gia trực tiếp vào cuộc chiến chống quân nổi loạn. Phong trào Hồi Giáo của Katip Sumat đã bị dập tắt vào tháng 7 năm Tỵ lịch Chăm, tức là cuối năm 1833 hay đầu năm 1834.\nPhong trào của Katip Sumat có lẽ được sự hậu thuẫn của vị Sultan Muhamad I ở Kelantan (1800-1837).\nKhởi nghĩa Ja Thak Wa.\nJa Thak Wa của Katip Thak Wa, một người Chăm Bani làng Văn Lâm, Phan Rang từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình Panduranga-Champa thời trước. Với tổ chức quy mô hơn, Ja Thak Wa xây dựng một chiến khu tại vùng cao nguyên Đồng Nai Thượng và Kauthara (Nha Trang-Phú Yên) vào năm 1834.\nJa Thak Wa sau đó triệu tập một hội đồng để chỉ định Po War Palei (tiếng Việt gọi là La Bôn Vương), dân tộc Raglai, thuộc làng Cadang, lên làm quốc vương (Po Patrai) của Panduranga. Po War Palei là anh rể của Po Dhar Kaok (tên Việt là Nguyễn Văn Nguyên), tức là cựu phó vương Panduranga dưới thời vua Po Phaok The (1828-1832). Sau đó, Ja Thak Wa đề nghị tấn phong một người gốc Churu mang chức là Cei Aia Harei (hoàng tử mặt trời) làm hoàng tử kế vị và Ja Yok Ai gốc người Chăm làm Panraong Sa-ai (đại quan quân sự).\nQuân của Ja Thak Wa làm chủ tình hình vào đầu năm Ất Vị (1835), kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Panduranga cũ gồm huyện An Phước, Hòa Đa, Tuy Tịnh và phủ Bình Thuận.\nTrước sự đàn áp của nhà Nguyễn, nổi dậy Ja Thak Wa tại Panduranga kéo dài cho đến tháng thứ 4 năm 1835 thì kết thúc sau khi cả Po War Palei và Ja Thak Wa đều tử trận gần thôn Hữu Đức, Văn Lâm, Phan Rang.\nThời kỳ cuối của trấn Thuận Thành.\nKhi vua Minh Mạng đưa quân tiêu diệt phiến quân Chăm và các bộc lạc miền núi, Thị Khăn Oa (Nai Khan Wa), công nữ Chăm hợp tác với vua Minh Mạng kêu gọi tất cả phiến quân còn lại đầu hàng, trở về phía triều đình. Công nữ đã thuyết phục thành công. Vua Minh Mạng đồng ý duy trì hoàng gia Chăm (gia đình chúa Chăm). Các hoàng tử Chăm đời đời nhận chức Tri huyện Huyện Hòa Đa Thổ (tức Quận Phan Lý Chàm thời chính quyền Sài Gòn) dưới triều Nguyễn. Theo các bộ sắc phong mà các hoàng tử Chăm được vua Nguyễn các đời gửi (bản chữ Hán), mối quan hệ giữa các ông tri huyện huyện Hòa Đa Thổ và chính quyền Huế diễn ra tốt đẹp đến tận năm 1945.\nNăm 1945, hoàng tử Dụng Gạch (em trai công nữ Nguyễn Thị Thềm) đang là chức hương bộ và được gọi là Bộ Gạch, làm việc tại palei Kalon tức ấp Trinh Hòa (nay là xã Phan Sơn, Phan Lâm, huyện Bắc Bình và Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kalon Sông Mao) nơi mà Bà Nai Khan Wa cùng các bộ lạc miền núi khai hoang. Hoàng tử Dụng Gạch đã hưởng ứng lời kêu gọi cách mạng tháng Tám, bảo cho bà con Chăm và các dân tộc miền núi theo cách mạng. Sau cách mạng thành công, Hoàng tử Dụng Gạch giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Lâm thời Huyện Hòa Đa phụ trách miền núi.\nLịch sử miền đất Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm 1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) còn chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục thì vua Lê Thánh Tông phong cho dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc. Còn một số Bon, Palei phía Nam Lâm Đồng thì triều Nguyễn đặt Phủ Di Dinh Thổ (tức Phủ Di Linh Thượng), đưa viên quan Chăm cai trị cho đến năm 1945 nên mối quan hệ giữa hoàng gia Chăm và các bộ lạc miền núi rất mật thiết như việc hoàng tử Dụng Gạch được các bộ lạc miền núi tin tưởng." ]
pa - chm - po - panduranga - indravarman - kauthara - vijaya - champa - vua - khmer
1
false
Carbon (bắt nguồn từ tiếng Pháp "carbone" (/kaʁbɔn/)), là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu là C và số nguyên tử bằng 6, nguyên tử khối bằng 12. Là một nguyên tố phi kim có hóa trị 4 phổ biến, carbon có nhiều dạng thù hình khác nhau, phổ biến nhất là 4 dạng thù hình gồm carbon vô định hình, graphit, kim cương và Q-carbon. Các sợi carbon là tương tự như carbon thủy tinh. Dưới các xử lý đặc biệt (kéo giãn các sợi hữu cơ và carbon hóa) nó có khả năng sắp xếp các mặt tinh thể carbon theo hướng của sợi. Vuông góc với trục của sợi không có các mặt tinh thể carbon. Kết quả là các sợi có độ bền đặc biệt cao hơn cả thép. Carbon tồn tại đa số trong mọi sự sống hữu cơ và nó là nền tảng của hóa hữu cơ. Phi kim này còn có thuộc tính hóa học đáng chú ý là có khả năng tự liên kết với nó và liên kết với một loạt các nguyên tố khác, tạo ra gần 10 triệu hợp chất đã biết. Khi liên kết với oxy nó tạo ra carbon dioxide là rất thiết yếu đối với sự sinh trưởng của thực vật. Khi liên kết với hydro, nó tạo ra một loạt các hợp chất gọi là các hydrocarbon là rất quan trọng đối với công nghiệp trong dạng của các nhiên liệu hóa thạch. Khi liên kết với cả oxy và hydro nó có thể tạo ra rất nhiều nhóm các hợp chất bao gồm các acid béo, là cần thiết cho sự sống, và este, tạo ra hương vị của nhiều loại hoa quả. Đồng vị carbon-14 được sử dụng trong xác định tuổi tuyệt đối cho các mẫu vật nguồn gốc sinh vật theo phương pháp định tuổi bằng đồng vị carbon, được ứng dụng trong khảo cổ học và nghiên cứu địa chất kỷ Đệ Tứ. Các thuộc tính đặc trưng. Carbon là nguyên tố đáng chú ý vì nhiều lý do. Các dạng khác nhau của nó bao gồm một trong những chất mềm nhất (graphit) và hai trong những chất cứng nhất (graphene và kim cương, hay fullerene -hợp chất rất cứng có thể nói là cứng nhất của carbon và các hợp chất khác) cũng như là chất bán dẫn tốt nhất, hơn cả silic. Ngoài ra, nó có ái lực lớn để tạo ra liên kết với các nguyên tử nhỏ khác, bao gồm cả các nguyên tử carbon khác, và kích thước nhỏ của nó làm cho nó có khả năng tạo ra liên kết phức tạp. Vì các thuộc tính này, carbon được biết đến như là nguyên tố có thể tạo ra cỡ 10 triệu loại hợp chất khác nhau, chiếm phần lớn trong các hợp chất hóa học. Các hợp chất của carbon tạo ra nền tảng cho mọi loại hình sự sống trên Trái Đất và chu trình carbon-nitơ dự trữ và tái cung cấp một số năng lượng được sản sinh từ Mặt Trời và các ngôi sao. Carbon cũng có điểm thăng hoa cao nhất trong tất cả các nguyên tố. Trong điều kiện áp suất khí quyển nó không có điểm nóng chảy vì điểm ba trạng thái của nó ở tại 10,8 ± 0,2 MPa và 4.600 ± 300 K (~4.330 °C hay 7.820 °F), do đó nhiệt độ thăng hoa của nó trong trường hợp này vào khoảng 3.900 K. Các thù hình. Các thù hình của carbon là khác nhau về cấu trúc mạng nguyên tử mà các nguyên tử tinh khiết có thể tạo ra. Ba dạng được biết nhiều nhất là carbon vô định hình, graphit và kim cương. Một số thù hình kỳ dị khác cũng đã được tạo ra hay phát hiện ra, bao gồm các fullerene, carbon ống nano, lonsdaleit và q-carbon. Muội đèn bao gồm các bề mặt dạng graphit nhỏ. Các bề mặt này phân bổ ngẫu nhiên, vì thế cấu trúc tổng thể là đẳng hướng. Carbon thủy tinh là đẳng hướng và có tỷ lệ độ xốp cao. Không giống như graphit thông thường, các lớp graphit không xếp lên nhau giống như các trang sách, mà chúng có sự sắp xếp ngẫu nhiên. Ở dạng vô định hình, carbon chủ yếu có cấu trúc tinh thể của graphit nhưng không liên kết lại trong dạng tinh thể lớn. Trái lại, chúng chủ yếu nằm ở dạng bột và là thành phần chính của than, muội, bồ hóng, nhọ nồi và than hoạt tính. Ở áp suất bình thường carbon có dạng của graphit, trong đó mỗi nguyên tử liên kết với 3 nguyên tử khác trong mặt phẳng tạo ra các vòng lục giác, giống như các vòng trong các hydrocarbon thơm. Có hai dạng của graphit đã biết, là alpha (lục giác) và beta (rhombohedral), cả hai có các thuộc tính vật lý giống nhau, ngoại trừ về cấu trúc tinh thể. Các loại graphit có nguồn gốc tự nhiên có thể chứa tới 30% dạng beta, trong khi graphit tổng hợp chỉ có dạng alpha. Dạng alpha có thể chuyển thành dạng beta thông qua xử lý cơ học và dạng beta chuyển ngược thành dạng alpha khi bị nung nóng trên 1000 °C. Vì sự phi tập trung hóa của các đám mây pi, graphit có tính dẫn điện. Vật liệu vì thế là mềm và các lớp, thường xuyên bị tách ra bởi các nguyên tử khác, được giữ cùng nhau chỉ bằng các lực van der Waals, vì thế chúng dễ dàng trượt trên nhau. Ở áp suất cực kỳ cao các nguyên tử carbon tạo thành thù hình gọi là kim cương, trong đó mỗi nguyên tử được liên kết với 4 nguyên tử khác. Kim cương có cấu trúc lập phương như silic và germani và vì độ bền của các liên kết carbon-carbon, cùng với chất đẳng điện nitride bo (BN) là những chất cứng nhất trong việc chống lại sự mài mòn. Sự chuyển hóa thành graphit ở nhiệt độ phòng là rất chậm và khong thể nhận thấy. Dưới các điều kiện khác, carbon kết tinh như là Lonsdaleit, một dạng giống như kim cương nhưng có cấu trúc lục giác. Các fulleren có cấu trúc giống như graphit, nhưng thay vì có cấu trúc lục giác thuần túy, chúng có thể chứa 5 (hay 7) nguyên tử carbon, nó uốn cong các lớp thành các dạng hình cầu, elip hay hình trụ. Các thuộc tính của các fulleren vẫn chưa được phân tích đầy đủ. Tất cả các tên gọi của các fulleren lấy theo tên gọi của Buckminster Fuller, nhà phát triển của kiến trúc mái vòm, nó bắt chước cấu trúc của các "buckyball". Sự phổ biến. Carbon là nguyên tố phổ biến thứ 4 trong vũ trụ về khối lượng sau hydro, heli, và oxy. Carbon có rất nhiều trong Mặt Trời, các ngôi sao, sao chổi và bầu khí quyển của phần lớn các hành tinh. Một số thiên thạch chứa các kim cương vi tinh thể, loại được hình thành khi hệ Mặt Trời vẫn còn là một đĩa tiền hành tinh. Các kim cương vi tinh thể này có thể đã được tạo ra bằng áp lực rất mạnh và nhiệt độ cao tại những nơi mà thiên thạch đó va chạm. Có khoảng 10 triệu hợp chất khác nhau của carbon mà khoa học đã biết và hàng nghìn trong số đó là tối quan trọng cho các quá trình của sự sống và cho các phản ứng trên cơ sở hữu cơ rất quan trọng về kinh tế. Trong tổ hợp với các nguyên tố khác, carbon được tìm thấy trong bầu khí quyển Trái Đất và hòa tan trong mọi thực thể có chứa nước. Với một lượng nhỏ hơn của calci, magnesi và sắt, nó tạo ra thành phần chủ yếu của một lượng rất lớn đá carbonat (đá vôi, dolomit, đá cẩm thạch v.v.). Khi tổ hợp với hydro, carbon tạo thành than, dầu mỏ và khí tự nhiên, còn được gọi là các hydrocarbon. Graphit được tìm thấy với một số lượng lớn ở các bang New York và Texas (Mỹ); Nga; México; Greenland và Ấn Độ. Kim cương tự nhiên có trong khoáng chất kimberlit tìm thấy trong các "cổ" hay "ống" núi lửa cổ đại. Phần lớn các mỏ kim cương nằm ở châu Phi, chủ yếu là Nam Phi, Namibia, Botswana, Cộng hòa Congo và Sierra Leone. Cũng có các mỏ ở Arkansas, Canada, vùng Bắc cực nước Nga, Brasil và ở miền bắc và tây nước Úc. Đồng vị. Carbon có 2 đồng vị ổn định, có nguồn gốc tự nhiên: carbon-12, hay 12C, (98,89%) và carbon-13, hay 13C, (1,11%), Năm 1961, Liên đoàn Quốc tế về Hoá học Thuần túy và Ứng dụng (IUPAC) đã chấp nhận đồng vị carbon-12 làm cơ sở để đo khối lượng nguyên tử. Một đồng vị không ổn định, cũng có nguồn gốc tự nhiên là đồng vị phóng xạ carbon-14 hay 14C. Đồng vị 14C phát sinh do sự tương tác của "neutron" 1n trong bức xạ vũ trụ với nitơ 14N trong khí quyển. Nó được thực vật hấp thụ bằng quá trình quang hợp như với mọi đồng vị carbon khác, và lan truyền vào mọi cơ thể sống theo chuỗi thức ăn. Khi sinh vật chết chúng lắng đọng trong các tầng đất, đặc biệt trong than bùn và các vật liệu hữu cơ khác. Đồng vị này phân rã bằng cách phát xạ hạt β− có năng lượng 0,158 MeV. Do chu kỳ bán rã có 5730 năm, 14C hầu như không có mặt trong các đá cổ, Sự phong phú của 14C trong khí quyển và trong các cơ thể sống là một hằng số, nhưng chúng sẽ giảm sau khi sinh vật đó chết đi, và tỷ số đồng vị 14C/12C nói lên quãng thời gian chết của chúng. Nguyên tắc này được sử dụng trong phương pháp "định tuổi bằng đồng vị carbon" cho mẫu vật, được Willard Libby phát minh năm 1949, và nay được sử dụng rộng rãi để xác định tuổi của các mẫu vật chứa carbon với giới hạn lên đến khoảng 60.000 năm và được ứng dụng chủ yếu trong khảo cổ học. Tỷ số đồng vị 13C/12C trong trầm tích cổ được sử dụng để nghiên cứu cổ khí hậu (Paleoclimate). Nó dựa trên hiện tượng thực vật thực hiện quang hợp với 12C dễ hơn. Do đó những sinh vật phù du ở biển như "benthic foraminifera" khi phát triển mạnh thì làm lệch tỷ số đồng vị. Nếu các tầng nước đại dương không bị đối lưu pha trộn, thì sự lệch tỷ số này xảy ra trong thời gian dài, và dấu hiệu này được lưu giữ trong các tầng trầm tích biển. (Lynch-Stieglitz et al., 1995) Tổng số đồng vị carbon là 15, từ 8C đến 22C, trong đó 12 đồng vị là nhân tạo. Đồng vị có tuổi ngắn nhất là 8C, nó phân rã theo bức xạ proton và phân rã alpha, có chu kỳ bán rã là 1,98739x10−21 s. Đồng vị kích thích 19C thể hiện tính chất của một hạt nhân halo, tức là bán kính của nó có thể lớn hơn đáng kể so với bán kính dự đoán nếu hạt nhân nguyên tử là một khối hình cầu có tỷ trọng không đổi. Hình thành trong các ngôi sao. Carbon đã không được tạo ra trong Vụ Nổ Lớn vì thiếu các yếu tố cần thiết cho sự va chạm ba của các hạt alpha (hạt nhân heli) để sản xuất nó. Vũ trụ đầu tiên được mở rộng ra và bị làm nguội quá nhanh để điều này có thể xảy ra. Tuy nhiên, nó được sản xuất trong tâm của các ngôi sao trong nhánh ngang, ở đó các ngôi sao chuyển hóa nhân heli thành carbon bằng các cách thức của quy trình ba-alpha. Nó cũng đã được tạo ra trong các trạng thái nguyên tử phức tạp. Chu trình carbon. Trong các điều kiện trên Trái Đất, sự chuyển biến từ một nguyên tố này thành một nguyên tố khác là rất hiếm. Dù vậy, hàm lượng carbon trên Trái Đất là không đổi. Do đó, các quá trình sử dụng carbon phải tiêu thụ nó ở một nơi và thải ra ở một nơi khác. Những cách mà carbon di chuyển trong môi trường tạo thành một chu trình gọi là chu trình carbon. Một phần của sinh khối này được động vật tiêu thụ, trong khi một lượng carbon được động vật thải ra ở dạng carbon dioxide. Chu trình carbon được xem là phức tạp hơn vòng tuần hoàn ngắn này; ví dụ như carbon dioxide bị hòa tan trong các đại dương; thực vật chất hoặc xác động vật có thể hình thành nên dầu mỏ hoặc than, nếu đốt chúng sẽ thải ra carbon. Ứng dụng. Carbon là các thành phần thiết yếu cho mọi sự sống đã biết, và không có nó thì sự sống mà chúng ta đã biết không thể tồn tại (Xem Sự sống phi carbon). Việc sử dụng kinh tế chủ yếu của carbon là trong dạng các hydrocarbon, chủ yếu là các nhiên liệu hóa thạch như than, khí methan và dầu mỏ (xăng dầu). Dầu mỏ được sử dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất ra các sản phẩm như xăng và dầu hỏa, thông qua các quy trình chưng cất trong lọc dầu. Dầu mỏ cũng là nguồn nguyên liệu cho nhiều chất hữu cơ tổng hợp khác, rất nhiều trong số chúng gọi chung là các chất dẻo (plastic). Các ứng dụng khác. Các thuộc tính hóa học và cấu trúc của các fulleren, trong dạng các ống nano carbon, có ứng dụng đầy hứa hẹn trong các lĩnh vực mới phát sinh của công nghệ nano. Lịch sử. Ít ai nghĩ sợi carbon (Carbon fiber – CF) được sáng chế vào năm 1879 bởi Thomas Edison và được coi là loại sợi tổng hợp cổ nhất của loài người, lại có giá trị lớn lao đến thế đối với sự phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại. Ban đầu, nhà phát minh này đã sử dụng sợi carbon làm dây tóc của bóng đèn. Mặc dù lúc đó sợi carbon không giống như sợi carbon ngày nay, nhưng chúng lại có sức chịu đựng đáng kể với nhiệt độ, điều này khiến cho sợi carbon trở thành ý tưởng không tồi cho các loại sợi dẫn điện. Edison chế tạo sợi carbon dựa trên chất cellulose gồm có cotton hoặc tre, hoàn toàn không giống như sợi carbon ngày nay làm từ dầu mỏ. Sự carbon hóa được tiến hành từ việc đốt cháy các sợi tre ở nhiệt độ cao trong môi trường tiêu chuẩn dưới sự kiểm soát chặt chẽ. Thomas Edison đã mất 40 giờ đốt cháy liên tục vật chất trên nhằm loại bỏ oxy, nitơ, hydro và chỉ giữ lại carbon để tạo ra những sợi carbon đầu tiên trên thế giới. Phương pháp chế tạo trên được gọi là "nhiệt phân" và vẫn được dùng trong thời đại ngày nay. Kết quả là những sợi tre được "carbon hóa" có khả năng chịu lửa và nhiệt độ cao – điều kiện cần thiết cho sự cháy sáng của dây tóc bóng đèn. Về sau, đến tận những năm 1950 khả năng kéo giãn của sợi carbon mới được khám phá. Người đầu tiên được cho là tạo ra sợi carbon ngày nay có tên là Rayon. Ngày nay, sợi carbon hiện đại được sản xuất bởi một vật liệu có tên là polyacrylonitrile (PAN), đây cũng là nguyên liệu được sử dụng để sản xuất hầu hết khối lượng sợi carbon hiện tại. Sản xuất. Than chì. Các mỏ than chì tự nhiên có giá trị thương mại xuất hiện nhiều nơi trên thế giới, nhưng các nguồn quan trọng nhất có giá trị kinh tế tập trung ở Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Triều Tiên. Các mỏ than chì có nguồn gốc biến chất, được tìm thấy cùng với thạch anh, mica và feldspar trong các đá phiến, gneiss và cát kết và đá vôi bị biến chất ở dạng thấu kính hoặc mạch, đôi khi có bề dày một mét hoặc lớn hơn. Các mỏ than chì ở Borrowdale, Cumberland, Anh đầu tiên có kích thước và độ tinh khiết (cho đến thế kỷ XIX) đủ để làm các cây bút chì bằng cách đơn giản là cưa chúng thành các que và lấp vỏ gỗ vào. Ngày nay, các mỏ than chì nhỏ hơn được khai thác bằng cách nghiền đá gốc và dùng phương pháp tuyển nổi để lấy than chì nhẹ hơn nổi trên mặt. Có ba loại than chì tự nhiên gồm: vô định hình, than chì lớp, và mạch. Than chì vô định hình có chất lượng thấp và phổ biến nhất. Khác với khoa học, trong công nghiệp "vô định hình" ở đây đê cập đến kích thước tinh thể rất nhỏ thay vì không có một cấu trúc tinh thể rõ ràng. Dạng vô định hình được sử dụng cho các sản phẩm than chì có giá trị thấp và là than chì có giá thấp nhất. Một lượng lớn các mỏ than chì vô định hình được phát hiện ở Trung Quốc, châu Âu, Mexico và Hoa Kỳ. Than chì Flake ít phổ biến hơn và có chất lượng cao hơn dạng vô định hình; nó có mặt ở dạng các tấm tách biệt được kết tinh trong đá biến chất. Than chì Flake có thể đắt gấp 4 lần dạng vô định hình. Flake chất lượng tốt có thể được xử lý thành than chì có thể giãn nở được dùng cho nhiều mục đích khác nhau như chất chống cháy. Các mỏ quan trọng nhất của dạng này được tìm thấy ở Áo, Brazil, Canada, Trung Quốc, Đức và Madagascar. Than chì dạng mạch là hiếm nhất, có giá trị nhất, và là loại than chì tự nhiên có chất lượng cao nhất. Nó xuất hiện ở các dạng mạch dọch theo các nơi tiếp xúc với đá xâm nhập, và loại thương mại được khai thác chỉ có tại Sri Lanka. Theo USGS, sản lượng than chì tự nhiên trên thế giới là 1,1 triệu tấn năm 2010, trong đó Trung Quốc là 800.00 tấn, Ấn Độ 130.000 tấn, Brazil 76.000 tấn, Triều Tiên 30.000 tấn và Canada 25.000 tấn. Than chì không có nguồn gốc tự nhiên đã được khai thác ở Hoa Kỳ, nhưng 118.000 tấn than chì tổng hợp có giá trị khoảng 998 triệu USD đã được sản xuất năm 2009. Các hợp chất. Hợp chất vô cơ. Các hợp chất chứa carbon phổ biến liên quan đến các khoáng vật hoặc không chứa hydro hoặc fluor được xem là một nhóm các hợp chất vô cơ riêng biệt; tuy nhiên định nghĩa này là không cứng nhắc. Oxide nổi tiếng nhất của carbon là carbon dioxide, CO2. Nó là thành phần nhỏ của Khí quyển Trái Đất, được sử dụng và sản sinh ra bởi các thực thể sống, và nó có mặt ở mọi nơi. Trong nước nó tạo thành một lượng nhỏ acid carbonic, H2CO3, nhưng giống như phần lớn các hợp chất với nhiều liên kết của các đơn nguyên tử oxy trên một nguyên tử carbon duy nhất là không bền. Thông qua trung gian này, các ion carbonat ổn định hơn được tạo ra. Một số khoáng chất quan trọng là các carbonat, nổi tiếng nhất là canxít. Carbon đisulfua, CS2, là tương tự. Các oxide khác là carbon monoxide, CO và carbon suboxide không phổ biến lắm, C3O2. Carbon monoxide được tạo ra do sự cháy không hết, và nó là chất khí không màu, không mùi. Các phân tử đều có liên kết ba và là phân cực thật sự, kết quả là chúng có xu hướng liên kết vĩnh cửu với các phân tử hemoglobin, vì thế khí này là một khí rất độc. Xyanide, CN-, có cấu trúc tương tự và có các tính chất rất giống với các ion halide; nitride cyanogen, (CN)2, là tương tự. Ví dụ, nó có thể tạo thành phân tử cyanogen nitrit (CN)2), tương tự như halide 2 nguyên tử. Cá oxide không phổ biến khác như carbon suboxide (), dicarbon monoxide không bền (C2O), carbon trioxide (CO3), cyclopentanepenton (C5O5) cyclohexanehexon (C6O6), và mellitic anhydride (C12O9). Khi phản ứng với các kim loại như wolfram, carbon tạo thành các carbide (C4–), hoặc acetylide () từ đó tạo ra các hợp kim có nhiệt độ nóng chảy cao. các anion này cũng kết hợp với methan và acetylen, cả hai đều là các acid rất yếu. Với độ âm điện 2,5, carbon tạo nên các liên kết cộng hóa trị. Một vài carbide có các ô mạng cộng hóa trị, giống như Carborunđum (SiC), có cấu trúc tương tự kim cương. Hợp chất với kim loại. Với các kim loại mạnh carbon tạo ra hoặc là các carbide, C-, hoặc các acetylide, C22-; các ion này có liên quan với methan và acetylen, cả hai đều là các acid rất yếu. Trên tất cả, với độ điện âm 2,55, carbon có xu hướng tạo ra các liên kết cộng hóa trị. Một số carbide là các lưới cộng hóa trị, giống như carborundum, SiC, là chất giống với kim cương. Mạch carbon. Các hydrocarbon là một mạch của các nguyên tử carbon, được bão hòa bởi các nguyên tử hydro. Các loại xăng dầu có mạch carbon ngắn. Các chất béo có mạch carbon dài hơn, và các loại sáp có mạch carbon cực dài. Cảnh báo. Carbon tương đối an toàn. Tuy nhiên, việc hít thở vào một lượng khói lớn chứa thuần túy bồ hóng có thể gây nguy hiểm. Carbon có thể bắt lửa ở nhiệt độ cao và cháy rất mãnh liệt (như trong vụ cháy Windscale). Có nhiều hợp chất của carbon là những chất độc chết người như các (cyanide, CN-), hay carbon monoxide, CO và một số các chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp khác. Điều chế. Cách để điều chế carbon là dùng kim loại mạnh là nhôm hoặc magnesi để khử một hợp chất oxide carbon bất kì thành carbon. Ví dụ: Sau đó cho hỗn hợp vào một dung dịch acid (không có tính oxy hóa mạnh) như HCl, H2SO4 loãng để hòa tan Al2O3 hoặc MgO, còn lại carbon không tan, ta lọc carbon ra khỏi dung dịch. Ngoài ra có thể điều chế carbon theo các phương trình sau nhưng hiệu suất không cao do khí hydro rất dễ bay lên:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Nguyễn Công Trứ (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ Đại Nam thời nhà Nguyễn. Ông làm quan qua các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Ông nổi bật về việc khai hoang, mộ dân ở trung châu miền Bắc Việt Nam, và lập nhiều chiến công trong việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình và trong Chiến tranh Việt–Xiêm (1841–1845). Tiểu sử. Nguyễn Công Trứ tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn. Ông sinh ngày mồng 1, tháng 11, năm Mậu Tuất (tức ngày 19 tháng 12 năm 1778) tại huyện lỵ Quỳnh Côi, phủ Thái Bình. Thân phụ là Nguyễn Công Tấn tước Đức Ngạn Hầu, quê ở làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tri phủ Tiên Hưng – Thái Bình, thân mẫu là Nguyễn Thị Phan, con gái quan Quản nội thị tước Cảnh Nhạc Bá dưới triều vua Lê –  chúa Trịnh. Ông mất ngày 14/11 năm Mậu Ngọ (tức ngày 7/12/1858), thọ 80 tuổi tại quê nhà làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân. Theo các nhà nghiên cứu, từ nhỏ ông nổi tiếng học giỏi, hay thơ văn, tính cách phóng khoáng. Lớn lên trong những năm cuối của nhà Tây Sơn, đến đầu nhà Nguyễn, sau bao lần lận đận "lều chõng", mãi đến năm 41 tuổi (1819), ông mới thi đậu Giải nguyên (1818–1847) làm quan dưới triều Nguyễn. Lần đầu tiên xuất chinh, Nguyễn Công Trứ giữ chức hành tẩu ở Quốc sử quán (1820). Sau đó ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Đường Hào, Hải Dương (1823), Tư nghiệp Quốc Tử Giám (1824), Phủ Thừa phủ Thừa Thiên (1825), tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ Hình (1826). Năm 1828, Nguyễn Công Trứ thăng Hữu Tham tri Bộ Hình, sang chức Dinh điền sứ. Năm 1832 ông được bổ chức Bố chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ Binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An. Năm 1840 giữ chức Tả Đô Ngự sử viện đô sát, kiêm Tham tri Bộ binh, tán lý cơ vụ đồn trấn Tây. Năm 1845 làm chủ sự Bộ hình, năm 1846 làm quyền án sát Quảng Ngãi, được 2 tháng, ông lại đổi ra làm Phủ Thừa phủ Thừa Thiên, đến năm 1847 thăng làm Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, Nguyễn Công Trứ xin về hưu. Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền 3-4 cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,… Năm Tự Đức thứ hai 1848, ông nghỉ hưu với chức vụ Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Trong sách "Đại Nam liệt truyện", Tập 3, Truyện các quan có nhận xét về ông: Sự nghiệp. Quân sự. Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại Gia Long và Minh Mạng nên đã xảy ra liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng được giao cầm quân, làm tướng và đánh đâu thắng đó: Ông cũng góp nhiều công lớn trong cuộc Chiến tranh Việt–Xiêm (1841-1845). Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, thì ông đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc. Kinh tế. Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực kinh tế được nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện nay còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên và quê hương ông. Nhiều đình chùa tại các địa phương này cũng thờ ông và tôn ông làm thành hoàng làng. Thơ ca. Nguyễn Công Trứ là người có tài. Là một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông khinh bỉ và ngán ngẩm nó. Hoặc: Hoặc: Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng giáng, coi làm quan thì cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo mạn: Chán chường với chốn quan trường nhưng ông không chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với ông cái gì cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế. (ông vì không được triều đình nhà Nguyễn trọng dụng cái tài của mình đặc biệt là ở thời vua Tự Đức nên ông chán chường mới than thở trời sinh cho nhưng không được dùng) Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa tình. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông không dùng ngựa mà dùng bò. 73 tuổi ông cưới vợ, trả lời cô dâu khi nàng hỏi tuổi: Hoặc trong bài "Bỡn nhân tình": Ngay lúc chua chát nhìn lại đời mình, ông vẫn là người đầy khí phách: "Ghi chú": Cây thông trong cách hiểu Nho-Khổng giáo là người quân tử. Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Có thể nói thơ ông sinh động, giàu triết lý nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt lõi. Hình ảnh công cộng. Tên của ông đã được lấy đặt cho nhiều con đường, trường học trên khắp đất nước.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Tế bào nhiên liệu kiềm (tiếng Anh: alkaline fuel cell) là loại tế bào nhiên liệu lâu đời nhất nếu không kể đến mô hình thực nghiệm của Grove. Tế bào nhiên liệu kiềm đã và vẫn đang được sử dụng trong ngành du hành vũ trụ và tàu ngầm. Đây là loại tế bào nhiên liệu duy nhất cần oxy và hiđrô thật tinh khiết để chuyển hóa năng lượng vì chỉ cần một lượng nhỏ các chất bẩn là đã có thể làm hỏng các tế bào. Kiềm kali được sử dụng làm chất điện phân. Tế bào nhiên liệu kiềm ít có khả năng được sử dụng thông thường vì các yêu cầu về độ tinh khiết của khí làm tăng giá thành của hệ thống lên rất cao. Tuổi thọ của tế bào nhiên liệu kiềm cũng bị hạn chế bởi việc thất thoát điện thế từ 15 mV đến 50 mV sau mỗi 1.000 giờ sử dụng. Tế bào nhiên liệu kiềm đã được sử dụng trong các chương trình Apollo, trong Skylab và các tàu con thoi.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Hydro là một nguyên tố hóa học trong hệ thống tuần hoàn các nguyên tố với nguyên tử số bằng 1, nguyên tử khối bằng 1 amu. Trước đây còn được gọi là khinh khí (như trong "bom khinh khí" tức bom H); hiện nay từ này ít được sử dụng. Sở dĩ được gọi là "khinh khí" là do hydro là nguyên tố nhẹ nhất và tồn tại ở thể khí, với trọng lượng nguyên tử 1,00794 amu. Hydro là nguyên tố phổ biến nhất trong vũ trụ, tạo nên khoảng 75% tổng khối lượng vũ trụ và tới trên 90% tổng số nguyên tử. Các sao thuộc dải chính được cấu tạo chủ yếu bởi hydro ở trạng thái plasma. Hydro nguyên tố tồn tại tự nhiên trên Trái Đất tương đối hiếm do khí hydro nhẹ nên trường hấp dẫn của Trái Đất không đủ mạnh để giữ chúng khỏi thoát ra ngoài không gian, do đó hydro tồn tại chủ yếu dưới dạng hydro nguyên tử trong các tầng cao của khí quyển Trái Đất. Đồng vị phổ biến nhất của hydro là proti, ký hiệu là H, với hạt nhân là một proton duy nhất và không có neutron. Ngoài ra hydro còn có một đồng vị bền là deuteri, ký hiệu là D, với hạt nhân chứa một proton và một neutron và một đồng vị phóng xạ là triti, ký hiệu là T, với hai neutron trong hạt nhân. Với vỏ nguyên tử chỉ có một electron, nguyên tử hydro là nguyên tử đơn giản nhất được biết đến, và cũng vì vậy nguyên tử hydro tự do có một ý nghĩa to lớn về mặt lý thuyết. Chẳng hạn, vì nguyên tử hydro là nguyên tử trung hòa duy nhất mà phương trình Schrödinger có thể giải được chính xác nên việc nghiên cứu năng lượng và cấu trúc điện tử của nó đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của cả cơ học lượng tử và hóa học lượng tử. Ở điều kiện thường, các nguyên tử hydro kết hợp với nhau tạo thành những phân tử gồm hai nguyên tử H2. (Ở những nhiệt độ cao, quá trình ngược lại xảy ra.) Khí hydro lần đầu tiên được điều chế một cách nhân tạo vào đầu thế kỷ XVI bằng cách nhúng kim loại vào trong một acid mạnh. Vào những năm 1766-1781, Henry Cavendish là người đầu tiên nhận ra rằng hydro là một chất riêng biệt và rằng khi bị đốt trong không khí nó tạo ra sản phẩm là nước. Tính chất này chính là nguồn gốc của tên gọi tiếng Pháp "hydrogène" (được tạo ra bằng cách ghép tiếp đầu ngữ tiếng Hy Lạp "hydro-", có nghĩa là "nước", với tiếp vĩ ngữ tiếng Pháp "-gène", có nghĩa là "tạo ra"). Ở điều kiện tiêu chuẩn, hydro là một chất khí lưỡng nguyên tử không màu, không mùi, không vị và là một phi kim. Trong các hợp chất ion, hydro có thể tồn tại ở hai dạng. Trong các hợp chất với kim loại, hydro tồn tại dưới dạng các anion hydride mang một điện tích âm, ký hiệu H-. Hydro còn có thể tồn tại dưới dạng các cation H+ là ion dương sinh ra do nguyên tử hydro bị mất đi một electron duy nhất của nó. Tuy nhiên một ion dương với cấu tạo chỉ gồm một proton trần trụi (không có electron che chắn) không thể tồn tại được trong thực tế do tính dương điện hay tính acid và do đó khả năng phản ứng với các phân tử khác của H+ là rất cao. Một cation hydro thực sự chỉ tồn tại trong quá trình chuyển proton từ các acid sang các base (phản ứng acid-base). Trong dung dịch nước H+ (do chính nước hoặc một loại acid khác phân ly ra) kết hợp với phân tử nước tạo ra các cation hydroni H3O+, thường cũng được viết gọn là H+. Ion này đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong hóa học acid-base. Hydro tạo thành các hợp chất cộng hóa trị với hầu hết các nguyên tố khác. Nó có mặt trong nước và hầu hết các hợp chất hữu cơ cũng như các cơ thể sống. Tính chất. Ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn hydro là một khí lưỡng nguyên tử có công thức phân tử H2, không màu, không mùi, dễ bắt cháy, có nhiệt độ sôi 20,27 K (-252,87 °C) và nhiệt độ nóng chảy 14,02 K (-259,14 °C). Tinh thể hydro có cấu trúc lục phương. Hydro có hóa trị 1 và có thể phản ứng với hầu hết các nguyên tố hóa học khác. Sự cháy. Khí hydro (hay phân tử hydro) có tính cháy cao và sẽ cháy trong không khí trong khoảng nồng độ thể tích từ 4% đến 75%. Entropy của quá trình cháy hydro là −286 kJ/mol: Khí hydro nổ với hỗn hợp không khí với nồng độ 4–74% và với clo nếu nồng độ nó là 5–95%. Hỗn hợp có thể được đốt cháy bằng tia lửa, nhiệt hoặc ánh sáng mặt trời. Nhiệt độ tự cháy của hydro trong không khí là . Hỗn hợp oxy-hydro tinh khiết cháy phát ra ánh sáng tử ngoại và hỗn hợp với nhiều oxy cháy gần như không thể quan sát bằng mắt thường như được minh họa trong Space Shuttle Main Engine so với chùm lửa dễ nhìn thấy của Space Shuttle Solid Rocket Booster. Việc phát hiện rò rỉ khí hydro cháy có thể cần một thiết bị báo cháy; rò rỉ như vậy có thể rất nguy hiểm. Ngọn lửa hydro trong các điều kiện khác là màu xanh, giống như ngọn lửa khí đốt thiên nhiên màu xanh. Nguyên tử hydro. Nguyên tử hydro là nguyên tử của nguyên tố hydro. Nó bao gồm một electron có điện tích âm quay xung quanh proton mang điện tích dương là hạt nhân của nguyên tử hydro. Điện tử và proton liên kết với nhau bằng lực Coulomb Đồng vị. Hydro có 3 đồng vị tự nhiên gồm , và . Các đồng vị khác có hạt nhân không bền ( đến ) được tổng hợp trong phòng thí nghiệm nhưng không quan sát được trong tự nhiên. Hydro là nguyên tố duy nhất có các tên gọi khác nhau cho các đồng vị của nó. (Trong giai đoạn đầu của nghiên cứu phóng xạ, các đồng vị phóng xạ nặng khác nhau cũng được đặt tên, nhưng các tên gọi này không được sử dụng, mặc dù một nguyên tố, radon, có tên gọi mà nguyên thủy được dùng chỉ cho một đồng vị của nó). Các ký hiệu D và T (thay vì H2 và H3) đôi khi được sử dụng để chỉ đơteri và triti, mặc dù điều này không được chính thức phê chuẩn. Ký hiệu P đã được sử dụng cho phosphor và không thể sử dụng để chỉ proti. Lịch sử. Phát hiện và sử dụng. Hydro (trong tiếng Pháp, hydrogène, "hydr-", thân từ của hydros, tiếng Hy Lạp nghĩa là "nước", và "-gène", tiếng Pháp nghĩa là "sinh", có nghĩa là "sinh ra nước" khi hợp với Oxy Năm 1671, Robert Boyle đã phát hiện và miêu tả phản ứng giữa sắt và acid loãng sinh ra khí hydro. Năm 1766, Hydro lần đầu tiên được Henry Cavendish phát hiện như một chất riêng biệt, và đặt tên khí từ phản ứng kim loại-acid là "khí có thể cháy". và phát hiện năm 1781 rằng khí này tạo ra nước khi đốt. Ông thường được tín dụng cho phát hiện của nó như là một yếu tố. Cavendish tình cờ tìm ra nó khi thực hiện các thí nghiệm với thủy ngân và các acid. Mặc dù ông đã sai lầm khi cho rằng hydro là hợp chất của thủy ngân (và không phải của acid), nhưng ông đã có thể miêu tả rất nhiều thuộc tính của hydro rất cẩn thận. Năm 1783, Antoine Lavoisier đặt tên cho nguyên tố này và chứng tỏ nước được tạo ra từ hydro và oxy. Không lâu sau, ông và Laplace lập lại thí nghiệm phát hiện của Cavendish thì nước được tạo ra khi hydro bị đốt cháy. Lavoisier tạo ra hydro từ các thí nghiệm nổi tiếng của ông về bảo tồn khối lượng bằng cách phản ứng của dòng hơi nước với sắt kim loại qua một sống sắt nung trên lửa. Quá trình oxy hóa kỵ khí của sắt của các proton của nước ở nhiệt độ cao có thể được biểu diễn theo các phản ứng sau: Nhiều kim loại như zirconi trải qua phản ứng tương tự với nước tạo ra hydro. Hydro được hóa lỏng lần đầu tiên bởi James Dewar năm 1898 bằng cách sử dụng bộ phận làm lạnh và phát minh của ông phích nước. Ông đã tạo ra hydro rắn vào năm sau đó. Deuteri được Harold Urey phát hiện vào tháng 12 năm 1931 bằng cách chưng cất một mẫu nước nhiều lần, với phát minh này Urey nhận giải Nobel năm 1934. Triti được Ernest Rutherford, Mark Oliphant, và Paul Harteck điều chế năm 1934. Nước nặng được nhóm của Urey phát hiện năm 1932. François Isaac de Rivaz đã tạo động cơ de Rivaz đầu tiên sử dụng năng lượng từ việc đốt cháy hỗn hợp hydro và oxy năm 1806. Edward Daniel Clarke đã phát minh ra ống xì hàn hydro năm 1819. Đèn Döbereiner và đèn sân khấu được phát minh năm 1823. Một trong những ứng dụng đầu tiên của nó là khinh khí cầu, được Jacques Charles phát minh năm 1783.. Hydro tạo lực nâng cho dạng du hành trên không vào năm 1852, đây là phát minh tàu hàng không dùng lực nâng hydro đầu tiên của Henri Giffard. Ferdinand von Zeppelin đã thúc đẩy ý tưởng khi khí cầu cứng dùng lực nâng của hydro mà sau này được gọi là Zeppelin; khinh khí cầu đầu tiên bay năm 1900. Các chuyến bay trở nên thường xuyên hơn bắt đầu năm 1910 và khi nổ ra chiến tranh thế giới thứ nhất vào tháng 8 năm 1914, khi khí cầu đã vận chuyển 35.000 hành khách mà không có tai nạn nghiêm trọng. Tàu không khí lực nâng hydro được dùng làm các điểm qua sát và thả bom trong suốt cuộc chiến. Vai trò trong thuyết lượng tử. Do cấu trúc nguyên tử tương đối đơn giản của nó chỉ gồm một proton và một electron, nguyên tử hydro, cùng với quang phổ ánh sáng từ nó hoặc nó hấp thụ, là trung tâm của sự phát triển học thuyết về cấu trúc nguyên tử. Hơn thế nữa, sự đơn giản tương ứng của phân tử hydro và cation tương ứng cho phép hiểu biết đầy đủ hơn về các liên kết hóa học tự nhiên, sau một thời gian ngắn sau khi cơ học lượng tử của nguyên tử hydro đã được phát triển vào giữa thập niên 1920. Một trong những hiệu ứng lượng tử đầu tiên được nhận thấy rõ ràng là quan sát của Maxwell liên quan đến hydro, nửa thế kỷ trước khi học thuyết cơ học lượng tử được phát triển toàn diện. Maxwell đã quan sát nhiệt dung riêng của H2 không thể tính được của khí hai nguyên tử dưới nhiệt độ phòng và bắt đầu ngày càng giống với khí đơn nguyên tử ở nhiệt độ đông đặc. Theo thuyết lượng tử, ứng xử này xuất phát từ khoảng cách các mức năng lượng quay (lượng tử hóa), nó làm mở rộng khoảng cách trong H2 do khối lượng thấp của nó. Các mức khoảng cách rộng này ức chế tỷ lệ bằng nhau của năng lượng nung trong chuyển động quay trong hydro ở các mức nhiệt độ thấp. Các khí hai nguyên tử bao gồm các nguyên tử nặng hơn không có các mức khoảng cách rộng này và không thể hiện cùng hiệu ứng. Trạng thái thiên nhiên. Hydro là nguyên tố phổ biến nhất trong vũ trụ, chiếm 75% các vật chất thông thường theo khối lượng và trên 90% theo số lượng nguyên tử. Nguyên tố này được tìm thấy với một lượng khổng lồ trong các ngôi sao và các hành tinh khí khổng lồ. Các đám mây phân tử của H2 liên quan đến sự hình thành sao. Hydro đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp năng lượng ngôi sao thông qua phản ứng proton-proton và tổng hợp hạt nhân chu trình CNO. Trong khắp vũ trụ, hydro được tìm thấy chủ yếu ở các trạng thái nguyên tử và plasma với các tính chất khác với hydro phân tử. Ở dạng plasma, electron và proton của hydro không liên kết cùng nhau, tạo thành các chất dẫn diện rất cao và phát xạ cao. Các hạt tích điện bị ảnh hưởng cao bởi từ trường và điện trường. Ví dụ, gió mặt trời tương tác với từ quyển của Trái Đất làm tăng dòng Birkeland và Aurora. Hydro được phát hiện ở trạng thái nguyên tử trung hòa điện trong các môi trường liên sao. Một lượng lớn hydro trung hòa được tìm thấy trong các hệ Lyman-alpha bị hãm được cho là thống trị mật độ baryon vũ trụ của Vũ trụ đến dịch chuyển đỏ "z"=4. Tuy vậy, trên Trái Đất nó có rất ít trong khí quyển (1 ppm theo thể tích). Tuy nhiên, hydro là nguyên tố phổ biến thứ 3 trên bề mặt Trái Đất, chủ yếu là ở dạng hợp chất hóa học như nước và hydrocarbon. Hydro được tạo ra bởi một số vi khuẩn và tảo và là thành phần tự nhiên của trung tiện như ở dạng methan, là nguồn hydro có độ quan trọng ngày càng cao. Các nguồn khác bao gồm phần lớn các chất hữu cơ (hiện tại là mọi dạng của cơ thể sống), than, nhiên liệu hóa thạch và khí tự nhiên. Metan (CH4) là một nguồn quan trọng của hydro. Dưới áp suất cực cao, chẳng hạn như tại trung tâm của các hành tinh khí khổng lồ (như Sao Mộc), các phân tử hydro mất đặc tính của nó và hydro trở thành một kim loại (xem hydro kim loại). Dưới áp suất cực thấp, như trong khoảng không vũ trụ, hydro có xu hướng tồn tại dưới dạng các nguyên tử riêng biệt, đơn giản vì không có cách nào để chúng liên kết với nhau; các đám mây H2 tạo thành và được liên kết trong quá trình hình thành các ngôi sao. Hydro đóng vai trò sống còn trong việc cung cấp năng lượng trong vũ trụ thông qua các phản ứng proton-proton và chu trình carbon - nitơ. (Đó là các phản ứng nhiệt hạch giải phóng năng lượng khổng lồ thông qua việc tổ hợp hai nguyên tử hydro thành một nguyên tử heli.) Điều chế, sản xuất. Trong phòng thí nghiệm, hydro được điều chế bằng phản ứng của acid với kim loại (có thể sử dụng bình Kipp), như kẽm chẳng hạn. Để sản xuất công nghiệp có giá trị thương mại nó được điều chế từ khí thiên nhiên. Điện phân nước là biện pháp đơn giản nhưng không kinh tế để sản xuất hàng loạt hydro. Các nhà khoa học đang nghiên cứu để tìm ra những phương pháp điều chế mới như sản xuất hydro sinh học sử dụng quá trình quang phân ly nước ở tảo lục hay việc chuyển hóa các dẫn xuất sinh học như glucose hay sorbitol ở nhiệt độ thấp bằng các chất xúc tác mới. Hydro có thể điều chế theo nhiều cách khác nhau: hơi nước qua than (carbon) nóng đỏ, phân hủy hydrocarbon bằng nhiệt, phản ứng của các base mạnh (kiềm) trong dung dịch với nhôm, điện phân nước hay khử từ acid loãng với một kim loại (có khả năng đẩy hydro từ acid) nào đó. Việc sản xuất thương mại của hydro thông thường là từ khí tự nhiên được xử lý bằng hơi nước nóng. Ở nhiệt độ cao (700-1.100 °C), hơi nước tác dụng với methan để sinh ra carbon monoxit và hydro. Điện phân dung dịch có màng ngăn: Điện phân nước: Lượng hydro bổ sung có thể thu được từ carbon monoxit thông qua phản ứng nước-khí sau: Hợp chất. Là nhẹ nhất trong mọi chất khí, hydro liên kết với phần lớn các nguyên tố khác để tạo ra hợp chất. Nó có độ điện âm 2,2 vì thế nó tạo ra hợp chất ở những chỗ mà nó là nguyên tố mang tính phi kim loại nhiều hơn (1) cũng như khi nó là nguyên tố mang tính kim loại nhiều hơn (2). Các chất loại đầu tiên gọi là hydride, trong đó hydro hoặc là tồn tại dưới dạng ion H- hay chỉ là hòa tan trong các nguyên tố khác (chẳng hạn như paladi hydride). Các chất loại thứ hai có xu hướng cộng hóa trị, khi đó ion H+ là một hạt nhân trần và có xu hướng rất mạnh để hút các điện tử vào nó. Các dạng này là các acid. Vì thế thậm chí trong các dung dịch acid người ta có thể tìm thấy các ion như hydroni (H3O+) cũng như proton. Hydro kết hợp với oxy tạo ra nước, H2O và giải phóng ra năng lượng, nó có thể nổ khi cháy trong không khí. Oxit deuteri, hay D2O, thông thường được nói đến như nước nặng. Hydro cũng tạo ra phần lớn các hợp chất với carbon. Vì sự liên quan của các chất này với các loại hình sự sống nên người ta gọi các hợp chất này là các chất hữu cơ, việc nghiên cứu các thuộc tính của các chất này thuộc về hóa hữu cơ. Các phản ứng sinh học. H2 là một sản phẩm của nhiều kiểu trao đổi chất kỵ khí và được nhiều dạng vi sinh vật sinh ra, thường thông qua các phản ứng có xúc tác các enzym chứa sắt hoặc nickel được gọi là hydrogenase. Các enzyme này xúc tác phản ứng oxy hóa khử thuận nghịch giữa H2 và 2 proton và 2 electron của nó. Sự tạo thành khí hydro xảy ra khi chuyển dịch cân bằng theo hướng khử được tạo ra trong khi lên men pyruvat đối với nước. Việc phân cắt phân tử nước thành các proton, electron, và oxy xảy ra trong các phản ứng phụ thuộc sáng trong tất cả các sinh vật quang hợp. Một số sinh vật này bao gồm cả tảo "Chlamydomonas reinhardtii" và vi khuẩn lam, đã tiến hóa hai bước trong các phản ứng tối mà trong đó các proton và electron bị khử để tạo ra khí H2 bởi các enzym biệt hóa trong lục lạp. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để can thiệp về mặt di truyền của các enzym vi khuẩn lam để tổng hợp một cách hiệu quả khí H2 thậm chí có mặt oxy. Những nỗ lực cũng đã thực hiện đối với gen của tảo trong phản ứng sinh học. Cảnh báo. Hydro là một chất khí dễ bắt cháy, nó cháy khi mật độ chỉ có 4%. Nó có phản ứng cực mạnh với clo và fluor, tạo thành các acid hydrohalic có thể gây tổn thương cho phổi và các bộ phận khác của cơ thể. Khi trộn với oxy, hydro nổ khi bắt lửa. Hydro cũng có thể nổ khi có dòng điện đi qua. Hydro biểu hiện một số mối nguy hiểm đối với sự an toàn của con người như khả năng cháy, nổ khi trộn với không khí với oxy tự do. Ngoài ra, hydro lỏng là một hỗn hợp lạnh và thể hiện các mối nguy hiểm (như làm tê cóng) liên quan đến chất lỏng rất lạnh. Hydro hòa tan trong nhiều kim loại, và khi rò rỉ có thể có những ảnh hưởng xấu đến các kim loại như tính giòn do hydro, làm rạn nứt và gây nổ. Khí hydro rò rỉ vào không khí có thể tự cháy. Hơn thế nữa, hydro cháy khi nhiệt độ rất cao hầu như không nhìn thấy và điều này có thể gây bỏng. Thậm chí việc giải đoán dữ liệu hydro (bao gồm cả dữ liệu an toàn) vẫn chưa rõ ràng bởi một số hiện tượng. Nhiều tính chất vật lý và hóa học của hydro phụ thuộc tỷ số đồng phân spin parahydro/orthohydron (nó thường mất vài ngày hoặc vài tuần ở một nhiệt độ cho trước để đạt đến tỉ số cân bằng, từ đó mới lấy được số liệu). Các thông số cháy nổ hydro như áp suất và nhiệt độ ngưỡng cháy nổ, phụ thuộc mạnh vào hình dạng của vật thể chứa chúng.
17
17_electron_in_nhit_lng
[ "electron", "in", "nhit", "lng", "neutron", "thuyt", "ht", "einstein", "proton", "quark" ]
[ "Trong vật lý hạt nhân, năng lượng tách là năng lượng cần thiết để loại bỏ một hạt nhân (hoặc một hạt hoặc nhiều hạt được chỉ định khác) khỏi hạt nhân nguyên tử.\nNăng lượng tách khác nhau đối với mỗi hạt nhân và các hạt được loại bỏ. Các giá trị được liệt kê có thể là \"năng lượng tách neutron\", \"năng lượng tách hai neutron\", \"năng lượng tách proton\", \"năng lượng tách deuteron\", \"năng lượng tách alpha\", v.v.\nNăng lượng tách thấp nhất trong số các hạt nhân ổn định là 1,67 MeV, để loại bỏ một neutron ra khỏi beryllium-9.\nNăng lượng có thể được thêm vào hạt nhân bằng cách chiếu vào một tia gamma năng lượng cao. Nếu năng lượng của photon đạt đến mức vượt quá năng lượng tách, sựphân hủy quang có thể xảy ra. Năng lượng vượt quá giá trị ngưỡng trở thành động năng của hạt bị đẩy ra.\nNgược lại, năng lượng liên kết hạt nhân là năng lượng cần thiết để tháo rời hoàn toàn hạt nhân, hoặc năng lượng được giải phóng khi hạt nhân được lắp ráp từ các hạt nhân. Nó là tổng của nhiều năng lượng tách, nên được cộng vào cùng một tổng số bất kể thứ tự lắp ráp hay tháo gỡ.\nVật lý và hóa học.\nNăng lượng tách electron hoặc năng lượng liên kết electron là năng lượng cần thiết để loại bỏ một electron ra khỏi nguyên tử trung tính hoặc phân tử (hoặc cation) được gọi là năng lượng ion hóa. Phản ứng dẫn đến quang hóa, quang dẫn, hiệu ứng quang điện, quang điện, v.v.\nNăng lượng phân ly liên kết là năng lượng cần thiết để phá vỡ một liên kết của phân tử hoặc một ion, thường tách một nguyên tử hoặc nhiều nguyên tử.", "Bắt giữ electron kép là một phương thức phân rã của hạt nhân nguyên tử. Đối với một đồng vị phóng xạ (\"A\", \"Z\") có số hạt nhân \"A\" và số nguyên tử \"Z\", chỉ có thể bắt được electron kép nếu khối lượng của đồng vị phóng xạ của (\"A\", \"Z\"-2) thấp hơn.\nTrong phương thức phân rã này, hai trong số các electron quỹ đạo bị bắt bởi hai proton trong hạt nhân, tạo thành hai neutron. Hai neutrino được phát ra trong quá trình này. Vì các proton được thay đổi thành neutron, số lượng neutron tăng thêm 2, số lượng proton \"Z\" giảm đi 2 và số khối nguyên tử \"A\" không đổi. Bằng cách thay đổi số lượng proton, sự bắt electron kép sẽ biến đổi các hạt nhân thành một nguyên tố mới.\nVí dụ:\nĐộ hiếm.\nTrong hầu hết các trường hợp, phương thức phân rã này sẽ xảy ra ít hơn bởi có nhiều phương thức có thể xảy ra hơn (bắt giữ electron đơn...), nhưng khi tất cả các phương thức này bị “cấm” (bị triệt tiêu mạnh), bắt giữ electron kép sẽ trở thành phương thức phân rã chính.\nCó 34 đồng vị xuất hiện tự nhiên có thể trải qua quá trình bắt electron kép. Tuy nhiên, chỉ có ba quan sát được xác nhận về quá trình này: , , and .\nMột lý do là xác suất xảy ra bắt giữ electron kép là rất nhỏ (dự đoán lý thuyết về chu kỳ bán rã cho phương thức này là trên 10 năm). Lý do thứ hai là các hạt duy nhất có thể phát hiện được tạo ra trong quá trình này là các tia X và electron Auger được phát ra từ lớp vỏ nguyên tử bị kích thích. Trong phạm vi năng lượng của chúng (~1-10 keV), nền thường cao. Do đó, việc phát hiện và thử nghiệm bắt giữ electron kép khó khăn hơn so với phân rã beta kép. Việc bắt electron kép có thể đi kèm với sự kích thích của hạt nhân con. Lần lượt, sự khử kích thích của nó đi kèm với sự phát xạ của các photon có năng lượng lên đến hàng trăm keV.\nCác phương thức phát xạ positron.\nNếu sự chênh lệch khối lượng giữa các nguyên tử mẹ và con lớn hơn hai lần khối lượng của một electron (1,022 MeV), năng lượng được giải phóng trong quá trình này đủ để cho phép một phương thức phân rã khác được gọi là bắt electron bằng phát xạ positron. Nó xảy ra cùng với việc bắt electron kép, tỷ lệ phân nhánh của chúng tùy thuộc vào tính chất hạt nhân. Khi chênh lệch khối lượng lớn hơn bốn lần khối lượng electron (2,044 MeV), phương thức thứ ba, được gọi là phân rã positron kép, được cho phép. Chỉ có 6 đồng vị phóng xạ tự nhiên có thể phân rã thông qua ba phương thức này cùng một lúc.\nBắt giữ electron kép phi neutrino.\nQuá trình được mô tả ở trên với việc bắt giữ hai electron và phát xạ hai neutrino (bắt electron kép neutrino) được cho phép theo Mô hình Chuẩn của vật lý hạt: không vi phạm luật bảo tồn (bao gồm bảo toàn số lepton). Tuy nhiên, nếu số lepton không được bảo toàn hoặc neutrino là phản hạt của chính nó, thì một loại quá trình khác có thể xảy ra, được gọi là bắt giữ electron kép phi neutrino. Trong trường hợp này, hai electron bị hạt nhân bắt giữ, nhưng neutrino không được phát ra. Năng lượng được giải phóng trong quá trình này được mang đi bởi một lượng tử gamma bremsstrahlung.\nVí dụ:\nPhương thức phân rã này chưa bao giờ được quan sát bằng thực nghiệm và sẽ mâu thuẫn với Mô hình Chuẩn nếu nó được quan sát.", "Electron hay điện tử, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ nhất trong họ các hạt lepton, và nói chung được coi là những hạt cơ bản bởi vì chúng không có các thành phần nhỏ hay cấu trúc con. Electron có khối lượng xấp xỉ bằng 1/1836 so với của proton. Các tính chất cơ học lượng tử của electron bao gồm giá trị mômen động lượng (spin) bằng một nửa đơn vị, biểu diễn theo đơn vị của hằng số Planck thu gọn, \"ħ\". Vì là một fermion, trong hệ cô lập không có hai electron nào có thể ở cùng một trạng thái lượng tử, như nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli. Giống như tất cả các hạt cơ bản khác, electron thể hiện cả các tính chất của sóng và hạt: chúng có thể va chạm với các hạt khác và bị nhiễu xạ như ánh sáng. Các tính chất sóng của electron dễ dàng được quan sát thấy ở các thí nghiệm hơn so với những hạt khác ví dụ như neutron và proton bởi vì electron có khối lượng nhỏ hơn và do vậy có bước sóng de Broglie dài hơn ở cùng một mức năng lượng.\nElectron có vai trò cơ bản ở nhiều hiện tượng vật lý, như điện, từ học, hóa học và độ dẫn nhiệt. Ngoài ra nó cũng tham gia vào tương tác hấp dẫn, điện từ và yếu. Vì một electron mang điện tích, bao xung quanh nó là điện trường, và nếu electron chuyển động tương đối với một người quan sát, nó sẽ cảm ứng một từ trường. Trường điện từ tạo ra bởi những nguồn khác sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của hạt electron tuân theo định luật lực Lorentz. Electron phát ra hay hấp thụ năng lượng dưới dạng các photon khi chúng chuyển động gia tốc. Các thiết bị ở phòng thí nghiệm có khả năng bẫy từng electron đơn lẻ cũng như các electron plasma bằng sử dụng điện từ trường. Những kính thiên văn đặc biệt có thể phát hiện electron plasma trong không gian vũ trụ. Electron tham dự vào nhiều ứng dụng thực tiễn như điện tử học, hàn tia điện tử, ống tia âm cực, kính hiển vi điện tử, trị liệu bức xạ, laser electron tự do, máy dò khí ion hóa và máy gia tốc hạt.\nCác tương tác có sự tham gia của những electron với các hạt khác là một trong những chủ đề nghiên cứu của hóa học và vật lý hạt nhân. Tương tác lực Coulomb giữa các proton mang điện dương bên trong hạt nhân nguyên tử và các electron mang điện âm ở orbital cấu thành lên nguyên tử. Sự ion hóa hay sự chênh lệch giữa số electron mang điện âm và hạt nhân mang điện dương làm thay đổi năng lượng liên kết của một hệ nguyên tử. Sự trao đổi hay chia sẻ các electron giữa hai hay nhiều nguyên tử là nguyên nhân chủ yếu tạo ra liên kết hóa học. Năm 1838, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming lần đầu tiên đã đặt ra khái niệm về một đại lượng điện tích không thể chia nhỏ hơn nhằm giải thích các tính chất hóa học của các nguyên tử. Nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney sau đó đặt tên đại lượng điện tích này là 'electron' vào năm 1891, và sau đó J. J. Thomson cùng các cộng sự người Anh cuối cùng đã phát hiện ra electron có biểu hiện của một hạt cơ bản vào năm 1897. Electron cũng tham gia vào các phản ứng hạt nhân, như quá trình tổng hợp lên các hạt nhân nặng hơn trong các sao, mà chúng thường được gọi là các hạt beta. Electron cũng có thể được tạo ra trong phân rã beta từ các đồng vị phóng xạ và trong các va chạm năng lượng cao, như ở sự kiện các tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển. Phản hạt của electron được gọi là positron; nó có tính chất đồng nhất với electron ngoại trừ các tích như điện tích mang dấu ngược lại. Khi một electron va chạm với một positron, cả hai hạt bị hủy, tạo ra hai photon tia gamma năng lượng cao.\nLịch sử.\nKhám phá ra hiệu ứng của lực điện.\nNgười Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy rằng khi dùng bộ lông thú chà xát vào hổ phách thì nó có khả năng hút được những vật nhỏ. Cùng với sét, đây là một trong những hiện tượng về điện được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử loài người. Trong luận thuyết \"De Magnete\" viết năm 1600, nhà khoa học người Anh William Gilbert đưa ra thuật ngữ trong tiếng Latin mới là , để kể đến những chất có tính chất tương tự như hổ phách với khả năng có thể hút được những vật nhỏ khi chà xát với lông thú. Cả hai thuật ngữ \"electric\" và \"electricity\" đều có nguồn gốc từ tiếng Latin ' (cũng là từ nguyên của hợp kim có cùng tên); ' có từ nguyên bắt nguồn từ chữ hổ phách trong tiếng Hy Lạp, (\"\").\nKhám phá hai loại điện tích.\nĐầu những năm 1700, nhà hóa học người Pháp Charles François du Fay phát hiện thấy nếu một lá vàng tích điện bị đẩy bởi một que thủy tinh khi chà nó với lụa, thì cùng lá vàng tích điện này lại bị hút bởi hổ phách khi chà vào bông sợi. Từ quan sát này cùng những kết quả thí nghiệm tương tự, du Fay kết luận rằng điện phải chứa hai loại chất lỏng mang điện, chất lỏng \"vitreous\" từ đũa thủy tinh khi chà xát vào lụa và chất lỏng \"resinous\" từ hổ phách khi chà vào bông sợi. Hai chất lỏng này có thể trung hòa lẫn nhau khi được kết hợp lại. Nhà khoa học người Mỹ Ebenezer Kinnersley sau đó cũng độc lập đi đến kết luận tương tự của du Fay. Một thập kỷ sau, Benjamin Franklin đề xuất rằng điện không cấu tạo từ những loại chất lỏng điện khác nhau, mà là một chất lỏng điện có biểu hiện dư thừa (+) hay thiếu hụt (−) điện tích. Ông đưa ra thuật ngữ hiện đại tương ứng với chúng là điện tích dương và điện tích âm. Franklin từng nghĩ về chất mang điện sẽ có điện tích dương, nhưng ông đã không miêu tả đúng tình huống khi nào chất sẽ dư thừa điện tích, và khi nào bị thiếu hụt điện tích.\nGiữa các năm 1838 và 1851, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming phát triển ý tưởng cho rằng một nguyên tử là tổ hợp bao gồm một lõi vật chất được bao quanh bởi những hạt nhỏ hơn nguyên tử mà có điện tích bằng số lần điện tích đơn vị. Đầu năm 1846, nhà vật lý người Đức William Weber đưa ra lý thuyết miêu tả điện là chất tổng hợp bởi các chất lỏng tích điện dương và âm, và tương tác giữa chúng bị chi phối bởi luật nghịch đảo bình phương. Sau khi nghiên cứu hiện tượng điện phân vào năm 1874, nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney gợi ý có tồn tại một \"đại lượng xác định duy nhất cho điện\", điện tích của một ion hóa trị một. Ông đã có thể ước lượng giá trị của điện tích cơ bản \"e\" này bằng cách áp dụng định luật điện phân Faraday. Tuy nhiên, Stoney lại tin rằng những điện tích này lại gắn chặt vĩnh cửu vào nguyên tử và không thể bị tách rời. Năm 1881, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz cho rằng cả điện tích dương và điện tích âm có thể chia ra thành những thành phần cơ bản, mỗi một chúng \"hành xử như những nguyên tử của điện\".\nStoney ban đầu đưa ra thuật ngữ \"electrolion\" vào năm 1881. Mười năm sau, ông chuyển sang sử dụng \"electron\" để miêu tả những điện tích cơ bản này, khi ông viết vào năm 1894: \"... một ước lượng được thực hiện để tính toán số lượng thực tế của đơn vị điện cơ bản điển hình nhất này, mà tôi đã từng dám gợi ý đặt tên là \"electron\"\". Đã có một đề xuất vào năm 1906 nhằm đổi sang tên gọi \"electrion\" nhưng đã thất bại bởi vì Hendrik Lorentz vẫn thích tên gọi \"electron\" hơn. Từ \"electron\" là tổ hợp của các từ \"electric\" và \"ion\". Hậu tố -\"on\" mà hiện nay được sử dụng để đặt tên cho các hạt cơ bản khác, như proton hoặc neutron, có nguồn gốc bắt nguồn từ cách đặt tên cho electron.\nKhám phá ra các electron tự do bên ngoài vật chất.\nKhi nghiên cứu hiện tượng dẫn điện trong khí loãng vào năm 1859, nhà vật lý người Đức Julius Plücker quan sát thấy ánh sáng lân quang, vốn được tạo thành bởi bức xạ phát ra từ cathode, xuất hiện tại thành ống gần cathode, và vùng ánh sáng lân quang đó có thể di chuyển bằng việc ứng dụng từ trường. Năm 1869, Johann Wilhelm Hittorf, một học trò của Plücker, phát hiện rằng một vật rắn đặt giữa cathode và vùng lân quang tạo ra một vùng tối trên vùng lân quang của ống. Hittorf kết luận rằng có những tia truyền thẳng phát ra từ cathode và vùng lân quang đó được tạo ra bởi các tia chiếu qua thành ống. Năm 1876, nhà vật lý người Đức Eugen Goldstein chỉ ra rằng các tia này được phát ra theo phương vuông góc với mặt cathode, mặt phân cách giữa các tia phát ra từ cathode và ánh sáng sợi đốt. Goldstein đặt tên cho những tia này là tia âm cực. Công cuộc nghiên cứu về tia âm cực kéo dài hàng thập kỷ cả về lý thuyết và thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình khám phá ra electron của J. J. Thomson.\nTrong thập niên 1870, nhà hóa lý người Anh Sir William Crookes đã phát triển ống tia âm cực đầu tiên với môi trường chân không cao bên trong. Sau đó ông chứng tỏ rằng các tia phát quang xuất hiện bên trong ống có mang năng lượng và chuyển động từ phía cathode sang anode. Hơn nữa, khi đặt vào một từ trường, ông đã làm lệch đường đi của chùm tia, do đó chứng tỏ thêm chùm tia hành xử như nó chứa điện tích âm. Năm 1879, ông đề xuất rằng những tính chất này có thể được giải thích bằng cách coi rằng các tia âm cực bao gồm các phân tử khí mang điện tích âm trong trạng thái thứ tư của vật chất mà trong đó quãng đường tự do của các phân tử lớn đến mức có thể bỏ qua va chạm.\nNhà vật lý người Anh sinh ở Đức Arthur Schuster tiến hành mở rộng các thí nghiệm của Crookes khi đặt những tấm kim loại song song với chùm tia cathode và áp dụng vào một điện thế giữa các tấm này. Điện trường đã làm lệch chùm tia về phía tấm kim loại tích điện dương, chứng cứ đã củng cố thêm cho kết luận chùm tia mang điện tích âm. Bằng cách đo độ lệch của chùm tia tương ứng với từng lần điều chỉnh dòng điện giữa hai tấm kim loại, năm 1890 Schuster đã ước lượng được tỷ số khối lượng−điện tích của các thành phần trong chùm tia. Tuy vậy, giá trị ông thu được lớn hơn 1000 lần so với giá trị được dự đoán, do đó ít người đã để ý đến kết quả tính toán của ông vào thời điểm đó.\nNăm 1892, Hendrik Lorentz gợi ý rằng khối lượng của những hạt này (electron) có thể là hệ quả của lượng điện tích mà chúng mang theo.\nKhi đang nghiên cứu các khoáng chất huỳnh quang tự nhiên vào năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá thấy chúng phát ra các bức xạ mà không cần phải chiếu thêm một nguồn năng lượng từ bên ngoài. Những vật liệu phóng xạ này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học, bao gồm nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, ông đã phát hiện vật liệu phóng xạ có phát ra các hạt. Ông gọi những hạt này là các hạt alpha và hạt beta, dựa trên khả năng đâm xuyên của chúng qua vật chất. Năm 1900, Becquerel đã chứng tỏ chùm tia beta phát ra từ hạt nhân radium có thể bị làm lệch hướng trong một điện trường, và tỷ số khối lượng trên điện tích của chúng bằng với tỷ số này của chùm tia cathode. Chứng cứ này đã củng cố thêm quan điểm cho rằng electron tồn tại như là một trong các thành phần của nguyên tử.\nNăm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson, cùng với các đồng nghiệp John S. Townsend và H. A. Wilson, đã thực hiện các thí nghiệm chỉ ra chùm tia cathode thực sự chứa các hạt, hơn là một loại sóng, những hạt nguyên tử hoặc phân tử như nhiều nhà khoa học từng tin như vậy trước đó. Thomson đã có kết quả ước lượng khá tốt về điện tích \"e\" và khối lượng \"m\" của hạt tia cathode, mà ông gọi là \"corpuscles\", nó có khối lượng bằng một phần nghìn khối lượng của ion nhẹ nhất: ion hydro. Ông cũng đã chứng minh tỷ số điện tích−khối lượng, \"e\"/\"m\", có giá trị độc lập với vật liệu của bản cực cathode. Ông tiếp tục chứng tỏ thêm các vật liệu phóng xa, vật liệu nung nóng và vật liệu bị chiếu xạ có phát ra các hạt mang điện tích âm. Tên gọi electron về sau được cộng đồng khoa học chấp nhận sử dụng rộng rãi, chủ yếu do đề xuất của G. F. FitzGerald, J. Larmor và H. A. Lorentz.\nĐiện tích của electron đã được đo một cách chính xác hơn bởi các nhà vật lý Mỹ Robert Millikan và Harvey Fletcher trong thí nghiệm giọt dầu vào năm 1909, và kết quả được công bố vào 1911. Thí nghiệm sử dụng một điện trường để hãm các giọt dầu mang điện tích rơi trong không khí dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Thiết bị của họ có thể đo điện tích của 1–150 ion với sai số là 0,3%. Trước đó nhóm của Thomson cũng thực hiện thí nghiệm tương tự, sử dụng đám mây chứa các giọt nước tích điện tạo ra bởi sự điện phân,và thí nghiệm thực hiện bởi Abram Ioffe năm 1911, ông đã thu được kết quả tương tự một cách độc lập với nhóm Millikan khi sử dụng các vi hạt kim loại tích điện, và kết quả được công bố vào năm 1913. Tuy nhiên, các giọt dầu có tính ổn định hơn giọt nước bởi vì chúng có tốc độ bốc hơi chậm hơn, và do đó phù hợp hơn với thí nghiệm chính xác đòi hỏi thực hiện trong thời gian dài hơn.\nVào thời điểm bắt đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng dưới những điều kiện nhất định một hạt tích điện chuyển động nhanh trong buồng bọt có thể gây ra sự ngưng tụ của hơi nước siêu bão hòa trên quỹ đạo chuyển động của hạt. Năm 1911, Charles Wilson đã áp dụng nguyên lý này cho thiết bị buồng mây của mình, cho phép ông có thể chụp ảnh được quỹ đạo của các hạt tích điện, ví dụ như các electron chuyển động nhanh.\nLý thuyết nguyên tử.\nCho đến năm 1914, các thí nghiệm thực hiện bởi Ernest Rutherford, Henry Moseley, James Franck và Gustav Hertz hầu như đã khẳng định được cấu trúc nguyên tử bao gồm một hạt nhân cô đặc mang điện dương bao xung quanh bởi các electron có khối lượng rất nhỏ. Năm 1913, nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr giả thuyết các electron nằm trong các trạng thái có mức năng lượng bị lượng tử hóa, mức năng lượng của chúng được xác định bởi mômen động lượng của quỹ đạo electron quanh hạt nhân. Các electron có thể chuyển động trên những quỹ đạo này, bằng cách phát ra hay hấp thụ photon với tần số xác định. Với cơ sở là những quỹ đạo bị lượng tử hóa này, Bohr có thể giải thích một cách chính xác các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Tuy nhiên, mô hình của Bohr chưa thể giải thích được cường độ tương đối của các vạch này cũng như mô hình chưa thể giải thích quang phổ của những nguyên tử phức tạp hơn.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử được Gilbert Newton Lewis giải thích, khi vào năm 1916 ông đề xuất rằng liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử được duy trì bởi cặp electron chia sẻ giữa chúng. Sau đó, vào năm 1927, Walter Heitler và Fritz London đưa ra lý thuyết giải thích đầy đủ cho sự hình thành cặp electron và liên kết hóa học trong khuôn khổ của cơ học lượng tử. Năm 1919, nhà hóa học người Mỹ Irving Langmuir đưa ra mô hình tĩnh về nguyên tử và gợi ý rằng mọi electron được phân bố tuần tự theo \"những vỏ (gần) hình cầu đồng tâm, tất cả đều có độ dày bằng nhau\". Tiếp đó, ông chia những vỏ này ra thành một số ô, mà mỗi ô chứa một cặp electron. Với mô hình này, Langmuir có thể giải thích một cách định tính các tính chất hóa học của các nguyên tố trong bảng tuần hoàn, mà nhiều tính chất được lặp lại tuân theo định luật tuần hoàn trong bảng.\nNăm 1924, nhà vật lý người Áo Wolfgang Pauli nhận xét thấy cấu trúc tựa vỏ của nguyên tử có thể được giải thích bằng một tập hợp chứa bốn tham số xác định lên mỗi trạng thái năng lượng lượng tử, và mỗi trạng thái này không thể chiếm bởi nhiều hơn một electron. Việc không có nhiều hơn một electron chiếm chỗ ở cùng một trạng thái năng lượng lượng tử được phát biểu trong nguyên lý loại trừ Pauli. Cơ chế vật lý để giải thích cho tham số thứ tư, mà nó có hai giá trị phân biệt, được các nhà vật lý người Hà Lan Samuel Goudsmit và George Uhlenbeck đề xuất. Năm 1925, họ cho rằng một electron, cùng với mômen động lượng của quỹ đạo, còn sở hữu thêm mômen góc động lượng nội tại và mômen lưỡng cực từ. Điều này tương tự như sự tự quay của Trái Đất cũng như nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Mômen góc động lượng nội tại này được gọi là spin, và đưa ra cách giải thích cho sự tách vạch bí ẩn như được quan sát thấy ở các vạch quang phổ bằng phổ kế có độ phân giải cao; hiện tượng này được biết đến như là sự tách cấu trúc tinh tế.\nCơ học lượng tử.\nTrong luận án \"\" (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử) viết năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie giả thuyết rằng mọi vật chất có thể được biểu diễn bằng sóng de Broglie tương tự như sóng ánh sáng. Điều đó có nghĩa là dưới những điều kiện phù hợp, các electron và những hạt vật chất khác sẽ thể hiện những tính chất của sóng hoặc của hạt. Lý thuyết hạt ánh sáng được chứng tỏ khi nó thể hiện có vị trí định xứ trong không gian dọc theo quỹ đạo chùm sáng ở bất kỳ thời điểm nào. Bản chất sóng ánh sáng được hiện, ví dụ, khi một chùm sáng chiếu qua những khe hẹp song song nó sẽ tạo thành những vân giao thoa. Năm 1927 George Paget Thomson khám phá ra hiệu ứng giao thoa xuất hiện khi cho một chùm electron truyền qua những lá kim loại mỏng và kiểu thí nghiệm tương tự được các nhà vật lý người Mỹ Clinton Davisson và Lester Germer thực hiện khi cho chùm electron phản xạ từ tinh thể nikel và quan sát thấy hiệu ứng giao thoa. Các hiệu ứng này còn được gọi là hiện tượng nhiễu xạ electron.\nDự đoán của de Broglie về bản chất sóng của electron đưa Erwin Schrödinger thiết lập lên phương trình sóng miêu tả electron chuyển động dưới ảnh hưởng của hạt nhân trong nguyên tử. Năm 1926, với phương trình của mình, phương trình Schrödinger, ông đã miêu tả thành công sóng electron trong hệ nguyên tử. Hơn là chỉ việc tìm ra nghiệm xác định vị trí của một electron theo thời gian, phương trình sóng này cũng được áp dụng để dự đoán xác suất tìm thấy electron quanh vị trí cụ thể, đặc biệt vị trí gần nơi electron bị chặn trong không gian, mà tại đây phương trình sóng electron không thay đổi theo thời gian. Cách tiếp cận này đã đem đến một lý thuyết miêu tả cơ học lượng tử thứ hai (lý thuyết đầu tiên miêu tả bằng cơ học ma trận do Heisenberg phát triển năm 1925), và nghiệm của phương trình Schrödinger, giống như của Heisenberg, cho phép dẫn ra các trạng thái năng lượng của một electron trong nguyên tử hydro mà tương đương với các kết quả thu được bởi Bohr vào năm 1913, và miêu tả chính xác quang phổ nguyên tử hydro. Khi kể đến spin và tương tác giữa nhiều electron, cơ học lượng tử đưa ra những dự đoán chính xác về cấu hình electron trong những hệ nguyên tử phức tạp hơn hydro.\nNăm 1928, dựa trên các nghiên cứu của Wolfgang Pauli, Paul Dirac thiết lập nên một mô hình về electron – phương trình Dirac, nhất quán với thuyết tương đối hẹp, bằng cách áp dụng các điều kiện đối xứng và tương đối tính trong hình thức luận hamiltonian của cơ học lượng tử cho trường điện từ. Để có thể giải một số vấn đề trong phương trình tương đối tính của mình, năm 1930 Dirac nêu ra một mô hình chân không như là một biển chứa vô hạn các hạt có năng lượng âm, sau này gọi là biển Dirac. Mô hình này đã đưa ông đi đến dự đoán tồn tại positron, một hạt phản vật chất của electron. Hạt này sau đó được phát hiện vào năm 1932 bởi Carl Anderson, và ông đề xuất gọi các electron thường gặp là \"negatron\" và sử dụng thuật ngữ \"electron\" nhằm miêu tả những biến thể mang điện tích dương hoặc âm.\nNăm 1947 Willis Lamb, khi đang thực hiện nghiên cứu cùng với sinh viên Robert Retherford, đã tìm thấy có những trạng thái lượng tử riêng biệt của hydro, đáng ra phải có cùng mức năng lượng, lại được dịch chuyển tương đối với nhau; sự sai lệch này sau đó được gọi là dịch chuyển Lamb. Trong cùng thời gian, Polykarp Kusch, cùng với Henry M. Foley, đã khám phá bằng thí nghiệm mômen từ của electron có giá trị hơi lớn hơn so với dự đoán của lý thuyết Dirac. Giá trị chênh lệch nhỏ này sau đó được gọi là mômen lưỡng cực từ dị thường của electron. Sự chênh lệch này sau đó được giải thích trong lý thuyết điện động lực học lượng tử, phát triển bởi các nhà vật lý Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và\nRichard Feynman vào cuối thập niên 1940.\nMáy gia tốc hạt.\nVới sự phát triển của các loại máy gia tốc hạt trong nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn vào các tính chất của các hạt hạ nguyên tử. Thành công đầu tiên trong nỗ lực gia tốc electron sử dụng cảm ứng điện từ được thực hiện vào năm 1942 bởi Donald Kerst. Máy betatron ban đầu của ông đạt đến mức năng lượng 2,3 MeV, và những máy betatron về sau đạt đến mức 300 MeV. Năm 1947, bức xạ đồng bộ (synchrotron radiation) được phát hiện tại máy gia tốc synchrotron, đưa electron đạt mức năng lượng 70 MeV, tại cơ sở nghiên cứu của General Electric. Bức xạ này là do các electron chuyển động gia tốc đi qua một từ trường ở vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng.\nMáy gia tốc va chạm hạt ADONE là máy đầu tiên đạt mức năng lượng của chùm tia cỡ 1,5 GeV, bắt đầu hoạt động vào năm 1968. Trong thiết bị này, các hạt electron và positron được gia tốc theo hai hướng ngược chiều nhau, như vậy gần như làm tăng gấp đôi năng lượng va chạm so với máy gia tốc chùm tia electron bắn vào một bia cố định. Máy va chạm lớn Electron–Positron (Large Electron–Positron Collider; LEP) ở CERN, hoạt động từ 1989 đến 2000, đạt tới mức năng lượng va chạm 209 GeV và có những đo lường quan trọng cho Mô hình Chuẩn của vật lý hạt.\nGiam giữ từng electron.\nHiện nay từng electron đơn lẻ có thể dễ dàng bị giam hãm trong những transistor CMOS siêu nhỏ (, ) hoạt động ở ngưỡng nhiệt độ lạnh sâu từ −269 °C (4 K) cho đến khoảng −258 °C (15 K). Hàm sóng electron lan truyền trong một dàn chất bán dẫn và khi bỏ qua tương tác của nó với các electron trong dải hóa trị, thì có thể coi như là hàm của electron đơn lẻ, bằng cách thay thế khối lượng của nó bằng tenxơ khối lượng hiệu dụng.\nCác đặc tính.\nPhân loại.\nTrong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt, electron thuộc về nhóm các hạt hạ nguyên tử gọi là lepton, mà được cho là những hạt cơ bản. Electron có khối lượng nhỏ nhất trong nhóm lepton (cũng như trong nhóm các hạt mang điện) và thuộc về thế hệ thứ nhất của hạt cơ bản. Thế hệ thứ hai và thứ ba bao gồm các lepton mang điện, hạt muon và tau, chúng có giá trị điện tích, spin và tham gia tương tác giống với của electron, nhưng có khối lượng lớn hơn. Lepton khác so với những thành phần cơ bản khác của vật chất, hạt quark, khi lepton không tham gia vào tương tác mạnh. Tất cả các thành viên trong nhóm lepton đều là fermion, bởi vì chúng đều có spin bán nguyên; electron có spin .\nCác tính chất cơ bản.\nKhối lượng bất biến (khối lượng nghỉ) của electron xấp xỉ bằng  kilogram, hay  đơn vị khối lượng nguyên tử. Trên cơ sở của nguyên lý sự tương đương khối lượng−năng lượng của Einstein, khối lượng này tương ứng với mức năng lượng nghỉ 0,511 MeV. Tỷ số giữa khối lượng của một proton so với của electron bằng khoảng 1836. Các đo đạc thiên văn cho thấy tỷ số khối lượng proton trên khối lượng electron vẫn giữ nguyên không đổi, như được dự đoán bởi Mô hình Chuẩn, trong thời gian ít nhất bằng một nửa tuổi của vũ trụ.\nElectron có điện tích bằng coulomb, một giá trị đã được sử dụng làm đơn vị điện tích chuẩn cho các hạt hạ nguyên tử, và cũng được gọi là điện tích cơ bản. Trong khoảng giới hạn sai số thí nghiệm, giá trị điện tích của electron bằng giá trị của proton nhưng mang dấu ngược lại. Vì ký hiệu \"e\" được sử dụng cho điện tích cơ bản, electron thường được ký hiệu là , với dấu trừ thể hiện cho điện tích âm. Positron được ký hiệu bởi vì nó có cùng các tính chất với electron nhưng mang điện tích dương.\nElectron có mômen động lượng nội tại hay spin . Do tính chất này mà electron thường được coi các hạt có spin-. Những hạt như vậy có độ lớn spin bằng  \"ħ\", trong khi kết quả đo từ hình chiếu của spin lên một trục bất kỳ chỉ có thể bằng ±. Ngoài spin, electron còn có mômen từ hướng dọc theo trục spin của nó. Giá trị mômen từ electron xấp xỉ bằng một Bohr magneton,=\\frac{e\\hbar}{2m_{\\mathrm{e}}}.</math>|group=gc}} là hằng số vật lý bằng joule trên tesla. Hướng của spin so với hướng của mômen động lượng electron xác định lên tính chất của các hạt cơ bản được biết đến là tính xoắn (\"helicity\").\nElectron không có cấu trúc con đã biết, nên nó thường được coi là một hạt điểm, hay cụ thể là một điện tích điểm không có không gian trong. Quan sát electron đơn lẻ trong bẫy Penning gợi ý rằng giới hạn trên của bán kính của nó bằng 10−22 mét. Giá trị giới hạn trên của bán kính electron bằng 10−18 mét có thể dẫn ra từ nguyên lý bất định kết hợp với năng lượng. Ngoài ra, còn có một hằng số vật lý gọi là \"bán kính electron cổ điển\", với giá trị là , lớn hơn rất nhiều bán kính của proton. Tuy nhiên, giá trị này được tìm từ những phép tính đơn giản mà bỏ qua các hiệu ứng của cơ học lượng tử; trong thực tế, giá trị bán kính electron cổ điển không có nhiều ý nghĩa khi đề cập đến cấu trúc cơ bản bên trong của electron.\nCó những hạt cơ bản khác tự động phân rã thành những hạt khối lượng nhẹ hơn. Ví dụ cho muon, nó có thời gian sống trung bình  giây, và phân rã thành một electron, một neutrino muon và một phản neutrino electron. Hạt electron, mặt khác, theo lý thuyết được cho là hạt bền: electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất với điện tích khác 0, do đó sự phân rã của nó sẽ vi phạm định luật bảo toàn điện tích. Thực nghiệm xác định giới hạn dưới của thời gian sống của electron là năm, ở mức 90% độ tin cậy.\nCác tính chất lượng tử.\nNhư mọi hạt khác, các electron có hành xử như những sóng. Đặc điểm này được gọi là lưỡng tính sóng–hạt và được chứng minh bằng thí nghiệm giao thoa hai khe.\nBản chất sóng của electron cho phép nó đi qua hai khe song song một cách đồng thời, hơn là chỉ một khe ở một thời điểm như đối với trường hợp của hạt. Trong cơ học lượng tử, tính chất sóng của một hạt được miêu tả bằng toán học dưới dạng hàm giá trị phức, hay hàm sóng, thường được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp psi (\"ψ\"). Khi tính bình phương giá trị tuyệt đối của hàm này, sẽ cho xác suất quan sát được một hạt ở một vị trí cho trước—hay chính là mật độ xác suất.\nElectron là những hạt đồng nhất bởi vì không thể phân biệt được chúng dựa trên những tính chất vật lý nội tại của hạt. Trong cơ học lượng tử, điều này có nghĩa là một cặp electron tương tác có thể đổi chỗ cho nhau mà không làm thay đổi trạng thái quan sát được của hệ. Hàm sóng của các fermion, bao gồm electron, là hàm phản xứng, có nghĩa rằng nó thay đổi dấu khi hai electron trao đổi vị trí cho nhau; hay, , với các biến \"r\"1 và \"r\"2 tương ứng với electron thứ nhất và thứ hai. Vì giá trị tuyệt đối không thay đổi khi hai hạt đổi chỗ cho nhau, điều này tương ứng với xác suất của hai sự kiện là bằng nhau. Ngược lại, hạt boson, như photon, lại có hàm sóng đối xứng.\nTrong trường hợp phản xứng, các nghiệm của phương trình sóng cho các electron tương tác sẽ cho xác suất bằng 0 đối với mỗi cặp chiếm cùng một vị trí hoặc trạng thái. Kết quả này tương ứng với nguyên lý loại trừ Pauli, phát biểu rằng không thể có hai electron chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Nguyên lý này giải thích cho nhiều tính chất của các electron hóa học. Ví dụ, nó làm cho nhóm các electron liên kết chiếm những orbital khác nhau trong một nguyên tử, hơn là đan xen lẫn nhau trong cùng một orbital.\nHạt ảo.\nTrong một bức tranh đơn giản, mỗi photon đôi lúc được coi như là tổ hợp của một hạt electron ảo với phản hạt ảo của nó, positron ảo, mà chúng nhanh chóng hủy lẫn nhau khi vừa mới sinh ra trong một thời gian rất ngắn. Sự kết hợp của biến thiên năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt này, và khoảng thời gian trong đó chúng tồn tại, phải nằm trong ngưỡng chấp nhận được tuân theo nguyên lý bất định Heisenberg, Δ\"E\" · Δ\"t\" ≥ \"ħ\". Để thỏa mãn nguyên lý này, năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt ảo này, Δ\"E\", có thể được \"mượn\" từ chân không trong một khoảng thời gian, Δ\"t\", sao cho tích của chúng không được lớn hơn hằng số Planck thu gọn, . Do vậy, đối với một electron ảo, Δ\"t\" lớn nhất bằng . (nghĩa là nếu cặp electron ảo−positron ảo mượn năng lượng Δ\"E\" từ chân không lượng tử thì phải trả lại năng lượng này cho chân không sau tối đa một khoảng thời gian Δ\"t\" sao cho Δ\"E\" · Δ\"t\" ≤ \"ħ\")\nKhi một cặp electron–positron ảo đang tồn tại, lực tĩnh điện Coulomb từ điện trường tức thời xung quanh hạt electron sẽ làm hút hạt positron về phía electron gốc ban đầu, trong khi electron được sinh ra chịu một lực đẩy. Hiệu ứng này chính là sự phân cực chân không. Về mặt hiệu ứng, chân không hành xử như một môi trường có dielectric permittivity lớn hơn 1 đơn vị. Do vậy điện tích hữu hiệu của một electron thực sự nhỏ hơn giá trị thực của nó, và điện tích giảm dần khi khoảng cách tăng dần tính từ electron. Sự phân cực này đã được xác nhận bằng thực nghiệm vào năm 1997 tại máy gia tốc hạt TRISTAN ở Nhật Bản. Các hạt ảo cũng tạo ra hiệu ứng lá chắn đáng kể cho khối lượng của electron.\nTương tác với các hạt ảo cũng giải thích sự sai lệch nhỏ (khoảng 0,1%) về giá trị của mômen từ nội tại của electron so với magneton Bohr (sai lệch này được gọi là mômen từ dị thường của electron). Sự khớp chính xác tuyệt vời giữa giá trị tính toán trên lý thuyết và giá trị đo được bằng thực nghiệm của mômen từ dị thường electron được coi là một trong những thành tựu quan trọng nhất của điện động lực học lượng tử.\nNghịch lý trong vật lý cổ điển về hạt điểm electron lại có mômen góc spin và mômen từ nội tại có thể được giải quyết bởi sự hình thành của các cặp hạt photon ảo trong điện trường sinh bởi electron. Các photon ảo này (đến lượt lại sinh ra các cặp electron−positron ảo khác) làm cho electron luôn dịch chuyển xung quanh vị trí của nó (còn gọi là zitterbewegung), mà tổng hợp lại thành một chuyển động tròn với hiệu ứng tiến động. Chuyển động này tạo ra cả spin và mômen từ của electron. Trong nguyên tử, sự sinh các cặp hạt photon ảo giúp giải thích hiệu ứng dịch chuyển Lamb như đã quan sát thấy ở các vạch quang phổ.\nTương tác.\nElectron sinh ra từ trường tạo ra lực hút lên hạt mang điện dương, như proton, và lực đẩy lên hạt mang điện âm. Cường độ của lực này trong điện động lực học cổ điện được xác định bằng định luật nghịch đảo bình phương Coulomb. Khi một electron đang trong chuyển động, nó tạo ra một từ trường bao quanh. Định luật Ampère-Maxwell cho biết mối liên hệ giữa từ trường và chuyển động của dòng các electron (dòng điện) tương ứng với người quan sát. Tính chất cảm ứng này cung cấp một từ trường dẫn động làm quay động cơ điện. Trường điện từ của một hạt mang điện bất kỳ đang trong chuyển động được miêu tả bằng thế Liénard–Wiechert, thế này đúng cho cả trường hợp hạt chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (hay vận tốc tương đối tính).\nKhi một electron chuyển động trong từ trường, nó chịu tác dụng của lực Lorentz tác động theo phương vuông góc với mặt phẳng xác định bởi vectơ từ trường và vectơ vận tốc của electron. Lực hướng tâm làm cho electron chuyển động trên một quỹ đạo xoắn ốc trong từ trường với bán kính Larmor. Sự gia tốc từ chuyển động theo đường cong ghềnh này làm cảm ứng electron phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ đồng bộ. Năng lượng bức xạ này làm hãm electron, hay còn gọi là lực Abraham–Lorentz–Dirac, tạo ra ma sát làm chậm chuyển động của electron. Lực này cũng gây ra tác động ngược (back-reaction) lên điện từ trường của chính electron.\nTrong điện động lực học lượng tử photon là hạt truyền tải tương tác điện từ giữa các hạt. Một electron đơn lẻ chuyển động với vận tốc đều không thể phát ra hay hấp thụ một photon thực; do sẽ vi phạm định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Mặt khác, các photon ảo có thể truyền động lượng giữa hai hạt mang điện tích. Sự trao đổi này của các photon ảo, ví dụ, làm tạo ra lực Coulomb. Bức xạ năng lượng xuất hiện khi một electron chuyển động bị làm lệch quỹ đạo gây bởi điện trường của một hạt mang điện khác, như proton. Sự gia tốc của electron làm phát ra bức xạ Bremsstrahlung.\nMột photon (ánh sáng) va chạm phi đàn hồi với một electron (tự do) được gọi là tán xạ Compton. Kết quả của va chạm này là động lượng và năng lượng được truyền qua giữa các hạt, làm thay đổi bước sóng của photon bằng một lượng được gọi là dịch chuyển Compton. Độ dịch chuyển lớn nhất của bước sóng bằng \"h\"/\"m\"e\"c\", hay còn gọi là bước sóng Compton. Đối với một electron, nó có giá trị bằng . Khi bước sóng của ánh sáng là dài (ví dụ bước sóng của ánh sáng khả kiến bằng 0,4–0,7 μm) sự dịch chuyển bước sóng có thể bỏ qua được. Trong trường hợp này, tương tác giữa ánh sáng và electron tự do được gọi là tán xạ Thomson hay tán xạ Thomson tuyến tính.\nĐộ mạnh tương đối của tương tác điện từ giữa hai hạt điện tích, chẳng hạn giữa một electron và một proton, được xác định bởi hằng số cấu trúc tế vi. Đây là đại lượng không thứ nguyên hình thành dựa trên tỉ số của hai dạng năng lượng: năng lượng tĩnh điện của lực hút (hoặc đẩy) ở khoảng cách bằng một lần bước sóng Compton, và năng lượng nghỉ của các hạt mang điện tích. Nó có giá trị bằng \"α\" ≈ , hay xấp xỉ bằng .\nKhi electron và positron va chạm, chúng hủy lẫn nhau, làm phát ra hai hoặc ba photon tia gamma. Nếu electron và positron có động lượng bỏ qua được, va chạm có thể hình lên nguyên tử positronium trước khi hai hạt hủy lẫn nhau để hình ra các photon có tổng năng lượng 1,022 MeV. Mặt khác, một photon năng lượng cao có thể biến đổi thành cặp electron và positron bởi quá trình sinh cặp (pair production), nhưng chỉ trong sự có mặt của một hạt điện tích gần nó, như một hạt nhân chẳng hạn.\nTrong lý thuyết tương tác điện yếu, thành phần hàm sóng hướng bên trái (chiral) của electron tạo thành bộ đôi isospin yếu với neutrio electron. Điều này có nghĩa rằng trong tương tác yếu, neutrino electron hành xử như các electron. Mỗi loại hạt của bộ đôi này (doublet) có thể tham gia vào tương tác dòng tích (charged current) bằng cách phát ra hoặc hấp thụ một boson và biến đổi sang thành hạt kia. Điện tích được bảo toàn trong quá trình này bởi vì boson W cũng mang điện tích, làm cho tổng điện tích của quá trình biến đổi là không thay đổi. Các tương tác dòng tích chịu trách nhiệm cho hiện tượng phân rã beta trong một nguyên tử phóng xạ. Cả electron và neutrino electron có thể tham gia vào tương tác dòng trung hòa (neutral current interaction) thông qua sự trao đổi một boson , và chịu trách nhiệm cho tán xạ đàn hồi neutrino−electron.\nNguyên tử và phân tử.\nMột electron có thể \"liên kết\" với hạt nhân của một nguyên tử bởi lực hút Coulomb. Một hệ có một hoặc nhiều electron liên kết với một hạt nhân được gọi là một nguyên tử. Nếu số electron khác với số điện tích của hạt nhân, nguyên tử đó được gọi là một ion. Hành xử dạng sóng của một electron liên kết được miêu tả bằng một hàm sóng gọi là orbital nguyên tử. Mỗi orbital đặc trưng bởi các số lượng tử như mức năng lượng, mômen động lượng và hình chiếu của mômen góc, và chỉ có các orbital rời rạc tồn tại xung quanh hạt nhân. Theo nguyên lý loại trừ Pauli mỗi orbital có thể chiếm giữ bởi tối đa hai electron, và chúng phải có số lượng tử spin khác nhau.\nElectron có thể nhảy sang các orbital khác nhau thông qua sự hấp thụ hoặc phát ra photon có năng lượng bằng hiệu giữa hai mức năng lượng đó. Các phương pháp khác làm electron chuyển sang orbital khác bao gồm sự va chạm của nó với hạt khác, như các electron, và nhờ hiệu ứng Auger. Để thoát ra khỏi nguyên tử, năng lượng của electron phải tăng và lớn hơn năng lượng liên kết với nguyên tử. Điều này xảy ra, ví dụ, như ở hiệu ứng quang điện, khi một photon tới va chạm có năng lượng lớn hơn năng lượng ion hóa nguyên tử và bị electron hấp thụ.\nMômen góc orbital của electron bị lượng tử hóa. Bởi electron mang điện, nó có một mômen từ orbital tỷ lệ với mômen góc. Tổng mômen từ của một nguyên tử bằng tổng vec tơ của mô men từ spin và mômen từ orbital của tất cả các electron và hạt nhân. Mômen từ của hạt nhân là nhỏ so với của các electron. Mômen từ của các electron chiếm giữ cùng một orbital (còn gọi là cặp electron) triệt tiêu lẫn nhau.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử chính là tương tác điện từ giữa chúng, như miêu tả bởi các định luật của cơ học lượng tử. Liên kết mạnh nhất hình thành bởi chia sẻ hoặc cho/nhận các electron giữa các nguyên tử, dẫn đến hình thành lên các phân tử. Bên trong một phân tử, các electron chuyển động dưới ảnh hưởng của một vài hạt nhân, và chiếm giữ các orbital phân tử; giống như chúng chiếm giữ các orbital trong một nguyên tử cô lập. Một yếu tố cơ bản trong các cấu trúc phân tử đó là sự tồn tại các cặp electron. Đây là các electron có spin ngược nhau, cho phép chúng có thể chiếm giữ cùng một orbital phân tử mà không vi phạm nguyên lý loại trừ Pauli (tương tự như ở nguyên tử). Các orbital phân tử khác nhau có phân bố mật độ electron theo không gian khác nhau. Ví dụ, ở các cặp electron liên kết (nghĩa là các cặp thực sự liên kết các nguyên tử với nhau) có thể được tìm thấy với xác suất cực đại nằm ở vùng thể tích tương đối nhỏ giữa các hạt nhân. Ngược lại, ở các cặp electron không liên kết chúng phân bố trong thể tích lớn hơn bao quanh hạt nhân.\nDẫn điện.\nNếu một vật thể có nhiều hoặc ít hơn lượng electron cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân nguyên tử, thì tổng thể vật đó có mang điện tích. Khi có nhiều hơn electron, vật đó mang điện âm. Khi có ít electron hơn số lượng proton trong hạt nhân nguyên tử, vật mang điện dương. Khi số electron và proton bằng nhau, điện tích của chúng hủy lẫn nhau và vật thể ở trạng thái cân bằng điện (hay trung hòa). Nhờ tác động chà xát có thể làm vật thể vĩ mô mang điện thông qua hiệu ứng điện ma sát (triboelectric effect).\nCác electron độc lập chuyển động trong chân không được gọi là các electron \"tự do\". Các electron trong kim loại cũng hành xử như chúng chuyển động tự do. Thực sự thì các hạt được gọi là các electron trong kim loại và những thể rắn khác là những giả-electron—giả hạt, mà có cùng điện tích, spin, và mômen từ như các electron thực thụ nhưng có khối lượng khác với nó. Khi các electron tự do—trong chân không lẫn kim loại—chuyển động, chúng tạo ra một dòng mạng lưới điện tích được gọi là dòng điện, từ đó tạo ra một từ trường. Giống như một dòng điện có thể được sinh ra từ sự thay đổi của một từ trường. Những tương tác và mối quan hệ này được miêu tả bởi phương trình Maxwell.\nỞ mỗi nhiệt độ nhất định, từng vật liệu có một độ dẫn điện ảnh hưởng đến giá trị của dòng điện khi áp vào một điện thế. Những vật dẫn điện tốt bao gồm kim loại như đồng và vàng, trong khi thủy tinh và Teflon lại dẫn điện kém. Ở bất kỳ vật liệu cách điện nào, các electron vẫn bám vào các nguyên tử và vật liệu có tính chất như là một chất cách điện. Hầu hết các chất bán dẫn có mức độ dẫn điện biến đổi từ phạm vi dẫn điện cực tốt cho đến cách điện hoàn toàn. Mặt khác, các kim loại có cấu trúc dải điện tử chứa các vùng năng lượng được lấp đầy một phần bởi electron. Sự có mặt của những vùng năng lượng này cho phép các electron trong kim loại hành xử như chúng được tự do hoặc gọi là các electron phi định xứ (delocalized electrons). Những electron không liên kết với một nguyên tử nhất định, do vậy khi áp dụng một điện trường, chúng chuyển động tự do như một chất khí (được gọi là khí Fermi) đi qua vật liệu giống như các electron tự do.\nBởi vì có sự va chạm giữa các electron với các nguyên tử, vận tốc trôi của các electron trong một vật dẫn có độ lớn cỡ vài milimét trên một giây. Tuy nhiên, trường hợp có sự thay đổi dòng điện từ một điểm trong vật liệu gây ra sự thay đổi dòng điện ở điểm khác trong vật liệu, thì tốc độ lan truyền của hiệu ứng này, điển hình bằng khoảng 75% tốc độ ánh sáng. Điều này xảy ra bởi vì tín hiệu điện lan truyền như một sóng, với vận tốc phụ thuộc vào hằng số điện môi của vật liệu.\nĐa số kim loại có độ dẫn nhiệt tương đối tốt, chủ yếu bởi vì các electron phi định xứ vận chuyển năng lượng nhiệt tự do giữa các nguyên tử. Tuy nhiên, không giống như sự dẫn điện, sự dẫn nhiệt của một kim loại gần như độc lập với nhiệt độ của vật liệu. Điều này đã được phát biểu bằng định luật Wiedemann–Franz, nói rằng tỉ số độ dẫn nhiệt trên độ dẫn điện tỷ lệ thuận với nhiệt độ của vật liệu. Sự mất trật tự bởi nhiệt trong dàn tinh thể nguyên tử kim loại làm tăng điện trở của vật liệu, tạo ra sự phụ thuộc vào nhiệt độ đối với dòng điện.\nKhi làm lạnh vật liệu xuống dưới một mức gọi là nhiệt độ tới hạn, vật liệu trải qua sự chuyển pha trong đó nó mất hoàn toàn tính kháng điện (điện trở) đối với dòng điện, hay chính là hiệu ứng siêu dẫn. Trong lý thuyết BCS, các cặp electron được gọi là cặp Cooper trong chuyển động của chúng bắt cặp với nguyên tử gần đấy thông qua những dao động dàn nguyên tử gọi là phonon, do đó cặp Cooper tránh được va chạm với các nguyên tử mà thường tạo ra điện trở. (Các cặp Cooper có bán kính xấp xỉ bằng 100 nm, do đó nếu coi chúng như sóng vật chất thì chúng có thể chồng chập lẫn nhau.) Tuy nhiên, cơ chế cho hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu vẫn chưa có lý thuyết giải thích thỏa đáng.\nCác electron bên trong vật dẫn, mà chính chúng cũng là những giả hạt, khi đặt trong nhiệt độ rất gần với độ không tuyệt đối, có thể được phân ra thành ba loại giả hạt: spinon, orbiton và holon. Hạt đầu tiên mang spin và mômen từ, hạt tiếp theo mang vị trí orbital của nó trong khi hạt còn lại mang điện tích.\nChuyển động và năng lượng.\nTheo thuyết tương đối hẹp của Einstein, khi tốc độ của một electron tiệm cận tới tốc độ ánh sáng, người quan sát từ một hệ quy chiếu quán tính sẽ đo được khối lượng tương đối tính của hạt tăng lên, do đó khiến cho nó càng khó để có thể gia tốc nó từ bên trong hệ quy chiếu của người quan sát. Tốc độ của một electron có thể tiếp cận đến, nhưng không bao giờ bằng, tốc độ của ánh sáng trong chân không, \"c\". Tuy nhiên, khi các electron tương đối tính—là những electron chuyển động với tốc độ gần bằng \"c\"—chuyển động trong môi trường điện môi như nước, nơi vận tốc ánh sáng trong nó nhỏ hơn nhiều so với \"c\", các electron trong môi trường này có thể chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Khi chúng tương tác va chạm với môi trường, chúng tạo ra một ánh sáng nhạt được gọi là bức xạ Cherenkov.\nCác hiệu ứng trong thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên một đại lượng gọi là hệ số Lorentz, được xác định bằng formula_1 với \"v\" là tốc độ của hạt. Động năng \"K\"e của một electron chuyển động với vận tốc \"v\" bằng:\nvới \"m\"e là khối lượng của electron. Ví dụ, ở máy gia tốc thẳng Stanford có thể gia tốc một electron tới động năng gần bằng 51 GeV. Vì một electron hành xử như dạng sóng, ở một vận tốc bất kỳ nó có một bước sóng de Broglie đặc trưng. Bước sóng này được cho bởi \"λ\"e = \"h\"/\"p\" với \"h\" là hằng số Planck và \"p\" là động lượng. Đối với electron có động năng 51 GeV ở trên, bước sóng de Broglie bằng , đủ nhỏ để khám phá các cấu trúc có kích thước nhỏ hơn kích cỡ của một hạt nhân nguyên tử.\nSự hình thành.\nLý thuyết Vụ Nổ Lớn là lý thuyết khoa học được chấp nhận rộng rãi hiện nay miêu tả những giai đoạn ban đầu của sự tiến hóa của Vũ trụ. Ở những miligiây đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ trên 10 tỷ kelvin và các photon có năng lượng trung bình trên một triệu electronvolt. Các photon này có đủ năng lượng mà khi tương tác với nhau có thể dẫn tới sự hình thành cặp electron và positron. Ngược lại, những cặp positron−electron hủy lẫn nhau và phát ra các photon năng lượng cao:\nTrạng thái cân bằng giữa các electron, positron và photon được duy trì trong suốt giai đoạn này của sự tiến hóa Vũ trụ. Khi 15 giây trôi qua, tuy nhiên, nhiệt độ của Vũ trụ lúc này giảm xuống dưới ngưỡng cho phép hình thành cặp hạt electron−positron. Phần lớn các electron và positron tồn tại hủy lẫn nhau, giải phóng bức xạ gamma làm Vũ trụ nóng lên trong một thời gian ngắn.\nVì một lý do nào đó chưa được biết chắc chắn, trong suốt quá trình hủy cặp có sót lại một số lượng hạt nhiều hơn phản hạt vật chất. Cụ thể là có dư ra 1 electron tồn tại trong mỗi 1 tỷ cặp hạt electron−positron. Số lượng dư sót lại này bằng với số lượng proton còn dư từ quá trình hủy cặp hạt tương tự proton và phản proton, trong một điều kiện được gọi là bất đối xứng baryon, điều này mang đến tổng điện tích của toàn bộ Vũ trụ gần như bằng zero. Những proton và neutron còn dư lại bắt đầu tham gia vào các phản ứng với nhau—quá trình gọi là tổng hợp hạt nhân, tạo ra các đồng vị của hydro và heli, và một ít hạt nhân lithi. Các phản ứng này đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian ở sau năm phút. Bất kỳ neutron còn lại nào sẽ trải qua phản ứng phân rã beta âm với nửa thời gian sống bằng khoảng một nghìn giây, giải phóng ra một proton và một electron,\nTrong khoảng 300.000–400.000 năm tiếp theo, lượng các hạt electron còn lại có năng lượng quá lớn để có thể liên kết vào các hạt nhân nguyên tử. Giai đoạn tiếp theo là sự tái kếp hợp electron vào hạt nhân, khi ấy các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự giãn nở của vũ trụ làm cho vật chất trở lên trong suốt với bức xạ.\nGần một triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, thế hệ các ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành. Trong lòng một ngôi sao, dây chuyền phản ứng tổng hợp hạt nhân sao cho ra các sản phẩm trong đó có positron. Những hạt phản vật chất này ngay lập tức hủy với các electron, giải phóng tia gamma. Gộp chung lại số lượng hạt electron bị giảm dần, và tương ứng số lượng hạt neutron tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa sao cũng hình thành các sản phẩm là những đồng vị phóng xạ. Các đồng vị này có thể sau đó trải qua phân rã beta trừ, phát ra một electron và một phản neutrino từ hạt nhân. Một ví dụ là đồng vị cobalt-60 (60Co), mà phân rã thành nickel-60 (60Ni).\nCuối chu trình tiến hóa của chúng, một ngôi sao có khối lượng lớn hơn 20 lần khối lượng Mặt Trời đi đến kết cục suy sụp hấp dẫn để tạo thành một lỗ đen. Theo vật lý cổ điển, bên trong những ngôi sao khối lượng lớn này xuất hiện lực hút hấp dẫn đủ mạnh để ngăn bất kỳ thứ gì, kể cả bức xạ điện từ, thoát ra khỏi bán kính Schwarzschild. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử cho phép có khả năng tồn tại bức xạ Hawking ở phạm vi khoảng cách này. Các electron (và positron) được cho là tạo ra ở chân trời sự kiện của những tàn dư sao.\nKhi một cặp hạt ảo (như gồm một electron và một positron) được tạo ra tại biên giới của chân trời sự kiện, sự phân bố ngẫu nhiên trong vị trí của hạt có thể làm cho một trong hai hạt nằm ở bên trong chân trời sự kiện; mà quá trình này được gọi là sự xuyên hầm lượng tử. Thế năng hấp dẫn của lỗ đen có thể cấp năng lượng để biến một hạt ảo nằm bên ngoài chân trời sự kiện trở thành một hạt thực, cho phép nó bật phóng ra vào không gian. Đổi lại, hạt còn lại của cặp mang năng lượng âm và rơi về vùng kì dị lỗ đen, dẫn đến tổng cộng khối lượng−năng lượng của lỗ đen bị giảm đi. Tốc độ bức xạ Hawking tăng tiến khi khối lượng lỗ đen giảm dần, làm cho lỗ đen bốc hơi và cuối cùng là phát nổ.\nTia vũ trụ là những hạt chuyển động trong không gian với năng lượng cao. Các sự kiện năng lượng cao đến cỡ đã được ghi nhận. Khi những hạt này va chạm với các nucleon trong khí quyển Trái Đất, một trận mưa các hạt được tạo ra, bao gồm các pion. Hơn một nửa bức xạ vũ trụ được quan sát trên bề mặt Trái Đất có chứa các muon. Muon là một hạt loại lepton hình thành tại thượng tầng khí quyển sau quá trình phân rã của một pion.\nĐến lượt muon, nó có thể phân rã thành electron hoặc positron.\nQuan sát.\nQuan sát electron từ xa đòi hỏi việc đo được năng lượng bức xạ của chúng. Ví dụ, trong môi trường năng lượng cao như ở vành nhật hoa của một ngôi sao, các electron tự do tạo thành trạng thái plasma phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ Bremsstrahlung. Khí electron có thể biểu hiện dao động plasma, đó là những sóng gây bởi những biến đổi đồng bộ trong mật độ electron, và những sóng này tạo ra phát xạ năng lượng có thể phát hiện được nhờ quan sát qua kính thiên văn vô tuyến.\nTần số của một photon tỷ lệ với năng lượng của nó. Khi một electron liên kết trong nguyên tử chuyển trạng thái giữa các mức năng lượng khác nhau, nó hấp thụ hoặc phát ra photon ở những tần số đặc trưng. Ví dụ, khi chiếu nguồn bức xạ phổ liên tục vào các nguyên tử sẽ xuất hiện các vạch phổ hấp thụ đặc trưng trong quang phổ của bức xạ phản xạ. Mỗi nguyên tố hoặc phân tử thể hiện một lớp đặc trưng các vạch quang phổ, như các vạch quang phổ hydro. Những phép đo lường quang phổ về cường độ và bề rộng của các vạch này cho phép xác định được thành phần và tính chất vật lý của một chất cần xác định.\nTrong điều kiện của phòng thí nghiệm, có thể quan sát tương tác của từng electron đơn lẻ nhờ các máy gia tốc hạt nhân, mà cho phép đo những tính chất cụ thể như năng lượng, spin và điện tích. Nhờ sự phát triển của các kỹ thuật bẫy ion như bẫy Paul và bẫy Penning cho phép giam giữ các hạt mang điện trong một thể tích đủ nhỏ với thời gian dài. Điều này đã cho phép đo lường các tính chất cũng như thao tác lên những hạt này. Ví dụ, bẫy Penning từng được ứng dụng để chứa một electron đơn lẻ trong thời gian 10 tháng. Mômen từ của electron đã được đo với độ chính xác đến 11 chữ số thập phân mà vào năm 1980, độ chính xác này còn lớn hơn độ chính xác đo được của bất kỳ các hằng số vật lý khác.\nBộ phim chụp ảnh đầu tiên về sự phân bố năng lượng của electron đã được thực hiện bởi một đội các nhà vật lý tại Đại học Lund ở Thụy Điển vào tháng 2 năm 2008. Họ đã sử dụng một xung nhịp ánh sáng cực ngắn, hay gọi là các xung atto giây, cho phép lần đầu tiên chụp ảnh được chuyển động của một electron.\nSự phân bố của các electron trong chất rắn có thể được biểu hiện nhờ kỹ thuật chụp quang phổ bức xạ phân giải góc (angle-resolved photoemission spectroscopy, ARPES). Kỹ thuật này ứng dụng hiệu ứng quang điện để đo hàm phân bố không gian giàn tinh thể—một hàm toán học biểu diễn đặc tính cấu trúc tuần hoàn được áp dụng để suy đoán ra cấu trúc ban đầu của tinh thể. ARPES được ứng dụng để xác định hướng, tốc độ và sự tán xạ của các electron bên trong vật liệu.\nCác ứng dụng plasma.\nChùm hạt.\nTrong công nghệ và kỹ thuật, các chùm tia electron đã được ứng dụng để thực hiện hàn bằng chùm electron giữa hai loại vật liệu. Chúng cho phép mật độ năng lượng của chùm tia hàn lên tới 107 W·cm−2 được tập trung trong một hình nón tròn đường kính cỡ mà thường không cần đòi hỏi phải có lớp vật liệu đệm thứ 3. Kỹ thuật hàn này phải được thực hiện trong chân không để tránh các electron va chạm với một trường khí xung quanh trước khi chúng đến được vật liệu cần hàn, và nó có thể được sử dụng để nối các loại vật liệu dẫn điện mà những biện pháp hàn khác không phù hợp để áp dụng.\nQuang khắc chùm điện tử (EBL) là phương pháp tạo các chi tiết bán dẫn ở mức phân giải nhỏ hơn 1 µm. Kỹ thuật này có hạn chế là giá thành cao, tốc độ sản xuất chậm, cần phải vận hành chùm điện tử trong môi trường chân không cao và các electron có xu hướng tán xạ trên bề mặt vật liệu. Độ phân giải tối đa của phương pháp này vào khoảng 10 nm. Vì lý do này, EBL được ứng dụng chủ yếu cho sản xuất một số nhỏ các vi mạch chuyên biệt.\nPhương pháp xử lý chùm điện tử (electron-beam processing, hoặc electron irradiation EBI) được ứng dụng để làm thay đổi các đặc tính của vật liệu hoặc khử trùng trong y học và thực phẩm bằng cách chiếu chùm điện tử vào sản phẩm. Chùm electron hóa lỏng hoặc làm tan chảy thủy tinh mà không gây tăng nhiều nhiệt độ khi thực hiện chiếu với cường độ cao: ví dụ bức xạ electron mạnh gây ra sự giảm độ nhớt ở nhiều bậc độ lớn và làm giảm từng bước năng lượng hoạt hóa của nó.\nCác máy gia tốc quỹ đạo thẳng (linear particle accelerator) tạo ra những chùm electron cho chùm sáng dùng để điều trị các khối u trên bề mặt trong trị liệu bức xạ. Trị liệu điện tử (electron therapy) có thể điều trị các thương tổn ở da như ung thư tế bào đáy bởi vì một chùm electron chỉ có thể thâm nhập xuống một độ sâu nhất định trước khi bị hấp thụ, thường là đến 5 cm đối với electron có năng lượng trong phạm vi 5–20 MeV. Một chùm electron có thể được sử dụng phối hợp với chiếu xạ tia X trong điều trị bệnh.\nCác máy gia tốc hạt sử dụng điện trường để đẩy các electron và phản hạt của chúng lên mức năng lượng cao. Những hạt này phát ra bức xạ đồng bộ khi chúng bay qua từ trường. Cường độ của bức xạ đồng bộ phụ thuộc vào phân cực spin của chùm electron—quá trình được gọi là hiệu ứng Sokolov–Ternov. Các chùm electron phân cực được ứng dụng trong nhiều thí nghiệm khác nhau. Bức xạ synchrotron có thể dùng làm mát chùm electron với mục đích làm giảm sự phân tán động lượng của chùm hạt. Các chùm electron và positron được cho va chạm với nhau trong máy gia tốc khi chúng đạt đến mức năng lượng yêu cầu; các máy dò hạt (particle detector) quan sát năng lượng của bức xạ phát ra, ghi lại những thông tin và tính chất cần nghiên cứu trong vật lý hạt.\nChụp ảnh.\nNhiễu xạ electron năng lượng thấp (Low-energy electron diffraction, LEED) là một phương pháp bắn vào vật liệu có cấu trúc tinh thể bằng một chùm electron chuẩn trực sau đó quan sát hình ảnh nhiễu xạ giúp xác định lên cấu trúc của vật liệu. Năng lượng đòi hỏi của các electron ở những chùm này trong khoảng 20–200 eV. Kỹ thuật phản xạ nhiễu xạ electron năng lượng cao (reflection high-energy electron diffraction, RHEED) sử dụng sự phản xạ của một chùm electron bắn đến với nhiều góc hẹp khác nhau để nghiên cứu đặc trưng bề mặt của vật liệu có cấu trúc tinh thể. Chùm năng lượng thường nằm trong khoảng 8–20 keV và góc bắn electron thường bằng 1–4°.\nKính hiển vi điển tử hoạt động dựa trên nguyên lý tập trung chùm electron vào một mẫu vật. Một số electron sau khi va chạm vào mẫu vật thì bị thay đổi đặc tính, như hướng chuyển động, góc phản xạ và pha tương đối cũng như năng lượng bị giảm đi. Các nhà hiển vi học ghi lại những thay đổi này từ chùm electron để tái tạo ra những bức ảnh về mẫu vật. Trong ánh sáng xanh lam, các kín hiển vi quang học thông thường có giới hạn nhiễu xạ phân giải ở kích thước 200 nm. So sánh với kính hiển vi điện tử, loại này bị giới hạn bởi bước sóng de Broglie của electron. Ví dụ, bước sóng này bằng 0,0037 nm đối với những electron được gia tốc trong điện trường cỡ 100.000 volt. Kính hiển vi truyền điện tử hiệu chỉnh quang sai (Transmission Electron Aberration-Corrected Microscope) có độ phân giải dưới 0,05 nm, đủ để phân biệt được từng nguyên tử. Khả năng này mang lại những lợi thế cho sử dụng kính hiển vi điện tử trong phòng thí nghiệm để chụp các bức ảnh có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử là những thiết bị đắt tiền và tốn nhiều chi phí hoạt động và bảo trì.\nCó hai loại kính hiển vi điện tử: Loại truyền qua và loại quét bề mặt. Kính hiển vi điện tử truyền qua hoạt động giống như một máy chiếu, với một chùm electron được cho chiếu qua một lát vật liệu sau đó nó được hội tụ trên phim âm bản hoặc cảm biến CCD. Kính hiển vi điện tử quét bề mặt dùng chùm electron quét lên bề mặt mẫu vật, giống như hiển thị trên ti vi màn hình ống, để thu được bức ảnh về nó. Độ phóng đại của hai loại kính này vào cỡ 100× đến 1.000.000. Kính hiển vi quét xuyên hầm sử dụng hiệu ứng chui hầm lượng tử của electron từ mũi nhọn của một đầu dò kim loại để nghiên cứu vật liệu và tạo ra bức ảnh bề mặt vật liệu có độ phân giải cao.\nCác ứng dụng khác.\nTrong laser electron tự do (FEL), một chùm electron tương đối tính đi qua dãy các nam châm lưỡng cực (undulator) bị đổi hướng luân phiên do hướng của từ trường tạo bởi dãy các nam châm này. Vì đổi hướng luân phiên như vậy nên các electron phát ra bức xạ synchrotron một cách nhịp nhàng và đều đặn, bức xạ được khuếch đại ở tần số cộng hưởng. FEL có thể phát ra bức xạ điện từ với độ rọi cao trong dải tần số rộng, từ sóng vi ba cho đến tia X mềm. Những thiết bị này được sử dụng trong sản xuất, viễn thông, và trong các ứng dụng y tế, như phẫu thuật các mô mềm.\nỐng tia âm cực chứa electron, mà đã từng được sử dụng thường xuyên cho các màn hình hiển thị tại nhiều thiết bị thí nghiệm, màn hình máy tính và máy truyền hình. Trong một đèn nhân quang điện, mỗi photon va chạm đến âm cực quang khởi tạo ra một luồng các electron để hình thành một xung dòng điện mà bộ dò phát hiện được. Ống điện tử chân không sử dụng luồng các electron để thao tác lên tín hiệu điện, và chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công nghệ điện tử. Tuy nhiên, ngày nay chúng đã bị thay thế bởi các thiết bị bán dẫn như transistor." ]
electron - in - nhit - lng - neutron - thuyt - ht - einstein - proton - quark
0.863155
false
Primer (còn có tên gọi khác là đoạn mồi) là một sợi nucleic acid (hoặc ribonucleic acid) dùng để làm đoạn khởi đầu cho quá trình nhân đôi của DNA. Hầu hết các DNA polymerase (enzyme xúc tác quá trình nhân đôi DNA) không thể bắt đầu tổng hợp một đoạn DNA mới mà thiếu primer. Vì nó chỉ gắn các nucleotide vào sợi primer có sẵn theo nguyên tắc bổ sung với sợi khuôn. Trong hầu hết các quá trình sao chép DNA tự nhiên, mồi cơ bản cho việc tổng hợp DNA là sợi RNA ngắn. RNA này được tạo ra bởi RNA polymerase, nó được loại bỏ đi và được thay thế bằng DNA bởi DNA polymerase. Nhiều kỹ thuật sinh học phân tử liên quan đến DNA polymerase, như kỹ thuật xác định trình tự DNA và PCR, cần đến mồi. Mồi dùng cho các kỹ thuật này thường ngắn (khoảng 20 base), là các phân tử DNA được tổng hợp nhân tạo. Cấu trúc thật sự của các mồi này bắt đầu bằng các 3'-hydroxyl nucleoside gắn với một cái gọi là CPG (controlled-pore glass). Đầu 5'-hydroxyl của nucleoside được dimethoxytrityl (DMT) bao phủ nhằm ngăn sự thành lập chuỗi nucleotide. để thêm vào 1 nucleotide thì phải loại bỏ DMT theo cách hóa học, và 1 nucleotide được thêm vào. Đầu 5'-hydroxyl của nucleotide mới bị khóa lại bởi DMT nhằm ngăn chặn sự gắn thêm vào 1 hay nhiều nucleotide trên 1 chuỗi. Sau đó, chu trình được lặo lại đối với mỗi nucleotide bằng 1 mồi. Đây chỉ là mô tả đơn giản, còn quy trình thực tế thì khá phức tạp. Vì thế, hầu hết các phòng thí nghiệm đều không tạo mồi trên chính nó. Việc xác định trình tự DNA được dùng để xác định nucleotide trong sợi DNA. Phương pháp xác định trình tự được gọi là xác định trình tự dideoxy (hay còn gọi là phương pháp Sanger) dùng mồi làm marker khởi đầu cho phản ứng chuỗi. Trong PCR, mồi được dùng để xác định các phân đoạn DNA mà được khuếch đại bởi PCR. Chiều dài của mồi thường không dài hơn 50 nucleotide (Do DNA thường là sợi đôi, nên chiều dài của nó được đo bằng cặp base. Chiều dài của DNA sợi đơn được đo bằng base hay nucleotide), và chúng kết hợp chính xác với điểm khởi đầu và kết thúc của phân đoạn DNA được khuếch đại. Chúng "anneal" (adhere) khuôn DNA ở điểm khởi đầu và kết thúc, tại đó DNA polymerase gắn và bắt đầu tổng hợp sợi DNA mới. Việc lựa chọn chiều dài mồi và nhiệt độ nóng chảy của chúng dựa vào một số lý do. Nhiệt độ nóng chảy của mồi được định nghĩa là nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ của mồi mà sẽ anneal khuôn DNA và cao hơn nhiệt độ làm mồi rời khỏi khuôn DNA. Nhiệt độ nóng chảy cần tăng lên theo độ dài của mồi. Mồi quá ngắn sẽ làm anneal một số vị trí trên khuôn DNA dài, dẫn đến các bản sao không đặc hiệu. Nói cách khác, chiều dài của mồi bị giới hạn bởi nhiệt độ làm nóng chảy nó. Nhiệt độ nóng chảy quá cao, nghĩa là trên 80 °C, có thể gây ra một số vấn đề do DNA poluymerase ít hoạt động ở nhiệt độ này. Chiều dài tối ưu của mồi vào khoảng 30 đến 40 nucleotide với nhiệt độ nóng chảy vào khoảng 60 °C đến 75 °C. Có một số cách để tính "nhệit độ nóng chảy" (TM) của mồi. (A, G, C và T tương ứng là số nucleotide của mồi. [Na+] là nồng độ Na+ trong PCR) Cũng vậy, mồi không anneal dễ dàng với chính nó và những cái cùng loại với nó, thành lập nên các loop hoặc kẹp tóc trong quy trình. Điều này làm cản trở việc anneal khuôn DNA. Tuy nhiên, càc kẹp tóc nhỏ thường không thể tránh khỏi. Đôi khi cũng sử dụng "mồi phân giải". Các mồi này là một hỗn hợp mồi giống nhau, nhưng chưa xác định. Chúng có thể thích hợp nếu gene giống nhau được khuếch đại từ các sinh vật khác nhau. Có các cách sử dụng khác đối với mồi phân giải là khi mồi thiết kế dựa vào trình tự protein. Một số codon khác nhau có thể mã hóa cho một amino acid. Vì vậy trình tự của mồi tương ứng với amino acid isoleucine có thể là "ATH", trong đó A thay cho adenine, T cho thymine, và H adenine, thymine, hoặc cytosine. (Xem mã di truyền trong các bài sau này về codon) Sử dụng mồi phân giải có thể làm giảm tính đặc hiệu của quá trình khuếch đại PCR. Vấn đề có thể được giải quyết từng phần bằng cách sử dụng Touchdown PCR. Ghi chú. An earlier version of the above article was posted on "Nupedia ". Primer (còn có tên gọi khác là đoạn mồi) là một sợi nucleic acid (hoặc ribonucleic acid) dùng để làm đoạn khởi đầu cho quá trình nhân đôi của DNA. Hầu hết các DNA polymerase (enzyme xúc tác quá trình nhân đôi DNA) không thể bắt đầu tổng hợp một đoạn DNA mới mà thiếu primer. Vì nó chỉ gắn các nucleotide vào sợi primer có sẵn theo nguyên tắc bổ sung với sợi khuôn. Trong quá trình sao mã tự nhiên, các primer cần thiết cho quá trình tổng hợp DNA là một đoạn ngắn của sợi RNA. Sợi RNA này được sinh ra bởi RNA polymerase, và sau đó được loại bỏ và thay thế bằng DNA nhờ DNA polymerase. Nhiều kỹ thuật phòng thí nghiệm về lĩnh vực sinh học phân tử có liên quan đến DNA polymerase, như giải trình tự DNA (DNA sequencing), chuỗi phản ứng PCR (Polymerase chain reaction), yêu cầu các primer. Các primer sử dụng cho các kỹ thuật đó thường là những phân tử DNA ngắn được tổng hợp nhân tạo với chiều dài khoảng 20 bases. Cấu trúc thực tế của các primer như vậy bắt đầu với 3'-OH nucleosid gắn với CPG (controlled-pore glass). 5'-OH của nucleosid được bao phủ bởi DMT (dimethoxythityl), cái sẽ ngăn cản quá trình hình thành chuỗi nucleotid. Để thêm một nucleotide, DMT được loại bỏ và nucleotide được gắn thêm vào. Đầu 5'-OH của nucleotide mới được khoá lại bởi DMT, ngăn cản quá trình thêm hơn một nucleotide vào mỗi chuỗi. Sau đó chu trình lại lặp lại cho mỗi nucleotide trong primer. Đây là một quá trình miêu tả đơn giản, quá trình thực tế là khá phức tạp, vì vậy, hầu hết các phòng thí nghiệm không tự tổng hợp được primer, nhưng có thể đặt chúng bởi các công ty làm về lĩnh vực này. Giải trình tự DNA được sử dụng để xác định các nu trong chuỗi DNA. Một phương pháp giải trình tự gọi là Dideoxy sequencing cũng được biết như phương pháp kết thúc chuỗi hay phương pháp Sanger sử dụng primer như một đánh dấu bắt đầu cho chuỗi phản ứng. Trong chuỗi phản ứng PCR, các primer được sử dụng để xác định đoạn DNA được khuếch đại bở quá trình PCR. Chiều dài của primer thường không quá 50 nu (vì DNA thường là sợi đôi, chiều dài của nó có giá trị trong các cặp base. Chiều dai của DNA sợi đơn có giá trị trong các cặp base hay các nu), và chúng bắt cặp chính xác với đoạn bắt đầu và đoạn kết thúc để khuếch đại. Chúng thường gắn với khuôn DNA ở điểm bắt đầu và điểm kết thúc, nơi mà DNA-Polymerase gắn vào và bắt đầu quá trình tổng hợp sợi DNA mới.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Trong sinh học phân tử, hybridization probe (HP, còn có tên gọi khác là đoạn dò) là một sợi acid nucleic (hoặc acid ribonucleic) có trình tự xác định và được đánh dấu bằng các phương pháp khác nhau dùng để nhận diện các đoạn nucleic acid khác có trình tự bổ sung với nó. Quá trình này dựa trên nguyên tắc biến tính và hồi tính của phân tử DNA, được gọi là lai phân tử DNA. Các phương pháp cổ điển có sử dụng probe là Northern Blot (nhận diện bản RNA phiên mã), Southern Blot (nhận diện các phiên bản của gene). Công nghệ DNA chip và cDNA micro-arrays được thiết kế cùng trên nguyên tắc sử dụng các hybridization probe của các phương pháp lai phân tử nhưng cho phép nghiên cứu đồng loạt hàng nghìn gene khác nhau. Đặc tính của hybridization probe. Về mặt bản chất, hybridization probe là một sợi đơn oligonucleotide (có chiều dài từ 30 đến 100 nucleotide) nên có khả năng tạo liên kết hydro với những đoạn DNA có trình tự bổ sung với HP. Tính đặc trưng của HP phụ thuộc vào trình tự nucleotide của nó, thông thường được kiểm tra bằng cách BLAST trình tự này trên genebank. Nhiệt độ biến tính (Tm) của HP phụ thuộc số lượng và thành phần purin và pyrimidine của HP từ đó quyết định nhiệt độ lai thích hợp trong các thí nghiệm lai phân tử. Cách thiết kế hybridization probe. Hybridization probe có thể được thiết kế dựa trên những trình tự có sẵn tuỳ vào mục đích của từng thí nghiệm và các thông tin đã có. Trong quá trình thiết kế cần bảo đảm 1) tính đặc trưng của HP, 2) không có hiện tượng lai chéo các HP hoặc tạo cấu trúc không gian nội tại trong HP, 3) giá trị nhiệt biến tính (Tm) phải phù hợp khi thực hiện phép lai nhiều HP một lúc. Các phương pháp đánh dấu hybridization probe. Tuỳ mục đích nghiên cứu mà người ta có thể lựa chọn đánh dấu HP bằng đồng vị phóng xạ (thường là 32P, 33P) hoặc chất huỳnh quang.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
DNA microarray (còn gọi là DNA chip hay gene chip) là một tấm thủy tinh hoặc nhựa trên đó có gắn các đoạn DNA thành các hàng siêu nhỏ. Các nhà nghiên cứu sử dụng các con chip như vậy để sàng lọc các mẫu sinh học nhằm kiểm tra sự có mặt hàng loạt trình tự cùng một lúc. Các đoạn DNA gắn trên chip được gọi là probe (mẫu dò). Trên mỗi điểm của chip có hàng ngàn phân tử probe với trình tự giống nhau. Lịch sử ra đời. Còn quá sớm để nói về lịch sử của DNA microarray vì kỹ thuật này tương đối mới và thuộc về tương lai hơn là quá khứ. Đầu tiên phải kể đến các mô tả đầu tiên về cấu trúc DNA của Watson & Crick (1953), cho thấy DNA có thể bị biến tính, phân tách thành hai mạch đơn khi xử lý bằng nhiệt hoặc dung dịch kiềm. Năm 1961, Marmur & Doty mô tả quá trình ngược lại, hồi tính, cơ sở của tất cả các phương pháp PCR và lai phân tử. Điều này gợi ra cách phân tích mối liên hệ trình tự của axit nucleic và các phương pháp phân tích dựa trên lai phân tử phát triển nhanh chóng. Vào cuối những năm 1960, Pardue & Gall; Jones & Roberson đã tìm ra phương pháp lai in situ có sử dụng mẫu dò đánh dấu huỳnh quang, FISH. Phương pháp cố định các nhiễm sắc thể và nhân trên phiến kính (sao cho DNA tạo thành mạch kép với mẫu dò) ngày nay được sử dụng để đặt DNA lên phiến kính trong phương pháp microarray. Vào thời gian này, hoá học hữu cơ cũng phát triển, cho phép tổng hợp tự động các mẫu dò oligonucleotide vào năm 1979. Kỹ thuật phân tích sử dụng phương pháp gắn đồng thời nhiều trình tự đích lên một bộ lọc hay màng theo thứ tự, phương pháp thấm điểm (dot blot), được Kafatos và cộng sự (1979) đưa ra. Với kỹ thuật này, các trình tự đích được cố định trên vật đỡ và lai với mẫu dò (thường là trình tự axit nucleic đã đánh dấu). Saiki và cộng sự (1989) đưa ra một cách khác, dot blot ngược, trong đó gắn nhiều mẫu dò theo thứ tự trên màng và đích để phân tích được đánh dấu. Cùng thời gian này, các array đầu tiên với giá thể không thấm nước được tạo ra trong phòng thí nghiệm của Maskos (1991). Đầu những năm 1990, kỹ thuật đánh dấu phát huỳnh quang đa màu được Ried và cộng sự; Balding & Ward giới thiệu. Vào năm 1993, array chứa các oligonucleotide ngắn, dưới 19 nucleotide được tổng hợp in situ. Năm 1994, Hoheisel và cộng sự tăng mật độ chấm (spot) bằng cách dùng robot để lấy và đặt mẫu dò lên giá thể. Phương pháp tự động hoá này làm tăng tốc độ quá trình, giảm các sai sót chắc chắn mắc phải khi thực hiện những thủ tục có tính lặp lại cao bằng tay, và tăng tính chính xác vị trí, tăng tính đồng hình của các spot mẫu. Tất cả các thí nghiệm tiên phong ở trên là cơ sở của kỹ thuật array hiện nay. Người ta đánh giá rằng, kỹ thuật này có thể sẽ phát triển đến mức chỉ vài năm nữa có thể so sánh nó với kỹ thuật PCR không thể thiếu trong sinh học hiện nay
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát (Tiếng Anh: "inflation") là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ. Khi so sánh với các nước khác thì lạm phát là sự giảm giá trị tiền tệ của một quốc gia này so với các loại tiền tệ của quốc gia khác. Theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu lạm phát của một loại tiền tệ tác động đến phạm vi nền kinh tế một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu lạm phát của một loại tiền tệ tác động đến phạm vi nền kinh tế sử dụng loại tiền tệ đó. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự "ổn định giá cả". Lạm phát ảnh hưởng đến các nền kinh tế theo nhiều cách tích cực và tiêu cực khác nhau. Tác động tiêu cực của lạm phát bao gồm sự gia tăng chi phí cơ hội của việc tích trữ tiền, và sự không chắc chắn về tình hình lạm phát trong tương lai có thể ngăn cản quyết định đầu tư và tiết kiệm. Nếu lạm phát tăng trưởng đủ nhanh, sự khan hiếm của hàng hóa sẽ khiến người tiêu dùng bắt đầu lo lắng về việc giá cả sẽ tăng cao trong thời gian tới. Tác động tích cực của lạm phát bao gồm việc giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp dựa trên giá cả cứng nhắc. Các nhà kinh tế học thường cho rằng tỷ lệ lạm phát cao gây ra bởi sự cung ứng tiền quá mức. Quan điểm về yếu tố xác định tỷ lệ lạm phát thấp đến trung bình còn đa dạng hơn. Lạm phát thấp hoặc trung bình được quy cho sự biến động về nhu cầu thực tế đối với hàng hóa và dịch vụ, hoặc do sự thay đổi về nguồn cung sẵn có, ví dụ như trong khan hiếm. Tuy nhiên, quan điểm được số đông nhất trí là sự duy trì liên tục của lạm phát trong một thời kỳ nhất định là do sự cung ứng tiền nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế. Lịch sử. Các hành vi gia tăng số lượng tiền hoặc trong cung tiền tổng thể (hoặc giảm giá tiền của các phương tiện trao đổi) đã xảy ra ở nhiều xã hội khác nhau trong suốt lịch sử, bằng sự thay đổi với các hình thức khác nhau của tiền được sử dụng. Ví dụ, khi vàng được sử dụng như tiền tệ, chính phủ có thể thu thập tiền vàng, làm tan chảy chúng ra, trộn chúng với các kim loại khác như bạc, đồng, chì, và phát hành lại chúng ở cùng một giá trị danh nghĩa. Bằng cách pha loãng vàng với kim loại khác, chính phủ có thể phát hành thêm tiền xu mà không cần phải tăng số lượng vàng được sử dụng để làm ra chúng. Khi chi phí của mỗi đồng xu vàng được hạ xuống theo cách này, lợi nhuận của chính phủ là từ sự gia tăng trong quyền lực lãnh chúa. Thực hành này sẽ làm tăng cung tiền nhưng đồng thời giá trị tương đối của mỗi đồng xu vàng sẽ bị hạ xuống. Vì giá trị tương đối của các đồng tiền trở nên thấp hơn, người tiêu dùng sẽ cần phải cung cấp thêm tiền để đổi lấy hàng hóa và dịch vụ tương tự như trước đây. Những hàng hóa và dịch vụ sẽ trải nghiệm một sự gia tăng giá cả vì giá trị của mỗi đồng tiền bị giảm đi. Nhà Tống Trung Quốc giới thiệu việc thực hành in tiền giấy để tạo ra sắc lệnh tiền tệ trong thế kỷ 11 và, theo Daniel Headrick, "tiền giấy cho phép các chính phủ chi tiêu nhiều hơn so với họ nhận được trong các loại thuế... trong thời kỳ chiến tranh, và nhà Tống đã thường xuyên có chiến tranh, thâm hụt chi tiêu như vậy đã gây ra lạm phát phi mã." Vấn đề lạm phát tiền giấy vẫn tiếp tục sau triều đại nhà Tống. Peter Bernholz viết rằng "từ đó, hầu hết các triều đại Trung Quốc đến nhà Minh đều bắt đầu bằng cách phát hành một số tiền giấy ổn định, có thể chuyển đổi và kết thúc với lạm phát rõ rệt do lưu thông ngày càng tăng số lượng tiền giấy để tài trợ cho thâm hụt ngân sách." Dưới triều đại nhà Nguyên Mông Cổ, chính phủ đã chi rất nhiều tiền chống lại các cuộc chiến tranh tốn kém, và đã phản ứng bằng cách in nhiều tiền hơn, dẫn đến lạm phát. Vấn đề lạm phát trở nên nghiêm trọng nên người dân đã ngừng sử dụng tiền giấy, thứ tiền mà họ coi như "giấy vô giá trị." Lo sợ sự lạm phát mà đã cản trở triều đại nhà Nguyên, nhà Minh ban đầu đã từ chối việc sử dụng tiền giấy, chỉ sử dụng đồng tiền xu. Triều đại này đã không phát hành tiền giấy cho đến 1375. Trong lịch sử, lan truyền vàng hoặc bạc vào một nền kinh tế cũng dẫn đến lạm phát. Từ nửa sau của thế kỷ 15 đến nửa đầu thế kỷ 17, Tây Âu đã trải qua một chu kỳ lạm phát lớn được gọi là "cách mạng giá cả", với giá cả trung bình tăng gấp sáu lần, có lẽ, sau hơn 150 năm. Điều này phần lớn do các dòng đột ngột của vàng và bạc từ Tân thế giới chảy vào Habsburg Tây Ban Nha. Bạc lan rộng trong suốt một Châu Âu đói tiền mặt trước đây và gây ra lạm phát trên diện rộng. Các yếu tố nhân khẩu học cũng góp phần tăng áp lực lên giá cả, với mức tăng trưởng dân số châu Âu sau suy giảm dân số do đại dịch Cái chết đen. Đến thế kỷ XIX, các nhà kinh tế phân loại ba yếu tố riêng biệt mà gây ra một tăng hoặc giảm giá cả hàng hóa: một sự thay đổi trong "giá trị" hoặc chi phí sản xuất hàng hóa, một sự thay đổi trong "giá tiền" mà sau đó là thường biến động trong giá hàng hóa của nội dung kim loại trong tiền tệ, và sự "mất giá đồng tiền" từ một cung tiền gia tăng liên quan đến số lượng của hỗ trợ cho tiền tệ này bằng kim loại có thể chuộc lại. Theo sự gia tăng của tiền giấy được in trong Nội chiến Hoa Kỳ, thuật ngữ "lạm phát" bắt đầu xuất hiện như một tham chiếu trực tiếp đến "mất giá đồng tiền" xảy ra khi số lượng tiền giấy có thể chuộc lại vượt xa số lượng kim loại có sẵn để chuộc lại chúng. Tại thời điểm đó, thuật ngữ lạm phát chỉ sự mất giá của đồng tiền, và không chỉ sự tăng giá hàng hoá. Mối quan hệ này giữa sự dư thừa cung tiền giấy và một mất giá kết quả trong giá trị của chúng đã được ghi nhận bởi các nhà kinh tế cổ điển trước đó như David Hume và David Ricardo, những người sẽ chuyển sang xem xét và tranh luận những tác động của việc mất giá tiền tệ (sau này được gọi là "lạm phát tiền tệ") có trên giá hàng hoá (sau này gọi là "lạm phát giá cả", và cuối cùng chỉ gọi là "lạm phát"). Việc áp dụng sắc lệnh tiền tệ của nhiều quốc gia, từ thế kỷ thứ 18, đã gây ra nhiều biến thể lớn hơn trong việc cung cấp tiền có thể. Kể từ đó, sự gia tăng rất lớn trong việc cung cấp tiền giấy đã diễn ra tại một số quốc gia, tạo ra các siêu lạm phát - các kịch bản của tỷ lệ lạm phát cực cao, vật giá tăng nhanh hơn nhiều so với những tỉ lệ lạm phát được quan sát trong thời gian trước đó của tiền tệ hàng hóa. Siêu lạm phát tại Cộng hòa Vây-ma của Đức là một ví dụ đáng chú ý, khi Chính phủ Đức in một lượng tiền cực lớn để bồi thường chiến tranh. Các định nghĩa liên quan. Thuật ngữ "lạm phát" ban đầu được chỉ các gia tăng trong số lượng tiền trong lưu thông, và một số nhà kinh tế vẫn sử dụng từ này theo cách này. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế hiện nay sử dụng thuật ngữ "lạm phát" để chỉ một sự gia tăng trong mức giá. Sự gia tăng cung tiền có thể được gọi là lạm phát tiền tệ, để phân biệt với sự tăng giá cả, mà cũng có thể được gọi cho rõ ràng là 'lạm phát giá cả'. Các nhà kinh tế nói chung đều đồng ý rằng về lâu dài, lạm phát là do tăng cung tiền. Các khái niệm kinh tế khác liên quan đến lạm phát bao gồm: giảm phát - một sụt giảm trong mức giá chung; thiểu phát - giảm tỷ lệ lạm phát; siêu lạm phát - một vòng xoáy lạm phát ngoài tầm kiểm soát; tình trạng lạm phát - một sự kết hợp của lạm phát, tăng trưởng kinh tế chậm và thất nghiệp cao, và tái lạm phát - một nỗ lực nâng cao mức giá chung để chống lại áp lực giảm phát. Vì có thể có nhiều cách đo lường mức giá cả, có thể có nhiều đo lường của lạm phát giá cả. Thường xuyên nhất, thuật ngữ "lạm phát" đề cập đến một sự gia tăng chỉ số giá mở rộng đại diện cho mức giá tổng thể đối với hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCEPI) và số giảm phát GDP là một số ví dụ về các chỉ số giá mở rộng. Tuy nhiên, "lạm phát" cũng có thể được sử dụng để mô tả một sự tăng mức giá trong một tập hợp hẹp của tài sản, hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế, chẳng hạn như hàng hóa (bao gồm thực phẩm, nhiên liệu, kim loại), các tài sản hữu hình (như bất động sản), các tài sản tài chính (như cổ phiếu, trái phiếu), dịch vụ (chẳng hạn như giải trí và chăm sóc sức khỏe), hoặc lao động. Chỉ số CRB-Reuters (CCI), Chỉ số giá sản xuất và Chỉ số chi phí nhân công (ECI) là những ví dụ của chỉ số giá hẹp được sử dụng để đo lường lạm phát giá cả trong các lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế. Lạm phát cơ bản là một thước đo lạm phát cho một tập hợp con của giá tiêu dùng không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng, tăng và giảm hơn so với các giá cả khác trong ngắn hạn. Cục dự trữ liên bang đặc biệt quan tâm đến tỷ lệ lạm phát cơ bản để có được một ước tính tốt hơn về xu hướng lạm phát dài hạn trong tương lai tổng thể. Đo lường. Để minh họa cho phương pháp tính, vào tháng 1 năm 2007, chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ là 202,416, và vào tháng 1 năm 2008 là 211,080. Công thức để tính toán tỷ lệ phần trăm lạm phát hàng năm bằng chỉ số CPI trong suốt năm 2007 là Kết quả là tỷ lệ lạm phát đối với CPI trong khoảng thời gian một năm này là 4,28%, có nghĩa là mức giá chung cho người tiêu dùng điển hình của Mỹ đã tăng khoảng bốn phần trăm trong năm 2007. Chỉ số giá bán lẻ cũng là một thước đo lạm phát được sử dụng trong Vương quốc Anh. Nó là rộng hơn so với chỉ số CPI và chứa một giỏ lớn hơn của hàng hóa và dịch vụ. Các chỉ số giá khác được sử dụng rộng rãi cho việc tính toán lạm phát giá cả bao gồm: Các đo lường lạm phát phổ biến khác là: Các vấn đề trong đo lường. Đo lường lạm phát trong một nền kinh tế đòi hỏi phải có phương tiện. Mục tiêu của việc phân biệt những thay đổi trong giá danh nghĩa trên một tập hợp chung của hàng hoá và dịch vụ, và phân biệt với những thay đổi giá do những thay đổi trong giá trị như khối lượng, chất lượng hay hiệu suất. Ví dụ, nếu giá của 10 pao ngô có thể thay đổi từ 0,90 USD đến 1,00 USD trong suốt một năm, không có thay đổi về chất lượng, thì chênh lệch giá này đại diện cho lạm phát. Tuy nhiên, sự thay đổi mức giá đơn lẻ này sẽ không đại diện cho lạm phát chung trong một nền kinh tế tổng thể. Để đo lường lạm phát tổng thể, sự thay đổi giá của một "giỏ" lớn hàng hóa và dịch vụ đại diện được đo. Đây là mục đích của một chỉ số giá, đó là giá kết hợp của một "rổ" nhiều hàng hóa và dịch vụ. Giá kết hợp là tổng giá cả gia quyền của các mặt hàng trong "rổ". Một giá cả gia quyền được tính bằng cách nhân đơn giá của một mặt hàng với số lần mua tiêu dùng trung bình mặt hàng đó. Giá cả gia quyền là một phương tiện cần thiết để đo lường tác động của các thay đổi đơn giá cụ thể đối với lạm phát tổng thể của nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng, ví dụ, sử dụng dữ liệu thu thập bởi các khảo sát hộ gia đình để xác định tỷ lệ của tổng chi tiêu của người tiêu dùng điển hình được chi cho hàng hóa và dịch vụ cụ thể, trọng lượng và giá trung bình của những mặt hàng phù hợp. Những mức giá bình quân gia quyền này được kết hợp để tính toán giá tổng thể. Để liên hệ tốt hơn các thay đổi giá theo thời gian, chỉ số này thường chọn giá một "năm cơ sở" và gán cho nó một giá trị 100. Chỉ số giá trong những năm tiếp theo sau đó được thể hiện trong mối quan hệ với giá năm cơ sở. Trong khi so sánh các đo lường lạm phát đối với các thời gian khác nhau người ta cũng phải đi vào xem xét các hiệu ứng cơ bản của lạm phát. Các đo lường lạm phát thường được sửa đổi theo thời gian, hoặc là cho gia quyền tương đối của hàng hóa trong giỏ, hoặc trong cách thức mà hàng hóa và dịch vụ từ hiện tại được so sánh với hàng hóa và dịch vụ trong quá khứ. Theo thời gian, điều chỉnh được thực hiện cho các loại hàng hóa và dịch vụ được lựa chọn để phản ánh những thay đổi trong các loại hàng hóa, dịch vụ mua của người tiêu dùng điển hình. Sản phẩm mới có thể được giới thiệu, các sản phẩm cũ biến mất, chất lượng sản phẩm hiện tại có thể thay đổi, và sở thích của người tiêu dùng có thể thay đổi. Cả các loại hàng hóa và dịch vụ được bao gồm trong "rổ" và giá cả gia quyền được sử dụng trong các đo lường lạm phát sẽ được thay đổi theo thời gian để bắt kịp với các thay đổi thị trường. Các con số lạm phát thường điều chỉnh theo mùa để phân biệt ​​các thay đổi giá cả theo chu kỳ dự kiến. Ví dụ, chi phí sưởi ấm nhà dự kiến ​​sẽ tăng trong những tháng lạnh hơn, và điều chỉnh theo mùa thường được sử dụng khi đo lường lạm phát để bù đắp cho các gai nhọn chu kỳ trong nhu cầu năng lượng, nhiên liệu. Các con số lạm phát có thể được tính trung bình hoặc bị các kỹ thuật thống kê loại bỏ nhiễu thống kê và biến động. của các giá cả cụ thể. Khi xem xét lạm phát, các tổ chức kinh tế có thể chỉ tập trung vào một số loại giá cả, hoặc chỉ số "đặc biệt", chẳng hạn như chỉ số lạm phát cơ bản được sử dụng bởi các ngân hàng trung ương để xây dựng chính sách tiền tệ. Hầu hết các chỉ số lạm phát được tính từ trung bình gia quyền của các thay đổi giá cả được lựa chọn. Điều này nhất thiết phải giới thiệu biến dạng, và có thể dẫn đến các tranh chấp mang tính hợp pháp về việc tỷ lệ lạm phát thực sự là bao nhiêu. Vấn đề này có thể được khắc phục bằng cách bao gồm tất cả các thay đổi về giá có sẵn trong tính toán, và sau đó chọn giá trị trung bình. Trong một số trường hợp khác, các chính phủ có thể cố ý báo cáo sai tỷ lệ lạm phát, ví dụ, chính phủ Argentina đã bị chỉ trích bởi các thao túng dữ liệu kinh tế, chẳng hạn như số liệu lạm phát và GDP, cho lợi ích chính trị và giảm thanh toán của mình trong nợ quốc gia tính theo chỉ số lạm phát. Ảnh hưởng. Các ảnh hưởng chung. Sự gia tăng trong mức giá chung hàm ý giảm sức mua của đồng tiền. Có nghĩa là, khi mức chung của giá cả tăng lên, mỗi đơn vị tiền tệ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Ảnh hưởng của lạm phát được phân bố không đều trong nền kinh tế, và kết quả là có những chi phí ẩn để một số và lợi ích cho người khác điều này làm giảm sức mua của tiền bạc. Ví dụ, với lạm phát, những phân đoạn trong xã hội mà sở hữu tài sản vật chất, chẳng hạn như bất động sản, chứng khoán vv, được hưởng lợi từ giá/giá trị cổ phần của họ đi lên, trong khi những người tìm kiếm để có được chúng sẽ cần phải trả nhiều tiền hơn. Khả năng của họ để làm như vậy sẽ phụ thuộc vào mức độ mà thu nhập của họ là cố định. Ví dụ, sự gia tăng trong thanh toán cho người lao động và người về hưu thường tụt hậu so với lạm phát, và cho một số người có thu nhập cố định. Ngoài ra, các cá nhân hoặc tổ chức có tài sản tiền mặt sẽ phải trải nghiệm một sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Tăng mức giá (lạm phát) làm xói mòn giá trị thực của tiền (đồng tiền chức năng) và các mặt hàng khác có tính chất tiền tệ cơ bản. Khách nợ có khoản nợ được với lãi suất danh nghĩa cố định của lãi suất sẽ giảm lãi suất "thực sự" như tỷ lệ lạm phát tăng. Lãi suất thực tế trên một khoản vay là lãi suất danh nghĩa trừ đi tỉ lệ lạm phát. Công thức R = NI xấp xỉ với câu trả lời đúng miễn là cả hai lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát là nhỏ. Phương trình chính xác là r = n/i khi r, n và i được thể hiện như tỷ lệ (ví dụ như 1.2 cho 20%, 0,8 -20%). Ví dụ, khi tỷ lệ lạm phát là 3%, một khoản vay với lãi suất danh nghĩa 5% sẽ có một tỷ lệ lãi suất thực tế khoảng 2%. Bất kỳ sự gia tăng bất ngờ nào trong tỷ lệ lạm phát sẽ làm giảm lãi suất thực. Các ngân hàng và cho vay khác điều chỉnh cho rủi ro lạm phát này bằng cách bao gồm cả phí bảo hiểm rủi ro lạm phát với các khoản vay lãi suất cố định, hoặc cho vay với tỷ lệ điều chỉnh. Các ảnh hưởng tiêu cực. Tỷ lệ lạm phát cao hoặc không thể đoán trước được coi là có hại cho nền kinh tế. Chúng thêm sự thiếu hiệu quả trong thị trường, và làm cho nó khó khăn cho các công ty với ngân sách hoặc kế hoạch dài hạn. Lạm phát có thể hoạt động như một lực cản đối với năng suất do các công ty buộc phải chuyển các nguồn lực từ các sản phẩm và dịch vụ để tập trung vào lợi nhuận và thua lỗ từ lạm phát tiền tệ. Không chắc chắn về sức mua tương lai của tiền không khuyến khích đầu tư và tiết kiệm. Và lạm phát có thể áp đặt tăng thuế ẩn, do thu nhập tăng cao đẩy người nộp thuế vào thuế suất thuế thu nhập cao hơn trừ khi khung thuế được chỉnh theo lạm phát. Với lạm phát cao, sức mua được phân phối lại từ những người thu nhập danh nghĩa cố định, chẳng hạn như một số người nghỉ hưu có lương hưu không được lập chỉ mục với mức giá, hướng tới những người có thu nhập biến đổi mà thu nhập của họ có thể giữ cho tốc độ tốt hơn với lạm phát. Phân bố lại sức mua này cũng sẽ xảy ra giữa các đối tác thương mại quốc tế. Nơi các tỷ giá cố định được áp dụng, lạm phát cao hơn trong một nền kinh tế hơn một nơi khác sẽ gây ra xuất khẩu của nền kinh tế đầu tiên trở nên đắt hơn và ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Cũng có thể có tác động tiêu cực đối với thương mại từ một sự bất ổn gia tăng trong trao đổi tiền tệ do lạm phát không thể đoán trước. Nguyên nhân. Trong lịch sử, rất nhiều tài liệu kinh tế đã quan tâm đến những câu hỏi về hiệu quả những gì gây ra lạm phát và những gì nó có. Có những trường phái khác nhau về tư tưởng như các nguyên nhân của lạm phát. Phần lớn có thể được chia thành hai khu vực chính: lý thuyết chất lượng của lạm phát và lý thuyết số lượng của lạm phát. Lý thuyết chất lượng của lạm phát dựa trên sự mong đợi của một đồng tiền chấp nhận bán để có thể trao đổi tiền tệ sau một thời gian đối với hàng hoá là mong muốn như một người mua. Lý thuyết số lượng của lạm phát dựa trên các phương trình lượng tiền, có liên quan cung tiền, vòng quay của nó, và giá trị danh nghĩa của trao đổi. Adam Smith và David Hume đã đề xuất một lý thuyết số lượng của lạm phát với tiền bỏ ra, và một lý thuyết chất lượng của lạm phát sản xuất. Hiện nay, lý thuyết số lượng tiền tệ được chấp nhận rộng rãi như là một mô hình chính xác của lạm phát trong thời gian dài. Do đó, hiện nay là thỏa thuận rộng rãi giữa các nhà kinh tế rằng về lâu dài, tỉ lệ lạm phát cơ bản phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng cung tiền liên quan đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong tình trạng lạm phát ngắn hạn và trung hạn có thể bị ảnh hưởng bởi nguồn cung cấp và nhu cầu áp lực trong nền kinh tế, và chịu ảnh hưởng của độ đàn hồi tương đối của tiền lương, giá cả và lãi suất. Các câu hỏi liệu những tác động ngắn hạn kéo dài đủ lâu là quan trọng là chủ đề trung tâm của cuộc tranh luận giữa người theo chủ nghĩa tiền tệ và các nhà kinh tế học Keynes. Trong chủ nghĩa tiền tệ giá và lương điều chỉnh một cách nhanh chóng đủ để làm cho các yếu tố khác chỉ đơn thuần là hành vi biên trên một chung xu hướng trực tuyến. Trong quan điểm học thuyết Keynes, giá cả và tiền lương điều chỉnh ở mức độ khác nhau, và những khác biệt này có đủ các hiệu ứng trên sản lượng thực tế là "lâu dài" theo quan điểm của những người trong một nền kinh tế. Quan điểm của học thuyết Keynes. Kinh tế học Keynes đề xuất rằng những thay đổi trong cung tiền không trực tiếp ảnh hưởng đến giá cả, và rằng lạm phát có thể nhìn thấy là kết quả của các áp lực trong nền kinh tế tự thể hiện mình trong giá. Có ba loại chính của lạm phát, như một phần của những gì Robert J. Gordon gọi là "mô hình tam giác": Lý thuyết cầu kéo nói rằng lạm phát tăng tốc khi tổng cầu tăng vượt quá khả năng của nền kinh tế để sản xuất (sản lượng tiềm năng của nó). Do đó, bất kỳ yếu tố nào làm tăng tổng cầu đều có thể gây ra lạm phát. Tuy nhiên, về lâu dài, tổng cầu có thể được tổ chức trên năng lực sản xuất chỉ bằng cách tăng lượng tiền trong lưu thông nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế. Một nguyên nhân khác (mặc dù ít phổ biến) có thể là một sự suy giảm nhanh chóng trong "nhu cầu" đối với tiền bỏ ra, như đã xảy ra ở châu Âu trong Black Death, hoặc trong vùng lãnh thổ bị Nhật Bản chiếm đóng ngay trước sự thất bại của Nhật Bản trong năm 1945. Ảnh hưởng của tiền trên lạm phát là rõ ràng nhất khi các chính phủ tài trợ cho chi tiêu trong một cuộc khủng hoảng, chẳng hạn như một cuộc chiến tranh dân sự, bằng cách in tiền quá mức. Điều này đôi khi dẫn đến lạm phát phi mã, một điều kiện mà giá có thể tăng gấp đôi trong một tháng hoặc ít hơn. Cung tiền cũng được cho là đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ vừa phải của lạm phát, mặc dù có sự khác biệt về quan điểm về tầm quan trọng của nó. Ví dụ: các nhà kinh tế theo chủ nghĩa tiền tệ tin rằng liên kết là rất mạnh mẽ, các nhà kinh tế Keynes, ngược lại, thường nhấn mạnh vai trò của tổng cầu trong nền kinh tế chứ không phải là cung tiền trong việc xác định lạm phát. Có nghĩa là, đối với phái Keynes, cung tiền chỉ là một yếu tố quyết định của tổng cầu. Một số nhà kinh tế phái Keynes cũng không đồng ý với quan điểm cho rằng ngân hàng trung ương hoàn toàn kiểm soát cung tiền, cho rằng ngân hàng trung ương có ít kiểm soát, do cung tiền thích nghi với nhu cầu cho tín dụng ngân hàng được phát hành bởi ngân hàng thương mại. Điều này được gọi là lý thuyết của tiền nội sinh, và đã được ủng hộ mạnh mẽ bởi những người sau Keynes từ những năm 1960. Nó ngày nay đã trở thành một trọng tâm của những người ủng hộ quy tắc Taylor. Vị trí này không được chấp nhận phổ biến - các ngân hàng tạo ra tiền bằng cách làm ra các khoản vay, nhưng tổng khối lượng các khoản vay này giảm đi khi lãi suất thực tăng. Như vậy, các ngân hàng trung ương có thể ảnh hưởng đến việc cung cấp tiền bằng cách làm cho tiền rẻ hơn hoặc đắt hơn, do đó tăng hoặc giảm sản xuất. Một khái niệm cơ bản trong phân tích lạm phát là mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, được gọi là đường cong Phi-líp. Mô hình này cho thấy rằng có một đánh đổi giữa sự ổn định giá cả và việc làm. Vì vậy, một số mức độ lạm phát có thể được xem là hấp dẫn để giảm thiểu tình trạng thất nghiệp. Mô hình đường cong Phillips mô tả tốt kinh nghiệm của Mỹ vào những năm 1960 nhưng không thành công để mô tả sự kết hợp của lạm phát tăng cao và kinh tế trì trệ (đôi khi được gọi là "tình trạng lạm phát") có trải nghiệm trong những năm 1970. Như vậy, kinh tế vĩ mô hiện đại mô tả lạm phát bằng cách sử dụng đường cong Phillips rằng các "thay đổi" (nên sự đánh đổi giữa các thay đổi lạm phát và thất nghiệp) vì những vấn đề như các cú sốc cung và lạm phát trở thành xây dựng cho các hoạt động bình thường của nền kinh tế. Các đề cập trước đây đến các sự kiện như cú sốc dầu lửa những năm 1970, trong khi những đề cập sau này đến vòng xoáy giá/lương ốc và các kỳ vọng lạm phát ngụ ý rằng nền kinh tế bị lạm phát "một cách bình thường". Như vậy, đường cong Phi-líp chỉ đại diện cho thành phần cầu kéo của mô hình tam giác. Một khái niệm khác cần lưu ý là sản lượng tiềm năng (đôi khi được gọi là "tổng sản phẩm quốc nội tự nhiên"), một mức độ của GDP, khi nền kinh tế đang ở mức sản xuất tối ưu của nó được thể chế và tự nhiên. (Mức độ sản lượng này tương ứng với Tỷ lệ thất nghiệp không đẩy mạnh lạm phát, NAIRU, hoặc tỷ lệ thất nghiệp "tự nhiên" hoặc tỷ lệ thất nghiệp đầy đủ việc làm). Nếu GDP vượt quá tiềm năng của nó (và thất nghiệp là dưới NAIRU), lý thuyết này nói rằng lạm phát sẽ "tăng tốc" do các nhà cung cấp tăng giá của họ và lạm phát tích hợp nặng hơn. Nếu GDP giảm xuống dưới mức tiềm năng của nó (và thất nghiệp là trên NAIRU), lạm phát sẽ "giảm tốc" do các nhà cung cấp cố gắng để điền vào công suất dư thừa, bằng cách giảm giá và phá hoại lạm phát có sẵn. Tuy nhiên, một vấn đề với lý thuyết này cho mục đích hoạch định chính sách là mức độ chính xác của sản lượng tiềm năng (và của NAIRU) nói chung là không rõ và có xu hướng thay đổi theo thời gian. Lạm phát cũng có vẻ hành động một cách không đối xứng, tăng nhanh hơn so với giảm. Tệ hơn, nó có thể thay đổi vì chính sách: ví dụ, tỷ lệ thất nghiệp cao dưới thời Thủ tướng Anh Margaret Thatcher có thể đã dẫn đến sự gia tăng trong NAIRU (và giảm tiềm năng) bởi vì nhiều người thất nghiệp tự thấy mình như thất nghiệp cơ cấu (xem thêm thất nghiệp), không thể tìm được việc làm phù hợp với kỹ năng của họ. Một gia tăng trong thất nghiệp cơ cấu ngụ ý rằng một tỷ lệ phần trăm nhỏ của lực lượng lao động có thể tìm việc làm ở NAIRU, nơi nền kinh tế tránh vượt qua ngưỡng vào lĩnh vực thúc đẩy lạm phát. Thất nghiệp. Một kết nối giữa lạm phát và thất nghiệp đã được rút ra từ sự xuất hiện của thất nghiệp quy mô lớn trong thế kỷ 19, và các kết nối tiếp tục được rút ra hôm nay. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp thường chỉ ảnh hưởng đến lạm phát trong ngắn hạn nhưng không lâu dài. Về lâu dài, các vận tốc của tiền các biện pháp cung cấp như vận tốc MZM ("đáo hạn không tiền," đại diện cho tiền mặt và tiền gửi nhu cầu tương đương) là dự đoán lạm phát xa hơn so với tỷ lệ thất nghiệp thấp. Trong kinh tế học Mác-xít, thất nghiệp phục vụ như một đội quân lao động dự bị, kiềm chế lạm phát tiền lương. Trong thế kỷ 20, các khái niệm tương tự trong Kinh tế học Keynes bao gồm NAIRU (Tỷ lệ thất nghiệp không gia tăng lạm phát) và đường cong Phillips. Quan điểm của Chủ nghĩa tiền tệ. Những người theo chủ nghĩa tiền tệ tin rằng yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến lạm phát hay giảm phát là tốc độ cung tiền tăng lên hoặc co lại. Họ coi chính sách tài khóa, hoặc chi tiêu chính phủ và thuế, là không có hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát. Theo nhà kinh tế theo chủ nghĩa tiền tệ nổi tiếng Milton Friedman,"Lạm phát là luôn luôn có và ở khắp mọi nơi là một hiện tượng tiền tệ." Tuy nhiên, một số người theo chủ nghĩa tiền tệ sẽ chấp nhận điều này bằng cách làm một ngoại lệ cho các trường hợp rất ngắn hạn. Những người theo chủ nghĩa tiền tệ khẳng định rằng các nghiên cứu thực nghiệm lịch sử tiền tệ cho thấy lạm phát luôn luôn là một hiện tượng tiền tệ. Thuyết số lượng tiền tệ, chỉ đơn giản nói rằng bất kỳ thay đổi nào trong số lượng tiền trong một hệ thống sẽ làm thay đổi mức giá. Lý thuyết này bắt đầu với phương trình trao đổi: ở đây Trong công thức này, mức giá chung có liên quan đến mức độ hoạt động kinh tế thực ("Q"), lượng tiền ("M") và vòng quay của tiền ("V"). Công thức này là một đồng nhất thức vì vòng quay của tiền ("V") được định nghĩa là tỷ lệ chi tiêu danh nghĩa cuối cùng (formula_7) với số lượng tiền ("M"). Những người theo chủ nghĩa tiền tệ cho rằng vòng quay của tiền không bị ảnh hưởng bởi chính sách tiền tệ (ít nhất là trong thời gian dài), và giá trị thực của sản lượng được xác định trong thời gian dài bởi năng lực sản xuất của nền kinh tế. Theo các giả định, động lực chính của sự thay đổi trong mức giá chung là thay đổi trong lượng tiền. Với vòng quay ngoại sinh (có nghĩa là, vòng quay được xác định bên ngoài và không bị ảnh hưởng bởi chính sách tiền tệ), cung tiền xác định giá trị sản lượng danh nghĩa (bằng chi phí cuối cùng) trong ngắn hạn. Trong thực tế, vòng quay không phải là ngoại sinh trong ngắn hạn, và do đó, công thức không nhất thiết có nghĩa là một mối quan hệ ngắn hạn ổn định giữa cung tiền và sản lượng không đáng kể. Tuy nhiên, về lâu dài, những thay đổi trong vòng quay được giả định được xác định bởi sự phát triển của các cơ chế thanh toán. Nếu vòng quay tương đối không bị ảnh hưởng bởi chính sách tiền tệ, tỷ giá dài hạn của tăng giá (tỷ lệ lạm phát) bằng với tỷ lệ dài hạn tăng trưởng của cung tiền cộng với lãi dài hạn ngoại sinh của tốc độ phát triển trừ đi thời gian dài tốc độ tăng trưởng của sản lượng thực tế. Quan điểm của Lý thuyết kỳ vọng hợp lý. Lý thuyết kỳ vọng hợp lý cho rằng tác nhân kinh tế tìm cách hợp lý trong tương lai khi cố gắng tối đa hóa phúc lợi của họ, và không đáp ứng chỉ với chi phí cơ hội và áp lực trước mắt. Theo quan điểm này, trong khi thường căn cứ vào trọng tiền, kỳ vọng và chiến lược trong tương lai cũng là quan trọng đối với lạm phát. Một sự khẳng định cốt lõi của lý thuyết kỳ vọng hợp lý là tác nhân kinh tế sẽ tìm cách "đón đầu" các quyết định của ngân hàng trung ương bằng cách hành động bằng cách thực hiện những dự đoán lạm phát cao hơn. Điều này có nghĩa rằng các ngân hàng trung ương phải thiết lập sự tin cậy của họ trong cuộc chiến chống lạm phát, hoặc tác nhân kinh tế sẽ đặt cược rằng các ngân hàng trung ương sẽ mở rộng cung tiền nhanh chóng, đủ để ngăn chặn suy giảm, thậm chí tại các chi phí làm tăng lạm phát. Vì vậy, nếu một ngân hàng trung ương có tiếng là "mềm dẻo" đối với lạm phát, khi công bố một chính sách chống lạm phát mới với các tác nhân kinh tế tăng trưởng tiền tệ hạn chế sẽ không tin rằng chính sách này sẽ vẫn tồn tại; kỳ vọng lạm phát của họ vẫn ở mức cao, và do đó sẽ lạm phát. Mặt khác, nếu các ngân hàng trung ương có tiếng là "cứng rắn" đối với lạm phát, thì một thông báo chính sách như vậy sẽ được tin tưởng và kỳ vọng lạm phát sẽ giảm xuống nhanh chóng, do đó cho phép lạm phát nó đi xuống nhanh chóng với sự gián đoạn kinh tế tối thiểu. Các quan điểm không chính thống. Cũng còn có các học thuyết không chính thống khác mà giảm nhẹ hoặc từ chối quan điểm của Keynes và những người theo chủ nghĩa tiền tệ. Quan điểm của trường phái Áo. Trường phái Áo khẳng định rằng lạm phát là sự gia tăng cung tiền, giá tăng chỉ là hậu quả và sự khác biệt ngữ nghĩa này là rất quan trọng trong việc xác định lạm phát. Trường phái Áo nhấn mạnh rằng lạm phát ảnh hưởng đến giá mức độ khác nhau (tức là giá tăng mạnh trong một số lĩnh vực hơn trong các lĩnh vực khác của nền kinh tế). Lý do cho sự chênh lệch là tiền dư thừa sẽ được tập trung vào một số lĩnh vực, chẳng hạn như nhà ở, cổ phiếu hoặc chăm sóc sức khỏe. Bởi vì có sự khác nhau này, trường phái Áo cho rằng mức giá tổng hợp có thể là rất sai lầm khi quan sát những tác động của lạm phát. Các nhà kinh tế Áo đo lường lạm phát bằng cách tính toán sự phát triển của các đơn vị tiền mới có sẵn để sử dụng ngay lập tức trong trao đổi, đã được tạo ra theo thời gian. Các phê bình quan điểm của trường phái Áo chỉ ra rằng lựa chọn thay thế ưa thích của họ với tiền tệ đại diện nhằm ngăn chặn lạm phát, tiền tệ được bảo đảm hàng hóa, có khả năng tăng cung với tốc độ khác hơn tăng trưởng kinh tế. Do đó nó đã được chứng minh là giảm phát cao và mất ổn định, kể cả trong trường hợp nó gây ra và kéo dài suy thoái. Học thuyết Hóa đơn thực tế. Trong bối cảnh của một cơ sở tiền đồng cố định đối với tiền, một trong những tranh cãi quan trọng là giữa lý thuyết số lượng tiền và học thuyết hóa đơn thực tế (RBD). Trong bối cảnh đó, lý thuyết số lượng áp dụng cho mức độ kế toán dự trữ phân đoạn đã cho phép chống lại tiền đồng, vàng nói chung, bị nắm giữ bởi ngân hàng. Các trường phái kinh tế tiền tệ và hoạt động ngân hàng tranh luận RBD, các ngân hàng cũng sẽ có thể phát hành tiền tệ chống lại các hóa đơn trao đổi, đó là các "hóa đơn thực tế" mà họ mua từ các thương gia. Lý thuyết này là quan trọng vào thế kỷ 19 trong cuộc tranh luận giữa các trường phái "hoạt động ngân hàng" và "tiền tệ" về tính đúng đắn của tiền tệ, và trong sự hình thành của Dự trữ Liên bang. Theo sau sự sụp đổ của bản vị vàng quốc tế sau năm 1913, và di chuyển theo hướng thâm hụt tài chính của chính phủ, RBD vẫn là một chủ đề nhỏ, chủ yếu quan tâm trong các bối cảnh hạn chế, chẳng hạn như các vị tiền tệ. Nó được nắm một cách chung trong danh tiếng ốm yếu ngày hôm nay, với Frederic Mishkin, một thống đốc của Dự trữ Liên bang đi xa đến mức nói rằng nó đã bị "hoàn toàn mất uy tín." Các cuộc tranh luận giữa các trường phái tiền tệ, hoặc lý thuyết số lượng, và hoạt động ngân hàng ở Anh trong thế kỷ 19 tiên báo câu hỏi hiện nay về độ tin cậy của tiền trong hiện tại. Trong thế kỷ 19 trường phái hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng lớn hơn trong chính sách của Hoa Kỳ và Anh, trong khi trường phái tiền tệ đã có nhiều ảnh hưởng "ở châu lục", đó là ở các nước ngoài Anh, đặc biệt trong Liên minh tiền tệ Latin và liên minh tiền tệ Scandinavia trước đó. Lý thuyết chống cổ điển hay lý thuyết ủng hộ. Một vấn đề khác liên quan đến kinh tế chính trị cổ điển là giả thuyết chống cổ điển của tiền bạc, hay "lý thuyết ủng hộ". Lý thuyết ủng hộ lập luận rằng giá trị của tiền được xác định bởi các tài sản và nợ phải trả của cơ quan phát hành. Không giống như Lý thuyết số lượng của kinh tế chính trị cổ điển, lý thuyết ủng hộ lập luận rằng cơ quan phát hành có thể phát hành tiền mà không gây ra lạm phát, miễn là các tổ chức phát hành tiền có đủ tài sản để chuộc lại. Có rất ít các nhà lý luận ủng hộ, làm cho lý thuyết số lượng trở thành lý thuyết thống trị giải thích lạm phát. Kiểm soát lạm phát. Có nhiều phương pháp và chính sách đã và đang được sử dụng để kiểm soát lạm phát. Kích thích tăng trưởng kinh tế. Nếu tăng trưởng kinh tế phù hợp với sự tăng trưởng của cung tiền, lạm phát sẽ có thể không xảy ra khi các nhân tố khác cũng cân bằng nhau. Một số lượng lớn các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tốc độ của cả hai. Ví dụ: đầu tư trong sản xuất thị trường, cơ sở hạ tầng, giáo dục, và chăm sóc y tế dự phòng tất cả có thể tăng trưởng một nền kinh tế với số lượng lớn hơn chi tiêu đầu tư. Chính sách tiền tệ. Ngày nay, công cụ chính để kiểm soát lạm phát là chính sách tiền tệ. Hầu hết các ngân hàng trung ương được giao nhiệm vụ giữ lãi suất cho vay liên ngân hàng ở mức thấp, thường là cho một tỷ lệ mục tiêu khoảng 2% đến 3% mỗi năm, và trong một phạm vi lạm phát mục tiêu thấp, ở đâu đó trong khoảng từ 2% đến 6% mỗi năm. Một lạm phát dương thấp thường là mục tiêu, do các điều kiện giảm phát được xem là nguy hiểm cho sức khỏe của nền kinh tế. Có một số phương pháp đã được đề xuất để kiểm soát lạm phát. Các ngân hàng Trung ương như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể ảnh hưởng đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua thiết lập lãi suất và thông qua các hoạt động khác. Các lãi suất cao và tốc độ tăng trưởng cung tiền chậm chạp là những cách truyền thống thông qua đó ngân hàng trung ương chống lại hoặc ngăn chặn lạm phát, mặc dù chúng có cách tiếp cận khác nhau. Ví dụ, một số theo một mục tiêu lạm phát đối xứng trong khi những phương pháp khác chỉ kiểm soát lạm phát khi nó lên trên một mục tiêu, cho dù rõ ràng hay ngụ ý. Những người theo chủ nghĩa tiền tệ nhấn mạnh việc duy trì tốc độ tăng trưởng tiền ổn định, và sử dụng chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát (tăng lãi suất, làm chậm sự gia tăng cung tiền). Những người theo học thuyết Keynes nhấn mạnh việc giảm tổng cầu trong quá trình mở rộng kinh tế và việc gia tăng nhu cầu trong thời kỳ suy thoái để giữ lạm phát ổn định. Kiểm soát tổng cầu có thể đạt được bằng cách sử dụng cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa (tăng thuế hoặc giảm chi tiêu của chính phủ để giảm cầu). Tỷ giá hối đoái cố định. Dưới một chế độ tỷ giá hối đoái cố định, đồng tiền của một quốc gia được gắn về giá trị với một đồng tiền khác hoặc một rổ tiền tệ khác (hoặc đôi khi đến một thước đo giá trị, chẳng hạn như vàng). Một tỷ giá hối đoái cố định thường được sử dụng để ổn định giá trị đồng tiền, đối diện đồng tiền mà nó cố định vào. Nó cũng có thể được sử dụng như một phương tiện để kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, vì giá trị của đồng tiền tham chiếu tăng lên và hạ xuống, do đó, đồng tiền không ổn định so với nó. Điều này về cơ bản có nghĩa là tỷ lệ lạm phát của nước có chế độ tỷ giá hối đoái cố định bị xác định bởi tỷ lệ lạm phát của nước mà đồng tiền này cố định vào. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái cố định ngăn chặn chính phủ trong việc sử dụng chính sách tiền tệ trong nước để đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô. Theo thỏa thuận Bretton Woods, hầu hết các nước trên thế giới đã có đồng tiền được cố định với đồng đô-la Mỹ. Lạm phát hạn chế này tại các quốc gia, nhưng cũng đẩy họ đến việc tiếp xúc với nguy cơ của các tấn công đầu cơ. Sau khi thỏa thuận Bretton Woods bị phá vỡ trong những năm 1970, các quốc gia dần dần chuyển sang tỷ giá hối đoái thả nổi. Tuy nhiên, trong phần sau của thế kỷ 20, một số nước trở lại tỷ giá hối đoái cố định như một phần của một nỗ lực để kiềm chế lạm phát. Chính sách sử dụng một tỷ giá hối đoái cố định để kiểm soát lạm phát này đã được sử dụng ở nhiều quốc gia ở Nam Mỹ trong phần sau của thế kỷ 20 (ví dụ: Argentina (1991-2002), Bolivia, Brazil và Chile Bản vị vàng. Bản vị vàng là một hệ thống tiền tệ trong đó phương tiện trao đổi phổ biến của một vùng là tiền giấy mà thường có thể chuyển đổi tự do với một lượng cố định được đặt ra từ trước của vàng. Bản vị này quy định cụ thể cách mà sự ủng hộ vàng sẽ được thực hiện, bao gồm cả số lượng tiền vàng trên một đơn vị tiền tệ. Loại tiền tệ chính nó không có giá trị "bẩm sinh", nhưng được chấp nhận bởi các thương nhân vì nó có thể được hoàn trả lại cho tiền vàng tương đương. Một Mỹ chứng nhận bạc, ví dụ, có thể được hoàn trả cho một phần bạc thực tế. Bản vị vàng đã bị bỏ rơi một phần thông qua việc áp dụng quốc tế của Hệ thống Bretton Woods. Theo hệ thống này tất cả các loại tiền tệ chính khác bị buộc ở mức giá cố định với đồng đô-la Mỹ, mà bản thân nó đã gắn liền với vàng ở mức 35 USD một ounce. Hệ thống Bretton Woods bị phá vỡ vào năm 1971, làm cho hầu hết các nước chuyển sang tiền tệ sắc lệnh - tiền tệ được hỗ trợ chỉ bởi luật pháp của đất nước đó. Do bất bình với cách các chính phủ rời bỏ bản vị vàng, năm 2009, Satoshi Nakamoto đã phát minh ra Bitcoin - là đồng tiền này có khả năng cạnh tranh trực tiếp với vàng do có đầy đủ các tính chất của kim loại này và vượt qua được sự kiểm soát của chính phủ. Sự phân tán của tiền Bitcoin có nguồn gốc lý tưởng dựa trên trường phái kinh tế học Áo, đặc biệt được thể hiện trong cuốn sách "Tiền tệ không quốc gia" ("Denationalisation of Money: The Argument Refined)" của Friedrich von Hayek, khi mà ông ta tin tưởng vào một nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do trong việc sản xuất, phân phát, điều hành đồng tiền để chấm dứt sự độc quyền của các ngân hàng trung ương. Theo Lawrence H. White, một Giáo sư Lịch sử kinh tế F.A. Hayek "người làm nên giá trị cho truyền thống Áo", các nền kinh tế dựa trên bản vị vàng hiếm khi gặp lạm phát trên 2 phần trăm mỗi năm. Tuy nhiên, trong lịch sử, Mỹ đã nhìn thấy lạm phát hơn 2% vài lần và đỉnh điểm lạm phát cao hơn theo bản vị vàng khi so sánh với lạm phát sau bản vị vàng. Dưới một bản vị vàng, tỷ lệ lạm phát (hoặc giảm phát) dài hạn sẽ có thể bị xác định bởi tốc độ tăng trưởng của nguồn cung vàng so với tổng sản lượng. Các phê bình cho rằng điều này sẽ gây ra biến động tùy ý trong tỷ lệ lạm phát và chính sách tiền tệ về cơ bản sẽ được xác định bằng việc khai thác vàng. Kiểm soát tiền lương và giá cả. Một phương pháp khác đã được thử trong quá khứ là kiểm soát tiền lương và giá cả ("chính sách thu nhập"). Việc kiểm soát tiền lương và giá cả kết hợp với phân phối đã thành công trong môi trường chiến tranh. Tuy nhiên, việc sử dụng chúng trong các bối cảnh khác là hỗn hợp hơn rất nhiều. Thất bại đáng chú ý của việc sử dụng bao gồm áp đặt kiểm soát tiền lương và giá cả năm 1972 bởi Richard Nixon. Ví dụ thành công hơn bao gồm Hòa ước giá cả và thu nhập tại Úc và Thỏa hiệp Wassenaar tại Hà Lan. Nói chung, kiểm soát tiền lương và giá cả được coi là một biện pháp tạm thời và đặc biệt, chỉ có hiệu quả khi kết hợp với các chính sách được thiết kế để làm giảm những nguyên nhân cơ bản của lạm phát trong chế độ kiểm soát tiền lương và giá cả, ví dụ, chiến thắng cuộc chiến đang chiến đấu. Chúng thường có tác dụng hư hỏng, do các tín hiệu méo mó mà chúng gửi cho thị trường. Giá thấp giả tạo thường gây ra phân phối và sự thiếu hụt và khuyến khích đầu tư trong tương lai, dẫn đến tình trạng thiếu nhưng xa hơn. Phân tích kinh tế thông thường là bất kỳ sản phẩm hoặc dịch vụ mà dưới giá đều được tiêu thụ quá nhiều. Ví dụ, nếu giá chính thức của bánh mì là quá thấp, sẽ có quá ít bánh mì với giá chính thức, và có quá ít đầu tư trong việc làm bánh mì của thị trường để đáp ứng nhu cầu trong tương lai, do đó làm trầm trọng thêm các vấn đề trong lâu dài. Kiểm soát tạm thời có thể bổ sung cho "một cuộc suy thoái" như là một cách để chống lạm phát: điều khiển làm cho suy thoái kinh tế hiệu quả hơn như một cách để chống lạm phát (làm giảm sự cần thiết phải tăng tỷ lệ thất nghiệp), trong khi suy thoái kinh tế ngăn chặn các loại biến dạng mà kiểm soát gây ra khi nhu cầu cao. Tuy nhiên, nói chung những lời khuyên của các nhà kinh tế không phải là áp đặt kiểm soát giá cả mà là tự do hóa giá cả bằng cách giả định rằng nền kinh tế sẽ điều chỉnh và từ bỏ hoạt động kinh tế mang lại lợi nhuận. Hoạt động thấp hơn sẽ đặt nhu cầu ít hơn bất cứ điều gì trên mặt hàng được dẫn dắt lạm phát, cho dù lao động, tài nguyên, và lạm phát sẽ giảm với tổng sản lượng kinh tế. Điều này thường tạo ra một cuộc suy thoái nghiêm trọng, như năng lực sản xuất được phân bổ lại và do đó thường rất phổ biến với những người mà sinh kế bị phá hủy (xem phá hủy sáng tạo). Trợ cấp chi phí sinh hoạt. Sức mua thực tế của các khoản thanh toán cố định đang bị xói mòn bởi lạm phát trừ khi chúng được điều chỉnh lạm phát để giữ giá trị thực sự không đổi. Ở nhiều nước, hợp đồng lao động, trợ cấp hưu trí, và các quyền lợi của chính phủ (ví dụ như an sinh xã hội) được gắn với một chỉ số chi phí sinh hoạt, thường đến chỉ số giá tiêu dùng. Một "trợ cấp chi phí sinh hoạt" (COLA) điều chỉnh lương dựa trên những thay đổi trong chỉ số chi phí sinh hoạt. Tiền lương thường được điều chỉnh hàng năm trong nền kinh tế lạm phát thấp. Trong khi lạm phát phi mã nó được điều chỉnh thường xuyên hơn. Chúng cũng có thể được gắn với một chỉ số giá sinh hoạt mà thay đổi theo vị trí địa lý khi di chuyển nhân viên. Khoản điều chỉnh hàng năm trong hợp đồng lao động có thể chỉ định hồi tố hoặc tăng tỷ lệ phần trăm tương lai trong lương công nhân mà không bị ràng buộc với bất kỳ chỉ số nào. Những gia tăng trả tiền được đàm phán này được gọi một cách thông tục là các điều chỉnh chi phí sinh hoạt ("COLA") hoặc gia tăng chi phí sinh hoạt vì sự tương đồng của chúng với các gia tăng gắn liền với các chỉ số được xác định bên ngoài.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Sông Hậu, Hậu Giang hay Bassac là một trong hai phân lưu của sông Mê Kông. Phân lưu còn lại là sông Tiền. Mê Kông tách ra thành sông Tiền và sông Hậu tại lãnh thổ Campuchia. Ở Campuchia, sông Hậu được gọi là sông Bassac ("Tonlé Bassac" theo tiếng Khmer). Vì thế nó còn có tên gọi nữa là sông Ba Thắc. Dòng chảy. Sông Hậu tách ra khỏi sông Mê Kông ở Nam Vang, chảy trong địa phận tỉnh Kandal (Cam pu chia) rồi vào lãnh thổ Việt Nam tại xã Khánh An, huyện An Phú tỉnh An Giang. Trên lãnh thổ Việt Nam, sông Hậu chảy qua bảy tỉnh, làm ranh giới tự nhiên giữa: Sông Hậu tách ra hai nhánh khi đến huyện Cù Lao Dung của tỉnh Sóc Trăng, rồi đổ ra biển Đông qua cửa Trần Đề (giữa Trần Đề và Cù Lao Dung, Sóc Trăng), cửa Định An (giữa Duyên Hải, Trà Vinh và Cù Lao Dung, Sóc Trăng). Cửa Ba Thắc đã bị đất bồi từ khoảng thập niên 70 nên không còn nữa. Cửa Định An rộng nhưng cũng bị phù sa bồi nhiều nên chỉ sâu bình quân 3 mét. Đoạn rộng nhất của con sông nay là giữa huyện Cầu Kè (Trà Vinh) và huyện Long Phú (Sóc Trăng) khoảng gần 4 km. Sông Hậu xưa và nay. Sách "Đại Nam nhất thống chí" viết: "...Sông Hậu Giang ở cách huyện Tây Xuyên [(tỉnh An Giang nhà Nguyễn)] 8 dặm về phía Tây Bắc [tức là huyện lỵ Tây Xuyên cũng là tỉnh thành Châu Đốc nằm ở phía Tây Bắc bờ sông Hậu]. Phát nguyên như sông Tiền Giang, đến phủ Nam Vang nước Cao Miên, chia một nhánh về phía Tây Nam làm sông Hậu Giang. Phía Đông sông là địa phận các huyện Đông Xuyên, Vĩnh An, An Xuyên [là các huyện của phủ Tân Thành tỉnh An Giang nhà Nguyễn]. Phía Tây là địa phận các huyện Tây Xuyên, Phong Phú, Vĩnh Định, và Phong Thịnh [là các huyện thuộc 2 phủ Tuy Biên và Ba Xuyên tỉnh An Giang nhà Nguyễn]. Sông ở giữa địa phận của tỉnh [An Giang nhà Nguyễn]..." Môi trường. Có những lo ngại là những dự án đang hình thành hoặc đang dự định sẽ gây nhiều ô nhiễm môi trường:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Theo triết học cổ Trung Hoa, tất cả vạn vật đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản và luôn trải qua năm trạng thái là: Hỏa (火), Thủy (水), Mộc (木), Kim (金), Thổ (土). Năm trạng thái này được gọi là Ngũ hành (五行), không phải là vật chất như cách hiểu đơn giản theo nghĩa đen trong tên gọi của chúng mà đúng hơn là cách quy ước của người Trung Hoa cổ đại để xem xét mối tương tác và quan hệ của vạn vật trong mối tương quan hài hòa, thống nhất.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Tế bào nhiên liệu màng điện phân polymer hoặc pin nhiên liệu trao đổi proton qua màng lọc (tiếng Anh: "polymer electrolyte membrane fuel cell" hoặc "proton exchange membrane fuel cell", viết tắt là PEMFC) là loại tế bào nhiên liệu ít phức tạp, có nhiều triển vọng để được sản xuất hàng loạt. Nó sử dụng một phản ứng hóa học thường có trong nhiều loại pin nhiên liệu, phản ứng kết hợp oxy và hydro ra nước và năng lượng. Đặc tính. Vì loại màng này chỉ hoạt động khi có chứa một lượng nước nhất định, các tế bào chỉ hoạt động ở nhiệt độ dưới 100°C (khoảng 176 °F, hay 80 °C). Đây là nhiệt độ rất thấp so với những loại pin nhiên liệu khác, cho nên nó hâm nóng rất nhanh chóng và không đòi hỏi nhiều cấu trúc phức tạp và tốn kém. Tuy nhiên, vì ở nhiệt độ thấp, người ta phải cần dùng đến các chất xúc tác để đưa phản ứng vào hoạt động. Ở môi trường có độ chua và tính ăn mòn cao nên các chất xúc tác phải được làm bằng các kim loại quý như platin hoặc hợp kim của platin. Mặc dù dễ bị oxit cacbon làm hỏng nhưng bù lại loại tế bào nhiên liệu này có thể được vận hành với oxy trong không khí. Ứng dụng. Điện thoại di động, một số ô tô hay nhà máy phát điện cỡ nhỏ, là các lĩnh vực ứng dụng tiềm năng của loại tế bào nhiên liệu này. Ưu điểm của loại tế bào này là có cấu tạo đơn giản, khởi động nhanh không cần phải làm nóng trước lâu. Mặc dù giá thành tương đối cao vì các chất xúc tác phải làm bằng kim loại quý, PEMFC được dự đoán có tiềm năng thị trường rất lớn. Loại tế bào nhiên liệu này là loại được sử dụng nhiều nhất trong các xe thực nghiệm như ô tô, xe buýt, tàu điện. NASA đã sử dụng loại tế bào nhiên liệu này trong chương trình du hành vũ trụ Gemini. Năm 1999 DaimlerChrysler hợp tác cùng với Ford và Ballard Power Systems giới thiệu xe NECAR 4 (New Electric Car 4) dùng PEMFC được cung cấp chất đốt từ một bình hydrogen lỏng có tầm hoạt động 450km và vận tốc nhanh nhất là 140 km/h. Năm 2001 Opel và General Motor giới thiệu loại xe HydroGen3 với bình hydrogen lỏng dung tích 68 lít, có tầm hoạt động 400 km và vận tốc nhanh nhất là 150 km/h. Các loại xe buýt của DaimlerChrysler và của MAN sử dụng PEMFC cũng đang được chạy thực nghiệm ở nhiều thành phố trên thế giới. Nhiều thiết bị kết hợp phát điện và sưởi từ PEMFC của hãng Ballard Power Systems cũng đang được thử nghiệm tại Berlin (Đức).
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Phản ứng chuỗi pôlimeraza là thuật ngữ dịch từ (viết tắt là PCR) dùng để chỉ một kỹ thuật được sử dụng để "khuếch đại" phân tử DNA hoặc đoạn phân tử DNA ngoài cơ thể sống, làm tăng số lượng DNA ban đầu lên lượng tuỳ ý muốn. Thuật ngữ tiếng Anh này cũng đã được dịch ra tiếng Việt là phản ứng khuếch đại gen hay phản ứng chuỗi trùng hợp. Hiện nay, ở Việt Nam cũng như ở nhiều quốc gia khác, trong tài liệu chuyên môn hay tài liệu đại chúng, thường hay dùng từ viết tắt là PCR để chỉ kỹ thuật này. PCR là một kỹ thuật trong công nghệ sinh học, do Kary Mullis phát minh ra vào năm 1983, đến nay đã được hoàn thiện qua nhiều cải tiến và được tự động hoá hoàn toàn. Kỹ thuật này vận dụng các kiến thức sinh học phân tử, nhằm tạo ra vô số bản sao (tức khuếch đại) từ đoạn DNA ban đầu (bản gốc) có khi rất nhỏ với số lượng tối thiểu mà không cần sử dụng các sinh vật sống (như "E. coli" và nấm men thường dùng đương thời). PCR đã được sử dụng rất phổ biến và là công cụ không thể thiếu trong nghiên cứu DNA thuộc lĩnh vực sinh học, y học, tội phạm học, xác định huyết thống... phục vụ nhiều mục đích khác nhau, như phát hiện các bệnh di truyền, nhận dạng tội phạm, nghiên cứu bệnh nhiễm trùng và gần đây là xét nghiệm Covid 19 cũng như giúp sản xuất văcxin chống đại dịch này. Lịch sử. Phương pháp căn bản chạy PCR được Kary Mullis phát minh, ông đã đoạt giải Nobel về Hóa học vào tháng 10 năm 1993 cho thành tựu này, chỉ sau 7 năm khi ông đưa ra ý tưởng. Ý kiến của Mullis là phát triển một quy trình mà DNA có thể nhân lên nhiều lần một cách nhân tạo qua nhiều chu kỳ sao chép bởi enzyme DNA polymerase. DNA polymerase có tự nhiên trong sinh vật sống, nơi mà nó thực hiện chức năng nhân DNA khi tế bào phân chia. Nó làm việc bằng cách nối với sợi DNA và tạo sợi bổ sung. Theo quy trình PCR gốc của Mullis, enzyme phản ứng nhân bản DNA được thực hiện trong ống nghiệm (in vitro). Sợi DNA đôi bị tách thành 2 sợi đơn khi đun nóng ở 96 °C. Tuy nhiên, ở nhiệt độ này DNA polymerase bị phá hủy vì vậy cần bổ sung enzyme sau mỗi giai đoạn nung nóng của mỗi chu kỳ. Quy trình PCR gốc của Mullis không có hiệu quả cao vì nó mất nhiều thời gian, cần một lượng lớn DNA polymerase, và phải liên tục lưu ý suốt trong quá trình PCR. Sau đó, quy trình gốc này được phát triển bằng cách dùng DNA-Polymerase lấy từ vi khuẩn thermophilic (ưa nhiệt) sống trong mạch nước phun ở nhiệt độ trên 110 °C. DNA polymerase từ sinh vật này là thermostable (ổn định ở nhiệt độ cao) và khi dùng trong PCR nó không bị phá vỡ khi hỗn hợp được nung nóng để tách sợi DNA. Từ đó, không cần phải thêm DNA-polymerase vào mỗi chu kỳ, quá trình sao chép DNA có thể đơn giản và tự động hơn. Một trong những DNA-polymerase chịu nhiệt đầu tiên được phân lập được từ "Thermus aquaticus" và được gọi là Taq. Taq polymerase được dùng rộng rãi trong thực nghiệm PCR (5/2004). Nhược điểm của Taq là thỉnh thoảng nó nhầm lẫn trong quá trình sao chép DNA, dẫn đến đột biến (sai) trong chuỗi DNA, vì nó thiếu tính sửa sai exonuclease 3’-5’. Các polymerase như Pwo hay Pfu, được phân lập từ Archaea có cơ chế sửa sai (cơ chế kiểm tra lỗi sai) và có thể làm giảm một cách đáng kể số đột biến xảy ra trong chuỗi DNA được sao chép. Ngày nay, sự kết hợp giữa Taq và Pfu có thể cung cấp cả độ tin cậy cao lẫn sự nhân bản chính xác của DNA. Vấn đề bản quyền của kỹ thuật PCR. Kỹ thuật PCR được cấp bằng sáng chế cho Certus Corporation, nơi Mullis làm việc khi phát minh ra kỹ thuật. Kỹ thuật enzyme Taq polymerase cũng được bao gồm trong bằng sáng chế này. Họ đã hứng chịu nhiều vụ kiện cáo liên quan tới kỹ thuật này, vụ nổi tiếng nhất là từ DuPont. Công ty dược phẩm Hoffmann-La Roche mua quyền sở hữu bằng sáng chế này vào năm 1992 và hiện tại vẫn đang nắm giữ chúng. Thực nghiệm PCR. PCR được dùng để khuếch đại một đoạn DNA ngắn, đã xác định được một phần. Đó có thể là một gen đơn, hay một phần của gen. Trái với sinh vật sống, quy trình PCR có thể copy một mảnh DNA ngắn, có thể lên đến 10kb (kb = 1 kilobasepair = kilo cặp base = 1000 cặp base). DNA là một sợi đôi, và vì vậy nó được đo với DNA bổ sung … gọi là cặp base. Một vài phương pháp có thể copy một mảnh kích thuớc lên đến 40kb ít hơn nhiều so với nhiễm sắc thể DNA trong tế bào eukaryote – ví dụ như tế bào người chứa hơn 3 tỉ cặp base. Như đã thực hành hiện nay, PCR cần rất nhiều thành phần. Những thành phần đó là: - DNA mẫu (template) chứa mảnh DNA cần khuếch đại - Cặp mồi(primer), để xác định điểm bắt đầu và kết thúc vùng cần khuếch đại (xem phần tiếp theo về mồi) - DNA-polymerase enzym xúc tác cho việc nhân lên của DNA. - Nucleotides (ví dụ dNTP)là nguyên liệu cho DNA-polymerase để xây dựng DNA mới. - Dung dịch đệm, cung cấp môi trường hóa học cho DNA-polymerase Phản ứng PCR được thực hiện trong chu kỳ nhiệt. Đây là máy đun nóng và làm nguội trong ống phản ứng ở nhiệt độ chính xác cho mỗi phản ứng. Để ngăn ngừa sự bay hơi của hỗn hợp phản ứng, phần nắp đậy của máy PCR cũng được đun nóng, trường hợp lượng dung dịch phản ứng quá ít, người ta cho một lớp dầu (natural oil) lên trên bề mặt hỗn hợp phản ứng. Năm 2015, giá máy khoảng 140.000.000 VNĐ cho các dòng có chức năng Gradient nhiệt. Đoạn mồi. Đoạn DNA cần khuếch đại được xác định bằng mồi chọn lọc. Mồi là những đoạn ngắn, sợi DNA nhân tạo – không quá 50 (thường 18-25) nucleotides (vì DNA thường là sợi đôi, chiều dài của nó được xác định bằng số lượng cặp base (bp); chiều dài của sợi đơn DNA được đo bằng base hay nucleotides) phù hợp một cách chính xác ở điểm bắt đầu và kết thúc của DNA cần khuếch đại. Nó gắn chặt với DNA mẫu ở những điểm khởi đầu và kết thúc, nơi mà DNA-polymerase nối và bắt đầu quá trình tổng hợp của sợi DNA mới. Sự lựa chọn về chiều dài của những đoạn mồi và nhiệt độ biến tính của nó (Tm-melting) phụ thuộc vào số … Nhiệt độ biến tính của mồi – đừng nhầm lẫn với nhiệt độ biến tính của DNA trong chu kỳ đầu tiên của quá trình PCR—được định nghĩa là nhiệt độ dưới lúc mồi bám vào DNA mẫu và nhiệt độ trên lúc mồi tách ra khỏi DNA mẫu. Nhiệt độ biến tính tỉ lệ thuận với chiều dài đoạn mồi. Mồi quá ngắn sẽ bám nhiều vị trí trên DNA mẫu dài và sẽ cho kết quả không rõ ràng. Mặt khác chiều dài DNA bị giới hạn bởi nhiệt độ cần biến tính. Nhiệt độ biến tính quá cao, ví dụ như trên 80 °C sẽ gây ra nhiều vấn đề vì DNA-polymerase hoạt động kém ở nhiệt độ đó. Chiều dài tốt nhất của đoạn mồi là từ 20-40 nucleotide với nhiệt độ biến tính khoảng từ 60 – 75 °C. Thỉnh thoảng những đoạn mồi đã thoái hóa cũng được sử dụng. Những đoạn mồi này là hỗn hợp tương tự nhưng không giống hoàn toàn. Nó có thể thuận tiện nếu có cùng gen cần khuếch đại từ những sinh vật khác nhau, như bộ gen của nó có thể là tương tự nhưng không giống nhau. Người ta còn dùng những đoạn mồi đã thoái hóa khi mồi được thiết kế dựa trên chuỗi protein. Như nhiều codon có thể mã hóa cho nhiều amino acid, thường rất khó để suy ra codon nào dùng cho trường hợp đặc biệt. Vì vậy đoạn mồi tương ứng với amino acid isoleucine có thể là "ATH", A có nghĩa là adenine, T là thymine, và H ứng với adenine, thymine, hay cytosine. (Xem mã di truyền để hiểu them về codons) Sử dụng đoạn mồi đã thoái hóa có thể làm giảm đặc trưng của phản ứng khuếch đại PCR. Vấn đề có thể được giải quyết bằng phương pháp touchdown PCR. Vấn đề thiết kế mồi chính xác đã được đề cập ở trên cần phụ thuộc vào sản xuất sản lượng: - hàm lượng GC nên trong khoảng 40-60% - Tính toán nhiệt biến tính cho cả những đoạn mồi trong phản ứng không khác quá 50 °C và nhiệt biến tính của sản phẩm khuếch đại không khác mồi quá 10 °C - Nhiệt độ bám vào thỉnh thoảng thấp hơn nhiệt nóng chảy 50 °C. Tuy nhiên, nên chọn lựa theo kinh nghiệm cho từng trường hợp cụ thể. - Tránh … - Kết thúc đầu 3’ rất nhạy cảm – nó có thể không bổ sung cho bất cứ vùng nào của đoạn mồi trong phản ứng và phải cung cấp base chính xác phù hợp với mẫu. Có cả chương trình hỗ trợ việc thiết kế mồi (xem Liên kết ngoài) Quy trình. Quy trình PCR gồm 20 đến 30 chu kỳ. Mỗi chu kỳ gồm 3 bước (Hình 2) (1)Nhiệt độ tăng lên 94-96 °C để tách hai sợi DNA ra. Bước này gọi là biến tính, nó phá vỡ cầu nối hydrogen nối 2 sợi DNA. Trước chu kỳ 1, DNA thường được biến tính đến thời gian mở chuỗi để đảm bảo mẫu DNA và mồi được phân tách hoàn toàn và chỉ còn dạng sợi đơn. Thời gian: 1-2 phút (2)Sau khi 2 sợi DNA tách ra, nhiệt độ được hạ thấp xuống để mồi có thể gắn vào sợi DNA đơn. Bước này gọi là gắn mồi. Nhiệt độ giai đoạn này phụ thuộc vào đoạn mồi và thường thấp hơn nhiệt độ biến tính 50 °C (45-60 °C). Sử dụng sai nhiệt độ trong giai đoạn này dẫn đến việc đoạn mồi không gắn hoàn toàn vào DNA mẫu, hay gắn một cách tùy tiện. Thời gian: 1-2 phút. (3) Cuối cùng, DNA polymerase gắn tiếp vào sợi trống. Nó bắt đầu bám vào và hoạt động dọc theo sợi DNA. Bước này gọi là kéo dài. Nhiệt độ kéo dài phụ thuộc DNA-polymerase. Thời gian của bước này phụ thuộc vào cả DNA-polymerase và chiều dài mảnh DNA cần khuếch đại. Như một quy tắc …, 1000bp/ 1 phút. Ví dụ. Thời gian và nhiệt độ trong ví dụ này được lấy từ chương trình PCR mà đã thành công trên phân đoạn 250bp của đầu C của "insulin-like growth factor (IGF)." Hỗn hợp phản ứng gồm: 100 µl hỗn hợp phản ứng (sử dụng ống eppendorf 200 μl) được đưa vào máy PCR. Quy trình PCR bao gồm các bước sau: Sản phẩm PCR có thể được nhận biết bằng kích thước của chúng qua việc sử dụng sắc ký gel agarose. Sắc ký gel agarose là phương pháp bao gồm việc nhỏ mẫu sản phẩm PCR của DNA vào gel agarose và sau đó chạy điện di trên gel. Kết quả là các đoạn DNA nhỏ hơn sẽ di chuyển nhanh hơn các đoạn lớn qua gel từ cực âm đến cực dương. Kích thước của sản phẩm PCR có thể được xác định bằng việc so sánh với "thang DNA", thang này có chứa các DNA đã biết trước kích thước, cũng nằm trong gel (hình 3). Tối ưu hoá PCR. Do PCR rất nhạy, nên phải tránh ô nhiễm các DNA khác có trong phòng thí nghiệm (vi khuẩn, virus, DNA...). Vì vậy các mẫu DNA, hỗn hợp phản ứng và quy trình DNA, ngoài ra còn có phản ứng phân tích sản phẩm, nên được thực hiện trong một khu vực riêng biệt. Ở giai đoạn chuẩn bị hỗn hợp phản ứng, phải chuẩn bị phòng riêng biệt với đèn UV. Phải sử dụng găng tay sạch cho mỗi bước PCR cũng như thay thế các pipet. Thuốc thử dùng trong PCR phải được chuẩn bị riêng biệt và chỉ được dùng cho mục đích này. Các mẫu phải được giữ riêng biệt với các mẫu DNA khác. Phản ứng có kiểm soát (kiểm soát bên trong), ngoại trừ DNA khuôn mẫu, phải luôn được thực hiện, để kiểm tra sự nhiễm bẩn. Những ứng dụng của PCR. PCR có thể được ứng dụng vào nhiều mục đích đa dạng trong các nghiên cứu và phân tích. Một số ví dụ sẽ được nêu ở dưới. Yếu tố di truyền. Yếu tố di truyền là một kỹ thuật pháp y sử dụng để xác định một người bằng cách so sánh DNA của người đó với mẫu đã có, ví dụ như, mẫu máu thu được từ hiện trường vụ án có thể được so sánh di truyền với mẫu máu của người tình nghi. Có thể chỉ cần một lượng nhỏ DNA thu từ máu, tinh dịch, nước bọt, tóc... Về lý thuyết thì chỉ cần một mạch DNA đơn là đủ. Kiểm tra huyết thống. Mặc dù các kết quả "dấu vân tay" là duy nhất (trừ cặp song sinh giống hệt nhau), mối quan hệ di truyền, ví dụ, cha mẹ và con hoặc anh chị em ruột, có thể được xác định từ hai hoặc nhiều dấu vân tay di truyền, có thể được sử dụng để thử nghiệm quan hệ cha con (Hình 4). Một biến thể của kỹ thuật này cũng có thể được sử dụng để xác định các mối quan hệ tiến hóa giữa các sinh vật. Chẩn đoán bệnh di truyền. Phát hiện các bệnh di truyền trong một gen nhất định là một quá trình lâu dài và khó khăn, có thể được rút ngắn đáng kể bằng cách sử dụng phương pháp PCR. Mỗi gen trong câu hỏi có thể dễ dàng được khuếch đại qua PCR bằng cách sử dụng các loại sơn lót thích hợp và sau đó trình tự để phát hiện đột biến. Bệnh virus, cũng có thể được phát hiện bằng phương pháp PCR thông qua khuếch đại của DNA của virus. Phân tích này là có thể ngay sau khi nhiễm trùng, có thể từ vài ngày đến vài tháng trước khi các triệu chứng thực tế xảy ra. Chẩn đoán sớm như vậy cho các bác sĩ dẫn quan trọng trong điều trị. Tách dòng gene. Nhân bản một gen không nên nhầm lẫn với nhân bản toàn bộ một sinh vật-mô tả quá trình cô lập một gen từ một sinh vật và sau đó chèn nó vào sinh vật khác. PCR thường được sử dụng để khuếch đại gen, mà sau đó có thể được chèn vào một vector (vector là một phương tiện chèn một gen vào cơ thể) như một plasmid (một phân tử DNA vòng) (Hình 5). DNA sau đó có thể được chuyển thành một sinh vật khác nhau, nơi gen và sản phẩm của nó có thể được nghiên cứu chặt chẽ hơn. Thể hiện một gen nhân bản (thể hiện một gen có nghĩa là để sản xuất các protein mà nó xác định sản xuất) cũng có thể là một cách để sản xuất hàng loạt hữu ích ví dụ protein-cho, thuốc men. Gây đột biến điểm. Đột biến là một cách để làm thay đổi trình tự của các nucleotide trong DNA. Có những tình huống trong đó một là quan tâm đến biến đổi (thay đổi) bản sao của một chuỗi DNA nhất định, ví dụ, khi đánh giá các chức năng của một gen hoặc trong ống nghiệm tiến hóa protein. Đột biến có thể được đưa vào trình tự DNA sao chép theo hai cách cơ bản khác nhau trong quá trình PCR. Đột biến trang web hướng cho phép người thử nghiệm để giới thiệu một đột biến tại một địa điểm cụ thể trên sợi DNA. Thông thường, đột biến mong muốn được kết hợp trong các mồi sử dụng cho các chương trình PCR. Đột biến ngẫu nhiên, mặt khác, dựa trên việc sử dụng các polymerase dễ bị lỗi trong quá trình PCR. Trong trường hợp đột biến ngẫu nhiên, vị trí và tính chất của đột biến không thể kiểm soát. Một ứng dụng của đột biến ngẫu nhiên là để phân tích các mối quan hệ cấu trúc chức năng của protein. Bằng cách thay đổi một cách ngẫu nhiên một chuỗi DNA, người ta có thể so sánh các protein kết quả với ban đầu và xác định chức năng của từng phần của protein. Phân tích mẫu DNA cổ. Sử dụng PCR, nó sẽ trở thành có thể phân tích DNA đó là hàng ngàn năm tuổi. Kỹ thuật PCR đã được sử dụng thành công trên động vật, chẳng hạn như một voi ma mút bốn mươi ngàn năm tuổi, và cũng trên DNA của con người, trong các ứng dụng khác nhau, từ việc phân tích các xác ướp Ai Cập đến việc xác định một Sa hoàng Nga. Xác định kiểu gene của các đột biến. Thông qua việc sử dụng PCR cụ thể cho alen, người ta có thể dễ dàng xác định alen nào của một đột biến hoặc đa hình một cá thể có. Ở đây, một trong hai đoạn mồi là phổ biến, và sẽ ủ cách đột biến một đoạn ngắn, trong khi các đoạn mồi khác ủ ngay trên biến thể. Đầu 3 'của đoạn mồi cụ thể dành cho alen được sửa đổi, thành chỉ tổ chức nếu nó phù hợp với một trong các alen. Nếu đột biến được quan tâm là đa hình nucleotide đơn T hoặc C (T / C SNP), thì một phản ứng sẽ sử dụng hai phản ứng, một phản ứng chứa đoạn mồi kết thúc bằng T và phản ứng còn lại kết thúc bằng C. Đoạn mồi chung sẽ giống nhau. Sau khi thực hiện PCR, hai bộ phản ứng này sẽ được thực hiện trên gel agarose, và mô hình dải sẽ cho bạn biết liệu cá thể đó là T đồng hợp tử, đồng hợp tử C hay T / C dị hợp tử. Phương pháp luận này có một số ứng dụng, chẳng hạn như khuếch đại một số kiểu đơn bội nhất định (khi một số alen nhất định ở 2 SNP trở lên xảy ra cùng nhau trên cùng một nhiễm sắc thể [Trạng thái cân bằng liên kết]) hoặc phát hiện nhiễm sắc thể tái tổ hợp và nghiên cứu sự tái tổ hợp cộng sinh. So sánh mức độ biểu hiện của gene. Các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp PCR truyền thống để dự đoán sự thay đổi trong một mẫu gene. Axit Ribonucleic (RNA) là phân tử mà DNA được phiên mã trước khi tạo ra protein, và những sợi RNA giữ các hướng dẫn cho trình tự protein được gọi là RNA thông tin (mRNA). Khi RNA được phân lập, nó có thể được phiên mã ngược trở lại thành DNA (chính xác là DNA bổ sung, được gọi là cDNA), tại thời điểm này, PCR truyền thống có thể được áp dụng để khuếch đại gen, phương pháp này được gọi là RT-PCR. Trong hầu hết các trường hợp, nếu có nhiều vật liệu ban đầu (mRNA) của gen thì trong quá trình PCR sẽ tạo ra nhiều bản sao của gen hơn. Khi sản phẩm của phản ứng PCR được chạy trên gel agarose (xem Hình 3 ở trên), một dải, tương ứng với một gen, sẽ xuất hiện lớn hơn trên gel (lưu ý rằng dải vẫn ở cùng một vị trí so với bậc thang, nó sẽ chỉ xuất hiện béo hơn hoặc sáng hơn). Bằng cách chạy các mẫu cDNA khuếch đại từ các sinh vật được xử lý khác nhau, người ta có thể có được ý tưởng chung về mẫu nào biểu hiện nhiều gen quan tâm hơn. Một phương pháp RT-PCR định lượng đã được phát triển, nó được gọi là Real-Time PCR.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Trần Ngọc Liên (sinh ngày 25 tháng 3 năm 1960) là nữ diễn viên truyền hình Hồng Kông nổi tiếng vào thập niên 1980. Sự nghiệp. Trần Ngọc Liên bắt đầu sự nghiệp diễn viên vào năm 1977. "Ỷ Thiên Đồ Long Ký" là bộ phim truyền hình đầu tiên cô tham gia. Trong phim này, cô đóng vai Tiểu Chiêu, đóng chung với các diễn viên nổi tiếng lúc bấy giờ như Trịnh Thiếu Thu, Uông Minh Thuyên và Triệu Nhã Chi. Từ năm 1978 đến năm 1983, Trần Ngọc Liên luôn xuất hiện đều đặn trong nhiều phim của TVB như "Phi Ưng Đại Hiệp", "Thập Tam Thái Bảo"... Song sự nghiệp của cô bắt đầu đạt đến đỉnh cao với vai diễn Vương Ngữ Yên trong "Thiên Long Bát Bộ" năm 1982 và vai diễn Tiểu Long Nữ trong "Thần điêu đại hiệp" năm 1983. Cùng với Lưu Đức Hoa trong vai Dương Quá, Trần Ngọc Liên không chỉ trở nên nổi tiếng ở Trung Quốc mà được công chúng ở khắp Đông Nam Á yêu thích. Bộ phim "Thần điêu đại hiệp" cũng được đánh giá là một trong mười tác phẩm truyền hình kinh điển của thập niên 1980. Cô được xem là nữ diễn viên đóng vai Tiểu Long Nữ xuất sắc nhất và đến nay cô vẫn được gọi bằng biệt danh là "Tiểu Long Nữ". Năm 1984, đang trên đỉnh cao danh vọng, Trần Ngọc Liên đột ngột tuyên bố kết hôn với Trần Siêu Võ - một thương gia Hoa kiều, sau đó cô theo chồng định cư tại Mỹ. Trong khoảng thời gian ở New York, cô vẫn thường xuyên trở về Hong Kong và Đài Loan tham gia nhiều bộ phim truyền hình. Năm 1987, TVB quyết định ra mắt bộ phim "Cứu Vãn Cơ Đồ" để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 20 của hãng. Bộ phim đã quy tụ dàn diễn viên nổi tiếng như Trần Ngọc Liên, Lương Triều Vỹ, Huỳnh Nhật Hoa, Lưu Thanh Vân, Tăng Hoa Thiên Trần Tú Châu, Âu Dương Chấn Hoa và Ngô Khải Hoa. Vai diễn Dương A Ngũ - Công Chúa Lam Lăng (kết hợp với Lương Triều Vỹ vai Trương Tam Lang) một lần nữa đưa Trần Ngọc Liên tỏa sáng. Năm 1992, hôn nhân của Trần Ngọc Liên đổ vỡ, cô quay về Hong Kong tiếp tục đóng các bộ phim truyền hình như "Hào Môn" (ATV), "Nhân vật Phong Vân" (TVB), "Chiếc Lồng Đèn Treo Cao" (Đài Loan), "Yêu Đến Tận Cùng" (TVB - phim ngắn)... Tuy nhiên, dù rất nổi tiếng trên lĩnh vực phim truyền hình nhưng cô lại không thành công trên lĩnh vực phim điện ảnh. Từ năm 2000, Trần Ngọc Liên chỉ xuất hiện tham dự các chương trình từ thiện và một số chương trình của TVB với tư cách là khách mời. Do sự thuyết phục của Lưu Tùng Nhân, năm 2008, cô xuất hiện trở lại trên màn ảnh truyền hình TVB trong bộ phim "Đấu Trí". Năm 2012, cô vào vai Nhĩ Yên trong "Danh Viện Vọng Tộc" và tiếp tục đóng cặp với Lưu Tùng Nhân.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
CPU viết tắt của chữ Central Processing Unit (tiếng Anh), tạm dịch là Bộ xử lý trung tâm, là mạch điện tử thực hiện các câu lệnh của chương trình máy tính bằng cách thực hiện các phép tính số học, logic, so sánh và các hoạt động nhập/xuất dữ liệu (Input/Output) cơ bản từ mã lệnh được định sẵn trong một máy tính. Thuật ngữ này đã được sử dụng trong ngành công nghiệp máy tính kể từ đầu những năm 1960. Theo truyền thống, thuật ngữ "CPU" chỉ một bộ xử lý, cụ thể là bộ phận xử lý và điều khiển (Control Unit) của nó, phân biệt với những yếu tố cốt lõi khác của một máy tính nằm bên ngoài như bộ nhớ và mạch điều khiển xuất/nhập dữ liệu. Hình thức, thiết kế và thực hiện của CPU đã thay đổi theo tiến trình lịch sử, nhưng hoạt động cơ bản của nó vẫn còn gần như không thay đổi. Thành phần chủ yếu của CPU bao gồm các bộ phận số học logic (ALU) thực hiện phép tính số học và logic, các thanh ghi lưu các tham số để ALU tính toán và lưu trữ các kết quả trả về, và một bộ phận kiểm soát với nhiệm vụ nạp mã lệnh từ bộ nhớ và "thực hiện" chúng bằng cách chỉ đạo các hoạt động phối hợp của ALU, các thanh ghi và các thành phần khác. Hầu hết các CPU hiện đại đều là các vi xử lý và được chứa trên vi mạch (IC) đơn. Một vi mạch có chứa một CPU cũng có thể chứa bộ nhớ, giao diện cho các thiết bị ngoại vi, và các thành phần khác của một máy tính; việc các thiết bị tích hợp như vậy được gọi theo nhiều cách khác nhau: vi điều khiển hoặc hệ thống trên một vi mạch (SoC). Một số máy tính sử dụng một CPU đa nhân là một con chip duy nhất có chứa hai hoặc nhiều CPU được gọi là "lõi"; Trong bối cảnh đó, các chip đơn đôi khi được gọi là"khe cắm"- socket. Mảng vi xử lý và bộ xử lý vector có nhiều bộ xử lý hoạt động song song, không có bộ xử lý nào được coi là trung tâm. Một CPU năm 1971 chỉ có 2.300 bóng bán dẫn (transistor) thì đến năm 2016 đã có tới 7,2 tỉ bóng bán dẫn với 22 nhân nhờ quá trình sản xuất 14 nm (dòng 22-nhân Xeon Broadwell-E5). Hiện nay, công nghệ sản xuất 7 nm và 5 nm đã cho ra đời nhũng CPU mạnh mẽ hơn, tiết kiệm năng lượng hơn. Có thể kể đến AMD Threadripper 3990x với 64 nhân và 128 luồng xử lí. Lịch sử. Máy tính cổ như ENIAC muốn thực hiện các nhiệm vụ khác nhau thì phải nối lại hoàn toàn các mạch điện, điều này khiến các máy này được gọi là"máy tính có chương trình cố định". Thuật ngữ"CPU"thường được định nghĩa là một thiết bị để chạy phần mềm (chương trình máy tính), các thiết bị đầu tiên mà có thể được gọi là CPU đi kèm với sự ra đời của máy tính có khả năng lưu trữ chương trình. Ý tưởng về một máy tính lưu trữ chương trình đã hiện diện trong thiết kế ENIAC của J. Presper Eckert và John William Mauchly, nhưng đã được bỏ qua ngay từ đầu để nó có thể được hoàn thành sớm hơn. Ngày 30 tháng 6 năm 1945, trước khi ENIAC được tạo ra, nhà toán học John von Neumann công bố bài báo mang tên "First Draft of a Report on the EDVAC". Bài báo là phác thảo của một máy tính chạy chương trình được lưu trữ mà cuối cùng sẽ được hoàn thành vào tháng 8 năm 1949. EDVAC được thiết kế để thực hiện một số lượng nhất định các lệnh khác nhau. Đáng chú ý là các chương trình viết cho EDVAC đã được lưu trữ trong bộ nhớ máy tính có tốc độ cao thay cho hệ thống dây điện vật lý của máy tính. Điều này đã vượt qua một hạn chế nghiêm trọng của ENIAC, đó là thời gian đáng kể và nỗ lực cần thiết để cấu hình lại máy tính để thực hiện một nhiệm vụ mới. Với thiết kế von Neumann, các chương trình mà EDVAC chạy có thể được thay đổi chỉ đơn giản bằng cách thay đổi các nội dung của bộ nhớ. Tuy nhiên, EDVAC không phải là máy tính lưu trữ chương trình đầu tiên; Manchester Small-Scale Experimental Machine,một nguyên mẫu máy tính có lưu trữ một chương trình nhỏ, chạy chương trình đầu tiên của mình vào ngày 21 tháng 6 năm 1948 và Manchester Mark 1 chạy chương trình đầu tiên của mình trong đêm 16-17 tháng 6 năm 1949. Các CPU đời đầu sử dụng các thiết kế tùy chỉnh như là một phần của một máy tính lớn và đôi khi rất khác biệt. Tuy nhiên, phương pháp này thiết kế CPU tùy chỉnh cho một ứng dụng cụ thể đã nhường chỗ cho sự phát triển của bộ vi xử lý đa mục đích sản xuất với số lượng lớn. Tiêu chuẩn này bắt đầu trong thời đại máy tính mainframe sử dụng transistor, máy tính mini và đã nhanh chóng tăng tốc với sự phổ biến của các vi mạch (IC). Các vi mạch đã cho phép CPU ngày càng phức tạp được thiết kế và sản xuất nhỏ đến cỡ nanômét. Hai quy trình thu nhỏ hóa và tiêu chuẩn hóa của CPU đã làm tăng nhanh sự có mặt của các thiết bị kỹ thuật số trong cuộc sống hiện đại vượt xa các ứng dụng hạn chế của máy tính chuyên dụng. Bộ vi xử lý hiện đại xuất hiện trong các thiết bị điện tử khác nhau, từ xe ô tô đến điện thoại di động, và thậm chí cả trong đồ chơi. Trong khi von Neumann thường được ghi công với việc thiết kế của máy tính có khả năng lưu trữ chương trình vì thiết kế EDVAC của ông, và thiết kế này được gọi là kiến trúc von Neumann, những người khác trước ông như Konrad Zuse cũng đã đề xuất và thực hiện những ý tưởng tương tự. Cái gọi là kiến trúc Harvard của Harvard Mark I, được hoàn thiện trước EDVAC, cũng sử dụng một thiết kế được lưu trữ chương trình sử dụng băng giấy đục lỗ thay vì bộ nhớ điện tử. Sự khác biệt cơ bản giữa các kiến trúc von Neumann và Harvard là máy Harvard tách rời việc lưu trữ và xử lý các lệnh CPU và dữ liệu, trong khi máy của von Neumann sử dụng bộ nhớ không gian chung cho cả hai. Hầu hết các CPU hiện đại chủ yếu sử dụng ý tưởng von Neumann trong thiết kế, nhưng CPU với kiến trúc Harvard được xem là tốt, đặc biệt là trong các ứng dụng nhúng; Ví dụ, các vi điều khiển Atmel AVR là các bộ xử lý kiến trúc Harvard. Rơle và đèn điện tử chân không đã được sử dụng phổ biến để làm các thành phần chuyển mạch; một máy tính hữu ích đòi hỏi hàng ngàn hoặc hàng chục ngàn các thiết bị chuyển mạch như vậy. Tốc độ tổng thể của một hệ thống phụ thuộc vào tốc độ của thiết bị chuyển mạch. Máy tính dùng đèn chân không như EDVAC có thời gian sử dụng trung bình tám giờ trước khi nó bị hỏng, trong khi máy tính dùng rơle như Harvard Mark I (chậm hơn, nhưng được tạo ra sớm hơn) rất ít khi hỏng hóc. Cuối cùng, CPU dùng đèn chân không đã trở thành thống trị bởi vì những lợi thế đáng kể về tốc độ của nó đã thắng những vấn đề về độ tin cậy. Hầu hết các CPU đồng bộ ban đầu chạy ở tốc độ thấp hơn so với các thiết kế vi điện tử hiện đại. tần số tín hiệu đồng hồ khác nhau, từ 100 kHz đến 4 MHz rất phổ biến vào thời kỳ này, giới hạn phần lớn bởi tốc độ của các thiết bị chuyển mạch của CPU. Các CPU dùng transistors. Sự phức tạp thiết kế của CPU tăng lên khi hàng loạt công nghệ khác nhau tạo thuận lợi cho việc xây dựng các thiết bị điện tử nhỏ hơn và đáng tin cậy hơn. Những cải tiến đầu tiên như vậy đi kèm với sự ra đời của transistor. CPU bán dẫn trong suốt những năm 1950 và 1960 không còn phải được xây dựng bằng các phần tử chuyển mạch cồng kềnh, không đáng tin cậy và mong manh như đèn điện tử chân không và rơle. Với cải tiến này nhiều CPU phức tạp và đáng tin cậy được xây dựng trên một hoặc một số mạch in chứa các thành phần riêng biệt. Năm 1964, IBM giới thiệu kiến trúc máy tính System/360, được sử dụng trong một loạt các máy tính có khả năng chạy các chương trình tương tự với tốc độ và hiệu suất khác nhau. Điều này có ý nghĩa tại thời điểm đó khi hầu hết các máy tính điện tử là không tương thích với nhau, ngay cả những máy tính có chung nhà sản xuất. Để tạo điều kiện cho cải tiến này, IBM sử dụng các khái niệm về một vi chương trình (thường được gọi là"vi mã"), vi mã này vẫn được sử dụng rộng rãi trong các CPU hiện đại. Kiến trúc System/360 trở nên phổ biến đến mức nó thống trị thị trường máy tính mainframe trong hàng thập kỷ và để lại một di sản vẫn được tiếp tục với các máy tính hiện đại zSeries của IBM. Năm 1965, Digital Equipment Corporation (DEC) giới thiệu một máy tính có ảnh hưởng nhằm vào thị trường khoa học và nghiên cứu, PDP-8. Máy tính mạch bán dẫn có một số lợi thế khác biệt so với những máy tính trước đó. Bên cạnh độ tin cậy tăng lên và tiêu thụ điện năng giảm đi, bóng bán dẫn cũng cho phép CPU hoạt động với tốc độ cao hơn nhiều vì thời gian chuyển đổi ngắn hơn của một bóng bán dẫn so với một đèn điện tử hoặc rơle. Nhờ độ tin cậy tăng lên cũng như việc tăng đáng kể tốc độ của các thành phần chuyển mạch (với các bóng bán dẫn được dùng gần như hoàn toàn trong thời gian này), tốc độ xung nhịp CPU tăng lên tới hàng chục megahertz trong giai đoạn này. Ngoài ra, trong khi CPU dùng bóng bán dẫn rời rạc và vi mạch CPU được sử dụng rộng rãi, các thiết kế mới có hiệu suất cao như các xử lý vectơ SIMD (Single Instruction Multiple Data) bắt đầu xuất hiện. Những thiết kế thử nghiệm đầu tiên này sau đó đã dẫn đến thời đại của các siêu máy tính chuyên ngành như các máy được Cray Inc và Fujitsu Ltd sản xuất. Các CPU tích hợp quy mô nhỏ. Trong thời gian này, một phương pháp sản xuất nhiều transistor kết nối với nhau trong một không gian nhỏ gọn đã được phát triển. Các mạch tích hợp (IC) cho phép một số lượng lớn các bóng bán dẫn được sản xuất trên một chip bán dẫn. Lúc đầu chỉ mạch kỹ thuật số rất cơ bản không chuyên đầu tiên như cổng NOR được thu nhỏ vào vi mạch. CPU dựa trên những khối vi mạch thường được gọi là thiết bị"tích hợp quy mô nhỏ"(SSI). Vi mạch SSI, chẳng hạn như những vi mạch được dùng trong các máy tính hướng dẫn tàu Apollo, thường chứa lên đến một vài nghìn transistor. Để xây dựng toàn bộ một CPU trên vi mạch SSI cần hàng ngàn chip, nhưng vẫn tiêu thụ ít không gian và điện năng hơn nhiều so với thiết kế bằng bóng bán dẫn trước đó. System/370 của IBM, phiên bản kế tục System/360, sử dụng vi mạch SSI thay vì dùng module bán dẫn rời rạc của Solid Logic Technology. Máy tính PDP-8/I and KI10 PDP-10 của DEC cũng chuyển từ các bóng bán dẫn riêng lẻ được PDP-8 và PDP-10 sử dụng và chuyển qua dùng vi mạch SSI, và dòng máy PDP-11 cực kỳ phổ biến của họ ban đầu được xây dựng với vi mạch SSI nhưng cuối cùng đã được thay thế bằng các vi mạch LSI khi nó ra đời. Các CPU tích hợp quy mô lớn. Lee Boysel xuất bản các bài báo có ảnh hưởng, trong đó có một"tuyên ngôn"năm 1967, trong đó mô tả làm thế nào để xây dựng máy tính tương đương với một máy tính mainframe 32-bit từ một số lượng tương đối nhỏ các mạch tích hợp quy mô lớn (LSI). Vào thời điểm đó, cách duy nhất để xây dựng chip LSI, một con chip với một trăm hoặc nhiều cổng, bằng cách xây dựng chúng sử dụng một quá trình MOS (chẳng hạn PMOS logic, NMOS logic, hoặc CMOS logic). Tuy nhiên, một số công ty tiếp tục xây dựng các bộ xử lý dùng chip lưỡng cực vì các bán dẫn lưỡng cực nhanh hơn nhiều so với các chip MOS; chẳng hạn, Datapoint tạo các bộ vi xử lý bằng chip TTL cho đến đầu những năm 1980. Các nhà sản xuất máy tính tốc độ cao muốn chúng chạy nhanh chóng, vì vậy trong những năm 1970 họ xây dựng các CPU từ các vi mạch tích hợp quy mô nhỏ (SSI) và quy mô trung bình (MSI) bao gồm các cổng TTL của vi mạch họ 7400. Vào thời điểm đó, vi mạch MOS quá chậm đến nỗi chúng chỉ được coi là hữu ích trong một vài ứng dụng thích hợp với yêu cầu công suất thấp. Khi công nghệ vi điện tử phát triển mạnh, nó gia tăng số lượng bóng bán dẫn được đặt trên một IC, giảm số lượng IC riêng cần thiết để tạo ra một CPU hoàn chỉnh. Các vi mạch MSI và LSI tăng lượng transistor lên đến hàng trăm, và sau đó hàng ngàn. Đến năm 1968, số lượng IC cần thiết để xây dựng một CPU hoàn chỉnh đã được giảm xuống còn 24 IC của tám loại khác nhau, với mỗi IC chứa khoảng 1000 MOSFET. Tương phản hoàn toàn với các vi mạch SSI và MSI của nó, vi mạch LSI đầu tiên của PDP-11 chứa một CPU bao gồm chỉ có bốn mạch tích hợp LSI. Các bộ vi xử lý. Trong những năm 1970, những phát minh cơ bản của Federico Faggin (IC MOS cổng silicon với cổng tự liên kết cùng với các phương pháp thiết kế logic ngẫu nhiên mới của ông) đã thay đổi việc thiết kế và sản xuất CPU mãi mãi. Kể từ sự ra đời của bộ vi xử lý thương mại đầu tiên (Intel 4004) vào năm 1970, và bộ vi xử lý lần đầu tiên được sử dụng rộng rãi (Intel 8080) năm 1974, mô hình này của CPU đã gần như hoàn toàn vượt qua tất cả các bộ phận xử lý trung tâm khác. Các nhà sản xuất máy tính lớn và máy tính mini thời kỳ này tung ra các chương trình phát triển vi mạch độc quyền để nâng cấp kiến trúc máy tính cũ của họ, và cuối cùng tạo ra bộ vi xử lý tương thích với tập lệnh cũ của các phần cứng và phần mềm cũ. Kết hợp với sự ra đời và cuối cùng thành công khắp nơi của máy tính cá nhân, thuật ngữ "CPU" bây giờ được áp dụng gần như độc quyền cho các bộ vi xử lý. Một số CPU (gọi là lõi) có thể được kết hợp trong một chip xử lý duy nhất. Các thế hệ trước của CPU cũng được sản xuất như các linh kiện điện tử và vô số vi mạch (IC) trên một hay nhiều mạch in. Bộ vi xử lý là các CPU được sản xuất trên một số lượng rất nhỏ các IC; thường chỉ là một. Tổng thể kích thước CPU nhỏ hơn, là một kết quả của việc sản xuất trên cùng một khuôn, khiến thời gian chuyển đổi nhanh hơn vì các yếu tố vật lý như giảm điện dung ký sinh tại cổng. Điều này đã cho phép các bộ vi xử lý đồng bộ có tốc độ xung nhịp từ hàng chục megahertz đến vài gigahertz. Ngoài ra, vì khả năng để xây dựng transistor cực nhỏ trên một vi mạch đã tăng lên, sự phức tạp và số lượng bóng bán dẫn trong một CPU duy nhất đã tăng lên nhiều lần. Xu hướng được kiểm chứng rộng rãi này được đặt tên là Định luật Moore, mà đã được chứng minh qua thực tế là một yếu tố dự báo khá chính xác về sự phát triển của CPU (và các IC phức tạp khác). Trong khi mức độ phức tạp, quy mô, xây dựng, và dạng tổng quát của CPU đã thay đổi rất nhiều kể từ năm 1950, đáng chú ý là các thiết kế cơ bản và chức năng của nó đã không thay đổi chút nào. Hầu như tất cả các CPU phổ biến hiện nay có thể được mô tả rất chính xác như các máy lưu trữ chương trình theo kiểu von Neumann. Khi định luật Moore nói trên vẫn tiếp tục đúng, mối quan tâm phát sinh về các giới hạn của công nghệ bóng bán dẫn mạch tích hợp. Thu nhỏ tối đa các cửa điện tử đang gây ra những ảnh hưởng của hiện tượng như electromigration và rò rỉ dưới ngưỡng đã nhiều hơn đáng kể. Những mối quan tâm mới là một trong nhiều yếu tố khiến các nhà nghiên cứu tập trung tìm hiểu các phương pháp mới của máy tính như máy tính lượng tử, cũng như để mở rộng việc sử dụng tính toán song song và các phương pháp khác nhằm mở rộng tính hữu ích của các mô hình von Neumann cổ điển. Hoạt động. Các hoạt động cơ bản của hầu hết các CPU, không phụ thuộc hình thức vật lý, là thực hiện một chuỗi các tập lệnh được lưu trữ, gọi là chương trình. Các mã lệnh chờ thực hiện này được lưu giữ trong một số loại bộ nhớ máy tính. Gần như tất cả các CPU có các bước: lấy thông tin, giải mã và thực hiện lệnh khi hoạt động, và được gọi chung là chu kỳ lệnh. Sau khi thực hiện một lệnh, toàn bộ quá trình lặp đi lặp lại, với sự chu kỳ lệnh tiếp theo thường lấy các lệnh tiếp theo trong chuỗi vì giá trị tăng lên trong thanh ghi con trỏ lệnh. Nếu một lệnh nhảy được thực hiện, con trỏ lệnh sẽ được sửa đổi để chứa địa chỉ của lệnh đã thay đổi và thực hiện chương trình tiếp tục như bình thường. Trong các CPU phức tạp hơn, nhiều lệnh có thể được tải xuống, giải mã, và thực hiện đồng thời. Phần này mô tả những gì thường được gọi là"đường ống RISC cổ điển", vốn khá phổ biến trong các CPU đơn giản được sử dụng trong nhiều thiết bị điện tử (thường được gọi là vi điều khiển). Nó chủ yếu bỏ qua vai trò quan trọng của CPU cache, và do đó bỏ qua các giai đoạn tiếp cận của các đường ống. Một số lệnh thao tác truy cập chương trình chứ không phải tạo ra dữ liệu kết quả trực tiếp; lệnh như vậy thường được gọi là"lệnh nhảy"và cho phép chương trình chạy lặp vòng, thực hiện chương trình có điều kiện (thông qua việc sử dụng một bước nhảy có điều kiện), và khả năng viết các chương trình con. Trong một số bộ vi xử lý, một số lệnh khác thay đổi trạng thái của các bit trong một thanh ghi"cờ". Những cờ này có thể được sử dụng để thay đổi cách ứng xử của chương trình, vì chúng thường chỉ ra kết quả của các toán tử khác nhau. Ví dụ, trong bộ vi xử lý khi một lệnh"so sánh"đánh giá hai giá trị, chúng xóa bit trong những thanh ghi cờ để chỉ ra số nào lớn hơn số nào, hoặc hai số được so sánh là bằng nhau; một trong những cờ này sau đó có thể được một lệnh nhảy sử dụng để xác định rẽ nhánh tùy theo kết quả so sánh trên. Thành phần. Khối điều khiển (CU - Control Unit). Có chức năng thông dịch các lệnh của chương trình và điều khiển các hoạt động xử lí của máy tính. Chúng được điều tiết chính xác bởi xung nhịp đồng hồ hệ thống. Nếu CPU là "bộ não" của máy tính thì khối này chính là "bộ não" của CPU Khối tính toán (ALU-Arithmetic Logic Unit). Có chức năng thực hiện các phép toán số học và logic rồi sau đó trả lại kết quả vào các thanh ghi (hoặc bộ nhớ). Các thanh ghi (Registers). Là các bộ nhớ nằm ngay bên trong CPU có dung lượng lưu trữ nhỏ nhưng có tốc độ truy cập cao. Chúng được dùng để lưu trữ tạm thời các toán hạng, kết quả tính toán, địa chỉ các ô nhớ hoặc thông tin điều khiển. Opcode. Phần bộ nhớ chứa mã máy của CPU (không bắt buộc) để có thể thực thi các lệnh trong file thực thi. Phần điều khiển. Thực hiện việc điều khiển các khối và điều khiển tần số xung nhịp. Mạch xung nhịp đồng hồ hệ thống dùng để đồng bộ các thao tác xử lý trong và ngoài CPU theo các khoảng thời gian không đổi. Khoảng thời gian chờ giữa hai xung gọi là chu kỳ xung nhịp. Tốc độ đo số chu kì mà CPU thực hiện mỗi giây gọi là tốc độ xung nhịp – tốc độ đồng hồ tính bằng triệu đơn vị mỗi giây (MHz). Phần này là không cần thiết cho một cpu nhưng hầu hết có trong kiến trúc cisc. Tốc độ. Tốc độ xử lý của máy tính chủ yếu phụ thuộc vào tốc độ của CPU, nhưng nó cũng phụ thuộc vào các phần khác như bộ nhớ RAM, vỉ đồ họa, ổ cứng, v.v.. Có nhiều công nghệ làm tăng tốc độ xử lý của CPU. Ví dụ: pipeline, turbo boost, siêu phân luồng, v.v.. Tốc độ CPU có liên hệ với tần số đồng hồ làm việc của nó (tính bằng các đơn vị như MHz, GHz, v.v..). Trước năm 2005, tần số này cao hơn cũng có nghĩa là tốc độ xử lý cao hơn. Tuy nhiên khi chỉ so sánh như vậy là bỏ qua rất nhiều yếu tố khác. "(Ví dụ: CPU Intel Core 2 Duo (2 nhân) có tần số 2,6 GHz có thể xử lý nhanh hơn CPU Intel Pentium 4 (1 nhân) 3,4 GHz hay dòng Intel Core 2 Duo (2 nhân) 2,6 GHz GHz lại yếu hơn dòng Core i3 (2 nhân) với cùng 2,6 GHz GHz rất nhiều)". Do vậy hiện nay, nhà sản xuất CPU như Intel dùng khái niệm đánh giá trên hiệu suất làm việc (performance rating -P.R) cho các dòng Core i3, i5, i7, i9. Tốc độ CPU còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Các nhà sản xuất. Hai nhà sản xuất CPU lớn nhất hiện nay là Intel và AMD. Một trong những CPU đầu tiên của hãng Intel là Intel 4004. Được tung ra thị trường vào tháng 11 năm 1971, Intel 4004 có 2250 transistor và 16 chân. Một CPU khác của Intel được tung ra thị trường năm 2006 là Intel Northwood Pentium, có 55 triệu transistor và 478 chân. Nhà sản xuất AMD (Advanced Micro Devices) cũng được đánh giá cao: APU(Dòng tích hợp nhân đồ họa của AMD): -A10[ 58xx(k), 68xx(k), 78xx(k)] với sức mạnh đồ họa tích hợp sánh ngang với các GPU tầm trung. Năm 2017, AMD ra mắt thế hệ CPU mới, tên mã Zen, với số nhân/luồng vượt trội so với đối thủ Intel từ đó đã làm bùng nổ cuộc chiến CPU mà trước đó AMD đã thất thế trong nhiều năm. Ngoài ra, còn có những nhà sản xuất chip ARM (vd: Qualcomm, MediaTek... với các chip cho smartphone như Snapdragon 888, Dimensity 1200... , Apple với dòng chip A cho iPhone, iPad như A15 Bionic... và dòng M1 và nhũng hậu bối của nó trên những mẫu Macbook, Imac... từ 2021 trở đi)
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Nguyên tố hóa học, thường được gọi đơn giản là nguyên tố, là một chất hóa học tinh khiết, bao gồm một kiểu nguyên tử, được phân biệt bởi số hiệu nguyên tử, là số lượng proton có trong mỗi hạt nhân. Không giống như các hợp chất hóa học, các nguyên tố hóa học không thể bị phân hủy thành các chất đơn giản hơn bằng các phương pháp hóa học. Số proton trong hạt nhân là đặc tính xác định của một nguyên tố và được gọi là số nguyên tử của nó (được biểu thị bằng ký hiệu "Z") – tất cả các nguyên tử có cùng số hiệu nguyên tử đều là nguyên tử của cùng một nguyên tố. Tất cả các baryon vật chất của vũ trụ bao gồm các nguyên tố hóa học. Khi các nguyên tố khác nhau trải qua các phản ứng hóa học, các nguyên tử được sắp xếp lại thành các hợp chất mới được kết nối với nhau bằng các liên kết hóa học. Chỉ một số ít các nguyên tố, chẳng hạn như bạc và vàng, được tìm thấy dưới dạng chưa kết hợp với tư cách là các khoáng chất nguyên tố tự nhiên tương đối tinh khiết. Gần như tất cả các nguyên tố tự nhiên khác xuất hiện trong Trái đất dưới dạng hợp chất hoặc hỗn hợp. Không khí chủ yếu là hỗn hợp của các nguyên tố nitơ, oxy và argon, mặc dù nó có chứa các hợp chất bao gồm carbon dioxide và nước. Lịch sử phát hiện và sử dụng các nguyên tố bắt đầu từ các xã hội loài người nguyên thủy phát hiện ra các khoáng chất bản địa như carbon, lưu huỳnh, đồng và vàng (mặc dù khái niệm về nguyên tố hóa học vẫn chưa được hiểu rõ). Nỗ lực phân loại các vật liệu như vậy đã dẫn đến các khái niệm về các nguyên tố cổ điển, thuật giả kim và nhiều lý thuyết tương tự khác nhau trong suốt lịch sử loài người. Phần lớn sự hiểu biết hiện đại về các nguyên tố được phát triển từ công trình của Dmitri Mendeleev, một nhà hóa học người Nga. Ông đã công bố bảng tuần hoàn dễ nhận biết đầu tiên vào năm 1869. Bảng này sắp xếp các nguyên tố theo số nguyên tử tăng dần thành các hàng ("chu kỳ") trong đó các nguyên tố cùng cột ("nhóm") có chung các tính chất vật lý và hóa học một cách tuần hoàn. Bảng tuần hoàn tóm tắt các tính chất khác nhau của các nguyên tố, cho phép các nhà hóa học suy ra mối quan hệ giữa chúng và đưa ra dự đoán về các hợp chất và các nguyên tố mới tiềm năng. Đến tháng 11 năm 2016, Liên minh Hóa học Ứng dụng và Tinh khiết Quốc tế đã công nhận tổng số 118 nguyên tố. 94 nguyên tố đầu tiên xuất hiện tự nhiên trên Trái Đất, và 24 nguyên tố còn lại là các nguyên tố tổng hợp được tạo ra trong các phản ứng hạt nhân. Trừ ra các nguyên tố phóng xạ không ổn định (hạt nhân phóng xạ) phân hủy nhanh chóng, gần như tất cả các nguyên tố đều có sẵn trong công nghiệp với số lượng khác nhau. Việc khám phá và tổng hợp các nguyên tố mới hơn nữa là một lĩnh vực nghiên cứu khoa học đang diễn ra. Mô tả. Các nguyên tố hóa học nhẹ nhất là hydro và heli, cả hai đều được tạo ra bởi quá trình tổng hợp hạt nhân Big Bang trong 20 phút đầu tiên của vũ trụ theo tỷ lệ khoảng 3: 1 theo khối lượng (hoặc 12: 1 theo số nguyên tử), cùng với những lượng rất nhỏ của hai nguyên tố tiếp theo, lithi và beryli. Hầu hết tất cả các nguyên tố khác được tìm thấy trong tự nhiên đều được tạo ra bằng các phương pháp tổng hợp hạt nhân tự nhiên khác nhau. Trên Trái đất, một lượng nhỏ các nguyên tử mới được tạo ra một cách tự nhiên trong các phản ứng nucleogenic, hoặc trong các quá trình vũ trụ, chẳng hạn như sự phóng xạ tia vũ trụ. Nguyên tử mới cũng được tự nhiên được sản xuất trên Trái Đất như phóng xạ đồng vị phân rã của các quá trình phân rã phóng xạ diễn ra như phân rã alpha, phân rã beta, phân hạch tự phát, phân rã cụm, và các chế độ phân rã hiếm khác. Trong số 94 nguyên tố có trong tự nhiên, những nguyên tố có số nguyên tử từ 1 đến 82 đều có ít nhất một đồng vị bền (ngoại trừ techneti, nguyên tố 43 và promethi, nguyên tố 61, không có đồng vị bền). Các chất đồng vị được coi là ổn định là những chất chưa quan sát thấy sự phân rã phóng xạ. Các nguyên tố có số hiệu nguyên tử từ 83 đến 94 không ổn định đến mức có thể phát hiện được sự phân rã phóng xạ của tất cả các đồng vị. Một số nguyên tố này, đặc biệt là bismuth (số nguyên tử 83), thori (số nguyên tử 90) và urani (số nguyên tử 92), có một hoặc nhiều đồng vị có chu kỳ bán rã đủ dài để tồn tại dưới dạng tàn dư của quá trình tổng hợp hạt nhân sao nổ tạo ra các kim loại nặng trước khi hình thành Hệ Mặt trời của chúng ta. Với thời gian phân rã hơn 1,9 năm, dài hơn một tỷ lần so với tuổi ước tính hiện tại của vũ trụ, bismuth-209 (số nguyên tử 83) có chu kỳ bán rã alpha lâu nhất được biết đến trong số các nguyên tố tự nhiên và hầu như luôn được coi là ngang bằng với 80 nguyên tố ổn định. Các nguyên tố rất nặng nhất (những nguyên tố ngoài plutoni, nguyên tố 94) trải qua quá trình phân rã phóng xạ với chu kỳ bán rã ngắn đến mức chúng không được tìm thấy trong tự nhiên và phải được tổng hợp. Hiện đã có 118 nguyên tố được biết đến. Trong bối cảnh này, "đã biết" có nghĩa là được quan sát đủ rõ, thậm chí chỉ từ một vài sản phẩm phân rã, để được phân biệt với các nguyên tố khác. Gần đây nhất, sự tổng hợp của nguyên tố 118 (vì được đặt tên là oganesson) đã được báo cáo vào tháng 10 năm 2006, và sự tổng hợp của nguyên tố 117 (tennessine) được báo cáo vào tháng 4 năm 2010. Trong số 118 nguyên tố này, 94 nguyên tố xuất hiện tự nhiên trên Trái đất. Sáu trong số này xảy ra với số lượng vết cực nhỏ: techneti, số nguyên tử 43; promethi, số 61; astatin, số 85; franci, số 87; neptuni, số 93; và plutoni, số 94. 94 nguyên tố này đã được phát hiện trong vũ trụ nói chung, trong quang phổ của các ngôi sao và cả siêu tân tinh, nơi các nguyên tố phóng xạ tồn tại trong thời gian ngắn mới được tạo ra. 94 nguyên tố đầu tiên đã được phát hiện trực tiếp trên Trái đất dưới dạng các nuclide nguyên thủy có từ khi hình thành hệ Mặt trời, hoặc dưới dạng các sản phẩm chuyển hóa hoặc phân hạch xảy ra tự nhiên của urani và thori. 24 nguyên tố nặng hơn còn lại, ngày nay không được tìm thấy trên Trái đất hay trong quang phổ thiên văn, chúng đã được sản xuất nhân tạo: tất cả đều là chất phóng xạ, với chu kỳ bán rã rất ngắn; nếu có bất kỳ nguyên tử nào của các nguyên tố này khi hình thành Trái đất, thì chúng rất có thể, đến mức chắc chắn, đã bị phân rã, và nếu có trong các tân tinh thì chúng có số lượng quá nhỏ để có thể được ghi nhận. Techneti là nguyên tố có chủ đích không phải tự nhiên đầu tiên được tổng hợp vào năm 1937, mặc dù một lượng nhỏ của techneti đã được tìm thấy trong tự nhiên (và nguyên tố này cũng có thể được phát hiện trong tự nhiên vào năm 1925). Mô hình sản xuất nhân tạo và khám phá tự nhiên sau này đã được lặp lại với một số nguyên tố hiếm có nguồn gốc tự nhiên phóng xạ khác. Danh sách các nguyên tố có sẵn theo tên, số nguyên tử, mật độ, điểm nóng chảy, điểm sôi và theo ký hiệu, cũng như năng lượng ion hóa của các nguyên tố. Các nucleotit của các nguyên tố phóng xạ và ổn định cũng có sẵn dưới dạng danh sách các nuclide, được sắp xếp theo độ dài chu kỳ bán rã của các nguyên tố không ổn định. Một trong những cách trình bày thuận tiện nhất, và chắc chắn là truyền thống nhất về các nguyên tố, là ở dạng bảng tuần hoàn, nhóm các nguyên tố có tính chất hóa học tương tự lại với nhau (và thường là các cấu trúc điện tử tương tự). Mỗi nguyên tố hóa học đều có một tên và ký hiệu riêng để dễ nhận biết. Tên gọi chính thức của các nguyên tố hóa học được quy định bởi Liên đoàn Quốc tế về Hoá học Thuần túy và Ứng dụng (tiếng Anh: "International Union of Pure and Applied Chemistry") (viết tắt: IUPAC). Tổ chức này nói chung chấp nhận tên gọi mà người (hay tổ chức) phát hiện ra nguyên tố đã lựa chọn. Điều này có thể dẫn đến tranh luận là nhóm nghiên cứu nào thực sự tìm ra nguyên tố, là câu hỏi từng làm chậm trễ việc đặt tên cho các nguyên tố với số nguyên tử từ 104 trở lên trong một thời gian dài (Xem thêm Tranh luận về đặt tên nguyên tố). Các nguyên tố hóa học cũng được cấp cho một ký hiệu hóa học thống nhất, dựa trên cơ sở tên gọi của nguyên tố, phần lớn là viết tắt theo tên gọi Latinh. (Ví dụ, carbon có ký hiệu hóa học 'C', natri có ký hiệu hóa học 'Na' từ tên gọi Latinh "natri"). Ký hiệu hóa học của nguyên tố được thống nhất và hiểu trên toàn thế giới trong khi tên gọi thông thường của nó khi chuyển sang một ngôn ngữ khác thì phần lớn không giống nhau. Số nguyên tử. Số nguyên tử của một nguyên tố (ký hiệu Z) bằng số proton trong mỗi nguyên tử và xác định nguyên tố này. Ví dụ, tất cả các nguyên tử carbon đều chứa 6 proton trong hạt nhân nguyên tử của chúng; vậy số nguyên tử của carbon là 6. Nguyên tử carbon có thể có số neutron khác nhau; các nguyên tử của cùng một nguyên tố có số neutron khác nhau được gọi là các đồng vị của nguyên tố đó. Số proton trong hạt nhân nguyên tử cũng quyết định điện tích của nó, do đó nó quyết định số electron của nguyên tử ở trạng thái không bị ion hóa. Các electron được đặt vào các obitan nguyên tử quyết định các tính chất hóa học khác nhau của nguyên tử. Số lượng neutron trong hạt nhân thường ảnh hưởng rất ít đến tính chất hóa học của nguyên tố (ngoại trừ trường hợp của hydro và đơteri). Do đó, tất cả các đồng vị carbon đều có các tính chất hóa học gần giống nhau vì chúng đều có 6 proton và 6 electron, mặc dù các nguyên tử carbon chẳng hạn có thể có 6 hoặc 8 neutron. Đó là lý do tại sao số nguyên tử, chứ không phải số khối hay trọng lượng nguyên tử, được coi là đặc điểm nhận dạng của một nguyên tố hóa học. Đồng vị. Đồng vị là những nguyên tử của cùng một nguyên tố (nghĩa là có cùng số proton trong hạt nhân nguyên tử của chúng), nhưng có số neutron "khác nhau". Vì vậy, chẳng hạn, có ba đồng vị chính của carbon. Tất cả các nguyên tử carbon đều có 6 proton trong hạt nhân, nhưng chúng có thể có 6, 7 hoặc 8 neutron. Vì số khối của chúng lần lượt là 12, 13 và 14, nên ba đồng vị của carbon được gọi là carbon-12, carbon-13 và carbon-14, thường được viết tắt là 12C, 13C và 14C. Carbon trong cuộc sống hàng ngày và trong hóa học là hỗn hợp của 12C (khoảng 98,9%), 13C (khoảng 1,1%) và khoảng 1 nguyên tử 14C trên một nghìn tỷ nguyên tử tổng cộng. Hầu hết (66 trong số 94) nguyên tố xuất hiện tự nhiên có nhiều hơn một đồng vị ổn định. Ngoại trừ các đồng vị của hydro (khác nhau rất nhiều về khối lượng tương đối - đủ để gây ra các hiệu ứng hóa học), các đồng vị của một nguyên tố nhất định gần như không thể phân biệt được về mặt hóa học. Tất cả các nguyên tố đều có một số đồng vị là chất phóng xạ (đồng vị phóng xạ), mặc dù không phải tất cả các đồng vị phóng xạ này đều tồn tại ngoài tự nhiên. Các đồng vị phóng xạ thường phân rã thành các nguyên tố khác khi phóng ra một hạt alpha hoặc beta. Nếu một nguyên tố có các đồng vị không phóng xạ, chúng được gọi là cá đồng vị "ổn định". Tất cả các đồng vị ổn định đã biết đều tồn tại ngoài tự nhiên (xem đồng vị nguyên thủy). Nhiều đồng vị phóng xạ không có trong tự nhiên đã được nghiên cứu sau khi được tạo ra một cách nhân tạo. Một số nguyên tố không có đồng vị bền và "chỉ" bao gồm các đồng vị phóng xạ: cụ thể là các nguyên tố không có đồng vị bền nào là techneti (số nguyên tử 43), promethi (số nguyên tử 61) và tất cả các nguyên tố quan sát được có số nguyên tử lớn hơn 82. Trong số 80 nguyên tố có ít nhất một đồng vị bền, 26 nguyên tố chỉ có một đồng vị bền duy nhất. Số đồng vị ổn định trung bình của 80 nguyên tố ổn định là 3,1 đồng vị ổn định trên mỗi nguyên tố. Số lượng đồng vị bền lớn nhất xảy ra đối với một nguyên tố là 10 (thiếc, nguyên tố 50). Khối lượng đồng vị và khối lượng nguyên tử. Số khối của một nguyên tố "A", là số nucleon (proton và neutron) trong hạt nhân nguyên tử. Các đồng vị khác nhau của một nguyên tố nhất định được phân biệt bằng số khối của chúng, được viết theo quy ước dưới dạng ký tự trên bên trái của ký hiệu nguyên tử (ví dụ: 238U). Số khối luôn là một số nguyên và có đơn vị là "nucleon". Ví dụ, magnesi-24 (24 là số khối) là một nguyên tử có 24 nucleon (12 proton và 12 neutron). Trong khi số khối chỉ đơn giản đếm tổng số neutron và proton và do đó là một số tự nhiên, khối lượng nguyên tử của một nguyên tử là một số thực cho khối lượng của một đồng vị cụ thể (hoặc "nuclide") của nguyên tố, tính bằng đơn vị khối lượng nguyên tử (kí hiệu: u). Nói chung, số khối của một nuclide nhất định khác một chút về giá trị so với khối lượng nguyên tử của nó, vì khối lượng của mỗi proton và neutron không chính xác đúng 1 u; vì các điện tử đóng góp một phần nhỏ hơn vào khối lượng nguyên tử vì số neutron vượt quá số proton; và (cuối cùng) vì năng lượng liên kết hạt nhân. Ví dụ, khối lượng nguyên tử của chlor-35 có năm chữ số có nghĩa là 34,969 u và của chlor-37 là 36,966 u. Tuy nhiên, khối lượng nguyên tử tính bằng u của mỗi đồng vị khá gần với số khối lượng đơn giản của nó (luôn nằm trong khoảng 1%). Đồng vị duy nhất có khối lượng nguyên tử chính xác là một số tự nhiên là 12C, theo định nghĩa có khối lượng chính xác bằng 12 vì u được định nghĩa là 1/12 khối lượng của nguyên tử carbon-12 trung hòa tự do ở trạng thái cơ bản. Trọng lượng nguyên tử tiêu chuẩn (thường được gọi là "trọng lượng nguyên tử") của một nguyên tố là "trung bình cộng" của các khối lượng nguyên tử của tất cả các đồng vị của nguyên tố hóa học được tìm thấy trong một môi trường cụ thể, có trọng lượng bằng lượng đồng vị, so với đơn vị khối lượng nguyên tử. Số này có thể là một phân số "không" gần với một số nguyên. Ví dụ, khối lượng nguyên tử tương đối của chlor là 35,453 u, khác rất nhiều so với một số nguyên vì nó là trung bình của khoảng 76% chlor-35 và 24% chlor-37. Bất cứ khi nào giá trị khối lượng nguyên tử tương đối khác hơn 1% so với một số nguyên, đó là do hiệu ứng trung bình này, vì một lượng đáng kể của nhiều hơn một đồng vị có trong một mẫu nguyên tố đó một cách tự nhiên. Tinh khiết về mặt hóa học và tinh khiết về mặt đồng vị. Các nhà hóa học và các nhà khoa học hạt nhân có các định nghĩa khác nhau về một "nguyên tố tinh khiết". Trong hóa học, nguyên tố nguyên chất có nghĩa là chất mà tất cả các nguyên tử (hoặc trong thực tế là hầu hết) đều có cùng số nguyên tử hoặc số proton. Tuy nhiên, các nhà khoa học hạt nhân định nghĩa một nguyên tố tinh khiết là một nguyên tố chỉ bao gồm một đồng vị ổn định. Ví dụ, một sợi dây đồng là 99,99% tinh khiết về mặt hóa học nếu 99,99% nguyên tử của nó là đồng, với 29 proton mỗi nguyên tử. Tuy nhiên, nó không phải là đồng vị tinh khiết vì đồng thông thường bao gồm hai đồng vị bền, 69% 63Cu và 31% 65Cu, với số neutron khác nhau. Tuy nhiên, một thỏi vàng nguyên chất sẽ tinh khiết cả về mặt hóa học và đồng vị, vì vàng thông thường chỉ bao gồm một đồng vị, 197Au. Thù hình. Nguyên tử của các nguyên tố tinh khiết về mặt hóa học có thể liên kết với nhau về mặt hóa học theo nhiều cách, cho phép nguyên tố tinh khiết tồn tại trong nhiều cấu trúc hóa học (cách sắp xếp không gian của các nguyên tử), được gọi là các dạng thù hình, khác nhau về tính chất của chúng. Ví dụ, carbon có thể được tìm thấy dưới các dạng: kim cương, có cấu trúc tứ diện xung quanh mỗi nguyên tử carbon; than chì, có các lớp nguyên tử carbon có cấu trúc lục giác xếp chồng lên nhau; graphene, là một lớp graphit đơn lẻ rất bền; fullerene, có hình dạng gần như hình cầu; và ống nano carbon, là những ống có cấu trúc hình lục giác (thậm chí chúng có thể khác nhau về tính chất điện). Khả năng tồn tại của một nguyên tố ở một trong nhiều dạng cấu trúc được gọi là 'khả năng thù hình'. Trạng thái chuẩn của một nguyên tố được định nghĩa là trạng thái ổn định nhất về mặt nhiệt động lực học của nó ở áp suất 1 bar và nhiệt độ nhất định (thường ở 298,15 K). Trong nhiệt hóa học, một nguyên tố được định nghĩa là có entanpi tạo thành bằng 0 ở trạng thái chuẩn của nó. Ví dụ, trạng thái tham chiếu của carbon là graphit, vì cấu trúc của graphit ổn định hơn so với các dạng thù hình khác. Thuộc tính. Một số loại phân loại mô tả có thể được áp dụng rộng rãi cho các nguyên tố, bao gồm việc xem xét các đặc tính vật lý và hóa học chung của chúng, trạng thái vật chất của chúng trong các điều kiện quen thuộc, điểm nóng chảy và sôi của chúng, mật độ của chúng, cấu trúc tinh thể của chúng khi là chất rắn và nguồn gốc của chúng. Các thuộc tính chung. Một số thuật ngữ thường được sử dụng để mô tả các tính chất vật lý và hóa học chung của các nguyên tố hóa học. Điểm phân biệt đầu tiên là kim loại dễ dẫn điện, phi kim không dẫn điện và một nhóm nhỏ (các "á kim"), có các đặc tính trung gian và thường hoạt động như chất bán dẫn. Sự phân loại tinh tế hơn thường được thể hiện trong các bản trình bày màu của bảng tuần hoàn. Hệ thống này hạn chế các thuật ngữ "kim loại" và "phi kim" chỉ đối với một số kim loại và phi kim được xác định rộng hơn, bổ sung các thuật ngữ bổ sung cho một số nhóm kim loại và phi kim được xem rộng rãi hơn. Phiên bản của phân loại này được sử dụng trong bảng tuần hoàn được trình bày ở đây bao gồm: họ actini, kim loại kiềm , kim loại kiềm thổ, halogen, họ lanthan, kim loại chuyển tiếp, kim loại sau chuyển tiếp, á kim, phi kim phản ứng và khí trơ. Trong hệ thống này, các kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ và kim loại chuyển tiếp, cũng như các lantan và actini, là các nhóm kim loại đặc biệt được nhìn nhận theo nghĩa rộng hơn. Tương tự, các phi kim phản ứng và các khí quý là các phi kim được nhìn theo nghĩa rộng hơn. Trong một số bài thuyết trình, các halogen không được phân biệt, với astatin được xác định là một kim loại và các chất khác được xác định là phi kim. Trạng thái vật chất. Một sự phân biệt cơ bản khác thường được sử dụng giữa các nguyên tố là trạng thái vật chất (pha) của chúng, cho dù là rắn, lỏng hay khí, ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn đã chọn (STP). Hầu hết các nguyên tố là chất rắn ở nhiệt độ thông thường và áp suất khí quyển, trong khi một số nguyên tố là chất khí. Chỉ có brom và thủy ngân là chất lỏng ở 0 độ C (32 độ F) và áp suất khí quyển bình thường; caesi và gali là chất rắn ở nhiệt độ đó, nhưng nóng chảy ở 28,4 °C (83,2 °F) và 29,8 °C (85,6 °F), tương ứng. Điểm nóng chảy và điểm sôi. Điểm nóng chảy và điểm sôi, thường được biểu thị bằng độ C ở áp suất của một bầu khí quyển, thường được sử dụng để mô tả đặc tính của các nguyên tố khác nhau. Mặc dù được biết đến với hầu hết các nguyên tố, nhưng một trong hai hoặc cả hai phép đo này vẫn chưa được xác định đối với một số nguyên tố phóng xạ chỉ có sẵn với số lượng rất nhỏ. Vì heli vẫn là chất lỏng ngay cả ở độ không tuyệt đối ở áp suất khí quyển, nên nó chỉ có nhiệt độ sôi chứ không phải nhiệt độ nóng chảy, trong các bài thuyết trình thông thường. Khối lượng riêng. Khối lượng riêng hay mật độ của ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn đã chọn (STP) thường được sử dụng để xác định đặc tính của các phần tử. Mật độ thường được biểu thị bằng gam trên centimet khối (g / cm³). Vì một số nguyên tố là chất khí ở nhiệt độ thường gặp, khối lượng riêng của chúng thường được nêu ở dạng khí; khi hóa lỏng hoặc đông đặc, các nguyên tố khí cũng có khối lượng riêng tương tự như khối lượng riêng của các nguyên tố khác. Khi một phần tử có các dạng thù hình với các mật độ khác nhau, một dạng thù hình đại diện thường được chọn trong các bản trình bày tóm tắt, trong khi mật độ cho mỗi dạng allotro có thể được nêu khi cung cấp thêm thông tin chi tiết. Ví dụ, ba dạng thù hình quen thuộc của carbon (carbon vô định hình, than chì và kim cương) có khối lượng riêng tương ứng là 1,8–2,1, 2,267 và 3,515 g / cm 3. Cấu trúc tinh thể. Các nguyên tố được nghiên cứu cho đến nay làm mẫu rắn có tám loại cấu trúc tinh thể : lập phương hình thân, lập phương diện tâm, lục giác, đơn nghiêng, trực thoi, lục phương và bốn phương. Đối với một số nguyên tố sau urani được sản xuất tổng hợp, các mẫu sẵn có quá nhỏ để xác định cấu trúc tinh thể. Sự xuất hiện và nguồn gốc trên Trái Đất. Các nguyên tố hóa học cũng có thể được phân loại theo nguồn gốc của chúng trên Trái đất, với 94 nguyên tố đầu tiên được coi là xuất hiện ngoài tự nhiên, trong khi những nguyên tố có số nguyên tử ngoài 94 chỉ được sản xuất nhân tạo như là sản phẩm tổng hợp của các phản ứng hạt nhân nhân tạo. Trong số 94 nguyên tố xuất hiện tự nhiên, 83 nguyên tố được coi là nguyên sinh và có tính phóng xạ yếu hoặc ổn định. 11 nguyên tố tự nhiên còn lại có chu kỳ bán rã quá ngắn để chúng có mặt ở thời kỳ đầu của Hệ Mặt trời, và do đó được coi là các nguyên tố nhất thời. Trong số 11 nguyên tố thoáng qua này, 5 nguyên tố (poloni, radon, radi, actini và protactini) là các sản phẩm phân rã tương đối phổ biến của thori và urani. 6 nguyên tố thoáng qua còn lại (techneti, promethi, astatin, franci, neptuni và plutoni) hiếm khi xảy ra, vì là sản phẩm của các chế độ phân rã hiếm hoặc quá trình phản ứng hạt nhân liên quan đến urani hoặc các nguyên tố nặng khác. Không có sự phân rã phóng xạ nào được quan sát thấy đối với các nguyên tố có số nguyên tử từ 1 đến 82, ngoại trừ 43 (techneti) và 61 (promethi). Tuy nhiên, đồng vị bền quan sát của một số nguyên tố (như wolfram và chì) được dự đoán là hơi phóng xạ với chu kỳ bán rã rất dài: [18] ví dụ, chu kỳ bán rã được dự đoán cho đồng vị chì ổn định quan sát nằm trong khoảng từ 1035 đến 10189 năm. Các nguyên tố có số nguyên tử 43, 61 và 83 đến 94 không ổn định đủ để có thể dễ dàng phát hiện ra sự phân rã phóng xạ của chúng. Ba trong số các nguyên tố này, bitmut (nguyên tố 83), thori (nguyên tố 90) và urani (nguyên tố 92) có một hoặc nhiều đồng vị có chu kỳ bán rã đủ dài để tồn tại như tàn tích của quá trình tổng hợp hạt nhân sao nổ tạo ra các nguyên tố nặng trước sự hình thành của Hệ Mặt Trời. Ví dụ, với chu kỳ bán rã hơn 1,9 năm, dài hơn một tỷ lần so với tuổi ước tính hiện tại của vũ trụ, bismuth-209 có chu kỳ bán rã alpha lâu nhất được biết đến trong số các nguyên tố tự nhiên. 24 nguyên tố nặng nhất (những nguyên tố ngoài plutoni, nguyên tố 94) trải qua quá trình phân rã phóng xạ với chu kỳ bán rã quá ngắn và không thể được tạo ra như sản phẩm phụ của các nguyên tố có tuổi thọ cao hơn, và do đó hoàn toàn không được biết là có tồn tại ngoài tự nhiên. Bảng tuần hoàn. Tính chất của các nguyên tố hóa học thường được tóm tắt bằng cách sử dụng bảng tuần hoàn, bảng tuần hoàn sắp xếp các nguyên tố một cách mạnh mẽ và trang nhã bằng cách tăng số nguyên tử thành các hàng ( "chu kỳ" ) trong đó các cột ( "nhóm" ) chia sẻ sự lặp lại ("tuần hoàn") của các tính chất vật lý và tính chất hóa học. Bảng tuần hoàn tiêu chuẩn hiện tại chứa 118 nguyên tố đã được xác nhận tính đến năm 2019. Mặc dù những tiền thân trước đó của bảng này đã tồn tại, nhưng việc phát minh ra nó thường được ghi công cho nhà hóa học người Nga Dmitri Mendeleev vào năm 1869, người đã dự định dùng bảng để minh họa các xu hướng lặp lại trong các tính chất của các nguyên tố. Bố cục của bảng đã được tinh chỉnh và mở rộng theo thời gian khi các nguyên tố mới được phát hiện và các mô hình lý thuyết mới đã được phát triển để giải thích hành vi hóa học của chúng. Việc sử dụng bảng tuần hoàn hiện nay đã phổ biến trong ngành học hóa học, cung cấp một khung cực kỳ hữu ích để phân loại, hệ thống hóa và so sánh tất cả các dạng hành vi hóa học khác nhau. Bảng cũng được ứng dụng rộng rãi trong vật lý, địa chất, sinh học, khoa học vật liệu, kỹ thuật, nông nghiệp, y học, dinh dưỡng, sức khỏe môi trường và thiên văn học. Các nguyên tắc của nó đặc biệt quan trọng trong kỹ thuật hóa học. Nguồn gốc. Chỉ khoảng 4% tổng khối lượng của vũ trụ được tạo ra từ các nguyên tử hoặc ion, và do đó được biểu thị bằng các nguyên tố hóa học. Phần này chiếm khoảng 15% tổng số vật chất, với phần còn lại của vật chất (85%) là vật chất tối. Bản chất của vật chất tối vẫn chưa được biết, nhưng nó không được cấu tạo bởi các nguyên tử của các nguyên tố hóa học vì nó không chứa proton, neutron hoặc electron. (Phần phi vật chất còn lại của khối lượng vũ trụ được cấu tạo từ năng lượng tối thậm chí còn ít được hiểu rõ hơn). 94 nguyên tố hóa học có trong tự nhiên được tạo ra bởi ít nhất bốn lớp của quá trình vật lý thiên văn. Hầu hết hydro, heli và một lượng rất nhỏ lithi được tạo ra trong vài phút đầu tiên của Vụ Nổ Lớn. Quá trình tổng hợp hạt nhân Big Bang này chỉ xảy ra một lần; các quá trình khác đang diễn ra. Phản ứng tổng hợp hạt nhân bên trong các ngôi sao tạo ra các nguyên tố thông qua quá trình tổng hợp hạt nhân của các ngôi sao, bao gồm tất cả các nguyên tố từ carbon đến sắt về số lượng nguyên tử. Các nguyên tố có số nguyên tử cao hơn sắt, bao gồm các nguyên tố nặng như urani và plutoni, được tạo ra bởi nhiều dạng tổng hợp hạt nhân bùng nổ khác nhau trong quá trình sáp nhập sao siêu mới và neutron. Các nguyên tố nhẹ lithi, beryli và bor được tạo ra hầu hết thông qua sự phân tán tia vũ trụ (sự phân mảnh do tia vũ trụ gây ra) của carbon, nitơ và oxy. Trong giai đoạn đầu của Vụ Nổ Lớn, sự tổng hợp hạt nhân của hạt nhân hydro dẫn đến việc sản xuất ra hydro-1 (proti, 1H) và heli-4 (4He), cũng như một lượng nhỏ hơn deuteri (2H) và lượng rất nhỏ (theo lũy thừa 10−10) của lithi và beryli. Thậm chí một lượng nguyên tố bor nhỏ hơn có thể đã được tạo ra trong Vụ Nổ Lớn, vì nó đã được quan sát thấy ở một số ngôi sao rất cũ, trong khi carbon thì không. Không có nguyên tố nào nặng hơn bor được tạo ra trong Vụ Nổ Lớn. Kết quả là, sự phong phú ban đầu của các nguyên tử (hoặc ion) bao gồm khoảng 75% 1H, 25% 4He, và 0,01% đơteri, chỉ với những lượng rất nhỏ lithi, beryli và có lẽ là bo. Sự làm giàu sau đó của các quầng thiên hà xảy ra do quá trình tổng hợp hạt nhân sao và quá trình tổng hợp hạt nhân siêu tân tinh. Tuy nhiên, sự phong phú của nguyên tố trong không gian giữa các thiên hà vẫn có thể gần giống với các điều kiện nguyên thủy, trừ khi nó đã được làm giàu bằng một số phương pháp. Trên Trái đất (và các nơi khác), lượng nhỏ của các nguyên tố khác nhau tiếp tục được tạo ra từ các nguyên tố khác như là sản phẩm của quá trình biến đổi hạt nhân. Chúng bao gồm một số được tạo ra bởi các tia vũ trụ hoặc các phản ứng hạt nhân khác (xem các nuclid vũ trụ và nucleogenic ), và một số khác được tạo ra dưới dạng sản phẩm phân rã của các nuclide nguyên thủy tồn tại lâu dài. Ví dụ, một lượng vết (nhưng có thể phát hiện được) của carbon-14 (14C) liên tục được tạo ra trong khí quyển do các tia vũ trụ tác động vào các nguyên tử nitơ và argon-40 ( 40Ar) liên tục được tạo ra do sự phân hủy của kali-40 (40K) nguyên thủy nhưng không ổn định. Ngoài ra, ba nguyên tố nguyên thủy xuất hiện trừ các nguyên tố có tính phóng xạ thuộc họ actini, đó là thori, urani và plutoni, phân rã qua một loạt các định kỳ sản xuất nhưng không ổn định các yếu tố phóng xạ như radi và radon, vốn chỉ xuất hiện thoáng qua trong bất kỳ mẫu của các kim loại này hoặc quặng hoặc các hợp chất của chúng. Ba nguyên tố phóng xạ khác, techneti, promethi và neptuni, chỉ xuất hiện ngẫu nhiên trong các vật liệu tự nhiên, được tạo ra dưới dạng các nguyên tử riêng lẻ bằng cách phân hạch hạt nhân của các hạt nhân của các nguyên tố nặng khác nhau hoặc trong các quá trình hạt nhân hiếm gặp khác. Ngoài 94 nguyên tố tự nhiên, một số nguyên tố nhân tạo đã được sản xuất bằng công nghệ vật lý hạt nhân của con người. , những thí nghiệm này đã tạo ra tất cả các nguyên tố lên đến số nguyên tử 118. Lượng nguyên tố trong tự nhiên. Biểu đồ sau (thang log) cho thấy sự phong phú của các nguyên tố trong Hệ Mặt Trời của chúng ta. Bảng cho thấy mười hai nguyên tố phổ biến nhất trong thiên hà của chúng ta (ước tính theo phương pháp quang phổ), được đo bằng phần triệu, khối lượng. Các thiên hà gần đó đã phát triển dọc theo các đường tương tự có sự làm giàu tương ứng của các nguyên tố nặng hơn hydro và heli. Các thiên hà xa hơn đang được xem như chúng đã xuất hiện trong quá khứ, vì vậy lượng nguyên tố dồi dào của chúng dường như gần với hỗn hợp nguyên thủy hơn. Tuy nhiên, khi các quy luật và quy trình vật lý xuất hiện phổ biến trong vũ trụ hữu hình, các nhà khoa học kỳ vọng rằng các thiên hà này đã tiến hóa các nguyên tố với mức độ phong phú tương tự. Sự phong phú của các nguyên tố trong Hệ Mặt trời phù hợp với nguồn gốc của chúng từ quá trình tổng hợp hạt nhân trong Vụ Nổ Lớn và một số sao siêu tân tinh tiền thân. Hydro và heli rất dồi dào là sản phẩm của Vụ nổ lớn, nhưng ba nguyên tố tiếp theo rất hiếm vì chúng có rất ít thời gian hình thành trong Vụ nổ lớn và không được tạo ra trong các ngôi sao (tuy nhiên, chúng được tạo ra với số lượng nhỏ do sự tan rã của các nguyên tố nặng hơn trong bụi giữa các vì sao, do tác động của tia vũ trụ ). Bắt đầu với carbon, các nguyên tố được tạo ra trong các ngôi sao bằng cách tích tụ từ các hạt alpha (hạt nhân heli), dẫn đến sự phong phú xen kẽ của các nguyên tố có số nguyên tử chẵn (những nguyên tố này cũng ổn định hơn). Nói chung, các nguyên tố như sắt được tạo ra trong các ngôi sao lớn trong quá trình trở thành siêu tân tinh. Sắt-56 đặc biệt phổ biến, vì nó là nguyên tố ổn định nhất có thể dễ dàng được tạo ra từ các hạt alpha (là sản phẩm của sự phân rã phóng xạ nickel-56, cuối cùng được tạo ra từ 14 hạt nhân heli). Các nguyên tố nặng hơn sắt được tạo ra trong quá trình hấp thụ năng lượng ở các ngôi sao lớn, và sự phong phú của chúng trong vũ trụ (và trên Trái đất) thường giảm theo số nguyên tử của chúng. Sự phong phú của các nguyên tố hóa học trên Trái Đất thay đổi từ không khí đến lớp vỏ đến đại dương, và trong các dạng sống khác nhau. Sự phong phú của các nguyên tố trong lớp vỏ Trái đất khác với sự phong phú của các nguyên tố trong Hệ Mặt trời (như được thấy ở Mặt trời và các hành tinh nặng như Sao Mộc) chủ yếu ở việc mất đi có chọn lọc các nguyên tố rất nhẹ nhất (hydro và heli) và cả neon, carbon dễ bay hơi (như hydrocarbon), nitơ và lưu huỳnh, là kết quả của quá trình sưởi ấm bằng năng lượng mặt trời trong giai đoạn đầu hình thành hệ mặt trời. Oxy, nguyên tố Trái đất dồi dào nhất tính theo khối lượng, được giữ lại trên Trái đất bằng cách kết hợp với silic. Nhôm có 8% khối lượng phổ biến hơn trong vỏ Trái đất so với vũ trụ và Hệ Mặt trời, nhưng thành phần của lớp phủ cồng kềnh hơn nhiều, có magnesi và sắt thay cho nhôm (chỉ xuất hiện ở 2% khối lượng) phản ánh chặt chẽ hơn thành phần nguyên tố của Hệ Mặt Trời, chưa kể sự mất mát được ghi nhận của các nguyên tố dễ bay hơi vào không gian và mất lượng nguyên tố sắt đã di chuyển đến lõi của Trái Đất. Ngược lại, thành phần của cơ thể con người theo sát thành phần của nước biển - giúp cơ thể con người có thêm lượng dự trữ carbon và nitơ cần thiết để tạo thành protein và acidnucleic, cùng với phosphor trong acidnucleic và phân tử truyền năng lượng. Adenosine triphosphate (ATP) xuất hiện trong tế bào của tất cả các sinh vật sống. Một số loại sinh vật đòi hỏi các nguyên tố đặc biệt bổ sung, ví dụ như magnesi trong chất diệp lục trong cây xanh, các calci trong vỏ động vật thân mềm, hoặc sắt trong hemoglobin trong hồng cầu của động vật có xương sống. Lịch sử. Phát triển các định nghĩa. Khái niệm "nguyên tố" như một chất không thể phân chia đã phát triển qua ba giai đoạn lịch sử chính: Định nghĩa cổ điển (chẳng hạn như định nghĩa của người Hy Lạp cổ đại), định nghĩa hóa học và định nghĩa hạt nhân. Định nghĩa cổ điển. Triết học cổ đại đặt ra một tập hợp các nguyên tố cổ điển để giải thích các mô hình quan sát được trong tự nhiên. Những "nguyên tố" này ban đầu được gọi là "đất", "nước", "khí" và "lửa" thay vì các nguyên tố hóa học của khoa học hiện đại. Thuật ngữ 'nguyên tố' "(stoicheia)" lần đầu tiên được nhà triết học Hy Lạp Plato sử dụng vào khoảng năm 360 TCN trong cuộc đối thoại của ông với Timaeus, trong đó bao gồm một cuộc thảo luận của các thành phần của các cơ quan vô cơ và hữu cơ và là một chuyên luận phỏng đoán về hóa học. Plato tin rằng các nguyên tố được Empedocles đưa vào một thế kỷ trước đó bao gồm các dạng đa diện nhỏ: tứ diện (lửa), bát diện (khí), nhị thập diện (nước) và khối lập phương (đất). Aristotle, khoảng năm 350 TCN, cũng sử dụng từ "stoicheia" và bổ sung thêm một nguyên tố thứ năm gọi là aether, mà hình thành các tầng trời. Aristotle đã định nghĩa một nguyên tố là: Định nghĩa hóa học. Năm 1661, Robert Boyle đề xuất lý thuyết về vật thể của mình, trong đó ủng hộ việc phân tích vật chất được cấu thành bởi các đơn vị vật chất không thể thu nhỏ hơn được (nguyên tử) và, không chọn quan điểm của Aristotle về bốn nguyên tố cũng như quan điểm của Paracelsus về ba nguyên tố cơ bản, và còn bỏ ngỏ. câu hỏi về số lượng nguyên tố. Danh sách các nguyên tố hóa học hiện đại đầu tiên được đưa ra trong "Các nguyên tố hóa học" năm 1789 của Antoine Lavoisier, chứa ba mươi ba nguyên tố, bao gồm cả ánh sáng và nhiệt lượng. Đến năm 1818, Jöns Jakob Berzelius đã xác định được trọng lượng nguyên tử cho 45 trong số 49nguyên tố được chấp nhận sau đó. Dmitri Mendeleev đưa ra 66 nguyên tố trong bảng tuần hoàn của ông vào năm 1869. Từ thời Boyle cho đến đầu thế kỷ 20, một nguyên tố được định nghĩa là một chất tinh khiết không thể bị phân hủy thành bất kỳ chất nào đơn giản hơn. Nói cách khác, một nguyên tố hóa học không thể chuyển hóa thành các nguyên tố hóa học khác bằng các quá trình hóa học. Các nguyên tố trong thời gian này thường được phân biệt bằng khối lượng nguyên tử của chúng, một đặc tính có thể đo được với độ chính xác khá cao bằng các kỹ thuật phân tích có sẵn. Định nghĩa hạt nhân. Phát hiện năm 1913 của nhà vật lý người Anh Henry Moseley rằng điện tích hạt nhân là cơ sở vật lý cho số nguyên tử của một nguyên tử, được hoàn thiện thêm khi bản chất của proton và neutron được nhìn nhận, cuối cùng dẫn đến định nghĩa hiện tại về một nguyên tố dựa trên số nguyên tử (số proton trên mỗi hạt nhân nguyên tử). Việc sử dụng các số nguyên tử, chứ không phải là khối lượng nguyên tử, để phân biệt các nguyên tố có giá trị tiên đoán lớn hơn (do những con số là các số nguyên), và cũng có thể giải quyết một số những mập mờ trong giao diện hóa học dựa trên do tính chất của biến đổi đồng vị và thù hình trong cùng một nguyên tố. Hiện tại, IUPAC xác định một nguyên tố tồn tại nếu nó có các đồng vị có thời gian sống lâu hơn 10−14 giây, thời gian mà hạt nhân cần đến để tạo thành một đám mây điện tử. Đến năm 1914, 72 nguyên tố đã được biết đến, tất cả đều xuất hiện trong tự nhiên. Các nguyên tố trong tự nhiên còn lại đã được phát hiện hoặc chiết tách trong những thập kỷ tiếp theo, và nhiều nguyên tố bổ sung khác cũng đã được sản xuất tổng hợp, với phần lớn công trình đó do Glenn T. Seaborg đi tiên phong. Năm 1955, nguyên tố 101 được phát hiện và đặt tên là mendelevi để vinh danh D. I. Mendeleev, người đầu tiên sắp xếp các nguyên tố theo cách tuần hoàn. Khám phá và công nhận các nguyên tố khác nhau. Mười chất liệu quen thuộc với các nền văn hóa tiền sử khác nhau hiện được biết đến là các nguyên tố hóa học: carbon, đồng, vàng, sắt, chì, thủy ngân, bạc, lưu huỳnh, thiếc và kẽm. Ba vật liệu bổ sung hiện được chấp nhận là nguyên tố, arsenic, antimon và bismuth, đã được công nhận là các chất riêng biệt trước năm 1500. Phosphor, cobalt và platin đã được phân lập trước năm 1750. Hầu hết các nguyên tố hóa học trong tự nhiên còn lại đã được xác định và ghi nhận tính chất vào năm 1900, bao gồm: Các nguyên tố được phân lập hoặc sản xuất kể từ năm 1900 bao gồm: Các nguyên tố được phát hiện gần đây. Nguyên tố siêu urani đầu tiên (nguyên tố có số nguyên tử lớn hơn 92) được phát hiện là neptuni vào năm 1940. Kể từ năm 1999, các tuyên bố về việc phát hiện ra các nguyên tố mới đã được Ban công tác chung IUPAC/IUPAP xem xét. Tính đến tháng 1 năm 2016, tất cả 118 nguyên tố đã được IUPAC xác nhận là đã phát hiện ra. Việc phát hiện ra nguyên tố 112 đã được công nhận vào năm 2009, và cái tên "copernici" và ký hiệu nguyên tử "Cn" đã được gợi ý cho nguyên tố này. Tên và biểu tượng của nguyên tố này đã được IUPAC chính thức xác nhận vào ngày 19 tháng 2 năm 2010. Nguyên tố nặng nhất được cho là đã được tổng hợp cho đến nay là nguyên tố 118, oganesson, vào ngày 9 tháng 10 năm 2006, do Phòng thí nghiệm phản ứng hạt nhân Flerov ở Dubna, Nga tìm ra. Tennessine, nguyên tố 117 là nguyên tố mới nhất được tuyên bố là đã được phát hiện, vào năm 2009. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2016, các nhà khoa học tại IUPAC đã chính thức công nhận tên của bốn nguyên tố hóa học mới nhất, với các số hiệu nguyên tử 113, 115, 117 và 118. Danh sách nguyên tố hóa học. </TABLE>
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Trong kinh tế học, tổng sản phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của "gross domestic product") là "giá trị thị trường" của tất cả hàng hóa và dịch vụ "cuối cùng" được sản xuất ra trong "phạm vi một lãnh thổ nhất định "(thường là quốc gia) trong một "thời kỳ nhất định" (thường là một năm). Gần đây, trong các tài liệu thống kê mang tính nghiêm ngặt, thuật ngữ tiếng Anh "national gross domestic product"- NGDP hay được dùng để chỉ tổng sản phẩm quốc nội, "regional (hoặc provincial) gross domestic product"- RGDP hay dùng để chỉ tổng sản phẩm nội địa của địa phương. GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó. Phương pháp tính GDP. Phương pháp chi tiêu. Theo phương pháp chi tiêu, tổng sản phẩm quốc nội của một quốc gia là tổng số tiền mà các hộ gia đình trong quốc gia đó chi mua các hàng hóa cuối cùng. Như vậy trong một nền kinh tế giản đơn ta có thể dễ dàng tính tổng sản phẩm quốc nội như là tổng chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng hàng năm. GDP (Y) là tổng của tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu chính phủ (G) và cán cân thương mại (xuất khẩu ròng, X - M). Chú giải: Phương pháp thu nhập hay phương pháp chi phí. Theo phương pháp thu nhập hay phương pháp chi phí, tổng sản phẩm quốc nội bằng tổng thu nhập từ các yếu tố tiền lương (wage), tiền lãi (interest), lợi nhuận (profit) và tiền thuê (rent); đó cũng chính là tổng chi phí sản xuất các sản phẩm cuối cùng của xã hội. Trong đó Phương pháp giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng của doanh nghiệp ký hiệu là (VA), giá trị tăng thêm của một ngành (GO), giá trị tăng thêm của nền kinh tế là GDP VA = Giá trị thị trường sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp - Giá trị đầu vào được chuyển hết vào giá trị sản phẩm trong quá trình sản xuất Giá trị gia tăng của một ngành (GO) Trong đó: Giá trị gia tăng của nền kinh tế GDP Trong đó: Lưu ý là kết quả tính GDP sẽ là như nhau với cả ba cách trên. Ở Việt Nam GDP được tính toán bởi Tổng cục thống kê dựa trên cơ sở các báo cáo từ các đơn vị, tổ chức kinh tế cũng như báo cáo của các Cục thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Còn ở Mỹ GDP được tính toán bởi Cục phân tích kinh tế. GDP danh nghĩa và thực tế. GDP danh nghĩa là tổng sản phẩm nội địa theo giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ cuối cùng tính theo giá hiện hành. Sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào thì lấy giá của thời kỳ đó. Do vậy còn gọi là GDP theo giá hiện hành Sự gia tăng của GDP danh nghĩa hàng năm có thể do lạm phát. Trong đó: GDP thực tế là tổng sản phẩm nội địa tính theo sản lượng hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của năm nghiên cứu còn giá cả tính theo năm gốc do đó còn gọi là GDP theo giá so sánh. Theo cách tính toán về tài chính-tiền tệ thì GDP thực tế là hiệu số của GDP tiềm năng trừ đi chỉ số lạm phát CPI trong cùng một khoảng thời gian dùng để tính toán chỉ số GDP đó. GDP thực tế được đưa ra nhằm điều chỉnh lại của những sai lệch như sự mất giá của đồng tiền trong việc tính toán GDP danh nghĩa để có thể ước lượng chuẩn hơn số lượng thực sự của hàng hóa và dịch vụ tạo thành GDP. GDP thứ nhất đôi khi được gọi là "GDP tiền tệ" trong khi GDP thứ hai được gọi là GDP "giá cố định" hay GDP "điều chỉnh lạm phát" hoặc "GDP theo giá năm gốc" (Năm gốc được chọn theo luật định). GDP bình quân đầu người. GDP bình quân đầu người của một quốc gia hay lãnh thổ tại một thời điểm nhất định là giá trị nhận được khi lấy GDP của quốc gia hay lãnh thổ này tại thời điểm đó chia cho dân số của nó cũng tại thời điểm đó. Các thành phần của GDP. GDP có thể tính là tổng của các khoản tiêu dùng, hoặc tổng của các khoản chi tiêu, hoặc tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế. Về lý thuyết, dù theo cách tính nào cũng cho kết quả tính GDP như nhau. Nhưng trong nhiều báo cáo thống kê, lại có sự chênh lệch nhỏ giữa kết quả theo ba cách tính. Đó là vì có sai số trong thống kê. Theo cách tính GDP là tổng tiêu dùng, các nhà kinh tế học đưa ra một công thức như sau: GDP = C + I + G + NX Trong đó các ký hiệu: Ba thành phần đầu đôi khi được gọi chung là "nội nhu", còn thành phần cuối cùng là "ngoại nhu". GDP theo cách tính tổng chi phí (lúc này không gọi là GDP nữa, mà gọi là tổng chi tiêu nội địa hay GDE (viết tắt của Gross Domestic Expenditure) được tính toán tương tự, mặc dù trong công thức tính tổng chi phí không kê khai những khoản đầu tư ngoài kế hoạch (bỏ hàng tồn kho vào cuối chu kỳ báo cáo) và nó phần lớn được sử dụng bởi các nhà kinh tế lý thuyết. Phân biệt GDP với GNP. GDP khác với tổng sản phẩm quốc dân (GNP) ở chỗ loại bỏ việc chuyển đổi thu nhập giữa các quốc gia, nó được quy theo lãnh thổ mà sản phẩm được sản xuất ở đó hơn là thu nhập nhận được ở đó. Chẳng hạn như một nhà máy sản xuất đồ ăn nhanh đặt tại Việt Nam do công dân Mỹ đầu tư để tiêu thụ nội địa. Khi đó mọi thu nhập từ nhà máy này sau khi bán hàng được tính vào GDP của Việt Nam, tuy nhiên lợi nhuận ròng thu được (sau khi khấu trừ thuế phải nộp và trích nộp các quỹ phúc lợi) cũng như lương của các công nhân Mỹ đang làm việc trong nhà máy được tính là một bộ phận trong GNP của Mỹ. So sánh xuyên quốc gia. GDP của các quốc gia khác nhau có thể so sánh bằng cách chuyển đổi giá trị của chúng (tính theo nội tệ) sang bằng một trong hai phương thức sau: Thứ bậc tương đối của các quốc gia có thể lệch nhau nhiều giữa hai xu hướng tiếp cận kể trên. Phương pháp tính theo "sự ngang giá của sức mua" tính toán hiệu quả tương đối của sức mua nội địa đối với những nhà sản xuất hay tiêu thụ trung bình trong nền kinh tế. Nó có thể sử dụng để làm chỉ số của mức sống đối với những nước chậm phát triển là tốt nhất vì nó bù lại những điểm yếu của đồng nội tệ trên thị trường thế giới. Phương pháp tính theo "tỷ giá hối đoái hiện tại" chuyển đổi giá trị của hàng hóa và dịch vụ theo các tỷ giá hối đoái quốc tế. Nó là chỉ thị tốt hơn của sức mua quốc tế của đất nước và sức mạnh kinh tế tương đối. Các vấn đề. Mặc dù GDP được sử dụng rộng rãi trong kinh tế, giá trị của nó như là một chỉ số vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi. Sự phê phán sử dụng GDP bao hàm các điểm sau: Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng việc tìm một chỉ số khác thay thế GDP cũng rất khó khăn. Một sự thay thế được biết đến là Chỉ số tiến bộ thực sự (GPI) được cổ động bởi Đảng Xanh của Canada. GPI đánh giá chính xác như thế nào thì chưa chắc chắn; một công thức được đưa ra để tính nó là của Redefining Progress, một nhóm nghiên cứu chính sách ở San Francisco. Dữ liệu. Danh sách đầy đủ các quốc gia theo GDP: Purchasing Power Parity Method và Current Exchange Rate Method
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Electron hay điện tử, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ nhất trong họ các hạt lepton, và nói chung được coi là những hạt cơ bản bởi vì chúng không có các thành phần nhỏ hay cấu trúc con. Electron có khối lượng xấp xỉ bằng 1/1836 so với của proton. Các tính chất cơ học lượng tử của electron bao gồm giá trị mômen động lượng (spin) bằng một nửa đơn vị, biểu diễn theo đơn vị của hằng số Planck thu gọn, "ħ". Vì là một fermion, trong hệ cô lập không có hai electron nào có thể ở cùng một trạng thái lượng tử, như nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli. Giống như tất cả các hạt cơ bản khác, electron thể hiện cả các tính chất của sóng và hạt: chúng có thể va chạm với các hạt khác và bị nhiễu xạ như ánh sáng. Các tính chất sóng của electron dễ dàng được quan sát thấy ở các thí nghiệm hơn so với những hạt khác ví dụ như neutron và proton bởi vì electron có khối lượng nhỏ hơn và do vậy có bước sóng de Broglie dài hơn ở cùng một mức năng lượng. Electron có vai trò cơ bản ở nhiều hiện tượng vật lý, như điện, từ học, hóa học và độ dẫn nhiệt. Ngoài ra nó cũng tham gia vào tương tác hấp dẫn, điện từ và yếu. Vì một electron mang điện tích, bao xung quanh nó là điện trường, và nếu electron chuyển động tương đối với một người quan sát, nó sẽ cảm ứng một từ trường. Trường điện từ tạo ra bởi những nguồn khác sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của hạt electron tuân theo định luật lực Lorentz. Electron phát ra hay hấp thụ năng lượng dưới dạng các photon khi chúng chuyển động gia tốc. Các thiết bị ở phòng thí nghiệm có khả năng bẫy từng electron đơn lẻ cũng như các electron plasma bằng sử dụng điện từ trường. Những kính thiên văn đặc biệt có thể phát hiện electron plasma trong không gian vũ trụ. Electron tham dự vào nhiều ứng dụng thực tiễn như điện tử học, hàn tia điện tử, ống tia âm cực, kính hiển vi điện tử, trị liệu bức xạ, laser electron tự do, máy dò khí ion hóa và máy gia tốc hạt. Các tương tác có sự tham gia của những electron với các hạt khác là một trong những chủ đề nghiên cứu của hóa học và vật lý hạt nhân. Tương tác lực Coulomb giữa các proton mang điện dương bên trong hạt nhân nguyên tử và các electron mang điện âm ở orbital cấu thành lên nguyên tử. Sự ion hóa hay sự chênh lệch giữa số electron mang điện âm và hạt nhân mang điện dương làm thay đổi năng lượng liên kết của một hệ nguyên tử. Sự trao đổi hay chia sẻ các electron giữa hai hay nhiều nguyên tử là nguyên nhân chủ yếu tạo ra liên kết hóa học. Năm 1838, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming lần đầu tiên đã đặt ra khái niệm về một đại lượng điện tích không thể chia nhỏ hơn nhằm giải thích các tính chất hóa học của các nguyên tử. Nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney sau đó đặt tên đại lượng điện tích này là 'electron' vào năm 1891, và sau đó J. J. Thomson cùng các cộng sự người Anh cuối cùng đã phát hiện ra electron có biểu hiện của một hạt cơ bản vào năm 1897. Electron cũng tham gia vào các phản ứng hạt nhân, như quá trình tổng hợp lên các hạt nhân nặng hơn trong các sao, mà chúng thường được gọi là các hạt beta. Electron cũng có thể được tạo ra trong phân rã beta từ các đồng vị phóng xạ và trong các va chạm năng lượng cao, như ở sự kiện các tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển. Phản hạt của electron được gọi là positron; nó có tính chất đồng nhất với electron ngoại trừ các tích như điện tích mang dấu ngược lại. Khi một electron va chạm với một positron, cả hai hạt bị hủy, tạo ra hai photon tia gamma năng lượng cao. Lịch sử. Khám phá ra hiệu ứng của lực điện. Người Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy rằng khi dùng bộ lông thú chà xát vào hổ phách thì nó có khả năng hút được những vật nhỏ. Cùng với sét, đây là một trong những hiện tượng về điện được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử loài người. Trong luận thuyết "De Magnete" viết năm 1600, nhà khoa học người Anh William Gilbert đưa ra thuật ngữ trong tiếng Latin mới là , để kể đến những chất có tính chất tương tự như hổ phách với khả năng có thể hút được những vật nhỏ khi chà xát với lông thú. Cả hai thuật ngữ "electric" và "electricity" đều có nguồn gốc từ tiếng Latin ' (cũng là từ nguyên của hợp kim có cùng tên); ' có từ nguyên bắt nguồn từ chữ hổ phách trong tiếng Hy Lạp, (""). Khám phá hai loại điện tích. Đầu những năm 1700, nhà hóa học người Pháp Charles François du Fay phát hiện thấy nếu một lá vàng tích điện bị đẩy bởi một que thủy tinh khi chà nó với lụa, thì cùng lá vàng tích điện này lại bị hút bởi hổ phách khi chà vào bông sợi. Từ quan sát này cùng những kết quả thí nghiệm tương tự, du Fay kết luận rằng điện phải chứa hai loại chất lỏng mang điện, chất lỏng "vitreous" từ đũa thủy tinh khi chà xát vào lụa và chất lỏng "resinous" từ hổ phách khi chà vào bông sợi. Hai chất lỏng này có thể trung hòa lẫn nhau khi được kết hợp lại. Nhà khoa học người Mỹ Ebenezer Kinnersley sau đó cũng độc lập đi đến kết luận tương tự của du Fay. Một thập kỷ sau, Benjamin Franklin đề xuất rằng điện không cấu tạo từ những loại chất lỏng điện khác nhau, mà là một chất lỏng điện có biểu hiện dư thừa (+) hay thiếu hụt (−) điện tích. Ông đưa ra thuật ngữ hiện đại tương ứng với chúng là điện tích dương và điện tích âm. Franklin từng nghĩ về chất mang điện sẽ có điện tích dương, nhưng ông đã không miêu tả đúng tình huống khi nào chất sẽ dư thừa điện tích, và khi nào bị thiếu hụt điện tích. Giữa các năm 1838 và 1851, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming phát triển ý tưởng cho rằng một nguyên tử là tổ hợp bao gồm một lõi vật chất được bao quanh bởi những hạt nhỏ hơn nguyên tử mà có điện tích bằng số lần điện tích đơn vị. Đầu năm 1846, nhà vật lý người Đức William Weber đưa ra lý thuyết miêu tả điện là chất tổng hợp bởi các chất lỏng tích điện dương và âm, và tương tác giữa chúng bị chi phối bởi luật nghịch đảo bình phương. Sau khi nghiên cứu hiện tượng điện phân vào năm 1874, nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney gợi ý có tồn tại một "đại lượng xác định duy nhất cho điện", điện tích của một ion hóa trị một. Ông đã có thể ước lượng giá trị của điện tích cơ bản "e" này bằng cách áp dụng định luật điện phân Faraday. Tuy nhiên, Stoney lại tin rằng những điện tích này lại gắn chặt vĩnh cửu vào nguyên tử và không thể bị tách rời. Năm 1881, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz cho rằng cả điện tích dương và điện tích âm có thể chia ra thành những thành phần cơ bản, mỗi một chúng "hành xử như những nguyên tử của điện". Stoney ban đầu đưa ra thuật ngữ "electrolion" vào năm 1881. Mười năm sau, ông chuyển sang sử dụng "electron" để miêu tả những điện tích cơ bản này, khi ông viết vào năm 1894: "... một ước lượng được thực hiện để tính toán số lượng thực tế của đơn vị điện cơ bản điển hình nhất này, mà tôi đã từng dám gợi ý đặt tên là "electron"". Đã có một đề xuất vào năm 1906 nhằm đổi sang tên gọi "electrion" nhưng đã thất bại bởi vì Hendrik Lorentz vẫn thích tên gọi "electron" hơn. Từ "electron" là tổ hợp của các từ "electric" và "ion". Hậu tố -"on" mà hiện nay được sử dụng để đặt tên cho các hạt cơ bản khác, như proton hoặc neutron, có nguồn gốc bắt nguồn từ cách đặt tên cho electron. Khám phá ra các electron tự do bên ngoài vật chất. Khi nghiên cứu hiện tượng dẫn điện trong khí loãng vào năm 1859, nhà vật lý người Đức Julius Plücker quan sát thấy ánh sáng lân quang, vốn được tạo thành bởi bức xạ phát ra từ cathode, xuất hiện tại thành ống gần cathode, và vùng ánh sáng lân quang đó có thể di chuyển bằng việc ứng dụng từ trường. Năm 1869, Johann Wilhelm Hittorf, một học trò của Plücker, phát hiện rằng một vật rắn đặt giữa cathode và vùng lân quang tạo ra một vùng tối trên vùng lân quang của ống. Hittorf kết luận rằng có những tia truyền thẳng phát ra từ cathode và vùng lân quang đó được tạo ra bởi các tia chiếu qua thành ống. Năm 1876, nhà vật lý người Đức Eugen Goldstein chỉ ra rằng các tia này được phát ra theo phương vuông góc với mặt cathode, mặt phân cách giữa các tia phát ra từ cathode và ánh sáng sợi đốt. Goldstein đặt tên cho những tia này là tia âm cực. Công cuộc nghiên cứu về tia âm cực kéo dài hàng thập kỷ cả về lý thuyết và thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình khám phá ra electron của J. J. Thomson. Trong thập niên 1870, nhà hóa lý người Anh Sir William Crookes đã phát triển ống tia âm cực đầu tiên với môi trường chân không cao bên trong. Sau đó ông chứng tỏ rằng các tia phát quang xuất hiện bên trong ống có mang năng lượng và chuyển động từ phía cathode sang anode. Hơn nữa, khi đặt vào một từ trường, ông đã làm lệch đường đi của chùm tia, do đó chứng tỏ thêm chùm tia hành xử như nó chứa điện tích âm. Năm 1879, ông đề xuất rằng những tính chất này có thể được giải thích bằng cách coi rằng các tia âm cực bao gồm các phân tử khí mang điện tích âm trong trạng thái thứ tư của vật chất mà trong đó quãng đường tự do của các phân tử lớn đến mức có thể bỏ qua va chạm. Nhà vật lý người Anh sinh ở Đức Arthur Schuster tiến hành mở rộng các thí nghiệm của Crookes khi đặt những tấm kim loại song song với chùm tia cathode và áp dụng vào một điện thế giữa các tấm này. Điện trường đã làm lệch chùm tia về phía tấm kim loại tích điện dương, chứng cứ đã củng cố thêm cho kết luận chùm tia mang điện tích âm. Bằng cách đo độ lệch của chùm tia tương ứng với từng lần điều chỉnh dòng điện giữa hai tấm kim loại, năm 1890 Schuster đã ước lượng được tỷ số khối lượng−điện tích của các thành phần trong chùm tia. Tuy vậy, giá trị ông thu được lớn hơn 1000 lần so với giá trị được dự đoán, do đó ít người đã để ý đến kết quả tính toán của ông vào thời điểm đó. Năm 1892, Hendrik Lorentz gợi ý rằng khối lượng của những hạt này (electron) có thể là hệ quả của lượng điện tích mà chúng mang theo. Khi đang nghiên cứu các khoáng chất huỳnh quang tự nhiên vào năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá thấy chúng phát ra các bức xạ mà không cần phải chiếu thêm một nguồn năng lượng từ bên ngoài. Những vật liệu phóng xạ này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học, bao gồm nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, ông đã phát hiện vật liệu phóng xạ có phát ra các hạt. Ông gọi những hạt này là các hạt alpha và hạt beta, dựa trên khả năng đâm xuyên của chúng qua vật chất. Năm 1900, Becquerel đã chứng tỏ chùm tia beta phát ra từ hạt nhân radium có thể bị làm lệch hướng trong một điện trường, và tỷ số khối lượng trên điện tích của chúng bằng với tỷ số này của chùm tia cathode. Chứng cứ này đã củng cố thêm quan điểm cho rằng electron tồn tại như là một trong các thành phần của nguyên tử. Năm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson, cùng với các đồng nghiệp John S. Townsend và H. A. Wilson, đã thực hiện các thí nghiệm chỉ ra chùm tia cathode thực sự chứa các hạt, hơn là một loại sóng, những hạt nguyên tử hoặc phân tử như nhiều nhà khoa học từng tin như vậy trước đó. Thomson đã có kết quả ước lượng khá tốt về điện tích "e" và khối lượng "m" của hạt tia cathode, mà ông gọi là "corpuscles", nó có khối lượng bằng một phần nghìn khối lượng của ion nhẹ nhất: ion hydro. Ông cũng đã chứng minh tỷ số điện tích−khối lượng, "e"/"m", có giá trị độc lập với vật liệu của bản cực cathode. Ông tiếp tục chứng tỏ thêm các vật liệu phóng xa, vật liệu nung nóng và vật liệu bị chiếu xạ có phát ra các hạt mang điện tích âm. Tên gọi electron về sau được cộng đồng khoa học chấp nhận sử dụng rộng rãi, chủ yếu do đề xuất của G. F. FitzGerald, J. Larmor và H. A. Lorentz. Điện tích của electron đã được đo một cách chính xác hơn bởi các nhà vật lý Mỹ Robert Millikan và Harvey Fletcher trong thí nghiệm giọt dầu vào năm 1909, và kết quả được công bố vào 1911. Thí nghiệm sử dụng một điện trường để hãm các giọt dầu mang điện tích rơi trong không khí dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Thiết bị của họ có thể đo điện tích của 1–150 ion với sai số là 0,3%. Trước đó nhóm của Thomson cũng thực hiện thí nghiệm tương tự, sử dụng đám mây chứa các giọt nước tích điện tạo ra bởi sự điện phân,và thí nghiệm thực hiện bởi Abram Ioffe năm 1911, ông đã thu được kết quả tương tự một cách độc lập với nhóm Millikan khi sử dụng các vi hạt kim loại tích điện, và kết quả được công bố vào năm 1913. Tuy nhiên, các giọt dầu có tính ổn định hơn giọt nước bởi vì chúng có tốc độ bốc hơi chậm hơn, và do đó phù hợp hơn với thí nghiệm chính xác đòi hỏi thực hiện trong thời gian dài hơn. Vào thời điểm bắt đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng dưới những điều kiện nhất định một hạt tích điện chuyển động nhanh trong buồng bọt có thể gây ra sự ngưng tụ của hơi nước siêu bão hòa trên quỹ đạo chuyển động của hạt. Năm 1911, Charles Wilson đã áp dụng nguyên lý này cho thiết bị buồng mây của mình, cho phép ông có thể chụp ảnh được quỹ đạo của các hạt tích điện, ví dụ như các electron chuyển động nhanh. Lý thuyết nguyên tử. Cho đến năm 1914, các thí nghiệm thực hiện bởi Ernest Rutherford, Henry Moseley, James Franck và Gustav Hertz hầu như đã khẳng định được cấu trúc nguyên tử bao gồm một hạt nhân cô đặc mang điện dương bao xung quanh bởi các electron có khối lượng rất nhỏ. Năm 1913, nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr giả thuyết các electron nằm trong các trạng thái có mức năng lượng bị lượng tử hóa, mức năng lượng của chúng được xác định bởi mômen động lượng của quỹ đạo electron quanh hạt nhân. Các electron có thể chuyển động trên những quỹ đạo này, bằng cách phát ra hay hấp thụ photon với tần số xác định. Với cơ sở là những quỹ đạo bị lượng tử hóa này, Bohr có thể giải thích một cách chính xác các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Tuy nhiên, mô hình của Bohr chưa thể giải thích được cường độ tương đối của các vạch này cũng như mô hình chưa thể giải thích quang phổ của những nguyên tử phức tạp hơn. Liên kết hóa học giữa các nguyên tử được Gilbert Newton Lewis giải thích, khi vào năm 1916 ông đề xuất rằng liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử được duy trì bởi cặp electron chia sẻ giữa chúng. Sau đó, vào năm 1927, Walter Heitler và Fritz London đưa ra lý thuyết giải thích đầy đủ cho sự hình thành cặp electron và liên kết hóa học trong khuôn khổ của cơ học lượng tử. Năm 1919, nhà hóa học người Mỹ Irving Langmuir đưa ra mô hình tĩnh về nguyên tử và gợi ý rằng mọi electron được phân bố tuần tự theo "những vỏ (gần) hình cầu đồng tâm, tất cả đều có độ dày bằng nhau". Tiếp đó, ông chia những vỏ này ra thành một số ô, mà mỗi ô chứa một cặp electron. Với mô hình này, Langmuir có thể giải thích một cách định tính các tính chất hóa học của các nguyên tố trong bảng tuần hoàn, mà nhiều tính chất được lặp lại tuân theo định luật tuần hoàn trong bảng. Năm 1924, nhà vật lý người Áo Wolfgang Pauli nhận xét thấy cấu trúc tựa vỏ của nguyên tử có thể được giải thích bằng một tập hợp chứa bốn tham số xác định lên mỗi trạng thái năng lượng lượng tử, và mỗi trạng thái này không thể chiếm bởi nhiều hơn một electron. Việc không có nhiều hơn một electron chiếm chỗ ở cùng một trạng thái năng lượng lượng tử được phát biểu trong nguyên lý loại trừ Pauli. Cơ chế vật lý để giải thích cho tham số thứ tư, mà nó có hai giá trị phân biệt, được các nhà vật lý người Hà Lan Samuel Goudsmit và George Uhlenbeck đề xuất. Năm 1925, họ cho rằng một electron, cùng với mômen động lượng của quỹ đạo, còn sở hữu thêm mômen góc động lượng nội tại và mômen lưỡng cực từ. Điều này tương tự như sự tự quay của Trái Đất cũng như nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Mômen góc động lượng nội tại này được gọi là spin, và đưa ra cách giải thích cho sự tách vạch bí ẩn như được quan sát thấy ở các vạch quang phổ bằng phổ kế có độ phân giải cao; hiện tượng này được biết đến như là sự tách cấu trúc tinh tế. Cơ học lượng tử. Trong luận án "" (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử) viết năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie giả thuyết rằng mọi vật chất có thể được biểu diễn bằng sóng de Broglie tương tự như sóng ánh sáng. Điều đó có nghĩa là dưới những điều kiện phù hợp, các electron và những hạt vật chất khác sẽ thể hiện những tính chất của sóng hoặc của hạt. Lý thuyết hạt ánh sáng được chứng tỏ khi nó thể hiện có vị trí định xứ trong không gian dọc theo quỹ đạo chùm sáng ở bất kỳ thời điểm nào. Bản chất sóng ánh sáng được hiện, ví dụ, khi một chùm sáng chiếu qua những khe hẹp song song nó sẽ tạo thành những vân giao thoa. Năm 1927 George Paget Thomson khám phá ra hiệu ứng giao thoa xuất hiện khi cho một chùm electron truyền qua những lá kim loại mỏng và kiểu thí nghiệm tương tự được các nhà vật lý người Mỹ Clinton Davisson và Lester Germer thực hiện khi cho chùm electron phản xạ từ tinh thể nikel và quan sát thấy hiệu ứng giao thoa. Các hiệu ứng này còn được gọi là hiện tượng nhiễu xạ electron. Dự đoán của de Broglie về bản chất sóng của electron đưa Erwin Schrödinger thiết lập lên phương trình sóng miêu tả electron chuyển động dưới ảnh hưởng của hạt nhân trong nguyên tử. Năm 1926, với phương trình của mình, phương trình Schrödinger, ông đã miêu tả thành công sóng electron trong hệ nguyên tử. Hơn là chỉ việc tìm ra nghiệm xác định vị trí của một electron theo thời gian, phương trình sóng này cũng được áp dụng để dự đoán xác suất tìm thấy electron quanh vị trí cụ thể, đặc biệt vị trí gần nơi electron bị chặn trong không gian, mà tại đây phương trình sóng electron không thay đổi theo thời gian. Cách tiếp cận này đã đem đến một lý thuyết miêu tả cơ học lượng tử thứ hai (lý thuyết đầu tiên miêu tả bằng cơ học ma trận do Heisenberg phát triển năm 1925), và nghiệm của phương trình Schrödinger, giống như của Heisenberg, cho phép dẫn ra các trạng thái năng lượng của một electron trong nguyên tử hydro mà tương đương với các kết quả thu được bởi Bohr vào năm 1913, và miêu tả chính xác quang phổ nguyên tử hydro. Khi kể đến spin và tương tác giữa nhiều electron, cơ học lượng tử đưa ra những dự đoán chính xác về cấu hình electron trong những hệ nguyên tử phức tạp hơn hydro. Năm 1928, dựa trên các nghiên cứu của Wolfgang Pauli, Paul Dirac thiết lập nên một mô hình về electron – phương trình Dirac, nhất quán với thuyết tương đối hẹp, bằng cách áp dụng các điều kiện đối xứng và tương đối tính trong hình thức luận hamiltonian của cơ học lượng tử cho trường điện từ. Để có thể giải một số vấn đề trong phương trình tương đối tính của mình, năm 1930 Dirac nêu ra một mô hình chân không như là một biển chứa vô hạn các hạt có năng lượng âm, sau này gọi là biển Dirac. Mô hình này đã đưa ông đi đến dự đoán tồn tại positron, một hạt phản vật chất của electron. Hạt này sau đó được phát hiện vào năm 1932 bởi Carl Anderson, và ông đề xuất gọi các electron thường gặp là "negatron" và sử dụng thuật ngữ "electron" nhằm miêu tả những biến thể mang điện tích dương hoặc âm. Năm 1947 Willis Lamb, khi đang thực hiện nghiên cứu cùng với sinh viên Robert Retherford, đã tìm thấy có những trạng thái lượng tử riêng biệt của hydro, đáng ra phải có cùng mức năng lượng, lại được dịch chuyển tương đối với nhau; sự sai lệch này sau đó được gọi là dịch chuyển Lamb. Trong cùng thời gian, Polykarp Kusch, cùng với Henry M. Foley, đã khám phá bằng thí nghiệm mômen từ của electron có giá trị hơi lớn hơn so với dự đoán của lý thuyết Dirac. Giá trị chênh lệch nhỏ này sau đó được gọi là mômen lưỡng cực từ dị thường của electron. Sự chênh lệch này sau đó được giải thích trong lý thuyết điện động lực học lượng tử, phát triển bởi các nhà vật lý Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và Richard Feynman vào cuối thập niên 1940. Máy gia tốc hạt. Với sự phát triển của các loại máy gia tốc hạt trong nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn vào các tính chất của các hạt hạ nguyên tử. Thành công đầu tiên trong nỗ lực gia tốc electron sử dụng cảm ứng điện từ được thực hiện vào năm 1942 bởi Donald Kerst. Máy betatron ban đầu của ông đạt đến mức năng lượng 2,3 MeV, và những máy betatron về sau đạt đến mức 300 MeV. Năm 1947, bức xạ đồng bộ (synchrotron radiation) được phát hiện tại máy gia tốc synchrotron, đưa electron đạt mức năng lượng 70 MeV, tại cơ sở nghiên cứu của General Electric. Bức xạ này là do các electron chuyển động gia tốc đi qua một từ trường ở vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng. Máy gia tốc va chạm hạt ADONE là máy đầu tiên đạt mức năng lượng của chùm tia cỡ 1,5 GeV, bắt đầu hoạt động vào năm 1968. Trong thiết bị này, các hạt electron và positron được gia tốc theo hai hướng ngược chiều nhau, như vậy gần như làm tăng gấp đôi năng lượng va chạm so với máy gia tốc chùm tia electron bắn vào một bia cố định. Máy va chạm lớn Electron–Positron (Large Electron–Positron Collider; LEP) ở CERN, hoạt động từ 1989 đến 2000, đạt tới mức năng lượng va chạm 209 GeV và có những đo lường quan trọng cho Mô hình Chuẩn của vật lý hạt. Giam giữ từng electron. Hiện nay từng electron đơn lẻ có thể dễ dàng bị giam hãm trong những transistor CMOS siêu nhỏ (, ) hoạt động ở ngưỡng nhiệt độ lạnh sâu từ −269 °C (4 K) cho đến khoảng −258 °C (15 K). Hàm sóng electron lan truyền trong một dàn chất bán dẫn và khi bỏ qua tương tác của nó với các electron trong dải hóa trị, thì có thể coi như là hàm của electron đơn lẻ, bằng cách thay thế khối lượng của nó bằng tenxơ khối lượng hiệu dụng. Các đặc tính. Phân loại. Trong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt, electron thuộc về nhóm các hạt hạ nguyên tử gọi là lepton, mà được cho là những hạt cơ bản. Electron có khối lượng nhỏ nhất trong nhóm lepton (cũng như trong nhóm các hạt mang điện) và thuộc về thế hệ thứ nhất của hạt cơ bản. Thế hệ thứ hai và thứ ba bao gồm các lepton mang điện, hạt muon và tau, chúng có giá trị điện tích, spin và tham gia tương tác giống với của electron, nhưng có khối lượng lớn hơn. Lepton khác so với những thành phần cơ bản khác của vật chất, hạt quark, khi lepton không tham gia vào tương tác mạnh. Tất cả các thành viên trong nhóm lepton đều là fermion, bởi vì chúng đều có spin bán nguyên; electron có spin . Các tính chất cơ bản. Khối lượng bất biến (khối lượng nghỉ) của electron xấp xỉ bằng  kilogram, hay  đơn vị khối lượng nguyên tử. Trên cơ sở của nguyên lý sự tương đương khối lượng−năng lượng của Einstein, khối lượng này tương ứng với mức năng lượng nghỉ 0,511 MeV. Tỷ số giữa khối lượng của một proton so với của electron bằng khoảng 1836. Các đo đạc thiên văn cho thấy tỷ số khối lượng proton trên khối lượng electron vẫn giữ nguyên không đổi, như được dự đoán bởi Mô hình Chuẩn, trong thời gian ít nhất bằng một nửa tuổi của vũ trụ. Electron có điện tích bằng coulomb, một giá trị đã được sử dụng làm đơn vị điện tích chuẩn cho các hạt hạ nguyên tử, và cũng được gọi là điện tích cơ bản. Trong khoảng giới hạn sai số thí nghiệm, giá trị điện tích của electron bằng giá trị của proton nhưng mang dấu ngược lại. Vì ký hiệu "e" được sử dụng cho điện tích cơ bản, electron thường được ký hiệu là , với dấu trừ thể hiện cho điện tích âm. Positron được ký hiệu bởi vì nó có cùng các tính chất với electron nhưng mang điện tích dương. Electron có mômen động lượng nội tại hay spin . Do tính chất này mà electron thường được coi các hạt có spin-. Những hạt như vậy có độ lớn spin bằng  "ħ", trong khi kết quả đo từ hình chiếu của spin lên một trục bất kỳ chỉ có thể bằng ±. Ngoài spin, electron còn có mômen từ hướng dọc theo trục spin của nó. Giá trị mômen từ electron xấp xỉ bằng một Bohr magneton,=\frac{e\hbar}{2m_{\mathrm{e}}}.</math>|group=gc}} là hằng số vật lý bằng joule trên tesla. Hướng của spin so với hướng của mômen động lượng electron xác định lên tính chất của các hạt cơ bản được biết đến là tính xoắn ("helicity"). Electron không có cấu trúc con đã biết, nên nó thường được coi là một hạt điểm, hay cụ thể là một điện tích điểm không có không gian trong. Quan sát electron đơn lẻ trong bẫy Penning gợi ý rằng giới hạn trên của bán kính của nó bằng 10−22 mét. Giá trị giới hạn trên của bán kính electron bằng 10−18 mét có thể dẫn ra từ nguyên lý bất định kết hợp với năng lượng. Ngoài ra, còn có một hằng số vật lý gọi là "bán kính electron cổ điển", với giá trị là , lớn hơn rất nhiều bán kính của proton. Tuy nhiên, giá trị này được tìm từ những phép tính đơn giản mà bỏ qua các hiệu ứng của cơ học lượng tử; trong thực tế, giá trị bán kính electron cổ điển không có nhiều ý nghĩa khi đề cập đến cấu trúc cơ bản bên trong của electron. Có những hạt cơ bản khác tự động phân rã thành những hạt khối lượng nhẹ hơn. Ví dụ cho muon, nó có thời gian sống trung bình  giây, và phân rã thành một electron, một neutrino muon và một phản neutrino electron. Hạt electron, mặt khác, theo lý thuyết được cho là hạt bền: electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất với điện tích khác 0, do đó sự phân rã của nó sẽ vi phạm định luật bảo toàn điện tích. Thực nghiệm xác định giới hạn dưới của thời gian sống của electron là năm, ở mức 90% độ tin cậy. Các tính chất lượng tử. Như mọi hạt khác, các electron có hành xử như những sóng. Đặc điểm này được gọi là lưỡng tính sóng–hạt và được chứng minh bằng thí nghiệm giao thoa hai khe. Bản chất sóng của electron cho phép nó đi qua hai khe song song một cách đồng thời, hơn là chỉ một khe ở một thời điểm như đối với trường hợp của hạt. Trong cơ học lượng tử, tính chất sóng của một hạt được miêu tả bằng toán học dưới dạng hàm giá trị phức, hay hàm sóng, thường được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp psi ("ψ"). Khi tính bình phương giá trị tuyệt đối của hàm này, sẽ cho xác suất quan sát được một hạt ở một vị trí cho trước—hay chính là mật độ xác suất. Electron là những hạt đồng nhất bởi vì không thể phân biệt được chúng dựa trên những tính chất vật lý nội tại của hạt. Trong cơ học lượng tử, điều này có nghĩa là một cặp electron tương tác có thể đổi chỗ cho nhau mà không làm thay đổi trạng thái quan sát được của hệ. Hàm sóng của các fermion, bao gồm electron, là hàm phản xứng, có nghĩa rằng nó thay đổi dấu khi hai electron trao đổi vị trí cho nhau; hay, , với các biến "r"1 và "r"2 tương ứng với electron thứ nhất và thứ hai. Vì giá trị tuyệt đối không thay đổi khi hai hạt đổi chỗ cho nhau, điều này tương ứng với xác suất của hai sự kiện là bằng nhau. Ngược lại, hạt boson, như photon, lại có hàm sóng đối xứng. Trong trường hợp phản xứng, các nghiệm của phương trình sóng cho các electron tương tác sẽ cho xác suất bằng 0 đối với mỗi cặp chiếm cùng một vị trí hoặc trạng thái. Kết quả này tương ứng với nguyên lý loại trừ Pauli, phát biểu rằng không thể có hai electron chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Nguyên lý này giải thích cho nhiều tính chất của các electron hóa học. Ví dụ, nó làm cho nhóm các electron liên kết chiếm những orbital khác nhau trong một nguyên tử, hơn là đan xen lẫn nhau trong cùng một orbital. Hạt ảo. Trong một bức tranh đơn giản, mỗi photon đôi lúc được coi như là tổ hợp của một hạt electron ảo với phản hạt ảo của nó, positron ảo, mà chúng nhanh chóng hủy lẫn nhau khi vừa mới sinh ra trong một thời gian rất ngắn. Sự kết hợp của biến thiên năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt này, và khoảng thời gian trong đó chúng tồn tại, phải nằm trong ngưỡng chấp nhận được tuân theo nguyên lý bất định Heisenberg, Δ"E" · Δ"t" ≥ "ħ". Để thỏa mãn nguyên lý này, năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt ảo này, Δ"E", có thể được "mượn" từ chân không trong một khoảng thời gian, Δ"t", sao cho tích của chúng không được lớn hơn hằng số Planck thu gọn, . Do vậy, đối với một electron ảo, Δ"t" lớn nhất bằng . (nghĩa là nếu cặp electron ảo−positron ảo mượn năng lượng Δ"E" từ chân không lượng tử thì phải trả lại năng lượng này cho chân không sau tối đa một khoảng thời gian Δ"t" sao cho Δ"E" · Δ"t" ≤ "ħ") Khi một cặp electron–positron ảo đang tồn tại, lực tĩnh điện Coulomb từ điện trường tức thời xung quanh hạt electron sẽ làm hút hạt positron về phía electron gốc ban đầu, trong khi electron được sinh ra chịu một lực đẩy. Hiệu ứng này chính là sự phân cực chân không. Về mặt hiệu ứng, chân không hành xử như một môi trường có dielectric permittivity lớn hơn 1 đơn vị. Do vậy điện tích hữu hiệu của một electron thực sự nhỏ hơn giá trị thực của nó, và điện tích giảm dần khi khoảng cách tăng dần tính từ electron. Sự phân cực này đã được xác nhận bằng thực nghiệm vào năm 1997 tại máy gia tốc hạt TRISTAN ở Nhật Bản. Các hạt ảo cũng tạo ra hiệu ứng lá chắn đáng kể cho khối lượng của electron. Tương tác với các hạt ảo cũng giải thích sự sai lệch nhỏ (khoảng 0,1%) về giá trị của mômen từ nội tại của electron so với magneton Bohr (sai lệch này được gọi là mômen từ dị thường của electron). Sự khớp chính xác tuyệt vời giữa giá trị tính toán trên lý thuyết và giá trị đo được bằng thực nghiệm của mômen từ dị thường electron được coi là một trong những thành tựu quan trọng nhất của điện động lực học lượng tử. Nghịch lý trong vật lý cổ điển về hạt điểm electron lại có mômen góc spin và mômen từ nội tại có thể được giải quyết bởi sự hình thành của các cặp hạt photon ảo trong điện trường sinh bởi electron. Các photon ảo này (đến lượt lại sinh ra các cặp electron−positron ảo khác) làm cho electron luôn dịch chuyển xung quanh vị trí của nó (còn gọi là zitterbewegung), mà tổng hợp lại thành một chuyển động tròn với hiệu ứng tiến động. Chuyển động này tạo ra cả spin và mômen từ của electron. Trong nguyên tử, sự sinh các cặp hạt photon ảo giúp giải thích hiệu ứng dịch chuyển Lamb như đã quan sát thấy ở các vạch quang phổ. Tương tác. Electron sinh ra từ trường tạo ra lực hút lên hạt mang điện dương, như proton, và lực đẩy lên hạt mang điện âm. Cường độ của lực này trong điện động lực học cổ điện được xác định bằng định luật nghịch đảo bình phương Coulomb. Khi một electron đang trong chuyển động, nó tạo ra một từ trường bao quanh. Định luật Ampère-Maxwell cho biết mối liên hệ giữa từ trường và chuyển động của dòng các electron (dòng điện) tương ứng với người quan sát. Tính chất cảm ứng này cung cấp một từ trường dẫn động làm quay động cơ điện. Trường điện từ của một hạt mang điện bất kỳ đang trong chuyển động được miêu tả bằng thế Liénard–Wiechert, thế này đúng cho cả trường hợp hạt chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (hay vận tốc tương đối tính). Khi một electron chuyển động trong từ trường, nó chịu tác dụng của lực Lorentz tác động theo phương vuông góc với mặt phẳng xác định bởi vectơ từ trường và vectơ vận tốc của electron. Lực hướng tâm làm cho electron chuyển động trên một quỹ đạo xoắn ốc trong từ trường với bán kính Larmor. Sự gia tốc từ chuyển động theo đường cong ghềnh này làm cảm ứng electron phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ đồng bộ. Năng lượng bức xạ này làm hãm electron, hay còn gọi là lực Abraham–Lorentz–Dirac, tạo ra ma sát làm chậm chuyển động của electron. Lực này cũng gây ra tác động ngược (back-reaction) lên điện từ trường của chính electron. Trong điện động lực học lượng tử photon là hạt truyền tải tương tác điện từ giữa các hạt. Một electron đơn lẻ chuyển động với vận tốc đều không thể phát ra hay hấp thụ một photon thực; do sẽ vi phạm định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Mặt khác, các photon ảo có thể truyền động lượng giữa hai hạt mang điện tích. Sự trao đổi này của các photon ảo, ví dụ, làm tạo ra lực Coulomb. Bức xạ năng lượng xuất hiện khi một electron chuyển động bị làm lệch quỹ đạo gây bởi điện trường của một hạt mang điện khác, như proton. Sự gia tốc của electron làm phát ra bức xạ Bremsstrahlung. Một photon (ánh sáng) va chạm phi đàn hồi với một electron (tự do) được gọi là tán xạ Compton. Kết quả của va chạm này là động lượng và năng lượng được truyền qua giữa các hạt, làm thay đổi bước sóng của photon bằng một lượng được gọi là dịch chuyển Compton. Độ dịch chuyển lớn nhất của bước sóng bằng "h"/"m"e"c", hay còn gọi là bước sóng Compton. Đối với một electron, nó có giá trị bằng . Khi bước sóng của ánh sáng là dài (ví dụ bước sóng của ánh sáng khả kiến bằng 0,4–0,7 μm) sự dịch chuyển bước sóng có thể bỏ qua được. Trong trường hợp này, tương tác giữa ánh sáng và electron tự do được gọi là tán xạ Thomson hay tán xạ Thomson tuyến tính. Độ mạnh tương đối của tương tác điện từ giữa hai hạt điện tích, chẳng hạn giữa một electron và một proton, được xác định bởi hằng số cấu trúc tế vi. Đây là đại lượng không thứ nguyên hình thành dựa trên tỉ số của hai dạng năng lượng: năng lượng tĩnh điện của lực hút (hoặc đẩy) ở khoảng cách bằng một lần bước sóng Compton, và năng lượng nghỉ của các hạt mang điện tích. Nó có giá trị bằng "α" ≈ , hay xấp xỉ bằng . Khi electron và positron va chạm, chúng hủy lẫn nhau, làm phát ra hai hoặc ba photon tia gamma. Nếu electron và positron có động lượng bỏ qua được, va chạm có thể hình lên nguyên tử positronium trước khi hai hạt hủy lẫn nhau để hình ra các photon có tổng năng lượng 1,022 MeV. Mặt khác, một photon năng lượng cao có thể biến đổi thành cặp electron và positron bởi quá trình sinh cặp (pair production), nhưng chỉ trong sự có mặt của một hạt điện tích gần nó, như một hạt nhân chẳng hạn. Trong lý thuyết tương tác điện yếu, thành phần hàm sóng hướng bên trái (chiral) của electron tạo thành bộ đôi isospin yếu với neutrio electron. Điều này có nghĩa rằng trong tương tác yếu, neutrino electron hành xử như các electron. Mỗi loại hạt của bộ đôi này (doublet) có thể tham gia vào tương tác dòng tích (charged current) bằng cách phát ra hoặc hấp thụ một boson và biến đổi sang thành hạt kia. Điện tích được bảo toàn trong quá trình này bởi vì boson W cũng mang điện tích, làm cho tổng điện tích của quá trình biến đổi là không thay đổi. Các tương tác dòng tích chịu trách nhiệm cho hiện tượng phân rã beta trong một nguyên tử phóng xạ. Cả electron và neutrino electron có thể tham gia vào tương tác dòng trung hòa (neutral current interaction) thông qua sự trao đổi một boson , và chịu trách nhiệm cho tán xạ đàn hồi neutrino−electron. Nguyên tử và phân tử. Một electron có thể "liên kết" với hạt nhân của một nguyên tử bởi lực hút Coulomb. Một hệ có một hoặc nhiều electron liên kết với một hạt nhân được gọi là một nguyên tử. Nếu số electron khác với số điện tích của hạt nhân, nguyên tử đó được gọi là một ion. Hành xử dạng sóng của một electron liên kết được miêu tả bằng một hàm sóng gọi là orbital nguyên tử. Mỗi orbital đặc trưng bởi các số lượng tử như mức năng lượng, mômen động lượng và hình chiếu của mômen góc, và chỉ có các orbital rời rạc tồn tại xung quanh hạt nhân. Theo nguyên lý loại trừ Pauli mỗi orbital có thể chiếm giữ bởi tối đa hai electron, và chúng phải có số lượng tử spin khác nhau. Electron có thể nhảy sang các orbital khác nhau thông qua sự hấp thụ hoặc phát ra photon có năng lượng bằng hiệu giữa hai mức năng lượng đó. Các phương pháp khác làm electron chuyển sang orbital khác bao gồm sự va chạm của nó với hạt khác, như các electron, và nhờ hiệu ứng Auger. Để thoát ra khỏi nguyên tử, năng lượng của electron phải tăng và lớn hơn năng lượng liên kết với nguyên tử. Điều này xảy ra, ví dụ, như ở hiệu ứng quang điện, khi một photon tới va chạm có năng lượng lớn hơn năng lượng ion hóa nguyên tử và bị electron hấp thụ. Mômen góc orbital của electron bị lượng tử hóa. Bởi electron mang điện, nó có một mômen từ orbital tỷ lệ với mômen góc. Tổng mômen từ của một nguyên tử bằng tổng vec tơ của mô men từ spin và mômen từ orbital của tất cả các electron và hạt nhân. Mômen từ của hạt nhân là nhỏ so với của các electron. Mômen từ của các electron chiếm giữ cùng một orbital (còn gọi là cặp electron) triệt tiêu lẫn nhau. Liên kết hóa học giữa các nguyên tử chính là tương tác điện từ giữa chúng, như miêu tả bởi các định luật của cơ học lượng tử. Liên kết mạnh nhất hình thành bởi chia sẻ hoặc cho/nhận các electron giữa các nguyên tử, dẫn đến hình thành lên các phân tử. Bên trong một phân tử, các electron chuyển động dưới ảnh hưởng của một vài hạt nhân, và chiếm giữ các orbital phân tử; giống như chúng chiếm giữ các orbital trong một nguyên tử cô lập. Một yếu tố cơ bản trong các cấu trúc phân tử đó là sự tồn tại các cặp electron. Đây là các electron có spin ngược nhau, cho phép chúng có thể chiếm giữ cùng một orbital phân tử mà không vi phạm nguyên lý loại trừ Pauli (tương tự như ở nguyên tử). Các orbital phân tử khác nhau có phân bố mật độ electron theo không gian khác nhau. Ví dụ, ở các cặp electron liên kết (nghĩa là các cặp thực sự liên kết các nguyên tử với nhau) có thể được tìm thấy với xác suất cực đại nằm ở vùng thể tích tương đối nhỏ giữa các hạt nhân. Ngược lại, ở các cặp electron không liên kết chúng phân bố trong thể tích lớn hơn bao quanh hạt nhân. Dẫn điện. Nếu một vật thể có nhiều hoặc ít hơn lượng electron cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân nguyên tử, thì tổng thể vật đó có mang điện tích. Khi có nhiều hơn electron, vật đó mang điện âm. Khi có ít electron hơn số lượng proton trong hạt nhân nguyên tử, vật mang điện dương. Khi số electron và proton bằng nhau, điện tích của chúng hủy lẫn nhau và vật thể ở trạng thái cân bằng điện (hay trung hòa). Nhờ tác động chà xát có thể làm vật thể vĩ mô mang điện thông qua hiệu ứng điện ma sát (triboelectric effect). Các electron độc lập chuyển động trong chân không được gọi là các electron "tự do". Các electron trong kim loại cũng hành xử như chúng chuyển động tự do. Thực sự thì các hạt được gọi là các electron trong kim loại và những thể rắn khác là những giả-electron—giả hạt, mà có cùng điện tích, spin, và mômen từ như các electron thực thụ nhưng có khối lượng khác với nó. Khi các electron tự do—trong chân không lẫn kim loại—chuyển động, chúng tạo ra một dòng mạng lưới điện tích được gọi là dòng điện, từ đó tạo ra một từ trường. Giống như một dòng điện có thể được sinh ra từ sự thay đổi của một từ trường. Những tương tác và mối quan hệ này được miêu tả bởi phương trình Maxwell. Ở mỗi nhiệt độ nhất định, từng vật liệu có một độ dẫn điện ảnh hưởng đến giá trị của dòng điện khi áp vào một điện thế. Những vật dẫn điện tốt bao gồm kim loại như đồng và vàng, trong khi thủy tinh và Teflon lại dẫn điện kém. Ở bất kỳ vật liệu cách điện nào, các electron vẫn bám vào các nguyên tử và vật liệu có tính chất như là một chất cách điện. Hầu hết các chất bán dẫn có mức độ dẫn điện biến đổi từ phạm vi dẫn điện cực tốt cho đến cách điện hoàn toàn. Mặt khác, các kim loại có cấu trúc dải điện tử chứa các vùng năng lượng được lấp đầy một phần bởi electron. Sự có mặt của những vùng năng lượng này cho phép các electron trong kim loại hành xử như chúng được tự do hoặc gọi là các electron phi định xứ (delocalized electrons). Những electron không liên kết với một nguyên tử nhất định, do vậy khi áp dụng một điện trường, chúng chuyển động tự do như một chất khí (được gọi là khí Fermi) đi qua vật liệu giống như các electron tự do. Bởi vì có sự va chạm giữa các electron với các nguyên tử, vận tốc trôi của các electron trong một vật dẫn có độ lớn cỡ vài milimét trên một giây. Tuy nhiên, trường hợp có sự thay đổi dòng điện từ một điểm trong vật liệu gây ra sự thay đổi dòng điện ở điểm khác trong vật liệu, thì tốc độ lan truyền của hiệu ứng này, điển hình bằng khoảng 75% tốc độ ánh sáng. Điều này xảy ra bởi vì tín hiệu điện lan truyền như một sóng, với vận tốc phụ thuộc vào hằng số điện môi của vật liệu. Đa số kim loại có độ dẫn nhiệt tương đối tốt, chủ yếu bởi vì các electron phi định xứ vận chuyển năng lượng nhiệt tự do giữa các nguyên tử. Tuy nhiên, không giống như sự dẫn điện, sự dẫn nhiệt của một kim loại gần như độc lập với nhiệt độ của vật liệu. Điều này đã được phát biểu bằng định luật Wiedemann–Franz, nói rằng tỉ số độ dẫn nhiệt trên độ dẫn điện tỷ lệ thuận với nhiệt độ của vật liệu. Sự mất trật tự bởi nhiệt trong dàn tinh thể nguyên tử kim loại làm tăng điện trở của vật liệu, tạo ra sự phụ thuộc vào nhiệt độ đối với dòng điện. Khi làm lạnh vật liệu xuống dưới một mức gọi là nhiệt độ tới hạn, vật liệu trải qua sự chuyển pha trong đó nó mất hoàn toàn tính kháng điện (điện trở) đối với dòng điện, hay chính là hiệu ứng siêu dẫn. Trong lý thuyết BCS, các cặp electron được gọi là cặp Cooper trong chuyển động của chúng bắt cặp với nguyên tử gần đấy thông qua những dao động dàn nguyên tử gọi là phonon, do đó cặp Cooper tránh được va chạm với các nguyên tử mà thường tạo ra điện trở. (Các cặp Cooper có bán kính xấp xỉ bằng 100 nm, do đó nếu coi chúng như sóng vật chất thì chúng có thể chồng chập lẫn nhau.) Tuy nhiên, cơ chế cho hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu vẫn chưa có lý thuyết giải thích thỏa đáng. Các electron bên trong vật dẫn, mà chính chúng cũng là những giả hạt, khi đặt trong nhiệt độ rất gần với độ không tuyệt đối, có thể được phân ra thành ba loại giả hạt: spinon, orbiton và holon. Hạt đầu tiên mang spin và mômen từ, hạt tiếp theo mang vị trí orbital của nó trong khi hạt còn lại mang điện tích. Chuyển động và năng lượng. Theo thuyết tương đối hẹp của Einstein, khi tốc độ của một electron tiệm cận tới tốc độ ánh sáng, người quan sát từ một hệ quy chiếu quán tính sẽ đo được khối lượng tương đối tính của hạt tăng lên, do đó khiến cho nó càng khó để có thể gia tốc nó từ bên trong hệ quy chiếu của người quan sát. Tốc độ của một electron có thể tiếp cận đến, nhưng không bao giờ bằng, tốc độ của ánh sáng trong chân không, "c". Tuy nhiên, khi các electron tương đối tính—là những electron chuyển động với tốc độ gần bằng "c"—chuyển động trong môi trường điện môi như nước, nơi vận tốc ánh sáng trong nó nhỏ hơn nhiều so với "c", các electron trong môi trường này có thể chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Khi chúng tương tác va chạm với môi trường, chúng tạo ra một ánh sáng nhạt được gọi là bức xạ Cherenkov. Các hiệu ứng trong thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên một đại lượng gọi là hệ số Lorentz, được xác định bằng formula_1 với "v" là tốc độ của hạt. Động năng "K"e của một electron chuyển động với vận tốc "v" bằng: với "m"e là khối lượng của electron. Ví dụ, ở máy gia tốc thẳng Stanford có thể gia tốc một electron tới động năng gần bằng 51 GeV. Vì một electron hành xử như dạng sóng, ở một vận tốc bất kỳ nó có một bước sóng de Broglie đặc trưng. Bước sóng này được cho bởi "λ"e = "h"/"p" với "h" là hằng số Planck và "p" là động lượng. Đối với electron có động năng 51 GeV ở trên, bước sóng de Broglie bằng , đủ nhỏ để khám phá các cấu trúc có kích thước nhỏ hơn kích cỡ của một hạt nhân nguyên tử. Sự hình thành. Lý thuyết Vụ Nổ Lớn là lý thuyết khoa học được chấp nhận rộng rãi hiện nay miêu tả những giai đoạn ban đầu của sự tiến hóa của Vũ trụ. Ở những miligiây đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ trên 10 tỷ kelvin và các photon có năng lượng trung bình trên một triệu electronvolt. Các photon này có đủ năng lượng mà khi tương tác với nhau có thể dẫn tới sự hình thành cặp electron và positron. Ngược lại, những cặp positron−electron hủy lẫn nhau và phát ra các photon năng lượng cao: Trạng thái cân bằng giữa các electron, positron và photon được duy trì trong suốt giai đoạn này của sự tiến hóa Vũ trụ. Khi 15 giây trôi qua, tuy nhiên, nhiệt độ của Vũ trụ lúc này giảm xuống dưới ngưỡng cho phép hình thành cặp hạt electron−positron. Phần lớn các electron và positron tồn tại hủy lẫn nhau, giải phóng bức xạ gamma làm Vũ trụ nóng lên trong một thời gian ngắn. Vì một lý do nào đó chưa được biết chắc chắn, trong suốt quá trình hủy cặp có sót lại một số lượng hạt nhiều hơn phản hạt vật chất. Cụ thể là có dư ra 1 electron tồn tại trong mỗi 1 tỷ cặp hạt electron−positron. Số lượng dư sót lại này bằng với số lượng proton còn dư từ quá trình hủy cặp hạt tương tự proton và phản proton, trong một điều kiện được gọi là bất đối xứng baryon, điều này mang đến tổng điện tích của toàn bộ Vũ trụ gần như bằng zero. Những proton và neutron còn dư lại bắt đầu tham gia vào các phản ứng với nhau—quá trình gọi là tổng hợp hạt nhân, tạo ra các đồng vị của hydro và heli, và một ít hạt nhân lithi. Các phản ứng này đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian ở sau năm phút. Bất kỳ neutron còn lại nào sẽ trải qua phản ứng phân rã beta âm với nửa thời gian sống bằng khoảng một nghìn giây, giải phóng ra một proton và một electron, Trong khoảng 300.000–400.000 năm tiếp theo, lượng các hạt electron còn lại có năng lượng quá lớn để có thể liên kết vào các hạt nhân nguyên tử. Giai đoạn tiếp theo là sự tái kếp hợp electron vào hạt nhân, khi ấy các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự giãn nở của vũ trụ làm cho vật chất trở lên trong suốt với bức xạ. Gần một triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, thế hệ các ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành. Trong lòng một ngôi sao, dây chuyền phản ứng tổng hợp hạt nhân sao cho ra các sản phẩm trong đó có positron. Những hạt phản vật chất này ngay lập tức hủy với các electron, giải phóng tia gamma. Gộp chung lại số lượng hạt electron bị giảm dần, và tương ứng số lượng hạt neutron tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa sao cũng hình thành các sản phẩm là những đồng vị phóng xạ. Các đồng vị này có thể sau đó trải qua phân rã beta trừ, phát ra một electron và một phản neutrino từ hạt nhân. Một ví dụ là đồng vị cobalt-60 (60Co), mà phân rã thành nickel-60 (60Ni). Cuối chu trình tiến hóa của chúng, một ngôi sao có khối lượng lớn hơn 20 lần khối lượng Mặt Trời đi đến kết cục suy sụp hấp dẫn để tạo thành một lỗ đen. Theo vật lý cổ điển, bên trong những ngôi sao khối lượng lớn này xuất hiện lực hút hấp dẫn đủ mạnh để ngăn bất kỳ thứ gì, kể cả bức xạ điện từ, thoát ra khỏi bán kính Schwarzschild. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử cho phép có khả năng tồn tại bức xạ Hawking ở phạm vi khoảng cách này. Các electron (và positron) được cho là tạo ra ở chân trời sự kiện của những tàn dư sao. Khi một cặp hạt ảo (như gồm một electron và một positron) được tạo ra tại biên giới của chân trời sự kiện, sự phân bố ngẫu nhiên trong vị trí của hạt có thể làm cho một trong hai hạt nằm ở bên trong chân trời sự kiện; mà quá trình này được gọi là sự xuyên hầm lượng tử. Thế năng hấp dẫn của lỗ đen có thể cấp năng lượng để biến một hạt ảo nằm bên ngoài chân trời sự kiện trở thành một hạt thực, cho phép nó bật phóng ra vào không gian. Đổi lại, hạt còn lại của cặp mang năng lượng âm và rơi về vùng kì dị lỗ đen, dẫn đến tổng cộng khối lượng−năng lượng của lỗ đen bị giảm đi. Tốc độ bức xạ Hawking tăng tiến khi khối lượng lỗ đen giảm dần, làm cho lỗ đen bốc hơi và cuối cùng là phát nổ. Tia vũ trụ là những hạt chuyển động trong không gian với năng lượng cao. Các sự kiện năng lượng cao đến cỡ đã được ghi nhận. Khi những hạt này va chạm với các nucleon trong khí quyển Trái Đất, một trận mưa các hạt được tạo ra, bao gồm các pion. Hơn một nửa bức xạ vũ trụ được quan sát trên bề mặt Trái Đất có chứa các muon. Muon là một hạt loại lepton hình thành tại thượng tầng khí quyển sau quá trình phân rã của một pion. Đến lượt muon, nó có thể phân rã thành electron hoặc positron. Quan sát. Quan sát electron từ xa đòi hỏi việc đo được năng lượng bức xạ của chúng. Ví dụ, trong môi trường năng lượng cao như ở vành nhật hoa của một ngôi sao, các electron tự do tạo thành trạng thái plasma phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ Bremsstrahlung. Khí electron có thể biểu hiện dao động plasma, đó là những sóng gây bởi những biến đổi đồng bộ trong mật độ electron, và những sóng này tạo ra phát xạ năng lượng có thể phát hiện được nhờ quan sát qua kính thiên văn vô tuyến. Tần số của một photon tỷ lệ với năng lượng của nó. Khi một electron liên kết trong nguyên tử chuyển trạng thái giữa các mức năng lượng khác nhau, nó hấp thụ hoặc phát ra photon ở những tần số đặc trưng. Ví dụ, khi chiếu nguồn bức xạ phổ liên tục vào các nguyên tử sẽ xuất hiện các vạch phổ hấp thụ đặc trưng trong quang phổ của bức xạ phản xạ. Mỗi nguyên tố hoặc phân tử thể hiện một lớp đặc trưng các vạch quang phổ, như các vạch quang phổ hydro. Những phép đo lường quang phổ về cường độ và bề rộng của các vạch này cho phép xác định được thành phần và tính chất vật lý của một chất cần xác định. Trong điều kiện của phòng thí nghiệm, có thể quan sát tương tác của từng electron đơn lẻ nhờ các máy gia tốc hạt nhân, mà cho phép đo những tính chất cụ thể như năng lượng, spin và điện tích. Nhờ sự phát triển của các kỹ thuật bẫy ion như bẫy Paul và bẫy Penning cho phép giam giữ các hạt mang điện trong một thể tích đủ nhỏ với thời gian dài. Điều này đã cho phép đo lường các tính chất cũng như thao tác lên những hạt này. Ví dụ, bẫy Penning từng được ứng dụng để chứa một electron đơn lẻ trong thời gian 10 tháng. Mômen từ của electron đã được đo với độ chính xác đến 11 chữ số thập phân mà vào năm 1980, độ chính xác này còn lớn hơn độ chính xác đo được của bất kỳ các hằng số vật lý khác. Bộ phim chụp ảnh đầu tiên về sự phân bố năng lượng của electron đã được thực hiện bởi một đội các nhà vật lý tại Đại học Lund ở Thụy Điển vào tháng 2 năm 2008. Họ đã sử dụng một xung nhịp ánh sáng cực ngắn, hay gọi là các xung atto giây, cho phép lần đầu tiên chụp ảnh được chuyển động của một electron. Sự phân bố của các electron trong chất rắn có thể được biểu hiện nhờ kỹ thuật chụp quang phổ bức xạ phân giải góc (angle-resolved photoemission spectroscopy, ARPES). Kỹ thuật này ứng dụng hiệu ứng quang điện để đo hàm phân bố không gian giàn tinh thể—một hàm toán học biểu diễn đặc tính cấu trúc tuần hoàn được áp dụng để suy đoán ra cấu trúc ban đầu của tinh thể. ARPES được ứng dụng để xác định hướng, tốc độ và sự tán xạ của các electron bên trong vật liệu. Các ứng dụng plasma. Chùm hạt. Trong công nghệ và kỹ thuật, các chùm tia electron đã được ứng dụng để thực hiện hàn bằng chùm electron giữa hai loại vật liệu. Chúng cho phép mật độ năng lượng của chùm tia hàn lên tới 107 W·cm−2 được tập trung trong một hình nón tròn đường kính cỡ mà thường không cần đòi hỏi phải có lớp vật liệu đệm thứ 3. Kỹ thuật hàn này phải được thực hiện trong chân không để tránh các electron va chạm với một trường khí xung quanh trước khi chúng đến được vật liệu cần hàn, và nó có thể được sử dụng để nối các loại vật liệu dẫn điện mà những biện pháp hàn khác không phù hợp để áp dụng. Quang khắc chùm điện tử (EBL) là phương pháp tạo các chi tiết bán dẫn ở mức phân giải nhỏ hơn 1 µm. Kỹ thuật này có hạn chế là giá thành cao, tốc độ sản xuất chậm, cần phải vận hành chùm điện tử trong môi trường chân không cao và các electron có xu hướng tán xạ trên bề mặt vật liệu. Độ phân giải tối đa của phương pháp này vào khoảng 10 nm. Vì lý do này, EBL được ứng dụng chủ yếu cho sản xuất một số nhỏ các vi mạch chuyên biệt. Phương pháp xử lý chùm điện tử (electron-beam processing, hoặc electron irradiation EBI) được ứng dụng để làm thay đổi các đặc tính của vật liệu hoặc khử trùng trong y học và thực phẩm bằng cách chiếu chùm điện tử vào sản phẩm. Chùm electron hóa lỏng hoặc làm tan chảy thủy tinh mà không gây tăng nhiều nhiệt độ khi thực hiện chiếu với cường độ cao: ví dụ bức xạ electron mạnh gây ra sự giảm độ nhớt ở nhiều bậc độ lớn và làm giảm từng bước năng lượng hoạt hóa của nó. Các máy gia tốc quỹ đạo thẳng (linear particle accelerator) tạo ra những chùm electron cho chùm sáng dùng để điều trị các khối u trên bề mặt trong trị liệu bức xạ. Trị liệu điện tử (electron therapy) có thể điều trị các thương tổn ở da như ung thư tế bào đáy bởi vì một chùm electron chỉ có thể thâm nhập xuống một độ sâu nhất định trước khi bị hấp thụ, thường là đến 5 cm đối với electron có năng lượng trong phạm vi 5–20 MeV. Một chùm electron có thể được sử dụng phối hợp với chiếu xạ tia X trong điều trị bệnh. Các máy gia tốc hạt sử dụng điện trường để đẩy các electron và phản hạt của chúng lên mức năng lượng cao. Những hạt này phát ra bức xạ đồng bộ khi chúng bay qua từ trường. Cường độ của bức xạ đồng bộ phụ thuộc vào phân cực spin của chùm electron—quá trình được gọi là hiệu ứng Sokolov–Ternov. Các chùm electron phân cực được ứng dụng trong nhiều thí nghiệm khác nhau. Bức xạ synchrotron có thể dùng làm mát chùm electron với mục đích làm giảm sự phân tán động lượng của chùm hạt. Các chùm electron và positron được cho va chạm với nhau trong máy gia tốc khi chúng đạt đến mức năng lượng yêu cầu; các máy dò hạt (particle detector) quan sát năng lượng của bức xạ phát ra, ghi lại những thông tin và tính chất cần nghiên cứu trong vật lý hạt. Chụp ảnh. Nhiễu xạ electron năng lượng thấp (Low-energy electron diffraction, LEED) là một phương pháp bắn vào vật liệu có cấu trúc tinh thể bằng một chùm electron chuẩn trực sau đó quan sát hình ảnh nhiễu xạ giúp xác định lên cấu trúc của vật liệu. Năng lượng đòi hỏi của các electron ở những chùm này trong khoảng 20–200 eV. Kỹ thuật phản xạ nhiễu xạ electron năng lượng cao (reflection high-energy electron diffraction, RHEED) sử dụng sự phản xạ của một chùm electron bắn đến với nhiều góc hẹp khác nhau để nghiên cứu đặc trưng bề mặt của vật liệu có cấu trúc tinh thể. Chùm năng lượng thường nằm trong khoảng 8–20 keV và góc bắn electron thường bằng 1–4°. Kính hiển vi điển tử hoạt động dựa trên nguyên lý tập trung chùm electron vào một mẫu vật. Một số electron sau khi va chạm vào mẫu vật thì bị thay đổi đặc tính, như hướng chuyển động, góc phản xạ và pha tương đối cũng như năng lượng bị giảm đi. Các nhà hiển vi học ghi lại những thay đổi này từ chùm electron để tái tạo ra những bức ảnh về mẫu vật. Trong ánh sáng xanh lam, các kín hiển vi quang học thông thường có giới hạn nhiễu xạ phân giải ở kích thước 200 nm. So sánh với kính hiển vi điện tử, loại này bị giới hạn bởi bước sóng de Broglie của electron. Ví dụ, bước sóng này bằng 0,0037 nm đối với những electron được gia tốc trong điện trường cỡ 100.000 volt. Kính hiển vi truyền điện tử hiệu chỉnh quang sai (Transmission Electron Aberration-Corrected Microscope) có độ phân giải dưới 0,05 nm, đủ để phân biệt được từng nguyên tử. Khả năng này mang lại những lợi thế cho sử dụng kính hiển vi điện tử trong phòng thí nghiệm để chụp các bức ảnh có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử là những thiết bị đắt tiền và tốn nhiều chi phí hoạt động và bảo trì. Có hai loại kính hiển vi điện tử: Loại truyền qua và loại quét bề mặt. Kính hiển vi điện tử truyền qua hoạt động giống như một máy chiếu, với một chùm electron được cho chiếu qua một lát vật liệu sau đó nó được hội tụ trên phim âm bản hoặc cảm biến CCD. Kính hiển vi điện tử quét bề mặt dùng chùm electron quét lên bề mặt mẫu vật, giống như hiển thị trên ti vi màn hình ống, để thu được bức ảnh về nó. Độ phóng đại của hai loại kính này vào cỡ 100× đến 1.000.000. Kính hiển vi quét xuyên hầm sử dụng hiệu ứng chui hầm lượng tử của electron từ mũi nhọn của một đầu dò kim loại để nghiên cứu vật liệu và tạo ra bức ảnh bề mặt vật liệu có độ phân giải cao. Các ứng dụng khác. Trong laser electron tự do (FEL), một chùm electron tương đối tính đi qua dãy các nam châm lưỡng cực (undulator) bị đổi hướng luân phiên do hướng của từ trường tạo bởi dãy các nam châm này. Vì đổi hướng luân phiên như vậy nên các electron phát ra bức xạ synchrotron một cách nhịp nhàng và đều đặn, bức xạ được khuếch đại ở tần số cộng hưởng. FEL có thể phát ra bức xạ điện từ với độ rọi cao trong dải tần số rộng, từ sóng vi ba cho đến tia X mềm. Những thiết bị này được sử dụng trong sản xuất, viễn thông, và trong các ứng dụng y tế, như phẫu thuật các mô mềm. Ống tia âm cực chứa electron, mà đã từng được sử dụng thường xuyên cho các màn hình hiển thị tại nhiều thiết bị thí nghiệm, màn hình máy tính và máy truyền hình. Trong một đèn nhân quang điện, mỗi photon va chạm đến âm cực quang khởi tạo ra một luồng các electron để hình thành một xung dòng điện mà bộ dò phát hiện được. Ống điện tử chân không sử dụng luồng các electron để thao tác lên tín hiệu điện, và chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công nghệ điện tử. Tuy nhiên, ngày nay chúng đã bị thay thế bởi các thiết bị bán dẫn như transistor.
17
17_electron_in_nhit_lng
[ "electron", "in", "nhit", "lng", "neutron", "thuyt", "ht", "einstein", "proton", "quark" ]
[ "Trong vật lý hạt nhân, năng lượng tách là năng lượng cần thiết để loại bỏ một hạt nhân (hoặc một hạt hoặc nhiều hạt được chỉ định khác) khỏi hạt nhân nguyên tử.\nNăng lượng tách khác nhau đối với mỗi hạt nhân và các hạt được loại bỏ. Các giá trị được liệt kê có thể là \"năng lượng tách neutron\", \"năng lượng tách hai neutron\", \"năng lượng tách proton\", \"năng lượng tách deuteron\", \"năng lượng tách alpha\", v.v.\nNăng lượng tách thấp nhất trong số các hạt nhân ổn định là 1,67 MeV, để loại bỏ một neutron ra khỏi beryllium-9.\nNăng lượng có thể được thêm vào hạt nhân bằng cách chiếu vào một tia gamma năng lượng cao. Nếu năng lượng của photon đạt đến mức vượt quá năng lượng tách, sựphân hủy quang có thể xảy ra. Năng lượng vượt quá giá trị ngưỡng trở thành động năng của hạt bị đẩy ra.\nNgược lại, năng lượng liên kết hạt nhân là năng lượng cần thiết để tháo rời hoàn toàn hạt nhân, hoặc năng lượng được giải phóng khi hạt nhân được lắp ráp từ các hạt nhân. Nó là tổng của nhiều năng lượng tách, nên được cộng vào cùng một tổng số bất kể thứ tự lắp ráp hay tháo gỡ.\nVật lý và hóa học.\nNăng lượng tách electron hoặc năng lượng liên kết electron là năng lượng cần thiết để loại bỏ một electron ra khỏi nguyên tử trung tính hoặc phân tử (hoặc cation) được gọi là năng lượng ion hóa. Phản ứng dẫn đến quang hóa, quang dẫn, hiệu ứng quang điện, quang điện, v.v.\nNăng lượng phân ly liên kết là năng lượng cần thiết để phá vỡ một liên kết của phân tử hoặc một ion, thường tách một nguyên tử hoặc nhiều nguyên tử.", "Bắt giữ electron kép là một phương thức phân rã của hạt nhân nguyên tử. Đối với một đồng vị phóng xạ (\"A\", \"Z\") có số hạt nhân \"A\" và số nguyên tử \"Z\", chỉ có thể bắt được electron kép nếu khối lượng của đồng vị phóng xạ của (\"A\", \"Z\"-2) thấp hơn.\nTrong phương thức phân rã này, hai trong số các electron quỹ đạo bị bắt bởi hai proton trong hạt nhân, tạo thành hai neutron. Hai neutrino được phát ra trong quá trình này. Vì các proton được thay đổi thành neutron, số lượng neutron tăng thêm 2, số lượng proton \"Z\" giảm đi 2 và số khối nguyên tử \"A\" không đổi. Bằng cách thay đổi số lượng proton, sự bắt electron kép sẽ biến đổi các hạt nhân thành một nguyên tố mới.\nVí dụ:\nĐộ hiếm.\nTrong hầu hết các trường hợp, phương thức phân rã này sẽ xảy ra ít hơn bởi có nhiều phương thức có thể xảy ra hơn (bắt giữ electron đơn...), nhưng khi tất cả các phương thức này bị “cấm” (bị triệt tiêu mạnh), bắt giữ electron kép sẽ trở thành phương thức phân rã chính.\nCó 34 đồng vị xuất hiện tự nhiên có thể trải qua quá trình bắt electron kép. Tuy nhiên, chỉ có ba quan sát được xác nhận về quá trình này: , , and .\nMột lý do là xác suất xảy ra bắt giữ electron kép là rất nhỏ (dự đoán lý thuyết về chu kỳ bán rã cho phương thức này là trên 10 năm). Lý do thứ hai là các hạt duy nhất có thể phát hiện được tạo ra trong quá trình này là các tia X và electron Auger được phát ra từ lớp vỏ nguyên tử bị kích thích. Trong phạm vi năng lượng của chúng (~1-10 keV), nền thường cao. Do đó, việc phát hiện và thử nghiệm bắt giữ electron kép khó khăn hơn so với phân rã beta kép. Việc bắt electron kép có thể đi kèm với sự kích thích của hạt nhân con. Lần lượt, sự khử kích thích của nó đi kèm với sự phát xạ của các photon có năng lượng lên đến hàng trăm keV.\nCác phương thức phát xạ positron.\nNếu sự chênh lệch khối lượng giữa các nguyên tử mẹ và con lớn hơn hai lần khối lượng của một electron (1,022 MeV), năng lượng được giải phóng trong quá trình này đủ để cho phép một phương thức phân rã khác được gọi là bắt electron bằng phát xạ positron. Nó xảy ra cùng với việc bắt electron kép, tỷ lệ phân nhánh của chúng tùy thuộc vào tính chất hạt nhân. Khi chênh lệch khối lượng lớn hơn bốn lần khối lượng electron (2,044 MeV), phương thức thứ ba, được gọi là phân rã positron kép, được cho phép. Chỉ có 6 đồng vị phóng xạ tự nhiên có thể phân rã thông qua ba phương thức này cùng một lúc.\nBắt giữ electron kép phi neutrino.\nQuá trình được mô tả ở trên với việc bắt giữ hai electron và phát xạ hai neutrino (bắt electron kép neutrino) được cho phép theo Mô hình Chuẩn của vật lý hạt: không vi phạm luật bảo tồn (bao gồm bảo toàn số lepton). Tuy nhiên, nếu số lepton không được bảo toàn hoặc neutrino là phản hạt của chính nó, thì một loại quá trình khác có thể xảy ra, được gọi là bắt giữ electron kép phi neutrino. Trong trường hợp này, hai electron bị hạt nhân bắt giữ, nhưng neutrino không được phát ra. Năng lượng được giải phóng trong quá trình này được mang đi bởi một lượng tử gamma bremsstrahlung.\nVí dụ:\nPhương thức phân rã này chưa bao giờ được quan sát bằng thực nghiệm và sẽ mâu thuẫn với Mô hình Chuẩn nếu nó được quan sát.", "Electron hay điện tử, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ nhất trong họ các hạt lepton, và nói chung được coi là những hạt cơ bản bởi vì chúng không có các thành phần nhỏ hay cấu trúc con. Electron có khối lượng xấp xỉ bằng 1/1836 so với của proton. Các tính chất cơ học lượng tử của electron bao gồm giá trị mômen động lượng (spin) bằng một nửa đơn vị, biểu diễn theo đơn vị của hằng số Planck thu gọn, \"ħ\". Vì là một fermion, trong hệ cô lập không có hai electron nào có thể ở cùng một trạng thái lượng tử, như nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli. Giống như tất cả các hạt cơ bản khác, electron thể hiện cả các tính chất của sóng và hạt: chúng có thể va chạm với các hạt khác và bị nhiễu xạ như ánh sáng. Các tính chất sóng của electron dễ dàng được quan sát thấy ở các thí nghiệm hơn so với những hạt khác ví dụ như neutron và proton bởi vì electron có khối lượng nhỏ hơn và do vậy có bước sóng de Broglie dài hơn ở cùng một mức năng lượng.\nElectron có vai trò cơ bản ở nhiều hiện tượng vật lý, như điện, từ học, hóa học và độ dẫn nhiệt. Ngoài ra nó cũng tham gia vào tương tác hấp dẫn, điện từ và yếu. Vì một electron mang điện tích, bao xung quanh nó là điện trường, và nếu electron chuyển động tương đối với một người quan sát, nó sẽ cảm ứng một từ trường. Trường điện từ tạo ra bởi những nguồn khác sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của hạt electron tuân theo định luật lực Lorentz. Electron phát ra hay hấp thụ năng lượng dưới dạng các photon khi chúng chuyển động gia tốc. Các thiết bị ở phòng thí nghiệm có khả năng bẫy từng electron đơn lẻ cũng như các electron plasma bằng sử dụng điện từ trường. Những kính thiên văn đặc biệt có thể phát hiện electron plasma trong không gian vũ trụ. Electron tham dự vào nhiều ứng dụng thực tiễn như điện tử học, hàn tia điện tử, ống tia âm cực, kính hiển vi điện tử, trị liệu bức xạ, laser electron tự do, máy dò khí ion hóa và máy gia tốc hạt.\nCác tương tác có sự tham gia của những electron với các hạt khác là một trong những chủ đề nghiên cứu của hóa học và vật lý hạt nhân. Tương tác lực Coulomb giữa các proton mang điện dương bên trong hạt nhân nguyên tử và các electron mang điện âm ở orbital cấu thành lên nguyên tử. Sự ion hóa hay sự chênh lệch giữa số electron mang điện âm và hạt nhân mang điện dương làm thay đổi năng lượng liên kết của một hệ nguyên tử. Sự trao đổi hay chia sẻ các electron giữa hai hay nhiều nguyên tử là nguyên nhân chủ yếu tạo ra liên kết hóa học. Năm 1838, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming lần đầu tiên đã đặt ra khái niệm về một đại lượng điện tích không thể chia nhỏ hơn nhằm giải thích các tính chất hóa học của các nguyên tử. Nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney sau đó đặt tên đại lượng điện tích này là 'electron' vào năm 1891, và sau đó J. J. Thomson cùng các cộng sự người Anh cuối cùng đã phát hiện ra electron có biểu hiện của một hạt cơ bản vào năm 1897. Electron cũng tham gia vào các phản ứng hạt nhân, như quá trình tổng hợp lên các hạt nhân nặng hơn trong các sao, mà chúng thường được gọi là các hạt beta. Electron cũng có thể được tạo ra trong phân rã beta từ các đồng vị phóng xạ và trong các va chạm năng lượng cao, như ở sự kiện các tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển. Phản hạt của electron được gọi là positron; nó có tính chất đồng nhất với electron ngoại trừ các tích như điện tích mang dấu ngược lại. Khi một electron va chạm với một positron, cả hai hạt bị hủy, tạo ra hai photon tia gamma năng lượng cao.\nLịch sử.\nKhám phá ra hiệu ứng của lực điện.\nNgười Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy rằng khi dùng bộ lông thú chà xát vào hổ phách thì nó có khả năng hút được những vật nhỏ. Cùng với sét, đây là một trong những hiện tượng về điện được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử loài người. Trong luận thuyết \"De Magnete\" viết năm 1600, nhà khoa học người Anh William Gilbert đưa ra thuật ngữ trong tiếng Latin mới là , để kể đến những chất có tính chất tương tự như hổ phách với khả năng có thể hút được những vật nhỏ khi chà xát với lông thú. Cả hai thuật ngữ \"electric\" và \"electricity\" đều có nguồn gốc từ tiếng Latin ' (cũng là từ nguyên của hợp kim có cùng tên); ' có từ nguyên bắt nguồn từ chữ hổ phách trong tiếng Hy Lạp, (\"\").\nKhám phá hai loại điện tích.\nĐầu những năm 1700, nhà hóa học người Pháp Charles François du Fay phát hiện thấy nếu một lá vàng tích điện bị đẩy bởi một que thủy tinh khi chà nó với lụa, thì cùng lá vàng tích điện này lại bị hút bởi hổ phách khi chà vào bông sợi. Từ quan sát này cùng những kết quả thí nghiệm tương tự, du Fay kết luận rằng điện phải chứa hai loại chất lỏng mang điện, chất lỏng \"vitreous\" từ đũa thủy tinh khi chà xát vào lụa và chất lỏng \"resinous\" từ hổ phách khi chà vào bông sợi. Hai chất lỏng này có thể trung hòa lẫn nhau khi được kết hợp lại. Nhà khoa học người Mỹ Ebenezer Kinnersley sau đó cũng độc lập đi đến kết luận tương tự của du Fay. Một thập kỷ sau, Benjamin Franklin đề xuất rằng điện không cấu tạo từ những loại chất lỏng điện khác nhau, mà là một chất lỏng điện có biểu hiện dư thừa (+) hay thiếu hụt (−) điện tích. Ông đưa ra thuật ngữ hiện đại tương ứng với chúng là điện tích dương và điện tích âm. Franklin từng nghĩ về chất mang điện sẽ có điện tích dương, nhưng ông đã không miêu tả đúng tình huống khi nào chất sẽ dư thừa điện tích, và khi nào bị thiếu hụt điện tích.\nGiữa các năm 1838 và 1851, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming phát triển ý tưởng cho rằng một nguyên tử là tổ hợp bao gồm một lõi vật chất được bao quanh bởi những hạt nhỏ hơn nguyên tử mà có điện tích bằng số lần điện tích đơn vị. Đầu năm 1846, nhà vật lý người Đức William Weber đưa ra lý thuyết miêu tả điện là chất tổng hợp bởi các chất lỏng tích điện dương và âm, và tương tác giữa chúng bị chi phối bởi luật nghịch đảo bình phương. Sau khi nghiên cứu hiện tượng điện phân vào năm 1874, nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney gợi ý có tồn tại một \"đại lượng xác định duy nhất cho điện\", điện tích của một ion hóa trị một. Ông đã có thể ước lượng giá trị của điện tích cơ bản \"e\" này bằng cách áp dụng định luật điện phân Faraday. Tuy nhiên, Stoney lại tin rằng những điện tích này lại gắn chặt vĩnh cửu vào nguyên tử và không thể bị tách rời. Năm 1881, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz cho rằng cả điện tích dương và điện tích âm có thể chia ra thành những thành phần cơ bản, mỗi một chúng \"hành xử như những nguyên tử của điện\".\nStoney ban đầu đưa ra thuật ngữ \"electrolion\" vào năm 1881. Mười năm sau, ông chuyển sang sử dụng \"electron\" để miêu tả những điện tích cơ bản này, khi ông viết vào năm 1894: \"... một ước lượng được thực hiện để tính toán số lượng thực tế của đơn vị điện cơ bản điển hình nhất này, mà tôi đã từng dám gợi ý đặt tên là \"electron\"\". Đã có một đề xuất vào năm 1906 nhằm đổi sang tên gọi \"electrion\" nhưng đã thất bại bởi vì Hendrik Lorentz vẫn thích tên gọi \"electron\" hơn. Từ \"electron\" là tổ hợp của các từ \"electric\" và \"ion\". Hậu tố -\"on\" mà hiện nay được sử dụng để đặt tên cho các hạt cơ bản khác, như proton hoặc neutron, có nguồn gốc bắt nguồn từ cách đặt tên cho electron.\nKhám phá ra các electron tự do bên ngoài vật chất.\nKhi nghiên cứu hiện tượng dẫn điện trong khí loãng vào năm 1859, nhà vật lý người Đức Julius Plücker quan sát thấy ánh sáng lân quang, vốn được tạo thành bởi bức xạ phát ra từ cathode, xuất hiện tại thành ống gần cathode, và vùng ánh sáng lân quang đó có thể di chuyển bằng việc ứng dụng từ trường. Năm 1869, Johann Wilhelm Hittorf, một học trò của Plücker, phát hiện rằng một vật rắn đặt giữa cathode và vùng lân quang tạo ra một vùng tối trên vùng lân quang của ống. Hittorf kết luận rằng có những tia truyền thẳng phát ra từ cathode và vùng lân quang đó được tạo ra bởi các tia chiếu qua thành ống. Năm 1876, nhà vật lý người Đức Eugen Goldstein chỉ ra rằng các tia này được phát ra theo phương vuông góc với mặt cathode, mặt phân cách giữa các tia phát ra từ cathode và ánh sáng sợi đốt. Goldstein đặt tên cho những tia này là tia âm cực. Công cuộc nghiên cứu về tia âm cực kéo dài hàng thập kỷ cả về lý thuyết và thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình khám phá ra electron của J. J. Thomson.\nTrong thập niên 1870, nhà hóa lý người Anh Sir William Crookes đã phát triển ống tia âm cực đầu tiên với môi trường chân không cao bên trong. Sau đó ông chứng tỏ rằng các tia phát quang xuất hiện bên trong ống có mang năng lượng và chuyển động từ phía cathode sang anode. Hơn nữa, khi đặt vào một từ trường, ông đã làm lệch đường đi của chùm tia, do đó chứng tỏ thêm chùm tia hành xử như nó chứa điện tích âm. Năm 1879, ông đề xuất rằng những tính chất này có thể được giải thích bằng cách coi rằng các tia âm cực bao gồm các phân tử khí mang điện tích âm trong trạng thái thứ tư của vật chất mà trong đó quãng đường tự do của các phân tử lớn đến mức có thể bỏ qua va chạm.\nNhà vật lý người Anh sinh ở Đức Arthur Schuster tiến hành mở rộng các thí nghiệm của Crookes khi đặt những tấm kim loại song song với chùm tia cathode và áp dụng vào một điện thế giữa các tấm này. Điện trường đã làm lệch chùm tia về phía tấm kim loại tích điện dương, chứng cứ đã củng cố thêm cho kết luận chùm tia mang điện tích âm. Bằng cách đo độ lệch của chùm tia tương ứng với từng lần điều chỉnh dòng điện giữa hai tấm kim loại, năm 1890 Schuster đã ước lượng được tỷ số khối lượng−điện tích của các thành phần trong chùm tia. Tuy vậy, giá trị ông thu được lớn hơn 1000 lần so với giá trị được dự đoán, do đó ít người đã để ý đến kết quả tính toán của ông vào thời điểm đó.\nNăm 1892, Hendrik Lorentz gợi ý rằng khối lượng của những hạt này (electron) có thể là hệ quả của lượng điện tích mà chúng mang theo.\nKhi đang nghiên cứu các khoáng chất huỳnh quang tự nhiên vào năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá thấy chúng phát ra các bức xạ mà không cần phải chiếu thêm một nguồn năng lượng từ bên ngoài. Những vật liệu phóng xạ này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học, bao gồm nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, ông đã phát hiện vật liệu phóng xạ có phát ra các hạt. Ông gọi những hạt này là các hạt alpha và hạt beta, dựa trên khả năng đâm xuyên của chúng qua vật chất. Năm 1900, Becquerel đã chứng tỏ chùm tia beta phát ra từ hạt nhân radium có thể bị làm lệch hướng trong một điện trường, và tỷ số khối lượng trên điện tích của chúng bằng với tỷ số này của chùm tia cathode. Chứng cứ này đã củng cố thêm quan điểm cho rằng electron tồn tại như là một trong các thành phần của nguyên tử.\nNăm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson, cùng với các đồng nghiệp John S. Townsend và H. A. Wilson, đã thực hiện các thí nghiệm chỉ ra chùm tia cathode thực sự chứa các hạt, hơn là một loại sóng, những hạt nguyên tử hoặc phân tử như nhiều nhà khoa học từng tin như vậy trước đó. Thomson đã có kết quả ước lượng khá tốt về điện tích \"e\" và khối lượng \"m\" của hạt tia cathode, mà ông gọi là \"corpuscles\", nó có khối lượng bằng một phần nghìn khối lượng của ion nhẹ nhất: ion hydro. Ông cũng đã chứng minh tỷ số điện tích−khối lượng, \"e\"/\"m\", có giá trị độc lập với vật liệu của bản cực cathode. Ông tiếp tục chứng tỏ thêm các vật liệu phóng xa, vật liệu nung nóng và vật liệu bị chiếu xạ có phát ra các hạt mang điện tích âm. Tên gọi electron về sau được cộng đồng khoa học chấp nhận sử dụng rộng rãi, chủ yếu do đề xuất của G. F. FitzGerald, J. Larmor và H. A. Lorentz.\nĐiện tích của electron đã được đo một cách chính xác hơn bởi các nhà vật lý Mỹ Robert Millikan và Harvey Fletcher trong thí nghiệm giọt dầu vào năm 1909, và kết quả được công bố vào 1911. Thí nghiệm sử dụng một điện trường để hãm các giọt dầu mang điện tích rơi trong không khí dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Thiết bị của họ có thể đo điện tích của 1–150 ion với sai số là 0,3%. Trước đó nhóm của Thomson cũng thực hiện thí nghiệm tương tự, sử dụng đám mây chứa các giọt nước tích điện tạo ra bởi sự điện phân,và thí nghiệm thực hiện bởi Abram Ioffe năm 1911, ông đã thu được kết quả tương tự một cách độc lập với nhóm Millikan khi sử dụng các vi hạt kim loại tích điện, và kết quả được công bố vào năm 1913. Tuy nhiên, các giọt dầu có tính ổn định hơn giọt nước bởi vì chúng có tốc độ bốc hơi chậm hơn, và do đó phù hợp hơn với thí nghiệm chính xác đòi hỏi thực hiện trong thời gian dài hơn.\nVào thời điểm bắt đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng dưới những điều kiện nhất định một hạt tích điện chuyển động nhanh trong buồng bọt có thể gây ra sự ngưng tụ của hơi nước siêu bão hòa trên quỹ đạo chuyển động của hạt. Năm 1911, Charles Wilson đã áp dụng nguyên lý này cho thiết bị buồng mây của mình, cho phép ông có thể chụp ảnh được quỹ đạo của các hạt tích điện, ví dụ như các electron chuyển động nhanh.\nLý thuyết nguyên tử.\nCho đến năm 1914, các thí nghiệm thực hiện bởi Ernest Rutherford, Henry Moseley, James Franck và Gustav Hertz hầu như đã khẳng định được cấu trúc nguyên tử bao gồm một hạt nhân cô đặc mang điện dương bao xung quanh bởi các electron có khối lượng rất nhỏ. Năm 1913, nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr giả thuyết các electron nằm trong các trạng thái có mức năng lượng bị lượng tử hóa, mức năng lượng của chúng được xác định bởi mômen động lượng của quỹ đạo electron quanh hạt nhân. Các electron có thể chuyển động trên những quỹ đạo này, bằng cách phát ra hay hấp thụ photon với tần số xác định. Với cơ sở là những quỹ đạo bị lượng tử hóa này, Bohr có thể giải thích một cách chính xác các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Tuy nhiên, mô hình của Bohr chưa thể giải thích được cường độ tương đối của các vạch này cũng như mô hình chưa thể giải thích quang phổ của những nguyên tử phức tạp hơn.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử được Gilbert Newton Lewis giải thích, khi vào năm 1916 ông đề xuất rằng liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử được duy trì bởi cặp electron chia sẻ giữa chúng. Sau đó, vào năm 1927, Walter Heitler và Fritz London đưa ra lý thuyết giải thích đầy đủ cho sự hình thành cặp electron và liên kết hóa học trong khuôn khổ của cơ học lượng tử. Năm 1919, nhà hóa học người Mỹ Irving Langmuir đưa ra mô hình tĩnh về nguyên tử và gợi ý rằng mọi electron được phân bố tuần tự theo \"những vỏ (gần) hình cầu đồng tâm, tất cả đều có độ dày bằng nhau\". Tiếp đó, ông chia những vỏ này ra thành một số ô, mà mỗi ô chứa một cặp electron. Với mô hình này, Langmuir có thể giải thích một cách định tính các tính chất hóa học của các nguyên tố trong bảng tuần hoàn, mà nhiều tính chất được lặp lại tuân theo định luật tuần hoàn trong bảng.\nNăm 1924, nhà vật lý người Áo Wolfgang Pauli nhận xét thấy cấu trúc tựa vỏ của nguyên tử có thể được giải thích bằng một tập hợp chứa bốn tham số xác định lên mỗi trạng thái năng lượng lượng tử, và mỗi trạng thái này không thể chiếm bởi nhiều hơn một electron. Việc không có nhiều hơn một electron chiếm chỗ ở cùng một trạng thái năng lượng lượng tử được phát biểu trong nguyên lý loại trừ Pauli. Cơ chế vật lý để giải thích cho tham số thứ tư, mà nó có hai giá trị phân biệt, được các nhà vật lý người Hà Lan Samuel Goudsmit và George Uhlenbeck đề xuất. Năm 1925, họ cho rằng một electron, cùng với mômen động lượng của quỹ đạo, còn sở hữu thêm mômen góc động lượng nội tại và mômen lưỡng cực từ. Điều này tương tự như sự tự quay của Trái Đất cũng như nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Mômen góc động lượng nội tại này được gọi là spin, và đưa ra cách giải thích cho sự tách vạch bí ẩn như được quan sát thấy ở các vạch quang phổ bằng phổ kế có độ phân giải cao; hiện tượng này được biết đến như là sự tách cấu trúc tinh tế.\nCơ học lượng tử.\nTrong luận án \"\" (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử) viết năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie giả thuyết rằng mọi vật chất có thể được biểu diễn bằng sóng de Broglie tương tự như sóng ánh sáng. Điều đó có nghĩa là dưới những điều kiện phù hợp, các electron và những hạt vật chất khác sẽ thể hiện những tính chất của sóng hoặc của hạt. Lý thuyết hạt ánh sáng được chứng tỏ khi nó thể hiện có vị trí định xứ trong không gian dọc theo quỹ đạo chùm sáng ở bất kỳ thời điểm nào. Bản chất sóng ánh sáng được hiện, ví dụ, khi một chùm sáng chiếu qua những khe hẹp song song nó sẽ tạo thành những vân giao thoa. Năm 1927 George Paget Thomson khám phá ra hiệu ứng giao thoa xuất hiện khi cho một chùm electron truyền qua những lá kim loại mỏng và kiểu thí nghiệm tương tự được các nhà vật lý người Mỹ Clinton Davisson và Lester Germer thực hiện khi cho chùm electron phản xạ từ tinh thể nikel và quan sát thấy hiệu ứng giao thoa. Các hiệu ứng này còn được gọi là hiện tượng nhiễu xạ electron.\nDự đoán của de Broglie về bản chất sóng của electron đưa Erwin Schrödinger thiết lập lên phương trình sóng miêu tả electron chuyển động dưới ảnh hưởng của hạt nhân trong nguyên tử. Năm 1926, với phương trình của mình, phương trình Schrödinger, ông đã miêu tả thành công sóng electron trong hệ nguyên tử. Hơn là chỉ việc tìm ra nghiệm xác định vị trí của một electron theo thời gian, phương trình sóng này cũng được áp dụng để dự đoán xác suất tìm thấy electron quanh vị trí cụ thể, đặc biệt vị trí gần nơi electron bị chặn trong không gian, mà tại đây phương trình sóng electron không thay đổi theo thời gian. Cách tiếp cận này đã đem đến một lý thuyết miêu tả cơ học lượng tử thứ hai (lý thuyết đầu tiên miêu tả bằng cơ học ma trận do Heisenberg phát triển năm 1925), và nghiệm của phương trình Schrödinger, giống như của Heisenberg, cho phép dẫn ra các trạng thái năng lượng của một electron trong nguyên tử hydro mà tương đương với các kết quả thu được bởi Bohr vào năm 1913, và miêu tả chính xác quang phổ nguyên tử hydro. Khi kể đến spin và tương tác giữa nhiều electron, cơ học lượng tử đưa ra những dự đoán chính xác về cấu hình electron trong những hệ nguyên tử phức tạp hơn hydro.\nNăm 1928, dựa trên các nghiên cứu của Wolfgang Pauli, Paul Dirac thiết lập nên một mô hình về electron – phương trình Dirac, nhất quán với thuyết tương đối hẹp, bằng cách áp dụng các điều kiện đối xứng và tương đối tính trong hình thức luận hamiltonian của cơ học lượng tử cho trường điện từ. Để có thể giải một số vấn đề trong phương trình tương đối tính của mình, năm 1930 Dirac nêu ra một mô hình chân không như là một biển chứa vô hạn các hạt có năng lượng âm, sau này gọi là biển Dirac. Mô hình này đã đưa ông đi đến dự đoán tồn tại positron, một hạt phản vật chất của electron. Hạt này sau đó được phát hiện vào năm 1932 bởi Carl Anderson, và ông đề xuất gọi các electron thường gặp là \"negatron\" và sử dụng thuật ngữ \"electron\" nhằm miêu tả những biến thể mang điện tích dương hoặc âm.\nNăm 1947 Willis Lamb, khi đang thực hiện nghiên cứu cùng với sinh viên Robert Retherford, đã tìm thấy có những trạng thái lượng tử riêng biệt của hydro, đáng ra phải có cùng mức năng lượng, lại được dịch chuyển tương đối với nhau; sự sai lệch này sau đó được gọi là dịch chuyển Lamb. Trong cùng thời gian, Polykarp Kusch, cùng với Henry M. Foley, đã khám phá bằng thí nghiệm mômen từ của electron có giá trị hơi lớn hơn so với dự đoán của lý thuyết Dirac. Giá trị chênh lệch nhỏ này sau đó được gọi là mômen lưỡng cực từ dị thường của electron. Sự chênh lệch này sau đó được giải thích trong lý thuyết điện động lực học lượng tử, phát triển bởi các nhà vật lý Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và\nRichard Feynman vào cuối thập niên 1940.\nMáy gia tốc hạt.\nVới sự phát triển của các loại máy gia tốc hạt trong nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn vào các tính chất của các hạt hạ nguyên tử. Thành công đầu tiên trong nỗ lực gia tốc electron sử dụng cảm ứng điện từ được thực hiện vào năm 1942 bởi Donald Kerst. Máy betatron ban đầu của ông đạt đến mức năng lượng 2,3 MeV, và những máy betatron về sau đạt đến mức 300 MeV. Năm 1947, bức xạ đồng bộ (synchrotron radiation) được phát hiện tại máy gia tốc synchrotron, đưa electron đạt mức năng lượng 70 MeV, tại cơ sở nghiên cứu của General Electric. Bức xạ này là do các electron chuyển động gia tốc đi qua một từ trường ở vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng.\nMáy gia tốc va chạm hạt ADONE là máy đầu tiên đạt mức năng lượng của chùm tia cỡ 1,5 GeV, bắt đầu hoạt động vào năm 1968. Trong thiết bị này, các hạt electron và positron được gia tốc theo hai hướng ngược chiều nhau, như vậy gần như làm tăng gấp đôi năng lượng va chạm so với máy gia tốc chùm tia electron bắn vào một bia cố định. Máy va chạm lớn Electron–Positron (Large Electron–Positron Collider; LEP) ở CERN, hoạt động từ 1989 đến 2000, đạt tới mức năng lượng va chạm 209 GeV và có những đo lường quan trọng cho Mô hình Chuẩn của vật lý hạt.\nGiam giữ từng electron.\nHiện nay từng electron đơn lẻ có thể dễ dàng bị giam hãm trong những transistor CMOS siêu nhỏ (, ) hoạt động ở ngưỡng nhiệt độ lạnh sâu từ −269 °C (4 K) cho đến khoảng −258 °C (15 K). Hàm sóng electron lan truyền trong một dàn chất bán dẫn và khi bỏ qua tương tác của nó với các electron trong dải hóa trị, thì có thể coi như là hàm của electron đơn lẻ, bằng cách thay thế khối lượng của nó bằng tenxơ khối lượng hiệu dụng.\nCác đặc tính.\nPhân loại.\nTrong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt, electron thuộc về nhóm các hạt hạ nguyên tử gọi là lepton, mà được cho là những hạt cơ bản. Electron có khối lượng nhỏ nhất trong nhóm lepton (cũng như trong nhóm các hạt mang điện) và thuộc về thế hệ thứ nhất của hạt cơ bản. Thế hệ thứ hai và thứ ba bao gồm các lepton mang điện, hạt muon và tau, chúng có giá trị điện tích, spin và tham gia tương tác giống với của electron, nhưng có khối lượng lớn hơn. Lepton khác so với những thành phần cơ bản khác của vật chất, hạt quark, khi lepton không tham gia vào tương tác mạnh. Tất cả các thành viên trong nhóm lepton đều là fermion, bởi vì chúng đều có spin bán nguyên; electron có spin .\nCác tính chất cơ bản.\nKhối lượng bất biến (khối lượng nghỉ) của electron xấp xỉ bằng  kilogram, hay  đơn vị khối lượng nguyên tử. Trên cơ sở của nguyên lý sự tương đương khối lượng−năng lượng của Einstein, khối lượng này tương ứng với mức năng lượng nghỉ 0,511 MeV. Tỷ số giữa khối lượng của một proton so với của electron bằng khoảng 1836. Các đo đạc thiên văn cho thấy tỷ số khối lượng proton trên khối lượng electron vẫn giữ nguyên không đổi, như được dự đoán bởi Mô hình Chuẩn, trong thời gian ít nhất bằng một nửa tuổi của vũ trụ.\nElectron có điện tích bằng coulomb, một giá trị đã được sử dụng làm đơn vị điện tích chuẩn cho các hạt hạ nguyên tử, và cũng được gọi là điện tích cơ bản. Trong khoảng giới hạn sai số thí nghiệm, giá trị điện tích của electron bằng giá trị của proton nhưng mang dấu ngược lại. Vì ký hiệu \"e\" được sử dụng cho điện tích cơ bản, electron thường được ký hiệu là , với dấu trừ thể hiện cho điện tích âm. Positron được ký hiệu bởi vì nó có cùng các tính chất với electron nhưng mang điện tích dương.\nElectron có mômen động lượng nội tại hay spin . Do tính chất này mà electron thường được coi các hạt có spin-. Những hạt như vậy có độ lớn spin bằng  \"ħ\", trong khi kết quả đo từ hình chiếu của spin lên một trục bất kỳ chỉ có thể bằng ±. Ngoài spin, electron còn có mômen từ hướng dọc theo trục spin của nó. Giá trị mômen từ electron xấp xỉ bằng một Bohr magneton,=\\frac{e\\hbar}{2m_{\\mathrm{e}}}.</math>|group=gc}} là hằng số vật lý bằng joule trên tesla. Hướng của spin so với hướng của mômen động lượng electron xác định lên tính chất của các hạt cơ bản được biết đến là tính xoắn (\"helicity\").\nElectron không có cấu trúc con đã biết, nên nó thường được coi là một hạt điểm, hay cụ thể là một điện tích điểm không có không gian trong. Quan sát electron đơn lẻ trong bẫy Penning gợi ý rằng giới hạn trên của bán kính của nó bằng 10−22 mét. Giá trị giới hạn trên của bán kính electron bằng 10−18 mét có thể dẫn ra từ nguyên lý bất định kết hợp với năng lượng. Ngoài ra, còn có một hằng số vật lý gọi là \"bán kính electron cổ điển\", với giá trị là , lớn hơn rất nhiều bán kính của proton. Tuy nhiên, giá trị này được tìm từ những phép tính đơn giản mà bỏ qua các hiệu ứng của cơ học lượng tử; trong thực tế, giá trị bán kính electron cổ điển không có nhiều ý nghĩa khi đề cập đến cấu trúc cơ bản bên trong của electron.\nCó những hạt cơ bản khác tự động phân rã thành những hạt khối lượng nhẹ hơn. Ví dụ cho muon, nó có thời gian sống trung bình  giây, và phân rã thành một electron, một neutrino muon và một phản neutrino electron. Hạt electron, mặt khác, theo lý thuyết được cho là hạt bền: electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất với điện tích khác 0, do đó sự phân rã của nó sẽ vi phạm định luật bảo toàn điện tích. Thực nghiệm xác định giới hạn dưới của thời gian sống của electron là năm, ở mức 90% độ tin cậy.\nCác tính chất lượng tử.\nNhư mọi hạt khác, các electron có hành xử như những sóng. Đặc điểm này được gọi là lưỡng tính sóng–hạt và được chứng minh bằng thí nghiệm giao thoa hai khe.\nBản chất sóng của electron cho phép nó đi qua hai khe song song một cách đồng thời, hơn là chỉ một khe ở một thời điểm như đối với trường hợp của hạt. Trong cơ học lượng tử, tính chất sóng của một hạt được miêu tả bằng toán học dưới dạng hàm giá trị phức, hay hàm sóng, thường được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp psi (\"ψ\"). Khi tính bình phương giá trị tuyệt đối của hàm này, sẽ cho xác suất quan sát được một hạt ở một vị trí cho trước—hay chính là mật độ xác suất.\nElectron là những hạt đồng nhất bởi vì không thể phân biệt được chúng dựa trên những tính chất vật lý nội tại của hạt. Trong cơ học lượng tử, điều này có nghĩa là một cặp electron tương tác có thể đổi chỗ cho nhau mà không làm thay đổi trạng thái quan sát được của hệ. Hàm sóng của các fermion, bao gồm electron, là hàm phản xứng, có nghĩa rằng nó thay đổi dấu khi hai electron trao đổi vị trí cho nhau; hay, , với các biến \"r\"1 và \"r\"2 tương ứng với electron thứ nhất và thứ hai. Vì giá trị tuyệt đối không thay đổi khi hai hạt đổi chỗ cho nhau, điều này tương ứng với xác suất của hai sự kiện là bằng nhau. Ngược lại, hạt boson, như photon, lại có hàm sóng đối xứng.\nTrong trường hợp phản xứng, các nghiệm của phương trình sóng cho các electron tương tác sẽ cho xác suất bằng 0 đối với mỗi cặp chiếm cùng một vị trí hoặc trạng thái. Kết quả này tương ứng với nguyên lý loại trừ Pauli, phát biểu rằng không thể có hai electron chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Nguyên lý này giải thích cho nhiều tính chất của các electron hóa học. Ví dụ, nó làm cho nhóm các electron liên kết chiếm những orbital khác nhau trong một nguyên tử, hơn là đan xen lẫn nhau trong cùng một orbital.\nHạt ảo.\nTrong một bức tranh đơn giản, mỗi photon đôi lúc được coi như là tổ hợp của một hạt electron ảo với phản hạt ảo của nó, positron ảo, mà chúng nhanh chóng hủy lẫn nhau khi vừa mới sinh ra trong một thời gian rất ngắn. Sự kết hợp của biến thiên năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt này, và khoảng thời gian trong đó chúng tồn tại, phải nằm trong ngưỡng chấp nhận được tuân theo nguyên lý bất định Heisenberg, Δ\"E\" · Δ\"t\" ≥ \"ħ\". Để thỏa mãn nguyên lý này, năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt ảo này, Δ\"E\", có thể được \"mượn\" từ chân không trong một khoảng thời gian, Δ\"t\", sao cho tích của chúng không được lớn hơn hằng số Planck thu gọn, . Do vậy, đối với một electron ảo, Δ\"t\" lớn nhất bằng . (nghĩa là nếu cặp electron ảo−positron ảo mượn năng lượng Δ\"E\" từ chân không lượng tử thì phải trả lại năng lượng này cho chân không sau tối đa một khoảng thời gian Δ\"t\" sao cho Δ\"E\" · Δ\"t\" ≤ \"ħ\")\nKhi một cặp electron–positron ảo đang tồn tại, lực tĩnh điện Coulomb từ điện trường tức thời xung quanh hạt electron sẽ làm hút hạt positron về phía electron gốc ban đầu, trong khi electron được sinh ra chịu một lực đẩy. Hiệu ứng này chính là sự phân cực chân không. Về mặt hiệu ứng, chân không hành xử như một môi trường có dielectric permittivity lớn hơn 1 đơn vị. Do vậy điện tích hữu hiệu của một electron thực sự nhỏ hơn giá trị thực của nó, và điện tích giảm dần khi khoảng cách tăng dần tính từ electron. Sự phân cực này đã được xác nhận bằng thực nghiệm vào năm 1997 tại máy gia tốc hạt TRISTAN ở Nhật Bản. Các hạt ảo cũng tạo ra hiệu ứng lá chắn đáng kể cho khối lượng của electron.\nTương tác với các hạt ảo cũng giải thích sự sai lệch nhỏ (khoảng 0,1%) về giá trị của mômen từ nội tại của electron so với magneton Bohr (sai lệch này được gọi là mômen từ dị thường của electron). Sự khớp chính xác tuyệt vời giữa giá trị tính toán trên lý thuyết và giá trị đo được bằng thực nghiệm của mômen từ dị thường electron được coi là một trong những thành tựu quan trọng nhất của điện động lực học lượng tử.\nNghịch lý trong vật lý cổ điển về hạt điểm electron lại có mômen góc spin và mômen từ nội tại có thể được giải quyết bởi sự hình thành của các cặp hạt photon ảo trong điện trường sinh bởi electron. Các photon ảo này (đến lượt lại sinh ra các cặp electron−positron ảo khác) làm cho electron luôn dịch chuyển xung quanh vị trí của nó (còn gọi là zitterbewegung), mà tổng hợp lại thành một chuyển động tròn với hiệu ứng tiến động. Chuyển động này tạo ra cả spin và mômen từ của electron. Trong nguyên tử, sự sinh các cặp hạt photon ảo giúp giải thích hiệu ứng dịch chuyển Lamb như đã quan sát thấy ở các vạch quang phổ.\nTương tác.\nElectron sinh ra từ trường tạo ra lực hút lên hạt mang điện dương, như proton, và lực đẩy lên hạt mang điện âm. Cường độ của lực này trong điện động lực học cổ điện được xác định bằng định luật nghịch đảo bình phương Coulomb. Khi một electron đang trong chuyển động, nó tạo ra một từ trường bao quanh. Định luật Ampère-Maxwell cho biết mối liên hệ giữa từ trường và chuyển động của dòng các electron (dòng điện) tương ứng với người quan sát. Tính chất cảm ứng này cung cấp một từ trường dẫn động làm quay động cơ điện. Trường điện từ của một hạt mang điện bất kỳ đang trong chuyển động được miêu tả bằng thế Liénard–Wiechert, thế này đúng cho cả trường hợp hạt chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (hay vận tốc tương đối tính).\nKhi một electron chuyển động trong từ trường, nó chịu tác dụng của lực Lorentz tác động theo phương vuông góc với mặt phẳng xác định bởi vectơ từ trường và vectơ vận tốc của electron. Lực hướng tâm làm cho electron chuyển động trên một quỹ đạo xoắn ốc trong từ trường với bán kính Larmor. Sự gia tốc từ chuyển động theo đường cong ghềnh này làm cảm ứng electron phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ đồng bộ. Năng lượng bức xạ này làm hãm electron, hay còn gọi là lực Abraham–Lorentz–Dirac, tạo ra ma sát làm chậm chuyển động của electron. Lực này cũng gây ra tác động ngược (back-reaction) lên điện từ trường của chính electron.\nTrong điện động lực học lượng tử photon là hạt truyền tải tương tác điện từ giữa các hạt. Một electron đơn lẻ chuyển động với vận tốc đều không thể phát ra hay hấp thụ một photon thực; do sẽ vi phạm định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Mặt khác, các photon ảo có thể truyền động lượng giữa hai hạt mang điện tích. Sự trao đổi này của các photon ảo, ví dụ, làm tạo ra lực Coulomb. Bức xạ năng lượng xuất hiện khi một electron chuyển động bị làm lệch quỹ đạo gây bởi điện trường của một hạt mang điện khác, như proton. Sự gia tốc của electron làm phát ra bức xạ Bremsstrahlung.\nMột photon (ánh sáng) va chạm phi đàn hồi với một electron (tự do) được gọi là tán xạ Compton. Kết quả của va chạm này là động lượng và năng lượng được truyền qua giữa các hạt, làm thay đổi bước sóng của photon bằng một lượng được gọi là dịch chuyển Compton. Độ dịch chuyển lớn nhất của bước sóng bằng \"h\"/\"m\"e\"c\", hay còn gọi là bước sóng Compton. Đối với một electron, nó có giá trị bằng . Khi bước sóng của ánh sáng là dài (ví dụ bước sóng của ánh sáng khả kiến bằng 0,4–0,7 μm) sự dịch chuyển bước sóng có thể bỏ qua được. Trong trường hợp này, tương tác giữa ánh sáng và electron tự do được gọi là tán xạ Thomson hay tán xạ Thomson tuyến tính.\nĐộ mạnh tương đối của tương tác điện từ giữa hai hạt điện tích, chẳng hạn giữa một electron và một proton, được xác định bởi hằng số cấu trúc tế vi. Đây là đại lượng không thứ nguyên hình thành dựa trên tỉ số của hai dạng năng lượng: năng lượng tĩnh điện của lực hút (hoặc đẩy) ở khoảng cách bằng một lần bước sóng Compton, và năng lượng nghỉ của các hạt mang điện tích. Nó có giá trị bằng \"α\" ≈ , hay xấp xỉ bằng .\nKhi electron và positron va chạm, chúng hủy lẫn nhau, làm phát ra hai hoặc ba photon tia gamma. Nếu electron và positron có động lượng bỏ qua được, va chạm có thể hình lên nguyên tử positronium trước khi hai hạt hủy lẫn nhau để hình ra các photon có tổng năng lượng 1,022 MeV. Mặt khác, một photon năng lượng cao có thể biến đổi thành cặp electron và positron bởi quá trình sinh cặp (pair production), nhưng chỉ trong sự có mặt của một hạt điện tích gần nó, như một hạt nhân chẳng hạn.\nTrong lý thuyết tương tác điện yếu, thành phần hàm sóng hướng bên trái (chiral) của electron tạo thành bộ đôi isospin yếu với neutrio electron. Điều này có nghĩa rằng trong tương tác yếu, neutrino electron hành xử như các electron. Mỗi loại hạt của bộ đôi này (doublet) có thể tham gia vào tương tác dòng tích (charged current) bằng cách phát ra hoặc hấp thụ một boson và biến đổi sang thành hạt kia. Điện tích được bảo toàn trong quá trình này bởi vì boson W cũng mang điện tích, làm cho tổng điện tích của quá trình biến đổi là không thay đổi. Các tương tác dòng tích chịu trách nhiệm cho hiện tượng phân rã beta trong một nguyên tử phóng xạ. Cả electron và neutrino electron có thể tham gia vào tương tác dòng trung hòa (neutral current interaction) thông qua sự trao đổi một boson , và chịu trách nhiệm cho tán xạ đàn hồi neutrino−electron.\nNguyên tử và phân tử.\nMột electron có thể \"liên kết\" với hạt nhân của một nguyên tử bởi lực hút Coulomb. Một hệ có một hoặc nhiều electron liên kết với một hạt nhân được gọi là một nguyên tử. Nếu số electron khác với số điện tích của hạt nhân, nguyên tử đó được gọi là một ion. Hành xử dạng sóng của một electron liên kết được miêu tả bằng một hàm sóng gọi là orbital nguyên tử. Mỗi orbital đặc trưng bởi các số lượng tử như mức năng lượng, mômen động lượng và hình chiếu của mômen góc, và chỉ có các orbital rời rạc tồn tại xung quanh hạt nhân. Theo nguyên lý loại trừ Pauli mỗi orbital có thể chiếm giữ bởi tối đa hai electron, và chúng phải có số lượng tử spin khác nhau.\nElectron có thể nhảy sang các orbital khác nhau thông qua sự hấp thụ hoặc phát ra photon có năng lượng bằng hiệu giữa hai mức năng lượng đó. Các phương pháp khác làm electron chuyển sang orbital khác bao gồm sự va chạm của nó với hạt khác, như các electron, và nhờ hiệu ứng Auger. Để thoát ra khỏi nguyên tử, năng lượng của electron phải tăng và lớn hơn năng lượng liên kết với nguyên tử. Điều này xảy ra, ví dụ, như ở hiệu ứng quang điện, khi một photon tới va chạm có năng lượng lớn hơn năng lượng ion hóa nguyên tử và bị electron hấp thụ.\nMômen góc orbital của electron bị lượng tử hóa. Bởi electron mang điện, nó có một mômen từ orbital tỷ lệ với mômen góc. Tổng mômen từ của một nguyên tử bằng tổng vec tơ của mô men từ spin và mômen từ orbital của tất cả các electron và hạt nhân. Mômen từ của hạt nhân là nhỏ so với của các electron. Mômen từ của các electron chiếm giữ cùng một orbital (còn gọi là cặp electron) triệt tiêu lẫn nhau.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử chính là tương tác điện từ giữa chúng, như miêu tả bởi các định luật của cơ học lượng tử. Liên kết mạnh nhất hình thành bởi chia sẻ hoặc cho/nhận các electron giữa các nguyên tử, dẫn đến hình thành lên các phân tử. Bên trong một phân tử, các electron chuyển động dưới ảnh hưởng của một vài hạt nhân, và chiếm giữ các orbital phân tử; giống như chúng chiếm giữ các orbital trong một nguyên tử cô lập. Một yếu tố cơ bản trong các cấu trúc phân tử đó là sự tồn tại các cặp electron. Đây là các electron có spin ngược nhau, cho phép chúng có thể chiếm giữ cùng một orbital phân tử mà không vi phạm nguyên lý loại trừ Pauli (tương tự như ở nguyên tử). Các orbital phân tử khác nhau có phân bố mật độ electron theo không gian khác nhau. Ví dụ, ở các cặp electron liên kết (nghĩa là các cặp thực sự liên kết các nguyên tử với nhau) có thể được tìm thấy với xác suất cực đại nằm ở vùng thể tích tương đối nhỏ giữa các hạt nhân. Ngược lại, ở các cặp electron không liên kết chúng phân bố trong thể tích lớn hơn bao quanh hạt nhân.\nDẫn điện.\nNếu một vật thể có nhiều hoặc ít hơn lượng electron cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân nguyên tử, thì tổng thể vật đó có mang điện tích. Khi có nhiều hơn electron, vật đó mang điện âm. Khi có ít electron hơn số lượng proton trong hạt nhân nguyên tử, vật mang điện dương. Khi số electron và proton bằng nhau, điện tích của chúng hủy lẫn nhau và vật thể ở trạng thái cân bằng điện (hay trung hòa). Nhờ tác động chà xát có thể làm vật thể vĩ mô mang điện thông qua hiệu ứng điện ma sát (triboelectric effect).\nCác electron độc lập chuyển động trong chân không được gọi là các electron \"tự do\". Các electron trong kim loại cũng hành xử như chúng chuyển động tự do. Thực sự thì các hạt được gọi là các electron trong kim loại và những thể rắn khác là những giả-electron—giả hạt, mà có cùng điện tích, spin, và mômen từ như các electron thực thụ nhưng có khối lượng khác với nó. Khi các electron tự do—trong chân không lẫn kim loại—chuyển động, chúng tạo ra một dòng mạng lưới điện tích được gọi là dòng điện, từ đó tạo ra một từ trường. Giống như một dòng điện có thể được sinh ra từ sự thay đổi của một từ trường. Những tương tác và mối quan hệ này được miêu tả bởi phương trình Maxwell.\nỞ mỗi nhiệt độ nhất định, từng vật liệu có một độ dẫn điện ảnh hưởng đến giá trị của dòng điện khi áp vào một điện thế. Những vật dẫn điện tốt bao gồm kim loại như đồng và vàng, trong khi thủy tinh và Teflon lại dẫn điện kém. Ở bất kỳ vật liệu cách điện nào, các electron vẫn bám vào các nguyên tử và vật liệu có tính chất như là một chất cách điện. Hầu hết các chất bán dẫn có mức độ dẫn điện biến đổi từ phạm vi dẫn điện cực tốt cho đến cách điện hoàn toàn. Mặt khác, các kim loại có cấu trúc dải điện tử chứa các vùng năng lượng được lấp đầy một phần bởi electron. Sự có mặt của những vùng năng lượng này cho phép các electron trong kim loại hành xử như chúng được tự do hoặc gọi là các electron phi định xứ (delocalized electrons). Những electron không liên kết với một nguyên tử nhất định, do vậy khi áp dụng một điện trường, chúng chuyển động tự do như một chất khí (được gọi là khí Fermi) đi qua vật liệu giống như các electron tự do.\nBởi vì có sự va chạm giữa các electron với các nguyên tử, vận tốc trôi của các electron trong một vật dẫn có độ lớn cỡ vài milimét trên một giây. Tuy nhiên, trường hợp có sự thay đổi dòng điện từ một điểm trong vật liệu gây ra sự thay đổi dòng điện ở điểm khác trong vật liệu, thì tốc độ lan truyền của hiệu ứng này, điển hình bằng khoảng 75% tốc độ ánh sáng. Điều này xảy ra bởi vì tín hiệu điện lan truyền như một sóng, với vận tốc phụ thuộc vào hằng số điện môi của vật liệu.\nĐa số kim loại có độ dẫn nhiệt tương đối tốt, chủ yếu bởi vì các electron phi định xứ vận chuyển năng lượng nhiệt tự do giữa các nguyên tử. Tuy nhiên, không giống như sự dẫn điện, sự dẫn nhiệt của một kim loại gần như độc lập với nhiệt độ của vật liệu. Điều này đã được phát biểu bằng định luật Wiedemann–Franz, nói rằng tỉ số độ dẫn nhiệt trên độ dẫn điện tỷ lệ thuận với nhiệt độ của vật liệu. Sự mất trật tự bởi nhiệt trong dàn tinh thể nguyên tử kim loại làm tăng điện trở của vật liệu, tạo ra sự phụ thuộc vào nhiệt độ đối với dòng điện.\nKhi làm lạnh vật liệu xuống dưới một mức gọi là nhiệt độ tới hạn, vật liệu trải qua sự chuyển pha trong đó nó mất hoàn toàn tính kháng điện (điện trở) đối với dòng điện, hay chính là hiệu ứng siêu dẫn. Trong lý thuyết BCS, các cặp electron được gọi là cặp Cooper trong chuyển động của chúng bắt cặp với nguyên tử gần đấy thông qua những dao động dàn nguyên tử gọi là phonon, do đó cặp Cooper tránh được va chạm với các nguyên tử mà thường tạo ra điện trở. (Các cặp Cooper có bán kính xấp xỉ bằng 100 nm, do đó nếu coi chúng như sóng vật chất thì chúng có thể chồng chập lẫn nhau.) Tuy nhiên, cơ chế cho hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu vẫn chưa có lý thuyết giải thích thỏa đáng.\nCác electron bên trong vật dẫn, mà chính chúng cũng là những giả hạt, khi đặt trong nhiệt độ rất gần với độ không tuyệt đối, có thể được phân ra thành ba loại giả hạt: spinon, orbiton và holon. Hạt đầu tiên mang spin và mômen từ, hạt tiếp theo mang vị trí orbital của nó trong khi hạt còn lại mang điện tích.\nChuyển động và năng lượng.\nTheo thuyết tương đối hẹp của Einstein, khi tốc độ của một electron tiệm cận tới tốc độ ánh sáng, người quan sát từ một hệ quy chiếu quán tính sẽ đo được khối lượng tương đối tính của hạt tăng lên, do đó khiến cho nó càng khó để có thể gia tốc nó từ bên trong hệ quy chiếu của người quan sát. Tốc độ của một electron có thể tiếp cận đến, nhưng không bao giờ bằng, tốc độ của ánh sáng trong chân không, \"c\". Tuy nhiên, khi các electron tương đối tính—là những electron chuyển động với tốc độ gần bằng \"c\"—chuyển động trong môi trường điện môi như nước, nơi vận tốc ánh sáng trong nó nhỏ hơn nhiều so với \"c\", các electron trong môi trường này có thể chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Khi chúng tương tác va chạm với môi trường, chúng tạo ra một ánh sáng nhạt được gọi là bức xạ Cherenkov.\nCác hiệu ứng trong thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên một đại lượng gọi là hệ số Lorentz, được xác định bằng formula_1 với \"v\" là tốc độ của hạt. Động năng \"K\"e của một electron chuyển động với vận tốc \"v\" bằng:\nvới \"m\"e là khối lượng của electron. Ví dụ, ở máy gia tốc thẳng Stanford có thể gia tốc một electron tới động năng gần bằng 51 GeV. Vì một electron hành xử như dạng sóng, ở một vận tốc bất kỳ nó có một bước sóng de Broglie đặc trưng. Bước sóng này được cho bởi \"λ\"e = \"h\"/\"p\" với \"h\" là hằng số Planck và \"p\" là động lượng. Đối với electron có động năng 51 GeV ở trên, bước sóng de Broglie bằng , đủ nhỏ để khám phá các cấu trúc có kích thước nhỏ hơn kích cỡ của một hạt nhân nguyên tử.\nSự hình thành.\nLý thuyết Vụ Nổ Lớn là lý thuyết khoa học được chấp nhận rộng rãi hiện nay miêu tả những giai đoạn ban đầu của sự tiến hóa của Vũ trụ. Ở những miligiây đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ trên 10 tỷ kelvin và các photon có năng lượng trung bình trên một triệu electronvolt. Các photon này có đủ năng lượng mà khi tương tác với nhau có thể dẫn tới sự hình thành cặp electron và positron. Ngược lại, những cặp positron−electron hủy lẫn nhau và phát ra các photon năng lượng cao:\nTrạng thái cân bằng giữa các electron, positron và photon được duy trì trong suốt giai đoạn này của sự tiến hóa Vũ trụ. Khi 15 giây trôi qua, tuy nhiên, nhiệt độ của Vũ trụ lúc này giảm xuống dưới ngưỡng cho phép hình thành cặp hạt electron−positron. Phần lớn các electron và positron tồn tại hủy lẫn nhau, giải phóng bức xạ gamma làm Vũ trụ nóng lên trong một thời gian ngắn.\nVì một lý do nào đó chưa được biết chắc chắn, trong suốt quá trình hủy cặp có sót lại một số lượng hạt nhiều hơn phản hạt vật chất. Cụ thể là có dư ra 1 electron tồn tại trong mỗi 1 tỷ cặp hạt electron−positron. Số lượng dư sót lại này bằng với số lượng proton còn dư từ quá trình hủy cặp hạt tương tự proton và phản proton, trong một điều kiện được gọi là bất đối xứng baryon, điều này mang đến tổng điện tích của toàn bộ Vũ trụ gần như bằng zero. Những proton và neutron còn dư lại bắt đầu tham gia vào các phản ứng với nhau—quá trình gọi là tổng hợp hạt nhân, tạo ra các đồng vị của hydro và heli, và một ít hạt nhân lithi. Các phản ứng này đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian ở sau năm phút. Bất kỳ neutron còn lại nào sẽ trải qua phản ứng phân rã beta âm với nửa thời gian sống bằng khoảng một nghìn giây, giải phóng ra một proton và một electron,\nTrong khoảng 300.000–400.000 năm tiếp theo, lượng các hạt electron còn lại có năng lượng quá lớn để có thể liên kết vào các hạt nhân nguyên tử. Giai đoạn tiếp theo là sự tái kếp hợp electron vào hạt nhân, khi ấy các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự giãn nở của vũ trụ làm cho vật chất trở lên trong suốt với bức xạ.\nGần một triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, thế hệ các ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành. Trong lòng một ngôi sao, dây chuyền phản ứng tổng hợp hạt nhân sao cho ra các sản phẩm trong đó có positron. Những hạt phản vật chất này ngay lập tức hủy với các electron, giải phóng tia gamma. Gộp chung lại số lượng hạt electron bị giảm dần, và tương ứng số lượng hạt neutron tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa sao cũng hình thành các sản phẩm là những đồng vị phóng xạ. Các đồng vị này có thể sau đó trải qua phân rã beta trừ, phát ra một electron và một phản neutrino từ hạt nhân. Một ví dụ là đồng vị cobalt-60 (60Co), mà phân rã thành nickel-60 (60Ni).\nCuối chu trình tiến hóa của chúng, một ngôi sao có khối lượng lớn hơn 20 lần khối lượng Mặt Trời đi đến kết cục suy sụp hấp dẫn để tạo thành một lỗ đen. Theo vật lý cổ điển, bên trong những ngôi sao khối lượng lớn này xuất hiện lực hút hấp dẫn đủ mạnh để ngăn bất kỳ thứ gì, kể cả bức xạ điện từ, thoát ra khỏi bán kính Schwarzschild. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử cho phép có khả năng tồn tại bức xạ Hawking ở phạm vi khoảng cách này. Các electron (và positron) được cho là tạo ra ở chân trời sự kiện của những tàn dư sao.\nKhi một cặp hạt ảo (như gồm một electron và một positron) được tạo ra tại biên giới của chân trời sự kiện, sự phân bố ngẫu nhiên trong vị trí của hạt có thể làm cho một trong hai hạt nằm ở bên trong chân trời sự kiện; mà quá trình này được gọi là sự xuyên hầm lượng tử. Thế năng hấp dẫn của lỗ đen có thể cấp năng lượng để biến một hạt ảo nằm bên ngoài chân trời sự kiện trở thành một hạt thực, cho phép nó bật phóng ra vào không gian. Đổi lại, hạt còn lại của cặp mang năng lượng âm và rơi về vùng kì dị lỗ đen, dẫn đến tổng cộng khối lượng−năng lượng của lỗ đen bị giảm đi. Tốc độ bức xạ Hawking tăng tiến khi khối lượng lỗ đen giảm dần, làm cho lỗ đen bốc hơi và cuối cùng là phát nổ.\nTia vũ trụ là những hạt chuyển động trong không gian với năng lượng cao. Các sự kiện năng lượng cao đến cỡ đã được ghi nhận. Khi những hạt này va chạm với các nucleon trong khí quyển Trái Đất, một trận mưa các hạt được tạo ra, bao gồm các pion. Hơn một nửa bức xạ vũ trụ được quan sát trên bề mặt Trái Đất có chứa các muon. Muon là một hạt loại lepton hình thành tại thượng tầng khí quyển sau quá trình phân rã của một pion.\nĐến lượt muon, nó có thể phân rã thành electron hoặc positron.\nQuan sát.\nQuan sát electron từ xa đòi hỏi việc đo được năng lượng bức xạ của chúng. Ví dụ, trong môi trường năng lượng cao như ở vành nhật hoa của một ngôi sao, các electron tự do tạo thành trạng thái plasma phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ Bremsstrahlung. Khí electron có thể biểu hiện dao động plasma, đó là những sóng gây bởi những biến đổi đồng bộ trong mật độ electron, và những sóng này tạo ra phát xạ năng lượng có thể phát hiện được nhờ quan sát qua kính thiên văn vô tuyến.\nTần số của một photon tỷ lệ với năng lượng của nó. Khi một electron liên kết trong nguyên tử chuyển trạng thái giữa các mức năng lượng khác nhau, nó hấp thụ hoặc phát ra photon ở những tần số đặc trưng. Ví dụ, khi chiếu nguồn bức xạ phổ liên tục vào các nguyên tử sẽ xuất hiện các vạch phổ hấp thụ đặc trưng trong quang phổ của bức xạ phản xạ. Mỗi nguyên tố hoặc phân tử thể hiện một lớp đặc trưng các vạch quang phổ, như các vạch quang phổ hydro. Những phép đo lường quang phổ về cường độ và bề rộng của các vạch này cho phép xác định được thành phần và tính chất vật lý của một chất cần xác định.\nTrong điều kiện của phòng thí nghiệm, có thể quan sát tương tác của từng electron đơn lẻ nhờ các máy gia tốc hạt nhân, mà cho phép đo những tính chất cụ thể như năng lượng, spin và điện tích. Nhờ sự phát triển của các kỹ thuật bẫy ion như bẫy Paul và bẫy Penning cho phép giam giữ các hạt mang điện trong một thể tích đủ nhỏ với thời gian dài. Điều này đã cho phép đo lường các tính chất cũng như thao tác lên những hạt này. Ví dụ, bẫy Penning từng được ứng dụng để chứa một electron đơn lẻ trong thời gian 10 tháng. Mômen từ của electron đã được đo với độ chính xác đến 11 chữ số thập phân mà vào năm 1980, độ chính xác này còn lớn hơn độ chính xác đo được của bất kỳ các hằng số vật lý khác.\nBộ phim chụp ảnh đầu tiên về sự phân bố năng lượng của electron đã được thực hiện bởi một đội các nhà vật lý tại Đại học Lund ở Thụy Điển vào tháng 2 năm 2008. Họ đã sử dụng một xung nhịp ánh sáng cực ngắn, hay gọi là các xung atto giây, cho phép lần đầu tiên chụp ảnh được chuyển động của một electron.\nSự phân bố của các electron trong chất rắn có thể được biểu hiện nhờ kỹ thuật chụp quang phổ bức xạ phân giải góc (angle-resolved photoemission spectroscopy, ARPES). Kỹ thuật này ứng dụng hiệu ứng quang điện để đo hàm phân bố không gian giàn tinh thể—một hàm toán học biểu diễn đặc tính cấu trúc tuần hoàn được áp dụng để suy đoán ra cấu trúc ban đầu của tinh thể. ARPES được ứng dụng để xác định hướng, tốc độ và sự tán xạ của các electron bên trong vật liệu.\nCác ứng dụng plasma.\nChùm hạt.\nTrong công nghệ và kỹ thuật, các chùm tia electron đã được ứng dụng để thực hiện hàn bằng chùm electron giữa hai loại vật liệu. Chúng cho phép mật độ năng lượng của chùm tia hàn lên tới 107 W·cm−2 được tập trung trong một hình nón tròn đường kính cỡ mà thường không cần đòi hỏi phải có lớp vật liệu đệm thứ 3. Kỹ thuật hàn này phải được thực hiện trong chân không để tránh các electron va chạm với một trường khí xung quanh trước khi chúng đến được vật liệu cần hàn, và nó có thể được sử dụng để nối các loại vật liệu dẫn điện mà những biện pháp hàn khác không phù hợp để áp dụng.\nQuang khắc chùm điện tử (EBL) là phương pháp tạo các chi tiết bán dẫn ở mức phân giải nhỏ hơn 1 µm. Kỹ thuật này có hạn chế là giá thành cao, tốc độ sản xuất chậm, cần phải vận hành chùm điện tử trong môi trường chân không cao và các electron có xu hướng tán xạ trên bề mặt vật liệu. Độ phân giải tối đa của phương pháp này vào khoảng 10 nm. Vì lý do này, EBL được ứng dụng chủ yếu cho sản xuất một số nhỏ các vi mạch chuyên biệt.\nPhương pháp xử lý chùm điện tử (electron-beam processing, hoặc electron irradiation EBI) được ứng dụng để làm thay đổi các đặc tính của vật liệu hoặc khử trùng trong y học và thực phẩm bằng cách chiếu chùm điện tử vào sản phẩm. Chùm electron hóa lỏng hoặc làm tan chảy thủy tinh mà không gây tăng nhiều nhiệt độ khi thực hiện chiếu với cường độ cao: ví dụ bức xạ electron mạnh gây ra sự giảm độ nhớt ở nhiều bậc độ lớn và làm giảm từng bước năng lượng hoạt hóa của nó.\nCác máy gia tốc quỹ đạo thẳng (linear particle accelerator) tạo ra những chùm electron cho chùm sáng dùng để điều trị các khối u trên bề mặt trong trị liệu bức xạ. Trị liệu điện tử (electron therapy) có thể điều trị các thương tổn ở da như ung thư tế bào đáy bởi vì một chùm electron chỉ có thể thâm nhập xuống một độ sâu nhất định trước khi bị hấp thụ, thường là đến 5 cm đối với electron có năng lượng trong phạm vi 5–20 MeV. Một chùm electron có thể được sử dụng phối hợp với chiếu xạ tia X trong điều trị bệnh.\nCác máy gia tốc hạt sử dụng điện trường để đẩy các electron và phản hạt của chúng lên mức năng lượng cao. Những hạt này phát ra bức xạ đồng bộ khi chúng bay qua từ trường. Cường độ của bức xạ đồng bộ phụ thuộc vào phân cực spin của chùm electron—quá trình được gọi là hiệu ứng Sokolov–Ternov. Các chùm electron phân cực được ứng dụng trong nhiều thí nghiệm khác nhau. Bức xạ synchrotron có thể dùng làm mát chùm electron với mục đích làm giảm sự phân tán động lượng của chùm hạt. Các chùm electron và positron được cho va chạm với nhau trong máy gia tốc khi chúng đạt đến mức năng lượng yêu cầu; các máy dò hạt (particle detector) quan sát năng lượng của bức xạ phát ra, ghi lại những thông tin và tính chất cần nghiên cứu trong vật lý hạt.\nChụp ảnh.\nNhiễu xạ electron năng lượng thấp (Low-energy electron diffraction, LEED) là một phương pháp bắn vào vật liệu có cấu trúc tinh thể bằng một chùm electron chuẩn trực sau đó quan sát hình ảnh nhiễu xạ giúp xác định lên cấu trúc của vật liệu. Năng lượng đòi hỏi của các electron ở những chùm này trong khoảng 20–200 eV. Kỹ thuật phản xạ nhiễu xạ electron năng lượng cao (reflection high-energy electron diffraction, RHEED) sử dụng sự phản xạ của một chùm electron bắn đến với nhiều góc hẹp khác nhau để nghiên cứu đặc trưng bề mặt của vật liệu có cấu trúc tinh thể. Chùm năng lượng thường nằm trong khoảng 8–20 keV và góc bắn electron thường bằng 1–4°.\nKính hiển vi điển tử hoạt động dựa trên nguyên lý tập trung chùm electron vào một mẫu vật. Một số electron sau khi va chạm vào mẫu vật thì bị thay đổi đặc tính, như hướng chuyển động, góc phản xạ và pha tương đối cũng như năng lượng bị giảm đi. Các nhà hiển vi học ghi lại những thay đổi này từ chùm electron để tái tạo ra những bức ảnh về mẫu vật. Trong ánh sáng xanh lam, các kín hiển vi quang học thông thường có giới hạn nhiễu xạ phân giải ở kích thước 200 nm. So sánh với kính hiển vi điện tử, loại này bị giới hạn bởi bước sóng de Broglie của electron. Ví dụ, bước sóng này bằng 0,0037 nm đối với những electron được gia tốc trong điện trường cỡ 100.000 volt. Kính hiển vi truyền điện tử hiệu chỉnh quang sai (Transmission Electron Aberration-Corrected Microscope) có độ phân giải dưới 0,05 nm, đủ để phân biệt được từng nguyên tử. Khả năng này mang lại những lợi thế cho sử dụng kính hiển vi điện tử trong phòng thí nghiệm để chụp các bức ảnh có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử là những thiết bị đắt tiền và tốn nhiều chi phí hoạt động và bảo trì.\nCó hai loại kính hiển vi điện tử: Loại truyền qua và loại quét bề mặt. Kính hiển vi điện tử truyền qua hoạt động giống như một máy chiếu, với một chùm electron được cho chiếu qua một lát vật liệu sau đó nó được hội tụ trên phim âm bản hoặc cảm biến CCD. Kính hiển vi điện tử quét bề mặt dùng chùm electron quét lên bề mặt mẫu vật, giống như hiển thị trên ti vi màn hình ống, để thu được bức ảnh về nó. Độ phóng đại của hai loại kính này vào cỡ 100× đến 1.000.000. Kính hiển vi quét xuyên hầm sử dụng hiệu ứng chui hầm lượng tử của electron từ mũi nhọn của một đầu dò kim loại để nghiên cứu vật liệu và tạo ra bức ảnh bề mặt vật liệu có độ phân giải cao.\nCác ứng dụng khác.\nTrong laser electron tự do (FEL), một chùm electron tương đối tính đi qua dãy các nam châm lưỡng cực (undulator) bị đổi hướng luân phiên do hướng của từ trường tạo bởi dãy các nam châm này. Vì đổi hướng luân phiên như vậy nên các electron phát ra bức xạ synchrotron một cách nhịp nhàng và đều đặn, bức xạ được khuếch đại ở tần số cộng hưởng. FEL có thể phát ra bức xạ điện từ với độ rọi cao trong dải tần số rộng, từ sóng vi ba cho đến tia X mềm. Những thiết bị này được sử dụng trong sản xuất, viễn thông, và trong các ứng dụng y tế, như phẫu thuật các mô mềm.\nỐng tia âm cực chứa electron, mà đã từng được sử dụng thường xuyên cho các màn hình hiển thị tại nhiều thiết bị thí nghiệm, màn hình máy tính và máy truyền hình. Trong một đèn nhân quang điện, mỗi photon va chạm đến âm cực quang khởi tạo ra một luồng các electron để hình thành một xung dòng điện mà bộ dò phát hiện được. Ống điện tử chân không sử dụng luồng các electron để thao tác lên tín hiệu điện, và chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công nghệ điện tử. Tuy nhiên, ngày nay chúng đã bị thay thế bởi các thiết bị bán dẫn như transistor." ]
electron - in - nhit - lng - neutron - thuyt - ht - einstein - proton - quark
0.944001
true
Phần mềm quản lý doanh nghiệp bao gồm tất cả các phần mềm thuộc về quản trị kinh doanh mà một doanh nghiệp sử dụng để hoàn tất việc kinh doanh của họ, giúp họ tăng hoặc đo năng suất trong kinh doanh, sản xuất. Các phần mềm doanh nghiệp miêu tả thế giới thật của doanh nghiệp qua các mô hình dữ liệu. Chúng phục vụ cho các nhân viên của một doanh nghiệp trong thông tin, quản lý, tổ chức và kế hoạch.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Berlin ( "phiên âm là Be-lin hay Béc-lin theo tiếng Đức và Béc-lanh theo tiếng Pháp)", hoặc Bá Linh (phiên âm theo Hán Việt, mặc dù tên thành phố theo tiếng Trung Quốc hiện nay là 柏林, "Bá Lâm") là thủ đô và cũng là một trong 16 bang của Cộng hòa Liên bang Đức. Với dân số hơn 3,7 triệu người, đây là thành phố lớn nhất của Đức và Liên minh châu Âu. Nằm ở miền Đông Bắc nước Đức, Berlin là trung tâm của khu vực đô thị Berlin-Brandenburg, trong đó có khoảng 6 triệu người đến từ hơn 180 quốc gia trên thế giới. Nằm trong vùng Đồng bằng châu Âu, Berlin bị ảnh hưởng bởi khí hậu ôn đới theo mùa. Khoảng 1/3 diện tích của thành phố là rừng, công viên, vườn, sông và hồ, do đó thành phố này luôn có bầu không khí trong lành. Được ghi nhận lần đầu tiên vào thế kỷ 13, Berlin từng là thủ đô của Vương quốc Phổ (1701–1918), Đế chế Đức (1871–1918), Cộng hòa Weimar (1919–1933) và Đức Quốc Xã (1933–1945). Vào những năm 1920, Berlin là thành phố lớn thứ ba trên thế giới. Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thành phố đã bị liên quân bốn nước chiếm đóng, sau đó các khu vực do Anh, Pháp, Hoa Kỳ chiếm đóng được hợp nhất và trở thành Tây Berlin (thuộc Tây Đức), được bao quanh bởi Bức tường Berlin và phần còn lại do Liên Xô chiếm đóng trở thành Đông Berlin (thủ đô của Cộng hòa Dân chủ Đức). Sau khi nước Đức tái thống nhất ngày 3 tháng 10 năm 1990, Berlin trở thành thủ đô của liên bang Đức, nơi đặt trụ sở của 147 đại sứ quán nước ngoài. Sau Quyết nghị Thủ đô của Quốc hội Liên bang Đức ("Deutsche Bundestag") vào năm 1991 thành phố cũng thực thi chức năng của mình là trụ sở của chính phủ và quốc hội từ năm 1999. Berlin là một trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học quan trọng của châu Âu. Đô thị lớn này là một điểm nút giao thông và một trong những thành phố thu hút được nhiều khách du lịch nhất của lục địa già này. Nhiều trường đại học, viện nghiên cứu, nhà hát và viện bảo tàng tại Berlin có danh tiếng quốc tế. Địa lý. Vị trí địa lý. Berlin nằm ở phía Đông Bắc nước Đức và được bao quanh bởi tiểu bang Brandenburg. Berlin cách biên giới với Ba Lan 70 km và là một trong những khu vực đông dân cư nhất nước Đức. Khu vực Berlin ngày nay nằm giữa hai vùng cao Barnim và Teltow. Trung tâm lịch sử của Berlin trước đây bé hơn rất nhiều và được hình thành trong một thung lũng, ở bên bờ sông Spree tại nơi hẹp nhất của sông này. Sông Spree chảy từ hướng Đông sang Tây và đổ vào sông Havel ở tận cùng phía tây của quận Spandau. Sông Havel chảy theo hướng Bắc-Nam này tạo nên các hồ lớn ở Berlin như hồ Tegeler hay hồ Wannsee. Phần lớn khu vực Berlin ngày nay nằm ở trên hai vùng cao này: phần lớn các quận Reinickendorf và Pankow nằm trên Barnim, trong khi phần chính của các quận như Charlottenburg-Wilmersdorf, Steglitz-Zehlendorf, Tempelhof-Schöneberg và Neukölln thì nằm trên Teltow. Điểm cao nhất của Berlin là điểm cao nhân tạo Teufelsberg (114,7 m trên mực nước biển) được đắp lên từ những đống đổ nát sau Chiến tranh thế giới thứ hai và điểm cao tự nhiên Müggelberge (115,4 m) trong quận Treptow-Köpenick. Chiều dài nhất từ Đông sang Tây vào khoảng 45 km, theo hướng Bắc-Nam khoảng 38 km Khí hậu. Thành phố nằm trong vùng khí hậu ôn hòa. Nhiệt độ trung bình cả năm ở Berlin-Dalem là 9,2 °C và lượng mưa trung bình hằng năm là 579 mm. Các tháng nóng nhất trong năm là tháng 7 và tháng 8 với nhiệt độ bình quân là 18,4 hay 17,8 °C, tháng lạnh nhất trong năm: tháng 1 và tháng 2, nhiệt độ trung bình là 0,5 và 1,2 độ Celsius. Tháng 7 là tháng có mưa nhiều nhất, trung bình là 67 mm, tháng có mưa ít nhất là tháng 2, trung bình 36 mm. Lịch sử. Cölln, phần của thành phố đôi Berlin-Cölln được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 1237, tiếp theo đó là Berlin vào năm 1244. Hai thành phố nằm hai bên bờ của sông Spree được nối liền bởi chiếc cầu bắc qua sông Spree đó là điểm hẹp nhất của sông. Vào năm 1307, hai thành phố có tòa thị chính chung. Từ năm 1415 Friedrich I lên làm Tuyển hầu tước ("Kürfürst") của xứ Brandenburg, trị vì lãnh địa cho đến năm 1440. Dòng dõi nhà Hohenzollern đóng đô tại thành Berlin cho đến năm 1918, đầu tiên là Tuyển hầu tước của xứ Brandenbrg, rồi là Vua của Vương quốc Phổ và cuối cùng là Hoàng đế của Đế chế Đức. Cuộc Chiến tranh Ba mươi năm từ năm 1618 đến năm 1648 đã mang lại hậu quả nặng nề cho Berlin: 1/3 nhà cửa bị hư hỏng, dân số giảm chỉ còn một nửa. Friedrich Wilhelm (Brandenburg), được biết dưới danh hiệu đại tuyển hầu ("Großer Kurfürst"), kế tục sự nghiệp của cha vào năm 1640. Ông bắt đầu một chính sách nhập cư và khoan dung về tôn giáo. Từ năm sau đó các thành phố vùng ngoại ô Friedrichswerder, Dorotheenstadt và Friedrichstadt được thành lập. Ở thế kỷ 17, Berlin được mở rộng thêm ra các khu vực ngoại thành. Năm 1701, Friedrich I được tấn phong làm vua Phổ và đóng đô tại Berlin. Ông ta xây dựng một số cung điện lớn như Oranienburg, Charlottenburg và Vương cung ("Stadtschloss") Đồng thời Friedrich I cho lập đại lộ "Unter den Linden" trên hướng tây thành phố Từ năm 1710 các thành phố Cölln, Friedrichswerder, Dorotheenstadt và Friedrichstadt được sáp nhập vào kinh đô Berlin. Môi trường văn hóa của Berlin cũng được mở rộng với việc Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin và Viện Hàn lâm Khoa học Berlin lần lượt được thành lập vào các năm 1696 và 1700. Sang thời vua Friedrich II, Berlin đã trở thành một trong những trung tâm của trào lưu triết học Khai sáng châu Âu, nhưng thành phố cũng từng bị quân đội Nga và Áo chiếm đóng trong Chiến tranh Bảy năm. Sau khi người Pháp đánh bại Phổ trong Chiến tranh Liên minh thứ tư năm 1806, hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte đã diễu binh tại Berlin nhưng không chiếm đóng thành phố. Đến năm 1815 Berlin trở thành thủ phủ tỉnh Brandenburg tân lập. Cuộc cách mạng Công nghiệp đã thay đổi bộ mặt thành phố vào thế kỷ 19; kinh tế và dân số Berlin được mở rộng đáng kể và thành phố trở thành trọng điểm kinh tế và trung tâm đường sắt của Đức. Các vùng ngoại ô mới đã được hình thành làm gia tăng diện tích và dân số Berlin. Vào năm 1861, các khu vực ngoại ô Wedding, Moabit, Tempelhofer và Schöneberger được sáp nhập thêm vào Berlin. Vào năm 1871 Berlin trở thành thủ đô của đế chế Đức mới được hình thành. Đến năm 1881 thành phố được tách khỏi tỉnh Brandenburg. Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, vào năm 1918 nước Cộng hòa Weimar được thành lập tại Berlin. Với Luật Berlin Lớn năm 1920, thành phố này được mở rộng thêm các thành phố lân cận, cũng như các quận, huyện xung quanh Berlin. Khi đó dân số Berlin vào khoảng 4 triệu người. Sau khi đảng Quốc xã lên nắm quyền năm 1933, Berlin trở thành thủ đô của Đế chế thứ ba. Thế vận hội mùa hè năm 1936 được tổ chức tại Berlin. Đảng Quốc xã có lập nên các kế hoạch xây dựng Berlin thành thủ đô Germania của toàn thế giới. Tuy nhiên ý định này bị thất bại do thua trong Đại chiến thế giới lần thứ hai. Bom đạn chiến tranh đã phá hủy phần lớn các khu vực ở Berlin. Vào ngày 16 tháng 4 năm 1945, khi Hồng quân Liên Xô phát động chiến dịch Berlin. Quốc trưởng Adolf Hitler tự sát vào ngày 30 tháng 4, và thủ đô thất thủ vào ngày 2 tháng 5 năm 1945. Sau khi Đức Quốc xã đầu hàng, Berlin bị chia giống như toàn thể nước Đức thành 4 phần. Các khu vực đóng chiếm của quân liên minh phương tây: Mỹ, Anh và Pháp tạo thành Tây Berlin, còn khu vực đóng chiếm của Liên Xô tạo thành Đông Berlin. Tuy nhiên một bộ lãnh đạo cho cả Berlin được thành lập bởi 4 quân liên minh này. Sự khác biệt về đường lối chính trị giữa quân đội đồng minh phương tây và Liên Xô dẫn đến việc phong tỏa Tây Berlin vào năm 1948/1949. Quân đội đồng minh phương tây đã trả lời hành động này bằng cách tiếp tế Berlin bằng đường không. Sau khi nước Cộng hòa Liên bang Đức được thành lập ở Tây Đức với nền kinh tế thị trường, và nước Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập ở Đông Đức với nền kinh tế kế hoạch tập trung, cuộc Chiến tranh lạnh trở nên sâu sắc hơn ngay cả ở Berlin. Trong khi nước Cộng hòa Liên bang Đức dời thủ đô về Bonn, lúc đầu được xem như là một giải pháp tạm thời, thì Đông Berlin thành thủ đô của nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Cao điểm của cuộc phân tranh Đông-Tây được đạt tới với việc nước Cộng hòa Dân chủ Đức dựng lên Bức tường Berlin vào ngày 13 tháng 8 năm 1961 chia cách Đông và Tây Berlin. Sự đi lại giữa hai khu vực này chỉ có thể xảy ra ở một số điểm kiểm tra nhất định. Mãi đến năm 1989, dưới áp lực đấu tranh của nhân dân Đông Đức bức tường thành ngăn cách mới bị phá bỏ. Vào năm 1990, hai nước Đức tái thống nhất thành nước Cộng hòa Liên bang Đức, và theo Hiệp ước Thống nhất Berlin trở thành thủ đô của nước Đức. Năm 1991 quốc hội Đức quyết định Berlin cũng là trụ sở chính phủ của Đức. Bắt đầu từ ngày 1 tháng 9 năm 1999 quốc hội và chính phủ bắt đầu làm việc tại Berlin. Dân số. Theo thống kê, Berlin có tất cả 3.402.312 nhân khẩu vào tháng 9 năm 2006. Trong số đó có 327.870 người được báo cáo là thất nghiệp vào tháng 1 năm 2005, chiếm tỉ lệ 19,4%. Vào tháng 11 năm 2006 có 463.723 (13.9%) người nước ngoài từ 185 nước sống tại Berlin. Độ tuổi trung bình của người Berlin trong năm 2004 là 41,7 tuổi. Điều này tương ứng với một sự gia tăng ở mức 2,5 tuổi trong vòng 12 năm. Chính trị. Sau khi nước Đức tái thống nhất vào ngày 3 tháng 10 năm 1990, Berlin trở thành một tiểu bang thành phố độc lập của Đức. Berlin được chia ra thành 12 quận. Bên cạnh đó, Berlin còn là thủ đô và trụ sở chính phủ của nước Cộng hòa Liên bang Đức từ ngày 20 tháng 6 năm 1991. Thủ đô. Nghị quyết Thủ đô của Quốc hội Liên bang Đức lần thứ nhất sau tái thống nhất vào năm 1991 quyết định Berlin, thủ đô của liên bang, sẽ là trụ sở của Quốc hội Liên bang, của chính phủ liên bang và của Hội đồng Liên bang. Từ năm 1994, trụ sở của tổng thống liên bang cũng ở tại Berlin. Trong năm 1999 một phần lớn chính phủ liên bang đã chuyển từ Bonn về Berlin. Nhưng Berlin không phải là thủ đô tập trung vì phần lớn các cơ quan liên bang nằm ở thành phố Bonn trực thuộc liên bang hay là trong các thành phố khác. Tiểu bang Berlin. Từ khi tái thống nhất hai quốc gia Đức vào ngày 3 tháng 10 năm 1990, Berlin là một tiểu bang của nước Cộng hòa Liên bang Đức. Số quận trực thuộc Berlin được giảm từ 23 xuống còn 12. Trong quốc hội tiểu bang Berlin, theo Hiến pháp của Berlin là quyền lực lập pháp, hiện nay bao gồm nghị sĩ của các đảng SPD, CDU, Đảng Cánh tả (tiếng Đức: "Linkspartei"), Đảng Xanh ("Büdnis 90/Die Grüne") và FDP. Chính phủ tiểu bang, quyền lực hành pháp, bao gồm thị trưởng và đến 8 nghị sĩ. Thị trưởng đương nhiệm đồng thời cũng là người đại diện cho tiểu bang và thành phố. Các quận. Sau cuộc cải cách vào ngày 10 tháng 5 năm 1998 23 quận lẻ của Berlin trước đây được gộp lại thành 12 quận chính như hiện tại, bao gồm: Mitte, Friedrichshain-Kreuzberg, Pankow, Charlottenburg-Wilmersdorf, Spandau, Steglitz-Zehlendorf, Tempelhof-Schöneberg, Neukölln, Treptow-Köpenick, Marzahn-Hellersdorf, Lichtenberg và Reinickendorf. Hành chính. Vì Berlin là một đơn vị hành chính thống nhất nên các quận không phải là một đơn vị hành chính độc lập và vì thế mà phụ thuộc nhiều vào quốc hội tiểu bang và các cơ quan hành chính dưới quyền của quốc hội tiểu bang giám sát các quận trên bình diện hành chính. Mặc dù vậy, mỗi quận đều có đại diện nhân dân riêng, hội đồng nhân dân quận ("Bezirksverordnetenversammlung") bầu ra ủy ban quận ("Bezirksamt") bao gồm quận trưởng và 5 thành viên. Các quận trưởng họp thành Hội đồng quận trưởng, có chủ tịch là người thị trưởng đương nhiệm, cố vấn cho quốc hội tiểu bang. Huy hiệu và cờ. Biểu tượng của Berlin là một con gấu màu đen đang đứng với lưỡi màu đỏ và móng vuốt màu đỏ, còn được gọi là "Con gấu Berlin". Nguồn gốc của con gấu biểu tượng không được biết rõ. Người ta phỏng đoán rằng biểu tượng này có thể xuất phát từ người thành lập hầu quốc Brandenburg: Albrecht Gấu hay xuất phát từ diễn đạt cách phát âm của tên thành phố. Con gấu được nhìn thấy lần đầu tiên trên con dấu vào năm 1280. Tuy vậy, mãi đến thế kỷ 19 Con gấu Berlin mới vượt qua được chim đại bàng Brandenburg trở thành huy hiệu của thành phố. Cờ tiểu bang Berlin có hình con gấu trên nền trắng và 2 vạch đỏ ờ phía trên và phía dưới. Huy hiệu tiểu bang là con gấu trên khiên bạc phía trên có một vương miện vàng. Thành phố kết nghĩa. Berlin kết nghĩa với: Kinh tế. Tổng sản phẩm nội địa của Berlin trong năm 2006 là 80,3 tỉ Euro. Để so sánh: thành phố Hamburg đạt 73,7 tỉ Euro tổng sản phẩm quốc nội với dân số chỉ vào khoảng gần một nửa, tiểu bang Brandenburg đạt 42,3 tỉ Euro với khoảng 2/3 dân số (Nguồn: Báo cáo của IHK 2000/2001). Trên 80% doanh nghiệp thuộc vào khu vực thứ ba. Động cơ kinh tế chính hiện nay là khu vực dịch vụ với 591.000 lao động chiếm 41% trong tổng số lao động ở Berlin. Truyền thông. Berlin là trụ sở của rất nhiều đài phát thanh và truyền thông địa phương cũng như toàn liên bang. Bên cạnh các đài truyền hình như MTV, Nick, VIVA, VIVA Plus, Sat.1, N24, TV.Berlin hay FAB tại Berlin còn có nhiều đài phát thanh tư nhân. Các đài phát thanh và truyền hình thuộc nhà nước như RBB, "Deutsche Welle" TV và "DeutschlandRadio" cũng có trụ sở tại Berlin. Góp phần vào tầm quan trọng chính trị của thủ đô là các "studio thủ đô" của các đài phát sóng trên toàn liên bang như ARD, ZDF hay RTL. Đa số nhật báo được phát hành tại Berlin. Các báo lớn nhất là "Berliner Zeitung", "Berliner Morgenpost" cũng như là "Tagesspiegel", cả ba đều có một phần lớn chuyên về Berlin. Có tầm quan trọng trên toàn liên bang là tờ taz tự do cánh tả, tờ Welt bảo thủ, tuần báo bảo thủ cánh tả "Junge Freiheit," tờ "Neues Deutschland" thiên về Đảng Cánh tả và tờ "Neue Welt" xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra ở Berlin còn có các tờ báo khổ nhỏ B.Z., "Bild Berlin" và "Berliner Kurier". Bên cạnh đó là có nhiều báo chuyên đăng quảng cáo như "Berliner Woche", "Berliner Abendblatt" hay "Zweite Hand"; ngoài ra còn có nhiều tạp chí thành phố như der Tip, 030 hay Zitty. Berlin cũng là trụ sở của nhà xuất bản Walter de Gruyter và Stringer. Tôn giáo. Hơn 60% dân cư Berlin không đăng ký tôn giáo. Hệ phái tôn giáo lớn nhất là Giáo hội Tin Lành tại Đức (EKD) chiếm 18,7% dân số năm 2010, theo sau là Công giáo chiếm 9,2%. Khoảng 2,7% dân số theo các hệ phái Kitô giáo khác (chủ yếu là Chính thống giáo và các nhóm Tin Lành). Năm 2009 Berlin có khoảng 249.000 người Hồi giáo có đăng ký thành viên. Giữa năm 1992 và 2011, dân số Hồi giáo tăng gần gấp đôi. Có hơn 80 thánh đường Hồi giáo, 10 hội đường Do Thái giáo, và 2 ngôi chùa Phật giáo tọa lạc tại Berlin. Văn hóa và danh lam thắng cảnh. Nhà hát, hòa nhạc và hợp xướng. Berlin nổi tiếng với rất nhiều sân khấu. Nổi tiếng nhất là "Berliner Ensemble", "Volksbühne" (Sân khấu Nhân dân) ở Rosa-Luxemburg-Platz (Quảng trường Rosa Luxembourg), "Friedrichstadt-Palast", "Schaubühne am Lehniner Platz", "Theater des Westens" (Nhà hát Phương Tây), "Renaissance-Theater" (Nhà hát Phục Hưng) và "Deutsches Theater Berlin" (Nhà hát Đức Berlin). Ngoài ra Berlin còn có 3 nhà hát opera: "Staatsoper Unter den Linden" (Nhà hát opera quốc gia "Unter den Linden"), "Deutsche Oper Berlin" (Nhà hát opera Đức ở Berlin) và "Komische Oper Berlin" (Nhà hát opera hài Berlin). Được tổ chức hằng năm ở Berlin là Liên hoan phim quốc tế Berlin "Berlinade" với giải thưởng "Con Gấu Vàng". Bên cạnh đó Berlin cũng có nhiều đoàn hòa nhạc và hợp xướng. Ngoài "Berliner Philharmoniker", "Staatskapelle Berlin" và "Berliner Sinfonie Orchester", ở Berlin còn có nhiều đoàn hòa nhạc và hợp xướng của công ty Rundfunk Orchester und Chöre GmbH. Viện bảo tàng. Berlin có nhiều viện bảo tàng. Ngay từ năm 1841, hòn đảo viện bảo tàng ("Museuminsel") được bao bọc bởi sông Spree và kênh đào Kupfergraben đã được quy định trở thành "một quận cống hiến cho nghệ thuật và khoa học nghiên cứu thời Cổ đại" qua một sắc lệnh của vua. Trong thời gian sau đó nhiều viện bảo tàng đã được thành lập như "Altes Museum" (Viện bảo tàng Cũ) trong "Lustgarten", "Neues Museum" (Viện bảo tàng Mới), "Alte Nationalgalerie" (Phòng trưng bày tranh Quốc gia Cũ), "Bodenmuseum" và "Pergamonmuseum". Các viện bảo tàng này chủ yếu trưng bày hiện vật của thời Cổ đại. Đảo viện bảo tàng đã được đưa vào danh sách di sản văn hóa thế giới của UNESCO năm 1999. Ngoài hòn đảo viện bảo tàng này Berlin còn có nhiều viện bảo tàng khác với nhiều chủ đề đa dạng. "Gemäldegalerie" (Phòng trưng bày tranh), "Neue Nationalgalerie" (Phòng trưng bày tranh Quốc gia Mới) là các viện bảo tàng nghệ thuật, "Bauhaus-Archiv" là một viện bảo tàng kiến trúc. Viện bảo tàng Lịch sử Đức ("Deutsches Historisches Museum") trong Zeughaus trên đường "Unter den Linden" minh họa 2000 năm lịch sử Đức. Viện Bảo tàng Do Thái ("Jüdisches Museum") trưng bày trong một phòng triển lãm cố định lịch sử Do Thái-Đức trong khoảng thời gian tương tự. Lâu đài đi săn Grunewald chứa đựng một bộ sưu tập tranh được lựa chọn của thời gian từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Tập trung trong "Berlin-Dahlem" là nhiều viện bảo tàng về dân tộc học. Viện bảo tàng về Bộ An ninh Quốc gia ngày xưa của nước Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập trong khu Lichtenberg, trên khu đất của Bộ An ninh Quốc gia ngày xưa. Viện bảo tàng tại Checkpoint Charlie trưng bày các khoảng khắc từ lịch sử chia cắt nước Đức. Từ năm 2005, ở gần "Potsdamer Platz" (Quảng trường Potsdam) là tượng đài kỷ niệm những người Do Thái ở châu Âu đã bị giết chết của tác giả Peter Eisenman. Quỹ về Nghệ thuật Phổ do liên bang và tất cả các tiểu bang cùng tài trợ có trụ sở chính tại Berlin. Quỹ ủng hộ cho Lâu đài và Vườn hoa Phổ Berlin-Brandenburg cũng có nhiều trụ sở quan trọng ở Berlin. Cả hai quỹ quản lý, gìn giữ, chăm sóc và bổ sung hiện vật văn hóa của vương quốc Phổ ngày xưa trong các cơ sở có tầm quan trọng quốc tế. Quỹ bảo tàng thành phố Berlin hợp nhất các viện bảo tàng có nhiều truyền thống khác của Berlin. Quỹ được thành lập vào ngày 23 tháng 6 năm 1995 này là viện bảo tàng thành phố lớn nhất Đức. Là Viện bảo tàng Tiểu bang về Nghệ thuật và Lịch sử Berlin, viện bảo tàng này hình thành chủ yếu là từ việc sáp nhập "Märkisches Museum" – thành lập năm 1974 – và "Berlin Museum" (Viện bảo tàng Berlin) – thành lập năm 1962. Nhiều bộ sưu tập, một phần đã thành hình ngay từ thế kỷ 19, là tư liệu cho tất cả các lĩnh vực phát triển của Berlin một cách rất đa dạng, từ những dấu vết định cư đầu tiên của con người trong Thời kỳ Đồ đá cho đến hiện nay. Kiến trúc. Cổng Brandenburg ("Brandenburger Tor") được xây dựng trong khoảng thời gian từ 1788 đến 1791 là biểu trưng của Berlin và cũng là tượng trưng của sự chia cắt nước Đức trong quá khứ. Cổng này dựa theo cổng Propylaea của Acropolis ở Athena, phía trên có một cỗ xe tứ mã với nữ thần chiến thắng Victoria. Thật ra người sáng tạo ra cổng Brandenburg Johann Gottfried Schadow đã nghĩ đến nữ thần hòa bình Eirene khi xây dựng công trình này. Cổng nằm ở cuối đường Unter den Linden về phía tây, con đường chạy dài cho đến đảo viện bảo tàng trên sông Spree và Nhà thờ chính tòa Berlin. Ranh giới giữa hai nước Đức chạy qua đây cho đến khi tái thống nhất Đức vào ngày 3 tháng 10 năm 1990. Nằm trong khu vực này là Nhà hát Quốc gia Unter den Linden ("Staatsoper Unter den Linden") được xây dựng năm 1743 theo phong cách Rococo, Thư viện Quốc gia Berlin ("Staatsbibliothek zu Berlin") được kiến tạo trong khoảng từ 1774 đến 1780, Zeughaus Berlin kiểu Baroque được xây dựng từ 1695 cho đến 1706 theo bản vẽ của Andreas Schlüter và Nhà thờ thánh Hedwig, nhà thờ chính của giáo khu công giáo Berlin. Nhà thờ Pháp ("Französicher Dom") trên Gendarmenmarkt đã là trung tâm của Khu phố Pháp trong thế kỷ 17. Trường Đại học Humboldt Berlin khánh thành năm 1809, nơi nhà triết học Wilhelm Friedrich Hegel đã từng giảng dạy và là nơi đã đào tạo 27 người nhận giải thưởng Nobel. Tại đường Unter der Linden, kiến trúc sư Christian Daniel Rauch đã dựng nên một bức tượng tuyệt hảo, cho thấy vua Friedrich II Đại Đế (trị vì: 1740–1786) trên lưng ngựa. Một con đường mua sắm được ưa chuộng ở Berlin là Kürfürstendam với rất nhiều khách sạn, cửa hàng và nhà hàng. Nhà thờ Tưởng niệm Hoàng đế Wilhelm ("Kaiser-Wilhelm-Gedächtniskirche") được xây dựng từ 1891 đến 1895, bị phá hủy trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhà thờ này nằm ở cuối đại lộ về hướng đông. Phần tháp đổ nát còn lại được giữ nguyên như đài kỷ niệm. Ngay bên cạnh đó là một nhà thờ mới được xây dựng theo thiết kế của Egon Eiermann từ 1959 đến 1961, nằm trên một mặt bằng hình bát giác với một tháp nhà thờ hình lục giác đứng riêng lẻ. Đường nối dài Kurfürstendamm về phía đông là Tauentzienstraße, nơi có Trung tâm mua sắm phương Tây ("Kaufhaus des Westens – KaDeWe"), trung tâm mua sắm lớn nhất trên lục địa châu Âu, và Europa-Center được xây dựng từ 1963 cho đến 1965. Trong ngôi nhà 22 tầng này là rất nhiều cửa hàng, nhà hàng, văn phòng, một rạp chiếu phim và một tầng để ngắm cảnh quang. Trải dài về hướng đông bắc với chiều dài 3 km là công viên lớn nhất Berlin: Vườn thú Lớn ("Großer Tiergarten"). Gần Cổng Brandenburg là hội trường Kongresshalle (Berlin) được kiến tạo năm 1957 và Nhà Quốc hội Đế chế ("Reichtagsgebäude") được xây trong khoảng thời gian từ 1884 cho đến 1894. Tòa nhà này bị hư hại nặng trong cuộc hỏa hoạn vào ngày 27 tháng 2 năm 1933 và cũng bị hư hại nhiều trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Từ năm 1999 tòa nhà này là trụ sở của Quốc hội Liên bang Đức. Cũng đáng đến thăm là Lâu đài Bellevue được xây dựng năm 1785, nơi ở mùa hè của hoàng tử August Ferdinand, em trai của vua Friedrich II Đại đế ("Friedrich der Großen"), ngày nay là dinh tổng thống liên bang Đức. "Orianienburger Straße" (Đường Orianienburg) trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai là trung tâm của Khu phố Do Thái. Nằm trong những nỗ lực tái kiến thiết là việc tái tạo Hội Đường Do Thái Mới (Neue Synagoge) đã bị hư hại nặng do bom trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tái khánh thành vào năm 1995, Hội Đường Do Thái này là trung tâm của nghiên cứu và gìn giữ văn hóa Do Thái. Nằm về hướng bắc là nghĩa trang Do Thái lâu đời nhất của thành phố: Nghĩa trang Do Thái Berlin-Mitte. Nghĩa trang được biết đến nhiều hơn rất nhiều là Nghĩa trang Do Thái Berlin-Weißensee, là nghĩa trang Do Thái lớn nhất châu Âu. Nằm về phía đông của hai nhánh sông Spree bao bọc lấy đảo Spree là Quảng trường Alexander ("Alexanderplatz") với nhiều cửa hàng và nhà hàng, ngay gần đấy là Tháp truyền hình Berlin cao 368 m, công trình kiến trúc cao nhất Berlin, Nhà thờ Đức bà (Berlin) ("Marienkirche (Berlin)") và Tòa thị chính Berlin ("Rotes Rathaus"). Đáng đến tham quan trong trung tâm phía đông Berlin là khu phố cổ Prenzlauer Berg và các con đường mua sắm "Schönhauser Alle" và "Kastanienalle". Từ năm 2006 Cung điện Cộng hòa ("Palast der Republik") bị đập bỏ. Theo kế hoạch, Cung điện Thành phố Berllin ("Berlliner Stadtschloss") sẽ được tái xây dựng tại đây cho đến năm 2015. Thời điểm này cũng không chắc chắn vì hiện nay đang thiếu tiền. Quảng trường Potsdam ("Potsdamer Platz") là một trọng điểm giao thông trong trung tâm Berlin với nhiều đường lớn tỏa ra từ đây. Quảng trường được xây dựng theo lệnh chiếu chỉ của vua Phổ Friedrich Wilhelm I vào năm 1741. Vào năm 1923, lịch sử truyền thanh ở Đức bắt đầu trong Nhà Vox ("Vox-Haus") ở ngay gần đấy. Cho đến năm 1940, Quảng trường Potsdam là quảng trường có mật độ giao thông cao nhất châu Âu. Sau nhiều cuộc bỏ bom của quân đội Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai quảng trường chỉ còn là đống gạch vụn. Năm 1961 Quảng trường Potsdam bị chia cắt bởi Bức tường Berlin và vì thế khu vực này suy sụp. Từ vài năm nay, nơi Bức tường Berlin trước kia được xây cắt ngang qua quảng trường được đánh dấu bằng cách lót đá. Việc xây dựng các nhà cao tầng ở Quảng trường Potsdam sau ngày tái thống nhất với rất nhiều cửa hàng và quán ăn đã phát triển nơi đây trở thành chiếc cầu nối giữa 2 nửa thành phố đã từng bị chia cắt. Trong khu Berlin-Charlottenburg là Sân vận động Olympia Berlin được xây dựng cho Thế vận hội mùa hè năm 1936 cũng như là Tháp truyền thanh Berlin cao 150 m, được xây dựng trong khoảng thời gian 1924-1925 nhân dịp Triển lãm Truyền thanh Quốc tế ("Internationale Funkausstellung Berlin - IFA") lần thứ ba và đã nhanh chóng trở thành biểu tượng cho Berlin. Các thắng cảnh khác của thành phố là Lâu đài Charlottenburg ("Schloss Charlottenburg") được bắt đầu xây dựng năm 1695, một công trình xây dựng tiêu biểu theo kiểu Baroque của dòng họ Hohenzollern với bộ sưu tập tranh có tầm quan trọng lớn, Thành Spandau và Lâu dài Tegel (cũng được gọi là Lâu đài Humbolt) được xây dựng theo phong cách cổ điển, đã từng là cơi cư ngụ của nhà nghiên cứu tự nhiên và địa lý Alexander von Humbolt. Công viên. Berlin là một thành phố xanh: Bên cạnh nhiều khu rừng rộng trong vùng phía tây và đông nam thuộc thành phố, Berlin còn có một loạt công viên lớn và hầu như toàn bộ đường phố đều có cây trồng dọc theo. Hơn 2.500 vườn hoa, khu nghỉ ngơi và công viên xanh có diện tích tổng cộng trên 5.500 hecta tạo nên nhiều khả năng nghỉ ngơi và sử dụng thời gian rảnh rỗi đa dạng. Ngay trong trung tâm thành phố là Vườn thú Lớn ("Großer Tiergarten"). Công viên này là công viên lâu đời nhất và với 210 hecta cũng là công viên lớn nhất và quan trọng nhất của Berlin, đã được tạo dáng trong tiến trình của hơn 500 năm qua. Nguyên thủy ngày xưa là một khu rừng rộng trước thành phố, được giới quý tộc vương quốc Phổ dùng để săn bắn và cưỡi ngựa, công viên dần dần bị bao bọc bởi thành phố liên tục phát triển. Ngày nay công viên trải dài từ Nhà ga Vườn thú Berlin cho đến Cổng Brandenburg và nằm ngay cạnh khu vực của quốc hội và chính phủ. Một vài đường lớn cắt xuyên qua Vườn thú Lớn, trong đó là Đường ngày 17 tháng 6 là trục đông-tây. Các đường này gặp nhau tại Ngôi sao Lớn ("Großer Stern"), ở chính giữa là Đài Chiến thắng ("Siegessäule") được xây dựng từ năm 1939. Vườn thú Lớn được tạo dáng theo quang cảnh công viên tự nhiên: Đặc trưng của công viên này là các bãi cỏ rộng lớn có nhiều cụm cây và nhiều đường nước xuyên qua cũng như là hồ với đảo nhỏ và nhiều cầu cũng như đại lộ. Nhiều vườn hoa như Vườn Anh, đảo Luisen và Vườn Hồng tạo thành các điểm nhấn về mặt vườn cây cảnh. Công viên Treptow ("Treptower Park") trong vùng đông nam Berlin, bên cạnh Vườn Thú, là một trong những công viên quan trọng nhất của thành phố. Công viên được kiến tạo từ 1876 đến 1882 bởi giám đốc xây dựng công viên đầu tiên của Berlin Gustav Mayer và là địa điểm trưng bày của Triển lãm Nghề nghiệp Berlin Lớn năm 1896. Công viên nằm cạnh sông Spree này là một trong những địa điểm dạo chơi được người dân Berlin ưa thích nhất, không những chỉ vì Nhà hàng Zenner được Carl Ferdinand Langhans xây năm 1821/1822, thời đấy có tên là Quán ăn cạnh sông Spree ("Gasthaus an der Spree"). Một điểm đặc biệt trong các công viên là Vườn Thực vật Berlin ("Botanischer Garten Berlin"). Nằm trong khu vực tây nam của thành phố, bên cạnh mục đích chính là phục vụ khoa học (vườn thuộc về trường Đại học Tự do Berlin), vườn cũng được sử dụng như công viên nghỉ ngơi. Tiền thân của vườn trước đây đã có từ năm 1697 trên khu đất của Kleinstpark ngày nay trong Schöneberg. Việc xây dựng công viên mới tại Dahlem bắt đầu từ năm 1897. Với một diện tích trên 43 hecta và vào khoảng 22.000 loại cây khác nhau, vườn thực vật này thuộc vào trong số các vườn thực vật lớn nhất và quan trọng nhất trên toàn thế giới và lớn nhất châu Âu. Nhà Nhiệt đới cao 25 m, rộng 30 m và dài 60 m là nhà kính trồng cây lớn nhất thế giới. Ngoài ra Berlin có hai vườn bách thú: Vườn Bách thú Berlin ("Zoologischer Garten Berlin") và Vườn Thú Berlin ("Tierpark Berlin"). Vườn bách thú Berlin ở Charlottenburg được khánh thành ngay từ năm 1844 là vườn bách thú lâu đời nhất của Đức và đồng thời cũng là vườn có nhiều loài thú nhất trên thế giới (khoảng 14.000 con thú của 1.500 loài). Vườn Thú Berlin trẻ tuổi hơn rất nhiều và việc thành lập vườn bách thú này hàm ơn sự chia cắt nước Đức sau Chiến tranh thế giới thứ hai: Vì Vườn Bách thú Berlin nằm trong khu vực của quân đội Anh nên thủ đô của nước Cộng hòa Dân chủ Đức không có một cơ sở bách thú riêng. Vì thế mà Vườn thú Berlin được thành lập năm 1954 ở Friedrichsfelde. Với diện tích 160 hecta, vườn bách thú này là vườn bách thú lớn nhất châu Âu. Nhiều vườn hoa khác có ảnh hưởng lớn đến gương mặt xanh của Berlin: bên cạnh các vườn hoa trong lâu đài Charlottenburg, lâu đài Glienicke và trên Đảo Công ("Pfaueninsel") (hai địa điểm cuối là di sản văn hóa của UNESCO) là các vườn hoa lịch sử Lustgarten, Công viên Viktoria ("Viktoriapark"), Công viên Rudolph Wilde ("Rudolph-Wilde-Park") và Công viên Schiller ("Schillerpark") cũng như nhiều công viên nhân dân lớn khác. Ngoài ra ở phía nam của thành phố là Vườn Britz ("Britzer Garten"), đã là nơi Triển lãm Vườn Liên bang năm 1985. Đối trọng về phía đông là Công viên Marzahn ("Erholungspark Marzahn") rộng 20 hecta, được khánh thành năm 1987 cho "Triển lãm Vườn Berlin". Mới được kiến tạo là Công viên Bức tường ("Mauerpark") trên dãi đất tử thần ngày xưa dọc theo Bức tường Berlin, Công viên Tự nhiên Südgelände ("Natur-Park Südgelände"), Công viên Ga Görlitz và Công viên Vòng cung Spree ("Spreebogenpark") gần Nhà ga Chính và khu vực các cơ quan của chính phủ. Thời gian nhàn rỗi và nghỉ ngơi. Vào khoảng 18% diện tích của thành phố Berlin là rừng. Phòng lâm nghiệp của thành phố quản lý diện tích rừng trong thành phố lớn nhất Đức (khoảng 29.000 hecta). Được biết đến nhiều nhất chính là Grunewald chạy dài từ chuỗi hồ Grunewald cho đến sông Havel về phía tây. Hồ Wann Lớn ("Große Wannsee") có sông Havel chảy xuyên qua chiếm một diện tích 260 hecta. Với hồ này, khu Zehlendorf, một khu dân cư được ưa chuộng, có khu nghỉ ngơi được yêu thích nhất Berlin bao gồm các loại thể thao trên mặt nước, đi thuyền du ngoạn và bãi tắm Warnsee. Hồ Müggel ("Müggelsee") và đồi Müggel nằm trong vùng đông nam của Berlin là điểm du ngoạn được yêu thích trong suốt cả năm. Bãi tắm Rahnsdorf là điểm thu hút khách trong mấy tháng mùa hè. Hồ Müggel là hồ lớn nhất của Berlin. Hồ chiếm diện tích 7,4 km² (dài nhất 4,3 km, rộng nhất 2,6 km) và sâu đến 8 m. Hồ thường được gọi là Hồ Mügel Lớn và nó có người anh em là Hồ Müggel Nhỏ chỉ có diện tích 0,16 km². Hồ này và các ngọn đồi Müggel nằm ở rìa phía nam, với độ cao 115,4 m là điểm cao nhất Berlin, thành hình trong kỷ Pleistocene. Tháp Müggel trên sườn đồi phía nam của đồi Müggel Nhỏ được xây mới từ 1959 đến 1961 sau khi tháp cũ đã bị cháy trong năm 1958. Đứng trên tháp này có thể nhìn thấy bao quát từ các hồ và các khu rừng trong vùng phụ cận cho đến hình dáng thành phố Berlin ở chân trời. Thể thao. Ở Berlin có rất nhiều đội thể thao, nhưng phần lớn đều mang tính nghiệp dư. Tuy nhiên cũng có các đội thể thao chuyên nghiệp như đội bóng đá Hertha BSC và Union Berlin, đội khúc côn cầu trên băng Eisbären Berlin (dịch: "Bầy gấu trắng Berlin"), và đội bóng rổ Alba Berlin hay đội bóng bầu dục Berlin Thunder. Có đến ba đội bóng đại diện cho Berlin trong Giải vô địch bóng chuyền liên bang. Nổi tiếng nhất có lẽ là SCC Charlotteburg. Các vận động viên bóng nước của đội Wasserfreunde Spandau 04 thường xuyên là vô địch bóng nước Đức từ 1979 cho đến 2005, chỉ với một ngoại lệ duy nhất trong năm 1993. Hàng năm, ở Berlin được tổ chức giải Ma-ra-tông nổi tiếng thế giới Berlin-Marathon. Trận chung kết của Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 đã diễn ra tại đây vào ngày 9 tháng 7 năm 2006. Sân vận động Olympia đã được sửa chữa lại toàn bộ nhân dịp này. Trong năm 2009 Giải vô địch điền kinh thế giới 2009 sẽ được tổ chức tại đấy. Cơ sở hạ tầng. Giao thông công cộng. Phục vụ cho giao thông công cộng nội thành là 15 đường S-Bahn (do Công ty TNHH S-Bahn Berlin vận hành) cũng như là 9 đường tàu điện ngầm, 22 đường tàu điện, 150 tuyến xe buýt và 6 tuyến phà (tất cả đều được vận hành bởi Công ty Các Xí nghiệp Giao thông Berlin "Berliner Verkehrsbetriebe – BGV"). Nội thành được cắt xuyên theo hướng đông – tây bởi đường tàu điện được xây dựng trên cao, chạy song song với S-Bahn cũng như với giao thông khu vực và xa giao thông xa. Đường tàu điện này nối Nhà ga Berlin Wetskreuz với Nhà ga Berlin Ostkreuz, chạy qua các nhà ga Berlin-Charlottenburg, Berlin Zoologischer Garten, Nhà ga Chính Berlin, Friedrichstraße, Quảng trường Alexander và Nhà ga Đông (Ostbahnhof). Tuyến tàu điện ngầm số 9 đảm nhận phần lớn nhất của lượng hành khách giao thông trên trục bắc – nam, được bổ sung bởi tuyến S-Bahn bắc – nam một phần chạy ngầm dưới đất. Tuyến S-Bahn cắt tuyến tàu điện nói trên tại Nhà ga Friedrichstraße. Bao bọc nội thành là tuyến tàu điện vòng đai. Tất cả các tuyến khác đều cắt ngang tuyến này. Vào ngày 28 tháng 5 năm 2006, Nhà ga Chính Berlin được đưa vào sử dụng. Với nhà ga này, giao thông tàu hỏa vùng và xa lần đầu tiên có một nhà ga trung tâm ở Berlin theo cái gọi là Phương án Nấm. Từ thời điểm đấy, giao thông xa phần lớn được dẫn từ Nhà ga Südkreuz Berlin dưới Đường hầm Vườn thú qua Nhà ga Chính berin cho đến Nhà ga Gesundbrunnen Berlin. Nhà ga nối toa tàu Seddin ở phía nam gần Potsdam cũng là một giao điểm đường tàu hỏa. Các tuyến đường tàu hỏa của Công ty Tàu hỏa Đức ("Deutsche Bahn") và 2 tuyến đường của InterConnex phục vụ cho giao thông vùng. Đường cao tốc. Nội thành được bao bọc từ phía tây bởi một vòng cung xa lộ (A 100 – vòng đai thành phố Berlin), trong tương lai sẽ được bổ sung thành một vòng tròn vành đai và sẽ là một vành đai xa lộ thành phố. Từ A 100 có các đường cao tốc sau đây trong phạm vi thành phố di về hướng Vòng đai Berlin: Thêm vào đó còn có đường cao tốc A 114 từ phía bắc thành phố đi hướng ra đường cao tốc A 10 (đi Stettin). Cảng hàng không. Thuộc về Berlin là ba sân bay Tegel, Tempelhof và Schönefeld, mặc dù sân bay Schönefeld nằm trên lãnh thổ của bang Brandenburg. Hiện tại Berlin và Brandenburg đang mở rộng sân bay Schönefeld, xây dựng Sân bay quốc tế Berlin-Brandenburg để trở thành sân bay lớn nhất nước Đức, (sân bay lớn nhất nước Đức hiện nay là Cảng hàng không Frankfurt-Main), một mặt để giảm tải cho sân bay Tegel và Tempelhof nằm trong trung tâm thành phố và cũng như đóng cửa hai sân bay này, mặt khác để tăng thêm sức cạnh trạnh nội địa và quốc tế của sân bay Schönefeld và đem lại lợi nhuận cho Berlin và Brandenburg, sân bay này đã khởi công xạy dựng từ cuối năm 2006 với tổng diện tích là 1470 ha. Với Phi trường Johannisthal khánh thành vào năm 1909, Berlin đã có phi trường đầu tiên của nước Đức (đóng cửa vào năm 1995). Giao thông đường thủy nội địa. Berlin nằm trong trung tâm của khu vực đường nước liên bang phía Đông. Giao thông thủy có ba đường thủy đến Berlin, trong đó quan trọng nhất là đường liên kết thông qua sông Havel, kênh đào Elbe-Havel và kênh đào Mittelland đi đến sông Elbe và Biển Bắc hay sông Weser và sông Rhein. Chỉ được mở rộng có giới hạn và có mật độ giao thông ít hơn là đường thủy Spree-Oder như là đường liên kết qua sông Spree đến sông Oder và đến Schlesien. Bốn cảng có thể sử dụng để chuyển tải: Cảng Đông ("Osthafen"), Cảng Kölln Mới ("Neukölln"), Cảng Nam cũng như Cảng Tây. Cảng cuối cùng nằm trong vùng Berlin-Moabit, vùng ranh của nội thành Berlin và là cảng lớn và quan trọng nhất trong số bốn cảng. Cảng bao gồm một trung tâm hàng hóa và tiếp vận ("logistics") tạo khả năng chuyển tải giữa tàu thủy nội địa, tàu hỏa và xe tải. Điện lực. Việc cung cấp điện ở Berlin có một vài tính đặc biệt. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã có kế hoạch cung cấp điện cho Berlin từ nhà máy điện Dessau thông qua một đường dây điện cao thế một chiều ngầm dưới đất. Công việc xây dựng được bắt đầu vào năm 1943 nhưng không còn có thể đưa vào sử dụng. Trong thời gian chia cắt, Tây-Berlin bị cắt khỏi mạng lưới điện của vùng chung quanh. Thực hiện việc cung cấp điện là các nhà máy nhiệt điện nằm trong khu vực của thành phố như nhà máy điện Rueter-West, Wilmersdorf và các nhà máy phát điện khác. Để làm đệm cho những lúc cao tải, nhiều ắc quy đã được lắp đặt trong một số nhà máy điện từ những năm 1980. Thông qua máy đổi chiều chúng được nối với mạng lưới điện và trong thời gian thấp tải được nạp điện, trong thời gian cao tải sẽ phát điện. Mãi đến 1993 đường dây điện kết nối với vùng chung quang bị cắt vào năm 1952 mới được tái kết nối. Trong các quận phía tây của Berlin gần như tất cả các đường dây điện đều được chôn ngần dưới đất,chỉ có một đường dây 380 kV và một đường dây 110 kV là đường dây trên cao, dẫn từ nhà máy điện Rueter ra đến đường cao tốc thành phố. Xuyên qua Berlin là đường dây điện xoay chiều 380 kV dài nhất Đức và có nhiều khả năng là đường dây điện đắt tiền nhất Đức. Nghiên cứu và đào tạo. Đại học và nghiên cứu. Berlin là nơi tập trung các cơ sở khoa học và nghiên cứu đông nhất châu Âu. Trong thành phố tròn 140.000 sinh viên học tại tổng cộng 4 trường đại học tổng hợp ("Universität"), 3 trường đại học nghệ thuật, 7 trường đại học thực hành ("Fachhochschule") và 10 trường đại học tư nhân. Chỉ riêng 4 trường đại học tổng hợp Berlin đã có 112.000 sinh viên. Đó là các trường: Khoa Y của trường Đại học Tổng hợp Tự do và của trường Đại học Humbolt được sáp nhập vào năm 2003 trở thành "Charité – Universitätsmedizin Berlin", là khoa Y lớn nhất châu Âu với 4 cơ sở. Hơn 50.000 nhân viên giảng dạy, nghiên cứu và làm việc tại hơn 70 cơ sở nghiên cứu độc lập với các trường đại học và do nhà nước tài trợ. Các tổ chức nghiên cứu lớn trên bình diện quốc gia cũng có nhiều viện tại Berlin như Viện Fraunhofer, Helmholtz, Leibnitz và Max Plack cũng như là nhiều bộ liên bang khác nhau với tổng cộng 8 viện nghiên cứu. Phần lớn các cơ sở nghiên cứu đều tập trung ở "Berlin-Buch", "Berlin-Charlottenburg", "Berlin-Dahlem", "Berlin-Mitte" cũng như là ở địa điểm tập trung dành cho khoa học và kinh tế ở Adlershof: WISTA. Hằng năm có tròn 1,8 tỉ Euro tiền nhà nước được đầu tư hỗ trợ, hơn 13% trong số các đăng ký bằng phát minh ở Đức đến từ Berlin. Hệ thống trường phổ thông. Trường phổ thông cơ sở ở Berlin bao gồm 6 lớp, tiếp theo đó là hệ thống trường phổ thông trung học được chia làm ba loại: "Hauptschule" (hết lớp 9), "Realschule" (hết lớp 10) và "Gymnasium" (hết 12). Trong tháng 2 năm 2004 một đạo luật giáo dục mới được thông qua. Một số cải cách chính bao gồm:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Oxy (tiếng Anh: "oxygen" ; bắt nguồn từ từ tiếng Pháp "oxygène" ), hay dưỡng khí, là một nguyên tố hóa học có ký hiệu O và số hiệu nguyên tử 8. Nó là một thành viên của nhóm chalcogen trong bảng tuần hoàn, một phi kim phản ứng mạnh và là một chất oxy hóa dễ tạo oxide với hầu hết các nguyên tố cũng như với các hợp chất khác. Sau hydro và heli, oxy là nguyên tố phong phú thứ ba trong vũ trụ tính theo khối lượng. Oxy là nguyên tố phi kim hoạt động rất mạnh. Nó có thể tạo thành hợp chất oxide với hầu hết các nguyên tố khác. Ở điều kiện nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn hai nguyên tử oxy kết hợp với nhau tạo thành phân tử oxy không màu, không mùi, không vị có công thức . Khí oxy hóa lỏng ở nhiệt độ -183oC, màu xanh nhạt. Oxy phân tử (O2, thường được gọi là oxy tự do) trên Trái Đất là không ổn định về mặt nhiệt động lực học. Sự xuất hiện trong thời kỳ đầu tiên của nó trên Trái Đất là do các hoạt động quang hợp của vi khuẩn kỵ khí (vi khuẩn cổ và vi khuẩn). Sự phổ biến của nó từ sau đó đến ngày nay là do hoạt động quang hợp của tảo biển. Oxy là nguyên tố phổ biến xếp hàng thứ 3 trong vũ trụ theo khối lượng sau hydro và heli và là nguyên tố phổ biến nhất theo khối lượng trong vỏ Trái Đất, chiếm gần một nửa vỏ Trái đất ở dạng oxide. Khí oxy chiếm 20,9% về thể tích trong không khí. Oxy phân tử cung cấp năng lượng được giải phóng trong quá trình đốt cháy và hô hấp tế bào hiếu khí, và nhiều lớp phân tử hữu cơ chính trong cơ thể sống chứa các nguyên tử oxy, chẳng hạn như protein, acid nucleic, carbohydrate và chất béo, cũng như thành phần chính vô cơ hợp chất của vỏ, răng và xương động vật. Phần lớn khối lượng của các sinh vật sống là oxy như một thành phần của nước, thành phần chính của các dạng sống. Oxy liên tục được bổ sung trong bầu khí quyển của Trái đất bằng quá trình quang hợp, sử dụng năng lượng của ánh sáng mặt trời để tạo ra oxy từ nước và carbon dioxide. Oxy quá phản ứng hóa học để vẫn là một phần tử tự do trong không khí mà không được bổ sung liên tục bởi hoạt động quang hợp của các sinh vật sống. Một dạng khác (dạng allotrope) của oxy, ozon () hấp thụ mạnh mẽ bức xạ tia cực tím UVB và tầng ozon ở độ cao giúp bảo vệ sinh quyển khỏi bức xạ cực tím. Tuy nhiên, ozon hiện diện trên bề mặt là sản phẩm phụ của khói và do đó là chất ô nhiễm. Oxy được Michael Sendivogius phân lập trước năm 1604, nhưng người ta thường tin rằng nguyên tố này được phát hiện độc lập bởi Carl Wilhelm Scheele, ở Uppsala, vào năm 1773 hoặc sớm hơn, và Joseph Priestley ở Wiltshire, vào năm 1774. Người ta thường ưu tiên cho Priestley vì tác phẩm của ông được xuất bản trước. Tuy nhiên, Priestley gọi oxy là "không khí khử khoáng chất" và không công nhận nó là một nguyên tố hóa học. Tên gọi "oxy" được đặt ra vào năm 1777 bởi Antoine Lavoisier, người đầu tiên công nhận oxy như một nguyên tố hóa học và mô tả chính xác vai trò của nó trong quá trình cháy. Các ứng dụng phổ biến của oxy bao gồm sản xuất thép, nhựa và hàng dệt, hàn và cắt thép và các kim loại khác, đẩy tên lửa, liệu pháp oxy và các hệ thống hỗ trợ sự sống trong máy bay, tàu ngầm, tàu vũ trụ và lặn dưới nước. Lịch sử. Các thí nghiệm ban đầu. Một trong những thí nghiệm đầu tiên được biết về mối quan hệ giữa đốt cháy và không khí đã được thực hiện vào thế kỷ thứ 2 TCN. Tác giả người Hy Lạp về cơ học, Philo của Byzantium. Trong tác phẩm "Pneumatica" của mình, Philo đã quan sát thấy rằng việc đảo một ống nghiệm qua một ngọn nến đang cháy và bao quanh cổ của ống bằng nước dẫn đến một số nước dâng lên. Philo phỏng đoán không chính xác rằng các phần của không khí trong ống đã được chuyển thành nguyên tố cổ điển lửa và do đó có thể thoát ra qua các lỗ của ống thủy tinh. Nhiều thế kỷ sau Leonardo da Vinci đã phát triển dựa trên công trình của Philo bằng cách quan sát rằng một phần không khí được tiêu thụ trong quá trình đốt cháy và hô hấp. Vào cuối thế kỷ 17, Robert Boyle đã chứng minh rằng không khí là cần thiết cho quá trình đốt cháy. Nhà hóa học người Anh John Mayow (1641-1679) đã tinh chỉnh công trình này bằng cách chỉ ra rằng lửa chỉ cần một phần không khí mà ông gọi là "Spiritus nitroaereus". Trong một thí nghiệm, ông đã phát hiện ra rằng việc đặt một con chuột hoặc một ngọn nến sáng trong một hộp kín trên mặt nước đã khiến nước dâng lên và thay thế một phần mười bốn thể tích không khí trước khi dập tắt lửa. Từ đó, ông phỏng đoán rằng oxygen được tiêu thụ trong cả hai quá trình hô hấp và đốt cháy. Mayow quan sát thấy antimon sẽ tăng trọng lượng khi được đun nóng và suy ra rằng nitroaereus phải kết hợp với nó. Ông cũng cho rằng phổi tách nitroaereus khỏi không khí và truyền nó vào máu và nhiệt trong động vật và chuyển động cơ bắp là do phản ứng của nitroaereus với một số chất trong cơ thể. Các ghi chép về những suy xét này và các thí nghiệm và ý tưởng khác đã được xuất bản năm 1668 trong tác phẩm "Tractatus" của ông trong phần "Hô hấp". Lý thuyết phlogiston. Robert Hooke, Ole Borch, Mikhail Lomonosov và Pierre Bayen đều tạo ra oxy trong các thí nghiệm vào thế kỷ 17 và 18 nhưng không ai trong số họ công nhận nó là một nguyên tố hóa học. Điều này có thể một phần là do sự phổ biến của học thuyết về đốt cháy và ăn mòn được gọi là "lý thuyết phlogiston", khi đó là lời giải thích được ưa chuộng của các quá trình trên. Được nhà giả kim người Đức JJ Becher thành lập vào năm 1667, và được nhà hóa học Georg Ernst Stahl sửa đổi vào năm 1731, lý thuyết phlogiston tuyên bố rằng tất cả các vật liệu dễ cháy được làm từ hai phần. Một phần, được gọi là phlogiston, đã bị loại bỏ khi chất chứa nó bị đốt cháy, trong khi phần không bị loại bỏ được cho là dạng thật của nó, với tên khác là calx. Các vật liệu dễ cháy mà để lại ít cặn, như gỗ hoặc than, được cho là được làm chủ yếu từ phlogiston; các chất không cháy mà có thể bị ăn mòn, như sắt, được cho là chứa rất ít phlogiston. Không khí không đóng một vai trò trong lý thuyết phlogiston, cũng không có bất kỳ thí nghiệm định lượng ban đầu nào được thực hiện để kiểm tra ý tưởng; thay vào đó, nó dựa trên các quan sát về những gì xảy ra khi một thứ gì đó cháy, rằng hầu hết các vật thể thông thường dường như trở nên nhẹ hơn và dường như mất đi thứ gì đó trong quá trình cháy. Khám phá. Nhà giả kim, nhà triết học và bác sĩ người Ba Lan Michael Sendivogius (Michał Sędziwój) trong tác phẩm của mình "De Lapide Philosophorum Tractatus duodecim e naturae fonte et Manuali experientia depromti" (1604) đã mô tả một chất có trong không khí.), và chất này giống hệt với oxy. Sendivogius, trong các thí nghiệm được thực hiện từ năm 1598 đến 1604, đã nhận ra một cách đúng đắn rằng chất này tương đương với sản phẩm phụ dạng khí được giải phóng do sự phân hủy nhiệt của kali nitrat. Theo quan điểm của Bugaj, sự cô lập oxy và sự liên kết thích hợp của chất này với phần không khí cần thiết cho sự sống, tạo ra đủ bằng chứng cho việc Sendivogius đã phát hiện ra oxy. Tuy nhiên, phát hiện này của Sendivogius thường bị các thế hệ các nhà khoa học và nhà hóa học từ chối. Người ta cũng thường cho rằng oxy được phát hiện lần đầu tiên bởi dược sĩ Thụy Điển Carl Wilhelm Scheele. Ông đã tạo ra khí oxy bằng cách đun nóng oxide thủy ngân (HgO) và các nitrat khác nhau vào năm 1771–2. Scheele gọi khí là "không khí lửa" vì khi đó nó là tác nhân duy nhất được biết đến để hỗ trợ quá trình đốt cháy. Ông đã viết một tường thuật về khám phá này trong một bản thảo có tựa đề "Luận về không khí và lửa", mà ông đã gửi cho nhà xuất bản của mình vào năm 1775. Tài liệu đó được xuất bản năm 1777. Cùng lúc đó, vào ngày 1 tháng 8 năm 1774, một thí nghiệm do giáo sĩ người Anh Joseph Priestley tiến hành đã tập trung ánh sáng mặt trời vào oxide thủy ngân chứa trong một ống thủy tinh, nó giải phóng một loại khí mà ông đặt tên là "không khí khử chất độc". Ông lưu ý rằng nến cháy sáng hơn trong khí và một con chuột hoạt động nhiều hơn và sống lâu hơn khi hít thở nó. Sau khi tự mình hít thở khí, Priestley viết: "Cảm giác của nó đối với phổi của tôi không khác nhiều so với không khí thông thường, nhưng tôi tưởng tượng rằng vú của tôi cảm thấy nhẹ và dễ dàng một cách kỳ lạ trong một thời gian sau đó." Priestley công bố những phát hiện của mình vào năm 1775 trong một bài báo có tiêu đề "Ghi chép về những khám phá sâu hơn trong không khí", nằm trong tập thứ hai của cuốn sách của ông có tựa đề "Thí nghiệm và quan sát về các loại không khí khác nhau". Vì ông đã công bố những phát hiện của mình trước, nên Priestley thường được ưu tiên trong việc xác định ai khám phá ra oxy. Nhà hóa học người Pháp Antoine Laurent Lavoisier sau đó tuyên bố đã phát hiện ra chất mới một cách độc lập. Priestley đến thăm Lavoisier vào tháng 10 năm 1774 và nói với anh ta về thí nghiệm của mình và cách anh ta giải phóng khí mới. Scheele cũng đã gửi một bức thư cho Lavoisier vào ngày 30 tháng 9 năm 1774, trong đó mô tả việc ông đã khám phá ra chất trước đây chưa từng được biết đến, nhưng Lavoisier không bao giờ thừa nhận đã nhận nó. (Một bản sao của bức thư được tìm thấy trong đồ đạc của Scheele sau khi ông qua đời.) Đóng góp của Lavoisier. Lavoisier đã tiến hành các thí nghiệm định lượng đầy đủ đầu tiên về quá trình oxy hóa và đưa ra lời giải thích chính xác đầu tiên về cách thức hoạt động của quá trình đốt cháy. Ông đã sử dụng những thí nghiệm này và những thí nghiệm tương tự, tất cả đều bắt đầu vào năm 1774, để làm mất uy tín của thuyết phlogiston và để chứng minh rằng chất được phát hiện bởi Priestley và Scheele là một nguyên tố hóa học. Trong một thí nghiệm, Lavoisier đã quan sát thấy rằng không có sự gia tăng tổng thể về trọng lượng khi thiếc và không khí được đốt nóng trong một thùng kín. Ông lưu ý rằng không khí tràn vào khi ông mở thùng chứa, điều này cho thấy một phần không khí bị mắc kẹt đã được tiêu thụ. Ông cũng lưu ý rằng khối lượng thiếc đã tăng lên và sự gia tăng đó cũng giống như trọng lượng của không khí lao vào. Điều này và các thí nghiệm khác về quá trình đốt cháy đã được ông ghi lại trong cuốn sách "Sur la combustion en général", được xuất bản năm 1777. Trong công trình đó, ông đã chứng minh rằng không khí là hỗn hợp của hai chất khí; 'không khí quan trọng', cần thiết cho quá trình đốt cháy và hô hấp, và "azote" (Gk. "" "vô hồn"), cũng không hỗ trợ. "Azote" sau đó trở thành "nitơ" trong tiếng Anh, mặc dù nó vẫn giữ tên trước đó trong tiếng Pháp và một số ngôn ngữ châu Âu khác. Lavoisier đổi tên 'không khí quan trọng' thành "oxygène" vào năm 1777 từ gốc Hy Lạp "" "(oxys)" (acid, theo nghĩa đen là "sắc", từ mùi vị của acid) và "-γενής (-genēs)" (người sản xuất, nghĩa đen là người sinh ra), bởi vì ông ấy đã nhầm tưởng rằng oxy là thành phần của tất cả các acid. Các nhà hóa học (chẳng hạn như Sir Humphry Davy vào năm 1812) cuối cùng xác định rằng Lavoisier đã sai trong vấn đề này (hydro tạo cơ sở cho hóa học acid), nhưng khi đó cái tên này đã quá nổi tiếng. "Oxygen" đã đi vào ngôn ngữ tiếng Anh bất chấp sự phản đối của các nhà khoa học Anh và thực tế là Priestley người Anh đã đầu tiên cô lập chất khí này và viết về nó. Điều này một phần là do một bài thơ ca ngợi khí có tựa đề "Oxygen" trong cuốn sách nổi tiếng "The Botanic Garden" (1791) của Erasmus Darwin, ông nội của Charles Darwin. Lịch sử sau này. Giả thuyết nguyên tử ban đầu của John Dalton cho rằng tất cả các nguyên tố đều là nguyên tố cấu tạo và các nguyên tử trong các hợp chất thông thường sẽ có tỷ lệ nguyên tử đơn giản nhất so với nhau. Ví dụ, Dalton giả định rằng công thức của nước là HO, dẫn đến kết luận rằng khối lượng nguyên tử của oxy gấp 8 lần khối lượng của hydro, thay vì giá trị hiện đại là khoảng 16. Năm 1805, Joseph Louis Gay-Lussac và Alexander von Humboldt đã chỉ ra rằng nước được tạo thành từ hai thể tích hydro và một thể tích oxy; và đến năm 1811 Amedeo Avogadro đã đưa ra cách giải thích chính xác về thành phần của nước, dựa trên cái mà ngày nay gọi là định luật Avogadro và các phân tử nguyên tố gồm hai nguyên tử trong các khí đó. Vào cuối thế kỷ 19, các nhà khoa học nhận ra rằng không khí có thể được hóa lỏng và các thành phần của nó được cô lập bằng cách nén và làm mát nó. Sử dụng phương pháp phân tầng, nhà hóa học và vật lý người Thụy Sĩ Raoul Pierre Pictet đã làm bay hơi lưu huỳnh dioxide lỏng để hóa lỏng carbon dioxide, sau đó được làm bay hơi để làm lạnh khí oxy đủ để hóa lỏng nó. Ông đã gửi một bức điện vào ngày 22 tháng 12 năm 1877 cho Viện Hàn lâm Khoa học Pháp ở Paris thông báo về phát hiện của ông về oxy lỏng. Chỉ hai ngày sau, nhà vật lý người Pháp Louis Paul Cailletet đã công bố phương pháp hóa lỏng oxy phân tử của riêng mình. Chỉ một vài giọt chất lỏng được tạo ra trong mỗi trường hợp và không thể tiến hành phân tích có ý nghĩa. Oxy được hóa lỏng ở trạng thái ổn định lần đầu tiên vào ngày 29 tháng 3 năm 1883 bởi các nhà khoa học Ba Lan từ Đại học Jagiellonian, Zygmunt Wróblewski và Karol Olszewski. Năm 1891, nhà hóa học người Scotland James Dewar đã có thể sản xuất đủ oxy lỏng cho nghiên cứu. Quy trình sản xuất oxy lỏng đầu tiên có tính khả thi về mặt thương mại được phát triển độc lập vào năm 1895 bởi kỹ sư người Đức Carl von Linde và kỹ sư người Anh William Hampson. Cả hai người đều hạ nhiệt độ của không khí cho đến khi nó hóa lỏng và sau đó chưng cất các khí thành phần bằng cách đun sôi từng chất một và thu giữ chúng riêng biệt. Sau đó, vào năm 1901, hàn oxyacetylene lần đầu tiên được chứng minh bằng cách đốt cháy hỗn hợp acetylene và nén. Phương pháp hàn và cắt kim loại này sau đó trở nên phổ biến. Năm 1923, nhà khoa học người Mỹ Robert H. Goddard trở thành người đầu tiên phát triển động cơ tên lửa đốt nhiên liệu lỏng; động cơ sử dụng xăng để làm nhiên liệu và oxy lỏng làm chất oxy hóa. Goddard đã bay thành công một tên lửa nhỏ chạy bằng nhiên liệu lỏng 56 m ở 97 km/h vào ngày 16 tháng 3 năm 1926 tại Auburn, Massachusetts, Hoa Kỳ. Trong các phòng thí nghiệm hàn lâm, oxy có thể được điều chế bằng cách đun nóng kali chlorat trộn với một tỷ lệ nhỏ mangan đioxide. Mức độ oxy trong khí quyển đang có xu hướng giảm nhẹ trên toàn cầu, có thể do quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch. Đặc điểm. Cấu trúc. Ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn, oxy là chất khí không màu, không mùi, không vị, có công thức phân tử , được gọi là dioxygen. Là "dioxygen", hai nguyên tử oxy liên kết hóa học với nhau. Liên kết có thể được mô tả khác nhau dựa trên mức độ lý thuyết, nhưng được mô tả một cách hợp lý và đơn giản là một liên kết đôi cộng hóa trị là kết quả của việc lấp đầy các orbital phân tử được hình thành từ các orbital nguyên tử của các nguyên tử oxy riêng lẻ, việc lấp đầy chúng dẫn đến liên kết thứ tự của hai. Cụ thể hơn, liên kết đôi là kết quả của sự lấp đầy liên tục, năng lượng từ thấp đến cao, hay Aufbau, lấp đầy các orbital, và kết quả là sự hủy bỏ các đóng góp từ các electron 2s, sau khi lấp đầy liên tiếp các orbital σ và σ* thấp; Sự xen phủ σ của hai orbital nguyên tử 2p nằm dọc theo trục phân tử OO và sự xen phủ của hai cặp orbital nguyên tử 2p vuông góc với trục phân tử OO, và sau đó loại bỏ sự đóng góp của hai trong số sáu electron 2p còn lại sau khi chúng lấp đầy một phần của các orbital và * thấp nhất. Sự kết hợp của hủy và σ và chồng chéo kết quả trong nhân vật dioxy của đôi trái phiếu và độ phản ứng, và một bộ ba điện tử trạng thái cơ bản. Cấu hình electron có hai electron chưa ghép đôi, như được tìm thấy trong các orbital dioxygen (xem các orbital * được điền đầy trong sơ đồ) có năng lượng bằng nhau - tức là suy biến - là cấu hình được gọi là trạng thái bộ ba spin. Do đó, trạng thái cơ bản của phân tử được gọi là oxy bộ ba. Các orbital có năng lượng cao nhất, được lấp đầy một phần là phản liên kết, và do đó sự lấp đầy của chúng làm suy yếu thứ tự liên kết từ ba thành hai. Do các điện tử chưa ghép đôi của nó, oxy bộ ba chỉ phản ứng chậm với hầu hết các phân tử hữu cơ có spin điện tử đã ghép đôi; điều này ngăn cản quá trình đốt cháy tự phát. Ở dạng bộ ba, phân tử đều thuận từ. Có nghĩa là, chúng truyền đặc tính từ cho oxy khi nó có mặt từ trường, do mômen từ spin của các electron chưa ghép đôi trong phân tử và năng lượng trao đổi âm giữa các phân tử lân cận. Oxy lỏng có từ tính đến mức, trong các cuộc thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, một cầu nối oxy lỏng có thể chống lại trọng lượng của chính nó giữa các cực của một nam châm mạnh. Oxy đơn là tên được đặt cho một số loại phân tử có năng lượng cao hơn trong đó tất cả các spin điện tử đều được ghép đôi. Nó phản ứng nhiều hơn với các phân tử hữu cơ thông thường hơn là oxy phân tử. Trong tự nhiên, oxy đơn thường được hình thành từ nước trong quá trình quang hợp, sử dụng năng lượng của ánh sáng mặt trời. Nó cũng được tạo ra trong tầng đối lưu bằng quá trình quang phân ozon bằng ánh sáng có bước sóng ngắn và bởi hệ thống miễn dịch như một nguồn oxy hoạt tính. Carotenoid trong các sinh vật quang hợp (và có thể cả động vật) đóng một vai trò chính trong việc hấp thụ năng lượng từ oxy đơn và chuyển nó về trạng thái cơ bản chưa được kích thích trước khi nó có thể gây hại cho các tế bào. Oxy mức 3 (không phải ozon, ) mà là trạng thái năng lượng cơ bản của phân tử . Cấu hình electron của phân tử này có 2 electron không tạo cặp mà tách ra riêng lẻ chiếm 2 orbital phân tử suy biến. Các orbital này được xếp vào nhóm phản liên kết (làm suy giảm bậc liên kết từ 3 xuống còn 2), vì vậy liên kết oxy 2 nguyên tử yếu hơn liên kết 3 của 2 nguyên tử nitơ, theo đó tất cả các orbital nguyên tử liên kết đều được lấp đầy còn các orbital phản liên kết thì không đầy. Các dạng thù hình. Dạng thù hình chung của nguyên tố oxy trên Trái đất được gọi là dioxygen, , phần chính của oxy trong khí quyển của Trái đất. O2 có độ dài liên kết là 121 pm và năng lượng liên kết là 498 kJ / mol, nhỏ hơn năng lượng của các liên kết đôi hoặc các cặp liên kết đơn khác trong sinh quyển và gây ra phản ứng tỏa nhiệt của O2 với bất kỳ phân tử hữu cơ nào. Do hàm lượng năng lượng của nó, O2 được sử dụng bởi các dạng sống phức tạp, chẳng hạn như động vật, trong hô hấp tế bào. Các khía cạnh khác của được đề cập trong phần còn lại của bài viết này. Trioxygen () thường được gọi là ozon và là một dạng phản ứng rất mạnh của oxy gây tổn hại đến mô phổi. Ozon được tạo ra trong tầng khí quyển trên khi kết hợp với oxy nguyên tử được tạo ra bởi sự phân tách của bằng bức xạ tia cực tím (UV). Do ozon hấp thụ mạnh trong vùng UV của quang phổ, nên tầng ozon của tầng trên khí quyển có chức năng như một lá chắn bức xạ bảo vệ hành tinh. Gần bề mặt Trái đất, nó là một chất ô nhiễm được hình thành như một sản phẩm phụ của khí thải ô tô. Ở độ cao quỹ đạo trái đất thấp, lượng oxy nguyên tử đủ để gây ra sự ăn mòn tàu vũ trụ. Các dạng phân tử oxozon ) được phát hiện vào năm 2001, và được cho là tồn tại ở một trong sáu pha của oxy rắn. Năm 2006, nó đã được chứng minh rằng giai đoạn này, được tạo ra bằng cách điều áp đến 20 GPa, trên thực tế là một khối tứ diện . Cụm này có khả năng trở thành một chất oxy hóa mạnh hơn nhiều so với hoặc và do đó có thể được sử dụng trong nhiên liệu tên lửa. Một pha kim loại được phát hiện vào năm 1990 khi oxy rắn chịu áp suất trên 96 GPa và năm 1998 nó được chứng minh rằng ở nhiệt độ rất thấp, pha này trở thành siêu dẫn. Tính chất vật lý. Oxy hòa tan trong nước nhiều hơn so với nitơ; nước chứa khoảng một phân tử cho mỗi 2 phân tử , so với tỉ số trong không khí là 1:4. Độ hòa tan của oxy trong nước phụ thuộc vào nhiệt độ, và ở 0 °C thì lượng hòa tan tăng gấp đôi (14,6 mg·L−1) so với ở 20 °C (7,6 mg·L−1). Ở nhiệt động không khí 25 °C và 1 atm, nước ngọt chứa khoảng 6,04 mililit (mL) oxy trong một lít, trong khi đó, nước biển chứa khoảng 4,95 mL/L. Ở 5 °C, độ hòa tan tăng đến 9,0 mL/L (tăng 50% so với ở 25 °C) trong nước ngọt và 7,2 mL/L (tăng hơn 45%) đối với nước biển. Oxy ngưng tụ ở 90,20 K (−182.95 °C, −297.31 °F), và đóng băng ở 54,36 K (−218.79 °C, −361.82 °F). Cả hai dạng lỏng và rắn là những chất trong suốt với màu xanh da trời nhạt do gây ra bởi sự hấp thụ ánh sáng đỏ (ngược lại với màu xanh da trời là do sự tán xạ Rayleigh của ánh sáng xanh). tinh khiết cao thường được chưng cất phân đoạn từ không khí lỏng; Oxy lỏng cũng có thể được sản xuất từ sự ngưng tụ không khí bằng cách sử dụng chất làm lạnh là nitơ lỏng. Oxy là một chất dễ phản ứng và phải được cất giữ cách xa các vật liệu dễ cháy. Quang phổ của oxy phân tử có liên quan đến các quá trình cực quang và phát sáng trong khí quyển. Sự hấp thụ trong dải liên tục Herzberg và dải Schumann – Runge trong tia cực tím tạo ra oxy nguyên tử quan trọng trong hóa học của tầng giữa khí quyển. Oxy phân tử đơn ở trạng thái bị kích thích chịu trách nhiệm cho sự phát quang hóa học màu đỏ trong dung dịch. Đồng vị và nguồn gốc sao. Oxy có mặt trong tự nhiên là hỗn hợp của 3 đồng vị bền gồm, 16O, 17O, và 18O, với 16O chiếm nhiều nhất (99,762%). Hầu hết 16O được tổng hợp ở giai đoạn cuối của quá trình phản ứng tổng hợp heli trong các sao lớn nhưng một số hình thành trong quá trình đốt cháy neon. 17O chủ yếu được hình thanh trong quá trìn đốt cháy hydro thành heli trong chu trình CNO, do vậy nó là đồng vị phổ biến trong các đới đốt cháy hydro của các sao. Hầu hết 18O được tạo ra khi 14N (hình thành phổ biến trong quá trình đốt cháy CNO) bắt các hạt nhân 4He, nên 18O phổ biến trong các đới giàu heli của quá trình tiến hóa sao lớn. 14 đồng vị phóng xạ của oxy đã được xác định. Đồng vị bền nhất là 15O với chu kỳ bán rã 122,24 giây và 14O có chu kỳ bán rã 70,606 giây. Tất cả các đồng vị phóng xạ còn là có chu kỳ bán rã dưới 27 s và phổ biến là dưới 83 milli giây. Cơ chế phân rã phổ biến nhất của các đồng vị nhẹ hơn 16O là phân rã β+ để tạo ra nitơ, và cơ chế phân rã phổ biến nhất của các đồng vị nặng hơn 18O là phân rã beta để tạo ra fluor. Sự phổ biến. Oxy là nguyên tố hóa học phong phú nhất theo khối lượng trong sinh quyển, không khí, biển và đất liền của Trái Đất. Oxy là nguyên tố hóa học phong phú thứ ba trong vũ trụ, sau hydro và heli. Khoảng 0,9% khối lượng của Mặt trời là oxy. Oxy chiếm 49,2% khối lượng của vỏ Trái đất như một phần của các hợp chất oxide như silic dioxide và là nguyên tố có nhiều nhất theo khối lượng trong vỏ Trái đất. Nó cũng là thành phần chính của các đại dương trên thế giới (88,8% khối lượng). Khí oxy là thành phần phổ biến thứ hai của bầu khí quyển Trái đất, chiếm 20,8% thể tích và 23,1% khối lượng của nó (khoảng 10 15 tấn). Trái đất khác thường trong số các hành tinh của Hệ Mặt trời khi có nồng độ khí oxy cao như vậy trong bầu khí quyển của nó: Sao Hỏa (với 0,1% theo khối lượng) và sao Kim có ít hơn nhiều. Lượng xung quanh những hành tinh đó chỉ được tạo ra bởi tác động của bức xạ tia cực tím lên các phân tử chứa oxy như carbon dioxide. Nồng độ khí oxy cao bất thường trên Trái Đất là kết quả của chu trình oxy. Chu trình sinh địa hóa này mô tả sự di chuyển của oxy bên trong và giữa ba hồ chứa chính của nó trên Trái đất: khí quyển, sinh quyển và thạch quyển. Yếu tố thúc đẩy chính của chu trình oxy là quang hợp, nguyên nhân tạo nên bầu khí quyển của Trái đất hiện đại. Quá trình quang hợp giải phóng oxy vào khí quyển, trong khi quá trình hô hấp, phân hủy và đốt cháy loại bỏ nó khỏi khí quyển. Ở trạng thái cân bằng hiện tại, sản xuất và tiêu dùng oxy diễn ra với tốc độ như nhau. Oxy tự do cũng xuất hiện trong dung dịch trong các thủy vực trên thế giới. Sự hòa tan tăng dần của ở nhiệt độ thấp hơn (xem Đặc tính vật lý) có ý nghĩa quan trọng đối với sự sống của đại dương, vì các đại dương ở vùng cực có mật độ sự sống cao hơn nhiều do hàm lượng oxy cao hơn. Nước bị ô nhiễm bởi các chất dinh dưỡng thực vật như nitrat hoặc phosphat có thể kích thích sự phát triển của tảo bằng một quá trình gọi là hiện tượng phú dưỡng và sự phân hủy của các sinh vật này và các vật liệu sinh học khác có thể làm giảm nội dung trong thủy vực phú dưỡng. Các nhà khoa học đánh giá khía cạnh này của chất lượng nước bằng cách đo nhu cầu oxy sinh hóa của nước, hoặc lượng cần thiết để khôi phục nó về nồng độ bình thường. Phân tích. Các nhà cổ sinh vật học đo tỷ lệ oxy-18 và oxy-16 trong vỏ và xương của các sinh vật biển để xác định khí hậu hàng triệu năm trước (xem chu kỳ tỷ lệ đồng vị oxy). Các phân tử nước biển có chứa đồng vị nhẹ hơn, oxy-16, bay hơi với tốc độ nhanh hơn một chút so với các phân tử nước có chứa 12% oxy-18 nặng hơn, và sự chênh lệch này tăng lên ở nhiệt độ thấp hơn. Trong thời gian nhiệt độ toàn cầu thấp hơn, tuyết và mưa từ đó nước bốc hơi có xu hướng cao hơn ở oxy-16, và nước biển bị bỏ lại có xu hướng cao hơn ở oxy-18. Các sinh vật biển sau đó kết hợp nhiều oxy-18 vào bộ xương và vỏ của chúng hơn là khi chúng ở trong môi trường khí hậu ấm hơn. Các nhà cổ sinh vật học cũng trực tiếp đo tỷ lệ này trong phân tử nước của các mẫu lõi băng có tuổi đời hàng trăm nghìn năm. Vai trò sinh học. Quang hợp và hô hấp. Trong tự nhiên, oxy tự do được sinh ra từ việc phân giải nước trong quá trình quang hợp oxy dưới tác động của ánh sáng. Theo một vài ước tính, tảo lục và cyanobacteria trong các môi trường biển cung cấp khoảng 70% oxy tự do được tạo ra trên Trái Đất và phần còn lại là từ thực vật trên đất liền. Các tính toán khác về sự đóng góp từ đại dương vào oxy trong khí quyển cao hơn, trong khi một vài ước tính thì thấp hơn, đề xuất rằng các đại dương tạo ra khoảng 45% oxy trong khí quyển mỗi năm. Công thức tính đơn giản từ quá trình quang hợp là: Tiến hóa oxy Photolytic xảy ra trong màng thylakoid của các sinh vật quang hợp và cần năng lượng của 4 photon. Mặc dù trải qua nhiều công đoạn, nhưng kết quả là tạo thành sự chênh lệch proton qua màng thylakoid, nó được sử dụng để tổng hợp ATP qua photophosphoryl hóa. Phân tử còn lại sau khi oxy hóa phân tử nước được giải phóng vào khí quyển. Phân tử là cần thiết cho việc hô hấp của tế bào trong tất cả các sinh vật hiếu khí. Oxy được sử dụng trong mitochondria để giúp tạo ra adenosine triphosphate (ATP) trong quá trình phosphoryl hóa oxy hóa. Phản ứng của hô hấp hiếu khí là quá trình ngược lại với quang hợp:: Ở động vật có xương sống, khuếch tán qua các màng trong phổi và đi vào các tế bào máu đỏ. Hemoglobin kết hợp với , làm thay đổi màu sắc của nó từ đỏ thẩm sang đỏ tươi ( được giải phóng từ phần khác của hemoglobin tua hiệu ứng Bohr). Các động vật khác sử dụng hemocyanin (Mollusca và một số arthropoda) hoặc hemerythrin (nhện và tôm hùm). Một lít máu có thể hòa tan 200 cm³ . Các loại oxy phản ứng như ion superoxide () và hydrogen peroxide (), là các sản phẩm phụ nguy hiểm của oxy sử dụng trong sinh vật. Tuy nhiên, các bộ phận của hệ miễn dịch của các sinh vật bậc cao, tạo ra peroxide, superoxide, và oxy nguyên tử để phá hủy các vi sinh vật xâm nhập. Loại oxy phản ứng cũng có vai trò quan trọng trong phản ứng siêu nhạy cảm của thực vật chống lại các tác nhân gây bệnh. Một người trưởng thành hít 1,8-2,4 gam chất oxy mỗi phút. Lượng này tương đương 6 triệu tấn oxy được hít vào do con người mỗi năm. Hàm lượng trong cơ thể. Áp suất riêng phần của oxy tự do trong cơ thể của động vật có xương sống còn sống là cao nhất trong hệ hô hấp, và giảm dọc theo hệ động mạch, mô ngoại vi và hệ tĩnh mạch.. Tạo nên khí quyển. Khí oxy tự do hầu như không tồn tại trong khí quyển Trái Đất trước khi archaea và vi khuẩn tiến hóa, có lẽ vào khoảng 3,5 tỉ năm trước. Oxy tự do xuất hiện đầu tiên với một lượng lớn trong suốt đại cổ sinh (giữa 3,0 và 2,3 tỉ năm trước). Trong 1 tỉ năm đầu, bất kỳ dạng oxy tự do được sinh ra từ các sinh vật này đã kết hợp với sắt hòa tan trong các đại dương để hình thành nên các tầng sắt tạo dãi. Khi oxy này chìm xuống trở nên bão hòa, oxy tự do bắt đầu thoát ra ở dạng khí từ các đại dương cách nay 3–2,7 tỉ năm, đạt đến 10% với mức như hiện nay vào khoảng 1,7 tỉ năm trước. Sự có mặt của một lượng lớn oxy hòa tan và oxy tự do trong các đại dương và trong khí quyển có thể đã thúc đẩy các sinh vật yếm khí đang sống đến bờ vực tuyệt chủng trong suốt thảm họa Oxy cách nay khoảng 2,4 tỉ năm. Tuy nhiên, việc hô hấp của tế bào sử dụng cho phép các sinh vật hiếu khí tạo ra nhiều ATP hơn sinh vật yếm khí, giúp cho sinh vật hiếu khí chiếm phần lớn trong sinh quyển Trái Đất. Từ khi bắt đầu kỷ Cambri cách nay 540 triệu năm, hàm dao động trong khoảng 15% và 30% theo thể tích. Càng về cuối kỷ Cacbon (300 triệu năm trước) mức khí quyển đạt đến giá trị lớn nhất chiếm 35% thể tích, điều này đã góp phần làm cho côn trùng và lưỡng cư có kích thước lớn vào thời điểm đó. Hoạt động của con người như đốt 7 tỉ tấn nhiên liệu hóa thạch mỗi năm đã có ảnh hưởng rất ít đến hàm lượng oxy tự do trong khí quyển. Với tốc độ quang hợp hiện nay, có thể sẽ mất khoảng 2.000 năm để tạo ra toàn bộ trong khí quyển hiện tại. Ứng dụng. Oxy được sử dụng làm chất oxy hóa, chỉ có fluor có độ âm điện cao hơn nó. Oxy lỏng được sử dụng làm chất oxy hóa trong tên lửa đẩy. Oxy là chất duy trì sự hô hấp, vì thế việc cung cấp bổ sung oxy được thấy rộng rãi trong y tế. Những người leo núi hoặc đi trên máy bay đôi khi cũng được cung cấp bổ sung oxy. Oxy được sử dụng trong công nghệ hàn cũng như trong sản xuất thép và rượu methanol. Oxy, như là một chất kích thích nhẹ, có lịch sử trong việc sử dụng trong giải trí mà hiện nay vẫn còn sử dụng. Các cột chứa oxy có thể nhìn thấy trong các buổi lễ hội ngày nay. Trong thế kỷ XIX, oxy thường được trộn với nitơ oxide để làm các thuốc giảm đau. Hợp chất. Vì độ âm điện cao của nó, oxy tạo thành các liên kết hóa học với phần lớn các nguyên tố khác (đây chính là nguồn gốc của định nghĩa nguyên thủy của từ oxy hóa). Các nguyên tố duy nhất có thể tránh không bị oxy hóa chỉ là một số khí trơ. Phổ biến nhất trong số các oxide tất nhiên là hydro oxide, hay nước (H2O). Các chất khác cũng được nhắc đến nhiều là hợp chất của carbon và oxy, như carbon dioxide (CO2), các chất như rượu (R-OH), aldehyde (R-CHO), và acid carboxylic (R-COOH). Các gốc oxy hóa như chlorat (ClO3−), perchlorat (ClO4−), chromat (CrO42−), dichromat (Cr2O72−), permanganat (MnO4−), và nitrat (NO3−) là những chất oxy hóa rất mạnh. Rất nhiều kim loại như sắt chẳng hạn liên kết với các nguyên tử oxy, tạo thành oxide sắt (III) (Fe2O3). Ozon (O3) được tạo thành trong quá trình phóng tĩnh điện với sự có mặt của oxy phân tử. Oxy phân tử đôi (O2)2 hiện nay đã biết và tìm thấy như là một phần nhỏ trong oxy lỏng. Các êpoxide là các ête trong đó nguyên tử oxy là một phần của vòng gồm ba nguyên tử. Phòng ngừa. Oxy có thể là một chất độc khi nó có áp suất thành phần được nâng cao. Để dễ hiểu có thể giải thích nôm na là thông thường oxy chiếm khoảng 21% thể tích của không khí. Nếu có thể tăng lượng oxy này lên thành 50% thì không khí khi đó sẽ không tốt cho sự hô hấp. Một vài dẫn xuất của oxy, như ozon (O3), hydro peroxide H2O2 (nước oxy già), các gốc hiđroxyl và superoxide, cũng là những chất độc mạnh. Cơ thể động vật nói chung và con người nói riêng có cơ chế để tự bảo vệ chống lại các chất độc này. Ví dụ, glutathion có nguồn gốc tự nhiên có thể phản ứng như một chất chống oxy hóa, cũng giống như bilirubin là chất tách ra được từ hemoglobin. Các nguồn có chứa nhiều oxy xúc tiến sự cháy nhanh và vì vậy là vật nguy hiểm về cháy nổ với sự có mặt của các nhiên liệu. Điều này cũng đúng với các hợp chất của oxy như chlorat, perchlorat, dichromat, v.v. Các hợp chất với khả năng oxy hóa cao thông thường có thể gây ra bỏng hóa học. Đám cháy đã giết chết phi hành đoàn của tàu Apollo 1 trong khi phóng thử, đã lan quá nhanh vì áp suất của oxy nguyên chất được sử dụng khi đó là bằng áp suất khí quyển bình thường thay vì chỉ là một phần ba lẽ ra được sử dụng cho phóng thật. (Xem thêm áp suất thành phần.) Điều chế. Trong phòng thí nghiệm. Trong phòng thí nghiệm, O2 được điều chế bằng cách phân hủy những hợp chất giàu oxy và ít bền đối với nhiệt như KMnO4(rắn),KClO3 (rắn)... VD: 2KMnO4 → K2MnO4 + MnO2 + O2 6CO2 + 6H2O → C6H12O6 + 6O2 2KClO3 → 2KCl + 3O2 2H2O2 → 2H2O + O2 2H2O → 2H2 + O2 Ag2O + H2O2 → 2Ag + H2O + O2 2KI + O3 + H2O → I2 + 2KOH + O2 5H2O2 + 2KMnO4 + 3H2SO4 → 2MnSO4 + 5O2 + K2SO4 + 8H2O Trong công nghiệp. Hai phương pháp chính được ứng dụng để sản xuất 100 triệu tấn từ không khí dùng cho công nghiệp hàng năm. Phương pháp phổ biến nhất là chưng cất phân đoạn không khí lỏng thành nhiều thành phần khác nhau như ở dạng hơi trong khi thì ở dạng lỏng. Phương pháp thứ hai sản xuất khí liên quan đến dòng khí khô, sạch đi qua một cặp sàng phân tử giống nhau, chúng hấp thụ nitơ và giải phóng một dòng khí có từ 90% đến 93% . Đồng thời khí nitơ được giải phóng khỏi lớp zeolit bão hòa nitơ bằng cách giảm áp suất vận hành của bồng và chuyển một phần khí oxy từ lớp sản xuất đi qua nó, theo chiều dòng ngược lại. Sau một thời gian thiết lập chu kỳ hoạt động, sự vật hành của hai lớp được thay đổi cho nhau, từ đó cho phép cung cấp liên tục khí oxy, được bơn qua đường ống. Khí oxy thu được càng tăng bằng các công nghệ làm lạnh. Khí oxy cũng có thể được tạo ra qua quá trình điện phân nước thành phân tử oxy và hydro. Phải dùng dòng điện một chiều, vì nếu dùng dòng hai chiều, khi các khí sinh ra ở một cực sẽ giải phóng đồng thời hydro và oxy, nếu đạt đến tỷ lệ 2:1 sẽ gây nổ. Trái với quan điểm phổ biến, tỉ lệ 2:1 được quan sát trong điện phân dòng điện một chiều của nước acid hóa không chứng minh rằng công thức hóa học thực tế của nước là H2O trừ khi giả định nào đó được thực hiện về công thức phân tử của chính hydro và oxy. Phương pháp tương tự là nung các oxide và ôxoacid có xúc tác của dòng điện để tạo . Các chất xúc tác hóa học cũng có thể được dùng như máy tạo oxy hóa học hay oxygen candle là các chất được dùng một phần trong việc hỗ trợ sự sống được trang bị trong các tàu ngầm, và vẫn là một phần của thiết bị chuẩn trên các chuyến bay thương mại trong trường hợp khẩn khi áp suất trong khoang máy bay giảm. Một công nghệ tách khí khác liên quan đến việc làm cho khí hòa tan vào các màng sứ dự trên zirconi dioxide bằng cách hoặc tạo áp suất cao hoặc dùng dòng điện để tạo ra khí gần như tinh khiết. Với số lượng lớn, giá của oxy lỏng năm 2001 vào khoảng 0,21USD/kg. Vì chi phí cơ bản trong sản xuất chủ yếu là chi phí năng lượng để hóa lỏng khí, nên chi phí sản xuất sẽ thay đổi theo chi phí năng lượng. Vì các lý do kinh tế, oxy thường được vận chuyển trong các bồn ở dạng lỏng đặc biệt các xe bồn cách nhiệt đặc biệt, do một lít oxy lỏng bằng với 840 lít khí oxy ở áp suất khí quyển và nhiệt độ . Các xe bồn như thế này được dùng để nạp lại oxy lỏng, đặt nằm ngoài các bệnh viện và các việc khác cần sử dụng một lượng lớn oxy tinh khiết. Oxy lỏng được đi qua bộ trao đổi nhiệt để chuyển dạng lỏng đông lạnh thành khí trước khi đi vào tòa nhà. Oxy cũng được chứa trong các bình hình trụ tròn nhỏ hơn ở dạng khí nén; một dạng chứa hữu ích trong các ứng dụng y khoa gọn nhẹ dễ vận chuyển và trong việc cắt-hàn nguyên liệu/xì hàn.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Ozon (O3) là một phân tử chất vô cơ với công thức hóa học . Nó là một chất khí màu xanh lam nhạt, có mùi hăng đặc biệt. Nó là một dạng thù hình của oxy kém bền hơn nhiều so với dạng nguyên tử , bị phá vỡ trong bầu khí quyển thấp hơn thành ("đioxy"). Ozon được hình thành từ đioxy do tác động của tia cực tím (UV) và phóng điện trong bầu khí quyển Trái Đất. Nó hiện diện với nồng độ rất thấp trong suốt tầng sau, với nồng độ cao nhất ở tầng ozon của tầng bình lưu, nơi hấp thụ hầu hết bức xạ cực tím (UV) của Mặt Trời. Mùi của ozon gợi nhớ đến clo và nhiều người có thể phát hiện được ozon ở nồng độ nhỏ nhất là ppm trong không khí. Cấu trúc O3 của ozon được xác định vào năm 1865. Phân tử này sau đó đã được chứng minh là có cấu trúc uốn cong và thuận từ yếu. Ở điều kiện tiêu chuẩn, ozon là một chất khí màu xanh lam nhạt, ngưng tụ ở nhiệt độ lạnh thành chất lỏng màu xanh lam đậm và cuối cùng là chất rắn màu tím đen. Tính không ổn định của ozon đối với đioxy phổ biến hơn là cả khí đặc và ozon lỏng có thể bị phân hủy bùng nổ ở nhiệt độ cao hoặc nóng lên nhanh đến điểm sôi. Do đó nó chỉ được sử dụng cho mục đích thương mại với nồng độ thấp. Ozon là một chất oxy hóa mạnh (hơn nhiều so với oxy) và có nhiều ứng dụng trong công nghiệp và tiêu dùng liên quan đến quá trình oxy hóa. Tuy nhiên, cùng một tiềm năng oxy hóa cao này lại gây ra ozon phá hủy các mô niêm mạc và hô hấp ở động vật và cả các mô ở thực vật, trên nồng độ khoảng . Trong khi điều này làm cho ozon trở thành một chất gây ô nhiễm và nguy hiểm hô hấp mạnh gần mặt đất, nồng độ cao hơn trong tầng ozon (từ 2 đến 8 ppm) là có lợi, ngăn chặn tia cực tím có hại đến bề mặt Trái đất. Một số thiết bị điện có thể sản sinh ra ozon mà con người có thể ngửi thấy dễ dàng. Điều này đặc biệt đúng với các thiết bị sử dụng điện cao áp, như ti vi và máy photocopy. Các động cơ điện sử dụng chổi quét cũng có thể sản sinh ozon do sự đánh lửa lặp lại bên trong khối. Các động cơ lớn, ví dụ những chiếc được sử dụng cho máy nâng hay máy bơm thủy lực, sản sinh nhiều ozon hơn các động cơ nhỏ. Mật độ tập trung cao nhất của ozon trong khí quyển nằm ở tầng bình lưu(khoảng 20 đến 50 km tính từ mặt đất), trong khu vực được biết đến như là tầng ozon. Tại đây, nó lọc phần lớn các tia cực tím từ Mặt Trời, là tia có thể gây hại cho phần lớn các loại hình sinh vật trên Trái Đất. Phương pháp tiêu chuẩn để đo lượng ozon trong khí quyển là sử dụng đơn vị Dobson (DU). ozon sử dụng trong công nghiệp được đo bằng ppm (ví dụ các giới hạn phơi nắng của OSHA), và phần trăm theo khối lượng hay trọng lượng. Danh pháp. Tên gọi bình thường "ozone" là tên IUPAC được sử dụng phổ biến và ưa thích nhất. Các tên có hệ thống "2λ 4-trioxidiene" và "catena-baxygen", tên IUPAC hợp lệ, được xây dựng theo danh pháp nhóm thế và phụ gia tương ứng. Tên "ozone" bắt nguồn từ "ozein" (ὄζειν), động từ tiếng Hy Lạp chỉ mùi, dùng để chỉ mùi đặc biệt của ozon. Trong các bối cảnh thích hợp, ozon có thể được xem như trioxidan với hai nguyên tử hydro bị loại bỏ, và như vậy, "trioxidanylidene" có thể được sử dụng như một tên có hệ thống, theo danh pháp thay thế. Theo mặc định, những cái tên này không liên quan đến tính xuyên tâm của phân tử ozon. Trong một ngữ cảnh cụ thể hơn, điều này cũng có thể đặt tên cho trạng thái cơ bản đơn không cực đoan, trong khi trạng thái lưỡng cực được đặt tên là "trioxidanediyl". "Trioxidanediyl" (hoặc "ozonide") được sử dụng một cách không hệ thống để chỉ nhóm thế (-OOO-). Cần cẩn thận để tránh nhầm lẫn tên của nhóm với tên theo ngữ cảnh cụ thể của ozon đã nêu ở trên. Lịch sử. Vào năm 1785, nhà hóa học người Hà Lan Martinus van Marum đang tiến hành các thí nghiệm liên quan đến tia lửa điện trên mặt nước thì ông nhận thấy một mùi bất thường, mà ông cho là do phản ứng điện, không nhận ra rằng ông thực sự đã tạo ra ozon. Nửa thế kỷ sau, Christian Friedrich Schönbein nhận thấy mùi hăng tương tự và nhận ra đó là mùi thường xuất hiện sau một tia chớp. Năm 1839, ông đã thành công trong việc cô lập hóa chất dạng khí và đặt tên nó là "ozôn", từ tiếng Hy Lạp "" () nghĩa là "ngửi". Vì lý do này, Schönbein thường được ghi nhận là người đã phát hiện ra ozon. Công thức của ozon, O3, không được xác định cho đến năm 1865 bởi Jacques-Louis Soret và được Schönbein xác nhận vào năm 1867. Trong phần lớn nửa sau của thế kỷ 19 và đến cả thế kỷ 20, ozon được các nhà tự nhiên học và những người tìm kiếm sức khỏe coi là một thành phần lành mạnh của môi trường. Beaumont, California lấy khẩu hiệu chính thức của mình là "Beaumont: Zone of Ozone", được minh chứng trên bưu thiếp và giấy tiêu đề của Phòng Thương mại. Các nhà tự nhiên học làm việc ngoài trời thường coi độ cao cao hơn có lợi vì hàm lượng ozon của chúng. Nhà tự nhiên học Henry Henshaw, làm việc tại Hawaii, viết: "Có một bầu khí quyển khá khác biệt [ở độ cao hơn] với lượng ozon đủ để duy trì năng lượng cần thiết [để hoạt động]. Không khí ven biển được coi là tốt cho sức khỏe vì hàm lượng ozon được cho là của nó; nhưng mùi gây ra niềm tin này thực chất là mùi của các chất chuyển hóa từ rong biển được halogen hóa. Phần lớn sự hấp dẫn của ozon dường như đến từ mùi "tươi" của nó, gợi lên các mối liên hệ với đặc tính làm sạch. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã ghi nhận tác hại của nó. Năm 1873 James Dewar và John Grey McKendrick đã ghi lại rằng ếch trở nên chậm chạp, chim thở hổn hển và máu của thỏ cho thấy lượng oxy giảm sau khi tiếp xúc với "không khí bị ozon hóa". Bản thân Schönbein đã báo cáo rằng những cơn đau tức ngực, kích ứng màng nhầy và khó thở xảy ra do hít phải khí ozon và các động vật có vú nhỏ bị chết. Năm 1911, Leonard Hill và Martin Flack đã tuyên bố trong "Kỷ yếu của Hiệp hội Hoàng gia B" rằng tác dụng có lợi cho sức khỏe của ozon, " mà chỉ bằng cách lặp đi lặp lại, đã trở thành một phần của niềm tin của công chúng; và cho đến nay bằng chứng sinh lý chính xác ủng hộ tác dụng tốt của nó vẫn còn gần như hoàn toàn chỉ là tưởng tượng. Kiến thức duy nhất được xác minh rõ ràng về tác dụng sinh lý của ozon, cho đến nay, là nó gây kích ứng và phù phổi, và tử vong nếu hít phải ở nồng độ tương đối mạnh bất cứ lúc nào. " Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, ozon đã được thử nghiệm tại Bệnh viện Quân đội Queen Alexandra ở London như một chất khử trùng có thể dùng cho vết thương. Khí ozon được sử dụng trực tiếp lên vết thương trong 15 phút. Điều này dẫn đến thiệt hại cho cả tế bào vi khuẩn và mô người. Các kỹ thuật vệ sinh khác, chẳng hạn như tưới ozon cùng với thuốc sát trùng, được cho là thích hợp hơn. Ozon tầng bình lưu. Ozon được biết đến do khả năng hấp thụ bức xạ UV-B. Ozon được tạo thành một cách tự nhiên trong tầng ozon. Sự suy giảm ozon và lỗ thủng ozon diễn ra bởi chlorofluorocarbon (CFC) và các chất gây ô nhiễm khác trong bầu khí quyển. Ozon trong bầu khí quyển Trái Đất nói chung được tạo thành bởi tia cực tím, nó phá vỡ các phân tử O2, tạo thành oxy nguyên tử. Oxy nguyên tử sau đó kết hợp với phân tử oxy chưa bị phá vỡ để tạo thành O3. Trong một số trường hợp oxy nguyên tử kết hợp với N2 để tạo thành các oxide nitơ; sau đó nó lại bị phá vỡ bởi ánh sáng nhìn thấy để tái tạo ozon. Khi tia cực tím chiếu vào ozon, nó chia ozon thành phân tử O2 và nguyên tử của oxy nguyên tử, quá trình liên tục này được gọi là chu trình ozon-oxy. Chu trình này có thể bị phá vỡ bởi sự có mặt của các nguyên tử clo, flo hay brom trong khí quyển; các nguyên tố này tìm thấy trong những hợp chất bền vững, đặc biệt là cloroflorocacbon (CFC) là chất có thể thấy ở tầng bình lưu và được giải phóng dưới tác động của tia cực tím. Chu trình nitơ oxide để tạo thành ozon cũng có thể bị phá vỡ do sự có mặt của hơi nước trong khí quyển vì nó làm biến đổi các oxide nitơ thành các dạng bền vững hơn. Sử dụng trong công nghiệp. Ozon được sử dụng để tẩy trắng đồ vật và tiêu diệt vi khuẩn. Rất nhiều hệ thống nước sinh hoạt công cộng sử dụng ozon để khử vi khuẩn thay vì sử dụng clo. Ozon không tạo thành các hợp chất hữu cơ chứa clo, nhưng chúng cũng không tồn tại trong nước sau khi xử lý, vì thế một số hệ thống cho thêm một chút ozon vào để ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn trong đường ống. Trong công nghiệp ozon được sử dụng để: Sử dụng trong y tế. Ozon, cùng với các ion hypoclorit, được sản xuất tự nhiên bởi các tế bào máu trắng (bạch cầu) cũng như rễ của cây cúc vạn thọ như là phương pháp để tiêu diệt các vật thể lạ. Khi ozon phân rã nó tạo thành các gốc tự do của oxy, là những chất có hoạt tính cao và gây nguy hiểm hay tiêu diệt phần lớn các phân tử hữu cơ. Ozon được sử dụng trong một số trường hợp trong y tế. Nó có thể được sử dụng để ảnh hưởng tới cân bằng chống oxy hóa-hỗ trợ oxy hóa của cơ thể, khi đó thông thường cơ thể sẽ phản ứng với sự hiện diện của nó bằng cách sản sinh ra các enzym chống oxy hóa. Liệu pháp ozon được sử dụng trong y học thử nghiệm, việc này đang gây ra nhiều nghi vấn do nó chưa được nghiên cứu và kiểm nghiệm một cách khoa học và cẩn thận. Liệu pháp này là nguy hiểm bởi vì ozon là một chất ăn mòn rất mạnh. Tại Mỹ, liệu pháp ozon là bất hợp pháp, vì FDA vẫn chưa cho phép thử nghiệm nó trên người. Ít nhất đã có một người chết vì sử dụng nó tại Mỹ. Các máy "làm sạch không khí" để sản xuất "oxy hoạt hóa", tức ozon, vẫn được bày bán trên thị trường Mỹ. Ozon được tìm thấy để chuyển đổi cholesteron trong máu thành cục (làm cứng và hẹp các động mạch). Sản phẩm cholesteron này cũng gây ra bệnh Alzheimer. Ozon được nghiên cứu rất nhiều và nó bị coi là chất gây ung thư cho một số động vật (số khác thì không), cũng như là tác nhân gây đột biến ở một số vi khuẩn.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Tích hợp ứng dụng doanh nghiệp (tiếng Anh: "enterprise application integration – EAI") kết nối các chức năng kinh doanh của một doanh nghiệp, thường bị phân tán trên các hệ ("platform") khác nhau, nhằm hợp nhất các chu trình doanh nghiệp. Định nghĩa. Tích hợp ứng dụng doanh nghiệp bao gồm các kế hoạch, phương pháp và phần mềm để tích hợp các hệ thống ứng dụng độc lập và không đồng nhất, nếu cần thiết bao gồm cả các hệ thống ứng dụng bên ngoài, theo chu trình kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược với các kỹ thuật tích hợp khác như tích hợp chức năng hoặc tích hợp dữ liệu, việc cài đặt từng chức năng riêng lẻ trong kinh doanh không bị thay đổi trong phương án tích hợp ứng dụng doanh nghiệp. Tất cả các giao diện được trừu tượng hóa thông qua các bộ tiếp hợp ("adapter"). Trên buýt doanh nghiệp ("business bus"), còn được gọi là nền tích hợp ("integration platform"), các dữ liệu được đưa đến từng chức năng một và chuyển tiếp kết quả đi theo đúng thứ tự được đặt ra. Khác với các phần mềm trung gian ("middleware") cổ điển, tích hơp ứng dụng kinh doanh có khả năng miêu tả một cách hợp lý chu trình kinh doanh. Nhiều sản phẩm phần mềm trung gian ngày nay cũng có một bộ máy cho chu trình kinh doanh ("business process engine"), dùng để miêu tả một cách hợp lý việc kinh doanh như buýt doanh nghiệp. Phân loại. Trong thực tế người ta chia ra các tích hợp ứng dụng doanh nghiệp ra thành:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Harry Potter là một loạt tiểu thuyết huyền bí gồm bảy phần của nhà văn Anh Quốc J. K. Rowling. Bộ truyện viết về những cuộc phiêu lưu phù thủy của cậu bé Harry Potter cùng hai người bạn thân là Ron Weasley và Hermione Granger, lấy bối cảnh tại Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts ở nước Anh. Những cuộc phiêu lưu tập trung vào cuộc chiến của Harry Potter trong việc chống lại tên Chúa tể hắc ám Voldemort – người có tham vọng muốn trở nên bất tử, thống trị thế giới phù thủy, nô dịch hóa những người phi pháp thuật và tiêu diệt những ai cản đường hắn, đặc biệt là Harry Potter. Bộ truyện kết hợp nhiều thể loại, bao gồm cả giả tưởng và giai đoạn tuổi mới lớn (với các yếu tố huyền bí, kinh dị, phiêu lưu và lãng mạn), nhiều ý nghĩa về văn hóa và tư liệu tham khảo. Cũng theo tác giả J. K. Rowling, chủ đề chính xuyên suốt là Cái chết. Ngay từ khi xuất bản phần một ("Harry Potter and the Philosopher's Stone" – ấn bản Anh; "Harry Potter and the Sorcerer's Stone" - ấn bản Mỹ; "Harry Potter và Hòn đá Phù thủy" – bản dịch tiếng Việt) vào ngày 30 tháng 6 năm 1997, bộ truyện ngày càng nổi tiếng trên toàn thế giới, được giới phê bình hoan nghênh và rất thành công về mặt thương mại. Bộ truyện cũng nhận được một số lời chỉ trích, bao gồm cả việc lo ngại về vẻ đen tối ngày càng tăng. Đến tháng 2 năm 2018, cả bảy quyển đã bán được hơn 500 triệu bản, trở thành bộ sách bán chạy nhất trong lịch sử và được dịch sang 67 ngôn ngữ. Phần bảy, và cũng là phần cuối cùng, "Harry Potter and the Deathly Hallows" ("Harry Potter và Bảo bối Tử thần") xuất bản vào ngày 21 tháng 7 năm 2007. Hơn 11 triệu quyển đã được bán trong 24 giờ đầu tiên. Nhờ vào sự thành công của bộ truyện, J. K. Rowling đã trở thành nhà văn giàu nhất trong lịch sử văn học. Những bản in bằng tiếng Anh được phát hành bởi nhà xuất bản Bloomsbury ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Scholastic Press ở Mỹ, Allen & Unwin ở Úc và Raincoast Books ở Canada. Tại Việt Nam, bộ truyện này được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản từ bản dịch của dịch giả Lý Lan. Cả bộ truyện 7 quyển, với quyển thứ 7 được chia thành 2 phần, dựng thành 8 bộ phim trong loạt phim cùng tên phát hành bởi Warner Bros. Pictures, trở thành loạt phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại, kéo theo thương hiệu Harry Potter có giá trị hơn 25 tỷ USD. Nguồn gốc và lịch sử phát hành. Năm 1990, J. K. Rowling đang đi chuyến xe lửa từ Manchester đến Luân Đôn thì ý tưởng về Harry bất chợt nảy ra trong đầu bà. Nơi bà viết những trang đầu tiên của bộ sách là ở một căn hộ mà bà thuê nằm trên một cửa hàng thể thao tại giao lộ Clapham (ở London, Anh). Trước đó, quán cà phê Elephant House tại thành phố Edinburgh, Scotland thường được cho là nơi chắp bút cho bộ tiểu thuyết. Năm 1995, "Harry Potter and the Philosopher's Stone" được hoàn thành và bản thảo của nó được gửi đến nhiều nhà xuất bản khác nhau. Người thứ hai mà bà thử gửi, Christopher Little, đã giới thiệu bà và gửi bản thảo đến nhà xuất bản Bloomsbury. Sau khi 8 nhà sản xuất khác từ chối, cuối cùng Bloomsbury đã đề nghị với Rowling một khoản tiền 3.000 bảng để phát hành sách. Mặc dù Rowling không giới hạn tuổi để đọc quyển sách khi bắt đầu viết bộ truyện "Harry Potter", nhưng nhà xuất bản ban đầu lại nhắm đến trẻ em từ 9 đến 11 tuổi. Quyển "Harry Potter" đầu tiên được nhà xuất bản Bloomsbury in ra tại Anh vào tháng 7 năm 1997. Ở Mỹ, sách được in bởi nhà xuất bản Scholastic vào tháng 9 năm 1998, khi đó Rowling nhận được số tiền 105.000 đô la cho bản quyền sách tại Mỹ - số tiền ứng trước cho một tập sách cho thiếu nhi viết bởi một tác giả vô danh. E ngại độc giả Mỹ khó có thể hiểu được từ "philosopher" hoặc không quen với đề tài phép thuật (như tên "Philosopher's Stone" mang nghĩa vậy), Scholastic đã đổi tựa sách thành "Harry Potter and the Sorcerer's Stone" cho thị trường Mỹ. Hơn gần một thập kỷ, bộ truyện "Harry Potter" đã gặt hái được rất nhiều thành công. Một phần nhờ vào những bài giới thiệu khen ngợi và chiến lược phát hành của những nhà xuất bản, và cũng nhờ vào sự lan truyền giữa những độc giả, đặc biệt là trẻ em. Điều này rất đáng lưu ý vì trong nhiều năm, niềm đam mê văn học trong xã hội đã bị tụt hậu sau nhiều phương tiện giải trí khác như video game và Internet. Những nhà xuất bản đã lợi dụng cơn sốt của độc giả và liên tục phát hành bốn phần đầu tiên. Điều này giúp sự hào hứng của độc giả không bị nguội đi trong khi Rowling nghỉ sức trước khi viết tiếp "Harry Potter and the Goblet of Fire" ("Harry Potter và chiếc cốc lửa") và "Harry Potter and the Order of the Phoenix" ("Harry Potter và Hội Phượng hoàng"), cũng như làm gia tăng sự nhiệt thành của người đọc đối với bộ truyện. Bộ truyện đã thu hút được cả những độc giả trưởng thành. Hai bản khác nhau của "Harry Potter" tiếp tục được phát hành, được phân biệt nhờ dòng chữ và hình bìa. Một bản dành cho trẻ em và một bản dành cho người lớn. Sự may mắn. "Harry Potter" là một điển hình về các tác phẩm văn học giá trị nhưng phải gánh chịu sự hắt hủi của các nhà xuất bản trong hành trình đến với độc giả. Tập 1 của Harry Potter đã không nhận được sự chấp thuận nào từ 12 nhà xuất bản, trong đó có cả những đơn vị lớn như Penguin và Harper Collin. Tập truyện Harry Potter đầu tiên chỉ được chấp nhận bởi Bloomsbury, một nhà xuất bản nhỏ ở Anh nhưng cũng là may mắn nhờ con gái 8 tuổi của giám đốc nhà xuất bản được cho đọc mấy chương đầu của bản thảo. J. K. Rowling nhận được hợp đồng xuất bản đầu tiên với số lượng in không quá 1000 bản, kèm theo đó là một lời khuyên từ biên tập viên Barry Cunnighamm rằng: "Bà nên tìm một công việc ổn định, bởi vì bà có rất ít cơ hội kiếm sống bằng việc viết sách cho thiếu nhi." Câu chuyện. Tóm tắt nội dung. Câu chuyện mở ra với bữa tiệc mừng của một thế giới phù thủy mà nhiều năm nay đã bị khủng hoảng bởi Chúa tể Hắc ám Voldemort. Đêm trước đó, Voldemort đã tìm thấy nơi sinh sống của gia đình Potter tại thung lũng Godric và giết chết Lily cũng như James Potter vì một lời tiên tri dự đoán sẽ ảnh hưởng đến Voldemort rằng hắn sẽ bị đánh bại bởi "đứa trẻ sinh ra khi tháng bảy tàn đi" mà Voldemort tin đứa trẻ là Harry Potter. Tuy vậy, khi hắn định giết Harry, Lời nguyền Chết chóc "Avada Kedavra" đã bật lại, Voldemort bị tiêu diệt, chỉ còn là một linh hồn, không sống mà cũng chẳng chết. Trong lúc đó, Harry bị lưu lại một vết sẹo hình tia chớp đặc biệt trên trán mình, dấu hiệu bên ngoài duy nhất từ lời nguyền. Cậu là người sống sót duy nhất khi trúng phải lời nguyền này, và việc đánh bại Voldemort đầy bí ẩn đó đã được cộng đồng phù thủy phong cho cậu danh hiệu "Đứa bé sống sót", "Đứa bé vẫn sống". Vào đêm tiếp theo, một phù thủy nhưng không được sử dụng pháp thuật (Rubeus Hagrid) mang Harry tới gia đình dì dượng của cậu, nơi sẽ là chỗ ở của cậu trong 10 năm sắp tới. Cậu bé Harry mồ côi sau đó được nuôi lớn bởi gia đình Dursley - những người không phải là phù thủy và luôn tìm mọi cách để ngăn cản cậu đến với quyền năng phép thuật. Dì và dượng của Harry luôn hắt hủi cậu, vì họ rất ghét phép thuật nên dì và dượng của Harry đã giấu tất cả những vật tài sản phép thuật mà cậu thừa kế cũng như luôn phạt cậu thật nặng khi có điều gì đó lạ thường xảy ra. Dù vậy, khi sinh nhật lần thứ 11 của cậu đến gần, thì những điều bất thường liên tục xảy ra, cậu phát hiện rằng mình có thể trò chuyện với "rắn" (bằng "Xà Ngữ") và nhảy lên nóc nhà. Và Harry lần đầu tiên được thế giới phép thuật liên lạc, cậu nhận được những lá thư từ Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts gửi tới. Những lá thư đó bị dượng cậu lấy đi trước khi cậu có cơ hội đọc được chúng. Vào ngày sinh nhật 11 tuổi, cậu được Hagrid - người giữ khóa của trường Hogwarts – cho biết thật ra cậu là một pháp sư và đã được mời vào học ở trường Hogwarts. Mỗi phần truyện là một năm học, ̣hầu hết diễn ra ở Hogwarts. Harry đã vượt qua nhiều phép thuật khó khăn, trở ngại của xã hội và thay đổi của cảm xúc trong thời thiếu niên đầy khó khăn của mình. Cậu cũng dũng cảm chống lại quyền lực ngày càng lớn mạnh của Voldemort và sự phủ nhận dai dẳng của Bộ Pháp thuật về sự trở lại của Voldemort. Rowling đã tuyên bố sẽ viết tất cả bảy phần, mỗi phần càng "bi quan" hơn phần trước, phát triển theo cuộc đời Harry. Trong khi Harry lớn lên, kẻ thù của cậu, Voldemort, ngày càng trở nên nguy hiểm. Đến giữa năm 2007, toàn bộ bảy phần đã được xuất bản. Phần thứ bảy và cuối cùng có tên tiếng Anh là Harry Potter and the Deathly Hallows (tên tiếng Việt: Harry Potter và bảo bối tử thần) được xuất bản ngày 21 tháng 7 năm 2007. Cấu trúc và thể loại. Bộ tiểu thuyết thiên về pháp thuật, với những góc nhìn nhiều chiều, có thể xem chúng thuộc thể loại "Bildungsroman", một loại tiểu thuyết dành cho việc giáo dục, câu chuyện xoay quanh ngôi trường pháp thuật Hogwarts, một ngôi trường nội trú ở Anh dành cho phù thủy, nơi giảng dạy việc sử dụng phép thuật. Bộ truyện được xem tương tự như tác phẩm "Tom Brown's School Days" của Thomas Hughes và một số tiểu thuyết khác thuộc vào thời nữ hoàng Victoria I và vua Edward VII về cuộc sống ở một ngôi trường nội trú tư của Anh ("English public school"). Các quyển sách này đã được so sánh với "A Wizard of Earthsea" (Pháp sư xứ Hải Địa) của Ursula K. Le Guin, "The Chronicles of Narnia" (Biên niên sử về Narnia) của C. S. Lewis và một số tác phẩm khác. Chúng là một thể loại tiểu thuyết của văn chương Anh nói về đời sống trong trường nội trú, và các phần tả về gia đình dì và dượng của Harry làm nhiều độc giả liên tưởng đến các tác phẩm của Roald Dahl. Hơn nữa các câu chuyện về Harry Potter đã được so sánh với tiểu thuyết giả tưởng bộ ba nổi tiếng "The Lord of the Rings" ("Chúa tể của những chiếc nhẫn") của J. R. R. Tolkien. Stephen King từng cho rằng bộ truyện là một "truyện thần kỳ huyền bí và sâu sắc", và mỗi tập truyện đều được dựng nên theo kiểu của những cuộc phiêu lưu bí ẩn như phong cách của Sherlock Holmes. Những tập truyện đều để lại những manh mối ẩn giấu trong lời kể, mà các nhân vật đều theo đuổi những mối nghi ngờ khác nhau xuyên suốt nhiều địa điểm đẹp lạ lùng, dẫn đến một kết thúc bất ngờ thường đảo lộn những gì mà các nhân vật vẫn tin là đúng. Câu chuyện được kể với góc nhìn của một người thứ ba; với một số ít ngoại lệ: Người đọc có thể tìm thấy những bí mật của câu chuyện như chính Harry. Những suy nghĩ và toan tính của các nhân vật khác, kể cả những nhân vật trung tâm như Hermione Granger và Ron Weasley, cũng được giấu đi cho đến khi Harry được tiết lộ cho biết. Bộ truyện đi theo một khuôn khổ. Kể về những năm học của Harry, chúng thường bắt đầu từ nhà của cậu với gia đình Dursley ở thế giới Muggle. Sau đó, Harry đến những địa chỉ phép thuật (như Hẻm xéo, trang trại Hang Chồn, số 12 Quảng trường Grimmauld) một thời gian trước khi nhập học, bằng cách đón chuyến tàu hỏa của trường tại Sân ga 9¾. Ngay khi tới trường, những nhân vật mới hoặc cũ đều lần lượt xuất hiện, và Harry phải vượt qua mọi thời khóa biểu của mỗi ngày, như những bài luận, những cuộc rượt đuổi kinh hoàng và những giáo viên hà khắc. Cậu chuyện tiến dần đến cao trào ở gần hoặc ngay sau kì thi cuối năm, khi Harry phải đối mặt hoặc với Voldemort hoặc một trong những Tử thần Thực tử. Kết quả cuối cùng thường là Harry có được những bài học quan trọng qua quá trình tranh luận với thầy hiệu trưởng Albus Dumbledore. Thế giới phù thủy trong truyện. Những yếu tố thường gặp. Phù thủy thuần chủng, á phù thủy, phù thủy lai, Muggle. Muggle là thuật ngữ chỉ những người không có khả năng làm pháp thuật trong huyết thống. Phù thủy nói chung thường nhìn người Muggle-là những người không pháp thuật với con mắt khinh thường; nhưng đối với một số ít người, thái độ đó trở thành một niềm tin mù quáng. Những người này thường tự đặt mình vào một cấp bậc khác dựa vào số tổ tiên là phù thủy của mỗi người, với những phù thủy có "dòng máu thuần chủng" (những người mang huyết thống phép thuật hoàn toàn) ở bậc đầu tiên, tới những phù thủy lai (gồm tổ tiên là phù thủy lẫn Muggle) và sau cùng là những phù thủy gốc Muggle (bị gọi là Máu Bùn). Những kẻ ủng hộ vào huyết tộc tin rằng chỉ có người thuần dòng máu phù thủy mới là người quản lý thế giới phép thuật, và không cho phép những người Muggle trở thành phù thủy thật sự. Một vài người còn quá quắt đến độ ám sát người Muggle hoặc không cho phép họ được học phép thuật. Những người sùng bái tột độ luôn là những phù thủy thuần chủng. Tuy nhiên, ngay cả Voldemort, một trong những kẻ luôn ủng hộ huyết tộc nổi tiếng nhất, cũng chỉ là một phù thủy lai. Thật ra, chỉ có rất ít những dòng họ thật sự thuần chủng vì họ phải kết hôn với người Muggle để không bị mất đi dòng máu phù thủy của mình. Thế nhưng nhiều dòng họ vẫn tìm cách che giấu sự thật này. Một ví dụ là ở gia phả dòng họ Black đã xóa đi vài thành viên với lý do trên. Á phù thủy là thuật ngữ ngược lại với phù thủy gốc Muggle (sinh ra trong gia đình Muggle nhưng lại có khả năng pháp thuật), á phù thủy chỉ những người sinh ra trong gia đình phù thủy nhưng chỉ có rất ít hoặc không có khả năng làm pháp thuật. Đề tài. Niên đại. Bộ truyện chủ yếu tránh đề cập đến một năm nhất định. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp cho thấy bộ truyện và nhiều sự kiện trong quá khứ được nói đến trong đó thuộc vào những năm được cho là phù hợp. Cụ thể hơn, Harry được sinh ra vào năm 1980, và tập đầu tiên được bắt đầu vào năm 1991. Những mốc thời gian lần đầu tiên được nêu ra trên trang web HP-Lexicon, và từ đó được chấp nhận và ứng dụng vào những thước phim của hãng Warner Bros., từ lời bình luận của bà Rowling và bằng tặng phẩm bản copy của gia phả dòng họ Black trong một cuộc bán đấu giá từ thiện. Tranh cãi. Bộ truyện cũng gặp phải nhiều cuộc tranh cãi. Nó trở thành đề tài của nhiều vụ kiện pháp lý, phần lớn bắt nguồn từ những tổ chức tôn giáo người Mỹ cho rằng phép thuật trong truyện làm trẻ em bị mê hoặc, hoặc từ nhiều cuộc xung đột liên quan đến sự xâm phạm bản quyền và nhãn hiệu. Danh tiếng rộng khắp của bộ truyện và giá trị trên thị trường đã khiến Rowling, các nhà xuất bản và hãng phim Warner Bros phải dùng đến những biện pháp pháp lý để bảo vệ bản quyền của mình, bao gồm việc cấm bán những sản phẩm nhái theo Harry Potter, nhắm đến những người chủ các website lấy tên là Harry Potter và việc tác giả Nancy Stouffer kiện Rowling về việc mạo văn. Giải thưởng. J. K. Rowling và bộ truyện Harry Potter đã nhận được rất nhiều giải thưởng từ khi bắt đầu phát hành tập truyện "Hòn đá phù thủy". Các giải thưởng bao gồm 4 giải Whitaker Platunum Book (tất cả đều vào năm 2001), 3 giải Nestlé Smarties Book (1997–1999), 2 giải của Hội đồng nghệ thuật Scotland (1999 và 2001), giải khai trương Whitbread - sách dành cho trẻ em của năm (1999), giải thưởng quyển sách của năm bởi WHSmith (2006) và nhiều giải khác. Vào năm 2000, Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban - H"arry Potter and the Prisoner of Azkaban" được đề cử cho giải Tiểu thuyết xuất sắc nhất ở giải thưởng Hugo Awards và đến năm 2001 thì Harry Potter và chiếc cốc lửa - "Harry Potter and the Goble of Fire" được nhận giải. Bộ truyện còn vinh dự nhận giải thưởng của Carnegie Medal (1997), được liệt kê vào danh sách Giải thưởng Bảo hộ trẻ em (1998), và nằm trong rất nhiều danh sách truyện cao quý, sự chọn lựa của các nhà biên tập và danh sách những tác phẩm hay nhất của Liên hiệp Thư viện Mỹ, báo "New York Times", thư viện Chicago và báo "Publishers Weekly". Harry Potter and the Prisoner of Azkaban (Harry Potter và tù nhân ngục Azkaban) - tập thứ ba của loạt phim chuyển thể từ truyện được Viện hàn lâm Nghệ thuật điện ảnh và truyền hình Anh quốc (BAFTA) bình chọn là phim dành cho trẻ em hay nhất thập kỷ trong lễ trao giải First Light Awards 2011. Thành công thương mại. Danh tiếng của bộ truyện "Harry Potter" được xem là sự thành công đáng kể về mặt tài chính của Rowling, các nhà xuất bản và những nhà giữ bản quyền khác về "Harry Potter". Bộ truyện đã được bán ra với trên 325 triệu bản trên khắp thế giới và cũng đi vào điện ảnh đầy thành công với hãng Warner Bros, mà mọi tập đều đạt thành công riêng – "Harry Potter and the Philosopher’s Stone" nằm trong top 4 những bộ phim đạt doanh thu cao nhất của mọi thời kỳ; 3 bộ phim còn lại đều nằm trong top 20. Loạt phim đã lần lượt làm phát sinh thêm 5 video game và kết hợp với chúng để tạo nên hơn 400 sản phẩm về Harry Potter khác (bao gồm cả iPod) mà tới tháng 7 năm 2005 đã biến nhãn hiệu về Harry Potter đạt tới 4 tỉ dollar, và biến J. K. Rowling thành một nhà tỉ phú, theo như một số bài báo, bà còn có thể giàu hơn cả nữ hoàng Elizabeth II của Anh. Ngày 12 tháng 4 năm 2007, những người bán lẻ đã tuyên bố rằng "Bảo bối tử thần" đã phá vỡ kỉ lục về sách đặt trước của chính bộ truyện, với hơn 500.000 bản được đặt trước qua mạng. Ảnh hưởng. Văn hóa đại chúng. Từ khi "Hòn đá phù thủy" được phát hành, một số khuynh hướng xã hội liên quan đến bộ truyện đã xuất hiện. Vào năm 2005, các bác sĩ ở bệnh viện John Radcliffe ở Oxford kể rằng cuộc nghiên cứu về cuối tuần vào Thứ bảy ngày 21 tháng 6 năm 2003 và Chủ nhật ngày 1 tháng 6 năm 2005 (hai ngày gần kề ngày phát hành sách) cho thấy chỉ có 36 trẻ em cần nhập viện khẩn cấp để hồi phục chấn thương do tai nạn, so với những cuối tuần khác con số trung bình là 67. Tương tự, vài dấu hiệu nhỏ cho thấy sự tiến bộ trong lĩnh vực văn học của trẻ em nhờ vào "Harry Potter", được công bố vào năm 2006 khi văn bản của công ty Kids and Family Reading (hợp tác với Scholastic) mở cuộc khảo sát, cho thấy 51% độc giả của "Harry Potter" từ 5 đến 17 tuổi nói rằng chúng đã không bao giờ đọc sách do hứng thú trước khi bắt đầu đọc "Harry Potter". Một cuộc nghiên cứu khác cho thấy theo như 65% trẻ em và 76% cha mẹ, việc học tập ở trường của trẻ đã tăng lên đáng kể từ khi chúng đọc bộ truyện. Từ "Muggle" được mở rộng hơn cả trong truyện, được mọi người dùng để chỉ những người không biết hoặc khiếm khuyết vài kỹ năng. Vào năm 2003, từ "muggle" đi vào từ điển tiếng Anh của Oxford ("Oxford English Dictionary") với định nghĩa trên. Ngoài ra, J. K. Rowling đã sử dụng sức ảnh hưởng của bộ truyện để nói lên suy nghĩ về các vấn đề thời sự, ủng hộ nhân quyền, lên án bạo lực và kêu gọi bình đẳng. Nhân vật Albus Dumbledore gần đây đã được tiết lộ là người Đồng tính luyến ái, điều đó có nghĩa ngôi trường Hogwarts là một nơi chở che cho những người LGBT. Vào năm 2005, một nhóm người hâm mộ đã tạo nên Liên minh Harry Potter (The Harry Potter Alliance) nhằm "biến fan thành những anh hùng" để thu hút sự quan tâm của dư luận về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Sudan. Ngày nay các chiến dịch của tổ chức phi lợi nhuận này liên quan tới người nhập cư, bảo vệ quyền cho người đồng tính, quyền của người lao động, sức khỏe tâm lý và biến đổi khí hậu. Quidditch cũng đã được chơi như một môn thể thao thực thụ. Các thành viên trong mỗi đội không quy định giới tính sẽ kẹp chổi vào giữa hai chân chạy vòng vòng còn tầm thủ thì cố gắng đuổi theo trái banh snitch – được thay thế bằng quả bóng đeo sau lưng một người mặc đồ vàng. Bộ truyện "Harry Potter" đã thúc đẩy Wizard rock, nơi nhiều ban nhạc được lập ra với tên, hình ảnh và lời nhạc liên quan tới thế giới Harry Potter. Tiêu biểu là nhóm "Harry and the Potters" và "The Cruciatus Curse". Cơn sốt Harry Potter. Harry Potter rất phổ biến trên khắp thế giới. Hiện nay đã có hơn 300 triệu ấn bản của sáu quyển sách đầu trong trên 60 ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt, tiếng Latin và tiếng Hy Lạp cổ điển. "Harry Potter" cũng mang lại nhiều thay đổi trong thế giới xuất bản, một trong những sự cải tiến đáng lưu ý nhất trong danh sách Những sách bán chạy nhất của báo "New York Times". Sự thay đổi bắt đầu ngay khi xuất bản tập "Chiếc cốc lửa" vào năm 2000, khi các nhà xuất bản phàn nàn rằng có nhiều khoảng cách quá giữa truyện "Harry Potter" và các sách khác dành cho trẻ em. Báo "The Times" sau đó liền lập ra một danh sách riêng cho sách trẻ em – dành cho "Harry Potter" và các truyện dành cho trẻ em khác. Harry Potter được nhà xuất bản Bloomsbury Publishing ấn hành tại Anh và một số nước khác. Tại Hoa Kỳ, bộ Harry Potter được nhà xuất bản Scholastic Press phát hành. Tại Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ xuất bản Harry Potter do nhà văn Lý Lan dịch. Nhà xuất bản chia sách thành những tập nhỏ để có giá thấp phù hợp với trẻ em, thêm hình minh hoạ, đồng thời dùng lối phát hành hàng tuần để thu hút tối đa sức mua. Sau khi hết mỗi quyển thì ra sách dày giống như nguyên bản (không có hình minh hoạ). Ở Việt Nam, Harry Potter quyển thứ 6, bản tiếng Anh được phát hành ngày 16 tháng 7 năm 2005, cùng lúc với các nước khác. Bản dịch tiếng Việt của tập 6 là một cuốn trọn bộ chứ không chia ra nhiều tập nữa, do bên giữ bản quyền không đồng ý , được phát hành lúc 8 giờ sáng ngày 24 tháng 9 cùng năm. Một sự việc đáng ghi nhận là số lượng fan hâm mộ đã tăng đến mức khổng lồ. Những fan hâm mộ đã hào hứng chờ đợi tập truyện mới nhất đến độ các nhà sách trên khắp thế giới bắt đầu ngưng mọi hoạt động để tập trung vào ngày phát hành sách, kể từ năm 2000 với tập "Harry Potter và chiếc cốc lửa". Sự kiện này, những buổi chơi nhập vai nhân vật, vẽ mặt và nhiều hoạt động sôi nổi khác ngày càng mở rộng trong cộng đồng fan Harry Potter và đã thành công vượt bậc trong việc thu hút fan cũng như bán sách với gần 9 triệu trên 10,8 triệu bản in đầu tiên của "Harry Potter và Hoàng tử lai" được bán sạch chỉ trong 24 giờ. Trong đó, có một số ít "super-fan". Bên cạnh việc họp mặt online qua blog, gửi bưu thiếp và các fansite, các super fan của "Harry Potter" còn có thể tập trung nhau tại các chuyên đề về "Harry Potter". Những sự kiện này đã nối mọi người trên khắp thế giới cùng nhau tham dự các buổi thuyết giảng, tranh luận và nhiều hoạt động khác về "Harry Potter".
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Dương Văn Minh (1916-2001) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở Trường Sĩ quan Võ bị Quốc gia Việt Nam do Chính quyền Pháp tại Liên bang Đông Dương mở ra ở miền Đông Nam phần Việt Nam với mục đích đào tạo người bản xứ trở thành sĩ quan phục vụ cho Quân đội Thuộc địa Pháp. Thời gian tại ngũ, ông được đảm trách những chức vụ chuyên về lĩnh vực Chỉ huy và Tham mưu. Ông là một trong số ít sĩ quan được phong cấp tướng thời Đệ nhất Cộng hòa (Thiếu tướng năm 1955) và cũng là một trong 5 quân nhân được thăng cấp Đại tướng trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông cũng là một chính khách từng giữ vị trí Quốc trưởng trong giai đoạn (1963-1964) và là Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa. Giữ chức vụ Tổng thống trong thời gian 2 ngày (từ 28 tháng 4 đến 30 tháng 4 năm 1975), nhờ sự vận động của em trai là Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty, Đại tá Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam), nên ngày 30 tháng 4 năm 1975 ông đã kêu gọi các đơn vị quân đội Việt Nam Cộng hòa còn lại ngừng bắn và đầu hàng vô điều kiện theo yêu cầu của Quân Giải phóng miền Nam khi họ bắt đầu tấn công vào Sài Gòn, để tránh thương vong cho người dân và sự tàn phá đổ nát cho thành phố. Sau đó, ông tiếp tục làm cố vấn cho Chính phủ mới trước khi sang nước ngoài để sống với con cái. Tiểu sử và binh nghiệp. Ông sinh ngày 19 tháng 2 năm 1916 trong một gia đình trung nông tại Mỹ Tho, miền Tây Nam phần Việt Nam. Thời niên thiếu ông học trường College de Mytho, sau đó lên Sài Gòn học tiếp tại trường Collège Chasseloup-Laubat cùng một lớp với tướng Trần Văn Đôn. Năm 1938, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài toàn phần Pháp (Part II). Sau đó ông được bổ dụng làm Công chức thuộc ngạch Thư ký Hành chính, tùng sự tại Sài Gòn. Thời trẻ, ông đã sớm bộc lộ năng khiếu và ham mê thể thao. Do có thể hình to lớn, ông được bạn bè đặt cho biệt danh "Minh Cồ (Big Minh)". Quân đội Thuộc địa và Liên hiệp Pháp. Năm 1939, ông nhập ngũ vào Quân đội Thuộc địa Pháp, mang số quân: 36/100.225. Ngày 9 tháng 1 năm 1940, ông được đơn vị cho theo học khóa 1 Trường Sĩ quan Thủ Dầu Một (trường được đặt ở Phú Lợi). Đầu năm 1941 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy Bộ binh. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương. Ông đang phục vụ tại Cap St. Jacques thì bị Nhật bắt và đưa về Sài Gòn giam giữ tại khám Catinat. Năm 1946, Pháp tái chiếm Nam Kỳ, ông được trả tự do và tái phục vụ ở Trung đoàn 11 Bộ binh của Quân đội Pháp giữ chức vụ Trung đội trưởng. Hai tháng sau, ông được thăng cấp Thiếu úy tại nhiệm. Giữa năm 1948, chuyển biên chế sang Quân đội Liên hiệp Pháp ông được thăng cấp Trung úy giữ chức vụ Đại đội trưởng trong Tiểu đoàn Bộ binh Việt Nam. Quân đội Quốc gia Việt Nam. Tháng 8 năm 1950, chuyển ngạch sang Quân đội Quốc gia mới thành lập, ông được thăng cấp Đại úy. Năm 1951, ông được chuyển sang Dinh Thủ hiến Nam Việt Thái Lập Thành, giữ chức vụ Chánh võ phòng, tháng 12 cuối năm ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Đầu tháng 7 năm 1952, ông được cử làm Tham mưu trưởng Đệ nhất Quân khu Nam Việt dưới quyền Tư lệnh Quân khu là Đại tá Lê Văn Tỵ. Cuối năm, ông được cử đi du học lớp Tham mưu cao cấp tại Trường Tham mưu Paris sau khi bàn giao chức Tham mưu trưởng lại cho Thiếu tá Trần Văn Minh. Đầu năm 1953 mãn khóa học về nước tùng sự tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia. Tháng 11 năm 1954, ông được thăng cấp Trung tá và được cử giữ chức Chỉ huy trưởng Phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Sau khi người Pháp thất trận Điện Biên Phủ, ông là một trong những sĩ quan cao cấp ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm nắm quyền, loại trừ vai trò của Quốc trưởng Bảo Đại. Vì vậy ngày 1 tháng 5 năm 1955, ông được Thủ tướng Diệm cử làm Chỉ huy trưởng chiến dịch Bảo vệ Thủ đô Sài Gòn-Chợ Lớn, chống lại quân Bình Xuyên của tướng Lê Văn Viễn tại vùng Sài Gòn-Chợ Lớn và phụ cận. Ngày 5 tháng 5 ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Ngày 21 tháng 9 cùng năm, ông được Thủ tướng Diệm cử làm Tư lệnh Chiến dịch Hoàng Diệu, truy kích và tiêu diệt các lực lượng tàn quân Bình Xuyên của tướng Bảy Viễn. Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Ngày 1 tháng 11 năm 1955, ông được tân Quốc trưởng Ngô Đình Diệm thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Đầu năm 1956, sau khi hoàn tất việc dẹp loạn Bình Xuyên, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh Chiến dịch Nguyễn Huệ rồi tiếp đến Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu để bình định miền Tây, đánh dẹp Lực lượng Quân sự Giáo phái Hòa Hảo của các tướng Năm Lửa và Ba Cụt. Ngày 26 tháng 10, ông được Tổng thống Diệm chỉ định làm Tổng Chỉ huy cuộc duyệt binh mừng lễ kỷ niệm Đệ nhất Chu niên ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa trên Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. Ngày 8 tháng 12 cuối năm, ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm. Đầu năm 1957, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân khu Thủ đô. Từ tháng 7 đến tháng 11, ông có 3 lần hướng dẫn phái đoàn Quân sự du hành quan sát tại các Quốc gia Nhật Bản (12 tháng 7), Úc (1 tháng 9) và Hàn Quốc. Đầu tháng 8 năm 1958, bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân khu Thủ đô lại cho Đại tá Nguyễn Văn Y để đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu Cao cấp "(khóa 58-2)" tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leaveworth, Kansas, Hoa Kỳ với thời gian thụ huấn 16 tuần. Đầu tháng 1 năm 1959 mãn khóa học về nước, ông được giao cho chức vụ Tư lệnh tổng quát 3 Quân khu gồm: Quân khu Thủ đô, Quân khu 1 và Quân khu 5 "(Đệ nhất và Đệ ngũ Quân khu). Tuy nhiên, trong những năm sau đó, sự tín nhiệm của ông đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giảm sút. Ông lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ không có thực quyền. Đầu năm 1960, ông được cử làm Tổng Thư ký Thường trực Bộ Quốc phòng. Qua đầu năm 1961, giữ chức vụ Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân tại Bộ Tổng Tham mưu, Phụ tá cho ông là Thiếu tướng Lê Văn Kim. Giữa năm 1962, ông được cử hướng dẫn Phái đoàn Quân sự du hành quan sát cuộc thao dượt Hải quân Liên phòng Đông Nam Á. Ngày 8 tháng 12, Bộ Tư lệnh Hành quân Bộ Tổng Tham mưu giải tán. Đầu năm 1963, ông được chuyển về Phủ Tổng thống giữ chức vụ Cố vấn Quân sự cho Tổng thống. Đảo chính 1963 và những thăng trầm sau đó. Vốn đã có bất mãn tồn tại, cộng thêm là một tín đồ Phật giáo, ông đã nhiều lần biểu hiện thái độ không hài lòng với những biện pháp trấn áp Phật giáo của Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đóng vai trò chính với cương vị Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, cùng với các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Đỗ Mậu... Từ khi hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu bị sát hại (ngày 2/11/1963), ông và các tướng tá đồng sự của ông không ai công khai thừa nhận mình có tham gia quyết định giết Tổng thống, có thể vì 2 lẽ: Tuy nhiên, chỉ 2 tháng sau, tướng Nguyễn Khánh cầm đầu Cuộc Chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964 lật đổ Chính quyền Quân sự này và giành quyền cai trị Việt Nam Cộng hòa. Ông bị thất thế về chính trị, mặc dù vẫn được giữ chức vụ Quốc trưởng, với chức vụ này, ông là một trong 3 lãnh đạo Quốc gia cho chế độ được xưng là "Tam đầu chế": Ngày 24 tháng 11 năm 1964, ông được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu thăng cấp Đại tướng (cùng với tướng Nguyễn Khánh). Tháng 12 năm 1964, ông bị ép đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan thay thế Trung tướng Thái Quang Hoàng. Ngày 21 tháng 3 năm 1965, ông nhận được quyết định giải ngũ của Hội đồng Quân lực. Tuy nhiên, ông vẫn được giữ làm Đại sứ tại Thái Lan cho đến năm 1968 mới được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho hồi hương. Năm 1971, ông trở lại chính trường để đối đầu với đương kim Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ ủng hộ, trong cuộc tranh cử Tổng thống. Tuy được nhiều người cho rằng rất có thể ông là lãnh đạo của "Lực lượng thứ ba", có thể đàm phán hòa bình với quân Giải phóng để tránh việc chiến tranh tiếp diễn lâu dài, nhưng nỗ lực của ông đã bị Tổng thống Thiệu cản trở. Cuối cùng, ông đã rút ra khỏi cuộc tranh cử sau khi tuyên bố rằng cuộc bầu cử chỉ là "trò múa rối". Tổng thống Thiệu hiển nhiên tái đắc cử tổng thống năm đó do ông ta là ứng cử viên duy nhất, không phải cạnh tranh với bất kỳ đối thủ nào. Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa. Với sự sụp đổ nhanh chóng của Việt Nam Cộng hòa sau khi Mỹ rút quân, ông lại trở thành một nhân vật quan trọng cho chức vụ Tổng thống. Sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, rồi Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông chính thức nhậm chức Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Theo hồi ký các tướng tá của Quân lực Việt Nam Cộng hòa như Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, và cựu dân biểu Lý Quý Chung, thì sáng ngày 28 tháng 4, tướng tình báo Pháp Francois Vanussème đã tới gặp Tổng thống Dương Văn Minh và đề nghị Việt Nam Cộng hòa kêu gọi Trung Quốc đem quân tấn công vào Việt Nam để cứu Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang trong cơn nguy kịch. Một nhân viên ngoại giao Trung Quốc đề nghị Quân lực Việt Nam Cộng hòa hãy cố thủ, án ngữ Vùng 4 Chiến thuật, hứa hẹn Trung Quốc sẽ đem quân đánh vào biên giới miền Bắc Việt Nam để giải vây. Bản thân ông, vốn đã được Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam thông qua em trai là Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty, Đại tá Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam) và gia đình thuyết phục từ trước, đã từ chối và nói: 8h sáng ngày 30 tháng 4, ông và phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền cùng Thủ tướng Vũ Văn Mẫu quyết định đơn phương tuyên bố bàn giao chính quyền lại cho Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Ông Mẫu ngồi soạn lời tuyên bố, mất khoảng một tiếng đồng hồ. Đến 9h, giao cho ông đọc vào máy ghi âm. Trong lúc ông thâu băng lời tuyên bố, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng, gọi điện cho Tư lệnh Quân đoàn IV là Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam và yêu cầu tướng Nam cố gắng thi hành lệnh Tổng thống sẽ phát trên Đài Vô tuyến Việt Nam. Tướng Hạnh cũng đến Đài phát thanh để ra nhật lệnh cho quân đội và các lực lượng vũ trang buông súng thi hành lệnh của Tổng thống. Tuyên bố của ông, nhật lệnh của tướng Hạnh được truyền đi trên Đài Vô tuyến Việt Nam lúc 9h30: 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4, Trung úy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên. Cùng lúc này, Đại úy Trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và Biệt động thành Sài Gòn tiến vào dinh Độc Lập bắt ông Dương Văn Minh cùng toàn bộ những nhân vật chủ chốt của Nội các chính quyền Sài Gòn. Dương Văn Minh nói: "Tôi chờ các ông tới để bàn giao chính quyền", Phạm Xuân Thệ trả lời: "Các ông đã không còn gì để bàn giao. Thay mặt Cách mạng, tôi đề nghị ông ra lệnh đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu không cần thiết". Ông đồng ý. Khoảng 12 giờ trưa, Đại úy Phạm Xuân Thệ đưa Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe Jeep để đến đài phát thanh. Chiếc xe thứ hai chở Trung tá Chính ủy Lữ đoàn Xe tăng 203 Bùi Văn Tùng cùng hai nhà báo Beorries Gallasch (người Đức, báo "Der Spiegel") và Hà Huy Đỉnh. Đến đài Phát thanh, tất cả lên phòng ghi âm bé tí xíu rộng khoảng 20 m vuông. Trong lúc đứng đợi, một nhân viên của Đài giật chân dung Nguyễn Văn Thiệu trên tường, ném qua cửa sổ xuống sân. Không khí căng thẳng thay đổi khi đại uý Thệ thay đổi thái độ, vui vẻ nói: Chính uỷ Tùng muốn tướng Minh đọc qua những lời thảo trước khi ghi âm. Song không tìm thấy một chiếc máy ghi âm nào trong Đài Phát thanh do toà nhà vừa trải qua một trận hôi của. Chỉ còn chiếc máy ghi âm nhỏ của báo Spiegel. Việc thu âm tiến hành đến ba lần. Lần thứ nhất ông Minh không đọc tiếp khi đến dòng chữ "Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống Chính quyền Sài Gòn...". Ông chỉ muốn giản lược là "Tướng Minh" và không muốn nhắc đến chức vị Tổng thống mới tiếp nhận được hai ngày. Cuối cùng mọi người nhất trí với lời văn: "Tôi, tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho tất cả binh sĩ hạ vũ khí đầu hàng..." Tại đài phát thanh, ông thay mặt toàn bộ Nội các của Chính quyền Sài Gòn đã đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với quân đội cách mạng (tức Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Thay mặt các đơn vị quân Giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, Trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời tiếp nhận đầu hàng. Chiến tranh kết thúc. Chính Quyền Việt Nam Cộng hòa chính thức sụp đổ. Sau 1975. Sau ngày 30 tháng 4, ông không phải đi cải tạo và sống tại Sài Gòn. Ông còn được mời làm cố vấn cho Chính phủ mới. Có hình ảnh cho thấy ông thường xuyên đi bầu cử như một công dân chế độ mới. Tháng 10 năm 1981, chính quyền Việt Nam cho phép ông được xuất cảnh sang Pháp chữa bệnh và đoàn tụ gia đình. Năm 1988, ông chuyển sang Hoa Kỳ, sống với vợ chồng người con gái tại Pasadena, California và định cư luôn tại đây. Ngày 9 tháng 8 năm 2001, ông qua đời tại nơi định cư, hưởng thọ 85 tuổi. Nhận xét. Con trai của ông, Dương Minh Đức, trong một buổi phỏng vấn đã nói về cha mình: ""Tôi rất yêu quý ba tôi… Thứ nhất, ông là vị tướng sống trong sạch, không chấp nhận chuyện tham nhũng; thứ hai, trong nguyên tắc tìm giải pháp hòa bình cho đất nước Việt Nam, theo ông phải do chính người Việt Nam tự giải quyết. Tôi hiểu quan điểm của ba tôi luôn đặt dân tộc và sinh mệnh nhân dân trên hết. Chính vì vậy, ông không ngại đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống trong buổi hoàng hôn của một chế độ…. Ba tôi là người luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc và ông đã bác bỏ ý kiến của một số người yêu cầu "tử thủ" Sài Gòn. Tôi tin rằng đây là quan điểm xuyên suốt trong cuộc đời chính trị của ông "yêu nước trước hết là phải cứu dân"" (theo tạp chí "Hồn Việt", 1.6.2009). Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba, một người thân cận từng ở nhờ thời gian khá dài trong tư gia của tướng Dương Văn Minh thì ông Minh là "loại người trầm lắng, suy tư dù gốc của ông là một quân nhân. Triết lý của ông là triết lý trầm lắng của Phật giáo, ông không đua chen, không sân si; ông thuộc vào loại thấy đủ biết đủ, thấy nhàn biết nhàn. Đó là một loại triết lý pha lẫn giữa Phật giáo và Lão giáo. Ông sống khá bình dị, hòa mình với mọi người, đa số bạn bè bà con đều thương ông."" Gia đình. Thân phụ là Dương Văn Mâu (tức Dương Văn Mau, nguyên danh là Dương Văn Huề), cựu công chức Hành chính, tùng sự tại dinh Phó soái Nam Kỳ, hàm Đốc phủ sứ. Thân mẫu của ông là Phan Xuân Lý. Dương Văn Minh là con trai trưởng trong gia đình, "Anh Hai" theo cách gọi miền Nam), sau ông còn có 3 em trai và 3 em gái. Ông có hai bào đệ là: Vợ ông là Trần Thị Lang, ông bà có ba người con (2 trai, 1 gái):
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Bạch cầu, hay bạch huyết cầu (nghĩa là "tế bào máu trắng", còn được gọi là tế bào miễn dịch), là một thành phần của máu. Chúng giúp cho cơ thể chống lại các bệnh truyền nhiễm và các vật thể lạ trong máu. Chúng là một phần của hệ miễn dịch, số lượng bạch cầu các loại trong một lít máu người lớn khỏe mạnh dao động từ 4x109 tới 11x109. Bạch cầu trong suốt, kích thước khá lớn, có nhân. Ngoại trừ máu, chúng được tìm thấy với số lượng lớn trong các hạch, mạch bạch huyết, lách và các mô khác trong cơ thể. Trong tổng số bạch cầu cơ thể các loài động vật có vú thì Bạch cầu hạt trung tính là loại chiếm số lượng nhiều nhất (40% đến 70%). Phân loại. Có năm loại tế bào bạch cầu: Bạch cầu ưa kiềm, bạch cầu ưa axit, bạch cầu trung tính, bạch cầu mônô và bạch cầu limphô. Bạch cầu được phân thành ba loại chính. Bạch cầu hạt. Bạch cầu hạt ("granulocyte") được đặc trưng bởi các hạt nhuộm màu khác nhau trong tế bào chất dưới kính hiển vi quang học. Có ba loại bạch cầu hạt: bạch cầu trung tính ("neutrophil"), bạch cầu ái kiềm ("basophil") và bạch cầu ái toan ("eosinophil") (được đặt tên theo các thuộc tính nhuộm màu của chúng). Trước đây, bạch cầu hạt còn được gọi (không chính xác) là "bạch cầu đa nhân" do đặc điểm phân thùy (múi) của nhân tế bào, tác giả Trần Phương Hạnh từng đề nghị thuật ngữ "bạch cầu nhân múi" thay cho "bạch cầu đa nhân". Ngoài ra chúng ta cũng có thể gọi những bạch cầu có hạt là bạch cầu có nhân đa hình (vì nhân của nó thường được phân thành nhiều múi khác nhau và thường có từ 1 - 5 múi). Người ta sử dụng yếu tố phân múi này để định công thức bạch cầu Arneth! Tế bào lympho. Là các tế bào chuyên biệt của hệ miễn dịch, các tế bào lympho ("lymphocyte") rất phổ biến trong hệ bạch huyết. Trong máu có ba loại lymphocyte: tế bào B, tế bào T và các tế bào giết tự nhiên ("natural killer (NK) cell"). Các tế bào B sản xuất ra kháng thể liên kết với tác nhân gây bệnh nhằm tạo điều kiện để có thể phá hủy chúng. Các tế bào T CD4+ (T bổ trợ) phối hợp các phản ứng của hệ miễn dịch (loại tế bào này bị suy giảm khi cơ thể bị nhiễm virus HIV hoặc mắc các hội chứng suy giảm miễn dịch bẩm sinh). Các tế bào T CD8+ (T gây độc) và tế bào giết tự nhiên có khả năng giết các tế bào của cơ thể bị nhiễm các tác nhân gây bệnh nội bào. Bạch cầu đơn nhân. Bạch cầu đơn nhân ("monocyte") chia sẻ chức năng 'dọn dẹp chân không' của bạch cầu trung tính, nhưng chúng có đời sống dài hơn bởi chúng còn có vai trò bổ sung khác. Bạch cầu đơn nhân trong máu cũng như các bản sao của chúng ở các mô - thực bào rồi đưa các kháng nguyên của tác nhân gây bệnh tới trình diện cho tế bào T. Bạch cầu đơn nhân trưởng thành có thể biệt hóa thành đại thực bào tại các mô khác nhau của cơ thể. Bệnh lý học. Một dạng của ung thư mà các tế bào bạch cầu sinh trưởng không kiểm soát nổi gọi là ung thư máu. Trong các bệnh lý nhiễm trùng thì số lượng bạch cầu cũng tăng lên đáng kể. Từ trên 11x10^9 Các tế bào mô khác. Có khoảng 50.000 bạch cầu trong một giọt máu.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Tầng bình lưu hay tầng tĩnh khí là một lớp của bầu khí quyển trên Trái Đất và một số hành tinh. Tầng bình lưu nằm ngay phía trên tầng đối lưu và ở phía dưới của tầng trung lưu. Ranh giới trên cùng của tầng này gọi là ranh giới bình lưu. Trên Trái Đất. Tại vùng xích đạo, tầng khí quyển này nằm ở độ cao vào khoảng từ 16 km đến 52 km trên mực nước biển, trong khi đó tại hai cực nó bắt đầu ở độ cao khoảng 8 km vì độ cao rất thấp của vùng ranh giới đối lưu (do nhiệt độ của tầng đối lưu tại gần cực là thấp hơn so với ở vùng xích đạo). Tầng khí quyển này có tên là "bình lưu" vì đây là tầng khí quyển có ít các dòng đối lưu xoáy mạnh. Các máy bay dân dụng thường chọn bay ở độ cao nằm gần ranh giới giữa tầng này và tầng đối lưu để giảm thiểu nguy cơ tai nạn do diễn biến đối lưu bất thường của khí quyển. Trong phạm vi tầng này nhiệt độ tăng theo độ cao. Ở trên cùng của tầng bình lưu nhiệt độ có thể đạt tới 270°K (-3°C). Lên trên ranh giới bình lưu, nhiệt độ lại giảm theo độ cao. Tầng bình lưu là khu vực của các tương tác với cường độ cao của các quá trình hóa học, động lực học và bức xạ. Trong đó sự pha trộn của các thành phần khí quyển diễn ra theo chiều ngang diễn ra mạnh hơn theo chiều đứng. Tầng bình lưu ấm hơn phần trên của tầng đối lưu, chủ yếu là do tầng ôzôn trong tầng bình lưu hấp thụ bức xạ cực tím của Mặt Trời. Một đặc trưng thú vị của sự lưu thông trong tầng bình lưu là sự dao động hai năm một lần (QBO) tại các vĩ độ nhiệt đới, được sinh ra do sự đối lưu nhiệt ở tầng đối lưu. QBO sinh ra sự lưu thông thứ cấp rất quan trọng trong việc dịch chuyển các thành phần của tầng bình lưu như ôzôn hay hơi nước. Trong mùa đông của bán cầu bắc, sự ấm lên đột ngột của tầng bình lưu thông thường có thể quan sát thấy được gây ra do sự hấp thụ của sóng Rossby trong tầng bình lưu. Trên Sao Hỏa. Tầng bình lưu trên Sao Hỏa thường nằm trong khoảng độ cao từ 70 km đến 140 km. Nhiệt độ phía dưới tầng bình lưu giảm theo độ cao. Khi đến tầng bình lưu, nhiệt độ dao động trong khoảng từ 120°K đến 130°K (tức là khoảng -153°C đến -143 °C). Lên trên ranh giới bình lưu, nhiệt độ lại tăng theo độ cao. Trong tầng này và các tầng cao hơn của Sao Hoả, không tồn tại mây và bụi.
174
174_nhit_kh_ma_my
[ "nhit", "kh", "ma", "my", "xoy", "frng", "lu", "st", "front", "tia" ]
[ "Thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian phụ thuộc biến chuyển thiên văn. Trong âm Hán-Việt, \"thủy\" có nghĩa là nước, còn \"triều\" là cường độ nước dâng lên và rút xuống. Sự thay đổi lực hấp dẫn từ Mặt Trăng (phần chủ yếu) và từ các thiên thể khác như Mặt Trời (phần nhỏ) tại một điểm bất kỳ trên bề mặt Trái Đất trong khi Trái Đất quay đã tạo nên hiện tượng nước dâng (\"triều lên\" thường gọi là \"nước lớn\") và nước rút (\"triều xuống\" tức \"nước ròng\") vào những khoảng thời gian nhất định trong một ngày.\nĐặc điểm.\nNhững biến đổi thủy triều trải qua các giai đoạn sau:\nThủy triều tạo ra các dòng chảy có tính dao động gọi là dòng triều hay triều lưu. Thời điểm mà dòng triều ngừng chuyển động được gọi là nước chùng hoặc nước đứng (slack water).\nSau đó, thủy triều đổi hướng, tạo ra sự biến đổi ngược lại. Nước đứng thường xuất hiện gần lúc mực nước triều cao hoặc triều thấp; nhưng tại một số nơi, thời gian nước đứng là khác biệt đáng kể so với thời gian triều cao hoặc triều thấp.\nHiện tượng thủy triều phổ biến nhất là \"bán nhật triều\" hoặc \"nhật triều\", tức là hai lần nước lớn trong ngày có đỉnh không bằng nhau; chúng bao gồm \"mực nước lớn cao\" và \"mực nước lớn thấp\" trên đồ thị triều. Tương tự đối với hai lần nước ròng gồm \"nước ròng cao\" và \"nước ròng thấp\".\nNguyên nhân.\nNguyên nhân của thủy triều là do thủy quyển có hình cầu dẹt nhưng bị kéo cao lên ở hai miền đối diện nhau tạo thành hình ellipsoid. Một đỉnh của ellipsoid nằm trực diện với Mặt Trăng - là miền nước lớn thứ nhất, do lực hấp dẫn của Mặt Trăng gây ra. Còn miền nước lớn thứ hai nằm đối diện với miền nước lớn thứ nhất qua tâm Trái Đất, do lực li tâm tạo ra. Giữa hai nước lớn liên tiếp là nước ròng. Một khi vận tốc góc (tốc độ quay) của Trái Đất không đổi thì lực li tâm lớn nhất nằm ở nơi có bán kính quay lớn nhất khi đó là miền xích đạo của Trái Đất. Tuy nhiên bán kính quay chưa hẳn là bán kính Trái Đất tại xích đạo, vì Trái Đất không hoàn toàn quay quanh trục của nó, cũng như Mặt Trăng không hoàn toàn quay quanh Trái Đất, mà là: Hệ Trái Đất-Mặt Trăng quay xung quanh điểm trọng tâm của hệ này. Do khối lượng của Trái Đất lớn hơn của Mặt Trăng rất nhiều nên trọng tâm của hệ Trái Đất-Mặt Trăng nằm trong lòng Trái Đất, trên đường nối tâm của chúng ở khoảng cách 0.73 bán kính của Trái Đất (4650.83 km). Tóm lại: Trái Đất vừa quay, vừa lắc.\nThủy triều đạt cực đại khi mà cả Mặt Trăng và Mặt Trời cùng nằm về một phía so với Trái Đất, và mức triều phía đối diện lúc đó sẽ xuống điểm cực tiểu.\nKhái niệm thủy triều được mở rộng trong vật lý học dành cho chênh lệch tương tác hấp dẫn tác động lên các vật thể nằm trong tương tác hấp dẫn.\nĐịnh nghĩa.\nTừ mực nước cao nhất đến thấp nhất:\nThành phần thủy triều.\nCác thành phần thủy triều là kết quả ròng của nhiều ảnh hưởng tác động đến các thay đổi thủy triều trong một khoảng thời gian nhất định. Các thành phần chính bao gồm sự tự quay của Trái Đất, vị trí của Mặt Trăng và Mặt Trời so với Trái Đất, độ cao (cao độ) của Mặt Trăng so với đường xích đạo của Trái Đất và độ sâu. Các biến thiên với thời gian dưới nửa ngày được gọi là các \"thành phần điều hòa\". Ngược lại, các chu kỳ gồm nhiều ngày, tháng hoặc năm được gọi là các thành phần \"thời gian dài\".\nCác lực thủy triều ảnh hưởng đến toàn bộ Trái Đất, nhưng sự chuyển động của phần Trái Đất rắn xảy ra chỉ tính bằng xentimet. Ngược lại, khí quyển linh động và dễ nén hơn nên bề mặt của nó di chuyển tính bằng kilomet, theo ý nghĩa của mức đường viền của một vùng áp suất thấp cụ thể nào đó trong bầu khí quyển ngoài.\nThành phần bán nhật mặt trăng chính.\nỞ hầu hết các địa điểm, thành phần lớn nhất là \"thành phần thủy triều bán nhật mặt trăng chính\", còn được gọi là thành phần thủy triều \"M2\" (hoặc \"M\"2). Thời gian của nó là khoảng 12 giờ và 25,2 phút, chính xác bằng một nửa \"ngày mặt trăng thủy triều\", đó là thời gian trung bình chia tách một thiên đỉnh với thiên đỉnh kế tiếp của mặt trăng, và do đó là thời gian cần thiết để Trái Đất quay một vòng tương đối so với Mặt Trăng. Các đồng hồ thủy triều đơn giản theo dõi thành phần này. Ngày mặt trăng dài hơn ngày Trái Đất do Mặt Trăng quay cùng hướng với sự tự quay của Trái Đất. Điều này tương tự như kim phút trên đồng hồ vượt qua kim giờ vào lúc 12h00 và sau đó lại vượt qua một lần nữa vào khoảng 1h05½ mà không phải vào lúc 1h00.\nMặt Trăng quay quanh Trái Đất theo cùng hướng với sự tự quay quanh trục của Trái Đất, vì thế phải mất hơn một ngày một chút, khoảng 24 giờ 50 phút để Mặt Trăng quay trở lại cùng một vị trí trên bầu trời. Trong khoảng thời gian này, nó đã vượt qua đỉnh đầu (trung thiên) một lần và dưới chân một lần (ở góc giờ lần lượt là 00:00 và 12:00), do đó ở nhiều nơi, chu kỳ lực thủy triều mạnh nhất là như đã đề cập ở trên là khoảng 12 giờ 25 phút. Thời điểm thủy triều cao nhất không nhất thiết phải là khi Mặt Trăng ở gần thiên đỉnh hoặc thiên để, nhưng chu kỳ lực thủy triều vẫn xác định thời gian giữa các triều cao.\nDo trường hấp dẫn do Mặt Trăng tạo ra bị suy yếu theo khoảng cách đến Mặt Trăng, nên lực tác động hơi mạnh hơn một chút so với mức trung bình tại phía Trái Đất đối diện với Mặt Trăng và lực tác động hơi yếu hơn một chút ở phía bên kia (phía xa Mặt Trăng). Vì thế, Mặt Trăng có xu hướng \"kéo giãn\" Trái Đất một chút dọc theo đường nối giữa hai thiên thể. Trái Đất rắn chỉ biến dạng một chút, nhưng nước biển là chất lỏng có thể tự do di chuyển nhiều hơn để phản ứng với lực thủy triều, cụ thể là theo chiều ngang. Khi Trái Đất tự quay, cường độ và hướng của lực thủy triều tại bất kỳ điểm cụ thể nào trên bề mặt Trái Đất đều thay đổi liên tục; mặc dù đại dương không bao giờ đạt đến trạng thái cân bằng, do không bao giờ có thời gian để chất lỏng \"bắt kịp\" với trạng thái mà cuối cùng nó phải đạt được nếu lực thủy triều không đổi, tuy nhiên lực thủy triều luôn thay đổi gây ra các thay đổi nhịp nhàng trong chiều cao mặt nước biển.\nKhi có hai triều cao mỗi ngày với các độ cao khác nhau (và hai triều thấp cũng có các độ cao khác nhau), mô hình này được gọi là \"bán nhật triều hỗn hợp\".\nPhạm vi biến đổi: Triều cường và Triều kém.\nPhạm vi bán nhật (chênh lệch độ cao giữa nước lớn và nước ròng trong khoảng nửa ngày) thay đổi theo chu kỳ hai tuần. Khoảng hai lần mỗi tháng, vào khoảng trăng mới và trăng tròn khi Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất tạo thành một đường thẳng (một cấu hình được gọi là sóc vọng) thì lực thủy triều mặt trời tăng cường cho lực thủy triều mặt trăng. Phạm vi của thủy triều là tối đa; nó được gọi là triều cường (spring tide).\nKhi Mặt Trăng là thượng huyền hoặc hạ huyền, Mặt Trời và Mặt Trăng cách nhau 90° khi nhìn từ Trái Đất và lực thủy triều mặt trời sẽ triệt tiêu một phần lực thủy triều mặt trăng. Tại những điểm này trong chu kỳ trăng, phạm vi của thủy triều ở mức tối thiểu; nó được gọi là triều kém hay triều nhược (neap tide).\nTriều cường dẫn tới các nước lớn cao hơn mức nước lớn trung bình và các nước ròng thấp hơn mức nước ròng trung bình, thời gian nước đứng ngắn hơn mức trung bình và dòng triều mạnh hơn mức trung bình. Triều kém dẫn đến các điều kiện triều ít tột độ hơn. Khoảng thời gian khoảng 7 ngày giữa một triều cường và một triều kém.\nĐộ cao mặt trăng.\nKhoảng cách thay đổi ngăn cách Mặt Trăng và Trái Đất cũng ảnh hưởng đến độ cao của thủy triều. Khi Mặt Trăng ở gần nhất, tại điểm cận địa, phạm vi sẽ tăng và khi nó ở điểm viễn địa, phạm vi sẽ giảm. Mỗi chu kỳ trăng (chu kỳ đầy đủ từ trăng tròn đến trăng mới rồi trăng tròn), điểm cận địa trùng với một trăng mới hoặc một trăng tròn gây ra triều cường điểm cận địa với \"phạm vi thủy triều\" lớn nhất. Ngay cả khi mạnh nhất, lực này vẫn là yếu, gây ra các khác biệt thủy triều nhiều nhất chỉ cỡ vài xentimet.\nThành phần khác.\nChúng bao gồm các hiệu ứng hấp dẫn mặt trời, độ nghiêng (độ xiên) của xích đạo và trục tự quay của Trái Đất, độ nghiêng của mặt phẳng quỹ đạo mặt trăng và hình dạng elip của quỹ đạo Trái Đất xung quanh Mặt Trời.\nThủy triều hỗn hợp sinh ra từ sự tương tác nước nông của hai sóng mẹ của nó.\nPha và biên độ.\nVì thành phần thủy triều \"M\"2 chiếm ưu thế ở hầu hết các địa điểm, nên giai đoạn hoặc \"pha\" của thủy triều, được biểu thị theo thời gian tính bằng giờ sau nước lớn, là một khái niệm hữu ích. Pha thủy triều cũng được đo bằng độ, với 360° mỗi chu kỳ thủy triều. Các đường của pha thủy triều không đổi được gọi là \"đường đồng pha thủy triều\" (cotidal line), tương tự như đường đồng mức có độ cao không đổi trên bản đồ địa hình và khi được vẽ ở dạng \"bản đồ đồng pha thủy triều\" hoặc \"biểu đồ đồng pha thủy triều\". Nước lớn đồng thời đạt được dọc theo các đường đồng pha thủy triều mở rộng từ bờ biển vào đại dương, và các đường đồng pha thủy triều (và vì thế là các pha thủy triều) tiến dọc theo bờ biển. Các thành phần pha bán nhật triều và pha dài được đo từ mực nước lớn, pha nhật triều từ ngập triều tối đa. Điều này và thảo luận dưới đây chỉ là chính xác đúng cho một thành phần thủy triều duy nhất.\nĐối với một đại dương có hình dạng của một lưu vực hình tròn được bao bọc bởi một đường bờ biển, các đường đồng pha thủy triều hướng thẳng vào bên trong và cuối cùng phải gặp nhau tại một điểm chung là giao điểm thủy triều hay điểm amphidromos. Điểm amphidromos cùng lúc là đồng pha thủy triều với nước lớn và nước ròng, được thỏa mãn bởi chuyển động thủy triều bằng \"không\" (Trường hợp ngoại lệ hiếm xảy ra khi thủy triều bao quanh một hòn đảo, như xung quanh New Zealand, Iceland và Madagascar). Chuyển động thủy triều thường giảm bớt khi di chuyển ra xa các bờ biển lục địa, sao cho vượt qua các đường đồng pha thủy triều là các đường đồng mức của \"biên độ\" không đổi (một nửa khoảng cách giữa nước lớn và nước ròng) giảm xuống 0 tại giao điểm thủy triều. Đối với bán nhật triều, giao điểm thủy triều có thể được coi là gần giống như tâm của mặt đồng hồ, với kim giờ chỉ theo hướng của đường đồng pha thủy triều nước lớn, nằm ngược hướng với đường đồng pha thủy triều nước ròng. Nước lớn xoay quanh giao điểm thủy triều mỗi lần khoảng 12 giờ theo hướng các đường đồng pha thủy triều nước lên và cách xa các đường đồng pha thủy triều nước xuống. Sự quay này, gây ra bởi hiệu ứng Coriolis, nói chung theo chiều kim đồng hồ ở Nam bán cầu và ngược chiều kim đồng hồ ở Bắc bán cầu. Chênh lệch pha của đồng pha thủy triều so với thủy triều tham chiếu gọi là \"khoảng pha\" (epoch). Thủy triều tham chiếu là thành phần \"thủy triều cân bằng\" giả định trên Trái Đất không có đất liền được đo ở kinh độ 0° hay kinh tuyến Greenwich.\nỞ Bắc Đại Tây Dương, do các đường đồng pha thủy triều lưu thông ngược chiều kim đồng hồ xung quanh giao điểm thủy triều, nên triều cao qua cảng New York khoảng một giờ trước cảng Norfolk. Phía nam mũi Hatteras, các lực thủy triều phức tạp hơn và không thể dự đoán một cách đáng tin cậy dựa trên các đường đồng pha thủy triều Bắc Đại Tây Dương.\nVật lý.\nLịch sử vật lý thủy triều.\nNghiên cứu vật lý thủy triều là quan trọng trong sự phát triển ban đầu của cơ học thiên thể, với sự tồn tại của bán nhật triều được giải thích bởi lực hấp dẫn của Mặt Trăng. Sau đó nhật triều được giải thích chính xác hơn bởi sự tương tác của lực hấp dẫn của Mặt Trăng và Mặt Trời.\nSeleukos xứ Seleucia đưa ra lý thuyết vào khoảng năm 150 TCN cho rằng thủy triều là do Mặt Trăng gây ra. Ảnh hưởng của Mặt Trăng đến các vùng nước cũng được đề cập trong \"Tetrabiblos\" của Ptolemy.\nTrong \"De temporum ratione\" (\"Đoán định của Thời gian\") viết năm 725 Bede liên kết bán nhật triều và hiện tượng thay đổi độ cao thủy triều với Mặt Trăng và các pha của nó. Bede bắt đầu bằng cách lưu ý rằng thủy triều lên xuống chậm khoảng 4/5 giờ mỗi ngày, giống như Mặt Trăng mọc và lặn chậm khoảng 4/5 giờ mỗi ngày. Ông tiếp tục nhấn mạnh rằng trong hai tháng âm lịch (59 ngày) thì Mặt Trăng vòng quanh Trái Đất 57 lần và có 114 thủy triều. Bede sau đó quan sát thấy rằng chiều cao của thủy triều thay đổi theo tháng. Các thủy triều ngày càng tăng được ông gọi là \"malinae\" và các thủy triều ngày càng giảm là \"ledones\" và mỗi tháng được chia thành bốn phần gồm 7 hoặc 8 ngày với các \"malinae\" và \"ledones\" xen kẽ. Trong cùng một đoạn, ông cũng lưu ý đến tác động của gió trong kìm hãm thủy triều. Bede cũng ghi nhận rằng thời gian thủy triều thay đổi theo từng vị trí. Về phía bắc nơi ở của Bede (Monkwearmouth) thủy triều đến sớm hơn, còn về phía nam thì muộn hơn. Ông giải thích rằng thủy triều \"rời bỏ những bờ biển này cốt để có thể tràn vào nhiều hơn ở những [bờ biển] khác khi nó đến đó\", lưu ý rằng \"Mặt trăng báo hiệu sự dâng lên của thủy triều ở đây, báo hiệu sự rút xuống của nó ở các khu vực khác cách xa khu vực này khoảng một phần tư bầu trời\".\nSự hiểu biết thời trung cổ về thủy triều chủ yếu dựa trên các tác phẩm của các nhà thiên văn Hồi giáo, trở thành có sẵn thông qua bản dịch tiếng Latinh bắt đầu từ thế kỷ thứ 12. Abu Ma'shar (mất khoảng năm 886), trong cuốn \"Introductorium in astronomiam\" (\"Giới thiệu về thiên văn học\") của ông, đã chỉ ra rằng triều xuống và triều lên là do Mặt Trăng gây ra. Abu Ma'shar đã thảo luận về các ảnh hưởng của gió và các pha Mặt Trăng tương đối so với Mặt Trời lên các thủy triều. Vào thế kỷ 12, Nur ad-Din al-Bitruji (mất khoảng năm 1204) quan niệm rằng thủy triều là do sự luân chuyển chung của các thiên thể.\nSimon Stevin trong \"De spiegheling der Ebbenvloet\" (Thuyết về triều xuống và triều lên) năm 1608, đã bác bỏ một lượng lớn các quan niệm sai lầm vẫn còn tồn tại khi đó về triều xuống và triều lên. Stevin đã biện hộ cho ý tưởng cho rằng sự hấp dẫn của Mặt Trăng chịu trách nhiệm về thủy triều và đã phát biểu bằng các thuật ngữ rõ ràng về triều xuống, triều lên, triều cường và triều kém, nhấn mạnh rằng cần có thêm các nghiên cứu tiếp theo.\nNăm 1609 Johannes Kepler cũng gợi ý chính xác rằng lực hấp dẫn của Mặt Trăng gây ra thủy triều, dựa theo những quan sát và tương quan cổ xưa.\nGalileo Galilei trong \"Dialogo sopra i due massimi sistemi del mondo\" (\"Đối thoại liên quan đến hai hệ thế giới chính\") năm 1632, trong phần \"Đối thoại về thủy triều\", đã đưa ra lời giải thích về thủy triều. Tuy nhiên, thuyết tạo ra là không chính xác khi ông gán thủy triều cho sự chuyển động sóng sánh của nước do chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Ông hy vọng sẽ cung cấp bằng chứng cơ học về sự chuyển động của Trái Đất. Giá trị của thuyết thủy triều của ông bị tranh cãi. Galileo đã từ chối diễn giải về thủy triều của Kepler.\nIsaac Newton (1642-1727) là người đầu tiên giải thích thủy triều là sản phẩm của lực hấp dẫn từ các khối thiên văn. Diễn giải của ông về thủy triều (và nhiều hiện tượng khác) đã được xuất bản trong \"Principia\" (1687) và sử dụng thuyết hấp dẫn vạn vật của ông để giải thích sức hấp dẫn của mặt trăng và mặt trời là nguồn gốc của các lực tạo ra thủy triều.\nNewton và các tác giả khác trước Pierre-Simon Laplace đã giải quyết vấn đề từ góc độ của một hệ tĩnh (thuyết cân bằng), đưa ra một phép tính gần đúng mô tả các thủy triều có thể xảy ra trong một đại dương phi quán tính bao phủ toàn bộ Trái Đất. Lực tạo thủy triều (hoặc thế năng tương ứng của nó) vẫn phù hợp với thuyết thủy triều, nhưng như là một đại lượng trung gian (hàm cưỡng bức) chứ không phải là kết quả cuối cùng; thuyết này cũng phải xem xét phản ứng thủy triều động lực đã tích lũy của Trái Đất đối với các lực áp vào, với phản ứng này chịu ảnh hưởng của độ sâu đại dương, sự tự quay của Trái Đất và các yếu tố khác.\nNăm 1740, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp ở Paris đã trao giải cho tiểu luận lý thuyết tốt nhất về thủy triều. Daniel Bernoulli, Leonhard Euler, Colin Maclaurin và Antoine Cavalleri đã cùng nhau chia giải thưởng này.\nMaclaurin đã sử dụng thuyết của Newton để chỉ ra rằng một quả cầu nhẵn được bao phủ bởi một đại dương đủ sâu dưới tác động của lực thủy triều từ một vật thể gây biến dạng duy nhất là một hình phỏng cầu thuôn dài (về bản chất là hình bầu dục ba chiều) với trục chính hướng về vật thể gây biến dạng. Maclaurin là người đầu tiên viết về các hiệu ứng tự quay của Trái Đất khi chuyển động. Euler nhận ra rằng thành phần \"chiều ngang\" của lực thủy triều (chứ không phải thành phần chiều dọc) dẫn dắt thủy triều. Năm 1744 Jean le Rond d'Alembert đã nghiên cứu các phương trình thủy triều đối với khí quyển không bao gồm sự tự quay.\nVào năm 1770 thuyền ba buồm HMS \"Endeavour\" của James Cook đã mắc cạn tại Rạn san hô Great Barrier. Những cố gắng đã thực hiện để làm nổi nó trong thủy triều kế tiếp đã thất bại, nhưng thủy triều sau đó đã nâng nó lên một cách dễ dàng. Trong khi con thuyền được sửa chữa ở cửa sông Endeavour Cook đã quan sát các thủy triều trong khoảng thời gian 7 tuần. Vào lúc triều kém, cả hai thủy triều trong ngày đều tương tự nhau, nhưng vào lúc triều cường thì thủy triều đã tăng vào buổi sáng nhưng vào buổi chiều.\nPierre-Simon Laplace đã xây dựng một hệ thống các phương trình vi phân riêng phần liên quan đến dòng chảy ngang của đại dương với chiều cao bề mặt của nó, là thuyết động lực học đầu tiên cho thủy triều. Các phương trình thủy triều Laplace vẫn còn được sử dụng cho đến nay. William Thomson, Nam tước Kelvin thứ nhất đã viết lại các phương trình của Laplace theo các thuật ngữ của độ xoáy cho ra các lời giải mô tả các sóng bị mắc kẹt ven bờ, được gọi là sóng Kelvin.\nNhững người khác, bao gồm Kelvin và Henri Poincaré, tiếp tục phát triển thuyết của Laplace. Dựa trên những phát triển này và thuyết mặt trăng của E. W. Brown mô tả các chuyển động của Mặt Trăng, Arthur Thomas Doodson đã phát triển và công bố năm 1921 sự phát triển hiện đại đầu tiên của thế năng tạo ra thủy triều ở dạng hài hòa: Doodson phân biệt 388 tần số thủy triều. Một số phương pháp của ông vẫn được sử dụng.\nLực.\nLực thủy triều được tạo ra bởi một thiên thể lớn (ở đây là Mặt Trăng) trên một hạt nhỏ nằm trên hoặc nằm trong một thiên thể rộng lớn (ở đây là Trái Đất) là sự khác biệt vectơ giữa lực hấp dẫn do Mặt Trăng tác dụng lên hạt và lực hấp dẫn tác dụng lên hạt này nếu như nó nằm ở tâm khối của Trái Đất.\nTrong khi vi tác động bởi một thiên thể lên Trái Đất thay đổi tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách của nó tới Trái Đất, thì lực thủy triều cực đại lại thay đổi tỷ lệ nghịch, một cách gần đúng, với lập phương của khoảng cách này.\nNếu lực thủy triều do mỗi thiên thể gây ra thay vì thế mà bằng với lực hấp dẫn toàn phần của nó (tất nhiên không phải như thế, do sự rơi tự do của toàn bộ Trái Đất chứ không chỉ mỗi các đại dương về phía các thiên thể này) thì một mô hình khác biệt của lực thủy triều sẽ được quan sát, chẳng hạn ảnh hưởng từ Mặt Trời mạnh hơn nhiều so với từ Mặt Trăng: Lực hấp dẫn của Mặt Trời lên Trái Đất mạnh hơn trung bình 179 lần so với lực hấp dẫn của Mặt Trăng, nhưng do Mặt Trời cách Trái Đất trung bình 389 lần so với khoảng cách từ Mặt Trăng tới Trái Đất, nên độ dốc trường của nó yếu hơn. Lực thủy triều mặt trời chỉ bằng khoảng 46% lực thủy triều mặt trăng. Chính xác hơn thì gia tốc thủy triều mặt trăng (dọc theo trục Trái Đất - Mặt Trăng, ở bề mặt Trái Đất) là khoảng 1,1 × 107 \"g\", trong khi gia tốc thủy triều mặt trời (dọc theo trục Mặt Trời - Trái Đất, ở bề mặt Trái Đất) là khoảng 0,52 × 107 \"g\", trong đó \"g\" là gia tốc hấp dẫn ở bề mặt Trái Đất. Sao Kim có tác động lớn nhất trong số các hành tinh khác, bằng 0,000113 lần tác động của Mặt Trời, vì thế tác động thủy triều của các hành tinh trong hệ Mặt Trời có thể bỏ qua. Hệ thống Trái Đất, Mặt Trăng và Mặt Trời là một ví dụ về vấn đề ba vật thể và không có biểu thức dạng đóng toán học chính xác về sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng.\nBề mặt đại dương là xấp xỉ một bề mặt đẳng thế (bỏ qua các dòng hải lưu), thường được gọi là geoid (geoit, thể địa cầu). Do lực hấp dẫn bằng với gradient thế năng, nên không có lực tiếp tuyến trên bề mặt như vậy, vì thế bề mặt đại dương ở trạng thái cân bằng hấp dẫn. Bây giờ hãy xem xét ảnh hưởng của các thiên thể lớn bên ngoài như Mặt Trăng và Mặt Trời. Những thiên thể này có các trường hấp dẫn mạnh nhưng giảm dần theo khoảng cách và tác động để thay đổi hình dạng của bề mặt đẳng thế trên Trái Đất. Biến dạng này có định hướng không gian cố định tương đối với thiên thể gây ảnh hưởng. Sự tự quay của Trái Đất so với hình dạng này gây ra chu kỳ thủy triều hàng ngày. Bề mặt đại dương di chuyển do đẳng thế thủy triều thay đổi, tăng lên khi thế năng thủy triều cao, xảy ra trên các phần của Trái Đất gần nhất và xa nhất từ Mặt Trăng. Khi đẳng thế thủy triều thay đổi, bề mặt đại dương không còn phù hợp với nó, do đó mà thấy hướng rõ ràng của dịch chuyển dọc. Bề mặt khi đó trải qua một đường dốc xuống, theo hướng mà đẳng thế đã tăng lên.\nCác phương trình thủy triều Laplace.\nĐộ sâu của đại dương nhỏ hơn nhiều so với phạm vi bề ngang của chúng. Do đó, phản ứng đối với lực thủy triều có thể được mô hình hóa bằng cách sử dụng các phương trình thủy triều Laplace kết hợp các đặc tính sau:\nCác điều kiện biên cho thấy không có dòng chảy ngang qua đường bờ biển và trượt tự do ở đáy.\nHiệu ứng Coriolis (lực quán tính) lái các dòng chảy về phía xích đạo sang phía tây và các dòng chảy ra xa xích đạo sang phía đông, cho phép các sóng bị kẹt ở bờ biển. Cuối cùng, thuật ngữ tiêu tan có thể được thêm vào và nó là tương tự như độ nhớt.\nBiên độ và thời gian chu kỳ.\nBiên độ lý thuyết của thủy triều đại dương do Mặt Trăng gây ra là khoảng tại điểm cao nhất, tương ứng với biên độ có thể đạt được nếu đại dương có độ sâu đồng đều, không có các vùng đất, và Trái Đất tự quay đều bước với quỹ đạo của Mặt Trăng. Mặt Trời gây ra thủy triều tương tự, trong đó biên độ lý thuyết là khoảng (46% của Mặt Trăng) với thời gian chu kỳ là 12 giờ. Khi triều cường, hai tác động này bổ sung cho nhau ở mức độ lý thuyết là , trong khi ở triều kém, biên độ lý thuyết bị giảm xuống còn . Vì quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời và quỹ đạo của Mặt Trăng xung quanh Trái Đất có hình elip nên biên độ thủy triều thay đổi phần nào do khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời và Mặt Trăng - Trái Đất biến động. Điều này gây ra sự biến động trong lực thủy triều và biên độ lý thuyết khoảng ± 8% đối với Mặt Trăng và ±5% đối với Mặt Trời. Nếu cả Mặt Trời và Mặt Trăng đều ở vị trí gần nhất và dóng thẳng hàng khi trăng mới, biên độ lý thuyết sẽ đạt tới .\nBiên độ thực tế khác biệt đáng kể, không chỉ do các biến động độ sâu và chướng ngại vật lục địa, mà còn là do sự truyền sóng trên đại dương có chu kỳ tự nhiên cùng bậc với chu kỳ tự quay: nếu không có các khối đất, sẽ mất khoảng 30 giờ để sóng bề mặt với bước sóng dài truyền dọc theo xích đạo đi nửa vòng quanh Trái Đất (ví dụ thạch quyển Trái Đất có chu kỳ tự nhiên khoảng 57 phút). Cả thủy triều Trái Đất làm nâng cao và hạ thấp đáy đại dương lẫn sức hấp dẫn của chính thủy triều đều là đáng kể và làm phức tạp thêm phản ứng của đại dương đối với các lực thủy triều.\nHao tán.\nDo các lực thủy triều mặt trăng điều khiển các đại dương với chu kỳ khoảng 12,42 giờ, ít hơn đáng kể so với chu kỳ tự nhiên của các đại dương, hiện tượng cộng hưởng phức tạp diễn ra. Điều này, cũng như các tác động của ma sát, làm tăng thời gian trễ trung bình là 11 phút của sự xuất hiện nước lớn so với thiên đỉnh mặt trăng. Thời gian trễ thủy triều này tương ứng với một góc khoảng 3 độ giữa vị trí của Mặt Trăng, tâm Trái Đất và vị trí của mực nước lớn trung bình toàn cầu.\nLiên quan tới hệ Mặt Trăng - Trái Đất (không bao gồm Mặt Trời trong thời điểm này), trừ khi trục tự quay của cả hai thiên thể vuông góc với mặt phẳng quỹ đạo, thì các dao động được sinh ra. Những dao động như vậy góp phần làm hao tán thủy triều.\nSự hao tán bởi các biến dạng dao động bên trong của Trái Đất do lực thủy triều mặt trăng là nhỏ so với sự hao tán trong các đại dương và biển của Trái Đất, chiếm tới 98% mức giảm năng lượng tự quay của Trái Đất.\nSự thiếu vắng dóng thẳng hàng này là trường hợp của hệ thống Trái Đất – Mặt Trăng. Do đó, bên cạnh các phồng thủy triều, đối diện nhau và có kích thước tương đương, có liên quan đến cái gọi là thủy triều cân bằng, ngoài ra, các dao động bề mặt thường được gọi là thủy triều động học, đặc trưng bởi nhiều tần số sóng hài, cũng được thiết lập.\nCác dao động thủy triều của Trái Đất làm hao tán năng lượng trung bình khoảng 3,75 terawatt. Khoảng 98% hao tán này là do chuyển động thủy triều đại dương.\nSự hao tán phát sinh khi các dòng thủy triều quy mô lưu vực thúc đẩy các dòng chảy quy mô nhỏ hơn trải qua sự hao tán hỗn loạn. Lực cản thủy triều này tạo ra mô-men xoắn trên mặt trăng, dần dần chuyển động lượng góc tới quỹ đạo của nó, và tăng dần trong sự chia tách Mặt Trăng - Trái Đất. Mô-men xoắn bằng nhau và ngược chiều trên Trái Đất tương ứng làm giảm tốc độ tự quay của nó. Do đó, theo thời gian địa chất, mặt trăng rời xa khỏi Trái Đất vào khoảng /năm, làm dài ngày trên Trái Đất.\nĐộ dài ngày đã tăng khoảng 2 giờ trong 600 triệu năm qua. Giả sử rằng tốc độ giảm tốc là không đổi, điều này có nghĩa là 70 triệu năm trước thì độ dài ngày đã ngắn hơn 1%, tương đương tăng khoảng 4 ngày mỗi năm.\nĐộ sâu.\nHình dạng của bờ biển và đáy đại dương thay đổi cách thức thủy triều lan truyền, do đó không có quy tắc chung đơn giản nào dự đoán thời gian diễn ra nước lớn từ vị trí của Mặt Trăng trên bầu trời. Các đặc điểm ven biển như độ sâu dưới nước và hình dạng đường bờ biển có nghĩa là các đặc điểm vị trí riêng lẻ ảnh hưởng đến dự báo thủy triều; thời gian và chiều cao nước lớn thực tế có thể khác với các dự đoán mô hình do ảnh hưởng của hình thái bờ biển lên dòng chảy thủy triều. Tuy nhiên, đối với một vị trí nhất định, mối quan hệ giữa độ cao mặt trăng và thời gian triều cao hay triều thấp (khoảng thủy triều mặt trăng) là tương đối ổn định và có thể dự đoán được, như là thời gian triều cao hoặc triều thấp so với các điểm khác trên cùng một bờ biển. Ví dụ, triều cao tại Norfolk, Hoa Kỳ có thể dự đoán xảy ra khoảng 2,5h trước khi Mặt Trăng đi qua đỉnh đầu.\nCác khối đất và bồn địa đại dương đóng vai trò rào cản chống lại nước di chuyển tự do trên toàn cầu, nên hình dạng và kích cỡ đa dạng của chúng ảnh hưởng đến kích thước của các tần số thủy triều. Kết quả là, các mẫu thủy triều là khác nhau. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, vùng bờ biển phía đông chủ yếu là bán nhật triều, giống như vùng bờ biển Đại Tây Dương của châu Âu, trong khi bờ biển phía tây chủ yếu là thủy triều hỗn hợp.\nQuan sát và dự đoán.\nLịch sử.\nTừ thời cổ đại, quan sát và thảo luận về thủy triều đã ngày càng tinh tế, ban đầu đánh dấu sự lặp lại hàng ngày, sau đó là mối quan hệ của thủy triều với Mặt Trời và Mặt Trăng. Pytheas đã du hành đến Quần đảo Anh vào khoảng năm 325 TCN và dường như là người đầu tiên gắn triều cường với pha mặt trăng.\nVào thế kỷ II TCN, nhà thiên văn học Babylon là Seleukos xứ Seleucia đã mô tả chính xác hiện tượng thủy triều nhằm hỗ trợ cho thuyết nhật tâm của ông. Ông đưa ra giả thuyết chính xác rằng thủy triều là do Mặt Trăng gây ra, mặc dù ông tin rằng sự tương tác được trung gian bởi pneuma. Ông lưu ý rằng thủy triều thay đổi theo thời gian và cường độ ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Theo Strabo (1.1.9), Seleukos là người đầu tiên liên kết thủy triều với hấp dẫn của mặt trăng và chiều cao của thủy triều phụ thuộc vào vị trí của Mặt Trăng so với Mặt Trời.\n\"Naturalis Historia\" của Pliny Già đối chiếu nhiều quan sát thủy triều, ví dụ, triều cường là một vài ngày sau (hoặc trước) trăng tròn và trăng mới và là cao nhất quanh các điểm phân (xuân phân, thu phân), mặc dù Pliny Già lưu ý nhiều mối quan hệ mà hiện nay được coi là huyền ảo. Trong \" Geographia\" (Địa lý), Strabo đã mô tả các thủy triều trong vịnh Ba Tư có phạm vi lớn nhất của chúng khi mặt trăng ở xa nhất với mặt phẳng xích đạo. Tất cả điều này mặc cho biên độ tương đối nhỏ của các thủy triều bồn địa Địa Trung Hải (Dòng chảy mạnh qua eo biển Euripus và eo biển Messina làm Aristotle bối rối).\nPhilostratus đã thảo luận về thủy triều trong Quyển 5 sách \"Cuộc đời của Apollonius xứ Tyana\". Philostratus đề cập đến mặt trăng, nhưng gán các thủy triều cho các \"linh hồn\". Ở châu Âu vào khoảng năm 730, Bede đã mô tả cách thủy triều dâng trên một bờ biển của quần đảo Anh trùng với sự rút xuống ở nơi khác và mô tả sự tiến triển thời gian của nước lớn dọc theo vùng bờ biển Northumbria.\nBảng thủy triều đầu tiên ở Trung Quốc được ghi nhận vào năm 1056 chủ yếu dành cho du khách muốn xem nước triều lớn nổi tiếng ở sông Tiền Đường. Bảng thủy triều đầu tiên được biết đến ở Anh được cho là của John Wallingford, người đã chết khi làm tu viện trưởng tu viện St. Albans khoảng năm 1213-1214, dựa trên nước lớn xảy ra 48 phút muộn hơn mỗi ngày và 3 giờ sớm hơn tại cửa sông Thames ở London.\nWilliam Thomson, Nam tước Kelvin thứ nhất, đã chỉ đạo phân tích sóng hài hệ thống đầu tiên bắt đầu vào năm 1867. Kết quả chính là việc xây dựng máy dự báo thủy triều sử dụng một hệ thống ròng rọc để cộng sáu hàm thời gian hài hòa với nhau. Nó được \"lập trình\" bằng cách đặt lại các bánh răng và xích để điều chỉnh pha và biên độ. Các cỗ máy tương tự đã được sử dụng cho đến thập niên 1960.\nGhi chép mực nước biển đã biết đầu tiên của một chu kỳ triều cường – triều kém được thực hiện vào năm 1831 tại Bến tàu Navy ở cửa sông Thames. Nhiều cảng lớn có các trạm đo mức nước triều tự động vào năm 1850.\nWilliam Whewell lần đầu tiên lập bản đồ các đường đồng pha thủy triều kết thúc bằng một biểu đồ gần như toàn cầu vào năm 1836. Để làm cho các bản đồ này thống nhất, ông đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của các giao điểm thủy triều, nơi các dòng thủy triều gặp nhau giữa đại dương. Các điểm không có thủy triều này đã được xác nhận bằng đo đạc vào năm 1840 bởi Thuyền trưởng Hewett R. N., từ những phép đo âm thanh cẩn thận ở Biển Bắc.\nThời gian.\nCác lực thủy triều do Mặt Trăng và Mặt Trời tạo ra các sóng rất dài di chuyển khắp đại dương theo các đường được chỉ ra trong biểu đồ đồng pha thủy triều. Thời điểm mà đỉnh sóng chạm tới một cảng khi ấy đưa ra thời gian nước lớn tại cảng. Thời gian để sóng di chuyển quanh đại dương cũng có nghĩa là có sự chậm trễ giữa các pha của Mặt Trăng và ảnh hưởng của chúng đối với thủy triều. Chẳng hạn, triều cường và triều kém ở Biển Bắc là hai ngày sau trăng mới/trăng tròn và trăng thượng huyền/hạ huyền. Điều này được gọi là \"tuổi\" của thủy triều.\nĐộ sâu đại dương ảnh hưởng rất lớn đến thời gian và chiều cao chính xác của thủy triều tại một điểm bờ biển cụ thể. Có một số trường hợp tột độ; vịnh Fundy ở bờ biển phía đông Canada, thường được tuyên bố là có thủy triều cao nhất thế giới vì hình dạng, độ sâu và khoảng cách từ rìa thềm lục địa. Các đo đạc thực hiện tháng 11 năm 1998 tại Burntcoat Head trong vịnh Fundy đã ghi lại phạm vi tối đa và giá trị cực đại dự đoán là . Các phép đo tương tự được thực hiện vào tháng 3 năm 2002 tại lưu vực sông Leaf, vịnh Ungava ở phía bắc Quebec cho các giá trị tương tự (cho phép sai số đo), phạm vi tối đa là và giá trị cực đại dự đoán là . Vịnh Ungava và vịnh Fundy nằm cách xa tương tự từ rìa thềm lục địa, nhưng vịnh Ungava không bị các khối băng trôi che phủ trong khoảng 4 tháng mỗi năm trong khi vịnh Fundy hiếm khi đóng băng.\nSouthampton tại Vương quốc Anh có nước lớn hai đỉnh do sự tương tác giữa các thành phần thủy triều \"M\"2 và \"M\"4. Portland có nước ròng hai đáy vì lý do tương tự. Thủy triều \"M\"4 được tìm thấy dọc theo bờ biển phía nam Vương quốc Anh, nhưng ảnh hưởng của nó có thể thấy rõ nhất trong đoạn giữa đảo Wight và đảo Portland do thủy triều \"M\"2 là thấp nhất trong khu vực này.\nDo các chế độ dao động của Địa Trung Hải và biển Baltic không trùng với bất kỳ chu kỳ ảnh hưởng thiên văn đáng kể nào nên thủy triều lớn nhất nằm gần các kết nối hẹp của chúng với Đại Tây Dương. Các thủy triều cực nhỏ cũng xảy ra vì lý do tương tự ở vịnh Mexico và biển Nhật Bản. Ở những nơi khác, như dọc theo bờ biển phía nam Úc, các thủy triều thấp có thể là do sự hiện diện của giao điểm thủy triều gần đó.\nPhân tích.\nThuyết hấp dẫn của Isaac Newton trước tiên cho phép giải thích lý do tại sao nói chung có hai thủy triều chứ không phải một mỗi ngày và mang lại hy vọng cho sự hiểu biết chi tiết về lực và hành vi thủy triều. Mặc dù có vẻ như thủy triều có thể được dự đoán thông qua kiến thức đủ chi tiết về các tác động thiên văn tức thời, thủy triều thực tế tại một địa điểm nhất định được xác định bởi các lực thiên văn được tích lũy bởi vùng nước trong nhiều ngày. Ngoài ra, các kết quả chính xác sẽ đòi hỏi kiến thức chi tiết về hình dạng của tất cả các bồn địa đại dương - độ sâu và hình dạng đường bờ biển của chúng.\nQuy trình hiện tại để phân tích thủy triều theo phương pháp phân tích sóng hài được William Thomson giới thiệu vào thập niên 1860. Nó dựa trên nguyên tắc cho rằng các thuyết thiên văn về chuyển động của Mặt Trời và Mặt Trăng xác định một lượng lớn các tần số thành phần, và ở mỗi tần số, có một thành phần lực có xu hướng tạo ra chuyển động thủy triều, nhưng ở mỗi địa phương thì thủy triều phản ứng tại mỗi tần số với biên độ và pha đặc thù với địa phương đó. Vì thế, tại mỗi nơi thì độ cao của thủy triều được đo trong một khoảng thời gian đủ dài (thường là trên một năm trong trường hợp một cảng mới chưa được nghiên cứu trước đó) để cho phép phân biệt phản ứng ở mỗi tần số tạo ra thủy triều quan trọng bằng cách phân tích và trích xuất các hằng số thủy triều cho một lượng đủ các thành phần mạnh nhất đã biết đến của các lực thủy triều thiên văn để cho phép dự đoán thủy triều thực tế. Độ cao thủy triều được dự kiến là tuân theo lực thủy triều, với biên độ và độ trễ pha không đổi cho từng thành phần. Do tần số và pha của thiên văn có thể được tính toán một cách chắc chắn, nên độ cao của thủy triều vào các thời điểm khác có thể được dự đoán một khi phản ứng với các thành phần hài hòa của các lực tạo thủy triều được tìm thấy.\nCác mẫu hình chính trong thủy triều là:\n\"Thủy triều thiên văn cao nhất\" là triều cường điểm cận địa khi cả Mặt Trời và Mặt Trăng ở gần Trái Đất nhất.\nKhi phải đối mặt với một hàm thay đổi định kỳ, cách tiếp cận tiêu chuẩn là sử dụng chuỗi Fourier, một dạng phân tích sử dụng các hàm hình sin như một tập hợp \"cơ sở\", có tần số không, một, hai, ba v.v. lần tần số của một chu kỳ cơ bản cụ thể. Các bội số này được gọi là \"sóng hài\" của tần số cơ bản và quá trình này được gọi là phân tích sóng hài hay phân tích [hàm] điều hòa. Nếu tập hợp cơ sở của các hàm hình sin phù hợp với hành vi được mô hình hóa, tương đối ít số hạng điều hòa cần được thêm vào. Các đường quỹ đạo rất gần tròn, vì vậy các biến động hình sin phù hợp với thủy triều.\nĐể phân tích độ cao thủy triều, cách tiếp cận chuỗi Fourier trên thực tế phải được thực hiện công phu hơn so với việc sử dụng một tần số duy nhất và các sóng hài của nó. Các mẫu thủy triều được tách thành nhiều đường hình sin với nhiều tần số cơ bản, tương ứng (như trong thuyết mặt trăng) với nhiều tổ hợp khác nhau của các chuyển động của Trái Đất, Mặt Trăng và các góc xác định hình dạng và vị trí của quỹ đạo của chúng.\nDo đó, đối với thủy triều, \"phân tích sóng hài\" không giới hạn ở các sóng hài của một tần số. Nói cách khác, các hòa âm là bội số của nhiều tần số cơ bản chứ không phải chỉ là tần số cơ bản của cách tiếp cận chuỗi Fourier đơn giản hơn. Biểu diễn của chúng dưới dạng một chuỗi Fourier chỉ có một tần số cơ bản và các bội số nguyên của nó sẽ yêu cầu nhiều số hạng và có thể bị giới hạn nhiều trong phạm vi thời gian mà nó có thể là hợp lệ.\nNghiên cứu chiều cao thủy triều bằng phân tích sóng hài được bắt đầu bởi Laplace, William Thomson và George Darwin. A. T. Doodson đã mở rộng công việc của họ, giới thiệu ký hiệu \"Số Doodson\" để thiết lập hàng trăm số hạng sinh ra. Kể từ đó cách tiếp cận này đã trở thành tiêu chuẩn quốc tế, và các biến chứng phát sinh như sau: lực gây thủy triều về cơ bản được đưa ra như là tổng của một số số hạng. Mỗi số hạng có dạng\ntrong đó là biên độ, là tần số góc thường được tính theo độ mỗi giờ tương ứng với được tính bằng giờ và là độ lệch pha so với trạng thái thiên văn tại thời điểm \"t\" = 0 . Có một số hạng cho Mặt Trăng và một số hạng thứ hai cho Mặt Trời. Pha của sóng hài đầu tiên cho số hạng Mặt Trăng được gọi là khoảng thủy triều mặt trăng hoặc khoảng nước lớn. Bước tiếp theo là điều chỉnh các số hạng điều hòa do hình dạng elip của các quỹ đạo. Theo đó, giá trị của không phải là hằng số mà thay đổi theo thời gian, một chút, xung quanh một con số trung bình. Thay thế nó bằng trong đó A là một đường hình sin khác, tương tự như chu kỳ và chu kỳ của thuyết Ptolemy. Theo đó,\ncó nghĩa là một giá trị trung bình với một biến thể hình sin về độ lớn , với tần số và pha . Do đó, số hạng đơn giản bây giờ là tích số của hai thừa số cosin:\nVới bất kỳ và nào ta có\nthì rõ ràng là một số hạng đa hợp liên quan đến tích số của hai số hạng cosin, với mỗi số hạng có tần số riêng của chính chúng là y hệt như \"ba\" số hạng cosin đơn giản được thêm vào ở tần số ban đầu và cả ở các tần số là tổng và hiệu của hai tần số của số hạng tích số (Ba chứ không phải hai số hạng, do biểu thức tổng thể là formula_5). Xem xét thêm rằng lực thủy triều tại một vị trí cũng phụ thuộc vào việc Mặt Trăng (hay Mặt Trời) ở trên hoặc dưới mặt phẳng xích đạo và các thuộc tính này có chu kỳ riêng của chính chúng cũng là vô ước với ngày và tháng, và rõ ràng là có nhiều tổ hợp sinh ra. Với sự lựa chọn cẩn thận các tần số thiên văn cơ bản, số Doodson diễn giải các bổ sung và khác biệt cụ thể để tạo thành tần số của mỗi số hạng cosin đơn giản.\nLưu ý rằng thủy triều thiên văn \"không\" bao gồm các hiệu ứng thời tiết. Ngoài ra, những thay đổi đối với các điều kiện địa phương (di chuyển bờ cát, nạo vét miệng cảng v.v.) so với những điều kiện phổ biến tại thời điểm đo đạc ảnh hưởng đến thời gian và biên độ thực tế của thủy triều. Các tổ chức trích dẫn \"thủy triều thiên văn cao nhất\" cho một số vị trí có thể cường điệu con số này như một yếu tố an toàn để đề phòng các bất định phân tích, khoảng cách từ điểm đo đạc gần nhất, các thay đổi kể từ lần quan sát cuối cùng, sụt lún mặt đất v.v. để ngăn ngừa trách nhiệm khi một công trình kỹ thuật bị tràn qua. Cần có sự quan tâm đặc biệt khi đánh giá kích thước của \"sự tràn dâng thời tiết\" bằng cách trừ thủy triều thiên văn từ thủy triều quan sát được.\nPhân tích dữ liệu Fourier kỹ càng trong chu kỳ 19 năm (\"Giai đoạn Dữ liệu Thủy triều Quốc gia\" ở Hoa Kỳ) sử dụng các tần số được gọi là \"thành phần điều hòa thủy triều\". Mười chín năm được ưa thích vì các vị trí tương đối của Trái Đất, Mặt Trăng và Mặt Trời lặp lại gần như chính xác trong chu kỳ Meton 19 năm, là đủ dài để bao gồm thành phần thủy triều giao điểm mặt trăng 18,613 năm. Phân tích này có thể được thực hiện bằng cách chỉ sử dụng kiến thức về \"chu kỳ\" tác động mà không có sự hiểu biết chi tiết về đạo hàm toán học, điều đó có nghĩa là các bảng thủy triều hữu ích đã được xây dựng trong nhiều thế kỷ.\nCác biên độ và pha kết quả sau đó có thể được sử dụng để dự đoán thủy triều dự kiến. Chúng thường bị chi phối bởi các thành phần gần 12 giờ (các thành phần \"bán nhật\"), nhưng cũng có các thành phần chính gần 24 giờ (\"nhật\"). Các thành phần dài hạn hơn là 14 ngày hoặc \"hai tuần\", hàng tháng và nửa năm. Bán nhật triều chi phối vùng bờ biển, nhưng một số khu vực như biển Đông và vịnh Mexico chủ yếu là nhật triều. Trong các khu vực bán nhật triều, các thành phần chu kỳ chính \"M\"2 (mặt trăng) và \"S\" 2 (mặt trời) khác nhau một chút, vì thế các pha tương đối, và do đó biên độ của thủy triều tổng hợp, thay đổi hai tuần một lần (chu kỳ 14 ngày).\nTrong đồ thị \"M\"2 ở trên, mỗi đường đồng pha thủy triều khác nhau một giờ so với các đường bên cạnh và các đường dày hơn chỉ ra thủy triều trong pha cân bằng tại Greenwich. Các đường xoay quanh giao điểm thủy triều ngược chiều kim đồng hồ ở Bắc bán cầu, vì thế từ bán đảo Baja California đến Alaska và từ Pháp đến Ireland thủy triều \"M\"2 lan truyền về phía bắc. Ở Nam bán cầu hướng này là theo chiều kim đồng hồ. Mặt khác, thủy triều \"M\"2 lan truyền ngược chiều kim đồng hồ xung quanh New Zealand, nhưng điều này là do các đảo có vai trò như là một con đập và cho phép các thủy triều có độ cao khác nhau ở các mặt đối diện của các đảo (Thủy triều lan truyền theo hướng bắc ở phía đông và theo hướng nam trên bờ biển phía tây, như dự đoán lý thuyết).\nNgoại lệ là tại eo biển Cook, nơi các dòng thủy triều định kỳ liên kết nước lớn với nước ròng. Điều này là do các đường đồng pha thủy triều 180° xung quanh các giao điểm thủy triều là ngược pha nhau, ví dụ nước lớn đối diện với nước ròng ở mỗi đầu eo biển Cook. Mỗi thành phần thủy triều có một mô hình biên độ, pha và các giao điểm thủy triều khác biệt, do đó các mẫu \"M\"2 không thể sử dụng được cho các thành phần thủy triều khác.\nVí dụ tính toán.\nDo Mặt Trăng di chuyển trên quỹ đạo xung quanh Trái Đất và cùng chiều với sự tự quay của Trái Đất, nên một điểm trên Trái Đất phải xoay xa hơn một chút để đuổi kịp, vì thế thời gian giữa các bán nhật triều không phải là 12 mà là 12,4206 giờ, tức là phải mất thêm trên 25 phút nữa. Hai đỉnh triều nói chung không bằng nhau. Hai nước lớn mỗi ngày xen kẽ về chiều cao tối đa: nước lớn thấp (dưới 3 ft), nước lớn cao (trên 3 ft), và một lần nữa lại là nước lớn thấp. Tương tự như vậy đối với nước ròng.\nKhi Trái Đất, Mặt Trăng và Mặt Trời thẳng hàng (Mặt Trời – Trái Đất – Mặt Trăng hay Mặt Trời – Mặt Trăng – Trái Đất) thì 2 ảnh hưởng chính kết hợp với nhau để tạo ra triều cường; khi 2 lực đối lập nhau như khi góc tạo thành bởi Mặt Trăng – Trái Đất – Mặt Trời gần 90 độ thì kết quả là triều kém. Khi Mặt Trăng di chuyển trên quỹ đạo của nó, nó thay đổi từ phía bắc xích đạo sang phía nam xích đạo. Sự xen kẽ trong chiều cao của nước lớn trở nên nhỏ hơn, cho đến khi chúng là như nhau (tại điểm phân của Mặt Trăng thì nó nằm trên đường xích đạo), sau đó phát triển trở lại nhưng trái cực, tăng dần tới khác biệt tối đa và sau đó lại suy yếu dần một lần nữa.\nDòng chảy.\nẢnh hưởng của thủy triều đối với dòng chảy triều khó phân tích hơn và dữ liệu cũng khó thu thập hơn. Chiều cao thủy triều là một con số đơn giản áp dụng đồng thời cho một vùng rộng. Một dòng chảy triều có cả cường độ và hướng, cả hai đều có thể thay đổi đáng kể theo độ sâu và trên các khoảng cách ngắn do độ sâu cục bộ. Ngoài ra, mặc dù tâm của kênh nước là nơi đo lường hữu ích nhất nhưng các nhà hàng hải lại phản đối do thiết bị đo đạc dòng gây cản trở đường thủy. Một dòng chảy tiến theo một kênh cong vẫn chỉ là dòng chảy đó, mặc dù hướng của nó thay đổi liên tục dọc theo kênh. Điều ngạc nhiên là dòng chảy triều lên và dòng chảy triều xuống thường là không theo hướng ngược nhau. Hướng dòng chảy được xác định bởi hình dạng của kênh ngược dòng chứ không phải hình dạng của kênh xuôi dòng. Tương tự, các xoáy nước chỉ có thể hình thành theo một hướng dòng chảy.\nTuy nhiên, phân tích dòng chảy triều là tương tự như phân tích thủy triều: trong trường hợp đơn giản, tại một địa điểm nhất định, dòng chảy triều lên chủ yếu theo một hướng và dòng chảy triều xuống là theo hướng khác. Các vận tốc triều lên có dấu dương, và các vận tốc triều xuống có dấu âm. Phân tích được tiến hành như thể chúng là các chiều cao thủy triều.\nTrong các tình huống phức tạp hơn, các dòng chảy triều lên và triều xuống chính không chiếm ưu thế. Thay vào đó, hướng và biên độ dòng chảy định ra một hình elip trong một chu kỳ thủy triều (trên một biểu đồ cực) thay vì dọc theo các đường dòng chảy triều lên và triều xuống. Trong trường hợp này, phân tích có thể tiến hành dọc theo các cặp hướng, với các hướng chính và phụ vuông góc. Một cách khác là xử lý các dòng thủy triều như là các số phức, do mỗi giá trị có cả biên độ và hướng.\nThông tin dòng thủy triều thường được thấy nhiều nhất trên các biểu đồ hàng hải, được trình bày dưới dạng bảng tốc độ và phương vị dòng chảy theo từng giờ, với các bảng tách biệt cho triều cường và triều kém. Thời gian là tương đối so với nước lớn tại một số cảng nơi hành vi thủy triều là tương tự như trong mô hình, mặc dù nó có thể ở rất xa.\nGiống như dự đoán chiều cao thủy triều, các dự đoán dòng chảy thủy triều chỉ dựa trên các yếu tố thiên văn mà không kết hợp với điều kiện thời tiết, và điều này có thể thay đổi \"hoàn toàn\" kết quả.\nDòng chảy thủy triều qua eo biển Cook giữa hai đảo chính của New Zealand là đáng chú ý, vì thủy triều ở hai bên eo biển gần như đối pha nhau, vì thế nước lớn ở một bên là đồng thời với nước ròng ở phía bên kia. Các dòng chảy mạnh sinh ra với sự thay đổi chiều cao thủy triều gần như bằng không ở tâm eo biển. Tuy nhiên, mặc dù triều dâng thường chảy theo một hướng trong 6 giờ và theo hướng ngược lại trong 6 giờ, nhưng một đợt dâng cụ thể có thể kéo dài 8 hoặc 10 giờ với nước dâng ngược bị suy yếu đi. Trong các điều kiện thời tiết đặc biệt dữ dội, nước dâng ngược có thể bị vượt qua hoàn toàn để dòng chảy tiếp tục theo cùng một hướng qua 3 chu kỳ nước dâng hoặc hơn thế.\nMột điều phức tạp thêm nữa với mô hình dòng chảy của eo biển Cook là thủy triều ở phía nam (ví dụ tại Nelson) tuân theo chu kỳ triều cường – triều kém phổ biến là hai tuần một lần (cũng như được thấy dọc theo phía tây của quốc gia này), nhưng mô hình thủy triều phía bắc chỉ có \"một\" chu kỳ mỗi tháng, cũng như ở phía đông: Wellington và Napier.\nBiểu đồ thủy triều của eo biển Cook chỉ ra thời gian và chiều cao nước lớn và nước ròng, cho đến tháng 11 năm 2007; đây là các giá trị không phải từ đo đạc mà thay vì thế được tính toán từ các thông số thủy triều có nguồn gốc từ các đo đạc nhiều năm trước. Biểu đồ hàng hải của eo biển Cook cung cấp thông tin về dòng chảy triều. Ví dụ, phiên bản tháng 1 năm 1979 cho tọa độ 41° 13•9' nam 174°29•6' đông (tây bắc mũi Terawhiti) đề cập đến thời gian cho Westport trong khi ấn bản tháng 1 năm 2004 đề cập đến Wellington. Gần mũi Terawhiti ở đoạn giữa eo biển Cook, sự thay đổi chiều cao của thủy triều gần như bằng không trong khi dòng chảy triều đạt cực đại, đặc biệt là gần xoáy nước Karori khét tiếng. Ngoài tác động của thời tiết, các dòng chảy thực tế qua eo biển Cook chịu ảnh hưởng của chênh lệch độ cao thủy triều giữa hai đầu eo biển và như có thể thấy, chỉ một trong hai triều cường ở đầu tây bắc của eo biển (gần Nelson) có triều cường đối ứng ở đầu đông nam (Wellington), nên hành vi kết quả không tuân theo cảng tham chiếu nào cả.\nPhát điện.\nNăng lượng thủy triều có thể thu được bằng hai cách: đưa tuabin nước vào dòng chảy triều hoặc xây dựng các ao hồ nhận/thoát nước thông qua một tuabin. Trong trường hợp đầu tiên, lượng năng lượng hoàn toàn được xác định bởi biên độ và thời gian của dòng chảy triều. Tuy nhiên, các dòng chảy tốt nhất có thể không có sẵn vì các tuabin sẽ cản trở tàu thuyền. Trong trường hợp thứ hai, chi phí xây dựng các đập ngăn nước là rất tốn kém, các chu trình nước tự nhiên bị phá vỡ hoàn toàn, giao thông thủy cũng bị gián đoạn. Tuy nhiên, với nhiều ao hồ, năng lượng có thể được sinh ra tại các thời điểm được lựa chọn. Cho đến nay, có rất ít hệ thống được lắp đặt để phát điện thủy triều (nổi tiếng nhất là La Rance tại Saint Malo, Pháp) nhưng gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh các vấn đề môi trường, chỉ đơn giản là chống chịu ăn mòn và ô nhiễm sinh học đã đặt ra nhiều thách thức kỹ thuật.\nNhững người ủng hộ điện thủy triều chỉ ra rằng, không giống như các hệ thống điện gió, mức độ phát điện có thể dự đoán được khá tin cậy, ngoại trừ các tác động thời tiết. Trong khi một số hệ thống phát điện là có thể đối với hầu hết các chu kỳ thủy triều thì trên thực tế các tuabin mất tính hiệu quả ở các tốc độ vận hành thấp hơn. Vì công suất khả dụng từ một dòng chảy là tỷ lệ thuận với lập phương của tốc độ dòng chảy nên thời gian có thể tạo ra công suất cao là ngắn ngủi.\nHoa tiêu.\nCác dòng chảy triều là quan trọng đối với công tác hoa tiêu, và sai sót đáng kể về vị trí xảy ra nếu chúng không được cung cấp. Độ cao thủy triều cũng là quan trọng chẳng hạn nhiều con sông và bến cảng có các cồn cát ngầm nông ở lối vào, ngăn không cho tàu thuyền với mớn nước đáng kể tiến vào khi triều thấp.\nCho đến khi có sự ra đời của hoa tiêu tự động, năng lực tính toán các tác động thủy triều là quan trọng đối với các sĩ quan hải quân. Chứng nhận kiểm tra các đại úy hải quân trong Hải quân Hoàng gia Anh từng tuyên bố rằng sĩ quan tương lai có thể \"thay đổi thủy triều\".\nThời gian và vận tốc dòng chảy triều xuất hiện trong các \"biểu đồ thủy triều\" hoặc tập bản đồ dòng chảy triều. Các biểu đồ thủy triều được đóng thành bộ. Mỗi biểu đồ bao gồm một giờ duy nhất giữa một nước lớn và một nước lớn khác (chúng bỏ qua 25 phút kéo dài thêm) và chỉ ra dòng chảy triều trung bình trong giờ đó. Một mũi tên trên biểu đồ thủy triều cho biết hướng và tốc độ dòng chảy trung bình (thường tính bằng hải lý trên giờ) đối với triều cường và triều kém. Nếu không có sẵn biểu đồ thủy triều, hầu hết các biểu đồ hàng hải có các \"hình thoi thủy triều\" liên kết các điểm cụ thể trên biểu đồ với một bảng cho biết hướng và tốc độ dòng chảy triều.\nQuy trình chuẩn để chống lại tác động của thủy triều đối với hoa tiêu là (1) tính toán vị trí bằng \"đoán định vị trí\" (DR, Dead Reckoning) từ khoảng cách và hướng di chuyển, (2) đánh dấu biểu đồ (với một chữ thập giống như dấu cộng) và (3) vẽ một đường thẳng từ DR theo hướng thủy triều. Khoảng cách thủy triều di chuyển thuyền dọc theo đường này được tính bằng tốc độ thủy triều, điều này đưa ra \"vị trí ước tính\" (EP, Estimated Position), theo truyền thống được đánh dấu bằng một dấu chấm trong hình tam giác.\nCác biểu đồ hàng hải hiển thị \"độ sâu biểu đồ\" của nước tại các vị trí cụ thể với \"đo hồi âm\" và sử dụng các đường đồng mức độ sâu để mô tả hình dạng bề mặt ngầm dưới nước. Các độ sâu này có liên quan đến một \"chuẩn hải đồ\", thường là mực nước ở thủy triều thiên văn thấp nhất có thể (mặc dù các mốc khác cũng thường được sử dụng, đặc biệt là trong lịch sử và thủy triều có thể thấp hơn hoặc cao hơn vì lý do khí tượng) và do đó độ sâu nước tối thiểu có thể trong chu kỳ thủy triều. \"Độ cao khô cạn\" cũng có thể được hiển thị trên biểu đồ, đó là độ cao của đáy biển lộ ra khi thủy triều thiên văn thấp nhất.\nCác bảng thủy triều liệt kê chiều cao và thời gian nước lớn và nước ròng mỗi ngày. Để tính độ sâu nước thực tế, người ta cộng thêm độ sâu biểu đồ vào chiều cao thủy triều đã được công bố. Độ sâu cho các thời điểm khác có thể suy ra từ các đường cong thủy triều được công bố cho các cảng lớn. Quy tắc mười hai có thể đủ nếu không có sẵn đường cong chính xác. Sự gần đúng này cho rằng sự gia tăng độ sâu trong 6 giờ giữa nước ròng và nước lớn là: giờ thứ nhất − 1/12, giờ thứ hai − 2/12, giờ thứ ba − 3/12, giờ thứ tư − 3/12, giờ thứ năm − 2/12, giờ thứ sáu − 1/12.\nKhía cạnh sinh học.\nSinh thái gian triều.\nSinh thái học gian triều là nghiên cứu về các hệ sinh thái nằm giữa các đường nước ròng và nước lớn dọc theo bờ. Khi nước ròng, vùng gian triều bị lộ thiên (hoặc \"nổi lên\"), nhưng khi nước lớn thì nó bị nhấn chìm dưới nước (hoặc \"chìm\"). Do đó, các nhà sinh thái học gian triều nghiên cứu các mối tương tác giữa các sinh vật gian triều và môi trường của chúng, cũng như giữa các loài khác nhau. Các tương tác quan trọng nhất có thể thay đổi tùy theo loại quần xã gian triều. Các phân loại rộng nhất dựa theo các chất nền - bờ đá hay đáy mềm.\nCác sinh vật gian triều trải qua một môi trường rất thay đổi và thường xuyên là thù địch, và có thích nghi để đối phó và thậm chí khai thác các điều kiện này. Một đặc trưng dễ thấy là phân đới dọc, trong đó quần xã chia thành các dải nằm ngang riêng biệt của các loài cụ thể ở mỗi độ cao trên mực nước ròng. Khả năng đối phó với sự mất nước của một loài xác định giới hạn trên của nó, trong khi cạnh tranh với các loài khác thiết lập giới hạn dưới của nó.\nCon người sử dụng các vùng gian triều để lấy thực phẩm và giải trí. Khai thác quá mức có thể gây tổn hại trực tiếp các vùng gian triều này. Các tác động nguồn gốc con người khác như du nhập loài xâm lấn và biến đổi khí hậu có tác động tiêu cực lớn. Các khu bảo tồn biển là một quần xã tùy chọn có thể áp dụng để bảo vệ các khu vực này và hỗ trợ nghiên cứu khoa học.\nNhịp sinh học.\nChu kỳ thủy triều khoảng hai tuần một lần có ảnh hưởng lớn đến vùng gian triều và các sinh vật biển. Do đó các nhịp sinh học của chúng có xu hướng xảy ra theo bội số của chu kỳ này. Nhiều động vật khác như động vật có xương sống, hiển thị các nhịp tương tự. Các ví dụ bao gồm thai nghén và ấp trứng. Ở người, chu kỳ kinh nguyệt kéo dài khoảng một tháng âm lịch, một bội số chẵn của chu kỳ thủy triều. Các song song như vậy ít nhất gợi ý về dòng dõi chung của tất cả các loài động vật từ một tổ tiên biển.\nThủy triều khác.\nKhi các dòng chảy triều dao động trong dòng chảy đại dương phân tầng trên địa hình đáy không bằng phẳng, chúng tạo ra các sóng nội tại với các tần số thủy triều. Những sóng như vậy được gọi là \"thủy triều nội tại\".\nCác khu vực nông trong vùng nước rộng có thể chịu các dòng chảy triều quay, chảy theo các hướng liên tục thay đổi và do đó hướng của dòng chảy (chứ không phải chính dòng chảy) hoàn thành một vòng quay đầy đủ trong giờ (ví dụ: bãi cạn Nantucket).\nNgoài thủy triều đại dương, các hồ lớn cũng có thể chịu các thủy triều nhỏ và thậm chí các hành tinh cũng có thể chịu \"triều khí quyển\" và \"triều Trái Đất rắn\". Đây là những hiện tượng cơ học liên tục. Hai hiện tượng đầu tiên diễn ra trong các chất lưu. Hiện tượng thứ ba ảnh hưởng đến lớp vỏ rắn mỏng của Trái Đất bao quanh phần bán lỏng bên trong của nó (với nhiều thay đổi khác nhau).\nThủy triều hồ.\nCác hồ lớn như Superior và Erie có thể chịu các thủy triều cao , nhưng chúng có thể bị che giấu bởi các hiện tượng do khí tượng gây ra như triều giả. Thủy triều trong hồ Michigan được mô tả là hoặc .\nNó nhỏ đến mức các tác động lớn hơn khác che lấp hoàn toàn bất kỳ thủy triều nào, vì vậy những hồ này được coi là không thủy triều.\nTriều khí quyển.\nTriều khí quyển là không đáng kể ở mặt đất và các độ cao hàng không, bị che lấp bởi các tác động quan trọng hơn nhiều của thời tiết. Triều khí quyển có nguồn gốc là cả hấp dẫn lẫn nhiệt và là động lực chi phối ở độ cao khoảng , còn trên mức đó thì mật độ phân tử trở nên quá thấp để hỗ trợ hành vi của chất lưu.\nTriều Trái Đất.\nTriều Trái Đất hoặc triều đất rắn ảnh hưởng đến toàn bộ khối lượng Trái Đất, hoạt động tương tự như một con quay hồi chuyển lỏng với lớp vỏ rất mỏng. Lớp vỏ Trái Đất dịch chuyển (vào/ra, đông/tây, bắc/nam) để phản ứng lại lực hấp dẫn của Mặt Trăng và Mặt Trời, thủy triều đại dương và phụ tải khí quyển. Mặc dù là không đáng kể đối với hầu hết các hoạt động của con người, nhưng biên độ bán nhật triều của triều đất rắn có thể đạt khoảng tại xích đạo – trong đó là do Mặt Trời – và điều này là quan trọng trong hiệu chuẩn GPS và các đo đạc VLBI. Các đo đạc góc thiên văn chính xác đòi hỏi kiến thức về tốc độ tự quay của Trái Đất và chuyển động địa cực, cả hai đều chịu ảnh hưởng của triều Trái Đất. Bán nhật triều \"M\"2 của triều Trái Đất gần như cùng pha với Mặt Trăng với độ trễ khoảng 2 giờ.\nTriều thiên hà.\n\"Triều thiên hà\" là các lực thủy triều do các thiên hà tác động lên các ngôi sao bên trong chúng và các thiên hà vệ tinh quay quanh chúng. Các tác động của triều thiên hà đối với đám mây Oort của Hệ Mặt Trời được cho là gây ra 90% các sao chổi chu kỳ dài.\nCon người dựa vào thủy triều.\nNgười xưa, sống bao đời gần sông và biển. chủ yếu là họ tính theo con nước, theo chu kì của nó (nước triều lên và nước triều xuống) và vì thế chính là nhờ vào hiện tượng thủy triều, nên con người sống ở thời đó đã biết cách bắt hải sản như tôm, cua, cá...\nThủy triều còn đóng góp một phần lớn là làm nên các chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 của Ngô Quyền trước quân Nam Hán và năm 1288 của nhà Trần trước quân Nguyên-Mông. Cho đến ngày nay thì con người đã biết sử dụng thủy triều để phục vụ cho công nghiệp (như sản xuất điện), ngư nghiệp, như trong đánh bắt hải sản, và khoa học, như nghiên cứu thủy văn.\nThủy triều và danh từ trong tiếng Việt.\nVào chu kỳ khi nước triều dâng lên hoặc xuống, ngày mực nước lên cao nhất là nước phát tức là nước lớn tuần trăng mới. Ngày mực nước không dâng mấy (khoảng 15 ngày sau nước phát) là nước sính, tức là nước lớn tuần trăng rằm.", "Mưa đá là hiện tượng mưa dưới dạng hạt hoặc cục băng có hình dáng và kích thước khác nhau do đối lưu cực mạnh từ các đám mây dông gây ra. Kích thước có thể từ 5 mm đến hàng chục cm, thường cỡ khoảng một vài cm, có dạng hình cầu không cân đối. Những hạt mưa đá thường rơi xuống cùng với mưa rào. Mưa đá thường kết thúc rất nhanh trong vòng 5 -10 phút, lâu nhất cho cả một vệt mưa cũng chỉ 20 - 30 phút.\nMưa đá thường xảy ra ở vùng núi hay khu vực giáp biển, giáp núi (bán sơn địa), còn vùng đồng bằng ít xảy ra hơn. Vì vậy ở Việt Nam mưa đá có thể xảy ra ở khắp các vùng miền. và cả trong mùa hè. Riêng ở vùng núi phía bắc Việt Nam, từ tháng 1 đến tháng 5 hàng năm thường có mưa đá, nhiều nhất là từ tháng 3 đến tháng 5, mà nguyên nhân chủ yếu là các đợt front lạnh cực mạnh tràn về nhanh. Ở Thành phố Hồ Chí Minh lại cũng xuất hiện mưa đá tương tự như ở vùng núi phía Bắc vào tháng 6 năm 2022.\nNguyên nhân.\nNguyên nhân dẫn đến hiện tượng mưa đá này là do áp cao cận nhiệt đới lấn tây, đẩy lượng ẩm lớn từ biển về phía đất liền, trong khi áp cao cận nhiệt cũng tạo thời tiết nắng nhiều, nhiệt độ không khí cao. Với điều kiện nhiệt ẩm cao, không khí có sự bất ổn định lớn, xáo trộn rất mạnh, dòng không khí chuyển động đi lên đưa khối mây nóng ẩm lên rất cao, vượt qua tầng đối lưu. Càng lên cao nhiệt độ càng giảm, cho đến mức 0 độ C, hơi nước bị ngưng kết và đóng băng, khi hạt đủ lớn, thắng được lực trọng trường rơi xuống đất thì gọi là mưa đá.\nTác hại.\nTrong cơn dông mưa đá thường kèm theo gió rất mạnh, có khi là gió lốc kèm theo mưa đá, sức tàn phá hết sức khủng khiếp do gió mạnh và xoáy gây ra.\nNgoài gió rất mạnh ra thì bản thân những hòn mưa đá cũng có khi gây ra sập nhà, tàn phá cây cối, thậm chí gây chết người. Vì vậy mưa đá được xếp vào những hiện tượng thời tiết nguy hiểm.\nPhòng tránh.\nNếu thấy trời nổi dông gió, mây đen bao phủ bầu trời gần như kín tầm mắt, có dạng như bầu vú(?), rồi dông gió nổi lên mạnh, tạo ra tiếng \"ù ù, ầm ầm\" liên tục thì bạn hãy cảnh giác với mưa đá. Nếu tiếp đó lắc rắc vài hạt mưa rào, ta cảm thấy nhiệt độ không khí như lạnh đi, có thể mưa đá đã kéo đến.", "Sét hay tia sét, sấm sét, tia chớp, sấm chớp, là hiện tượng phóng điện trong khí quyển giữa các đám mây và mặt đất hay giữa các đám mây mang các điện tích khác dấu, đôi khi còn xuất hiện trong các trận phun trào núi lửa hay bão bụi (cát). Khi phóng tĩnh điện trong khí quyển, một tia sét có thể di chuyển từ đám mây xuống đất với tốc độ lên tới gần 100,000 km/s. Bởi vì tia sét là sự di chuyển của các hạt mang điện (electron và ion) dưới dạng dòng plasma phát sáng nhưng hình ảnh của sét truyền đi bằng ánh sáng hay photon nên có thể thấy nó trước khi nghe tiếng sấm, vì tiếng động chỉ truyền đi được 343 m/s trong điều kiện bình thường của không khí còn ánh sáng thì đi được 299,792 km/s. Sét có thể đạt tới nhiệt độ trên 30,000 K (29,726 °C), gấp 5 lần nhiệt độ bề mặt Mặt Trời (5,778 K), và hơn 20 lần nhiệt độ cần thiết để biến cát silica thành thủy tinh (chỉ cần 1,713 °C để làm nóng chảy SiO2), những viên đá được tạo ra bởi sét đánh vào cát gọi là fulgurite (thường chúng có dạng hình ống do sét di chuyển vào lòng đất).\nSét sinh ra từ các đám mây vũ tích hay còn gọi là mây dông, là loại mây thường có độ cao chân mây từ 1 đến 2 km (0.62 đến 1.24 dặm) tính từ mặt đất và độ cao đỉnh mây có thể tới 15 km (9.3 dặm). Có khoảng 16 triệu cơn dông mỗi năm. Nếu có đám mây dông tích điện đi gần mặt đất tới những khu vực trống trải, gặp một vật có độ cao như cây cối, người cầm cuốc xẻng... thì các kênh dẫn sét sẽ hình thành và gây ra sự phóng tia lửa điện giữa đám mây và mặt đất. Đó là hiện tượng sét đánh.\nSự phóng điện của tia sét có thể sản sinh nhiều loại bức xạ điện từ, từ các dòng plasma rất nóng tạo ra bởi các chuyển động rất nhanh của electron cho đến những ánh chớp rực rỡ của ánh sáng nhìn thấy dưới dạng bức xạ vật đen. Tia sét cũng gây ra tiếng sấm, nó chính là âm thanh của sóng xung kích khi không khí tại những vùng lân cận nơi phóng điện giãn nở mạnh do chịu áp suất tăng đột ngột. \nLý do sét hình thành và nguồn gốc của nó, về mặt chi tiết vẫn là một vấn đề còn đang tranh luận: Các nhà khoa học đã nghiên cứu các nguồn gốc khác nhau như gió, độ ẩm, ma sát và áp thấp khí quyển cho đến ảnh hưởng của gió mặt trời và các hạt tích điện trong năng lượng mặt trời. Các tinh thể băng trong các đám mây dông có thể là yếu tố quan trọng trong việc hình thành tia sét do nó có thể tạo ra một môi trường tích điện cực trái dấu nhau trong các đám mây dẫn đến việc tạo ra điện trường mạnh. Ngoài ra, sét cũng được tạo ra bởi những cột tro trong những vụ phun trào núi lửa hoặc trong những trận cháy rừng dữ dội tạo ra một làn khói đặc đủ để dẫn điện.\nTrong tự nhiên các tia sét được phân chia thành ba loại chính tùy theo nơi chúng khởi phát và kết thúc, bao gồm: sét giữa đám mây và mặt đất, sét giữa hai đám mây khác nhau, và sét giữa các phần trong cùng một đám mây. Ngoài ra, nhiều dạng biến thể khác của sét cũng đã được ghi nhận, thí dụ \"sét nhiệt\" là tia sét có thể được nhìn thấy từ một khoảng cách xa nhưng lại không nghe được tiếng sấm; sét khô có thể gây cháy rừng; hay sét hòn, một hiện tượng sét cho tới nay vẫn rất hiếm khi được quan sát một cách khoa học.\nLịch sử nghiên cứu.\nKể từ buổi đầu của lịch sử được ghi chép bằng văn bản, những tia sét đã hấp dẫn con người. Những ngọn lửa chúng tạo ra khi chúng đánh xuống đất đã được loài người sử dụng để giữ ấm trong đêm, ngoài ra còn khiến động vật hoang dã tránh xa. Vì lý do này, người nguyên thủy đã bắt đầu tìm kiếm câu trả lời để giải thích hiện tượng khó tin này, họ đã tạo ra những tín ngưỡng và huyền thoại được đưa vào trong những tôn giáo đầu tiên. Ở châu Âu, giả thuyết khoa học sớm nhất được biết về tia sét đã được nhà triết học cổ Hy Lạp Aristotle trình bày vào thế kỉ thứ 3 TCN. Ông cho rằng các cơn dông xuất phát từ sự va chạm giữa các đám mây còn tia sét là những ngọn lửa (chứ không phải là điện) được phun ra từ các đám mây dông.\nBenjamin Franklin (1706–1790) đã cố gắng kiểm tra giả thuyết rằng các tia lửa điện tạo ra do sự phóng điện của các quả cầu thủy tinh khi quay cũng giống như các tia sét bằng cách dựng lên một cái tháp có hình nón tại Philadelphia. Trong lúc chờ đợi cái tháp được dựng xong ông nảy ra ý tưởng sử dụng một con diều. Trong cơn dông tiếp theo đó vào tháng 6 năm 1752 ông đã cùng con trai của mình ra thử nghiệm nhằm kiểm tra liệu có các điện tích trong tia sét hay không. Ông đã buộc một cái chìa khóa vào đoạn cuối của dây diều và nối nó xuống một chai Leyden, một thiết bị tích trữ năng lượng tĩnh điện sơ khai tương tự như tụ điện (ông đã buộc chìa khóa vào dây diều và nối vào chai bằng dây lụa, loại vật liệu dẫn điện rất kém). Một luồng điện tích đánh trúng con diều và sau một hồi ông thấy các sợi dây bị lỏng ra do bị nhiễm điện, đoán rằng điện đã tích vào chai, ông đưa tay lại gần cái chìa khóa thì xuất hiện một tia lửa điện nhỏ (vì ông trở thành vật dẫn điện). Sống sót sau thí nghiệm này ông đã đưa ra kết luận rằng sét chính là điện.\nFranklin không phải là người duy nhất thí nghiệm với diều. Thomas-François Dalibard cùng De Lors đã thực hiện cuộc thí nghiệm tương tự ở Marly-la-Ville tại Pháp chỉ vài tuần trước thí nghiệm của Franklin. Trong cuốn tự truyện của mình (viết những năm 1771-1788, xuất bản năm 1790) Franklin đã tự nhận rằng ông đã thực hiện cuộc thí nghiệm của mình sau những người Pháp chỉ vài tuần mà không hề biết về điều này trong năm 1752.\nTin tức về cuộc thí nghiệm này lan rộng ra và những người khác bắt đầu thực hiện lại nó. Tuy nhiên các cuộc thí nghiệm về sét rất nguy hiểm và đôi khi gây chết người. Một trong những cái chết nổi tiếng nhất do bắt chước Franklin là của giáo sư Georg Richmann tại Saint Petersburg, Nga. Ông ta đã tạo ra một hệ thống thu sét giống như của Franklin và đã chạy về nhà khi nghe tiếng sấm lúc đang giảng bài tại học viện khoa học. Ông về với một người thợ điêu khắc để có thể ghi lại sự kiện này. Ông đã đặt một quả bóng thủy tinh lên một vòng kim loại gần như hoàn hảo cho một hệ thống thu lôi thời đó nhưng lại quên gắn dây nối đất, kết quả theo báo cáo là khi sét đánh và chạy vào vòng kim loại và bao lấy quả cầu thủy tinh nó tạo ra một cục sét hòn (do không thể chạy xuống đất một cách trực tiếp) đã văng trúng đầu Georg Richmann và giết ông ngay lập tức.\nMặc dù các thí nghiệm của từ thời của Benjamin Franklin đã chỉ ra rằng sét là một sự phóng điện, các lý thuyết tìm hiểu về sét rất ít được cập nhật (cụ thể tại sao nó hình thành) trong 150 năm. Nguồn động lực cho các nghiên cứu gần đây đến từ lĩnh vực kỹ thuật điện: các cột điện cao thế khi bắt đầu đưa vào phục vụ các kỹ sư cần biết sét nguy hiểm đến mức nào để có thể bảo vệ công trình. Năm 1900, Nikola Tesla đã tạo ra được sét nhân tạo bằng một cuộn Tesla cùng các máy phát điện công suất cao đủ để tạo ra những tia sét đủ lớn để xem.\nNăm 1876, James Clerk Maxwell đã đề xuất một thí nghiệm như sau: bọc một lượng cặn thuốc súng trong một lớp vỏ kim loại kín, sẽ có thể ngăn được tia sét đánh vào đấy, tránh nó làm cho thuốc phát nổ. Nếu tia sét đánh vào bọc cặn thuốc, dòng điện sẽ chỉ tồn tại trong lớp vỏ kim loại bên ngoài mà không thể vào trong và gây nổ. Vỏ bọc kiểu này được coi là một loại lồng Faraday. Kiểu lồng Faraday gồm một hệ thống lưới mắt cáo cũng có thể được sử dụng, nhưng khoảng cách mắt càng lớn thì hiệu quả bảo vệ càng thấp. Ngày nay người ta vẫn còn kết hợp sử dụng cột thu lôi Franklin và lồng Faraday để bảo vệ các loại kết cấu, đặc biệt là những nơi chứa các thiết bị điện tử nhạy cảm với điện trường.\nBức ảnh về sét sớm nhất được biết là do Thomas Martin Easterly chụp năm 1847. Bức ảnh đầu tiên còn tồn tại được chụp năm 1882, bởi William Nicholson Jennings, một nhiếp ảnh gia đã dành nửa cuộc đời của mình để chụp ảnh về sét và chứng minh sự đa dạng của chúng.\nCác phát minh về nhiếp ảnh và quang phổ vào cuối thế kỷ 19 có tầm quan trọng lớn trong nghiên cứu về tia sét. Một số nhà khoa học đã sử dụng phân tích phổ tạo ra từ tia sét để ước tính lượng năng lượng tham gia vào những quá trình vật lý của nó, tất cả diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn. Việc sử dụng máy ảnh đã giúp phát hiện ra rằng mỗi tia sét có hai hoặc nhiều hơn các dòng điện tích (vệt). Sự phát triển của các thiết bị tiên tiến khác như dao động ký điện tử, công nghệ thu sóng vô tuyến, radar và máy đo trường điện từ trong thế kỷ 20 cho phép hiểu biết đầy đủ hơn về nguồn gốc và sự xuất hiện của các sự phóng điện. Ngày nay, các vệ tinh thời tiết được sử dụng phổ biến trong việc quan trắc và nghiên cứu dông bão, sét và các hiện tượng liên quan trên quy mô toàn cầu.\nHình thành.\nSự tích điện.\nChi tiết quá trình tích điện trong cơn dông vẫn đang được các nhà khoa học nghiên cứu, nhưng đã có một vài ý kiến thống nhất chung. Một cơn dông được hình thành khi có một khối không khí nóng ẩm chuyển động, trong đó khu vực trung tâm của đám mây dông là khu vực xảy ra sự tích điện trong đám mây chủ yếu, nơi có luồng không khí di chuyển hướng lên rất nhanh (gọi là updraft) do đối lưu và nhiệt độ từ . Ở đó, nhiệt độ thấp cùng với sự chuyển động nhanh của luồng không khí đi lên tạo ra một hỗn hợp gồm các giọt mây trong trạng thái siêu lạnh (tức các giọt ở thể lỏng dưới điểm đóng băng), các tinh thể băng nhỏ và graupel (mưa đá mềm). Dòng không khí đưa các giọt mây siêu lạnh và tinh thể băng nhỏ nhẹ lên trên, về phía đỉnh đám mây dông; trong khi các hạt graupel nặng và đặc hơn có xu hướng rơi xuống phần dưới đám mây hoặc lơ lửng trong dòng không khí.\nCác chuyển động ngược chiều nhau của các hạt ngưng đọng khác nhau sẽ dẫn tới sự va chạm. Khi có va chạm các giữa tinh thể băng và các hạt mưa đá mềm, các tinh thể băng bị nhiễm điện dương và hạt mưa đá mềm bị nhiễm điện âm do cọ xát (xem H1). Các tinh thể băng tiếp tục bị đẩy lên phía đỉnh đám mây, và các hạt mưa đá mềm sẽ lơ lửng hoặc đi xuống phần phía dưới. Do đó trong đám mây dông sẽ phân li thành hai miền điện tích trái dấu chính: Miền điện tích âm ở phía dưới và miền điện tích dương ở phía trên (xem H2). Do tác động của chuyển động không khí đi lên trong cơn bão và gió trên cao trong khí quyển, đỉnh đám mây nơi có điện tích dương thường bị tản ra theo phương ngang một khoảng xa đáng kể so với chân đám mây. Khu vực này của đám mây dông vì thế trông giống hình cái đe và được gọi là vùng (đỉnh) hình đe hoặc vùng chóp đe.\nMặc dù quá trình tích điện mô tả ở trên là chủ yếu bên trong đám mây, một số điện tích có thể bị tái phân bố do tác động của các chuyển động không khí lên và xuống. Ngoài ra, một khu vực điện tích dương mỏng nhưng đáng kể phía đáy của đám mây (H2.) được hình thành do mưa và nhiệt độ ấm hơn ở gần mặt đất.\nNgười ta hiểu được rằng có sự phân tách và tái hợp điện tích giữa các miền đám mây, nhưng cơ chế điện hóa của quá trình thì vẫn chưa rõ.\nSự phân tách điện tích do cảm ứng và hiệu ứng điện ma sát ở nước tinh khiết thể lỏng đã được biết tới từ những năm 1840. William Thomson (Lord Kelvin) đã mô tả sự phân tách điện tích của nước có thể xảy ra tại các điện trường gần bề mặt Trái Đất và dựa vào hiểu biết đó ông đã phát triển một thiết bị đo điện trường liên tục.\nSự phân li vật lý của các điện tích thành những vùng khác nhau của nước thể lỏng đã được thực nghiệm bởi Kelvin với một thiết bị nhỏ giọt nước, trong đó các phần tử mang điện tích có khả năng nhất đã được cho là các ion hydro và ion hydroxide dạng nước. Sự tích điện của nước đá thể rắn cũng đã được xem xét và các thành phần điện tích một lần nữa được cho là ion hydro và ion hydroxide.\nMột electron là không ổn định trong nước thể lỏng với một ion hydroxide cộng với hydro hòa tan trên quy mô thời gian liên quan đến các cơn giông bão, hơn nữa, các hạt mang điện tích trong tia sét chủ yếu là các electron trong thể plasma. Do đó quá trình đi từ các điện tích dưới dạng ion (ion hydro dương và ion hydroxide âm) của nước thể lỏng hoặc rắn sang các electron của một tia sét phải liên quan đến một loại quá trình điện hóa, tức là gồm sự oxi hóa và/hoặc sự khử của các thành phần hóa học.\nHình thành kênh dẫn.\nĐể hiểu được tia sét hình thành từ đâu, trước tiên ta phải tìm hiểu giai đoạn sơ khai của chúng: dưới dạng các \"kênh dẫn sét\". Các kênh dẫn (hay luồng dẫn) là các kênh ion trong không khí và là cơ chế chính của sự hình thành các tia sét.Các điều kiện cần để xảy ra sự phóng điện trong không khí bao gồm: thứ nhất, phải tồn tại hiệu điện thế cao (ngưỡng vài triệu volt) giữa các khu vực trong không gian để tạo ra điện trường đủ mạnh để làm ion hóa không khí; thứ hai là phải có môi trường trở kháng cao ngăn cản sự trung hòa tự nhiên giữa các điện tích trái dấu – trong trường hợp sét nó là bầu khí quyển. Điện trường được sinh ra giữa các khu vực mang điện tích trái dấu, cường độ của điện trường tăng khi lượng (hay mật độ) điện tích tăng.\nHai miền điện tích khác dấu của đám mây dông có thể coi như là hai bản của một tụ điện không khí khổng lồ. Giữa phần chân đám mây dông mang điện âm và mặt đất tích điện dương (do sự hưởng ứng tĩnh điện) cũng là một tụ điện với không khí đóng vai trò như chất điện môi giữa hai bản tụ. Tia sét là sự phóng điện – dưới dạng một tia lửa điện khổng lồ, sẽ được bắt đầu khi hiệu điện thế giữa hai bản được nâng dần tới mức đủ lớn để có thể \"đánh thủng\" điện môi không khí. Trong một tia sét từ mây xuống đất điển hình, chiều của điện trường từ bản dương là mặt đất lên bản âm là chân đám mây và sự đánh thủng xảy ra ngay khi có sự kết nối của kênh dẫn đi xuống từ đám mây với mặt đất.\nMột lượng điện tích tương đương trái dấu (dương) với điện tích của đám mây (âm) sẽ được tích trên mặt đất do sự hưởng ứng tĩnh điện. Lượng điện tích đo tại một điểm cố định trên mặt đất sẽ tăng dần khi đám mây dông tiến gần nơi đó, và giảm đi khi đám mây đi qua. Giá trị của điện tích mặt đất theo vị trí tương đối của đám mây có thể được biểu diễn gần đúng bằng một đường cong hình chuông.\nLuồng dẫn bậc.\nKênh dẫn sét, còn được gọi là \"luồng dẫn\" hay \"tiên đạo\" (\"leader\"), là một kênh khí bị ion hóa nóng theo hai chiều, được hình thành giữa các khu vực tích điện trái dấu. Kênh dẫn lan truyền trong không khí theo hai chiều ngược nhau ở hai đầu mút của kênh, và nó có thể đến lấp đầy vùng tích điện khác dấu với đầu kênh tới. Chẳng hạn đầu phía âm của kênh tới lấp vùng mang điện dương trong đám mây trong khi phía dương sẽ lấp đầy vùng mang điện âm. Các kênh dẫn thường không trơn mà bị tách thành nhánh như cành cây, do trong khi lan truyền nó cùng một lúc bị thu hút bởi nhiều vùng điện tích ngược dấu với nó. Sự di chuyển của các luồng mở đường không trơn mà gấp khúc theo từng bậc bước do đó chúng có tên gọi là tiên đạo bậc (\"step leader\"), như quan sát thấy trong các video quay chậm tia chớp.\nMột đầu mút của kênh dẫn có thể tới lấp đầy khu vực điện tích trái dấu tương ứng trong khi đầu kia vẫn còn hoạt động. Chẳng hạn, trong quá trình hình thành một tia sét đánh xuống đất âm, một hệ kênh dẫn hai chiều được hình thành giữa các vùng điện tích âm chính và vùng điện tích dương phía đáy của đám mây. Đầu kênh âm nhanh chóng hoàn toàn lấp đầy vùng điện tích dương yếu hơn và tiếp tục lan truyền ra ngoài đám mây trong không khí tới mặt đất nơi mang điện tích hưởng ứng.\nCác đầu kênh âm và dương trong cơn dông di chuyển theo hai chiều ngược nhau: phía dương di chuyển lên trên bên trong đám mây, trong khi phía âm di chuyển kiểu bậc ngược chiều điện trường xuống mặt đất. Một kênh dẫn trong khi di chuyển sẽ tiếp tục thu nhận thêm ion ở phía đầu mút và tại đó có thể xuất hiện các nhánh luồng mới, như vậy một kênh dẫn vừa lan truyền vừa phân ra nhiều nhánh và nhánh con tạo nên một hệ hay mạng lưới kênh dẫn. Gần 90% các kênh ion có chiều dài giữa các vùng vào khoảng 45 m (148 ft). Các luồng bậc phát sáng kém rõ rệt hơn rất nhiều so với tia sét sinh ra sau đó hoặc thậm chí không nhìn thấy được, và lan truyền trong không khí với tốc độ chậm hơn khoảng 1000 lần.\nBản chất của nguyên nhân hình thành các kênh dẫn của sét vẫn chưa được hiểu rõ. Điện trường trong đám mây dường như chưa đủ để tự nó sinh ra kênh dẫn. Một giả thuyết gần đây cho rằng các dòng electron tương đối tính có nguồn gốc từ tia vũ trụ và gió mặt trời có thể tới va chạm với các phân tử không khí, gây ra sự lan truyền điện tích thác lũ và kích hoạt sự hình thành kênh ion sét, trong một quá trình gọi là \"runaway breakdown\".\nLuồng đi lên.\nKhi luồng tiên đạo bậc di chuyển xuống mặt đất, sự có mặt của các điện tích trái dấu trên mặt đất làm tăng cường độ điện trường. Theo nguyên lý phân bố điện tích, điện tích ở các vật thể (trên mặt đất trong trường hợp này) thường tập trung tại những chỗ mũi nhọn và do đó điện trường nơi đó cũng mạnh. Vì thế trên mặt đất các ion mang điện tích dương bắt đầu tập hợp lại, nhất là ở các chỗ nào đó cao so với xung quanh (cây cối, cột hay các vật dựng đứng, các công trình cao...). Khi cường độ điện trường đủ mạnh, một kênh ion dương gọi là luồng đi lên (\"upward streamer\") có thể phát triển từ những nơi này. Chúng sẽ phóng lên trên để kết nối vào luồng âm đang di chuyển xuống dưới. Chính việc này quyết định tia sét sẽ đánh vào đâu khi sét đánh xuống đất. Lý thuyết này được đề xuất đầu tiên bởi Heinz Kasemir.\nVì có rất nhiều luồng ion dương hình thành khi luồng bậc âm tiến xuống, luồng nào nối được vào luồng bậc âm sẽ dẫn cả tia sét vào chỗ mà nó phóng ra. Có thể hình dung luồng ion dương giống như một dây câu sét mà nơi nó xuất phát là cần câu; vì thế nơi xuất phát nào ở vị trí cao và gần chân đám mây hơn thì xác suất nối được vào luồng ion âm trước sẽ cao hơn vì thế sét thường hay đánh vào những nơi nhô cao và đứng độc lập.\nCác hình ảnh và video tốc độ cao đã được chụp, trong đó có thể thấy quá trình gắn kết của một luồng đi lên với tiên đạo bậc tạo ra sét, ngoài ra các luồng đi lên chưa nối được cũng có thể được thấy rõ. Những luồng bậc đi xuống chưa được kết nối cũng được thấy trong tia sét phân nhánh, không có kênh nào trong số đó được kết nối xuống đất, dù có thể trông có vẻ như vậy.\nPhóng điện.\nHình thành vệt sét.\nHình thức phóng điện mà tia sét thường xuất hiện nhất là dưới dạng \"vệt sét\" (\"stroke\"), tức kênh plasma phát sáng. Tia sét chẳng là gì khác ngoài việc trao đổi các hạt (ion dương và âm, electron) để cân bằng lại điện tích giữa các vùng trong khí quyển hoặc giữa khí quyển và mặt đất và khi thực hiện việc đó nó tạo ra một vệt sét.\nSự kết nối các kênh dẫn sẽ mở ra đường đi mà trên đó sự phóng điện xảy ra. Khi đã có một kênh sét liên tục bắc cầu khoảng cách trong không khí giữa lượng dư điện tích âm trong đám mây và lượng dư điện tích mặt đất dương bên dưới, sẽ có sự sụt giảm rất đáng kể của điện trở không khí dọc theo kênh sét (môi trường không khí bị đánh thủng sơ bộ). Sét sẽ hình thành theo \"đường đi\" mới tạo ra này và khi đó các điện tích âm bắt đầu tràn nhanh xuống mặt đất. Các electron tăng tốc nhanh chóng tại một vùng xuất phát từ điểm mà tại đó các kênh dẫn gắn kết, sau đó vùng này lan ngược ra toàn bộ kênh với tốc độ nhanh gần ánh sáng. Một kênh plasma, hay chính là tia sét được hình thành.\nQuá trình này chính là sự tạo thành cái gọi là \"vệt sét phản hồi\" (\"return stroke\") đầu tiên. Đây là giai đoạn phát sáng mạnh mẽ nhất và rõ rệt nhất của sự phóng điện. Vệt phản hồi cũng chính là hình ảnh mà người ta thường nghĩ tới khi nhắc đến tia sét hay ánh chớp.Một dòng điện cường độ rất lớn chạy dọc theo kênh plasma từ đám mây xuống mặt đất, làm trung hòa điện tích mặt đất dương khi các electron phóng ra từ điểm xảy ra sét trên mặt đất đến các khu vực xung quanh, khi đó ta nói có sét đánh. Vệt sét CG điển hình gồm một kênh plasma dẫn điện xuyên qua không khí cao hơn 5 km (3.1 dặm), từ trong đám mây xuống bề mặt mặt đất. Khi bước vào giai đoạn đỉnh điểm, một cơn dông có thể tạo ra 3 hoặc nhiều hơn cú sét đánh trong 1 phút.\nDòng điện cực lớn của sét tạo ra một sự chênh lệch điện áp xuyên tâm lớn dọc theo bề mặt của mặt đất. Sự chênh lệch điện áp hay \"điện thế bước\" này là nguyên nhân của nhiều trường hợp thương vong do sét hơn là chính sự đánh thẳng xuống. Dòng điện chọn tất cả mọi đường đi điện trở thấp đối với chúng. Vì thế một phần dòng điện từ vệt phản hồi khi đi vào cơ thể người hoặc động vật (không may đứng gần điểm đánh) thường sẽ đi từ một chân sang chân kia và dần gây tê liệt cơ thể. Trên mặt đất nơi sét đánh hoặc trên bề mặt và bên trong các vật thể bị sét đánh (chẳng hạn da người), dòng điện có thể để lại những dấu vết hình cành cây giống tia sét (gọi là hình Lichtenberg).\nTốc độ dòng điện tích lan truyền trong không khí của vệt sét phản hồi được tính khoảng gần 100,000 km/s (xấp xỉ 1/3 tốc độ ánh sáng trong chân không). Dòng điện cực lớn nhanh chóng hâm nóng toàn bộ kênh sét, tạo nên kênh plasma với nhiệt độ bên trong rất cao, cực đại khoảng 50,000 K – làm cho nó phát sáng mạnh mẽ với màu xanh-trắng đặc trưng. Độ chói của sét rất lớn (có thể thắp sáng cả bầu trời đêm). Tuy nhiên, màu sắc cảm nhận được của tia sét có thể khác nhau bởi nhiều yếu tố, chẳng hạn mật độ dòng điện, khoảng cách quan sát và điều kiện không khí nơi đó. Sự hâm nóng không khí gần như tức thì khiến cho không khí giãn nở mạnh, tạo thành sóng xung kích mà âm thanh nghe được gọi là tiếng sấm. Dòng điện thay đổi nhanh chóng cũng tạo ra các xung điện từ (EMP) tỏa ra từ kênh ion. Đây là tính chất chung của mọi quá trình phóng điện.\nNhiều vệt sét trên cùng một đường đi.\nCác máy quay tốc độ cực cao đã chỉ ra rằng sét trên thực tế là gồm nhiều vệt (lần đánh) liên tiếp trên cùng một đường đi. Trung bình một tia sét có 3 đến 4 vệt sét hay có thể hơn (có thể nhiều đến 30). Mỗi khi sét hình thành một vệt phản hồi đầu tiên, sau đó khoảng 40 đến 50 mili giây một vệt khác sẽ xuất hiện chạy lại cùng kênh đường đi của nó và thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần như thế tạo ra các vệt tiếp theo với hiệu ứng ánh sáng nhấp nháy rất nhanh, mắt thường không thể nhìn thấy, thông thường ta chỉ có thể thấy nó ngày càng sáng hơn trước khi biến mất.\nMột quá trình sét có thể kết thúc sau khi vệt sét phản hồi đầu tiên hình thành và truyền ngược lên tới hết mạng lưới kênh dẫn, khi đó kênh sét sẽ nguội đi và triệt tiêu hoàn toàn. Tuy nhiên nếu phần trên của kênh sét phát triển thêm nhánh sau vệt đầu tiên, nó có thể trở thành một hệ kênh dẫn dương nối với mặt đất nhưng đang bị suy yếu. Tại các nhánh kênh tiêu biến, một số kênh dẫn hai chiều (gọi là \"recoil leader\") được hình thành để tái ion hóa các nhánh này. Nếu đầu phía âm của một kênh dẫn mới tiếp xúc với một phần khí dẫn điện của đường kênh chính sau khi đã tiêu biến, nó có thể tận dụng con đường đó đi xuống đất và một quá trình giống vệt sét phản hồi khác xảy ra để trao đổi điện tích. Những kênh đi xuống này, gọi là tiên đạo mũi tên (\"dart leader\") kết nối với mặt đất là nguyên nhân gây ra phần lớn các vệt phản hồi thứ cấp.\nMỗi vệt thứ cấp theo ngay sau các vệt tiên đạo mũi tên có thời gian chạy lên nhanh hơn nhưng với cường độ thấp hơn vệt phản hồi ban đầu. Mỗi vệt sau thường tận dụng kênh đường đi của vệt trước, nhưng các vệt có thể bị dịch đi so với vị trí trước nếu có gió tác động lên kênh nóng. Các tiếng sấm cũng được tạo ra khi các vệt tiếp sau xuất hiện.\nBởi vì quá trình tiên đạo mũi tên không xảy ra với các kênh dẫn âm (do chúng không có xu hướng suy yếu nhanh như kênh dẫn dương), các vệt phản hồi thứ cấp rất hiếm khi tận dụng cùng một kênh đường đi đối với tia sét đánh xuống mặt đất dương.\nThời lượng trung vị của toàn bộ các quá trình sét là 0.52 giây, bao gồm một số lần chớp (vệt) ngắn hơn, khoảng 60 tới 70 mili giây.\nDòng điện thoáng qua trong quá trình chớp.\nCường độ dòng điện sinh ra khi có một tia sét từ mây đánh xuống đất tăng tới mức cực đại rất nhanh chóng, trong khoảng 1–10 micro giây, và tắt dần trong khoảng lâu hơn trong khoảng 50–200 micro giây. Do tính chất thoáng qua rất nhanh của dòng điện trong một tia chớp, có một số hiện tượng cần được tính toán và giải quyết trong việc bảo vệ hiệu quả các cấu trúc trên mặt đất khỏi sét. Những dòng điện thay đổi nhanh chóng có xu hướng truyền ngay trên bề mặt của một vật dẫn (hiện tượng này gọi là hiệu ứng bề mặt), và không giống như dòng điện không đổi thường truyền qua toàn bộ khối vật dẫn như nước chảy bên trong một ống vòi. Vì vậy, những vật dẫn sét bảo vệ các công trình thường có cấu trúc đa sợi, với nhiều dây dẫn đan xen nhau. Điều này nhằm làm tăng tổng diện tích bề mặt của bó dây dẫn theo tỉ lệ nghịch với đường kính thiết diện từng sợi dây, với một tổng diện tích thiết diện của toàn bó không đổi.\nCác xung điện từ tỏa ra từ kênh sét suy yếu nhanh theo khoảng cách so với điểm gốc. Tuy nhiên, nếu chúng đi qua các phần tử dẫn điện trên mặt đất, ví dụ như đường dây điện, đường dây liên lạc, hoặc các ống kim loại... chúng có thể lập tức gây ra một dòng điện cảm ứng ở các vật này, và được truyền đi hết. Những dòng tăng đột ngột này, thường gọi là dòng xung, có cường độ tỉ lệ nghịch với trở kháng đối với nó của vật thể. Vì thế, trở kháng của vật càng cao thì dòng điện xung càng nhỏ. Sự tăng áp đột ngột xảy ra này rất thường xuyên phá hủy hoặc gây hư hỏng các thiết bị điện tử, điện dân dụng, hoặc các động cơ điện. Một số thiết bị đặc biệt gọi là \"thiết bị bảo vệ chống xung áp\" (\"surge protector – SPD\"), hay \"thiết bị ức chế tăng áp tức thời\" (\"transient voltage surge suppressor – TVSS\") khi được mắc song song với đường dây điện có thể phát hiện được dòng điện thoáng qua bất thường của tia chớp; và bằng cách thay đổi một số tính chất dẫn điện của chúng, các thiết bị này có thể chuyển hướng xung xuống chỗ nối đất được gắn vào, nhờ đó bảo vệ được các thiết bị điện tử khỏi hư hỏng.\nCác loại.\nCác tia sét khác nhau có các đặc tính cụ thể, các nhà khoa học và dân thường đã đặt tên cho rất nhiều loại sét khác nhau. Hình thức mà sét thường xuất hiện nhất là \"vệt sét\". Một lượng lớn hạt mang điện thường nằm trong các đám mây nhưng mọi người không thể thấy chúng trừ khi chúng bắt đầu xáo động và tiến hành trao đổi với nhau trong cơn dông.\nCó ba loại sét chính:\nNgoài các loại sét chính trong tự nhiên kể trên còn có một vài dạng sét biến thể khác.\nTừ mây xuống đất (CG).\nSét đánh từ mây xuống đất là hiện tượng phóng điện trong không khí giữa các đám mây tích điện và mặt đất. Nó được hình thành khi một nhánh của luồng tiên đạo bậc di chuyển từ trong các đám mây xuống mặt đất gặp luồng đi lên từ phía mặt đất lên. Sự phóng điện nói chung là tập hợp một vài quá trình: sự đánh thủng sơ bộ, sự hình thành \"luồng tiên đạo bậc\" (\"stepped leader\"), sự kết nối các kênh dẫn, tiên đạo mũi tên và xuất hiện các \"vệt sét\" \"phản hồi\" (\"return stroke\").\nSét CG thường có dạng như cành cây úp ngược xuống (gọi là hình Lichtenberg) do sự phân nhánh của các luồng bậc mở đường cho chúng, tuy một số hiếm trường hợp sét kênh trơn (không có sự phân nhánh).Nơi có sét đánh nhiều nhất là ở vùng tây bắc Venezuela và vùng miền núi phía đông của Cộng hòa Dân chủ Congo (trung bình nơi này chịu 158 lần sét đánh trên 1 km² mỗi năm). Sách Kỷ lục Guinness đã liệt kê hồ Maracaibo ở tây bắc Venezuela, nơi trung bình mỗi năm có 297 ngày có hoạt động dông sét là nơi có mật độ sét cao nhất thế giới. Hiện tượng này nổi danh với cái tên \"Sét Catatumbo\".\nVùng điện tích phía dưới đám mây dông ở càng thấp so với mặt đất thì khả năng có sét CG xuất hiện càng nhiều. Sét CG nhiều ở những nơi có độ cao đóng băng thấp, điển hình là các nơi vĩ độ trung, hơn là ở những vùng nhiệt đới nơi độ cao đóng băng thường trên 1 km. Tuy nhiên, ở các địa cực, có rất ít hoạt động đối lưu gây dông nên đây là những nơi có tần suất sét đánh ít nhất. Không giống như quan niệm thông thường, sét có thể đánh nhiều lần vào một chỗ. Những cấu trúc cao riêng lẻ thu hút sét đánh lặp lại thường xuyên. Tòa nhà Empire States ở New York chịu trung bình 23 lần sét đánh mỗi mùa hè.\nSét CG là loại sét được biết đến nhiều nhất và được nghiên cứu kĩ nhất. Trong ba loại sét chính đây là loại đe dọa đến tính mạng, tài sản nhiều nhất vì chúng đánh thẳng xuống đất. Cũng vì thế nên việc nghiên cứu khoa học và đo lường sét là dễ dàng hơn đối với loại sét này do có thể được thực hiện bằng các dụng cụ ngay trên mặt đất. Tuy nhiên đây lại là loại ít phổ biến nhất trong các kiểu sét chính (trung bình nó chỉ chiếm gần 25% tổng số các tia sét trên toàn thế giới).\nSét dương và sét âm.\nMột tia sét có thể mang điện tích dương hoặc âm, nó được xác định bởi chiều của dòng điện (được xác định theo chiều dòng điện quy ước) giữa đám mây và mặt đất. Hầu hết sét đánh từ mây xuống đất là âm, có nghĩa là một lượng điện tích âm được truyền từ đám mây xuống mặt đất và các electron di chuyển xuống dưới dọc theo một kênh sét (chiều dòng điện quy ước đi từ mặt đất lên). Điều ngược lại xảy ra khi có một tia sét CG dương, trong đó các electron di chuyển theo chiều hướng lên trên dọc theo kênh dẫn và một lượng điện tích dương được truyền xuống mặt đất (dòng điện quy ước đi từ đám mây xuống). Với tia sét dương luồng bậc phân nhánh đi xuống từ đám mây là kênh dẫn dương và mặt đất tích điện hưởng ứng âm. Sét dương ít phổ biến hơn sét âm và trung bình chỉ chiếm chưa đến 5% tổng số các trường hợp sét đánh.Ngược với những suy nghĩ trước đây, các tia sét dương không nhất thiết bắt nguồn từ vùng đỉnh mây hoặc vùng tích điện dương phía trên rồi đánh vào khu vực không có mưa ngoài vùng có dông bão (đó là loại tia sét từ bầu trời xanh). Các giả thuyết hiện tại cho rằng sét dương có thể hình thành trong điều kiện đặc biệt mà trật tự phân bố điện tích của đám mây dông bị đảo ngược, trong đó vùng điện tích âm chính nằm trên vùng điện tích dương chính còn vùng đáy đám mây tích điện âm. Ngoài ra, sét dương cũng có thể xuất hiện trong các trường hợp nếu gió đứt thẳng đứng dời vùng điện tích dương đỉnh mây xuống gần mặt đất; hoặc trong giai đoạn tiêu tán của một cơn dông mà vùng điện tích âm chính bên dưới bị mất đi và để lại vùng điện tích dương chính; hoặc nếu vùng điện tích dương ở đáy đám mây trở nên cực kỳ lớn.\nSét dương có thể là nguồn gốc của các loại sét đánh ngược lên và sét thượng tầng khí quyển. Nó thường xuất hiện trong các cơn bão tuyết, giông tuyết hay khoảng kết thúc của một cơn dông. Khi loại sét dương xuất hiện một lượng cực lớn các sóng ELF và VLF sẽ được tạo ra.\nSét dương có xu hướng xuất hiện với cường độ mạnh hơn loại âm. Một tia sét âm trung bình mang theo dòng điện 30,000 ampe (30 kA) và truyền điện lượng cỡ 15 coulomb và năng lượng khoảng 1 gigajoule. Tia sét dương đánh xuống đất có cường độ trung bình khoảng gấp đôi dòng cực đại của sét âm điển hình và có thể tạo ra dòng điện cực đại lên tới 400 kA và điện tích ngưỡng vài trăm coulomb.\nDo sức mạnh khủng khiếp hơn của chúng, cũng như vì thiếu cảnh báo hiệu quả, sét dương đánh nguy hiểm hơn một cách đáng kể. Do xu hướng đã nói ở trên, các tia sét đánh xuống đất dương thường tạo ra những dòng điện rất lớn và kéo dài, chúng có khả năng làm nóng các bề mặt lên mức cao hơn nhiều làm tăng khả năng phát sinh các đám cháy.\nMây và mây (CC).\nSét giữa mây và mây là hiện tượng trao đổi hạt mang điện giữa các đám mây với nhau mà không phải đi xuống đất. Nó xảy ra khi các đám mây tích điện có tiềm năng tạo sét lại gần hay va vào nhau, môi trường tích điện trong hai đám mây bị xáo động hơn là khi chỉ trong một đám mây, hai đám mây sẽ cố gắng lấy lại sự cân bằng điện tích bằng cách trao đổi các điện tích này với nhau, tạo ra hiệu điện thế dẫn đến việc hình thành các luồng dẫn xáo động di chuyển qua lại bên trong và giữa các đám mây tạo ra sét. Đây là loại sét thường gặp thứ hai sau sét bên trong mây. Nó là loại sét khó nghiên cứu hơn do xảy ra chủ yếu trên các tầng mây trên cao do đó chỉ có thể đo đạc gián tiếp.\nSét dạng nhện.\nMột thuật ngữ khác được sử dụng cho một loại tia sét giữa mây và mây hoặc sét mây-mây-xuống đất là \"Anvil Crawler\" (sét bò đỉnh đe) hay \"sét hình nhện.\" Cái tên \"Anvil Crawler\" có liên quan đến hành vi di chuyển kì lạ của chúng. Loại sét này thường xuất phát tại một vùng bên dưới hoặc bên trong phần đỉnh hình đe của đám mây vũ tích và di chuyển kiểu \"bò\" lên giữa các tầng mây phía trên. Nó thường phân ra nhiều vệt sét nhánh rõ rệt và đánh vào nhiều điểm cùng một lúc.\nCác tia sét nhện được tạo ra khi các kênh sét truyền qua một mạng lưới tích điện theo chiều ngang trong các cơn giông ở giai đoạn trưởng thành. Những vùng điện tích ngang này thường là các khu vực mây phân tầng trong hệ thống bão đối lưu tầm trung (\"mesoscale convective system\"). Các tia sét nhện được bắt đầu bởi các đợt phóng điện nội bộ xuất phát từ khu vực mây đối lưu; sau đó đầu phía âm của kênh sét lan truyền vào khu vực có điện tích của mây phân tầng\".\" Nếu kênh sét trở nên quá dài, nó có thể phân thành nhiều nhánh kênh hai chiều và đầu phía dương kênh sét có thể đánh xuống mặt đất tạo thành sét CG dương; hoặc nó có thể lan truyền nhanh theo phương ngang tại mặt dưới những đám mây, tạo nên cảnh tượng sét bò trên bầu trời. Các tia sét đất được tạo ra như vậy thường truyền một lượng lớn điện tích dương, và điều này có thể kích hoạt sét đánh ngược từ mặt đất và sét thượng tầng khí quyển.\nSét nhện thường được thấy khi cơn giông đang di chuyển qua phía trên người quan sát hoặc khi cơn giông đang bắt đầu tiêu tan. Trong các cơn giông đã phát triển tốt và có xuất hiện gió đứt mạnh tại vùng phía sau chóp đe, hành vi bò của sét nhện là rõ rệt nhất.\nTrong đám mây (IC).\nSét cũng có thể xảy ra ngay bên trong cùng một đám mây dông, thường gặp nhất là giữa phần đỉnh mây trên và phần dưới của mây – những vùng mà giữa chúng có chênh lệch điện thế rất lớn. Loại tia sét nội bộ mây này đôi khi có thể được quan sát ở khoảng cách xa vào ban đêm và được gọi là ánh chớp xa, hay \"màn chớp sáng\" (\"sheet lightning\"). Trong những trường hợp như vậy, người quan sát có thể chỉ thấy một sự lóe sáng ở các đám mây trên trời mà không nghe thấy tiếng sấm. Chớp sáng trong mây là loại sét thường gặp nhất.\nSét từ đất lên mây.\nLoại sét đánh ngược lên trên (từ đất lên mây) là một dạng sét biến thể được hình thành khi các luồng điện tích bắt đầu di chuyển từ mặt đất lên đám mây phía trên. Trước thời kỳ cách mạng công nghiệp ở thế kỉ 19, hiện tượng này khá hiếm và chỉ được quan sát thấy tại những đỉnh núi cao trong các cơn dông, nó xuất hiện nhiều hơn thời nay do ngày càng có nhiều công trình cao tầng. \nKhi đám mây dông tới gần và tăng cường độ điện trường cục bộ, tại các vật thể cao trên mặt đất, nếu trước đó đã xảy ra sự phóng điện vành, có thể sẽ vượt quá mức điện trường ngưỡng và hình thành ngay các luồng đi lên: dưới tác dụng của lực tĩnh điện từ các điện tích dương có ở các vật này, chúng dần thu hút các điện tích âm và đồng thời tiếp tục đẩy các điện tích dương trong không khí xung quanh ra. Đôi khi các luồng điện tích dương này sẽ tự phóng lên đám mây mang điện tích âm phía trên nếu chúng đủ mạnh và sẽ tạo thành sét mà không cần luồng bậc âm di chuyển xuống gần mặt đất. Khi các ion dương tập trung với mật độ đủ cao, nó sẽ làm cho nơi mà nó tập trung phát sáng, vì thế các thủy thủ thường nói với nhau rằng cột buồm sẽ phát sáng trước khi có sét trong các cơn bão ban đêm để tránh xa nó trước khi bị sét đánh.\nSét đánh ngược thường là những chớp âm (chiều dòng vệt sét đi từ đất lên) nhưng được kích hoạt bởi các kênh điện tích dương xuất phát từ các công trình cao trên mặt đất, thường thì loại sét này không biểu hiện phân nhánh nhưng gồm rất nhiều đợt. Chúng có thể được kích hoạt sau khi sét dạng nhện xảy ra, hoặc có thể tự hình thành trong mùa lạnh tại những vùng hay có dông tuyết và có thể là loại biến thể sét chủ yếu trong các cơn dông tuyết.\nSét khô.\nSét khô, hay dông khô là loại dông sét được tạo thành mà không cần có độ ẩm, hay không có giáng thủy trên mặt đất vì chúng đều bị bay hơi hết khi đi vào lớp khí khô gần mặt đất. Nó thường hình thành trong các trận cháy rừng dữ dội. Hay khi các cột tro núi lửa bốc lên rất cao và bắt đầu hình thành sét như các đám mây tích điện thường làm. Khi mà tầng trên lạnh và dưới mặt đất nóng một sự đối lưu sẽ diễn ra mang theo cả các hạt mang điện tích dương từ dưới mặt đất, thứ mà sẽ hấp dẫn các điện tích âm tập trung lại và di chuyển xuống đất theo làn khói dẫn điện. Chính vì thế lửa có thể tạo ra sét và sét sẽ tạo ra thêm lửa (thảm họa).\nNhững đám cháy rừng dữ dội, chẳng hạn như trong mùa cháy rừng ở Úc 2019–20, có thể tạo ra hệ thống thời tiết riêng biệt có thể tạo ra sét lửa và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác. Sức nóng dữ dội từ đám cháy khiến không khí bốc lên nhanh chóng bên trong đám khói, thúc đẩy đối lưu tăng cường và gây ra sự hình thành các đám mây pyrocumulonimbus (mây dông lửa). Không khí mát bị hút vào bởi dòng khí bốc lên nhiễu loạn này để làm nguội khói. Đám khói bốc lên tiếp tục được làm nguội bởi áp suất khí quyển thấp trên cao, cho phép độ ẩm trong đó hình thành nên mây. Do không thể có mưa nên lửa càng khó kiểm soát. Các đám mây pyrocumulonimbus được hình thành trong khí quyển không ổn định. Hình thái thời tiết trong điều kiện như vậy có thể sinh ra sét khô, vòi rồng lửa, gió mạnh và mưa đá bẩn.<ref name=\"ABC / Ceranic\"></ref>\nSét từ bầu trời xanh.\nSét từ bầu trời xanh là một loại sét CG xuất hiện mà không có đám mây ở trên đủ gần có thể thấy rõ ràng để tạo ra nó. Bởi vì tia sét này được hình thành từ các đám mây giông ở xa, nên ở nơi người quan sát sét đánh, bầu trời có vẻ hoàn toàn quang đãng hoặc ít mây.\nỞ vùng núi Rockies của Hoa Kỳ và Canada, một cơn dông có thể xảy ra ở trong một thung lũng liền kề và không thể quan sát (nghe hoặc nhìn thấy) được từ thung lũng kia nơi mà có tia sét đánh vào. Khu vực miền núi châu Âu và châu Á cũng có thể có các biến cố tương tự. Ngoài ra, ở các khu vực như vùng vịnh, vùng hồ lớn hoặc đồng bằng mở, khi có một tế bào bão có hoạt động tích điện ở phía chân trời (trong phạm vi 26 km hoặc 16 dặm), việc sét đánh xuống đất ở nơi đó có thể xảy ra và vì cơn bão còn ở rất xa nên chính vì vậy cú sét đánh này có tên gọi \"sét từ bầu trời xanh\" (\"bolt from the blue\"). Trái với quan niệm trước đây, nó không nhất thiết là sét dương. Tia chớp từ bầu trời xanh âm thường bắt đầu khi có sự phát sinh những tia chớp bên trong đám mây thông thường trước khi kênh dẫn âm thoát khỏi đám mây và đánh về phía mặt đất cách đó một khoảng đáng kể.\nCác đợt sét dương thuộc loại này đánh có thể xảy ra trong các môi trường bị gió đứt mạnh, nơi vùng tích điện dương phía trên bị dịch chuyển theo chiều ngang từ khu vực mưa, nó thường xuất hiện bất ngờ và đôi khi rất nguy hiểm vì nơi nó sắp đánh trông như vẫn \"trời quang mây tạnh\".\nSét hòn.\nChú ý: Đây là loại sét hiếm thấy, nó có thể sẽ không giống với bất cứ lý thuyết nào hiện có.\nSét hòn có thể là một hiện tượng phóng điện trong không khí, đặc tính tự nhiên của loại sét này vẫn còn đang gây tranh cãi. Từ sét hòn thường được dùng để chỉ các vật phát sáng hình cầu bay lơ lửng có kích cỡ từ hạt đậu cho đến vài mét. Nó đôi khi xuất hiện trong các cơn dông, và không giống như các tia sét thông thường chỉ xuất hiện với một vệt dài và biến mất sau đó, sét hòn có hình cầu bay lơ lửng và tồn tại trong nhiều giây. Sét hòn chỉ được kể lại bởi các nhân chứng chứ chưa hề được ghi hình lại bởi các nhà khí tượng. Brett Porter, một nhân viên kiểm lâm hoang dã, báo cáo đã chụp được sét hòn tại bang Queensland của Úc vào năm 1987. Các tài liệu khoa học về sét hòn rất hiếm vì chúng thường xuất hiện bất ngờ và hiếm. Sự tồn tại của nó chỉ được kể lại bởi các nhân chứng nên đôi khi bị thêm thắt khiến nó phần nào không phù hợp.\nCác thí nghiệm trong phòng thử nghiệm gần đây đã tạo ra các kết quả rất giống với các sét hòn được báo cáo lại, nhưng hiện tại vẫn chưa có kết luận là có liên quan đến hiện tượng tự nhiên này hay không. Có một giả thuyết cho rằng sét hòn được tạo ra do phản chiếu khi sét đánh vào silicon trong đất, một hiện tượng mà các phòng thí nghiệm đã thử nhiều lần. Do các tài liệu nghiên cứu mâu thuẫn lẫn nhau nên quả bóng phát sáng này vẫn là bí ẩn và thường bị cho chỉ là tưởng tượng và chơi khăm. Nhiều báo cáo so sánh việc nhìn thấy sét hòn giống như việc nhìn thấy UFO.\nMột số dạng sét khác.\nSau đây là một số dạng biến thể quan sát của sét:\nTác động.\nKhi tia sét đánh trúng các vật thể trên mặt đất, chúng phải chịu một nhiệt lượng và từ trường rất lớn. Nhiệt độ cao mà dòng điện sét tạo ra khi đi vào thân cây có thể làm bốc hơi nhựa cây dẫn đến một vụ nổ hơi nước bên trong làm bung cả thân cây. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp sét có thể đi qua bề mặt ẩm ướt trên thân cây và xuống đất mà không hủy diệt nó. Nếu sét đi vào đất cát, đất cát xung quanh kênh plasma có thể nóng chảy tạo thành các khoáng vật hình ống gọi là fulgurite. Sét không thường đánh chết người, nhưng trong số các trường hợp sống sót, người hoặc động vật có thể chịu tổn thương nặng nề ở các nội tạng và hệ thần kinh. Các công trình cao tầng có thể bị công phá bởi sét khi nó tìm đường xuống đất, nên cần có các biện pháp bảo vệ công trình thích hợp. Thân máy bay là kim loại nên các máy bay rất dễ bị sét đánh, mặc dù không gây hư hại nhiều tới phương tiện và các hành khách trên nó. Đó là bởi vì tính chất dẫn điện của hợp kim nhôm, vỏ thân máy bay hoạt động như một chiếc lồng Faraday. Sét cũng đóng vai trò quan trọng trong thế giới tự nhiên, tham gia chu trình nitơ khi góp phần oxy hóa phân tử nitơ N2 trong không khí thành nitrat, khi mưa xuống chúng phân hủy và có thể trở thành phân bón tự nhiên rất tốt cho cây trồng và các sinh vật khác. Câu tục ngữ kinh nghiệm: \"Lúa chiêm lấp ló đầu bờ. Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.\" chính là nói về điều này.\nSấm.\nKhi hai đám mây tích điện trái dấu lại gần nhau, hiệu điện thế giữa chúng có thể lên tới hàng triệu volt. Giữa hai đám mây có hiện tượng phóng tia lửa điện và ta trông thấy một tia chớp (CC). Vài giây sau ta mới nghe thấy tiếng nổ, đó là \"sấm\" (vận tốc ánh sáng 300,000,000 m/s [980,000,000 ft/s] nhanh hơn rất nhiều lần vận tốc của tiếng động là 343 m/s [1,125 ft/s] nên ta trông thấy tia chớp trước). Vì thế một người quan sát có thể ước chừng khoảng cách đến nơi có sét bằng cách xác định khoảng thời gian giữa khi nhìn thấy tia sét và khi tiếng sấm nó tạo ra tới tai.\nChẳng hạn, nếu ánh sáng từ một tia chớp tới trước tiếng động của nó một giây thì ta sẽ có khoảng cách tới cơn dông vào khoảng 343 m (1125 ft); nếu thời gian trễ này là 3 giây thì ta sẽ suy ra khoảng cách là khoảng 1 km hoặc 0.62 dặm (3 × 343 m). Còn nếu một tia chớp tới trước tiếng sấm trong năm giây, sẽ có thể suy ra khoảng cách xấp xỉ 1.5 km hoặc 0.93 dặm (5 × 343 m). Do đó, nếu một cú sét được quan sát ở khoảng cách rất gần thì nó sẽ kèm theo ngay một tiếng sấm bất ngờ, gần như không có thời gian trễ giữa chúng và còn có thể đi kèm với mùi ozon (O3) sinh ra từ sét.Do sét là sự phóng điện hay sự di chuyển cực nhanh của các điện tử ma sát vào không khí làm nó trở nên cực nóng có thể hình thành plasma và giãn nở ra, theo thuyết động học thì khi không khí bị giãn nở ra một cách quá nhanh và đột ngột xung quanh tia sét, nó sẽ tạo ra một sóng chấn động lan rộng kèm theo tiếng động được biết đến như sấm.\nVì có rất nhiều sóng chấn động được tạo ra liên tiếp nhau khi sét hình thành, và do có rất nhiều vệt sét thứ phát nên ta không chỉ nghe một tiếng mà rền vang trong một khoảng thời gian tùy theo chiều dài của sét và khoảng cách đến người nghe nó. Một tiếng sấm gần có mức cường độ vào cỡ 120 dB, vào ngưỡng có thể gây tổn thương thính giác.\nCác đặc tính của sấm rất phức tạp tùy theo yếu tố hình học của sét như chiều dài, có bao nhiêu tua, độ vọng âm thanh từ mặt đất và có bao nhiêu vệt sét...\nTuy nhiên, nếu cơn dông ở một khoảng khá xa người quan sát thì có thể không nghe được tiếng sấm dù vẫn nhìn thấy được những tia sét của nó (do cường độ âm thanh giảm dần theo khoảng cách). Hiện tượng này có tên gọi là \"sét nhiệt\". Có nguồn thông tin nêu rằng một cơn bão sét có thể được thấy ở khoảng cách xa tận hơn 160 km (100 dặm) nhưng tiếng sấm thì chỉ có thể nghe được trong phạm vi 32 km (20 dặm).\nNăng lượng phóng xạ cao tạo ra khi sét đánh.\nĐã có lý thuyết về sự hình thành tia X tạo ra khi sét đánh vào năm 1925 nhưng không có bằng chứng cho việc này mãi tới năm 2001-2002, khi các nhà nghiên cứu thuộc trường đại học nghiên cứu mỏ và công nghệ New Mexico đã vô tình phát hiện tia X đang chạy dọc theo dây thử sau khi có sự xuất hiện của các tia sét phía trên. Cùng năm đó đại học Florida và viện công nghệ Florida đã nghiên cứu điện trường tia X bằng một hệ thống anten đặt tại Bắc Florida và đã xác nhận rằng các tia sét tự nhiên có thể tạo ra một lượng lớn tia X trong quá trình lan truyền kênh dẫn. Việc hình thành các tia X bởi sét này vẫn còn đang được nghiên cứu vì nhiệt độ của sét quá thấp (hàng ngàn lần thấp hơn mức cần thiết) để hình thành tia X một cách tự nhiên mà không qua sự phân rã phóng xạ.\nSố lượng lớn các nghiên cứu và quan sát khác từ trên các trạm không gian cũng cho thấy sét cũng tạo ra một lượng lớn tia gamma. Hiện tượng này được gọi là chớp tia gamma địa cầu (\"Terrestrial Gamma-ray Flash\" hay TGF) hay \"sét đen\", do phổ của nó không thuộc vùng ánh sáng nhìn thấy. Những điều này đã tạo ra một thách thức mới cho lý thuyết hiện hành về việc hình thành của sét khi chúng có các dấu hiệu của hiện tượng phản vật chất thông qua việc phóng ra các tia phóng xạ. Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy một số hạt vi mô sản sinh từ sự bùng phát tia gamma như: electron, positron, proton và neutron có thể mang năng lượng hàng chục MeV.\nChất lượng không khí.\nNhiệt độ rất cao do sét tạo ra dẫn đến sự gia tăng đáng kể của nồng độ ozon và các oxit của nitơ trong không khí. Mỗi tia chớp ở vùng ôn đới và cận nhiệt đới tạo ra trung bình 7 kg NOx. Trong tầng đối lưu, tác động của sét có thể làm tăng 90% nồng độ NOx và tăng nồng độ ozon lên 30%.\nHậu quả do sét tác động lên con người.\nSét có thể gây thương tích bằng những cách thức sau:\nTheo thống kê thì sét đánh thẳng là nguy hiểm nhất, cứ 10 người bị sét đánh thẳng thì 8 người chết. Sét đánh tiếp xúc hay tạt ngang cũng rất nguy hiểm. Khi sét đánh xuống cây, thì 1 tia sét có thể giết chết ngay vài người xung quanh. Độ nguy hiểm phụ thuộc vào bản chất của vật bị sét đánh và vị trí tương đối với nạn nhân. Thương vong do điện thế bước nhẹ hơn. Trong một số trường hợp năng lượng tia sét không tiêu tán ngay tại chỗ mà truyền theo mặt đất và khi nạn nhân đứng trên đường truyền đó có thể bị liệt. Trong một số trường hợp tồi tệ nạn nhân sẽ bị vấn đề với việc đi lại sau này. Trong thực tế sét lan truyền xuất hiện khi nạn nhân nói chuyện điện thoại, cầm vào các dây cáp, dây anten dẫn từ ngoài vào.\nTheo thống kê ở Hoa Kỳ, ngoài 40% nạn nhân bị sét đánh không được biết rõ nguyên nhân, 27% là khi họ đang ở khu vực trống trải, 19% ở gần cây, 8% đang bơi hay ở khu vực gần nước, 3% khi đứng gần máy móc, 2.4% khi đang nói điện thoại, 0.7% liên quan đến đài, tivi, anten...\nTác động lên đồ điện tử.\nĐiện thoại, modem, máy tính cá nhân và các thiết bị điện tử khác có thể bị hư hỏng do sét đánh, khi chúng đi qua các ổ cắm điện thoại, cáp ethernet, hoặc ổ cắm điện. Với các thiết bị điện khi sét đánh vào các cột điện sẽ làm tăng áp đột ngột làm chập điện và cháy tất cả các linh kiện điện tử. Với những ai đang dùng điện thoại sẽ rất nguy hiểm cho màng nhĩ vì nó sẽ tạo ra một tiếng rít rất lớn và dài cũng như bị điện giật nếu là điện thoại có dây. Và thậm chí khi không đánh vào đâu sét cũng sẽ tạo ra các xung điện từ mạnh (đặc biệt là sét dương) sẽ phá hỏng các linh kiện điện tử.\nVai trò sinh học.\nCó khả năng sét đã có mặt trên Trái Đất ngay từ thời rất sơ khai, trước khi các dạng sống đầu tiên xuất hiện, từ khoảng hơn 3 tỉ năm về trước. Ngoài ra, có lẽ các tia sét là một trong những yếu tố quan trọng trong việc hình thành các phân tử hữu cơ đầu tiên, là những hợp chất cần thiết cho sự sống xuất hiện. Điều này được giả định trong thí nghiệm Miller-Urey năm 1953, được coi như là một trong những nghiên cứu đầu tiên về sét trên Trái Đất sơ khai và những ảnh hưởng của nó. Thành phần khí quyển của Trái Đất sơ khai (một tỉ năm đầu tiên) khác biệt rất nhiều so với trạng thái hiện tại của nó. Tới thời gian khoảng 3.5 tỉ năm trước, bề mặt Trái Đất nguội dần đi để tạo thành lớp vỏ, chủ yếu là các núi lửa phun trào nham thạch, dioxide cacbon và amonia, hình thành bầu khí quyển nguyên thủy của Trái Đất; nó chứa chủ yếu là CO2 và hơi nước, với một ít nitơ nhưng vẫn chưa có nhiều oxy. Kể từ khi Trái Đất mới hình thành, nhiệt độ cao của lớp vỏ là nguyên nhân gây ra những chấn động địa chất lớn thường trực vẫn còn dữ dội tới nay, và đã làm phát sinh các đại dương. Hoạt động núi lửa mạnh mẽ trên Trái Đất sơ khai sinh ra các cơn bão sét núi lửa đặc biệt nhiều và thường xuyên. Nước, khi nó thực hiện lặp đi lặp lại vòng tuần hoàn của nó, đã mang theo các nguyên tố hóa học trong khí quyển sơ khai, như cacbon và nitơ, và tích tụ chúng trong các vùng biển nguyên thủy. Tia cực tím và sét có thể là những tác nhân rất cần thiết cho sự kết hợp của các loại hợp chất vô cơ này và sự biến đổi chúng thành các phân tử hữu cơ như các amino acid, là những thành phần thiết yếu cho sự xuất hiện của sự sống như chúng ta đã biết. Sau khi vi sinh vật quang hợp và thực vật bắt đầu xuất hiện, bầu khí quyển cổ chuyển dần từ một bầu khí quyển khử (tức khí quyển mà trong đó các quá trình oxy hóa bị ức chế) thành bầu khí quyển oxy hóa, chính là bầu khí quyển hiện tại của chúng ta.\nCác sự phóng điện trong khí quyển là một trong những nguồn nitrit và nitrat tự nhiên chính, rất cần thiết cho đời sống của các thực vật. Rau quả không thể sử dụng trực tiếp khí nitơ (N2) trong khí quyển, vì vậy nó cần được chuyển đổi thành các hợp chất nitơ khác. Sét là một trong các tác nhân của các phản ứng hóa học như vậy, do đó nó có vai trò duy trì chu trình nitơ.\nNgoài ra, sét cũng đóng góp tiến hóa của các loài thực vật, khi nó là nguyên nhân phát sinh các vụ cháy rừng xưa nay. Bởi lửa do sét có thể đốt cháy các loại chất khô (như củi, xác cây gỗ), biến chúng thành nguyên liệu dinh dưỡng để thảm thực vật tiếp theo phát triển. Nhiệt sinh ra còn có thể tiêu diệt các loài sâu hại trên cây, vì thế nó có một số tác động rất có lợi cho môi trường. Quá trình chọn lọc tự nhiên trong tiến hóa của thực vật cũng dường như được liên kết chặt chẽ với sự xuất hiện của các đám cháy, thúc đẩy sự xuất hiện của các gen thực vật mới. Và có thể, những đám lửa sét là nguồn lửa đầu tiên được sử dụng bởi người nguyên thủy, đây sẽ là một trong những bước tiến quan trọng dẫn đến sự tiến hóa văn minh và thống trị môi trường Trái Đất của loài người.\nPhân bố, tần suất, và mức độ của sét.\nTrên Trái Đất, sét phân bố không đều. Tần suất sét đánh trung bình toàn thế giới xấp xỉ 44 (± 5) lần mỗi giây, hay gần 1.4 tỉ tia chớp mỗi năm.\nNhiều nhân tố ảnh hưởng tới sự phân bố sét trên thế giới, cũng như các loại sét khác nhau và tính chất của sét (hay dông nói chung) tại một vùng miền như: sự đối lưu mạnh hay yếu, vĩ độ và độ cao của nơi đó so với mực nước biển, loại gió chính, độ ẩm tương đối, vị trí gần hay xa các vùng nước ấm hoặc lạnh, cấu trúc địa chất nơi đó...v.v.\nSét chủ yếu xảy ra khi không khí ấm bị pha trộn với khối không khí lạnh hơn, dẫn đến nhiễu loạn khí quyển cần thiết để xảy ra phân cực trong khí quyển. Tuy nhiên, nó cũng có thể xảy ra khi có bão bụi, cháy rừng, lốc xoáy, núi lửa phun trào, và thậm chí trong cái lạnh giá của mùa đông, khi đó nó được gọi là dông tuyết. Các cơn bão thường tạo ra các tia sét, chủ yếu ở các dải mưa cách tâm bão khoảng 160 km (99 dặm).\nHơn 70% tia sét xuất hiện tại các vùng trên đất liền có khí hậu nhiệt đới, nơi có hoạt động đối lưu khí quyển mạnh mẽ nhất. Sự pha trộn các khối khí nóng và lạnh hoặc các khối khí có chênh lệch độ ẩm có thể dẫn đến hiện tượng đối lưu mạnh, thường diễn ra tại ranh giới các khối khí. Chẳng hạn, một dòng biển ấm chảy qua các vùng đất liền khô cằn, chẳng hạn dòng Gulf Stream sẽ gây đối lưu; điều này giải thích phần nào sự gia tăng tần số cơn dông và sét đánh tại vùng Đông Nam của Hoa Kỳ. Trên các vùng biển và đại dương, sét ít phổ biến hơn so với đất liền. Hoạt động đối lưu tạo nên dông là rất hiếm tại các vùng địa cực nên những nơi này là những nơi sét ít xảy ra nhất. Ngoài ra, tỉ lệ xuất hiện của từng loại sét chính có thể thay đổi theo mùa và vĩ độ. Chẳng hạn, loại sét CG nhiều ở những nơi có độ cao đóng băng thấp, điển hình là các nơi vĩ độ trung, hơn là ở những vùng nhiệt đới nơi độ cao đóng băng thường trên 1 km.Nhìn chung, các tia chớp loại CG chỉ chiếm 25% tổng số sét trên toàn thế giới. Bởi vì chân đám mây dông thường tích điện âm nên vùng này là nơi bắt nguồn của hầu hết các tia sét CG. Vùng này thường ở độ cao nơi xảy ra sự đóng băng trong đám mây. Sự đóng băng kết hợp với va chạm giữa các hạt băng và nước, dường như là một phần quan trọng của quá trình phân ly và phát triển các điện tích ban đầu. Trong các va chạm do gió (chuyển động không khí) gây ra, các tinh thể băng có xu hướng tích điện tích dương, trong khi hỗn hợp nước và đá nặng và loãng hơn (gọi là graupel) thì phát triển điện tích âm. Dòng khí đi lên (updraft) trong đám mây dông tách các tinh thể băng nhẹ hơn khỏi các hạt graupel nặng hơn, khiến vùng trên cùng của đám mây tích tụ điện tích không gian dương trong khi vùng thấp hơn tích tụ điện tích không gian âm. \nDo điện tích tập trung trong đám mây phải vượt qua được đặc tính cách điện của không khí và nó tăng tỉ lệ thuận với khoảng cách giữa mây và mặt đất, tỉ lệ các đợt sét CG (so với sự phóng điện giữa mây và mây (CC) hoặc trong mây (IC)) trở nên lớn hơn khi đám mây gần mặt đất hơn. Ở vùng nhiệt đới, nơi độ cao đóng băng thường cao hơn trong khí quyển, chỉ 10% tia sét là CG. Ở vĩ độ của Na Uy (khoảng 60° độ vĩ Bắc), nơi có độ cao đóng băng thấp hơn, 50% sét là CG.\nMột số địa điểm có tần suất sét cao nhất thế giới: nhiều nhất là tại vùng hồ Maracaibo ở cửa sông Catatumbo, Venezuela, và gần ngôi làng Kifuka ở vùng núi miền Đông Cộng hòa Dân chủ Congo; sau đó là Singapore, và khu vực Hẻm sét ở vùng Trung tâm Bang Florida, Hoa Kỳ.\nTheo báo cáo của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) của Liên Hợp Quốc, vào ngày 29 tháng 4 năm 2020, một tia chớp dài 768 km (477.2 dặm) đã được quan sát ở vùng miền Nam Hoa Kỳ, kéo dài từ tiểu bang Texas tới tiểu bang Louisiana—dài hơn 60 km (37 dặm) so với kỷ lục khoảng cách trước đó (Nam Brazil, ngày 31 tháng 10 năm 2018). Một tia chớp đơn lẻ tại Uruguay và miền Bắc Argentina vào ngày 18 tháng 6 năm 2020 đã kéo dài tới 17.1 giây—lâu hơn 0.37 giây so với kỷ lục trước đó (ngày 4 tháng 3 năm 2019, cũng tại Bắc Argentina).\nHiện nay, các nghiên cứu còn chỉ ra rằng có thể sự nóng lên toàn cầu đang khiến cho tần suất sét toàn thế giới gia tăng. Tuy nhiên, các tần suất dự báo này chỉ chênh lệch so với tần suất sét hiện nay khoảng 5 đến 40% tính trên một đơn vị độ Celsius tăng trung bình của nhiệt độ khí quyển.\nSét thượng tầng khí quyển.\nSét thượng tầng khí quyển là họ các hiện tượng phóng điện-đánh thủng xảy ra trong khoảng thời gian rất ngắn trên các tầng khí quyển cao của Trái Đất, ở độ cao phía trên đám mây dông và có liên quan đến những tia sét thông thường. Đã có những báo cáo về các hiện tượng điện phía trên các đám mây dông từ những năm 1886. Tuy nhiên chỉ vài năm trở lại đây các nghiên cứu mới được thực hiện về những hiện tượng này và chúng được tin là những dạng plasma phát sáng trên khí quyển cao. Các hiện tượng này được khoa học ưa gọi hơn là các sự kiện phát sáng thời gian ngắn (\"transient lumnious event\" – TLE), thay vì coi là một loại tia sét như cách gọi \"sét thượng tầng khí quyển\" bởi các hiện tượng phóng điện trên khí quyển cao thiếu các đặc tính thường thấy của sét ở tầng đối lưu thông thường.\nSét dị hình (Sprite).\nSét dị hình là một hiện tượng phóng điện trên khí quyển cao có quy mô rất lớn, nó hình thành trên cả các đám mây dông dẫn đến việc nó có rất nhiều hình dạng khác nhau. Nó được kích hoạt bởi các tia sét CG dương, khi các điện tích theo kênh dẫn phóng lên trên từ bên dưới, từ trong vùng đỉnh đám mây bão hay từ mặt đất. Sprite xảy ra chủ yếu ở tầng trung lưu cách mặt đất 50÷90 km. Cái tên Sprite được đặt theo tên của một nhân vật Sprite (linh hồn của không khí) trong vở \"A Midsummer Night's Dream\" của Shakespeare. Bình thường chúng trông giống như một đám mây đỏ-cam hay xanh lá-xanh dương với các tua bên dưới và đôi khi còn có một cái vòng ở bên trên. Sprite diễn ra trong khoảng thời gian ngắn, khoảng từ vài mili giây tới 2 giây. Sprite được chụp hình lần đầu tiên vào ngày 06 tháng 7 năm 1989 bởi một nhà khoa học thuộc đại học Minnesota và kể từ khi đó nó được nhìn thấy thường xuyên hơn. Sprite được giải thích như là nguyên nhân gây ra các sự cố tai nạn không thể giải thích được của các phương tiện có tầm hoạt động cao hơn các đám mây bão.\nSét dị hình xanh (Blue jet).\nBlue jet thường hình thành phía trên các đám mây bão, nó thường trông giống như một ngôi sao băng và di chuyển trong tầng bình lưu cách mặt đất khoảng 40 km đến 80 km. Khác với các sprite, sự hình thành blue jet không nhất thiết được kích hoạt bởi các đợt sét dương giữa đám mây và mặt đất. Chúng sáng hơn các sét dị hình sprite và như cái tên chúng có màu xanh. Tư liệu ghi hình đầu tiên của loại sét này được thực hiện ngày 21 tháng 10 năm 1989, được ghi lại từ tàu con thoi khi nó lướt qua Úc và sau đó bắt đầu có nhiều tài liệu hơn sau nhiều chuyến bay thí nghiệm của Đại học Alaska. Một loại tia sét khác có họ hàng với blue jet, gọi là \"blue starter.\" Đó là sự phóng điện với cơ chế tương tự từ trên đỉnh đám mây lên khí quyển nhưng nó lên thấp hơn và sáng hơn blue jet.\nSét dị hình Gigantic jet.\nGigantic jet là một sự phóng điện trên tầm cao hơn mây, ra khí quyển với kích cỡ lớn hơn đáng kể so với blue jet, vì thế cũng dễ nhận thấy hơn. Phần trên của một tia gigantic jet có màu xanh-đỏ. Chúng dường như bắt đầu ở ngay giữa miền điện tích dương trên đỉnh đám mây và miền điện tích âm phía dưới, không giống blue jet xuất phát trực tiếp từ đỉnh đám mây lên lớp điện tích khí quyển bên trên.\nNgày 14 tháng 10 năm 2001 các nhà khoa học của đài quan sát Arecibo đã chụp được bức ảnh về hai tia gigantic jet khổng lồ đi cùng nhau xuất hiện ở độ cao 80 km. Hai tia sét xuất phát từ một cơn bão ngoài khơi và biến mất trong giây lát. Một tia có tốc độ di chuyển bình thường khoảng 50,000 m/s hơn rất nhiều tốc độ bình thường của các tia Blue jet, nhưng nó đã tăng tốc lên 250,000 m/s khi bắt đầu tách ra làm hai và phát nổ khi đi vào tầng điện li. Vào ngày 22 tháng 7 năm 2002 tờ báo \"Nature\" đã đăng tin về việc nhìn thấy 5 tia sét gigantic jet cực lớn xuất hiện, có chiều dài vào khoảng 60 đến 70 km trong vùng Biển Đông, nó chỉ xuất hiện trong một giây nhưng có hình dáng rất rõ ràng giống như một cái cây hay củ cà rốt.\nSét dị hình Elves.\nElves thường xuất hiện một cách mờ nhạt phẳng giống như sóng chấn động của một vụ nổ, có đường kính khoảng 402 km nhưng chỉ xuất hiện trong một mili giây. Chúng bắt đầu hình thành trong tầng điện li phía trên các đám mây bão khoảng 97 km. Màu sắc của chúng vẫn là một câu hỏi nhưng hiện nay hầu hết đều đồng ý rằng nó có màu đỏ rực. Elves được ghi nhận lần đầu tiên khi một tàu con thoi ghi hình được nó trong vùng Guyane thuộc Pháp vào ngày 07 tháng 10 năm 1990. Elves là viết tắt của Emissions of Light and Very Low Frequency Perturbations from Electromagnetic Pulse Sources (Sự phát sáng và nhiễu loạn tần số rất thấp từ các nguồn xung điện). Điều này ám chỉ đến việc quá trình nguồn sáng được tạo ra khi các hạt mang điện va chạm vào các phân tử nitơ (các hạt này có được năng lượng từ các cuộc phóng điện sét dưới tầng đối lưu).\nSét ngoài Trái Đất.\nSét là hiện tượng phóng điện trong không khí vì thế nó không thể xảy ra trong môi trường chân không ngoài vũ trụ. Tuy nhiên nó đã được quan sát trong khí quyển các hành tinh khí khổng lồ như Sao Mộc và Sao Thổ. Trên Sao Mộc, sét thường được ghi nhận là các siêu chớp xuất hiện với cường độ trung bình mạnh hơn nhiều so với trên Trái Đất.\nSét trên Sao Kim vẫn là chủ đề gây nhiều tranh cãi sau nhiều thập niên nghiên cứu. Trong các chương trình vũ trụ như Venera của Liên Xô hay Pioneer của Hoa Kỳ nhưng năm 1970 đến 1980 đã bắt được hàng loạt các tín hiệu cho thấy sự có mặt của sét trên các tầng khí quyển của Sao Kim nhưng khi tàu thăm dò Cassini–Huygens lại gần nó thì lại không thấy dấu hiệu của sét, nhưng các tín hiệu mà tàu Venus Express bắt được cho là dấu hiệu của sét trên Sao Kim. \nKích hoạt sét.\nTên lửa.\nSét có thể được kích hoạt bằng cách phóng một tên lửa có dây cước kim loại nối nó với mặt đất vào mây dông. Dây cước sẽ được xả ra khi tên lửa bay lên. Nó sẽ là con đường dễ dàng nhất (điện trở thấp) cho sự trao đổi điện tích giữa các đám mây và mặt đất, nên tiên đạo sẽ theo dây cước và đi xuống đất tạo thành sét CG. Ngoài ra, những luồng khí thải từ tên lửa cũng có thể tạo ra con đường cho sét đánh xuống, như đã được chứng kiến trong nhiệm vụ Apollo 12 sau khi tên lửa cất cánh.\nSét cũng có thể được kích hoạt bởi các vật nhân tạo khác, như máy bay có thể kích hoạt sét khi các kênh dẫn đang tìm đường dễ nhất để di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác của đám mây và các máy bay làm bằng vật liệu dẫn điện rất tốt. Các vệt ngưng tụ hơi nước mà máy bay để lại trên không trung có thể ảnh hưởng sự thiết lập các con đường ion dẫn theo tia sét.\nNúi lửa.\nCó nhiều cách mà hoạt động núi lửa tạo ra các điều kiện thích hợp để sinh ra sét. Một lượng lớn vật liệu vụn và các loại khí bị phun ra nổ mạnh vào bầu khí quyển, tạo ra một đám mây hạt dày đặc. Mật độ dày và chuyển động liên tục của các khối tro trong đám mây khói núi lửa tạo ra điện tích bởi tương tác ma sát, dẫn đến sự phóng điện. Những tia chớp rất mạnh sẽ thường sinh ra khi đám mây cố gắng tự trung hòa chính nó. Do hàm lượng vật liệu rắn (tro) rất lớn chứ không phải các vùng nước trong đám mây là nguyên nhân sinh ra điện tích, nên không giống như một đám mây dông thông thường, nó thường được gọi là bão sét bẩn.\nCó ba biểu hiện của sét kích hoạt bởi núi lửa là:\nLaser và vụ nổ nhiệt hạch.\nNhững năm 1970 các nhà khoa học đã cố gắng kích hoạt sét bằng laser hồng ngoại hay tử ngoại, nó sẽ tạo ra một đường ion hóa dễ dẫn điện mà từ đó các điện tích sẽ đi theo từ mây xuống đất. Việc này để đảm bảo an toàn cho các bệ phóng tên lửa, các cơ sở điện và những mục tiêu quan trọng khác.\nTại New Mexico Hoa Kỳ, các nhà khoa học đã thử nghiệm một hệ thống laser mạnh cỡ terawatt để kích hoạt sét. Các nhà khoa học đã chiếu hệ thống laser cực mạnh vào đám mây để nó hạn chế việc phóng điện vào một khu vực nào đó. Dòng laser sẽ tạo ra một đường ion hóa được gọi là \"filaments\" (sợi). Trước khi các tia sét đi xuống mặt đất các filament sẽ dẫn các tia sét đến một chỗ định sẵn, nó đóng vai trò như một cột thu lôi. Tuy nhiên các filament này lại tồn tại trong thời gian quá ngắn để có thể kích hoạt sét. Mặc dù vậy, việc nó làm tăng sự xáo động điện tích trong các đám mây đã được ghi nhận. Theo các nhà khoa học Pháp và Đức những người đã thực hiện thí nghiệm trên, việc phóng một xung nhanh được tạo ra bởi laser có thể sẽ dẫn các tia sét vào nơi được định trước. Các phân tích thống kê cho thấy rằng các xung laser của họ thực sự tăng cường các hoạt động điện trong đám mây dông, nó đã tạo ra một sự phóng điện nhỏ trong các đám mây nơi mà tia laser được chiếu vào.\nNgoài ra, người ta cũng đã chứng kiến các tia sét được kích hoạt trong những đám mây hình nấm trong các cuộc thử nghiệm vụ nổ nhiệt hạch. Những vụ nổ có thể cung cấp thêm vật liệu dẫn điện, làm xáo động khí quyển và kích hoạt tia sét. Các bức xạ gamma cường độ cao sinh ra từ các vụ nổ hạt nhân lớn có thể phát triển nên các vùng tích điện rất mạnh trong không khí xung quanh thông qua sự tán xạ Compton. Các vùng không gian tích điện mạnh này có thể tạo ra nhiều tia sét trong khí quyển lân cận ngay sau khi thiết bị phát nổ.\nThu thập năng lượng từ sét.\nTừ những năm 1980 đã có nhiều nỗ lực để thu thập năng lượng từ sét. Khi mà chỉ cần một tia sét cũng chứa một lượng lớn năng lượng, lượng năng lượng này tập trung vào một điểm nhỏ và tồn tại trong thời gian rất ngắn (mili giây), do vậy năng lượng điện này cực cao. Sức mạnh của sét được đề xuất là để tạo ra hydro từ nước rồi sử dụng lượng hydro này trong khai thác nhiệt điện.\nCông nghệ thu sét cần phải tuân theo quy tắc là có thể nắm bắt được các mức năng lượng cao mà tia sét tạo ra. Theo các nhà vật lý Stephen Reucroft và John Swain của Đại học Northeastern thì một (chỉ một vệt trong nhiều vệt trên cùng một đường đi) tia sét chứa khoảng vài triệu joule chỉ đủ để một bóng đèn 100 watt sáng trong 5.5 giờ. Ngoài ra sét đánh khá ngắt quãng, và rất khó để có thể chuyển một lượng điện thế cao thành điện thế thấp trong khoảng thời gian ngắn để có thể tiến hành tích trữ.\nNăm 2007, công ty Alternate Energy Holdings (AEH) chuyên tìm kiếm nguồn năng lượng thay thế đã thử giữ năng lượng của một tia sét. Thiết kế của hệ thống đã được mua từ một nhà phát minh tại Illinois tên Steve LeRoy, người đã thắp sáng bóng đèn 60 watt của mình trong vòng 20 phút với việc giữ năng lượng của sét nhân tạo.\nTheo thiết kế thì một cái tháp sẽ được nối với hai nhánh, một nhánh sẽ dẫn một lượng lớn năng lượng xuống đất khi sét đánh và nhánh khác sẽ giữ lại và tích trữ những gì còn lại của lượng năng lượng đó. Theo Donald Gillispie, giám đốc điều hành của AEH thì: \"Chúng tôi đã không thể làm cho nó hoạt động\", tuy nhiên có nói thêm rằng: \"Nếu có đủ thời gian và tiền bạc thì có thể làm cho hệ thống này trở nên quy mô hơn... đây không phải tà thuật, đây là toán học và khoa học, hệ thống này sẽ hoạt động được\".\nTheo Tiến sĩ Martin A. Uman đồng giám đốc của Phòng thí nghiệm Nghiên cứu sét tại Đại học Florida và là một cơ quan hàng đầu về chống sét thì một tia sét, ngoài việc rất nhanh và sáng thì nó chứa rất ít năng lượng của đám mây, để thắp sáng 5 bóng đèn 100 watt trong vòng cả năm thì sẽ cần hàng chục tháp thu lôi mà AEH sử dụng hiện tại. Khi trả lời phỏng vấn trên tờ The New York Times, ông đã mô tả một cơn dông là một trái bom hạt nhân khổng lồ nhưng việc thu nguồn năng lượng ấy từ mặt đất là \"vô vọng\".\nAn toàn sét.\nCác biện pháp chống sét bảo vệ con người.\nVì sét là hiện tượng ngẫu nhiên cho nên không có vị trí an toàn tuyệt đối. Tuy nhiên việc chủ động đề phòng tránh sét tìm nơi an toàn hơn có thể làm giảm đáng kể khả năng bị sét đánh. Cần phải hướng dẫn giáo dục phòng chống sét an toàn cho con người.\nNghe dự báo thời tiết. Khi nghe bản tin dự báo thời tiết lên kế hoạch làm việc để đề phòng. Khi làm ở khu vực nào đó, để ý trước các nơi có thể trú mưa và tránh sét an toàn. Phải tính được thời gian từ chỗ làm việc đến nơi an toàn. Thường thì cơn dông kéo đến rất nhanh trong vòng 15 phút và di chuyển với vận tốc 40 km/giờ. Nói chung khi đang ở nơi không an toàn thì cần phải để ý đến các dấu hiệu của dông như mây đen, không khí lạnh, gió...\nKhi sét xảy ra, thoạt tiên ta thấy tia chớp loé lên và sau đó là có tiếng sấm kèm theo. Nếu bạn tính khoảng thời gian từ lúc tia chớp loé lên và lúc nghe thấy tiếng sấm thì có thể xác định được khoảng cách tới nơi sét xảy ra. Chia số giây cho 3 ta được khoảng cách đến tia sét (do vận tốc âm thanh trong không khí là 340 m/s, xấp xỉ bằng 1/3 km/s). Ví dụ đếm được 3 giây thì sét cách vị trí đứng là 3/3= 1 km. Nên nhớ rằng nếu như khoảng thời gian bạn đếm được từ khi thấy chớp và nghe tiếng sấm nhỏ hơn 30 giây, thì bạn đã nằm trong tầm ngắm của tia sét rồi và phải cẩn thận. Nếu thời gian này nhỏ hơn 20 giây thì phải di chuyển đến nơi an toàn hơn. Khi nghe thấy tiếng sấm đầu tiên bất kể là gì cũng cần phải thấy nguy hiểm đã đến. Sét có thể đánh cách xa nơi có mưa tới 15 đến 20 km.\nKhi trời sắp xảy ra dông, thì biện pháp tránh sét tốt nhất là nên về nhà. Chỗ an toàn để tránh sét là toà nhà, hay công sở có lắp đặt hệ thống chống sét (đơn giản nhất là cột thu lôi Franklin). Khi ở trong nhà thì nên đứng xa cửa sổ, cửa ra vào, các đồ dùng điện, tránh các chỗ ẩm ướt như buồng tắm, bể nước, vòi nước, không nên dùng điện thoại trừ trường hợp rất cần thiết. Nên rút phích cắm các thiết bị điện trước lúc có dông gần xảy ra. Với các đường dây điện thoại hay dây điện vì nối với lưới bên ngoài nên rất có thể bị ảnh hưởng sét đánh lan truyền. Nên tránh xa các dây này và các vật dùng điện với khoảng cách ít nhất là 1m. Vô tuyến nối với dây anten để ngoài trời cũng rất cần rút ra khi có dông.\nTrong trường hợp không kịp chạy tìm nơi ẩn náu an toàn, tuyệt đối không dùng cây cối làm chỗ trú mưa, tránh các khu vực cao hơn xung quanh, tránh xa các vật dụng kim loại như xe đạp, máy, hàng rào sắt...\nTìm chỗ khô ráo, nếu xung quanh có cây cao hơn thì nên tìm chỗ thấp, tìm vị trí cây thấp.\nNgười ở vị trí càng thấp càng tốt, tay ôm cổ. Phần tiếp xúc của người với mặt đất phải là ít nhất. Nhón chân, không được nằm xuống đất.\nĐứng xa các vật cao, ra ngay khỏi những nơi chứa nước như bãi biển, ao, hồ, mương. Các vùng đỉnh núi hay sườn núi nhô cao cũng rất nguy hiểm. Nếu ở trong rừng thì tìm những nơi cây thấp hơn và thưa để tránh.\nKhông đứng thành nhóm người gần nhau. Nếu như bạn cảm thấy tóc bị dựng đứng lên (như cảm giác điện giật nhẹ khi sờ tay trước mặt tivi) thì điều đó có nghĩa là có thể bị sét đánh bất cứ lúc nào. Lập tức cúi ngồi xuống và lấy tay che tai, không nằm xuống đất hay đặt tay lên đất.\nĐối với các vật có bề mặt kim loại như xe buýt, tàu hoả, ô tô... nếu không thò người ra ngoài và không chạm đến vỏ bọc thì ở bên trong những chỗ này là an toàn (do tính chất lồng Faraday). Ngược lại đối với các ô tô, tàu thủy để hở hay không có vỏ bọc kim loại thì lại nguy hiểm.\nSau khi nghe thấy tiếng sét 30 phút thì có thể trở lại làm việc bình thường.\nNgoài làm cháy, bỏng, sét gây tác hại hệ thần kinh, gãy xương, mất thính giác, thị giác, hay trí nhớ. Người bị sét đánh cần được cứu trợ ngay tức khắc. Nếu người bị sét đánh bị ngất (tim ngừng đập, tắt thở) phải thực hiện khẩn cấp các động tác hô hấp, trợ tim nhân tạo. Tìm những nơi bị gãy, đặc biệt cẩn thận không di dời những nạn nhân nếu nghi ngờ bị gãy cột sống. Để những nơi bị bỏng khô và tìm cách nhanh nhất để nhân viên y tế đến.\nĐứng gần vật cao, gần nước, gần cây, gần xe cộ, gần nhà, tại các nơi cánh đồng trống trải, anten, cột cao, gần những đường dây dẫn.\nThiết bị chống sét.\nCột chống sét thường được đặt trên mái nhà ở vị trí cao và được dây thoát sét dẫn thẳng xuống hệ thống tiếp đất.\nNghiên cứu khoa học về sét.\nCác thuộc tính.\nKhi cường độ điện trường trong vùng lân cận vượt quá giới hạn điện môi của không khí ẩm (vào khoảng 3 megavolt trên mét), những sự phóng điện trong không khí sẽ dẫn tới một \"cú sét đánh\", theo sau nó thường là những đợt phóng điện thứ cấp tương ứng tỉ lệ có phân nhánh trên cùng một đường đi. Các cơ chế khiến các điện tích nâng mức điện trường và tạo ra sét vẫn đang là một vấn đề được khoa học nghiên cứu kỹ lưỡng. Nghiên cứu mới đây xác nhận rằng sự đánh thủng điện môi có liên quan đến quá trình này. Rison 2016.\nTheo nghiên cứu, sự lưu thông của không khí ấm và ẩm ướt qua các điện trường mạnh có thể kích hoạt sự hình thành kênh dẫn và gây ra tia sét. Các hạt nước lỏng hoặc nước đá sau đó sẽ tích tụ điện tích, như đã quan sát thấy trong thí nghiệm với một máy phát tĩnh điện Van de Graaff.\nCác nhà nghiên cứu tại Đại học Florida đã đo được các tốc độ cuối của các kênh dẫn trên một chiều trong 10 lần tia chớp được quan sát thuộc khoảng từ 1.0×105 đến 1.4×106 m/s, trung bình là 4.4×105 m/s.\nHệ thống phát hiện và giám sát tia sét từ xa.\nThiết bị được phát minh sớm nhất để cảnh báo về một cơn bão sấm sét đang tiếp cận là chuông sét. Benjamin Franklin đã lắp đặt một thiết bị như vậy trong nhà của mình. Máy phát hiện sét này dựa trên một thiết bị dò tĩnh điện được gọi là \"chuông điện\" do Andrew Gordon phát minh năm 1742.\nSự phóng điện sét tạo ra một loạt các bức xạ điện từ, bao gồm nhiều xung thuộc tần số vô tuyến, có thể thu nhận được ở khoảng cách hàng nghìn kilomet từ nguồn của chúng dưới dạng các tín hiệu radio khí quyển và xung \"whistler\". Thời gian mà xung tín hiệu từ một lần phóng điện sét nhất định tới một số máy thu có thể được sử dụng để xác định vị trí nguồn phát, tức nơi có sét. Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ đã cho xây dựng một mạng lưới các máy dò sét như vậy trên toàn quốc, cho phép theo dõi các đợt sét trong thời gian thực trên khắp lục địa Hoa Kỳ. Ngoài ra, một hệ thống phát hiện sét toàn cầu phi chính phủ bao gồm hơn 500 trạm dò thuộc sở hữu và vận hành bởi các tình nguyện viên và những người đam mê cung cấp một bản đồ sét gần thời gian thực tại trang web blitzortung.org\nTầng điện ly của Trái Đất hoạt động giống như một ống dẫn sóng, trong đó nó \"bẫy\" các loại sóng điện từ VLF- và ELF. Các xung điện từ do sét đánh lan truyền đi xa trong ống dẫn sóng đó, và gây ra các tín hiệu rít (\"hiss\") mà các máy thu được. Ống dẫn sóng có khả năng phân tán, suy ra vậy có nghĩa là vận tốc nhóm của các sóng trên phụ thuộc vào tần số của chúng. Hiệu số của độ trễ thời gian nhóm của các xung sét ở các tần số lân cận tỉ lệ thuận với khoảng cách giữa nguồn phát và máy thu. Kết hợp với các phương pháp khác để tìm hướng của sóng điện từ, cho phép ta có thể xác định vị trí sét đánh ở khoảng cách lên tới 10,000 km từ nguồn gốc của chúng. Hơn nữa, tần số riêng của ống dẫn sóng điện ly Trái Đất, hiện tượng cộng hưởng Schumann ở khoảng tần số 7.5 Hz cũng được sử dụng để xác định hoạt động giông bão trên toàn cầu.\nNgoài việc phát hiện tia sét trên bằng các máy trên mặt đất, một số thiết bị vệ tinh cũng đã được chế tạo để quan sát sự phân bố sét. Chẳng hạn như, Đầu dò quang học thoáng qua (\"Optical Transient Detector\" − OTD), trên vệ tinh OrbView-1 được phóng vào ngày 3 tháng 4 năm 1995 và sau đó là Bộ cảm biến hình ảnh sét (\"Lightning Imaging Sensor\" − LIS) trên tàu vũ trụ TRMM được phóng vào ngày 28 tháng 11 năm 1997.\nTừ tính của sét.\nViệc phóng điện trong không khí của sét sẽ tạo ra từ trường. Các dòng điện cường độ cao sẽ tạo ra từ trường thoáng qua nhanh chóng nhưng cực kỳ mạnh. Bất thứ gì bị sét đánh trúng như đá, đất hoặc kim loại đều sẽ bị từ hóa vĩnh viễn. Hiện tượng này được biết đến như từ trường tàn dư của sét hay LIRM (\"lightning-induced remanent magnetism\"). Nó sẽ xảy ra trên những phần dễ dẫn điện nhất và không bị cản trở thường là theo chiều ngang gần bề mặt, tuy nhiên đôi khi nó lại đi theo chiều dọc như các vết nứt, thân quặng, hoặc mạch nước ngầm cung cấp một đường dẫn thấp điện trở.\nTừ trường tàn dư của sét gây ra có thể được nhìn thấy trên mặt đất và việc phân tích các mẫu vật bị từ hóa có thể kết luận sức mạnh của sét đã đánh vào nơi đó cũng như sét là nguồn gốc của các nam châm tự nhiên, và ta có thể đưa ra ước tính về dòng cực đại của sự phóng điện sét.\nNghiên cứu của Đại học Innsbruck đã phát hiện ra rằng những từ trường tạo ra bởi plasma, như sét có thể gây ảo giác trên những đối tượng thí nghiệm nằm trong phạm vi 200 m (660 ft) trong một cơn dông mạnh.\nPaleolightning.\nHoạt động sét trên Trái Đất không phải luôn luôn bất biến trong từng thời kỳ lịch sử của Trái Đất mà biến đổi theo sự phát triển của khí hậu và thời tiết chung trên Trái Đất. Nghiên cứu khoa học về tính chất cũng như tần suất sét trên Trái Đất qua các thời kỳ được gọi là \"paleolightning.\" Nó dựa trên việc phân tích các khoáng vật fulgurite sét để lại trong vỏ Trái Đất và các nghiên cứu của ngành Cổ từ học về sự biến đổi từ trường Trái Đất trong lịch sử. Người ta cho rằng hoạt động núi lửa trên Trái Đất nguyên thủy có thể dẫn tới hình thành sét, và sét là một trong những nguồn năng lượng chính đóng góp vào sự phát triển sơ khai của sự sống.\nGió mặt trời và tia vũ trụ.\nMột số tia vũ trụ mang năng lượng cao được tạo ra bởi các siêu tân tinh, cũng như các hạt điện tích từ gió mặt trời, khi đi vào bầu khí quyển và gây ion hóa không khí, có thể góp phần mở ra các con đường cho các kênh dẫn hình thành.\nSét và biến đổi khí hậu.\nDo tính xác định thấp của các mô hình khí hậu toàn cầu, việc khảo sát và biểu diễn sét trong những mô hình này là rất khó, phần nhiều là do không thể mô phỏng đúng sự đối lưu cục bộ và điều kiện hình thành băng trong đám mây, là những yếu tố cơ bản để hình thành sét. Nghiên cứu từ chương trình Khí hậu Tương lai cho Châu Phi cho thấy việc sử dụng một mô hình tính toán đến đối lưu tại khu vực châu Phi có thể nắm bắt chính xác hơn các cơn giông đối lưu và sự phân bố của các hạt tinh thể băng. Nghiên cứu này còn chỉ ra rằng với sự thay đổi khí hậu trong tương lai, tổng lượng sét sẽ có thể tăng lên chỉ một chút. Điều này là do tổng số các ngày có sét mỗi năm có xu hướng giảm, trong khi lượng băng trong mây nhiều hơn và đối lưu mạnh hơn dẫn đến nhiều tia sét sẽ xảy ra hơn vào những ngày có sét.\nTrong văn hóa, tôn giáo.\nSét trong các nền văn hóa, tôn giáo khác nhau được xem là một phần của thần linh hoặc chính nó là thần linh.\nHình ảnh tia sét cũng được dùng trong nhiều phù hiệu, logo và biểu trưng của một số đảng phái chính trị, tổ chức nhằm thể hiện quyền uy. Một số ví dụ bao gồm: Đảng Hành động Nhân dân Singapore, Hiệp hội các đảng Phát xít của Anh Quốc vào những năm 1930, Đảng Quyền lực các bang Quốc gia của Hoa Kỳ những năm 1950. Tên của con ngựa đua thuần chủng nổi tiếng nhất của Úc, \"Phar Lap\", có nguồn gốc từ một từ trong tiếng Zhuang và tiếng Thái chỉ tia chớp. Tổ chức vũ trang Schutzstaffel của Đức Quốc Xã cũng dùng biểu tượng tia sét trong logo của họ, hay còn gọi là biểu tượng Sig. Một chiến thuật được quân đội Đức sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai mang tên là Blitzkrieg, nghĩa là \"chiến tranh \"chớp\" nhoáng\". Một số họa sĩ cận đại và đương đại cũng đã có những bức vẽ nổi tiếng về sét.\nRoy Sullivan là người đang giữ kỷ lục Thế giới Guinness vì đã sống sót sau 7 lần bị sét đánh trong vòng 35 năm.\nTrong tiếng Anh và một số ngôn ngữ khác có một số thành ngữ liên quan đến tia sét. Ví dụ: \"a bolt from the blue\" với nghĩa đen là \"sét từ bầu trời xanh\" cũng được dùng như một thành ngữ để chỉ một điều bất ngờ, chưa được lường trước. Hay thành ngữ \"tình yêu sét đánh\" có nguồn gốc từ thành ngữ tương ứng trong tiếng Pháp và tiếng Ý: lần lượt là các cụm từ \"coup de foudre\" và \"colpo di fulmine\", nó có nghĩa đen là \"sét đánh\".\nNgành khoa học nghiên cứu về sét có tên là \"fulminology,\" và chứng sợ sấm chớp được gọi là \"astraphobia\".\nMột số nhân vật trong nhiều tác phẩm văn học khoa học viễn tưởng, phim ảnh sở hữu năng lực tạo ra và điều khiển tia sét, điển hình là trong các phim và truyện tranh của hãng Marvel. Sét và bão tố cũng là một trong các hình tượng chính trong một số thể loại ca khúc nhạc rock.\nTia sét thường được kí hiệu phổ biến trong văn hóa đại chúng là một đường zigzag, nó thường được dùng như một biểu tượng cho tốc độ và sức mạnh. Biểu tượng tia sét được sử dụng để thể hiện khả năng liên lạc tức thời của điện báo và radio.\nNhững nhiếp ảnh gia chuyên chụp ảnh dông bão và tia sét thường được gọi là những \"kẻ săn bão\".\nKí hiệu của tia sét trong Unicode là ☇ U+2607.\nTham khảo.\nTham khảo sách:\nLiên kết ngoài.\nCác liên kết web\nJets, sprites & elves" ]
nhit - kh - ma - my - xoy - frng - lu - st - front - tia
1
false
Chiến tranh thế giới thứ hai (còn được nhắc đến với các tên gọi Đệ nhị thế chiến, Thế chiến II hay Đại chiến thế giới lần thứ hai) là một cuộc chiến tranh thế giới bắt đầu từ khoảng năm 1939 và chấm dứt vào năm 1945. Cuộc chiến có sự tham gia của đại đa số các quốc gia trên thế giới — bao gồm tất cả các cường quốc — tạo thành hai liên minh quân sự đối lập: Đồng Minh và Phe Trục. Trong diện mạo một cuộc chiến tranh toàn diện, Thế chiến II có sự tham gia trực tiếp của hơn 100 triệu nhân sự từ hơn 30 quốc gia. Các bên tham chiến chính đã dồn toàn bộ nguồn lực kinh tế, công nghiệp và khoa học cho nỗ lực tham chiến, làm mờ đi ranh giới giữa nguồn lực dân sự và quân sự. Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại, gây nên cái chết của 70 đến 85 triệu người, với số lượng thường dân tử vong nhiều hơn quân nhân. Hàng chục triệu người đã phải bỏ mạng trong các vụ thảm sát, diệt chủng (trong đó có Holocaust), chết vì thiếu lương thực hay vì bệnh tật. Máy bay đóng vai trò quan trọng đối với tiến trình cuộc chiến, bao gồm ném bom chiến lược vào các trung tâm dân cư, và đối với sự phát triển vũ khí hạt nhân cũng như hai lần duy nhất sử dụng loại vũ khí này trong chiến tranh. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng chiến tranh thế giới thứ hai thường được coi là bắt đầu khi Đức phát động cuộc xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, tiếp nối với việc cả Vương quốc Anh lẫn Pháp tuyên chiến với Đức 2 ngày sau đó. Kể từ cuối năm 1939 cho tới đầu năm 1941, thông qua một loạt chiến dịch quân sự và hiệp ước, Đức đã chinh phục hoặc kiểm soát phần lớn lục địa châu Âu, đồng thời thành lập liên minh phe Trục với Ý và Nhật Bản cũng như với một số nước khác sau đó. Theo Hiệp ước Molotov – Ribbentrop được ký kết vào tháng 8 năm 1939, Đức và Liên Xô phân chia và sáp nhập lãnh thổ các nước láng giềng châu Âu bao gồm Ba Lan, Phần Lan, Romania và các nước Baltic. Sau khi các chiến dịch tại Bắc Phi và Đông Phi bắt đầu và Pháp thất thủ giữa năm 1940, chiến tranh vẫn tiếp diễn chủ yếu giữa các cường quốc Trục châu Âu và Đế quốc Anh, với chiến sự tại Balkan, Trận không chiến nước Anh (Blitz) và Trận chiến Đại Tây Dương. Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, Đức dẫn đầu các nước Phe Trục châu Âu tiến hành xâm lược Liên Xô, mở ra Mặt trận phía Đông. Là chiến trường trên bộ lớn nhất trong lịch sử, cuộc chiến với Liên Xô đã khiến quân đội phe Trục, mà chủ yếu là "Wehrmacht" của Đức, sa lầy trong một cuộc chiến tiêu hao. Với tham vọng thống trị châu Á và Thái Bình Dương, Nhật Bản đã gây chiến với Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1937. Vào tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tiến hành tấn công gần như cùng lúc các lãnh thổ của Hoa Kỳ và Anh tại Đông Nam Á và Trung Thái Bình Dương, bao gồm cả cuộc tấn công nhằm vào hạm đội Mỹ đóng tại Trân Châu Cảng. Sau khi Hoa Kỳ lẫn Anh tuyên chiến với Nhật Bản, các nước phe Trục Châu Âu tuyên chiến với Hoa Kỳ theo cam kết trong hiệp ước liên minh. Nhật Bản nhanh chóng làm chủ phần lớn Tây Thái Bình Dương, nhưng bước tiến của họ đã bị chặn đứng sau khi để thua trận Midway quan trọng vào năm 1942. Không lâu sau đó, Đức và Ý bị đánh bật khỏi Bắc Phi và phải hứng chịu thất bại quyết định tại Stalingrad trước Liên Xô. Những thất bại then chốt trong năm 1943 – bao gồm một loạt thất bại của Đức trên Mặt trận phía Đông, cuộc xâm lược đảo Sicilia và lục địa Ý của Đồng Minh, cũng như cuộc tấn công của Đồng Minh ở Thái Bình Dương – đã khiến phe Trục đánh mất thế chủ động ​​và buộc phải rút lui chiến lược trên mọi mặt trận. Năm 1944, Đồng Minh phương Tây xâm lược nước Pháp do Đức chiếm đóng, trong khi Liên Xô và đang trên đường tiến vào lãnh thổ Đức và các quốc gia Phe Trục khác. Trong suốt hai năm 1944 và 1945, chiến sự dần đảo chiều trên lục địa châu Á, trong khi quân Đồng Minh làm tê liệt lực lượng Hải quân Nhật Bản và chiếm đóng đảo quan trọng ở phía Tây Thái Bình Dương. Sau khi giải phóng các vùng lãnh thổ do Đức chiếm đóng, Đồng Minh phương Tây và Liên Xô tiến hành xâm lược nước Đức. Chiến tranh tại châu Âu kết thúc sau cái chết của Adolf Hitler, chỉ ít lâu trước khi Berlin thất thủ vào tay quân đội Liên Xô và Đức đầu hàng vô điều kiện vào ngày 8 tháng 5 năm 1945. Sau khi Tuyên bố Potsdam của Đồng Minh vào ngày 26 tháng 7 năm 1945 bị phía Nhật Bản khước từ, Hoa Kỳ đã thả hai quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hiroshima vào ngày 6 và Nagasaki vào ngày 9 tháng 8 năm 1945. Đối mặt trước một cuộc xâm lược sắp xảy ra vào quần đảo Nhật Bản và việc Liên Xô tham chiến, tiến hành xâm lược Mãn Châu vào ngày 9 tháng 8, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, ấn định chiến thắng toàn diện trên chiến trường Châu Á cho Phe Đồng Minh. Sau chiến tranh, cả Đức lẫn Nhật Bản bị chiếm đóng. Các tòa án tội ác chiến tranh được mở nhằm xét xử các nhà lãnh đạo Đức và Nhật Bản. Bất chấp tội ác chiến tranh được ghi nhận đầy đủ (chủ yếu gây ra ở Hy Lạp và Nam Tư), phần lớn các nhà lãnh đạo và tướng lĩnh Ý vẫn được ân xá nhờ vào các hoạt động ngoại giao. Chiến tranh thế giới thứ hai thay đổi cục diện chính trị lẫn cấu trúc xã hội toàn cầu. Tổ chức Liên Hiệp Quốc (LHQ) được thành lập nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế và ngăn chặn các cuộc xung đột trong tương lai. Các cường quốc chiến thắng, bao gồm Trung Quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Liên Xô và Hoa Kỳ nổi lên như hai siêu cường đối trọng nhau, tạo tiền đề cho Chiến tranh Lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ. Trong bối cảnh châu Âu bị tàn phá, ảnh hưởng của các cường quốc suy yếu, khởi đầu quá trình phi thực dân hóa ở châu Phi và châu Á. Hầu hết các quốc gia có ngành công nghiệp bị thiệt hại đều hướng tới việc phục hồi và mở rộng kinh tế. Sự hội nhập chính trị, đặc biệt là ở châu Âu, vốn bắt đầu như một nỗ lực ngăn chặn các hành động thù địch trong tương lai đã chấm dứt những mối thù địch trước chiến tranh và rèn luyện ý thức về bản sắc chung. Trình tự thời gian. Thời điểm bắt đầu cuộc chiến tại Châu Âu thường được xem là khi quân Đức tiến hành xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939 và khi Vương quốc Anh và Pháp tuyên chiến với Đức hai ngày sau đó. Đối với chiến tranh Thái Bình Dương, giới học giả chưa có sự thống nhất trong việc tính ngày bắt đầu cuộc chiến. Có người tán thành thời điểm Nhật Bản xâm lược Trung Quốc vào ngày 7 tháng 7 năm 1937 trong khi một số người khác lại coi sự kiện Nhật Bản xâm lược Mãn Châu vào ngày 19 tháng 9 năm 1931 mới là ngày khởi đầu cuộc chiến. Một số học giả khác tán thành với ý kiến của sử gia người Anh A. J. P. Taylor, cho rằng Chiến tranh Trung–Nhật cùng với chiến tranh ở châu Âu và các thuộc địa xảy ra song song cho trước khi hợp thành một cuộc chiến duy nhất vào năm 1941. Bài viết này của Wikipedia sử dụng cách tính ngày truyền thống. Một số thời điểm khác đôi khi cũng được sử dụng làm ngày bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm cuộc xâm lược Abyssinia của Ý vào ngày 3 tháng 10 năm 1935. Nhà sử học người Anh Antony Beevor xem trận Khalkhin Gol giữa Nhật Bản và Liên Xô từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1939 là ngày khởi đầu của Thế chiến thứ hai. Tương tự như ngày bắt đầu, ngày kết thúc chính xác của cuộc chiến cũng không được các học giả thống nhất rộng rãi. Một số người chấp nhận ngày 14 tháng 8 năm 1945 khi hiệp định đình chiến giữa Nhật Bản và Đồng Minh được ký kết (Ngày V-J) là ngày chiến tranh kết thúc thay vì ngày 2 tháng 9 năm 1945 khi Nhật Bản chính thức đầu hàng, chấm dứt chiến tranh tại châu Á. Năm 1951, một hiệp ước hòa bình giữa Nhật Bản và Đồng Minh được ký kết. Năm 1990, một hiệp ước liên quan đến tương lai của Đức cho phép hai phần Đông và Tây của nước này thống nhất đã được thông qua, giải quyết hầu hết các vấn đề tồn đọng sau Thế chiến II. Cho đến khi Liên Xô giải tán, giữa hai nước Xô – Nhật không có hiệp ước hòa bình chính thức nào được ký kết. Bối cảnh. Châu Âu. Nguồn cơn của chiến tranh thế giới thứ hai đến từ những nguyên do khác nhau ở những khu vực địa lý khác nhau. Tại châu Âu, Chiến tranh thế giới thứ hai thường được xem là sự tiếp nối của Chiến tranh thế giới thứ nhất, vốn đã làm thay đổi hoàn toàn bản đồ chính trị châu Âu với sự thất bại của các cường quốc Liên minh Trung tâm gồm Áo-Hung, Đức, Bulgaria và Đế quốc Ottoman và việc người Bolshevik lên nắm quyền ở Nga và thành lập nên Liên bang Xô Viết vào năm 1917. Các Đồng Minh giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất như Pháp, Bỉ, Ý, Romania và Hy Lạp, đều giành thêm đất đai. Nhiều quốc gia dân tộc mới được thành lập sau sự sụp đổ của Áo-Hung, Đế quốc Ottoman và Đế quốc Nga. Để ngăn chặn một cuộc chiến tranh thế giới mới trong tương lai, Hội Quốc Liên được thành lập trong Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919. Hội Quốc Liên có nhiệm vụ chủ yếu là duy trì hòa bình thế giới với những mục tiêu chính bao gồm ngăn ngừa chiến tranh thông qua an ninh tập thể và giải trừ quân bị, và giải quyết những tranh chấp quốc tế thông qua đàm phán và trọng tài. Bất chấp xu hướng chuộng hòa bình phát triển mạnh mẽ sau Thế chiến I, chủ nghĩa báo thù dân tộc và chủ nghĩa xét lại đã nổi lên tại một số quốc gia châu Âu trong cùng thời kỳ. Xu hướng này đặc biệt phát triển mạnh mẽ tại Đức bởi những tổn thất đáng kể về lãnh thổ, thuộc địa và tài chính mà Hòa ước Versailles áp đặt. Đức mất khoảng 13% lãnh thổ quê nhà và toàn bộ thuộc địa ở hải ngoại. Đức bị ngăn cấm sáp nhập các quốc gia khác, bị buộc phải trả những khoản bồi thường khổng lồ. Quân đội bị giới hạn về quy mô và khả năng chiến đấu. Đế quốc Đức bị giải thể trong Cách mạng Đức 1918–1919. Một chính phủ dân chủ, sử gọi là Cộng hòa Weimar, được thành lập. Thời kỳ giữa hai cuộc chiến chứng kiến sự xung đột giữa những người ủng hộ nền cộng hòa non trẻ và những người chống đối không nhân nhượng ở cả cánh hữu lẫn cánh tả. Ý với tư cách là một đồng minh của phe Entente đã giành được một số vùng lãnh thổ sau chiến tranh. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa dân tộc Ý đã tức giận vì những lời hứa của Vương quốc Anh và Pháp khi thuyết phục nước này tham chiến đã không được thực hiện. Từ năm 1922 đến năm 1925, phong trào Phát xít do Benito Mussolini lãnh đạo đã lên cầm quyền tại Ý, áp dụng chủ nghĩa dân tộc, chế độ toàn trị và cộng tác giai cấp, xóa bỏ nền dân chủ đại nghị, đàn áp các lực lượng xã hội chủ nghĩa, cánh tả và tự do, đồng thời theo đuổi chính sách đối ngoại bành trướng hung hãn nhằm vào đưa Ý trở thành một cường quốc trên thế giới và hứa hẹn tạo dựng một "Đế chế La Mã Mới". Adolf Hitler, sau một nỗ lực bất thành nhằm lật đổ chính phủ Đức vào năm 1923, đã trở thành Thủ tướng Đức vào năm 1933. Ông ta bãi bỏ chế độ dân chủ, tham vọng sửa đổi trật tự thế giới một cách triệt để và mang động cơ chủng tộc. Nước Đức nhanh chóng bắt đầu một chiến dịch tái vũ trang quy mô lớn. Trong khi đó, vì muốn đảm bảo liên minh, Pháp để cho Ý tùy ý hành động ở Ethiopia, quốc gia mà Ý muốn biến thành thuộc địa của họ. Tình hình trở nên trầm trọng hơn vào đầu năm 1935 khi Lãnh thổ lưu vực Saar được thống nhất hợp pháp với Đức cùng việc Hitler đẩy nhanh tiến độ tái vũ trang và áp dụng chế độ cưỡng bách tòng quân, qua đó vi phạm Hòa ước Versailles. Vương quốc Anh, Pháp và Ý thành lập Mặt trận Stresa vào tháng 4 năm 1935 nhằm kiềm chế Đức, một bước quan trọng đối với toàn cầu hóa quân sự. Nhưng chỉ khoảng 2 tháng sau, Vương quốc Anh đã cùng nước Đức đàm phán thỏa thuận hải quân độc lập, nới lỏng các hạn chế trước đó. Lo ngại trước những tham vọng lãnh thổ của Đức tại Đông Âu, Liên Xô đã cùng với Pháp soạn thảo một hiệp ước tương trợ. Tuy nhiên, trước khi có hiệu lực, hiệp ước Pháp–Xô bắt buộc phải được thông qua bộ máy hành chính của Hội Quốc Liên. Về phía Hoa Kỳ, do lo ngại về các diễn biến tại Châu Âu và Châu Á, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Trung lập vào tháng 8 cùng năm. Hitler thách thức hiệp ước Versailles và Locarno bằng đưa quân vào vùng phi quân sự hóa Rhineland trong tháng 3 năm 1936. Nhờ vào Chính sách nhân nhượng của các nước Tây Âu, Hitler gần như không vấp phải sự phản đối nào. Tháng 10 năm 1936, Đức và Ý thành lập Trục Roma – Berlin. Một tháng sau, Đức và Nhật Bản ký Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản với mục tiêu ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa Cộng sản. Một năm sau thì Ý cũng ký hiệp ước này. Châu Á. Vào giữa thập niên 1920, Trung Quốc Quốc dân Đảng (KMT) phát động chiến dịch Bắc phạt với mục tiêu thống nhất Trung Quốc vốn đã bị chia cắt sau thời kỳ Cách mạng Tân Hợi năm 1911, đồng thời tiêu diệt quyền lực của các quân phiệt cát cứ. Tuy chiến dịch kết thúc thành công và Trung Quốc đã được thống nhất, nhưng mối quan hệ căng thẳng với các đồng minh cũ khiến chính phủ của Tưởng Giới Thạch nhanh chóng rơi vào một cuộc nội chiến với Đảng Cộng sản Trung Quốc và các quân phiệt địa phương thuộc Quốc dân Đảng. Tại Nhật Bản, sự thắng thế của một số tướng lãnh quân phiệt đã khiến nước này chủ trương giải quyết các vấn đề quốc gia bằng chính phủ độc tài và chính sách xâm lược. Nhật Bản thiếu các nguồn tài nguyên một cách trầm trọng, họ buộc phải nhập khẩu các nguyên liệu như sắt, dầu mỏ và than đá vì thiếu các tài nguyên thiên nhiên ở trong nước để duy trì tăng trưởng trong ngành công nghiệp. Nhật Bản thể hiện tham vọng sáp nhập Trung Quốc và các thuộc địa lân cận vào Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á để thoả mãn nhu cầu tài nguyên mà đảo quốc nhỏ bé này không thể tự đáp ứng được. Người Nhật xem Trung Quốc là bước đầu tiên trong tham vọng bá chủ châu Á, dàn dựng Sự kiện Phụng Thiên để làm cái cớ tiến quân vào Mãn Châu, thiết lập nhà nước Mãn Châu Quốc bù nhìn. Trung Quốc kêu gọi Hội Quốc Liên yêu cầu Nhật Bản dừng ngay cuộc xâm lược Mãn Châu. Sau khi bị lên án vì những hoạt động quân sự tại Mãn Châu, Nhật Bản đáp trả bằng cách rút khỏi tổ chức này. Quân đội hai nước nhanh chóng đụng vũ trang tại Thượng Hải, Nhiệt Hà và Hà Bắc. Chiến sự vẫn tiếp diễn cho đến khi Thỏa ước Đường Cô được ký kết vào năm 1933. Tuy đình chiến, các lực lượng tình nguyện Trung Quốc vẫn tiếp tục hoạt động kháng Nhật ở Mãn Châu, Sát Cáp Nhĩ và Tuy Viễn. Sau Sự kiện Tây An năm 1936, hai phía Quốc dân Đảng và Cộng sản Đảng chấp nhận ngừng chiến để thành lập một mặt trận thống nhất với mục tiêu đánh đuổi người Nhật ra khỏi Trung Quốc. Diễn biến cuộc chiến. Chiến tranh bùng nổ tại Châu Âu (1939–40). Ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức Quốc Xã xâm lược Ba Lan sau khi dàn dựng một số vụ cờ giả, bao gồm vụ lính Ba Lan phóng hỏa đốt trụ sở cơ quan phát thanh Đức tại Gleiwitz. Cuộc tấn công đầu tiên của quân Đức trong cuộc chiến là nhằm vào hệ thống phòng thủ của Ba Lan tại Westerplatte. Trước hành động quân sự của Đức, Vương quốc Anh gửi tối hậu thư yêu cầu Đức dừng ngay cuộc tấn công. Sau khi tối hậu thư bị phía Đức bác bỏ, Pháp và Anh chính thức tuyên chiến vào ngày 3 tháng 9, kế đến là Úc, New Zealand, Nam Phi và Canada. Tuy tham chiến, phe Đồng Minh không làm gì nhiều để giúp Ba Lan. Người Pháp chỉ thực hiện duy nhất một cuộc thăm dò thận trọng vào vùng Saarland. Đồng Minh phương Tây bắt đầu một cuộc phong tỏa hải quân đối với Đức, nhằm phá hủy nền kinh tế và nỗ lực gây chiến của đất nước này. Đức đáp trả bằng cách phát động chiến tranh bằng tàu ngầm nhằm vào tàu buôn và tàu chiến của Đồng Minh. Chiến sự nhanh chóng leo thang thành Trận chiến Đại Tây Dương. Ngày 8 tháng 9, quân đội Đức tiến đến vùng ngoại ô Warszawa. Đợt phản công của Ba Lan ở phía tây tuy cầm chân người Đức trong vài ngày, nhưng họ nhanh chóng bị "Wehrmacht" tấn công và bao vây. Tàn quân Ba Lan đột kích vòng vây để quay về cố thủ Warszawa, thành phố khi ấy đang bị vây rất chặt. Ngày 17 tháng 9 năm 1939, sau khi ký hiệp định đình chiến với Nhật Bản, Liên Xô lấy cớ bảo vệ dân tộc Ukraina và Belarus xâm lược miền đông Ba Lan, lập luận rằng nhà nước Ba Lan đã sụp đổ trước cuộc tấn công của người Đức và không còn có khả năng đảm bảo an ninh cho công dân của mình nữa. Ngày 27 tháng 9, các đơn vị đồn trú Warszawa đầu hàng quân Đức. Ngày 6 tháng 10, đơn vị tác chiến lớn cuối cùng của Ba Lan đầu hàng. Bất chấp thất bại về mặt quân sự, chính phủ Ba Lan đã quyết định không đầu hàng và hình thành chính phủ lưu vong. Tại Ba Lan bị chiếm đóng, một bộ máy nhà nước vẫn hoạt động ngầm. Một lượng lớn quân nhân Ba Lan di tản sang Romania và các nước Baltic. Nhiều người trong số họ về sau tiếp tục chiến đấu chống phe Trục trên các mặt trận khác. Đức sáp nhập miền tây và chiếm đóng miền trung Ba Lan, Liên Xô sáp nhập miền đông, một phần nhỏ lãnh thổ Ba Lan được chuyển giao cho Litva và Slovakia. Ngày 6 tháng 10, Hitler bày tỏ mong muốn đàm phán hòa bình công khai với Vương quốc Anh và Pháp nhưng nhấn mạnh rằng tương lai của nhà nước Ba Lan sẽ do Đức và Liên Xô quyết định. Đề xuất bị từ chối, Hitler ra lệnh phát động tấn công Pháp ngay lập tức. Tuy nhiên, chiến dịch bị hoãn lại cho đến mùa xuân năm 1940 do điều kiện thời tiết xấu. Liên Xô tác động lên các nước Baltic – Estonia, Latvia và Litva, vốn nằm trong "vùng ảnh hưởng" của Liên Xô theo hiệp ước Molotov–Ribbentrop – khiến họ ký "hiệp ước tương trợ" cho phép quân đội Liên Xô đóng quân trong nước. Ngay sau đó, Liên Xô đã di chuyển một lượng lớn binh sĩ tới các nước này. Vì Phần Lan khước từ việc ký một hiệp ước tương tự và từ chối nhượng một phần lãnh thổ của mình, Liên Xô đã tiến hành xâm lược nước này vào tháng 11 năm 1939. Đáp trả, Liên Xô bị trục xuất khỏi Hội Quốc Liên. Mặc dù sở hữu ưu thế vượt trội về quân số, nhưng Liên Xô chỉ đạt những thành công cực kỳ khiêm tốn về mặt quân sự. Cuộc chiến tranh Phần Lan – Liên Xô kết thúc vào tháng 3 năm 1940 khi Phần Lan cắt khu vực Karelia cho Liên Xô. Vào tháng 6 năm 1940, Liên Xô dùng vũ lực sáp nhập Estonia, Latvia và Litva, cũng như Bessarabia, miền bắc Bukovina và Hertza, vốn là các khu vực tranh chấp với Romania. Cũng trong lúc này, khi mối quan hệ hợp tác chính trị và kinh tế giữa Đức Quốc Xã – Liên Xô dần đổ vỡ, cả hai quốc gia bắt đầu chuẩn bị cho chiến tranh. Tây Âu (1940–41). Tháng 4 năm 1940, Đức mở Chiến dịch Weserübung xâm lược Đan Mạch và Na Uy nhằm bảo vệ con đường vận chuyển quặng sắt từ Thụy Điển tới Đức mà Đồng Minh đang cố gắng cắt đứt. Đan Mạch nhanh chóng đầu hàng chỉ sau vài giờ chiến đấu, trong khi Na Uy bị chinh phục trong vòng hai tháng bất chấp sự hỗ trợ của Đồng Minh. Thất bại trong việc cứu Na Uy dẫn đến sự bất mãn trong dân chúng Anh khiến cho Thủ tướng Anh Neville Chamberlain bị thay thế bởi Winston Churchill vào ngày 10 tháng 5 năm 1940. Cùng ngày, Đức mở màn chiến dịch tấn công nước Pháp. Để đi vòng qua Phòng tuyến Maginot kiên cố ở biên giới Pháp–Đức, Đức đã hướng cuộc tấn công vào các quốc gia trung lập như Bỉ, Hà Lan và Luxembourg. Quân Đức đã di chuyển xuyên qua khu vực rừng Ardennes, vốn được quân Đồng Minh xem như một hàng rào tự nhiên không thể bị lực lượng thiết giáp chọc thủng. Bằng cách áp dụng thành công học thuyết chiến tranh chớp nhoáng mới, "Wehrmacht" nhanh chóng tiến tới eo biển Manche. Bị đánh bọc sườn, phần lớn quân đội Đồng Minh bị bao vây tại biên giới Pháp–Bỉ gần Lille. Vương quốc Anh tuy phải vứt lại gần như tất cả thiết bị của họ nhưng đã có thể di tản một lượng lớn binh sĩ khỏi lục địa châu Âu vào đầu tháng 6. Vào ngày 10 tháng 6, Ý xâm lược Pháp, tuyên chiến với cả Pháp lẫn Vương quốc Anh. Quân Đức hướng về phía nam tấn công quân Pháp nay đã suy yếu. Paris thất thủ vào ngày 14 tháng 6. Tám ngày sau, Pháp ký hiệp định đình chiến với Đức. Nước Pháp được chia thành các khu vực chiếm đóng của Đức và Ý và một nhà nước tàn tồn dưới chế độ Vichy. Chính phủ này dù trên danh nghĩa trung lập, nhưng trên thực tế lại liên kết với Đức. Để tránh việc hạm đội của Pháp bị Đức trưng dụng để tấn công Anh, ngày 3 tháng 7 năm 1940, Anh đã tấn công hạm đội Pháp neo đậu tại cảng Mers-el-Kebir ở Algérie, đánh chìm nhiều tàu và khiến hàng ngàn người thương vong. Trận không chiến nước Anh mở màn vào đầu tháng 7 khi "Luftwaffe" thực hiện một loạt các cuộc oanh tạc nhằm vào tàu bè và bến cảng của Anh. Chiến dịch chiếm kiểm soát trên không của Đức bắt đầu vào tháng 8. Tuy nhiên, do không thể đánh bại được Bộ Tư lệnh Tiêm kích cơ Không quân Hoàng gia Anh, Đức buộc phải trì hoãn vô thời hạn cuộc xâm lược Anh mang mật danh Chiến dịch Sư tử biển đã được lên kế hoạch từ trước. Đức tăng cường các cuộc không kích ban đêm nhằm vào London và các thành phố trọng điểm khác. Do không gây tác động đáng kể nỗ lực tham chiến của người Anh, chiến dịch oanh tạc của "Luftwaffe" gần như kết thúc hoàn toàn vào tháng 5 năm 1941. Sử dụng các cảng mới chiếm được của Pháp, Hải quân Đức đã thành công trong việc chống lại Hải quân Hoàng gia đang phải hoạt động quá mức. Người Đức sử dụng U-boat để tấn công đội tàu của Anh ở Đại Tây Dương. Hạm đội Hoàng gia Anh ghi nhận một chiến thắng quan trọng vào ngày 27 tháng 5 năm 1941 khi đánh chìm "thiết giáp hạm Bismarck" của Đức. Vào tháng 11 năm 1939, Hoa Kỳ thực hiện các biện pháp nhằm hỗ trợ Trung Quốc và các Đồng Minh phương Tây. Họ cũng sửa đổi Đạo luật Trung lập để cho phép các đơn hàng "cash and carry" của Đồng Minh. Năm 1940, sau khi Đức chiếm được Paris, quy mô của Hải quân Hoa Kỳ đã phát triển đáng kể. Tháng 9 năm đó, Hoa Kỳ đã đồng ý thêm việc mua bán các tàu khu trục đổi bằng các căn cứ của Anh. Tuy nhiên, tính tới năm 1941, phần lớn công chúng Mỹ vẫn tiếp tục phản đối bất kỳ sự can thiệp quân sự trực tiếp nào vào cuộc chiến. Tháng 12 năm 1940, Roosevelt cáo buộc Hitler lên kế hoạch chinh phục thế giới và bác bỏ mọi cuộc đàm phán là vô ích. Ông kêu gọi Hoa Kỳ trở thành một "kho vũ khí của nền dân chủ", thúc đẩy các chương trình viện trợ cho vay-cho thuê (lend-lease) nhằm hỗ trợ nước Anh tiếp tục cuộc chiến. Lúc bấy giờ, Hoa Kỳ đã bắt đầu lập kế hoạch chiến lược để chuẩn bị cho một cuộc tấn công toàn diện nhằm vào Đức. Cuối tháng 9 năm 1940, ba nước Nhật Bản, Ý và Đức ký kết Hiệp ước Ba bên, chính thức trở thành Phe Trục. Hiệp ước Ba bên quy định rằng nếu bất kỳ quốc gia nào, ngoại trừ Liên Xô, tấn công bất kỳ quốc gia Phe Trục nào, các nước còn lại sẽ phải tham chiến. Phe Trục mở rộng vào tháng 11 năm 1940 khi Hungary, Slovakia và Romania gia nhập. Romania và Hungary về sau đã có những đóng góp to lớn trong cuộc chiến tranh chống lại Liên Xô của phe Trục. Đối với trường hợp của Romania, một trong những lý do khiến họ tham chiến là nhằm chiếm lại những lãnh thổ đã phải nhượng cho Liên Xô. Địa Trung Hải. Đầu tháng 6 năm 1940, Không quân Hoàng gia Ý tấn công và bao vây đảo Malta của Anh. Kể từ cuối hè cho đến đầu mùa thu, Ý chinh phục Somaliland thuộc Anh và đang tiến hành xâm lược Ai Cập thuộc Anh. Sang tháng 10, Ý xua quân xâm lược Hy Lạp nhưng bị đẩy lui và phải hứng chịu thương vong nặng nề. Chiến dịch Hy Lạp của Ý kết thúc trong vòng vài tháng với những thay đổi nhỏ về lãnh thổ. Để hỗ trợ Ý, Đức triển khai tấn công vào vùng Balkan nhằm ngăn chặn người Anh giành được chỗ đứng tại đây vì họ có thể sẽ trở thành mối đe dọa tiềm tàng đối với các mỏ dầu tại Romania. Nếu phe Trục chiếm được Balkan thì họ có thể sử dụng nó làm bàn đạp để tấn công lãnh địa của người Anh tại Địa Trung Hải. Vào tháng 12 năm 1940, quân đội Đế quốc Anh phát động phản công quân đội Ý ở Ai Cập và Đông Phi thuộc Ý và đạt hiệu quả cao. Đến đầu tháng 2 năm 1941, Ý đánh mất quyền kiểm soát miền đông Libya và một lượng lớn binh sĩ bị bắt làm tù binh. Hải quân Ý cũng phải hứng chịu những thất bại nặng nề khi ba thiết giáp hạm của Ý đã bị Hải quân Hoàng gia Anh loại khỏi biên chế bằng một cuộc tấn công bằng tàu sân bay nhằm vào căn cứ hải quân tại Taranto. Người Anh tiếp đó đã vô hiệu hóa một số tàu chiến khác trong trận Mũi Matapan. Thất bại của Ý và nguy cơ phe Trục bị đánh bật khỏi toàn bộ Châu Phi buộc Đức phải cử một lực lượng viễn chinh đến Bắc Phi trợ chiến. Cuối tháng 3 năm 1941, "Afrika Korps" dưới sự chỉ huy của Erwin Rommel đã phát động phản công đánh lui các lực lượng của Khối thịnh vượng chung. Trong vòng chưa đầy một tháng, quân đội phe Trục đã tiến đến phía tây Ai Cập và bao vây cảng Tobruk. Cuối tháng 3 năm 1941, Bulgaria và Nam Tư đã ký Hiệp ước Ba bên. Tuy nhiên, chính phủ thân Đức của Nam Tư đã bị lật đổ hai ngày sau đó bởi phe dân tộc chủ nghĩa thân Anh. Đức đáp trả bằng cách xâm lược cùng lúc cả Nam Tư lẫn Hy Lạp. Chiến sự bắt đầu vào ngày 6 tháng 4 năm 1941 và khi chưa hết tháng, cả hai nước này đã phải đầu hàng. Cuộc tấn công bằng đường không vào đảo Crete của Hy Lạp vào cuối tháng 5 đã hoàn thành chiến dịch Balkan của Đức. Dù phe Trục dành thắng lợi chóng vánh, nhưng người dân Nam Tư nổi dậy, tiến hành kháng chiến quy mô lớn chống lại sự chiếm đóng của phe Trục. Cuộc kháng chiến Nam Tư còn kéo dài cho đến khi chiến tranh kết thúc. Tại Trung Đông vào tháng 5, quân Khối thịnh vượng chung đã dập tắt một cuộc nổi dậy ở Iraq được hỗ trợ bởi máy bay Đức xuất phát từ các căn cứ tại Syria đang nằm dưới quyền kiểm soát của chính phủ Vichy. Từ tháng 6 đến tháng 7, quân đội Khối thịnh vượng chung đã tiến hành xâm lược và chiếm đóng mọi lãnh địa của Pháp tại Syria và Lebanon với sự hỗ trợ của Nước Pháp Tự do. Phe Trục tấn công Liên Xô. Sau khi tình hình châu Âu và châu Á trở nên tương đối ổn định, cả Đức, Nhật Bản lẫn Liên Xô đã có những bước chuẩn bị cho các hành động sắp tới. Nhật lúc này muốn lợi dụng chiến tranh ở Châu Âu để chiếm đoạt nguồn tài nguyên giàu có tại các thuộc địa Đông Nam Á của phương Tây. Về phía Liên Xô, cảnh giác về sự căng thẳng ngày càng gia tăng với Đức, nước này đã cùng Nhật Bản ký Điều ước bất xâm phạm vào tháng 4 năm 1941. Cũng trong thời điểm này, người Đức đã chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến sắp tới với Liên Xô. Hitler cho rằng việc Vương quốc Anh từ chối kết thúc chiến tranh là vì họ vẫn hy vọng Hoa Kỳ và Liên Xô sớm hay muộn cũng sẽ tham gia cuộc chiến chống lại Đức. Do đó, ông cố gắng thắt chặt mối quan hệ với Liên Xô. Tuy nhiên, trong trường hợp thất bại, họ sẽ phải tấn công Liên Xô. Vào tháng 11 năm 1940, Đức và Liên Xô tiến hành đàm phán song phương để xác định xem, liệu Liên Xô có tham gia Hiệp ước Ba bên hay không. Liên Xô bày tỏ sự quan tâm nhưng lại yêu cầu Phần Lan, Bulgaria, Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản phải nhượng bộ mình, một điều mà Đức cho là không thể chấp nhận được. Cuộc đàm phán đổ vỡ, Hitler ban hành chỉ thị chuẩn bị xâm lược Liên bang Xô Viết. Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, Đức, với sự hỗ trợ của Ý và Romania, tiến hành xâm lược Liên Xô trong Chiến dịch Barbarossa, cáo buộc Liên Xô âm mưu chống lại Đức. Hai nước Phần Lan và Hungary ngay lập tức tham chiến theo phe Đức. Các mục tiêu chính của cuộc tấn công bất ngờ này là khu vực Baltic, Moskva và Ukraina, với mục tiêu cuối cùng là kết thúc chiến dịch năm 1941 tại gần Tuyến Arkhangelsk-Astrakhan, kéo dài từ Biển Caspi đến Biển Trắng. Mục tiêu của Hitler trong chiến dịch này là loại bỏ Liên Xô khỏi tư cách là một cường quốc quân sự, tiêu diệt Chủ nghĩa Cộng sản, tạo ra "Lebensraum" ("không gian sống") cho dân tộc Đức bằng cách trục xuất dân số bản địa và đảm bảo sự tiếp cận các nguồn lực chiến lược cần thiết để đánh bại các đối thủ còn lại của Đức. Mặc dù Hồng quân Liên Xô đã chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược trước chiến tranh, chiến dịch Barbarossa đã buộc Bộ chỉ huy tối cao Liên Xô phải áp dụng phương án phòng thủ chiến lược. Trong suốt mùa hè, phe Trục đã tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô, gây ra tổn thất lớn cả về nhân lực và vật lực. Tuy nhiên, đến giữa tháng 8, Bộ chỉ huy tối cao quân lực Đức quyết định tạm hoãn các cuộc tấn công của Cụm tập đoàn quân Trung tâm đã mỏi mệt sau gần 2 tháng tiến quân chớp nhoáng. Người Đức điều hướng Tập đoàn thiết giáp số 2 tới miền trung Ukraina và Leningrad để tăng viện. Cuộc tấn công vào Kiev thành công rực rỡ, người Đức thành công tiêu diệt gần như hoàn toàn Phương diện quân Tây Nam của Liên Xô, làm bàn đạp để tiến sâu hơn vào Crimea và khu vực công nghiệp ở miền Đông Ukraina (Trận Kharkov lần thứ nhất). Việc 3/4 lục quân và phần lớn không quân phe Trục di chuyển từ Pháp và vùng trung tâm Địa Trung Hải tới Mặt trận phía Đông đã khiến Vương quốc Anh cân nhắc lại đại chiến lược của họ. Tháng 7 năm 1941, Anh và Liên Xô thành lập liên minh quân sự chống Đức. Tháng 8, Anh và Mỹ cùng ban hành Hiến chương Đại Tây Dương, vạch ra các mục tiêu của hai nước đối với thế giới sau chiến tranh. Cuối tháng đó, Anh và Liên Xô cùng tổ chức xâm lược nước Iran trung lập nhằm đảm bảo Hành lang Ba Tư, các mỏ dầu của Iran và phòng ngừa phe Trục tiến đánh các mỏ dầu Baku hoặc Ấn Độ thuộc Anh thông qua đường Iran. Đến tháng 10, phe Trục về cơ bản đã hoàn thành mọi mục tiêu tác chiến ở Ukraina và khu vực Baltic, chỉ còn hai cuộc bao vây Leningrad và Sevastopol là vẫn còn tiếp diễn. Với mật danh là "Bão táp", quân đội Đức tái khởi động cuộc tấn công hướng vào Moskva với hy vọng chiếm được thành phố này để triệt sĩ khí của người Liên Xô. Sau hai tháng kịch chiến trong điều kiện thời tiết ngày càng trở nên khắc nghiệt, quân đội Đức đã tiến đến ngoại ô Moskva. Tuy nhiên, quân đội Đức lúc bấy giờ đã kiệt quệ và buộc phải tạm hoãn cuộc tấn công. Phe Trục tuy giành được một vùng lãnh thổ rộng lớn, nhưng chiến dịch của họ đã không đạt được các mục tiêu chính khi mà hai thành phố trọng yếu – Moskva và Stalingrad – vẫn nằm trong tay Liên Xô. Khả năng chiến đấu của Hồng quân không bị bẻ gãy và họ vẫn bảo tồn một phần đáng kể tiềm lực quân sự. Với cuộc tấn công vào thủ đô Liên Xô thất bại, giai đoạn "chiến tranh chớp nhoáng" của mặt trận châu Âu đi đến hồi kết. Đến đầu tháng 12, lực lượng quân dự bị mới được huy động cho phép Liên Xô sở hữu quân số ngang ngửa với phe Trục. Thêm vào đó, dữ liệu tình báo cho thấy chỉ cần một lượng binh lính tối thiểu ở Viễn Đông cũng đủ để chặn đứng bất kỳ cuộc tấn công nào của Đạo quân Quan Đông Nhật Bản. Hai yếu tố này cho phép Liên Xô bắt đầu một cuộc phản công lớn vào ngày 5 tháng 12 dọc theo phòng tuyến Moskva, đẩy lùi quân Đức khoảng về phía tây. Chiến tranh bùng nổ tại Thái Bình Dương (1941). Sau sự kiện Phụng Thiên do Nhật dàn dựng để làm cớ chiếm Mãn Châu năm 1931, sự kiện pháo hạm USS "Panay" bị người Nhật đánh chìm trên sông Trường Giang năm 1937 và Thảm sát Nam Kinh năm 1937-38, quan hệ Nhật – Mỹ trở nên xấu đi. Năm 1939, Hoa Kỳ thông báo với Nhật rằng họ sẽ không gia hạn hiệp ước thương mại song phương. Việc dư luận phản đối chủ nghĩa bành trướng của Nhật Bản dẫn đến Hoa Kỳ thực hiện một loạt biện pháp trừng phạt kinh tế lên Nhật Bản. Chính phủ Hoa Kỳ ban hành Đạo luật Kiểm soát Xuất khẩu, chấm dứt hoạt động xuất khẩu hóa chất, khoảng sản và các bộ phận dùng để chế tạo vũ khí sang Nhật Bản, đồng thời gia tăng áp lực kinh tế lên chính quyền nước này. Năm 1939, Nhật Bản phát động cuộc tấn công đầu tiên vào Trường Sa, một thành phố trọng điểm tại Hồ Nam, Trung Quốc, nhưng bị đẩy lui vào cuối tháng 9. Bất chấp cả hai bên tiến hành một số đợt tấn công, chiến tranh Trung – Nhật bước vào hồi bế tắc vào năm 1940. Để gia tăng sức ép đối với Trung Quốc bằng cách cắt đứt các tuyến đường tiếp tế và để bố trí quân đội trong trường hợp xảy ra chiến tranh với các cường quốc phương Tây, Nhật Bản xâm lược và chiếm đóng miền Bắc Đông Dương vào tháng 9 năm 1940. Quốc dân Cách mệnh Quân Trung Quốc mở một cuộc phản công quy mô lớn vào đầu năm 1940. Vào tháng 8, Đảng Cộng sản Trung Quốc mở cuộc tấn công khác ở miền Trung Trung Quốc. Để trả đũa, Nhật Bản sử dụng biện pháp tàn bạo tại các khu vực bị chiếm đóng nhằm giảm bớt nhân lực và vật lực của quân Cộng sản. Cũng trong thời gian đó, giữa hai phe Quốc – Cộng xảy ra hiềm khích, đỉnh điểm là những cuộc đụng độ vũ trang vào tháng 1 năm 1941, chấm dứt Mặt trận thống nhất chống Nhật. Tháng 3 năm 1941, Quân đoàn 11 của Nhật tấn công sở chỉ huy Quân đoàn 19 của Trung Quốc nhưng bị đẩy lui trong trận Thượng Cao. Tháng 9, Nhật Bản một lần nữa cố gắng chiếm đánh Trường Sa và đụng độ với Quốc dân quân Trung Quốc. Thành công của Đức ở châu Âu khuyến khích Nhật Bản gia tăng sức ép lên các chính quyền thuộc địa châu Âu ở Đông Nam Á. Chính phủ Hà Lan đồng ý cung cập một số nguồn cung dầu từ Đông Ấn thuộc Hà Lan cho Nhật Bản, nhưng những cuộc đàm phán nhằm mở rộng lượng tài nguyên xuất khẩu sang Nhật vào tháng 6 năm 1941 đã thất bại. Tháng 7 năm 1941, Nhật Bản đưa quân đến miền nam Đông Dương, đe dọa các thuộc địa của Anh và Hà Lan ở Viễn Đông. Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và các quốc gia phương Tây khác đã phản ứng với động thái này bằng việc đóng băng mọi tài sản của Nhật Bản ở nước ngoài, đồng thời áp đặt lệnh cấm vận dầu một cách triệt để. Nhật Bản lúc bấy giờ vốn đang lên kế hoạch xâm lược vùng Viễn Đông của Liên Xô, với ý định lợi dụng việc nước này đang bận bịu chống trả cuộc xâm lược của Đức ở phía tây. Tuy nhiên, trước các lệnh trừng phạt của phương Tây, người Nhật đã phải từ bỏ ý định này. Kể từ đầu năm 1941, hai nước Mỹ, Nhật đã ngồi vào bàn đàm phán nhằm cải thiện mối quan hệ căng thẳng song phương và chấm dứt chiến tranh ở Trung Quốc. Trong các cuộc đàm phán này, Nhật Bản đã đưa ra một số đề xuất mà người Mỹ bác bỏ vì họ cho rằng chúng không thỏa đáng. Cũng trong lúc này, ba nước Hoa Kỳ, Anh và Hà Lan tham gia thảo luận bí mật nhằm lên kế hoạch phòng vệ trong trường hợp Nhật Bản tấn công bất kỳ ai trong số họ. Roosevelt tăng cường quân lực tại Philippines (một quốc gia bảo hộ mà Mỹ dự kiến sẽ trao trả độc lập năm 1946) đồng thời cảnh báo Nhật Bản rằng Hoa Kỳ sẽ chống trả nếu Nhật Bản động binh đối với bất kỳ "quốc gia láng giềng" nào. Thất vọng vì tình hình không mấy tiến triển tại Trung Quốc và cảm thấy bị chèn ép bởi các lệnh trừng phạt do Hoa Kỳ – Anh – Hà Lan áp đặt, Nhật Bản chuẩn bị cho chiến tranh. Vào ngày 20 tháng 11, nội các mới dưới quyền Tojo Hideki đưa ra đề nghị "cuối cùng", yêu cầu Hoa Kỳ chấm dứt viện trợ cho Trung Quốc, dỡ bỏ lệnh cấm vận cung cấp dầu và các nguồn tài nguyên khác cho Nhật Bản. Đổi lại, nước này hứa sẽ không nhòm ngó tới Đông Nam Á và rút quân đội ra khỏi miền nam Đông Dương. Ngày 26 tháng 11, Hoa Kỳ trả lời, yêu cầu Nhật Bản phải rút quân khỏi Trung Quốc vô điều kiện và ký kết hiệp ước bất tương xâm với tất cả cường quốc Thái Bình Dương. Lời đề nghị này đồng nghĩa với việc Nhật Bản về cơ bản buộc phải lựa chọn giữa việc từ bỏ tham vọng của mình ở Trung Quốc, hoặc chiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Đông Ấn thuộc Hà Lan mà nước này cần bằng vũ lực. Quân đội Nhật Bản không coi lời đề nghị của Hoa Kỳ như một phương án và nhiều sĩ quan đã xem lệnh cấm vận dầu mỏ là một lời tuyên chiến bất thành văn. Nhật Bản lên kế hoạch đánh chiếm các thuộc địa châu Á của phương Tây một cách nhanh chóng để tạo một vành đai phòng thủ lớn kéo dài đến Trung Thái Bình Dương. Theo kế hoạch, sau khi thực hiện được điều này, người Nhật sẽ có thể tự do khai thác các nguồn tài nguyên của Đông Nam Á trong khi họ sẽ lui về thế thủ và cứ thế làm kiệt quệ các nước Đồng Minh vốn phải bố trí binh sĩ trên một mặt trận rộng. Để ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ trong khi đảm bảo vành đai phòng thủ, kế hoạch tiếp tục của Nhật là vô hiệu hóa Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ và sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Philippines ngay từ đầu. Ngày 7 tháng 12 năm 1941 (ngày 8 tháng 12 theo múi giờ Châu Á), Nhật tuyên chiến với Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh bằng việc tấn công gần như cùng lúc một số thuộc địa của các cường quốc châu Âu tại Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, gồm cả cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng, Philippines, Guam, đảo Wake, Mã Lai, Thái Lan và Hồng Kông. Đối mặt với cuộc xâm lược của Nhật Bản, người Thái quyết định liên minh với người Nhật. Những cuộc tấn công của quân Nhật khiến Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Trung Quốc, Úc và một số quốc gia khác chính thức tuyên chiến với Nhật Bản, trong khi Liên Xô – đang sa lầy trong cuộc chiến quy mô lớn với các nước phe Trục Châu Âu – vẫn duy trì thỏa thuận trung lập với Nhật Bản. Đức, lấy lý do Roosevelt lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ tấn công tàu bè nước mình, đã cùng một số quốc gia phe Trục khác tuyên chiến với Hoa Kỳ theo cam kết ký với Nhật Bản. Chặn đứng bước tiến của phe Trục. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1942, Bốn ông lớn Đồng Minh – Liên Xô, Trung Quốc, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ – và 22 chính phủ nhỏ hơn hoặc lưu vong đã cùng nhau ban hành Tuyên bố chung Liên Hiệp Quốc, qua đó xác nhận Hiến chương Đại Tây Dương và thống nhất không nước nào được phép ký hòa ước riêng biệt với các nước phe Trục. Trong suốt năm 1942, giới quan chức Đồng Minh đã tranh luận về đại chiến lược phù hợp để theo đuổi. Tất cả đều nhất trí rằng việc đánh bại Đức là ưu tiên hàng đầu. Người Mỹ ủng hộ mở một cuộc tấn công trực diện quy mô lớn nhằm vào Đức thông qua Pháp. Liên Xô khi ấy cũng đang yêu cầu Đồng Minh phương Tây mở một mặt trận thứ hai. Ngược lại, người Anh cho rằng các nên nhắm các hoạt động quân sự vào các khu vực ngoại vi để làm hao mòn sức mạnh cũng như sĩ khí của người Đức, đồng thời hỗ trợ lực lượng kháng chiến. Bản thân nước Đức sẽ phải hứng chịu một chiến dịch không kích quy mô lớn. Tiếp đó, quân Đồng Minh sẽ phát động một cuộc tấn công chủ yếu sử dụng tăng thiết giáp thay vì sử dụng quân đội quy mô lớn. Sau tất cả, người Anh thuyết phục người Mỹ rằng việc đổ bộ vào Pháp trong thời điểm năm 1942 là bất khả thi. Thay vào đó, họ nên tập trung lực lượng để đánh bật phe Trục khỏi Bắc Phi. Tại Hội nghị Casablanca đầu năm 1943, Đồng Minh nhắc lại các tuyên bố trong Tuyên bố năm 1942 và yêu cầu phe Trục đầu hàng vô điều kiện. Cả Anh lẫn Mỹ đồng ý tiếp tục đẩy mạnh thế chủ động Địa Trung Hải bằng cách xâm lược đảo Sicilia để đảm bảo tuyến đường tiếp tế hàng hải đi qua nơi đây. Tuy người Anh ban đầu có ý định đổ bộ vào vùng Balkan nhằm tạo áp lực lên Thổ Nhĩ Kỳ khiến nước này tham chiến, nhưng họ đã phải làm theo kế hoạch của người Mỹ và chỉ hoạt động giới hạn tại Địa Trung Hải. Thái Bình Dương (1942–43). Đến cuối tháng 4 năm 1942, Nhật Bản và đồng minh Thái Lan đã chinh phục gần như toàn bộ Miến Điện, Mã Lai, Đông Ấn thuộc Hà Lan, Singapore và Rabaul, gây tổn thất nặng nề cho quân Đồng Minh và bắt một lượng lớn tù binh. Bất chấp sự chống trả quyết liệt của quân đội Philippines và Hoa Kỳ, Thịnh vượng chung Philippines cuối cùng vẫn bị người Nhật đánh chiếm vào tháng 5 năm 1942, buộc chính quyền Manila phải lưu vong. Vào ngày 16 tháng 4, 7.000 lính Anh bị Sư đoàn 33 của Nhật bao vây trong trận Yenangyaung tại Miến Điện nhưng may mắn được Sư đoàn 38 của Trung Quốc giải cứu. Bên cạnh lục quân, Hải quân Nhật Bản giành nhiều thắng lợi trên Biển Đông, Biển Java và Ấn Độ Dương. Hạm đội Nhật gồm tàu sân bay tiến xa tới vùng biển thuộc Úc, tiến hành ném bom căn cứ hải quân của Đồng Minh tại Darwin. Suốt cả tháng 1 năm 1942, chiến thắng của Trung Quốc tại Trường Sa là thắng lợi duy nhất của Đồng Minh trước quân Nhật. Những chiến thắng dễ dàng trước các đối phương Tây không chuẩn bị trước đã khiến quân Nhật trở nên tự đắc và phân tán lực lượng quá mỏng trên khắp mọi mặt trận. Đầu tháng 5 năm 1942, Nhật Bản lên kế hoạch đánh chiếm Cảng Moresby bằng một cuộc tấn công đổ bộ với mục tiêu cô lập hai nước Úc, New Zealand với đồng minh Hoa Kỳ bằng cách cắt đứt tuyến đường liên lạc và tiếp tế giữa các nước này. Kế hoạch xâm lược bị cản trở khi một đơn vị tác chiến đặc biệt của Đồng Minh, dẫn đầu bởi hai tàu sân bay của hạm đội Mỹ, cầm hòa hải quân Nhật Bản trong trận chiến biển San Hô. Nhằm đáp trả Cuộc không kích Doolittle, Nhật Bản lên kế hoạch chiếm Rạn san hô vòng Midway và dụ tàu sân bay Mỹ tham chiến rồi nhân cơ hội đó tiêu diệt. Để dương đông kích tây, Nhật Bản dự kiến gửi một đội hình tới chiếm quần đảo Aleutian ở Alaska. Vào giữa tháng 5, Nhật Bản khởi động chiến dịch Chiết Giang - Giang Tây ở Trung Quốc, mục đích trả thù người Trung Quốc vì đã hỗ trợ phi công Mỹ sống sót sau Cuộc không kích Doolittle. Người Nhật đối đầu với Quân đoàn 23 và 32 của Trung Quốc và phá hủy các căn cứ không quân của nước này. Nhật Bản bắt đầu triển khai kế hoạch vào đầu tháng 6. Tuy nhiên, người Mỹ sau khi giải mã được các mật mã của hải quân Nhật hồi cuối tháng 5 đã nắm rõ kế hoạch cũng như trình tự tác chiến của người Nhật. Họ sử dụng khám phá này để giành chiến thắng quyết định trong trận Midway trước Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Khả năng tác chiến của người Nhật sụt giảm đáng kể sau thất bại nặng nề này. Trong một nỗ lực muộn màng, Nhật Bản tập trung lực lượng cố gắng đánh chiếm căn cứ Port Moresby trên Lãnh thổ Papua. Người Mỹ lên kế hoạch phản công nhằm chiếm lại căn cứ tiền phương của người Nhật ở phía Nam quần đảo Solomon làm bước đầu tiên trong kế hoạch tái chiếm Rabaul – căn cứ chính của quân Nhật tại Đông Nam Á. Cả hai kế hoạch được tiến hành vào tháng 7, nhưng đến giữa tháng 9, người Nhật vì ưu tiên Guadalcanal đã ra lệnh rút quân khỏi khu vực Port Moresby đến phần phía Bắc của đảo New Guinea. Tại đây, quân Nhật đụng độ với quân đội Úc và Hoa Kỳ trong trận Buna – Gona. Guadalcanal nhanh chóng trở thành chiến trường ác liệt, cả hai bên đều phải hứng chịu thất bại nặng nề về quân số lẫn tàu bè trong cuộc kịch chiến. Đến đầu năm 1943, quân Nhật bị đánh bại và buộc phải rút khỏi đảo. Trên đất liền Đông Nam Á, Nhật tiến nhanh vào sâu thuộc địa của Anh cho đến khi gặp phải sự kháng cự mãnh liệt tại Miến Điện. Quân đội Khối thịnh vượng chung Anh triển khai tác chiến tại vùng Arakan vào cuối năm 1942 nhưng phải rút về Ấn Độ vào tháng 5 năm 1943 sau khi thất bại thảm hại. Tháng 2 năm 1943, người Anh sử dụng lính không chính quy quấy nhiễu hậu phương của quân Nhật và thu về những kết quả khác nhau. Mặt trận Xô – Đức (1942–43). Tuy bị thiệt hại đáng kể, nhưng vào đầu năm 1942, Đức và đồng minh đã chặn đứng một cuộc tấn công quy mô lớn của Liên Xô tại miền trung và miền nam nước Nga, bảo toàn hầu hết lãnh thổ mà họ chiếm được năm trước đó. Vào tháng 6, sau khi đánh bại Liên Xô tại Bán đảo Kerch và Kharkov, Đức phát động tấn công vào phía Nam nhằm chiếm vùng sản xuất dầu mỏ chiến lược ở Kavkaz và thảo nguyên Kuban, trong khi án binh bất động tại các vị trí ở phía bắc và trung tâm của chiến tuyến. Quân Đức chia Cụm tập đoàn quân Nam thành hai tập đoàn quân: Tập đoàn quân A được lệnh tiến đến hạ lưu sông Don và đánh về hướng đông nam tới dãy Kavkaz, trong khi Tập đoàn quân B tiến về phía sông Volga. Liên Xô quyết định tử thủ tại thành phố Stalingrad bên bờ Tây sông Volga nhằm chặn đứng đường tiến quân của Đức. Đến giữa tháng 11, khi quân Đức gần như đã chiếm được Stalingrad sau những trận giao tranh trên đường phố ác liệt và đẫm máu thì cũng là thời điểm mùa đông khắc nghiệt ập đến. Lợi dụng quân Đức đã kiệt sức, Liên Xô tung đòn phản công, bắt đầu bằng một cuộc tấn công không thành công vào "chỗ lồi" Rzhev gần Moskva và một cuộc tấn công vu hồi gồm hai gọng kìm đánh vào cạnh sườn khiến hơn 30 vạn quân Đức rơi vào vòng vây siết chặt tại Stalingrad. Đến đầu tháng 2 năm 1943, Hồng quân tiêu diệt hoàn toàn quân Đức tại Stalingrad, đẩy lùi chiến tuyến Xô – Đức về vị trí cũ trước cuộc tấn công mùa hè. Đến giữa tháng 2, khi bước tiến của Liên Xô dần khựng lại, quân Đức – với hy vọng xoay chuyển tình thế – mở một cuộc tấn công khác vào Kharkov, tạo nên một chiến tuyến hình vòng cung xung quanh thành phố Kursk của Liên Xô. Tây Âu, Đại Tây Dương và Địa Trung Hải (1942–43). Khai thác các quyết định chỉ huy kém hiệu quả của hải quân Hoa Kỳ, hải quân Đức tiến hành quấy nhiễu, tàn phá tuyến đường vận tải hàng hải của Đồng Minh ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương của Mỹ. Tại Bắc Phi, quân đội Khối thịnh vượng chung mở một cuộc phản công mang mật danh "Crusader" vào tháng 11 năm 1941 và đoạt lại tất cả vùng đất mà liên quân Đức – Ý chiếm được trước đó. Đáp trả, quân Đức mở cuộc tấn công vào tháng 1, đẩy quân Anh trở lại vị trí ở phòng tuyến Gazala vào đầu tháng 2. Chiến sự bước vào khoảng thời gian tạm lắng mà Đức sử dụng để chuẩn bị cho những cuộc tấn công sắp tới của họ. Lo ngại người Nhật có thể sử dụng các căn cứ ở Madagascar do chính phủ Vichy nắm giữ đã, người Anh quyết định xâm chiếm hòn đảo này vào đầu tháng 5 năm 1942. Tại Lybia, quân đội phe Trục đã buộc Đồng Minh phải rút lui sâu bên trong Ai Cập trước khi bị chặn lại ở El Alamein. Trên lục địa Âu châu, Đồng Minh tổ chức các cuộc đột kích nhằm vào các mục tiêu chiến lược, đỉnh điểm là trận Dieppe đẫm máu. Thiệt hại quá nặng nề mà không đạt được kết quả nào, cuộc tấn công tại Dieppe củng cố nhận định của các tướng lĩnh Anh rằng quân của họ sẽ không thể bám trụ nổi sau khi đổ bộ lên đất đối phương. Đến tháng 12 năm 1941, quân Đức thất bại trong trận đánh trước cửa ngõ Moskva. Mặt trận Xô–Đức thu hút tất cả lực lượng của Đức và buộc họ cắt giảm lực lượng cho các mặt trận khác. Quân Đức ở Bắc Phi bị thiếu đạn dược, nhiên liệu nên không thể tiếp tục tấn công. Vào đầu năm 1942, việc Anh thắng lợi trong cuộc đánh bại lực lượng hải quân Ý khiến phía Đồng Minh có thêm quân nhu và vật chất. Việc này cho phép các lực lượng Anh dồn toàn lực cho trận El Alamein thứ hai và dành thắng lợi. Người Anh, tuy phải trả giá đắt, nhưng đã có thể cung ứng nguồn cung cấp cần thiết cho đảo Malta khi ấy đang bị phe Trục bao vây. Vài tháng sau, quân Đồng Minh phát động tấn công đánh bật quân đội phe Trục khỏi Ai Cập và bắt đầu tiến quân về phía tây. Vào tháng 11 năm 1942, tình trạng càng tệ hơn cho quân Trục khi Hoa Kỳ và Anh thực hiện Chiến dịch Bó Đuốc, đổ bộ vào Maroc, bao vây các lực lượng phe Trục. Ngay lập tức, các thuộc địa Pháp ở Bắc Phi đổi phe. Hitler đáp trả bằng cách ra lệnh chiếm đóng lãnh thổ Vichy. Dù quân đội Vichy không làm gì để chống lại sự vi phạm hiệp ước đình chiến này nhưng họ đã cố gắng di chuyển hạm đội để ngăn chặn nó rơi vào tay người Đức. Quân Trục tại Châu Phi rút lui về Tunisia và bị đánh bật hoàn toàn khỏi Bắc Phi vào tháng 5 năm 1943. Tháng 6 năm 1943, Anh và Hoa Kỳ khai màn chiến dịch ném bom chiến lược nhằm vào nước Đức, mục tiêu làm suy giảm nhuệ khí, phá hủy nhà cửa của thường dân và phá vỡ nền kinh tế thời chiến của nước này. Trận oanh tạc Hamburg là một trong những cuộc tấn công đầu tiên trong chiến dịch này, gây ra thương vong đáng kể về người và thiệt hại lớn đối với cơ sở hạ tầng của trung tâm công nghiệp quan trọng này. Đồng Minh giành thế chủ động (1943–44). Sau khi chiến dịch Guadalcanal kết thúc, người Mỹ bắt đầu triển khai một loạt hoạt động quân sự chống lại Nhật Bản ở Thái Bình Dương. Tháng 5 năm 1943, liên quân Canada và Hoa Kỳ được cử đến Alaska nhằm đuổi quân Nhật khỏi quần đảo Aleutian. Ngay sau đó, Hoa Kỳ – với sự hỗ trợ từ Úc, New Zealand và các quốc đảo Thái Bình Dương – bắt đầu nhiều chiến dịch lớn trên bộ, trên biển và trên không, mục tiêu cô lập căn cứ Nhật tại Rabaul bằng cách chiếm các đảo xung quanh và phá vỡ vành đai phòng thủ ở Trung tâm Thái Bình Dương (tại quần đảo Gilbert và Marshall) của Nhật. Cuối tháng 3 năm 1944, quân Đồng Minh đã hoàn thành cả hai mục tiêu này đồng thời vô hiệu hóa được căn cứ trọng điểm của Nhật tại Truk thuộc quần đảo Caroline. Sang tháng 4, quân Đồng Minh tiếp tục triển khai một chiến dịch khác và thành công chiếm lại miền Tây New Guinea. Tại châu Âu, cả người Đức và người Liên Xô đã dành cả mùa xuân và đầu mùa hè năm 1943 để chuẩn bị cho các cuộc tấn công lớn ở miền trung nước Nga. Ngày 4 tháng 7 năm 1943, tại trận Vòng cung Kursk, Đức đã tung ra những đơn vị thiết giáp lớn hòng xoay chuyển tình thế, Kursk trở thành "trận đấu xe tăng lớn nhất" trong lịch sử thế giới. Trong vòng một tuần, quân Đức kiệt sức trước tuyến phòng thủ được bố trí theo hình bậc thang và tổ chức tốt của Liên Xô. Lần đầu tiên trong cuộc chiến, Hitler đã hủy bỏ chiến dịch trước khi đạt được thành công về mặt chiến thuật hay tác chiến. Quyết định này bị ảnh hưởng một phần bởi tin tức miền Nam nước Ý bị Đồng Minh phương Tây tấn công vào ngày 9 tháng 7. Kết hợp với những thất bại trước đó của Ý, cuộc đổ bộ lên đảo Sicilia dẫn đến việc lật đổ và bắt giữ Mussolini vào cuối tháng đó. Vào ngày 12 tháng 7 năm 1943, Liên Xô triển khai chiến dịch Kutuzov tại khu vực phía bắc vòng cung Kursk, qua đó xóa tan bất kỳ cơ hội chiến thắng nào hoặc thậm chí là đưa chiến sự vào thế bế tắc của Đức ở phía Đông. Chiến thắng của Liên Xô tại Kursk đẩy quân Đức vào thế bị động, quân Liên Xô giữ thế chủ động và phát động tấn công liên tục trên khắp các mặt trận. Đức cố gắng ổn định mặt trận phía Đông dọc theo tuyến Panther-Wotan được gia cố gấp rút. Tuyến phòng thủ của Đức bị Liên Xô chọc thủng tại Smolensk và một đoạn ở phía bắc biển Đen trong Chiến dịch tấn công Hạ Dniepr. Vào ngày 3 tháng 9 năm 1943, Đồng Minh phương Tây đổ bộ lên đất liền Ý. Quân đội Ý không lâu sau đó đã đơn phương ký hiệp định đình chiến với quân Đồng Minh. Đức, với sự giúp đỡ của lực lượng Phát xít Ý trung thành với Mussolini, đã đáp trả bằng cách giải giáp binh lính Ý không có cấp trên chỉ huy. Đức nhanh chóng giành quyền kiểm soát quân sự trên nhiều khu vực của Ý và nhanh chóng xây dựng một loạt tuyến phòng thủ. Lực lượng đặc biệt của Đức đã tiến hành giải cứu Mussolini, người sau đó được phía Đức dựng lên làm nguyên thủ quốc gia của nhà nước chư hầu mang tên Cộng hòa Xã hội Ý, mở ra cuộc nội chiến Ý. Đồng Minh phương Tây chọc thủng nhiều phòng tuyến của Đức ở miền nam nước Ý trước khi tiến đến tuyến phòng thủ chính vào giữa tháng 11. Các hoạt động quân sự của Hải quân Đức ở Đại Tây Dương cũng bị ảnh hưởng. Đến tháng 5 năm 1943, khi các biện pháp đối phó của Đồng minh ngày càng có hiệu quả, đội tàu ngầm Đức phải hứng chịu tổn thất đáng kể khiến họ phải đình chỉ hoạt động tại Đại Tây Dương. Vào tháng 11 năm 1943, Franklin D. Roosevelt và Winston Churchill gặp Tưởng Giới Thạch ở Cairo và sau đó với Iosif Stalin tại Tehran. Hội nghị Cairo xác định Nhật Bản sẽ phải trả lại các lãnh thổ mà họ chiếm được sau khi chiến tranh kết thúc. Hội nghị cũng lên kế hoạch quân sự cho chiến dịch Miến Điện. Tại Tehran, các bên thỏa thuận rằng Đồng Minh phương Tây sẽ xâm lược châu Âu vào năm 1944 và Liên Xô sẽ tuyên chiến với Nhật Bản trong vòng ba tháng kể từ ngày Đức bị đánh bại. Kể từ tháng 11 năm 1943, trong trận Thường Đức kéo dài bảy tuần, người Trung Quốc – trong khi chờ đợi Đồng Minh tăng viện – đã buộc Nhật Bản phải trả giá cao trong một cuộc chiến tiêu hao. Tháng 1 năm 1944, quân Đồng Minh triển khai một loạt cuộc tấn công ở Ý nhằm vào phòng tuyến của Đức tại Monte Cassino. Liên quân Hoa Kỳ, Anh, Canada và Vương quốc Ý cố gắng đánh bọc sườn phòng tuyến này bằng cách đổ bộ tại Anzio và giành thắng lợi. Vào ngày 27 tháng 1 năm 1944, Hồng quân Liên Xô triển khai cuộc tổng tấn công đuổi quân Đức ra khỏi khu vực Leningrad, giải vây thành phố này sau 900 ngày, kết thúc cuộc bao vây đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh. Cùng thời điểm, Hồng quân tiến sát tới biên giới tiền chiến của Estonia thị bị Cụm tập đoàn quân Bắc chặn lại. Người Đức được người Estonia hỗ trợ với hy vọng tái lập nền độc lập quốc gia. Sự đình trệ này đã làm chậm các hoạt động tác chiến tiếp theo của Liên Xô ở khu vực Baltic. Cuối tháng 5 năm 1944, Liên Xô giải phóng Crimea, đánh đuổi phần lớn lực lượng phe Trục khỏi Ukraina. Họ tiếp tục thực hiện các cuộc tấn công vào Romania nhưng bị quân Trục đẩy lui. Tại Ý, quân Đồng Minh thành công đánh bật người Đức khỏi phòng tuyến gần Roma dù đã để cho một số sư đoàn Đức rút lui. Vào ngày 4 tháng 6, thủ đô Roma rơi vào tay Đồng Minh. Quân Đồng Minh thu về những kết quả thắng bại lẫn lộn trên lục địa châu Á. Tháng 3 năm 1944, quân Nhật triển khai chiến dịch tấn công vào Assam, Ấn Độ, nhanh chóng bao vây các vị trí của Anh tại Imphal và Kohima. Tháng 5 năm 1944, quân đội Anh tiến hành phản công buộc quân Nhật phải rút về Miến Điện trong tháng 7. Trước đó, vào cuối năm 1943, quân đội Trung Quốc từ Vân Nam đã tràn vào miền bắc Miến Điện và bao vây quân Nhật tại Myitkyina. Nhật Bản triển khai một cuộc tấn công khác với mục tiêu tiêu diệt các đạo quân chủ lực của Trung Quốc, bảo đảm tuyến đường sắt kết nối các lãnh thổ do Nhật Bản chiếm giữ và đánh chiếm các sân bay của quân Đồng Minh. Đến tháng 6 năm 1944, quân Nhật đã chiếm được Hà Nam và đang chuẩn bị mở một cuộc tấn công mới vào Trường Sa. Đồng Minh áp sát. Sau 3 năm chịu áp lực từ phía Liên Xô, Đồng Minh phương Tây cuối cùng cũng đã quyết định mở một mặt trận thứ hai. Vào ngày 6 tháng 6 năm 1944 (được gọi là D-Day), các lực lượng Đồng Minh phương Tây đồng loạt đổ bộ vào bờ biển Normandie. Chiến dịch diễn ra rất khốc liệt, phe Đồng Minh đã gặp rất nhiều khó khăn và phải hứng chịu tổn thất lớn dù áp đảo về quân số và trang bị. Tuy nhiên họ dần giành lấy ưu thế và buộc người Đức phải rút khỏi miền bắc nước Pháp. Quân Đồng Minh đồng thời điều động một số sư đoàn khỏi Ý để tấn công vào vùng Provence, thành công đẩy lui quân Đức ra khỏi nước Pháp. Ngày 25 tháng 8, Paris được giải phóng bởi lực lượng kháng chiến và quân đội Pháp tự do do Tướng Charles de Gaulle chỉ huy. Nhân đà thắng lợi, quân Đồng Minh phương Tây tiếp tục đẩy lùi quân Đức trên mặt trận Tây Âu cho đến hết năm. Tuy nhiên, kế hoạch xâm lược miền Bắc nước Đức, mở đầu bằng một chiến dịch hàng không tại Hà Lan, đã thất bại. Đồng minh phương Tây từ từ áp sát nước Đức nhưng không thể chọc thủng phòng tuyến cuối cùng tại sông Rur. Đến cuối năm 1944, Liên Xô đã giành lại được hầu hết số lãnh thổ bị Đức chiếm đóng và liên tục đẩy lùi lực lượng ngày càng suy yếu của Đức về phía tây. Vào ngày 22 tháng 6, Liên Xô mở một cuộc tấn công chiến lược tại Belarus ("Chiến dịch Bagration") tiêu diệt gần như hoàn toàn Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức. Sau thành công này, Liên phát động liên tiếp các đòn tấn công khác buộc quân Đức phải rút khỏi miền Tây Ukraina và miền Đông Ba Lan. Liên Xô thành lập Ủy ban Giải phóng Quốc gia Ba Lan để kiểm soát lãnh thổ nước này và đối phó với lực lượng Armia Krajowa trung thành với Chính phủ Ba Lan lưu vong ở Luân Đôn. Hồng quân Liên Xô dừng lại tại quận Praga ở phía bên kia bờ sông Vistula và theo dõi quân Đức dập tắt Khởi nghĩa Warszawa do Armia Krajowa khởi xướng một cách thụ động. Cuộc nổi dậy toàn quốc ở Slovakia cũng bị quân Đức dập tắt. Tại miền đông Romania, cuộc tấn công chiến lược của Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt một lượng lớn quân Đức tại đó, đồng thời kích động hai cuộc đảo chính thành công tại Romania và Bulgaria dẫn đến việc hai nước này chuyển sang phe Đồng Minh. Vào tháng 9 năm 1944, quân đội Liên Xô tiến vào Nam Tư khiến hai Tập đoàn quân E và F của Đức phải rút lui một cách gấp gáp khỏi Hy Lạp, Albania và Nam Tư để tránh bị cô lập hoàn toàn. Đến thời điểm này, lực lượng kháng chiến do Cộng sản lãnh đạo dưới sự chỉ huy của Thống chế Josip Broz Tito, đã kiểm soát phần lớn lãnh thổ của Nam Tư và tham gia cầm chân quân đội Đức ở phía nam. Tại miền bắc Serbia, Hồng quân Liên Xô, với sự giúp đỡ hạn chế từ quân đội Bulgaria, đã hỗ trợ quân kháng chiến giải phóng Beograd vào ngày 20 tháng 10. Vài ngày sau, Liên Xô mở một cuộc tấn công quy mô lớn vào Hungary. Chiến dịch kết thúc khi Budapest thất thủ vào tháng 2 năm 1945. Trái ngược với những chiến thắng ấn tượng của Liên Xô tại Balkan, sự kháng cự gay gắt của người Phần Lan tại eo đất Karelia đã ngăn chặn Liên Xô chiếm đóng nước này. Kết quả là hai nước Liên Xô-Phần Lan ký kết hiệp định đình chiến với những điều kiện tương đối nhẹ nhàng, dù nước này bị buộc phải tham gia phe Đồng Minh chống lại Đức. Đến đầu tháng 7 năm 1944, quân đội Khối thịnh vượng chung ở Đông Nam Á đã thành công đẩy lùi bước tiến của quân Nhật tại Assam, buộc quân Nhật phải rút lui về sông Chindwin trong khi quân Trung Quốc chiếm được Myitkyina. Tháng 9 năm 1944, quân Trung Quốc chiếm được núi Song và khai thông lại tuyến đường Miến Điện. Quân Nhật thành công hơn ở Trung Quốc khi họ cuối cùng cũng chiếm được Trường Sa vào giữa tháng 6 và Hành Dương vào đầu tháng 8. Người Nhật sau đó đã tổ chức tấn công vào tỉnh Quảng Tây, giành chiến thắng tại Quế Lâm và Liễu Châu vào cuối tháng 11, thành công liên kết lực lượng ở Trung Quốc và Đông Dương lại với nhau vào giữa tháng 12. Tại Thái Bình Dương, người Mỹ tiếp tục đẩy lùi vành đai phòng thủ của quân Nhật. Vào giữa tháng 6 năm 1944, quân đội Hoa Kỳ đã chiếm lại Mariana và Palau từ tay Nhật với chiến thuật "nhảy cừu", đồng thời đánh bại hải quân Nhật trong trận chiến trên Biển Philippines. Những thất bại này đã buộc Thủ tướng Nhật Bản Tojo Hideki phải từ chức, đồng thời cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ không quân để tiến hành oanh tạc bằng máy bay ném bom hạng nặng nhằm vào quần đảo Nhật Bản. Cuối tháng 10, lực lượng Hoa Kỳ đánh chiếm hòn đảo Leyte của Philippines; ngay sau đó, lực lượng hải quân Đồng Minh giành được một chiến thắng lớn khác trước lực lượng của Nhật Bản trong trận Vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Ảnh hưởng đến dân thường. Đức quốc xã. Chiến dịch tàn sát tù binh chiến tranh và thường dân điển hình nhất và có tổ chức nhất là các chương trình được vạch ra và thực hiện bởi Đức quốc xã. Ban đầu chỉ nhắm mục tiêu vào người Do Thái tại nước này, cộng thêm một số nhóm người ít người không ưa thích. Chế độ Đức quốc xã bắt đầu thành lập trại để cách ly các nhóm người này, sau đó dùng lao động cưỡng bách và cuối cùng tiêu diệt hàng loạt. Các nhóm người Do Thái, người đồng tính luyến ái và người có khuyết tật là các mục tiêu đầu tiên, nhưng những người đối lập chính trị như những người theo chủ nghĩa xã hội và các nhân vật tôn giáo (kể cả tín đồ Cơ đốc giáo) lên tiếng cũng bị bắt giữ. Một khi chiến tranh bùng nổ và phần đất Đức xâm chiếm tăng lên, các lãnh thổ mới chiếm này cũng bị tính trong nỗ lực đó. Riêng Ba Lan đã bị ảnh hưởng rất nhiều, với gần toàn bộ dân số Do Thái tại nước này và một số đông người Cơ đốc giáo đã bị tiêu diệt. Hàng chục triệu Người Nga và các người Slav bị chinh phục khác cũng bị giam cầm tại hơn 100 trại tập trung của Đức trên khắp các vùnh lãnh thổ châu Âu bị nước Đức Quốc xã chiếm đóng. Các trại lớn nhất là Dachau, Buchenwald, Ravensbrück, Ausschwitz, Majdanek, Bergen Belsen, Gusen... Số người được giải phóng khỏi các trại này sau chiến tranh chỉ còn vài trăm nghìn. Tổng số người đã bị giết trong các trại tập trung, trong các chương trình tiêu diệt và trong khi bị chính quyền Đức ngược đãi có lẽ không bao giờ có thể biết chính xác được. Có một số ước đoán cao hơn 10 triệu người, trong đó 5 tới 6 triệu là người Do Thái bị giết trong các chương trình tiêu diệt có mục đích. Liên Xô. Theo một số tài liệu phương Tây, kể từ khi tiến vào nước Đức (1944-1945), một bộ phận binh sĩ Hồng quân đã có những hành động trả thù nhằm vào tù binh hoặc dân thường Đức để trả đũa những tàn phá mà quân Đức gây ra cho đất nước mình. Ngoài việc cướp nhà dân và cửa hiệu, phương Tây cho rằng Hồng quân Liên Xô đã hãm hiếp hàng chục ngàn phụ nữ và trẻ em người Đức, từ 8 đến 80 tuổi. Theo Franz Wilhelm Seidler, riêng ở Berlin là 20 ngàn tới 100 ngàn, các tỉnh còn lại từ 100 ngàn tới nửa triệu. Rất nhiều nạn nhân trong số này bị từ 10 đến 12 lính hãm hiếp tập thể, và đa số bị hãm hiếp nhiều lần. Tuy nhiên, giới sử học vẫn tranh cãi về tính xác thực và quy mô của những vụ hiếp dâm. Các nhà sử học Nga đã phủ nhận những cáo buộc về hiếp dâm hàng loạt, họ đưa ra bằng chứng là một lệnh từ Bộ chỉ huy tối cao ban hành ngày 19 tháng 1 năm 1945, trong đó ra lệnh cấm binh sĩ ngược đãi thường dân Đức. Một lệnh của Hội đồng quân sự của Phương diện quân Byelorussia số một, có chữ ký của Nguyên soái Rokossovsky, đã ra lệnh xử bắn những binh lính phạm tội trộm cướp và hiếp dâm ngay tại hiện trường của vụ án. Một lệnh ban hành bởi Stavka (Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Hồng quân) vào ngày 20 tháng 4 năm 1945 phổ biến tới binh sĩ rằng cần phải duy trì quan hệ tốt với người dân Đức để giảm kháng cự và để chiến sự kết thúc nhanh hơn. Trong khu vực chiếm đóng của Liên Xô, các thành viên của SED đã báo cáo cho Stalin biết hành động cướp bóc và hãm hiếp của binh lính Liên Xô có thể dẫn đến một phản ứng tiêu cực của dân Đức đối với Liên Xô và hướng tới tương lai của chủ nghĩa xã hội ở Đông Đức. Stalin đã phản ứng một cách giận dữ: "Tôi sẽ không tha thứ bất cứ ai kéo danh dự của Hồng quân qua vũng bùn." Các nhà lãnh đạo Liên Xô rất bất bình với truyền thông của các nước phương Tây, khi họ vừa mới là đồng minh của Liên Xô trên mặt trận chống phát xít thì nay lại quay sang công kích Liên Xô. Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô V. M. Molotov đã gọi những cáo buộc của Phương Tây là một "chiến dịch hèn hạ" nhằm phá hoại uy tín của Hồng quân và trút lên đầu những người lính Hồng quân tất cả những gì xảy ra do sự hỗn loạn trước đó tại những vùng do Liên Xô chiếm đóng. Ông nói: "Liên Xô và những bạn bè của chúng tôi trên thế giới đã có những thông tin cần thiết để chống lại chiến dịch tuyên truyền này". Tướng Gareyev, chủ tịch của Học viện Khoa học Quân sự Nga, nhận xét: Theo Oleg Rzheshevsky người đứng đầu Viện Hàn lâm Khoa học Nga, mặc dù có nhiều trường hợp đã xảy ra những hành vi thái quá thì "đa số binh sĩ và quan chức của Liên Xô cũng như quân Đồng minh đã đối xử với người dân địa phương một cách nhân đạo" . Ông cũng cho rằng những tội ác như hành động tấn công tình dục là một phần không thể tránh khỏi của chiến tranh . Một phụ nữ Berlin, Elizabeth Shmeer, cho biết: Mỹ. Nhiều trận ném bom rải thảm của không quân Mỹ đánh thẳng vào các thành phố đông dân cư đã khiến cho hàng trăm nghìn thường dân Đức và Nhật bị thiệt mạng. Nhiều thành phố đông dân ở Đức, Nhật bị máy bay ném bom của Mỹ phá hủy gần như hoàn toàn. Riêng trong một trận oanh tạc thành phố Dresden, có tới vài chục ngàn dân thường Đức thiệt mạng. Các vụ ném bom Tokyo cũng khiến ít nhất 100.000 thường dân Nhật Bản thiệt mạng. Đặc biệt, Mỹ đã để lại một dấu ấn kinh hoàng cho cả thế giới cho tới ngày hôm nay. Đó là vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki lúc chiến tranh gần kết thúc. Theo lệnh của Tổng thống Harry S Truman, ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử thứ nhất mang tên "Little Boy" đã được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản. Sau đó 3 hôm, ngày 9 tháng 8 năm 1945, quả bom thứ hai mang tên "Fat Man" đã phát nổ trên bầu trời thành phố Nagasaki. Các số liệu khác nhau bởi được thống kê vào các thời điểm khác nhau. Rất nhiều nạn nhân chết sau nhiều tháng, thậm chí nhiều năm bởi hậu quả của phóng xạ. Theo ước tính, 140.000 người dân Hiroshima đã chết bởi vụ nổ cũng như bởi hậu quả của nó. Số người thiệt mạng ở Nagasaki là 74.000. Ở cả hai thành phố, phần lớn người chết là thường dân. Các công dân của các nước Đồng Minh cũng phải chịu đau khổ trong các trường hợp họ là con cháu của những người đến từ các nước phe Trục. Điển hình là việc 120.000 người Mỹ gốc Nhật đã bị chính phủ Mỹ ra lệnh niêm phong tài sản và bị giam giữ ở các trại tập trung giữa sa mạc trong thời kỳ chiến tranh (từ 1942 tới 1945), với lý do để đề phòng nguy cơ gián điệp. Theo J. Robert Lilly thì khi tiến quân vào Đức, binh lính Mỹ cũng đã nhiều lần hãm hiếp những người phụ nữ địa phương. Ông ước tính số vụ hãm hiếp của binh lính Mỹ tại Đức là 11.000 vụ . Carol Huntington thì lại cho rằng đa số những vụ tấn công tình dục của lính Mỹ đối với phụ nữ Đức có vẻ giống hành vi mua dâm hơn là cưỡng hiếp, ông cũng ghi nhận nhiều trường hợp những phụ nữ Đức quan hệ tình dục với người lính Mỹ để được họ phân phát cho đồ ăn hoặc tiền mặt. Anh. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đã bị thất bại nặng nề trong cuộc chiến với quân đội Nhật Bản tại Trận Singapore năm 1942, quân Nhật cũng đang tiến hành xâm lược Miến Điện thuộc Anh trong năm đó. Giới chức Anh sợ rằng một cuộc xâm lược Ấn Độ thuộc Anh tiếp theo của Nhật Bản có thể thực hiện bằng cách thích hợp thông qua lối Bengal (xem British Raj), và các biện pháp khẩn cấp đã được áp dụng để tích trữ lương thực cho lính Anh, bao gồm cả việc giành lấy lương thực của nhân dân Ấn Độ. Hậu quả là Nạn đói Bengal năm 1943 thảm khốc năm 1943 khiến 5 triệu người Ấn Độ thiệt mạng. Dấu ấn kinh hoàng về nạn đói này cũng khiến tinh thần phản kháng của người dân Ấn Độ chống sự cai trị của thực dân Anh ngày càng dâng cao, góp phần buộc Anh phải trao trả độc lập cho Ấn Độ vào năm 1947. Trung Quốc. Ví dụ về các tội ác chiến tranh của các lực lượng Trung Quốc bao gồm: Nhật. Trong khi Holocaust do Đức gây ra rất có tổ chức và được nhiều người biết đến, số người bị giết có thể sánh được với số thường dân bị lực lượng Nhật tàn sát tại Trung Quốc. Tương tự như cách nhìn của Đức đối với các dân tộc sống ở vùng Đông Âu, người Nhật xem người Trung Quốc và Đông Nam Á là "mọi rợ" và giới lãnh đạo chẳng những xem các tội ác chiến tranh là lẽ thường mà còn khuyến khích việc đó. Một trong những tội ác tàn bạo nhất của quân Nhật trong cuộc chiến với Trung Quốc là vụ Thảm sát Nam Kinh vào năm 1937 trong đó có khoảng 50.000- 300.000 thường dân Trung Quốc đã bị hãm hiếp và giết hại. Các ước tính số người bị chết do các hành vi này còn rất thiếu chính xác, nhưng có thể cao hơn 10 triệu, cộng thêm một số lượng lớn phụ nữ bị hãm hiếp có thể nhiều hơn các thống kê hiện tại. Một số khu vực dưới sự kiểm soát của Nhật bị nạn đói thảm khốc do quân Nhật cướp lương thực của người bản địa để chuyển về Nhật (do nước Nhật vào cuối chiến tranh đã lâm vào tình trạng thiếu lương thực), như Nạn đói năm Ất Dậu 1945 tại miền Bắc Việt Nam. Kết quả. Hậu quả trực tiếp của chiến tranh này là sự chiến thắng của phía Đồng Minh. Mỗi nước trong phe Trục đều phải đầu hàng vô điều kiện. Đức bị các lực lượng từ Mỹ, Anh, Liên Xô và Pháp chiếm đóng, trong khi Áo bị chia cắt từ Đức và cũng bị chiếm đóng một cách tương tự. Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng trong khi Liên Xô chiếm đóng các nước Đông Âu. Trái với Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi các giới hạn làm suy yếu các nước và các nước thua cuộc bị ngăn chặn việc tái hội nhập cộng đồng quốc tế, các nước thua cuộc đã được cung cấp viện trợ để phục hồi và hội nhập cộng đồng thế giới như các quốc gia hoà bình khác. Vì lẽ đó, Đức và Nhật đã trở thành hai nước quan trọng và có nhiều ảnh hưởng mà không cần phải khiêu chiến. Sự thất bại của Hội Quốc Liên trong việc ngăn chặn chiến tranh đã dẫn đến việc thành lập Liên Hiệp Quốc, một tổ chức quốc tế mới và có nhiều sửa đổi, cho đến nay vẫn là tổ chức quan trọng nhất trong việc thúc đẩy hoà bình và hợp tác. Số người chết. Tại châu Âu. Thống kê năm 1965 của Liên Hợp Quốc cho biết chỉ riêng số người thiệt mạng do chiến tranh ở châu Âu đã lên đến 49.257.000 người. Những nước chịu thiệt hại lớn nhất gồm: Hậu quả lâu dài. Chiến tranh thế giới thứ II làm thay đổi căn bản tư duy chính trị quốc tế của các cường quốc trên thế giới. Sau cuộc chiến này, nhiều quốc gia từ bỏ tư duy bá quyền, dùng sức mạnh để xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia khác. Quan hệ quốc tế từ dựa trên sức mạnh, "cá lớn nuốt cá bé", chuyển sang quan hệ bình đẳng, cùng tồn tại hòa bình. Đồng thời ngay sau chiến tranh, phe Đồng Minh đã bị rạn nứt khi có xung đột về hệ tư tưởng. Mỗi phía đã giành một khu vực khác nhau trong các lãnh thổ phe Trục. Tại châu Âu, mỗi phía liên minh với nhau trong khu vực ảnh hưởng. Về phía tây, các nước Mỹ, Anh và Pháp đã lập ra Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO). Về phía đông, Liên Xô lập ra liên minh với các nước Đông Âu khác bằng Hiệp ước Warszawa. Xung đột giữa hai phe sau này là một trong những hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Khắp mọi nơi, các phong trào chống thực dân phát triển mạnh hơn khi chiến tranh kết thúc. Điều này xuất phát từ hệ quả của Chiến tranh thế giới thứ hai: Một vài cuộc xung đột đã trở thành chiến trường cho các cường quốc trong Chiến tranh Lạnh, thậm chí có nhiều cuộc đã xảy ra trước khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Hai nước Anh và Pháp đã phải từ bỏ phần lớn các thuộc địa sau chiến tranh. Ấn Độ giành được độc lập từ Anh và Philippines giành độc lập từ Mỹ. Tại Đông Dương và nhiều thuộc địa tại châu Phi, các lực lượng kháng chiến phải chiến đấu mới giành được độc lập từ Anh, Pháp, Hà Lan. Một quốc gia quan trọng đã xuất hiện là Israel. Sau cuộc thảm sát Holocaust, dân Do Thái trên thế giới rất khao khát có được một quốc gia riêng. Nhiều người Do Thái đã có kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh (họ là cựu quân nhân Mỹ, Anh, Liên Xô), đây là điều thuận lợi khi quốc gia này luôn phải đương đầu để được độc lập và tồn tại. Các nước tham chiến và hậu quả. Sự đóng góp của các quốc gia. Quân số và sản lượng vũ khí của các nước tham chiến: (Thống kê hiện tại vẫn chưa đầy đủ) Xét về sản lượng vũ khí, Liên Xô là nước sản xuất nhiều vũ khí lục quân nhất trong thế chiến 2 (bao gồm xe tăng, đại bác, súng cối, súng máy, đạn pháo...), còn Mỹ là nước sản xuất nhiều máy bay và tàu chiến nhất trong Thế chiến 2. Xét về nhân lực, Liên Xô là nước có đóng góp lớn nhất, chiếm gần 50% quân số của toàn bộ khối Đồng minh. Trong toàn cuộc chiến, Liên Xô huy động được 34,4 triệu quân nhân, số quân này còn lớn hơn tổng quân số của cả khối phát xít cộng lại. Trong khi đó, Mỹ huy động 12,4 triệu quân nhân, Vương quốc Anh (và các thuộc địa của Anh) huy động 14,25 triệu quân nhân, Trung Quốc huy động gần 10 triệu quân nhân. Số sư đoàn của những nước tham chiến: Số sư đoàn của Đức đóng tại các mặt trận: Trong giai đoạn 1941-1943, hầu hết các sư đoàn Đức được bố trí tại mặt trận Liên Xô. Từ giữa năm 1943, khi quân Anh-Mỹ đổ bộ lên Ý và sau đó là Pháp, quân Đức phải chia bớt lực lượng cho mặt trận Tây Âu, nhưng vẫn bố trí 2/3 số sư đoàn tại mặt trận Liên Xô. Khối Đồng Minh. Ở mặt trận châu Âu, nước Đồng Minh tham chiến chủ yếu là Liên Xô, nơi mà phe Trục tập trung 80% binh lực cho mặt trận này. Từ tháng 7 năm 1944, quân Mỹ-Anh đổ bộ lên Tây Âu, mở mặt trận thứ 2 ở phía Tây Âu, nhưng phe Trục cũng chỉ dành ra 1/3 lực lượng để tác chiến ở mặt trận này. Ngoài ra, so với Liên Xô, Mỹ-Anh có điểm thuận lợi hơn: lãnh thổ của họ không bị lục quân đối phương tấn công (do được ngăn cách với Đức bởi đại dương), nên họ có thể sản xuất vũ khí một cách tương đối an toàn, trong khi Liên Xô phải sơ tán hàng loạt nhà máy ngay từ đầu chiến tranh để tránh lọt vào tay quân Đức. Như vậy, trong các nước Đồng Minh, Liên Xô phải gánh chịu áp lực chiến tranh nặng nề nhất. Nước Anh thì không bị lực lượng trên bộ của Đức tấn công, nhưng đây là một quốc đảo có diện tích nhỏ, phụ thuộc phần lớn vào tài nguyên được chở đến bằng đường biển, nhưng đường biển lại thường xuyên bị tàu ngầm Đức đánh phá. Ngoài ra, quy mô nền công nghiệp và tiềm lực dân số của Anh đều nhỏ hơn so với Mỹ và Liên Xô. Trung Quốc cũng là một nước đồng minh quan trọng, có dân số và diện tích rất lớn, nhưng khi đó nước này vẫn còn đang trong tình trạng lạc hậu, quy mô công nghiệp nhỏ, sản lượng vũ khí thấp. Nhiều lãnh thổ và thành phố quan trọng của Trung Quốc cũng đã bị Nhật đánh chiếm. Trong 3 nước Đồng Minh chủ chốt (Mỹ, Anh, Liên Xô), chỉ đó Mỹ là có lãnh thổ an toàn bởi nằm cách xa chiến trường, không hề bị đối phương đánh phá. Mỹ cũng không phải huy động hầu hết nam giới ra mặt trận như Anh và Liên Xô. Vì vậy, Mỹ có thể rảnh tay sản xuất vũ khí trong những điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều các nước đồng minh khác. Để giảm bớt gánh nặng cho đồng minh, Mỹ thực hiện chương trình "Lend-lease" ("cho vay - cho thuê"). Đúng như tên gọi của chương trình này, đây không phải là viện trợ miễn phí, mà thực tế là Mỹ sẽ chuyển hàng hóa cho các nước đồng minh, đổi lại thì các nước này sẽ cho phép quân đội Mỹ đóng quân tại các căn cứ quân sự, hải cảng chủ chốt nằm trên lãnh thổ của các nước Đồng Minh, và phải trả nợ cho Mỹ sau khi chiến tranh kết thúc. Trong chương trình này, lượng hàng hóa trị giá 50,1 tỷ USD (tương đương 543 tỷ đô la thời giá năm 2016, hoặc 11% ngân sách chiến tranh của Mỹ trong thế chiến 2) đã được cung cấp cho các nước đồng minh. Trong số đó, 31,4 tỷ đôla đã được chuyển cho Liên hiệp Vương quốc Anh, 11 tỷ đôla cho Liên Xô, 3,2 tỷ đôla cho Pháp, 1,63 tỷ đôla cho Trung Quốc và 2,6 tỷ đô la còn lại cho các đồng minh khác. Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng nhận được "Lend-lease ngược", tức là việc các nước đồng minh cung cấp thiết bị, tài nguyên và dịch vụ cho Hoa Kỳ. Gần 8 tỷ đôla (tương đương với 124 tỷ đôla ngày nay) những hàng hóa gồm vật liệu chiến tranh, tài nguyên thiên nhiên đã được cung cấp cho các lực lượng Hoa Kỳ bởi các nước đồng minh, 90% số tiền này đến từ Liên hiệp Vương quốc Anh. Ngoài ra, thông qua "Lend-lease", Mỹ còn thu được những lợi ích khác không thể tính bằng tiền: nước Anh phải trao cho Mỹ một số lãnh thổ thuộc địa, các nước đồng minh phải chuyển giao cho Mỹ một số công nghệ mật như radar, ngư lôi, máy giải mật mã, phi cơ, công nghệ hạt nhân... Liên Xô cũng đã cung cấp 300.000 tấn crôm và 32.000 tấn quặng mangan, cũng như nhiều chuyến tàu chở gỗ, vàng và bạch kim cho Hoa Kỳ. Trong chiến tranh, Liên Xô đã cung cấp một số lượng lớn các lô hàng khoáng sản quý hiếm (vàng và bạch kim) cho Kho bạc Hoa Kỳ như một hình thức trả nợ không dùng tiền mặt cho Lend-lease. Trong quá trình chiến tranh, Liên Xô đã nhận được khoảng 17,5 triệu tấn hàng hóa của Mỹ-Anh (trong đó bao gồm 4.478.116 tấn thực phẩm (thịt đóng hộp, đường, bột, muối, v.v.) và 2.670.371 tấn sản phẩm xăng dầu), tương đương 11 tỷ USD (thời giá 1941-1945). Tính theo năm: 1941: 360.800 tấn, 1942: 2.453.000 tấn, 1943: 4.795.000 tấn, 1944: 6.218.000 tấn, 1945: 3.674.000 tấn. Một số quan điểm cho rằng Phương Tây đã thổi phồng quá mức vai trò của khoản viện trợ cho Liên Xô. Tổng giá trị viện trợ chỉ bằng 4% tổng lượng sản xuất của Liên Xô trong những năm chiến tranh (trong khi Liên Xô phải chống đỡ 70% binh lực của Đức và chư hầu). Do vậy, những quan điểm này cho rằng viện trợ lend-lease đóng góp không đáng kể vào chiến thắng của các lực lượng vũ trang Xô viết. Ngoài ra, viện trợ trong năm 1941 (khi Liên Xô đang cần nhất) lại khá nhỏ giọt, trong khi tới 56,5% giá trị viện trợ lend-lease chỉ đến Liên Xô vào năm cuối cùng của cuộc chiến tranh (từ tháng 1 năm 1944 tới tháng 5 năm 1945), khi đó mức sản xuất của Liên Xô đã vượt xa Đức nhiều lần. Nhà ngoại giao Vyacheslav Molotov tuyên bố năm 1945 rằng "đất nước ta đã cung cấp tất cả các yếu tố cần thiết cho quân đội anh hùng của chúng ta". Các nhà sử học khác như Roger Munting đã lập luận rằng sự viện trợ của Đồng minh (Lend-Lease) không bao giờ chiếm hơn 4% sản lượng công nghiệp thời chiến của Liên Xô Các số liệu cho thấy vũ khí Lend-Lease chỉ cung cấp một đóng góp nhỏ cho nỗ lực chiến tranh của Liên Xô (chiếm chưa đầy 2% pháo binh, 12% số máy bay, 10% số xe tăng mà Liên Xô sử dụng) Harry Lloyd Hopkins, cố vấn của Tổng thống Roosevelt, nhận định: "“Chúng tôi chưa bao giờ cho rằng sự giúp đỡ của chúng ta dưới hình thức lend-lease là yếu tố chính trong thắng lợi của Liên Xô trước Hitler ở mặt trận phía đông. Chiến thắng đó đạt được bằng sự dũng cảm và máu của quân đội Nga”". Nhà sử học Mỹ George C. Herring thẳng thắn hơn: "“Lend-lease không phải là hành động vô tư. Đây là một hành động có tính toán, vị kỷ và người Mỹ luôn hình dung rõ ràng những món lợi mà họ có thể thu được từ hành động đó”". Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã khẳng định rằng việc giúp đỡ Liên Xô cũng chính là vì lợi ích của Mỹ, bởi nếu Liên Xô thất bại thì chính Mỹ sẽ là mục tiêu kế tiếp, Roosevelt so sánh rằng "một vòi cứu hỏa nên được trao cho một người hàng xóm để ngăn chặn lửa cháy lan đến nhà riêng của chính mình". Trong và sau chiến tranh, Liên Xô đã phải trả nợ (tính kèm lãi suất) cho những hàng hóa, vũ khí mà Mỹ đã viện trợ cho họ, hình thức trả nợ gồm nhiều tàu chở kim loại quý như bạch kim trị giá hàng tỷ USD. Mỹ là nước duy nhất trong khối Đồng minh hầu như không bị tàn phá mà còn thu được những nguồn lợi kinh tế khổng lồ từ cuộc chiến tranh. Một số ý kiến khác lại cho rằng Lend-Lease thực sự quan trọng trong chiến thắng của Liên Xô. Vào thời đó việc vận tải của Liên Xô phụ thuộc rất nhiều vào đường sắt, nhưng Liên Xô đã chấm dứt sản xuất các thiết bị đường sắt kể từ năm 1941 để chuyển sang sản xuất xe tăng. Lend-Lease đã cung cấp 92% tổng số các thiết bị đường sắt cho Liên Xô bao gồm 1.911 đầu máy xe lửa và 11.225 toa tàu lửa. Khoảng 400 ngàn xe vận tải được Mỹ cung cấp cho Liên Xô, bao gồm cả những dòng xe như Dodge hay Studebaker. Vào năm 1945, gần 1/3 số xe tải vận tải của quân Liên Xô được sản xuất ở Mỹ.. Các nước Đồng minh cũng đã cung cấp 2,586 triệu tấn nhiên liệu máy bay cho không quân Liên Xô, gấp 1,4 lần so với lượng nhiên liệu máy bay mà Liên Xô tự sản xuất. Alexander Pokryshkin (một trong những phi công chiến đấu xuất sắc nhất của không quân Liên Xô) đã có tổng cộng 65 lần bắn hạ máy bay địch, 47 lần trong số đó là với loại Bell P-39 Airacobras do Mỹ cung cấp. Mỹ còn viện trợ một số lượng lớn các phương tiện liên lạc, thức ăn đóng hộp và quần áo cho Liên Xô trong cuộc chiến. Joseph Stalin tại hội nghị Tehran đã công nhận: "Nếu không có nền công nghiệp sản xuất của Mỹ, phe Đồng minh có lẽ sẽ không bao giờ thắng được cuộc chiến này". Nguyên soái Liên Xô Georgi Konstantinovich Zhukov trả lời trong một cuộc phỏng vấn năm 1963 rằng: "...chúng ta không thể phủ nhận được rằng người Mỹ đã cung cấp cho chúng tôi những thứ thiết yếu [thông qua Lend-Lease]", ông cho rằng khoản viện trợ Lend-Lease là một bước ngoặt trong Thế chiến 2.. Lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev viết trong hồi ký: "Stalin đã nói thẳng thừng rằng nếu Hoa Kỳ không giúp đỡ chúng ta [Liên Xô], chúng ta sẽ không thể giành được chiến thắng [...] ". Theo nhà sử học Nga Boris Vadimovich Sokolov, người đã sống 30 năm dưới thời Xô viết, Lend-Lease đã đóng một vai trò rất quan trọng, thậm chí là quyết định trong chiến thắng của Hồng quân Trong cuộc chiến tranh, chính phủ Liên Xô đã cố gắng hạ thấp vai trò của các khoản viện trợ nước ngoài, điều này khiến Đại sứ Mỹ tại Liên Xô lúc đó là William Standley tức giận: "Rõ ràng là họ muốn người dân tin rằng Hồng quân đang chiến đấu một mình trong cuộc chiến này". Cơ quan kiểm duyệt của Nga sau đó đã cho phép phát biểu này của Standley được đăng lên các tờ báo trong cả nước Một số sử gia khác thì dung hòa 2 quan điểm trên, theo đó "lend - lease" không phải là quan trọng sống còn với Liên Xô, nhưng cũng không phải là vô ích. Một số sử gia như M. Harison tin rằng nếu không có "lend - lease", Liên Xô vẫn sẽ chiến thắng, bởi thực tế hầu hết vũ khí của Liên Xô là do họ tự sản xuất (vũ khí "lend - lease" chỉ chiếm khoảng 4% số vũ khí mà Liên Xô sử dụng), tuy nhiên chiến thắng của Liên Xô sẽ đến chậm hơn vài tháng (là quãng thời gian để sản xuất thêm 4% số vũ khí đó). Ngược lại, nếu không có sự tham gia của Liên Xô (chống đỡ 70% lực lượng Đức và chư hầu) thì các nước Đồng Minh còn lại cũng sẽ rất khó có thể đánh bại được khối Phát xít ở châu Âu. Chuyên gia quân sự Nga Andrey Chaplygin tin rằng Liên Xô vẫn sẽ chiến thắng trong cuộc thế chiến dù không có lend - lease, nhưng chương trình này cũng giúp Liên Xô giảm thiểu tổn thất trên con đường đi đến Chiến thắng. Còn đối với Mỹ thì lend-lease trước hết, như chính Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã từng nói: "“Đó là một khoản đầu tư sinh lời”". Một chuyên gia Nga đã nói: "Chúng ta đã hy sinh hàng triệu người (để góp phần cho chiến thắng của Đồng Minh), và họ (Mỹ) muốn chúng ta phải cúi rạp trước mặt họ chỉ vì họ gửi thịt đóng hộp cho chúng ta sao. Một kẻ thực dụng có bao giờ làm bất cứ điều gì mà không đem lại lợi ích cho ông ta? Đừng nói với tôi rằng Lend - lease là một khoản tiền từ thiện". Sau chiến tranh, Mỹ đã yêu cầu Liên Xô trả khoản nợ 1,3 tỷ USD còn lại từ chương trình Lend-Lease, nhưng chính phủ Liên Xô cho biết họ chỉ có thể trả 170 triệu USD. Chính phủ Hoa Kỳ không chấp nhận điều kiện này, dẫn đến các cuộc đàm phán vào năm 1972 và kết quả đã đi tới một thỏa thuận giữa 2 nước, theo đó Liên Xô có nghĩa vụ phải trả đủ 722 triệu USD cho Mỹ cho đến năm 2001. Năm 1990, Mỹ và Liên Xô trở lại đàm phán. Hai bên đã đi đến quyết định rằng đến năm 2030, Liên Xô sẽ trả đủ cho Mỹ khoản tiền là 674 triệu USD. Tuy vậy chỉ 1 năm sau, Liên Xô sụp đổ. Vào năm 1993, chính phủ Nga đã tuyên bố họ sẽ kế thừa các khoản nợ của Liên Xô và sẽ sớm thanh toán khoản nợ cho tất cả số hàng hóa mà Liên Xô đã nhận được theo dự luật Lend-Lease. Cùng với việc nhận hàng lend-lease từ các nước đồng minh, Liên Xô cũng viện trợ ngược cho các nước này. Trong các năm chiến tranh, các nước đồng minh cũng đã nhận từ Liên Xô 300.000 tấn quặng crom, mangan, gỗ, vàng và bạch kim. Liên Xô đã cung cấp một số lượng không rõ các lô hàng khoáng sản quý hiếm cho Hoa Kỳ như một hình thức chi trả cho các chuyến hàng lend-lease do Mỹ cung cấp, điều này đã được thỏa thuận trước khi ký kết nghị định thư đầu tiên vào ngày 1 tháng 10 năm 1941. Một số trong những lô hàng này đã bị phát hiện bởi người Đức. Vào tháng 5 năm 1942, tàu HMS Edinburgh bị chìm trong khi mang theo 4,5 tấn vàng của Liên Xô chở đến cho Hoa Kỳ. Vào tháng 6 năm 1942, tàu SS Port Nicholson bị chìm trên đường từ Halifax, Nova Scotia đến New York, trên tàu chở rất nhiều bạch kim, vàng và kim cương công nghiệp của Liên Xô, xác tàu được phát hiện năm 2008. Phe Trục. Ở châu Âu, cường quốc phe Trục tham chiến chủ yếu là Đức. Đức Quốc xã nhận được sự hỗ trợ từ 9 nước đồng minh tại châu Âu (phát xít Ý, Romania, Bulgaria, Hungary, Phần Lan, Slovakia, Croatia, Vichy Pháp, Tây Ban Nha) và một số vùng lãnh thổ chiếm đóng, 9 nước này đã cung cấp cho Đức khoảng 20% quân số, 1/3 số lao động và hơn một nửa lượng nguyên vật liệu để sản xuất vũ khí. Trên thực tế, Đức Quốc xã không tham chiến riêng lẻ mà đã huy động nguồn nhân lực, toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ nền công nghiệp quân sự của toàn Tây Âu và Trung Âu vào cuộc chiến, trong đó 75% binh lực được dùng để chống Liên Xô Nếu không có sự trợ giúp của 9 nước này, Đức Quốc xã sẽ không thể có đủ nhân lực và tài nguyên để tiến hành chiến tranh tổng lực lâu dài với khối Đồng Minh (ví dụ, sau khi Romania bị Liên Xô đánh bại vào tháng 8/1944 thì Đức cũng bị mất một nửa nguồn cung dầu mỏ, điều này khiến sản lượng vũ khí của Đức sụt giảm nhanh chóng kể từ cuối năm 1944 và quân đội Đức cũng thua chung cuộc chỉ nửa năm sau đó). Khi Đức chiếm được lãnh thổ mới (bằng cách đánh chiếm trực tiếp hoặc bằng cách thiết lập chính phủ bù nhìn ở các nước bị đánh bại), những lãnh thổ mới này buộc phải bán tài nguyên và nông sản cho Đức với giá cực thấp. Một lượng lớn hàng hóa chảy vào Đức từ những vùng bị chinh phục ở phía Tây. Ví dụ, 2/3 trong tất cả các chuyến tàu hỏa ở Pháp vào năm 1941 đã được sử dụng để vận chuyển hàng hóa sang Đức. Na Uy mất 20% thu nhập quốc dân vào năm 1940 và 40% vào năm 1943 để cung cấp cho Đức Do bị thiếu lương thực bởi nhiều nông dân nam đã nhập ngũ, Đức bù đắp sự thiếu hụt đó bằng cách lấy hàng triệu tấn ngũ cốc từ Nam Tư, Hungary và Romania. Nguồn cung cấp dầu của Đức, vốn rất quan trọng cho nỗ lực chiến tranh, phụ thuộc phần lớn vào việc nhập khẩu 1,5 triệu tấn dầu hàng năm, chủ yếu từ Romania. Đức cũng chiếm giữ luôn nguồn cung cấp dầu của các nước bị chinh phục - ví dụ như Pháp Về mặt sản xuất, Đức trưng dụng mọi nhà máy tại các lãnh thổ chiếm đóng, các nhà máy này đã cung cấp rất nhiều vũ khí cho Đức. Ví dụ như loại xe tăng Panzer 38(t) và các biến thể của nó đã được sản xuất tại các nhà máy ở Tiệp Khắc với số lượng lên tới trên 6.600 chiếc Ở châu Á, cường quốc phe Trục tham chiến chủ yếu là Nhật Bản. Tuy nhiên, tiềm năng kỹ nghệ của Nhật yếu hơn so với các nước Đức, Liên Xô, Anh, Mỹ do nước này thiếu các nguồn tài nguyên một cách trầm trọng. Nhật buộc phải nhập khẩu các nguyên liệu như sắt, dầu hoả và than đá vì thiếu các tài nguyên thiên nhiên ở trong nước để duy trì sản xuất công nghiệp vũ khí. Vì vậy, Nhật Bản thành lập một loạt chính phủ bù nhìn ở các vùng chiếm đóng để hỗ trợ quân Nhật khai thác tài nguyên phục vụ chiến tranh. Tiêu biểu như Mãn Châu quốc, Chính phủ Uông Tinh Vệ, chính phủ Thái Lan dưới thời thống chế Plaek Pibulsonggram, chính phủ đệ nhị Cộng hòa tại Philipines, chính phủ Đế quốc Việt Nam... Hậu quả. Tất cả mọi quốc gia trên thế giới đều bị Chiến tranh thế giới thứ hai ảnh hưởng ít nhiều. Phần lớn đã tham chiến theo phía Đồng Minh hay phe Trục, và một số đã theo cả hai. Một số nước được thành lập vì chiến tranh, và một số không tồn tại được. 8 Cường Quốc tham chiến quan trọng nhất được liệt kê sau đây: Tóm tắt. Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc xung đột vũ trang lớn nhất lịch sử. Không cuộc xung đột nào trước đó hay sau đó bao gồm số nước tham gia nhiều hơn, ảnh hưởng diện tích đất lớn hơn, hay giết nhiều mạng người và phá hoại nhiều hơn. Tuy nhiên, sự lớn lao của cuộc chiến này chỉ là một trong nhiều khía cạnh nổi bật nhất của nó. Một số khía cạnh khác đáng được chú ý là:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Hiệu ứng nhà kính diễn ra khi khí quyển hấp thụ nhiệt từ tia cực quang. Hơi nóng từ mặt trời truyền xuống Trái Đất bị giữ lại ở tầng đối lưu, tạo ra hiệu ứng nhà kính ở bề mặt các hành tinh hoặc các Vệ tinh. Cơ cấu hoạt động này không khác nhiều so với một nhà kính (dùng để cho cây trồng) thật, điều khác biệt là nhà kính (cây trồng) có các cơ cấu cách biệt hơi nóng bên trong để giữ ấm không bị mất qua quá trình đối lưu. Hiệu ứng nhà kính được khám phá bởi nhà khoa học Joseph Fourier vào năm 1824, thí nghiệm đầu tiên có thể tin cậy được là bởi nhà khoa học John Tyndall vào năm 1858, và bản báo cáo định lượng kĩ càng được thực hiện bởi nhà khoa học Svante Arrhenius vào năm 1896. Một ví dụ về Hiệu ứng nhà kính làm cho nhiệt độ của không gian bên trong của một nhà trồng cây làm bằng kính tăng lên khi Mặt Trời chiếu vào. Nhờ vào sức ấm này mà cây có thể đâm chồi, ra hoa và kết trái sớm hơn. Ngày nay người ta hiểu khái niệm này rộng hơn, dẫn xuất từ khái niệm này để miêu tả hiện tượng nghẽn nhiệt trong bầu khí quyển của Trái Đất được Mặt Trời chiếu sáng là hiệu ứng nhà kính khí quyển. Trong hiệu ứng nhà kính khí quyển, phần được đoán là do tác động của loài người gây ra được gọi là hiệu ứng nhà kính nhân loại (gia tăng). Hiện nay thế kỷ thứ 21 loài người đang phải đối mặt với tình trạng ấm lên do con người gây ra, tuy nhiên vấn đề vẫn đang được tranh cãi, gây ra nhiều tác hại nguy hiểm. Các vật đen có nhiệt độ từ Trái Đất khoảng 5.5 °C. Từ khi bề mặt Trái Đất phản lại khoảng 28% ánh sáng mặt trời, nếu không có hiệu ứng nhà kính thì nhiệt độ có thể rất thấp khoảng -18 hoặc -19 °C thay vì nhiệt độ có thể cao hơn là khoảng 14 °C. Hiệu ứng nhà kính, xuất phát từ "effet de serre" trong tiếng Pháp, do Jean Baptiste Joseph Fourier lần đầu tiên đặt tên, dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính, được hấp thụ và phân tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong, dẫn đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên trong chứ không phải chỉ ở những chỗ được chiếu sáng. Hiệu ứng này đã được sử dụng từ lâu trong các nhà kính trồng cây. Ngoài ra hiệu ứng nhà kính còn được sử dụng trong kiến trúc, dùng năng lượng mặt trời một cách thụ động để tiết kiệm chất đốt sưởi ấm nhà ở. Hiệu ứng nhà kính khí quyển. Các tia bức xạ sóng ngắn của mặt trời xuyên qua bầu khí quyển đến mặt đất và được phản xạ trở lại thành các bức xạ nhiệt sóng dài. Một số phân tử trong bầu khí quyển, trong đó trước hết là dioxide cacbon và hơi nước, có thể hấp thụ những bức xạ nhiệt này và thông qua đó giữ hơi ấm lại trong bầu khí quyển. Hàm lượng ngày nay của khí dioxide cacbon vào khoảng 0,036% đã đủ để tăng nhiệt độ thêm khoảng 30 °C. Nếu không có hiệu ứng nhà kính tự nhiên này nhiệt độ Trái Đất của chúng ta chỉ vào khoảng –15 °C. Có thể hiểu một cách ngắn gọn như sau: ta biết nhiệt độ trung bình của bề mặt Trái Đất được quyết định bởi cân bằng giữa năng lượng mặt trời chiếu xuống Trái Đất và lượng bức xạ nhiệt của mặt đất vào vũ trụ. Bức xạ nhiệt của mặt trời là bức xạ có sóng ngắn nên dễ dàng xuyên qua tầng ozon và lớp khí CO2 để đi tới mặt đất, ngược lại bức xạ nhiệt từ Trái Đất vào vũ trụ là bức sóng dài, không có khả năng xuyên qua lớp khí CO2 dày và bị CO2 + hơi nước trong khí quyển hấp thụ. Như vậy lượng nhiệt này làm cho nhiệt độ bầu khí quyển bao quanh Trái Đất tăng lên. Lớp khí CO2 có tác dụng như một lớp kính giữ nhiệt lượng tỏa ngược vào vũ trụ của Trái Đất trên quy mô toàn cầu. Bên cạnh CO2 còn có một số khí khác cũng được gọi chung là khí nhà kính như NOx, Methan, CFC. Ở thời kỳ đầu của lịch sử Trái Đất, các điều kiện tạo ra sự sống chỉ có thể xuất hiện vì thành phần của dioxide cacbon trong bầu khí quyển nguyên thủy cao hơn, cân bằng lại lượng bức xạ của mặt trời lúc đó yếu hơn đến khoảng 25%. Cường độ của các tia bức xạ tăng lên với thời gian. Trong khi đó đã có đủ cây cỏ trên Trái Đất, thông qua sự quang hợp, lấy đi một phần khí dioxide cacbon trong không khí tạo nên các điều kiện khí hậu tương đối ổn định. Khí nhà kính. Phần trăm đóng góp vào hiệu ứng nhà kính trên Trái Đất có bốn khí chính là: Các đám mây cũng hấp thụ và phát ra các bức xạ hồng ngoại gây tác động đến tính chất phát xạ nhiệt của tầng khí quyển. Hiệu ứng nhà kính nhân loại. Từ khoảng 100 năm nay, con người tác động mạnh vào sự cân bằng nhạy cảm này giữa hiệu ứng nhà kính tự nhiên và tia bức xạ của mặt trời. Sự thay đổi nồng độ của các khí nhà kính trong vòng 100 năm lại đây (dioxide cacbon tăng 20%, mêtan tăng 90%) đã làm tăng nhiệt độ lên 2 °C. Không nên nhầm lẫn hiệu ứng nhà kính nhân loại với việc làm tổn thất đến lớp khí ôzôn ở tầng bình lưu cũng do loài người gây ra. Những ảnh hưởng xảy ra do hiệu ứng nhà kính nhân tạo. Phần lớn các nhà khoa học ủng hộ giả thuyết cho rằng việc tăng nồng độ các khí nhà kính do loài người gây ra, hiệu ứng nhà kính nhân loại, sẽ làm tăng nhiệt độ trên toàn cầu (sự nóng lên của khí hậu toàn cầu) và như vậy sẽ làm thay đổi khí hậu trong các thập kỷ và thập niên kế đến. Giả thuyết này bị phủ nhận bởi một số người gọi là nhà phê bình khí hậu mà con số các nhà khoa học trong họ đã giảm đi rõ rệt trong những năm vừa qua. Sau đây là một số hậu quả liên đới với việc thay đổi khí hậu do hiệu ứng này có thể gây ra: Nhiệt độ tăng lên làm tăng các quá trình chuyển hóa sinh học cũng như hóa học trong cơ thể sống, gây nên sự mất cân bằng. • Những khối băng ở hai cực đang tan nhanh trong những năm gần đây và do đó mực nước biển sẽ tăng quá cao, có thể dẫn đến nạn hồng thủy.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Khí quyển Trái Đất là lớp các chất khí bao quanh hành tinh Trái Đất và được giữ lại bởi lực hấp dẫn của Trái Đất. Nó gồm có nitơ (78,1% theo thể tích) và oxy (20,9%), với một lượng nhỏ argon (0,9%), carbon dioxide (dao động, khoảng 0,035%), hơi nước và một số chất khí khác. Bầu khí quyển bảo vệ cuộc sống trên Trái Đất bằng cách hấp thụ các bức xạ tia cực tím của mặt trời và tạo ra sự thay đổi về nhiệt độ giữa ngày và đêm. Bầu khí quyển không có ranh giới rõ ràng với khoảng không vũ trụ nhưng mật độ không khí của bầu khí quyển giảm dần theo độ cao. Ba phần tư khối lượng khí quyển nằm trong khoảng 11 km đầu tiên của bề mặt hành tinh. Tại Mỹ, những người có thể lên tới độ cao trên 50 dặm (80,5 km) được coi là những nhà du hành vũ trụ. Độ cao 120 km (75 dặm hay 400.000 ft) được coi là ranh giới do ở đó các hiệu ứng khí quyển có thể nhận thấy được khi quay trở lại. Đường Karman, tại độ cao 100 km (62 dặm), cũng được sử dụng như là ranh giới giữa khí quyển Trái Đất và khoảng không vũ trụ. Nhiệt độ và các tầng khí quyển. Nhiệt độ của khí quyển Trái Đất biến đổi theo độ cao so với mực nước biển; mối quan hệ toán học giữa nhiệt độ và độ cao so với mực nước biển biến đổi giữa các tầng khác nhau của khí quyển: Ranh giới giữa các tầng được gọi là ranh giới đối lưu hay "đỉnh tầng đối lưu", ranh giới bình lưu hay "đỉnh tầng bình lưu" và ranh giới trung lưu hay "đỉnh tầng trung lưu" v.v. ở tầng này có mặt các ion O+ (<1500 km), He+(<1500), H+(>1500 km). Một phần hiđrô của Trái Đất (khoảng vài nghìn tấn/năm) được tách ra đi vào vũ trụ đồng thời các dòng plasma do môi trường thải ra là bụi vũ trụ (khoảng 2g/km²) cũng đi vào Trái Đất. Giới hạn trên của đoạn khí quyển và đoạn chuyển tiếp với vũ trụ rất khó xác định, ước đoán khoảng 1.000 km. Nhiệt độ trung bình của khí quyển tại bề mặt Trái Đất là khoảng 14 °C. Áp suất. Áp suất khí quyển có được là do trọng lượng của lớp vỏ không khí bao bọc xung quanh Trái Đất tác dụng lên vật thể đặt trong nó. Thành phần. carbon dioxide và mêtan cập nhật (năm 1998) theo IPCC bảng TAR 6.1 . Tuy nhiên, theo báo cáo gần đây của các nhà khí tượng Mỹ NOAA ghi nhận thì nồng độ CO2 trong bầu khí quyển đã gia tăng tới mức kỷ lục mới. Nồng độ CO2 cao nhất đo được khoảng 400 ppmv. Các nhà khí tượng lo ngại đây chính là một nhân tố có thể gây những thay đổi bất ngờ của khí hậu. Khối lượng phân tử trung bình của không khí khoảng 28,97 g/mol. Mật độ và khối lượng. Mật độ của không khí tại mực nước biển là khoảng 1,2 kg/m³. Sự thay đổi tự nhiên của khí áp ở bất kỳ độ cao nào đều là nguyên nhân của sự thay đổi thời tiết. Sự thay đổi này là tương đối nhỏ ở các độ cao thấp nhưng là rất lớn ở các độ cao lớn vì sự thay đổi của bức xạ mặt trời. Mật độ của khí quyển giảm theo độ cao và có thể mô hình hóa một cách xấp xỉ theo công thức khí áp. Những công thức có độ chính xác cao hơn được các nhà khí tượng học và các trung tâm vũ trụ sử dụng để dự báo thời tiết và tính toán tình trạng quỹ đạo của các vệ tinh. Tổng khối lượng của bầu khí quyển khoảng 5,1 × 1018 kg, hay khoảng 0,9 ppm của khối lượng Trái Đất. Tỷ lệ phần trăm trên đây được tính theo thể tích. Giả sử các chất khí là những khí lý tưởng, chúng ta có thể tính toán tỷ lệ theo khối lượng. Khi đó thành phần theo khối lượng của không khí là 75,523% N2, 23,133% O2, 1,288% Ar, 0,053% CO2, 0,001267% Ne, 0,00029% CH4, 0,00033% Kr, 0,000724% He và 0,0000038% H2. Các tầng khí quyển khác. Các khu vực của khí quyển có thể đặt tên theo các cách gọi khác: Sự tiến hóa của khí quyển Trái Đất. Lịch sử của bầu khí quyển Trái Đất trong thời gian một tỷ năm trước đây vẫn chưa được hiểu rõ lắm. Hiện nay bầu khí quyển Trái Đất vẫn là một đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học. Bầu khí quyển ngày nay đôi khi vẫn được gọi là "bầu khí quyển thứ ba" trong sự so sánh về thành phần hóa học so với hai bầu khí quyển trước đây. Bầu khí quyển nguyên thủy chủ yếu là heli và hiđrô; nhiệt (từ lớp vỏ Trái Đất khi đó vẫn nóng chảy và từ Mặt Trời) đã làm tiêu tan bầu khí quyển này. Khoảng 3,5 tỷ năm trước, bề mặt Trái Đất nguội dần đi để tạo thành lớp vỏ, chủ yếu là các núi lửa phun trào nham thạch, dioxide carbon và amonia. Đây là "bầu khí quyển thứ hai"; nó chứa chủ yếu là CO2 và hơi nước, với một ít nitơ nhưng vẫn chưa có oxy. Bầu khí quyển thứ hai này có thể tích khoảng ~100 lần khí quyển hiện nay. Nhìn chung, người ta tin rằng hiệu ứng nhà kính, sinh ra bởi mật độ cao của dioxide carbon đã giữ cho Trái Đất không bị đóng băng. Trong vài tỷ năm tiếp theo, hơi nước ngưng tụ để tạo thành mưa và các đại dương để hòa tan dioxide carbon. Khoảng 50% dioxide carbon có lẽ đã bị hấp thụ bởi các đại dương. Một trong những dạng vi khuẩn có mặt sớm nhất trên Trái Đất là vi khuẩn lam. Các chứng cứ hóa thạch đã chỉ ra rằng các vi khuẩn này có mặt khoảng 3,3 tỷ năm trước và là những sinh vật sinh sống bằng quang hợp để sản xuất ra oxy. Chúng là những sinh vật đầu tiên chuyển đổi khí quyển từ trạng thái không oxy sang trạng thái có oxy. Cây cối quang hợp tạo ra nhiều sự tiến hóa và chuyển đổi được nhiều hơn dioxide carbon thành oxy. Theo thời gian, lượng carbon dư thừa tạo thành các nguồn nhiên liệu hóa thạch ngày nay cũng như đá trầm tích nhất là đá vôi và các lớp động vật. Oxy được giải phóng tương tác với amonia để tạo ra nitơ; ngoài ra vi khuẩn cũng có thể chuyển đổi amonia thành nitơ. Khi cây cối xuất hiện nhiều hơn thì lượng oxy tăng lên một cách đáng kể (trong khi lượng dioxide carbon giảm đi). Đầu tiên oxy tương tác với các nguyên tố khác như sắt chẳng hạn, nhưng cuối cùng chúng tích tụ trong khí quyển — là kết quả của sự tiêu hủy hàng loạt cũng như các tiến hóa trong một thời gian dài. Với sự xuất hiện của lớp ôzôn, các loại hình sinh vật sống được bảo vệ tốt hơn trước bức xạ tử ngoại. Bầu khí quyển chứa oxy-nitơ này là "bầu khí quyển thứ ba".
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Nước là một hợp chất vô cơ, không màu , không mùi , không vị , là thành phần chính của thủy quyển Trái đất và chất lỏng trong tất cả các sinh vật sống đã biết (trong đó nó hoạt động như một dung môi). Nước rất quan trọng đối với tất cả các dạng sống đã biết, mặc dù nó không cung cấp calo hoặc chất dinh dưỡng hữu cơ. Công thức hóa học của nó là H2O, có nghĩa là mỗi phân tử của nó chứa một nguyên tử oxy và hai nguyên tử hydro, được nối với nhau bằng liên kết cộng hóa trị. Hai nguyên tử hydro liên kết với một nguyên tử oxy một góc 104,45°. "Nước" là tên trạng thái lỏng của H2O ở điều kiện tiêu chuẩn về nhiệt độ và áp suất. Nó tạo thành kết tủa dưới dạng mưa và sol khí dưới dạng sương mù. Mây bao gồm những giọt nước và băng lơ lửng, ở trạng thái rắn. Khi được phân chia dạng mịn, nước đá kết tinh có thể kết tủa dưới dạng tuyết. Trạng thái khí của nước là hơi nước. Nước bao phủ 71% bề mặt Trái đất, chủ yếu ở các biển và đại dương. Một phần nhỏ nước xuất hiện dưới dạng nước ngầm (1,7%), trong các sông băng và chỏm băng ở Nam Cực và Greenland (1,7%), và trong không khí dưới dạng hơi, mây (bao gồm băng và nước lỏng lơ lửng trong không khí) và giáng thủy (0,001%). Nước di chuyển liên tục theo chu trình nước bốc hơi, thoát hơi nước, ngưng tụ, kết tủa và dòng chảy, thường là đi ra biển. Nước đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Khoảng 70% lượng nước ngọt mà con người sử dụng được dùng cho nông nghiệp. Đánh bắt cá ở các vùng nước mặn và nước ngọt là nguồn cung cấp thực phẩm chính cho nhiều nơi trên thế giới. Phần lớn thương mại đường dài của các hàng hóa (như dầu mỏ, khí đốt tự nhiên và các sản phẩm chế tạo) được vận chuyển bằng thuyền qua các biển, sông, hồ và kênh đào. Một lượng lớn nước, đá và hơi nước được sử dụng để làm mát và sưởi ấm, trong công nghiệp và gia đình. Nước là một dung môi tuyệt vời cho nhiều loại chất cả vô cơ và hữu cơ; vì vậy nó được sử dụng rộng rãi trong các quy trình công nghiệp, nấu ăn và giặt giũ. Nước, băng và tuyết cũng là trung tâm của nhiều môn thể thao và các hình thức giải trí khác, chẳng hạn như bơi lội, chèo thuyền giải trí, đua thuyền, lướt sóng, câu cá thể thao, lặn, trượt băng và trượt tuyết. Cấu tạo và tính chất của phân tử nước. Hương vị và mùi. Nước tinh khiết thường được mô tả là không vị và không mùi, mặc dù con người có cảm biến đặc biệt có thể cảm nhận được sự có mặt của nước trong miệng, và ếch được biết là có khả năng ngửi thấy nó. Tuy nhiên, nước từ các nguồn thông thường (bao gồm nước khoáng đóng chai) thường có nhiều chất hòa tan, có thể làm cho nó có nhiều hương vị và mùi khác nhau. Con người và các động vật khác đã phát triển những giác quan cho phép họ đánh giá được chất lượng của nước bằng cách tránh nước quá mặn hoặc quá hôi. Màu sắc và hình dáng. Màu sắc tự nhiên của nước thường được xác định bởi các chất rắn lơ lửng và chất lơ lửng, hoặc bằng cách phản chiếu bầu trời, hơn là do nước. Điều này có nghĩa là màu sắc của nước phụ thuộc vào góc phản xạ và khúc xạ của ánh sáng chiếu đến. Ánh sáng trong phổ điện từ nhìn thấy có thể đi qua một vài mét nước tinh khiết (hoặc băng) mà không có sự hấp thụ đáng kể, vì vậy nó trông trong suốt và không màu.  Như vậy thực vật thủy sinh, tảo, và sinh vật quang hợp khác có thể sống trong nước sâu đến hàng trăm mét, bởi vì ánh sáng mặt trời có thể tiếp cận chúng. Hơi nước cơ bản không nhìn thấy được như một chất khí. Tuy nhiên, với độ dày 10 mét trở lên, màu sắc của nước (hoặc băng) là màu ngọc lam (màu xanh lục nhạt), vì phổ hấp thụ của nó có độ sắc nét tối thiểu ở màu tương ứng của ánh sáng (1/227 m −1 tại 418 nm). Màu sắc trở nên ngày càng mạnh mẽ và tối hơn với độ dày ngày càng tăng. (Thực tế không có ánh sáng mặt trời đến được các phần của đại dương dưới độ sâu 1000 mét) Mặt khác, tia cực tím bị nước hấp thụ mạnh. Và do thiếu ánh sáng và áp lực vô cùng lớn, như Rãnh Mariana, hơn formula_1 formula_2. Do đó không sinh vật nào có thể sống dưới đáy đại dương này. Các chỉ số khúc xạ của nước lỏng ( 1.333 ở 20 °C ) là cao hơn nhiều so với không khí (1.0), tương tự như của alkan và ethanol, nhưng thấp hơn so với glycerol (1,473), benzen (1,501), carbon disulfide (1.627), và các loại kính phổ biến ( 1.4 đến 1.6 ). Chỉ số khúc xạ của băng (1.31) thấp hơn lượng nước. Nước không có hình dạng nhất định, nó chỉ tồn tại hình dạng tại một thời điểm trong vật mà nó chứa. Nó có cấu trúc phân tử di chuyển trượt lên nhau và do đó nước rất dễ mất hình dạng, tuy vậy nước rất khó nén, lợi dụng tính chất này, người ta áp dụng nguyên lý Pascal cho các máy nén thủy lực. Xem thêm: Định luật Pascal Hình học của phân tử nước. Phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hydrogen và một nguyên tử oxygen. Về mặt hình học thì phân tử nước có góc liên kết là 104,45°. Do các cặp điện tử tự do chiếm nhiều chỗ nên góc này sai lệch đi so với góc lý tưởng của hình tứ diện. Chiều dài của liên kết O-H là 95,84 picômét. Tính lưỡng cực. Oxygen có độ âm điện cao hơn hydrogen. Việc cấu tạo thành hình ba góc và việc tích điện từng phần khác nhau của các nguyên tử đã dẫn đến cực tính dương ở các nguyên tử hydrogen và cực tính âm ở nguyên tử oxygen, gây ra sự lưỡng cực. Dựa trên hai cặp điện tử đơn độc của nguyên tử oxygen, lý thuyết VSEPR đã giải thích sự sắp xếp thành góc của hai nguyên tử hydrogen, việc tạo thành moment lưỡng cực và vì vậy mà nước có các tính chất đặc biệt. Vì phân tử nước có tích điện từng phần khác nhau nên một số sóng điện từ nhất định như sóng cực ngắn có khả năng làm cho các phân tử nước dao động, dẫn đến việc nước được đun nóng. Hiện tượng này được áp dụng để chế tạo lò vi sóng. Liên kết hiđrô. Các phân tử nước tương tác lẫn nhau thông qua liên kết hydrogen và nhờ vậy có lực hút phân tử lớn. Đây không phải là một liên kết bền vững. Liên kết của các phân tử nước thông qua liên kết hiđrô chỉ tồn tại trong một phần nhỏ của một giây, sau đó các phân tử nước tách ra khỏi liên kết này và liên kết với các phân tử nước khác. Đường kính nhỏ của nguyên tử hydrogen đóng vai trò quan trọng cho việc tạo thành các liên kết hydrogen, bởi vì chỉ có như vậy nguyên tử hydrogen mới có thể đến gần nguyên tử oxygen một chừng mực đầy đủ. Các chất tương đương của nước, Ví dụ như acid sulfuric (H2S), không tạo thành các liên kết tương tự vì hiệu số điện tích quá nhỏ giữa các phần liên kết. Việc tạo chuỗi của các phân tử nước thông qua liên kết cầu nối hydrogen là nguyên nhân cho nhiều tính chất đặc biệt của nước, ví dụ như nước mặc dù có khối lượng mol nhỏ vào khoảng 18 g/mol vẫn ở thể lỏng trong điều kiện tiêu chuẩn. Ngược lại, H2S tồn tại ở dạng khí cùng ở trong những điều kiện này. Nước có khối lượng riêng lớn nhất ở 4 độ Celcius và nhờ vào đó mà băng đá có thể nổi lên trên mặt nước; hiện tượng này được giải thích nhờ vào liên kết cầu nối hiđrô. Các tính chất hóa lý của nước. Cấu tạo của phân tử nước tạo nên các liên kết hiđrô giữa các phân tử là cơ sở cho nhiều tính chất của nước. Cho đến nay một số tính chất của nước vẫn còn là câu đố cho các nhà nghiên cứu mặc dù nước đã được nghiên cứu từ lâu. Nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ sôi của nước đã được Anders Celsius dùng làm hai điểm mốc cho độ bách phân Celcius. Cụ thể, nhiệt độ đóng băng của nước là 0 độ Celcius, còn nhiệt độ sôi (760 mmHg) bằng 100 độ Celcius. Nước đóng băng được gọi là nước đá. Nước đã hóa hơi được gọi là hơi nước. Nước có nhiệt độ sôi tương đối cao nhờ liên kết hiđrô. Dưới áp suất bình thường nước có khối lượng riêng (tỷ trọng) cao nhất là ở 4 °C: 1 g/cm³ đó là vì nước vẫn tiếp tục giãn nở khi nhiệt độ giảm xuống dưới 4 °C. Điều này không được quan sát ở bất kỳ một chất nào khác. Điều này có nghĩa là: Với nhiệt độ trên 4 °C, nước có đặc tính giống mọi vật khác là nóng nở, lạnh co; nhưng với nhiệt độ dưới 4 °C, nước lại lạnh nở, nóng co. Do hình thể đặc biệt của phân tử nước ( với góc liên kết 104,45° ), khi bị làm lạnh các phân tử phải dời xa ra để tạo liên kết tinh thể lục giác mở. Vì vậy mà tỉ trọng của nước đá nhẹ hơn nước thể lỏng. Nước là một dung môi tốt nhờ vào tính lưỡng cực. Các hợp chất phân cực hoặc có tính ion như acid, rượu và muối đều dễ tan trong nước. Tính hòa tan của nước đóng vai trò rất quan trọng trong sinh học vì nhiều phản ứng hóa sinh chỉ xảy ra trong dung dịch nước. Nước tinh khiết không dẫn điện. Mặc dù vậy, do có tính hòa tan tốt, nước hay có tạp chất pha lẫn, thường là các muối, tạo ra các ion tự do trong dung dịch nước cho phép dòng điện chạy qua. Về mặt hóa học, nước là một chất lưỡng tính, có thể phản ứng như một, có thể hiểu đơn giản khi một oxide acid hoặc một oxide base tác dụng với nước sẽ tạo ra dung dịch acid hay base tương ứng. Ở 7 pH (trung tính) hàm lượng các ion hydroxide (OH-) cân bằng với hàm lượng của hydronium (H3O+). Khi phản ứng với một axit mạnh hơn ví dụ như HCl, nước phản ứng như một chất kiềm: Với ammoniac nước lại phản ứng như một axit: Điều chế. Trong công nghiệp. Trong công nghiệp, nước có thể hóa lỏng bằng cách làm tan băng đá, hoặc lọc từ nước biển và các nguồn nước không tinh khiết bằng các phương pháp khác nhau như lọc, chiết, tách, chưng cất (Chưng cất là một phương pháp tách dùng nhiệt để tách hỗn hợp đồng thể của các chất lỏng khác nhau. Chất rắn hòa tan, ví dụ như các loại muối, được tách ra khỏi chất lỏng bằng cách kết tinh. Dung dịch muối có thể làm cô đặc bằng cách cho bay hơi), bốc hơi nước... có sự kết hợp của ngưng tụ. Trong phòng thí nghiệm. Chủ yếu người ta dùng cách cho H2 tác dụng với O2 để xảy ra phản ứng hóa hợp tạo nước nhưng nguy hiểm vì nó phát nổ, khi tỉ lệ H:O là 2:1 thì hỗn hợp nổ mạnh nhất. Ta có phương trình điều chế nước như sau: "t°" 2H2 + O2 ―→ 2H2O Trong sinh hoạt. Hiện nay nguồn nước mà người dân sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày thường được lấy từ: Hệ thống cung cấp nước tập trung (nước máy), nước mưa, nước giếng khơi, nước máng lần, nước giếng khoan… Nước trong đời sống. Sự sống trên Trái Đất bắt nguồn từ trong nước. Tất cả các dạng sống trên Trái Đất đều phụ thuộc vào nước và vòng tuần hoàn nước. Nước có ảnh hưởng quyết định đến khí hậu và là nguyên nhân tạo ra thời tiết. Năng lượng mặt trời sưởi ấm không đồng đều các đại dương đã tạo nên các dòng hải lưu trên toàn cầu. Dòng hải lưu Gulf Stream vận chuyển nước ấm từ vùng Vịnh Mexico đến Bắc Đại Tây Dương làm ảnh hưởng đến khí hậu của vài vùng châu Âu. Nước là thành phần quan trọng của các tế bào sinh học và là môi trường của các quá trình sinh hóa cơ bản như quang hợp. Hơn 75% diện tích của Trái Đất được bao phủ bởi nước. Lượng nước trên Trái Đất có vào khoảng 1,38 tỉ km³. Trong đó 97,4% là nước mặn trong các đại dương trên thế giới, phần còn lại, 2,6%, là nước ngọt, tồn tại chủ yếu dưới dạng băng tuyết đóng ở hai cực và trên các ngọn núi, chỉ có 0,3% nước trên toàn thế giới (hay 3,6 triệu km³) là có thể sử dụng làm nước uống. Việc cung cấp nước uống sẽ là một trong những thử thách lớn nhất của loài người trong vài thập niên tới đây. Nguồn nước cũng đã là nguyên nhân gây ra một trong những cuộc chiến tranh ở Trung Cận Đông. Nước được sử dụng trong công nghiệp từ lâu như là nguồn nhiên liệu (cối xay nước, máy hơi nước, nhà máy thủy điện) như là chất trao đổi nhiệt. Nhà triết học người Hy Lạp Empedocles đã coi nước là một trong bốn nguồn gốc tạo ra vật chất (bên cạnh lửa, đất và không khí). Nước cũng nằm trong Ngũ Hành của triết học cổ Trung Hoa. Với tình trạng ô nhiễm ngày một nặng và dân số ngày càng tăng, nước sạch dự báo sẽ sớm trở thành một thứ tài nguyên quý giá không kém dầu mỏ trong thế kỷ trước. Nhưng không như dầu mỏ có thể thay thế bằng các loại nhiên liệu khác như điện, nhiên liệu sinh học, khí đốt..., nước không thể thay thế và trên thế giới tất cả các dân tộc đều cần đến nó để bảo đảm cuộc sống của mình, cho nên vấn đề nước trở thành chủ đề quan trọng trên các hội đàm quốc tế và những mâu thuẫn về nguồn nước đã được dự báo trong tương lai. Tuy nhiên gần đây người ta đã lọc được nước biển từ một thiết bị lọc rẻ tiền và từ đó giải quyết được vấn đề thiếu nước. Trong văn hóa. Triết học. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Empedocles coi nước là một trong bốn nguyên tố cổ điển (cùng với lửa, đất và không khí), và coi nó như một ylem, hay chất cơ bản của vũ trụ. Thales, người Aristotle miêu tả là một nhà thiên văn học và một kỹ sư, đã đưa ra giả thuyết rằng đất, đặc hơn nước, nổi lên từ nước. Thales, một nhà theo thuyết nhất nguyên, còn tin rằng mọi thứ đều được tạo ra từ nước. Plato tin rằng hình dạng của nước là nhị thập diện – chảy dễ dàng so với trái đất hình lập phương. Lý thuyết về bốn chất của cơ thể liên kết nước với đờm, là lạnh và ẩm. nguyên tố cổ điển nước cũng là một trong ngũ hành trong triết học Trung Quốc truyền thống (cùng với đất (thổ), lửa (hỏa), gỗ (mộc) và kim loại (kim)). Một số hệ thống triết học châu Á truyền thống và phổ biến lấy nước làm hình mẫu. Bản dịch "Đạo Đức Kinh" của James Legge năm 1891 nói rằng, "Tính ưu việt cao nhất giống như nước. Tính ưu việt của nước thể hiện ở chỗ nó mang lại lợi ích cho vạn vật, và trong sự chiếm chỗ của nó, không tranh giành (với các thế lực đối nghịch), ở nơi thấp mà tất cả mọi người đều không thích. Do đó (cách của nó) gần với (đường lối của) Đạo" và "Không có gì trên thế giới mềm yếu hơn hơn nước, nhưng để tấn công những thứ chắc chắn và mạnh mẽ thì không có thứ gì có thể hơn nó." Trong "Guanzi", chương "Thủy di" (水地) nói thêm về biểu tượng của nước, tuyên bố rằng "con người là nước" và tại tôn vinh phẩm chất tự nhiên của người dân ở các vùng khác nhau của Trung Quốc đối với đặc điểm của nguồn nước địa phương.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Albert Einstein (; :</br> An-bớt Anh-xtanh; 14 tháng 3 năm 1879 –18 tháng 4 năm 1955) là một nhà vật lý lý thuyết người Đức, được công nhận là một trong những nhà vật lý vĩ đại nhất mọi thời đại. Người đã phát triển thuyết tương đối tổng quát, một trong hai trụ cột của vật lý hiện đại (trụ cột còn lại là cơ học lượng tử). Mặc dù được biết đến nhiều nhất qua phương trình về sự tương đương khối lượng-năng lượng được xem là "phương trình nổi tiếng nhất thế giới", ông lại được trao Giải Nobel Vật lý năm 1921 "cho những cống hiến của ông đối với vật lý lý thuyết, và đặc biệt cho sự khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện". Công trình về hiệu ứng quang điện của ông mang tính bước ngoặt khai sinh ra lý thuyết lượng tử. Khi bắt đầu sự nghiệp của mình, Einstein đã nhận ra cơ học Newton không còn có thể thống nhất các định luật của cơ học cổ điển với các định luật của trường điện từ. Từ đó ông phát triển thuyết tương đối đặc biệt, với các bài báo đăng trong năm 1905. Tuy nhiên, ông nhận thấy nguyên lý tương đối có thể mở rộng cho cả trường hấp dẫn, và điều này dẫn đến sự ra đời của lý thuyết về hấp dẫn trong năm 1916 - năm ông xuất bản một bài báo về thuyết tương đối tổng quát. Ông tiếp tục nghiên cứu các bài toán của cơ học thống kê và lý thuyết lượng tử, trong đó đưa ra những giải thích về lý thuyết hạt và sự chuyển động của các phân tử. Ông cũng nghiên cứu các tính chất nhiệt học của ánh sáng và đặt cơ sở cho lý thuyết lượng tử ánh sáng. Năm 1917, Einstein sử dụng thuyết tương đối tổng quát để miêu tả mô hình cấu trúc của toàn thể vũ trụ. Cùng với Satyendra Nath Bose, năm 1924-1925 ông tiên đoán một trạng thái vật chất mới đó là ngưng tụ Bose-Einstein của những hệ lượng tử ở trạng thái gần độ không tuyệt đối. Tuy cũng là cha đẻ của thuyết lượng tử, nhưng ông lại tỏ ra khắt khe với lý thuyết này. Điều này thể hiện qua những tranh luận của ông với Niels Bohr và nghịch lý EPR về lý thuyết lượng tử. Khi ông đang thăm Hoa Kỳ thì Adolf Hitler lên nắm quyền vào năm 1933, do vậy ông đã không trở lại nước Đức, nơi ông đang là giáo sư ở Viện Hàn lâm Khoa học Berlin. Ông định cư tại Hoa Kỳ và chính thức trở thành công dân Mỹ vào năm 1940. Vào lúc sắp diễn ra Chiến tranh thế giới lần hai, ông đã ký vào một lá thư cảnh báo Tổng thống Franklin D. Roosevelt rằng Đức Quốc Xã có thể đang nghiên cứu phát triển "một loại bom mới cực kỳ nguy hiểm" và khuyến cáo nước Mỹ nên có những nghiên cứu tương tự. Điều đó dẫn đến sự ra đời của Dự án Manhattan sau này. Einstein ủng hộ việc bảo vệ các lực lượng Đồng Minh, nhưng nhìn chung, ông chống lại việc sử dụng phát kiến mới về phân hạch hạt nhân làm vũ khí. Sau này, cùng với nhà triết học người Anh Bertrand Russell, ông đã ký Tuyên ngôn Russell–Einstein, nêu bật sự nguy hiểm của vũ khí hạt nhân. Einstein làm việc tại Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, New Jersey cho đến khi ông qua đời vào năm 1955. Einstein đã công bố hơn 300 bài báo khoa học và hơn 150 bài viết khác về những chủ đề khác nhau, ông cũng nhận được nhiều bằng tiến sĩ danh dự trong khoa học, y học và triết học từ nhiều cơ sở giáo dục đại học ở châu Âu và Bắc Mỹ. Ông được tạp chí Time bầu chọn là thế kỷ 20. Tiểu sử. Thời niên thiếu và trường học. Albert Einstein sinh ra trong một gia đình gốc Do Thái tại thành phố Ulm, bên dòng sông Danube, tiểu bang Baden-Württemberg, nước Đức ngày 14 tháng 3 năm 1879. Bố là ông Hermann Einstein, một kĩ sư đồng thời là nhân viên bán hàng, còn mẹ là Pauline Einstein (nhũ danh Koch). Năm 1880, gia đình chuyển đến München, tại đây bố và bác ông mở công ty Elektrotechnische Fabrik J. Einstein & Cie, chuyên sản xuất các thiết bị điện một chiều. Dù là dân Do Thái, gia đình Einstein không theo Do Thái giáo. Albert học trường tiểu học Công giáo lúc 5 tuổi trong vòng 3 năm. Sau đó, lên 8 tuổi, Einstein được chuyển đến trường nơi cậu học tiểu học và trung học trong vòng 7 năm trước khi rời nước Đức. Mặc dù lúc còn bé, Einstein nói rất khó khăn, nhưng cậu vẫn học giỏi các môn khoa học tự nhiên ở trường Công giáo. Ông là người viết tay phải; và không có hình ảnh cụ thể nào để tin một cách rộng rãi rằng ông viết tay trái. Bố Einstein có lần chỉ cho cậu cái la bàn bỏ túi, và Einstein nhận thấy phải có cái gì đó làm cho kim chuyển động, mặc dù chỉ có "không gian trống rỗng" quanh cái kim. Khi lớn lên, Einstein tự làm các mô hình và thiết bị cơ học để nghịch và bắt đầu biểu lộ năng khiếu toán học của mình. Năm 1889, Max Talmud (sau đổi tên thành Max Talmey) chỉ cho cậu bé 10 tuổi Einstein những quyển sách cơ bản của khoa học, toán học và triết học, bao gồm "Phê phán lý tính thuần túy" của Immanuel Kant và cuốn "Cơ bản" của Euclid (sau này Einstein gọi là "sách hình học nhỏ thần thánh"). Talmud là một sinh viên y khoa Do thái nghèo đến từ Ba Lan. Cộng đồng người Do thái sắp xếp cho Talmud ăn cùng với Einstein vào các ngày thứ Năm trong tuần trong vòng sáu năm. Trong thời gian này Talmud đã tận tâm hướng dẫn Einstein đến với nhiều chủ đề thú vị. Năm 1894, công ty của bố cậu bị phá sản do ngành công nghiệp điện thay thế dòng điện một chiều (DC) bằng dòng Điện xoay chiều (AC). Để tìm lĩnh vực kinh doanh mới, gia đình Einstein chuyển đến Ý, ban đầu đến Milan vài tháng sau đó là Pavia. Khi gia đình chuyển đến Pavia, Einstein ở lại München để hoàn thành việc học tại Luitpold Gymnasium. Bố Einstein dự định muốn anh theo học kĩ thuật điện, nhưng Einstein tranh cãi với hội đồng giáo dục với việc học và dạy giáo điều tại đây. Sau này ông viết rằng tinh thần học và tính sáng tạo bị mất đi trong sự giới hạn của phương pháp dạy và học thuộc lòng. Cuối tháng 12 năm 1894, anh tìm cách quay trở lại với gia đình ở Pavia, với thuyết phục nhà trường cho anh nghỉ bằng cách dùng nhận xét của bác sĩ về sức khỏe của anh. Trong thời gian ở Ý, Einstein đã viết một tiểu luận khoa học ngắn với nhan đề, "Khảo cứu trạng thái Ether trong từ trường". Cuối hè 1895, ở tuổi 16, Einstein tham gia thi tuyển vào trường Bách khoa liên bang Thụy Sĩ ở Zurich (tên Thụy Sĩ sau này Eidgenössische Polytechnische Schule). Ông không trúng tuyển do không đạt điểm chuẩn ở một số môn, mặc dù có điểm cao ở môn Vật lý và Toán học. Theo lời khuyên của hiệu trưởng trường ETH Zürich, anh tiếp tục học trường thành bang Aargau ở Aarau, Thụy Sĩ, năm 1895-96 để hoàn thiện bậc học phổ thông. Trong khi ở trọ với gia đình giáo sư Jost Winteler, anh đã yêu cô con gái của gia đình tên là Marie. (Em gái Maja Einstein sau này lấy người con trai của Wintelet, Paul) Tháng 1 năm 1896, với sự đồng ý của bố anh, Einstein đã từ bỏ quyền công dân của vương quốc Württemberg để tránh nghĩa vụ quân sự. (Ông trở thành công dân Thụy Sĩ 5 năm sau, tháng 2 năm 1901.) Tháng 9 năm 1896, ông tốt nghiệp bậc học phổ thông của Thụy Sĩ với điểm số cao (bao gồm điểm 6 trong hai môn Vật lý và Toán học, theo thang điểm 1-6), và ở tuổi 17, anh đỗ vào chương trình cử nhân sư phạm Vật lý và Toán học của trường ETH Zürich. Marie Winteler chuyển đến làm giáo viên ở Olsberg, Thụy Sĩ. Trong cùng năm, Mileva Marić, người vợ tương lai của Einstein, cũng vào trường ETH Zürich để học làm giáo viên Toán và Vật lý, và là thiếu nữ duy nhất trong 6 sinh viên của lớp học. Tình bạn của hai người phát triển thành tình yêu trong các năm sau đó và họ đã cùng nhau đọc các sách Vật lý mà Einstein đang quan tâm đến. Năm 1900, Einstein tốt nghiệp cử nhân sư phạm ETH Zürich, nhưng Marić lại trượt bài thi do có điểm kém trong chuyên đề Lý thuyết hàm. Đã có những ý kiến cho rằng Mileva Marić hỗ trợ cùng Einstein trong các bài báo đột phá năm 1905, nhưng các nhà lịch sử vật lý học không tìm thấy một chứng cứ nào cho những đóng góp của bà. Gia đình. Cuối tháng 1 năm 1902, khi Einstein đang ở Berne, Marić đã sinh con gái đầu lòng tên là Lieserl theo như thư từ trao đổi giữa hai người; lúc đó Mileva đang ở nhà bố mẹ đẻ mình sống ở Novi Sad. Tên đầy đủ của con họ không được biết, và Lieserl sống đến khoảng sau năm 1903 có thể là do bị sốt ban đỏ. Einstein và Marić cưới nhau vào tháng 1 năm 1903. Tháng 5 năm 1904, đứa con trai đầu tiên của hai người, Hans Albert Einstein, sinh ra tại Bern, Thụy Sĩ. Con trai thứ hai của họ, Eduard "Tete" Einstein sinh tại Zürich vào tháng 6 năm 1910. Năm 1914, Einstein dời đến Berlin, trong khi vợ ông ở lại Zurich cùng với các con. Marić và Einstein ly dị ngày 14 tháng 2 năm 1919, sau khi sống ly thân trong 5 năm. Einstein lấy người chị họ hàng người Đức Elsa Löwenthal vào ngày 2 tháng 6 năm 1919, sau khi có mối quan hệ với cô từ 1912. Hai người không có con chung và hai cô con gái riêng của Elsa được Albert đối xử như con đẻ, lấy họ của ông: Ilse Einstein và Margot Einstein. Năm 1935, Elsa Einstein được chẩn đoán các bệnh liên quan đến tim và thận; bà qua đời tháng 12 năm 1936. Albert Einstein có ba người con, Lieserl Maric (1902 – 1903?), Hans Albert Einstein (1904 – 1973) và Eduard "Tete" Einstein (1910 – 1965), nhưng chỉ có Hans Albert kết hôn và có con. Chỉ có một người con ruột của Hans Albert còn sống sót đến tuổi trưởng thành là Bernhard Caesar Einstein, một nhà vật lý. Cục bằng sáng chế. Sau khi tốt nghiệp đại học, Einstein đã mất gần hai năm khó khăn trong việc tìm một vị trí giảng dạy, cuối cùng bố của Marcel Grossmann nhờ quen biết với giám đốc cục sáng chế đã giúp ông làm việc tại Bern, ở Cục liên bang về sở hữu trí tuệ, cục bằng sáng chế, với vị trí là người kiểm tra các bằng sáng chế. Ông đánh giá các sáng chế cho các thiết bị điện từ. Năm 1903, ông vào biên chế lâu năm của Cục sáng chế Thụy Sĩ, mặc dù ông đã vượt qua sự đề bạt cho đến khi ông "nắm bắt được công nghệ máy móc". Nhiều công việc của ông tại Cục liên quan đến câu hỏi về sự truyền tín hiệu điện và sự đồng bộ hóa cơ-điện của đồng hồ, hai vấn đề kĩ thuật xuất hiện rõ ràng trong các thí nghiệm tưởng tượng mà đã dẫn Einstein tới kết luận quan trọng về bản chất của ánh sáng và sự liên hệ mật thiết giữa không gian và thời gian. Cùng với những người bạn ông gặp ở Bern, Einstein đã thành lập một câu lạc bộ thảo luận hàng tuần về khoa học và triết học, mà ông nói đùa là "Viện hàn lâm Olympia". Họ thảo luận về các nghiên cứu của Henri Poincaré, Ernst Mach, and David Hume, mà sau này ảnh hưởng đến sự nghiệp khoa học và quan điểm triết học của Einstein. Sự nghiệp hàn lâm. Năm 1901, ông công bố bài báo "Folgerungen aus den Kapillarität Erscheinungen" ("Các kết luận về hiện tượng mao dẫn") trên tạp chí nổi tiếng thời đó "Annalen der Physik". Ngày 30 tháng 4 năm 1905, Einstein hoàn thành luận án tiến sĩ của mình dưới sự hướng dẫn của giáo sư vật lý thực nghiệm Alfred Kleiner. Einstein được trao bằng tiến sĩ tại Đại học Zurich. Luận án của ông có tiêu đề "Một cách mới xác định kích thước phân tử". Trong cùng năm, mà ngày nay các nhà khoa học gọi là "Năm kỳ diệu của Einstein", ông công bố bốn bài báo đột phá, về hiệu ứng quang điện, về chuyển động Brown, thuyết tương đối hẹp, và sự tương đương khối lượng và năng lượng ("E"="mc"2), khiến ông được chú ý tới trong giới hàn lâm trên toàn thế giới. Năm 1908, giới khoa học coi ông là nhà khoa học hàng đầu, và Đại học Bern mời ông về làm giảng viên của trường. Các năm sau, ông viết đơn thôi việc tại cục bằng sáng chế và cũng thôi vị trí giảng viên để đảm nhiệm chức danh Privatdozent về vật lý tại Đại học Zürich. Ông trở thành giáo sư thực thụ tại Đại học Karl-Ferdinand (nay là Đại học Charles) ở Praha năm 1911. Năm 1914, ông trở lại Đức sau khi được bổ nhiệm làm giám đốc của Viện Kaiser Wilhelm về vật lý (1914–1932) và giáo sư tại Đại học Humboldt, Berlin, với một điều khoản đặc biệt trong bản hợp đồng cho phép ông được tự do trước những nghĩa vụ giảng dạy. Ông trở thành thành viên của Viện hàn lâm khoa học Phổ. Năm 1916, Einstein được bổ nhiệm làm chủ tịch của Hội Vật lý Đức (1916–1918). Trong năm 1911, dựa trên những suy luận có từ năm 1907 về nhu cầu mở rộng thuyết tương đối đặc biệt, ông đã tìm ra hiện tượng dịch chuyển đỏ do hấp dẫn và tính toán độ lệch của tia sáng phát ra từ ngôi sao ở xa sẽ bị lệch bởi trường hấp dẫn của Mặt Trời. Tuy vậy giá trị tiên đoán chỉ bằng một nửa so với giá trị chính xác sau khi ông tìm ra được phương trình trung tâm cho thuyết tương đối tổng quát (1915). Tiên đoán này được xác nhận bởi đoàn thám hiểm người Anh dẫn đầu bởi Arthur Eddington trong quá trình theo dõi nhật thực vào ngày 29 tháng 5 năm 1919. Các tờ báo quốc tế nhanh chóng đăng tải sự kiện này và Einstein trở nên nổi tiếng toàn thế giới. Ngày 7 tháng 11 năm 1919, tờ báo tin tức hàng đầu của Anh, "The Times" in một dòng chữ tựa đề trên trang nhất viết là: "Cách mạng trong Khoa học – Lý thuyết mới về Vũ trụ – Các tư tưởng của Newton đã bị lật nhào". Sau đó, rất nhiều câu hỏi xuất hiện liệu các đo đạc có đủ chính xác để công nhận tiên đoán. Cuối cùng thì những dữ liệu đo đạc của Eddington là đủ tin cậy và đoàn thám hiểm của ông thực sự đã xác nhận tiên đoán của Einstein. Năm 1921, Einstein nhận giải Nobel Vật lý. Do thuyết tương đối hẹp vẫn còn đang tranh cãi, nên hội đồng giải Nobel đã trao giải cho ông vì những giải thích về hiện tượng điện quang và các đóng góp cho vật lý. Ông nhận huy chương Copley từ Hội Hoàng gia năm 1925. Thăm nước ngoài. Einstein đến thành phố New York lần đầu tiên vào ngày 2 tháng 4 năm 1921, ở đây ông nhận được sự chào đón trọng thể từ thị trưởng thành phố, sau đó là ba tuần thuyết giảng và gặp gỡ nhiều người. Ông trình bày một số bài giảng ở Đại học Columbia và Đại học Princeton, và ở Washington D.C. ông đi cùng các đại diện của Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia đến thăm Nhà Trắng. Trên đường trở lại châu Âu, nhà triết học và chính khách người Anh Viscount Haldane đã mời ông tới Luân Đôn, nơi ông gặp một vài nhà khoa học nổi tiếng, các chính trị gia và thực hiện một bài giảng ở trường Đại học King. Năm 1922, ông đi du lịch và có các buổi phát biểu trong chuyến hành trình 6 tháng đến các nước châu Á và Palestine. Các nước ông đến bao gồm Singapore, Ceylon, và Nhật Bản, nơi ông có một loạt các bài giảng trước hàng nghìn người dân Nhật Bản. Ông cũng đến diện kiến Nhật hoàng và hoàng hậu tại Hoàng cung. Einstein sau đó thể hiện sự cảm mến cho người Nhật trong bức thư ông gửi cho con trai mình: "Trong những người mà bố đã gặp, bố thích người Nhật Bản nhất, vì họ là những người khiêm tốn, thông minh, chu đáo, và quan tâm tới nghệ thuật." Trên hành trình đến Nhật Bản, ông cũng ghé thăm Hồng Kông và Thượng Hải, đồng thời nghe tin mình được trao giải Nobel Vật lý. Khi trở về, ông cũng ghé qua Palestine, lúc đó là thuộc địa của Anh, trong 12 ngày và cũng là lần duy nhất viếng thăm vùng Trung Đông của ông. Nhà tiểu sử Walter Isaacson viết "Ông được chào đón bởi trong sự người Anh long trọng, như là một chính khách cao cấp hơn là một nhà vật lý lý thuyết", bao gồm một loạt pháo hiệu chào mừng khi đến dinh thự của toàn quyền Anh, Sir Herbert Samuel. Trong buổi tiếp, một đám đông đã vây quanh dinh thự để muốn trông thấy và nghe Einstein nói chuyện. Khi nói chuyện với thính giả, ông thể hiện niềm hạnh phúc của mình: Ông cũng thăm Tây Ban Nha trước khi trở lại Đức. Năm 1925, ông viếng thăm Nam Mỹ bao gồm các thành phố Buenos Aires, Rio de Janeiro và Montevideo. Năm 1929, ông thăm Bỉ và hoàng gia Bỉ. Định cư tại Mỹ. Tháng 2 năm 1933 khi đang thăm Hoa Kỳ, Einstein đã quyết định không trở lại nước Đức do Đảng Quốc xã lên nắm chính quyền. Trước đó ông đến thăm các trường đại học Hoa Kỳ vào đầu năm 1933 và chuyến thăm lần thứ ba kéo dài hai tháng ở Viện Công nghệ California ở Pasadena. Ông và bà Elsa trở lại Bỉ bằng tàu biển vào cuối tháng 3. Trong chuyến hành trình, ông nghe được tin ngôi nhà và chiếc thuyền buồm của ông ở Berlin đã bị Đảng viên Quốc Xã tịch thu. Khi đến Antwerp vào ngày 28 tháng 3, ông đã đến lãnh sự quán Đức và chính thức từ bỏ quyền công dân Đức. Đầu tháng 4, ông biết rằng chính phủ Đức đã thông qua các đạo luật ngăn cấm người Do Thái giữ bất kỳ một vị trí công việc nào, kể cả giảng viên tại các trường đại học. Một tháng sau, các công trình nghiên cứu của Einstein nằm trong mục tiêu đốt phát của Đảng Quốc xã, và bộ trưởng tuyên truyền Joseph Goebbels công bố, "Tri thức Do Thái đã bị tiêu diệt." Ông tạm trú tại Bỉ trong một vài tháng, trước khi chuyển sang Anh. Trong một bức thư gửi cho người bạn, nhà vật lý Max Born, người cũng đã rời nước Đức và sống tại Anh, Einstein viết, "... Tôi phải thừa nhận rằng mức độ tàn bạo và hèn nhát đến một cách thật bất ngờ." Tháng 10 năm 1933 ông cùng bà Elsa quay trở lại Hoa Kỳ và đảm nhiệm chức vụ giáo sư tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton tại Princeton, New Jersey. Trường này ban đầu đề nghị ông làm việc trong thời gian một năm rưỡi. Ông vẫn chưa quyết định về tương lai của mình (có nhiều trường đại học ở châu Âu mời ông về nghiên cứu, bao gồm Oxford), nhưng đến năm 1935 ông quyết định ở lại Hoa Kỳ. Ông làm việc tại Viện Princeton cho tới khi qua đời năm 1955. Tại viện cũng có các nhà khoa học lớn khác như John von Neumann và Kurt Gödel), ông cũng sớm hình thành tình bạn thân thiết với Gödel. Họ hay đi dạo những quãng đường dài để cùng nhau thảo luận về công việc của nhau. Trợ lý cuối cùng của ông là nhà vật lý Bruria Kaufman. Ở viện nghiên cứu, ông tiếp tục tập trung phát triển thuyết trường thống nhất nhưng đã không thành công. Einstein cũng luôn luôn giữ vững quan điểm của mình khi cho rằng lý thuyết cơ học lượng tử là không đầy đủ và không chứa yếu tố bất định. "Chúa không chơi xúc xắc". Chiến tranh thế giới lần II và dự án Manhattan. Năm 1939, một nhóm các nhà khoa học Hungary bao gồm nhà vật lý Leó Szilárd cố gắng cảnh báo Washington rằng phe Quốc xã đang thực hiện các nghiên cứu bom nguyên tử. Tuy vậy cảnh báo của nhóm đã không gây sự chú ý đến giới chính trị. Einstein và Szilárd, cùng những nhà khoa học tị nạn khác gồm Edward Teller và Eugene Wigner, "coi họ có trách nhiệm để cảnh báo người Mỹ khả năng của các nhà khoa học Đức có thể chế tạo thành công bom nguyên tử, và rằng Hitler rất quyết tâm có được vũ khí như vậy." Hè 1939, vài tháng trước khi nổ ra chiến tranh ở châu Âu, Szilárd khuyên mời Einstein ký vào một bức thư gửi đến tổng thống Franklin D. Roosevelt để cảnh báo ông về khả năng này. Bức thư cũng đề cập đến chính phủ Hoa Kỳ nên chú ý tới và tham gia trực tiếp vào nghiên cứu urani cũng như chuỗi phản ứng dây chuyền. Bức thư được cho là có khả năng "thúc đẩy chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho phép nghiên cứu vũ khí hạt nhân". Tổng thống Roosevelt không thể gánh rủi ro khi Hitler sở hữu bom nguyên tử đầu tiên. Cùng với lá thư và buổi gặp của Einstein với Roosevelt, Hoa Kỳ tham gia vào cuộc "chạy đua" phát triển bom, tập trung vào đây rất nhiều nguồn lực tài chính, vật liệu, cơ sở cũng như các nhà khoa học lớn trong dự án Manhattan. Cuối cùng Hoa Kỳ trở thành nước duy nhất sở hữu bom nguyên tử trong thời gian chiến tranh thế giới lần II. Đối với Einstein, "chiến tranh là căn bệnh... [và] ông kêu gọi chống lại chiến tranh." Nhưng năm 1933, sau khi Hitler trở thành lãnh đạo tối cao ở Đức, "ông đã khẩn thiết kêu gọi các nước phương Tây chuẩn bị chống lại sự tấn công của nước Đức." Năm 1954, một năm trước khi qua đời, Einstein kể cho người bạn già của mình, Linus Pauling, "Tôi đã gây ra một trong những lỗi lầm lớn nhất trong cuộc đời — đó là khi tôi ký vào bức thư gửi tổng thống Roosevelt khuyến nghị nên chế tạo bom nguyên tử; với một số biện hộ — sẽ nguy hiểm hiểm nếu người Đức có được nó..." Công dân Mỹ. Einstein trở thành công dân Mỹ năm 1940 sau khi quyết định nghiên cứu ở Princeton, ông thể hiện sự đánh giá cao của mình về "chế độ nhân tài" trong văn hóa Mỹ so với châu Âu. Theo Isaacson, ông nhận ra "quyền cá nhân về suy nghĩ và phát ngôn thứ mà họ thích", mà không bị rào cản xã hội, và hệ quả là, từng cá nhân được "khuyến khích" trở lên sáng tạo hơn, một đặc điểm mà họ thừa hưởng từ nền giáo dục cơ sở. Einstein viết: Sự mới mẻ đến với đất nước này là đặc điểm dân chủ trong nhân dân. Không ai hạ mình trước người khác hay tầng lớp khác... Thanh niên Mỹ có may mắn không phải đối mặt với các rắc rối từ những truyền thống lỗi thời. Là thành viên của "Hiệp hội quốc gia vì sự tiến bộ của người da màu" (NAACP) tại Princeton đấu tranh cho quyền công dân của người Mỹ gốc Phi, Einstein có trao đổi thư từ với nhà hoạt động dân chủ W. E. B. Du Bois, và năm 1946 Einstein gọi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Hoa Kỳ là "thứ bệnh tồi tệ nhất". Ông nói, "Định kiến phân biệt chủng tộc không may đã trở thành truyền thống ở Mỹ lan truyền qua từng thế hệ mà không bị phê phán. Chỉ có thể khắc phục định kiến này bằng giáo dục và giác ngộ". Những năm cuối đời Einstein chuyển sang lối sống chay tịnh, với lý giải "người ăn chay sống bằng hiệu ứng vật lý thuần túy trên khí chất cơ thể sẽ ảnh hưởng có lợi nhất đến đa số nhân loại". Sau khi Chaim Weizmann, vị tổng thống đầu tiên của Israel, qua đời tháng 11 năm 1952, thủ tướng David Ben-Gurion đã đề xuất Einstein làm tổng thống kế nhiệm, chủ yếu với vai trò danh dự. Đại sứ Israel ở Washington, Abba Eban, giải thích lời đề nghị "thể hiện sự tôn trọng sâu sắc nhất của người dân Do Thái đối với ông". Tuy thế Einstein đã từ chối lời đề nghị trong sự "xúc động sâu sắc": Qua đời. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1955, Albert Einstein bị chảy máu trong do vỡ động mạch chủ, mà trước đó đã được phẫu thuật bởi tiến sĩ Rudolph Nissen năm 1948. Ông đã viết nháp chuẩn bị cho bài phát biểu trên truyền hình kỷ niệm ngày độc lập thứ bảy của nhà nước Israel khi trên đường đến bệnh viện, nhưng ông đã không kịp hoàn thành nó. Einstein đã từ chối phẫu thuật, ông nói: ""Tôi muốn đi khi tôi muốn. Thật vô vị để duy trì cuộc sống giả tạo. Tôi đã hoàn thành chia sẻ của mình, đã đến lúc phải đi. Tôi sẽ ra đi trong thanh thản"." Ông mất trong bệnh viện Princeton vào sáng sớm hôm sau ở tuổi 76, nơi ông vẫn tiếp tục làm việc đến hơi thở cuối cùng. Thi thể Einstein được hỏa táng và tro được rải khắp nơi quanh vùng của Viện nghiên cứu cao cấp, Princeton, New Jersey. Trong quá trình khám nghiệm tử thi, nhà nghiên cứu bệnh học thuộc bệnh viện Princeton, Thomas Stoltz Harvey đã mổ lấy não của Einstein để bảo quản, mà không được sự cho phép của gia đình ông, với hy vọng rằng khoa học thần kinh trong tương lai có thể khám phá ra điều làm Einstein trở nên thông minh. Nhận xét về Einstein. Trong bài điếu văn, nhà vật lý hạt nhân Robert Oppenheimer tổng kết lại về Einstein: ""Ông hầu như không có bản chất phức tạp và sự trần tục... Luôn luôn ở trong ông là sự thuần khiết tuyệt vời lúc như đứa trẻ lúc thì uyên thâm bướng bỉnh"." Tại phần nói đầu của cuốn sách "Subtle is the Lord..." nhà vật lý và lịch sử khoa học Abraham Pais viết: "Nếu được nói một câu ngắn gọn về tiểu sử Einstein, tôi có thể nói rằng "ông là con người tự do nhất mà tôi đã từng biết", và một câu về sự nghiệp khoa học của ông, tôi có thể viết "giỏi hơn bất kỳ ai trước hoặc sau ông, ông biết cách phát minh ra các nguyên lý bất biến và biết cách sử dụng các định luật thống kê"". Sự nghiệp khoa học. Trong suốt cuộc đời ông, Einstein xuất bản rất nhiều sách và hàng trăm bài báo. Phần lớn về vật lý, nhưng một số ít bày tỏ quan điểm chính trị cánh tả về chủ nghĩa hòa bình, chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa phục quốc Do thái. Ngoài các nghiên cứu của cá nhân ông, ông còn hợp tác với nhiều nhà khoa học khác về các lĩnh vực khoa học như: Thống kê Bose–Einstein, máy làm lạnh Einstein và nhiều nghiên cứu khác. Vật lý những năm 1900. Các bài báo ban đầu của Einstein bắt nguồn từ sự cố gắng chứng minh rằng nguyên tử tồn tại và có kích thước hữu hạn khác không. Tại thời điểm ông viết bài báo đầu tiên năm 1902, các nhà vật lý vẫn chưa chấp nhận hoàn toàn rằng nguyên tử tồn tại thực sự, mặc dù các nhà hóa học đã có những chứng cứ cụ thể từ các công trình của Antoine Lavoisier trước một thế kỷ. Lý do các nhà vật lý vẫn nghi ngờ là vì không có một lý thuyết nào ở thế kỷ XIX có thể giải thích đầy đủ tính chất của vật chất từ các tính chất của nguyên tử. Ludwig Boltzmann là nhà vật lý thống kê hàng đầu của thế kỷ XIX, người đã đấu tranh nhiều năm để thuyết phục cộng đồng khoa học chấp nhận sự tồn tại của nguyên tử. Boltzmann đã đưa ra cách giải thích các định luật nhiệt động học, gợi ý rằng định luật tăng entropy có tính thống kê. Theo cách suy nghĩ của Boltzmann, entropy là logarit của số các trạng thái một hệ có được cấu hình bên trong. Lý do entropy tăng chỉ bởi vì xác suất để một hệ từ trạng thái đặc biệt với chỉ vài cấu hình bên trong chuyển sang hệ có nhiều trạng thái hơn là lớn. Trong khi cách giải thích thống kê của Boltzmann về entropy được công nhận rộng rãi ngày nay, và Einstein đã tin vào điều này, thì tại thời điểm đầu thế kỷ XX nó ít được mọi người để ý đến. Ý tưởng thống kê được áp dụng thành công nhất khi giải thích tính chất của chất khí. James Clerk Maxwell, một nhà vật lý học hàng đầu khác, đã tìm ra định luật phân bố vận tốc của các nguyên tử trong chất khí, và ông đi đến một kết luận ngạc nhiên là tính nhớt của chất khí có thể độc lập với mật độ của nó. Về mặt trực giác, ma sát trong chất khí dường như bằng không khi mật độ đi về không, nhưng điều này không phải vậy, bởi vì đường di chuyển tự do trung bình của các nguyên tử trở lên rộng hơn tại mật độ thấp. Những thí nghiệm tiếp sau của Maxwell và vợ ông xác nhận tiên đoán kì lạ này. Các thí nghiệm khác trên chất khí và chân không, sử dụng một trống quay tách, cho thấy các nguyên tử trong chất khí có các vận tốc phân bố tuân theo định luật phân bố của Maxwell. Bên cạnh những thành công này, cũng có những mâu thuẫn. Maxwell chú ý rằng tại nhiệt độ thấp, lý thuyết nguyên tử tiên đoán nhiệt dung riêng quá lớn. Trong cơ học thống kê cổ điển, mọi dao động điều hòa đơn giản (chuyển động kiểu lò xo) có nhiệt năng "k"B"T" ở nhiệt độ trung bình "T", do vậy nhiệt dung riêng của mọi lò xo là hằng số Boltzmann"k"B. Một chất rắn đơn nguyên tử với "N"nguyên tử có thể được xem là "N" quả cầu nhỏ tương ứng với "N" nguyên tử gắn vào mỗi vị trí nút mạng với 3"N" lò xo, do vậy nhiệt dung riêng của chất rắn là 3"Nk"B, một kết quả của định luật Dulong–Petit. Định luật đúng cho nhiệt độ phòng, nhưng không đúng đối với nhiệt độ lạnh hơn. Tại gần 0K, nhiệt dung riêng bằng không. Tương tự, một chất khí cấu thành từ phân tử hai nguyên tử có thể được xem là hai quả cầu gắn với nhau bởi một lò xo. Lò xo này có năng lượng "k"B"T" tại nhiệt độ cao, và cộng thêm vào một lượng nhiệt "k"B cho nhiệt dung riêng ở nhiệt độ khoảng 1000 độ, nhưng tại nhiệt độ thấp lượng nhiệt thêm này sẽ biến mất. Tại 0 độ, mọi nhiệt dung riêng do sự quay và rung động đều biến mất. Kết quả này mâu thuẫn với vật lý cổ điển. Những mâu thuẫn rõ ràng nhất là trong lý thuyết về sóng ánh sáng. Các sóng liên tục trong một hộp được coi như vô số lò xo chuyển động, mỗi cái tương ứng với sóng đứng. Mỗi sóng đứng có một nhiệt dung riêng xác định "k"B, do đó tổng nhiệt dung riêng của sóng liên tục giống ánh sáng trở thành vô hạn trong cơ học cổ điển. Điều này rõ ràng là vi phạm đối với định luật bảo toàn năng lượng. Những mâu thuẫn này dẫn đến nhiều người nói rằng nguyên tử không có tính vật lý, mà là toán học. Đáng chú ý trong số những người hoài nghi là Ernst Mach, người theo triết học thực chứng mà đã dẫn ông đến nhu cầu là nếu nguyên tử tồn tại, thì nó có thể nhìn thấy được. Mach tin rằng những nguyên tử này là một giả tưởng hữu dụng, mà trong thực tế chúng được giả sử là nhỏ vô hạn, do vậy số Avogadro là vô hạn, hoặc rất lớn để coi như vô hạn, và "k"B là vô cùng nhỏ. Có những thí nghiệm có thể giải thích được bằng lý thuyết nguyên tử, nhưng lại có những thí nghiệm thì không thể giải thích được, và nó vẫn luôn là thế. Einstein đã phản đối quan điểm này. Suốt sự nghiệp của mình, ông là một nhà duy thực. Ông tin rằng một lý thuyết phù hợp duy nhất có thể giải thích được mọi quan sát, lý thuyết này sẽ là một mô tả về cái thực sự đã diễn ra, và những điều ẩn sau nó. Từ đó ông cho rằng quan điểm về nguyên tử là đúng. Điều này dẫn ông đầu tiên đến với nhiệt động học, rồi đến vật lý thống kê, và lý thuyết nhiệt dung riêng của chất rắn. Năm 1905, trong khi làm việc ở phòng cấp phát bằng sáng chế, tạp chí tiếng Đức hàng đầu "Annalen der Physik" đã xuất bản bốn bài báo của Einstein. Bốn bài báo sau này được coi là một cuộc cách mạng trong vật lý, và năm 1905 trở thành "năm kỳ diệu của Einstein". Ngày 30 tháng 4 năm 1905, Einstein hoàn thành luận án của mình dưới sự hướng dẫn của Alfred Kleiner, giáo sư vật lý thực nghiệm. Einstein được trao bằng tiến sĩ ở Đại học Zurich. Luận án của ông với tên "Một cách mới xác định kích thước phân tử". Thăng giáng nhiệt động và vật lý thống kê. Các bài báo sớm nhất của Einstein đề cập đến nhiệt động học. Trong đó ông cố gắng giải thích các hiện tượng từ quan điểm thống kê của nguyên tử. Nghiên cứu của ông trong năm 1903 và 1904 tập trung vào hiệu ứng kích thước nguyên tử hữu hạn tác động đến hiện tượng tán xạ. Giống như nghiên cứu của Maxwell, sự hữu hạn của kích thước nguyên tử dẫn đến các hiệu ứng có thể quan sát được. Nghiên cứu này nằm trong vấn đề chính của vật lý ở thời đại ông đó là tìm cách quan sát và chứng minh nguyên tử tồn tại. Chúng cũng là nội dung chính trong luận án tiến sĩ của ông. Kết quả chính đầu tiên của ông trong lĩnh vực này là lý thuyết thăng giáng nhiệt động. Khi ở trạng thái cân bằng, một hệ có entropy cực đại, và theo cách hiểu của thống kê, nó chỉ có thăng giáng nhỏ. Einstein chỉ ra rằng thăng giáng thống kê của vật thể vĩ mô, có thể được hoàn toàn xác định bởi đạo hàm bậc hai của entropy. Nghiên cứu cách kiểm tra quan hệ này, ông đã có đột phá lớn năm 1905. Ông nhận ra rằng lý thuyết này tiên đoán một hiệu ứng quan sát được cho một vật có thể di chuyển xung quanh tự do khi nằm trong môi trường nguyên tử hoạt động. Vì vật có vận tốc ngẫu nhiên do vậy nó có thể di chuyển ngẫu nhiên, giống như một nguyên tử đơn lẻ. Động năng trung bình của vật này là formula_1, và thời gian giảm thăng giáng có thể được xác định hoàn toàn bởi định luật ma sát. Định luật ma sát cho quả cầu nhỏ trong chất lỏng nhớt giống nước được khám phá bởi George Stokes. Ông chỉ ra đối với vận tốc nhỏ, lực ma sát tỉ lệ với vận tốc, và bán kính của hạt. Quan hệ này được sử dụng để tính toán hạt chuyển động được một quãng đường bao nhiêu trong nước do chuyển động nhiệt ngẫu nhiên của nó, và Einstein chú ý là với những quả cầu kích thước khoảng một micron, chúng có thể di chuyển với vận tốc vài micron trong một giây. Chuyển động này đã được quan sát bởi nhà thực vật học Robert Brown dưới kính hiển vi, hay chuyển động Brown. Einstein đã đồng nhất chuyển động này với tiên đoán của lý thuyết ông đưa ra. Từ thăng giáng gây ra chuyển động Brown cũng chính là thăng giáng vận tốc của các nguyên tử, nên việc đo chính xác chuyển động Brown sử dụng lý thuyết của Einstein đã cho thấy hằng số Boltzmann là khác không và cho phép đo được số Avogadro. Các thí nghiệm này được thực hiện vài năm sau đó, cho một ước lượng thô về số Avogadro phù hợp với ước lượng chính xác hơn của lý thuyết vật đen của Max Planck, và thí nghiệm đo điện tích của Robert Millikan. Không như các phương pháp khác, đòi hỏi của Einstein cần rất ít các điều giả sử lý thuyết hay vật lý mới, vì đã trực tiếp đo chuyển động của nguyên tử qua các hạt nhìn thấy được. Lý thuyết của Einstein về chuyển động Brown là bài báo đầu tiên về lĩnh vực vật lý thống kê. Nó thiết lập mối liên hệ giữa thăng giáng nhiệt động và sự tiêu tán năng lượng. Điều này được Einstein chỉ ra là đúng đối với thăng giáng độc lập thời gian, nhưng trong bài báo về chuyển động Brown ông chỉ ra rằng tỉ số nghỉ động học (dynamical relaxation rates) được tính toán từ cơ học cổ điển có thể được dùng là tỉ số nghỉ thống kê (statistical relaxation rates) để dẫn ra định luật khuếch tán động học. Những quan hệ này gọi là phương trình Einstein trong lý thuyết động học phân tử. Lý thuyết về chuyển động Brown đã mở đầu năm kỳ diệu của Einstein, nhưng nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thuyết phục các nhà vật lý chấp nhận thuyết nguyên tử. Thí nghiệm tưởng tượng và nguyên lý vật lý tiên nghiệm. Suy nghĩ của Einstein phải trải qua một sự thay đổi vào năm 1905. Ông đã hiểu rằng các tính chất lượng tử của ánh sáng có nghĩa là các phương trình Maxwell chỉ là lý thuyết xấp xỉ. Ông biết rằng các định luật mới có thể thay thế chúng, nhưng ông chưa biết làm thế nào để tìm ra các định luật này. Ông cảm thấy rằng ước đoán các mối quan hệ hình thức sẽ không đi đến đâu. Thay vào đó ông quyết định tập trung vào các nguyên lý tiên nghiệm, chúng nói rằng các định luật vật lý có thể được hiểu là thỏa mãn trong những trường hợp rất rộng thậm chí trong những phạm vi mà chúng chưa từng được áp dụng hay kiểm nghiệm. Một ví dụ được các nhà vật lý chấp nhận rộng rãi của nguyên lý tiên nghiệm đó là tính bất biến quay (hay tính đối xứng quay, nói rằng các định luật vật lý là bất biến nếu chúng ta quay toàn bộ không gian chứa hệ theo một hướng khác). Nếu một lực mới được khám phá trong vật lý, lực này có thể lập tức được hiểu nó có tính bất biến quay mà không cần phải suy xét. Einstein đã hướng tìm các nguyên lý mới theo phương pháp bất biến này, để tìm ra các ý tưởng vật lý mới. Khi các nguyên lý cần tìm đã đủ, thì vật lý mới sẽ là lý thuyết phù hợp đơn giản nhất với các nguyên lý và các định luật đã được biết trước đó. Nguyên lý tiên nghiệm tổng quát đầu tiên do Einstein tìm ra là nguyên lý tương đối, theo đó chuyển động tịnh tiến đều không phân biệt được với trạng thái đứng im. Nguyên lý này được Hermann Minkowski mở rộng cho cả tính bất biến quay từ không gian vào không-thời gian. Những nguyên lý khác giả thiết bởi Einstein và sau đó mới được chứng minh là nguyên lý tương đương và nguyên lý bất biến đoạn nhiệt của số lượng tử. Một nguyên lý tổng quát khác của Einstein, còn gọi là nguyên lý Mach, vẫn còn là vấn đề đang được tranh luận giữa các nhà khoa học. Việc sử dụng các nguyên lý tiên nghiệm là một phương pháp đặc biệt độc đáo trong các nghiên cứu đầu tiên của Einstein, và nó trở thành một công cụ tiêu chuẩn trong vật lý hiện đại. Lý thuyết tương đối hẹp. Bài báo năm 1905 của ông về điện động lực học các vật thể chuyển động giới thiệu ra lý thuyết tương đối hẹp, cho thấy tốc độ ánh sáng độc lập với trạng thái chuyển động của quan sát viên đã đòi hỏi những sự thay đổi cơ bản về khái niệm của sự đồng thời. Những hề quả của kết luận này bao gồm sự giãn thời gian và co độ dài (theo hướng chuyển động) của vật thể chuyển động tương đối đối với hệ quy chiếu của quan sát viên. Bài báo này cũng bác bỏ sự tồn tại của ête (vật lý) - một trong những vấn đề lớn của thời đó. Trong bài báo về "sự tương đương khối lượng-năng lượng", vấn đề này cũng đã được quan tâm tới trước đó bởi các khái niệm khác, Einstein đã rút ra từ các phương trình của thuyết tương đối hẹp hệ thức nổi tiếng trong thế kỷ XX: "E" = "mc"2. Hệ thức này cho thấy một khối lượng nhỏ tương đương với một năng lượng khổng lồ và nó là cơ sở cho lý thuyết năng lượng hạt nhân. Nhiều năm sau đó, công trình của Einstein về thuyết tương đối đặc biệt năm 1905 vẫn còn là đề tài tranh cãi, nhưng ngay từ ban đầu nó đã được các nhà vật lý lớn ủng hộ, khởi đầu là Max Planck. Photon. Trong một bài báo năm 1905, Einstein đã đặt ra một tiên đề đó là ánh sáng bao gồm các hạt rời rạc gọi là "lượng tử". Lượng tử ánh sáng của Einstein hầu như bị các nhà vật lý bác bỏ khi ông mới giới thiệu ý tưởng này, trong đó có Max Planck và Niels Bohr. Ý tưởng này chỉ được chấp nhận rộng rãi vào năm 1919, nhờ những thí nghiệm chi tiết của Robert Millikan về hiệu ứng quang điện thực hiện vào năm 1914, và phép đo sự tán xạ Compton của Arthur Compton. Bài báo của Einstein về các hạt ánh sáng hầu hết xuất phát từ các nghiên cứu về nhiệt động lực học. Ông không bị thúc đẩy bởi các thí nghiệm về hiệu ứng quang điện, mà không phù hợp với lý thuyết của ông trong vòng 50 năm sau. Einstein quan tâm đến entropy của ánh sáng tại nhiệt độ "T", và phân nó thành hai phần bao gồm phần tần số thấp và phần tần số cao. Phần ánh sáng tần số cao được miêu tả bởi định luật Wien, có entropy giống hệt với entropy của các phân tử khí cổ điển. Từ entropy là số logarit của các trạng thái khả dĩ, Einstein kết luận là số các trạng thái của ánh sáng bước sóng ngắn trong một hộp với thể tích "V" bằng với số các trạng thái của một nhóm các hạt lượng tử trong cùng hộp. Do ông (không giống với những người khác) cảm thấy dễ chịu với cách giải thích thống kê, ông tin rằng tiên đề về ánh sáng được lượng tử hóa là một công cụ giải thích tính hợp lý cho entropy. Điều này dẫn ông đến liên hệ Planck–Einstein là mỗi sóng với tần số "f" sẽ đồng hành với một tập hợp các photon, mỗi hạt ứng với năng lượng "hf", trong đó h là hằng số Planck. Ông không thể bàn luận thêm, bởi vì Einstein không dám chắc các hạt liên hệ như thế nào với sóng. Nhưng ông đề nghị là ý tưởng này có thể giải thích các kết quả thí nghiệm khác, như hiệu ứng quang điện. Lượng tử hóa dao động nguyên tử. Eiinstein tiếp tục nghiên cứu về cơ học lượng tử vào năm 1906, tìm cách giải thích sự dị thường của nhiệt dung riêng trong các chất rắn. Đây là ứng dụng đầu tiên của lý thuyết lượng tử vào một hệ cơ học. Từ định luật Planck về phân bố bức xạ điện từ không cho kết quả về giá trị nhiệt dung riêng vô hạn, cùng ý tưởng này có thể được áp dụng cho chất rắn để khắc phục vấn đề nhiệt dung riêng vô hạn trong các chất này. Einstein đã chỉ ra một mô hình đơn giản với giả thuyết là chuyển động của các nguyên tử trong chất rắn bị lượng tử hóa để giải thích tại sao nhiệt dung riêng của chất rắn lại trở về không khi tiến gần đến độ không tuyệt đối. Mô hình của Einstein coi mỗi nguyên tử được kết nối với một lò xo tưởng tượng. Thay vì liên kết tất cả các nguyên tử với nhau, mà sẽ dẫn đến các sóng đứng với các loại tần số khác nhau, Einstein tưởng tượng ra mỗi nguyên tử được gắn tại một điểm trong không gian bởi chỉ một lò xo. Điều này không đúng về mặt vật lý, nhưng lý thuyết vẫn tiên đoán giá trị hữu hạn nhiệt dung riêng là 3"Nk"B, do số các dao động độc lập đều giống nhau. Einstein từ đó giả sử là chuyển động trong mô hình này bị lượng tử hóa, tuân theo định luật Planck, do vậy mỗi chuyển động độc lập của lò xo có năng lượng bằng một số nguyên lần hf, trong đó f là tần số dao động. Với giả sử này, ông áp dụng phương pháp thống kê của Boltzmann để tính ra năng lượng trung bình của mỗi lò xo trong một khoảng thời gian. Kết quả thu được giống với kết quả của Planck cho ánh sáng: tại nhiệt độ mà "k"B"T" nhỏ hơn "hf", chuyển động bị ngưng lại (đóng băng), và nhiệt dung riêng tiến về 0. Và Einstein kết luận là cơ học lượng tử có thể giải quyết được các vấn đề lớn trong vật lý cổ điển, như tính dị thường của nhiệt dung riêng. Các hạt hàm ý trong công thức trên bây giờ được gọi là photon. Vì mọi lò xo trong lý thuyết của Einstein đều có độ cứng như nhau, nên chúng dao động như nhau tại cùng một nhiệt độ, và điều này dẫn đến tiên đoán là nhiệt dung riêng tiến về 0 theo hàm lũy thừa khi nhiệt độ giảm đi về 0K. Nghiên cứu này là nền tảng của vật lý vật chất ngưng tụ sau này. Nguyên lý đoạn nhiệt và các biến tác động góc. Trong thập niên 1910, lý thuyết lượng tử đã mở rộng phạm vi áp dụng cho nhiều hệ thống khác nhau. Sau khi Ernest Rutherford khám phá ra sự tồn tại các hạt nhân và đề xuất các electron có quỹ đạo quanh hạt nhân giống như quỹ đạo của các hành tinh, Niels Bohr đã áp dụng các tiên đề của cơ học lượng tử được Planck và Einstein đưa ra và phát triển để giải thích chuyển động của electron trong nguyên tử, và của bảng tuần hoàn các nguyên tố. Einstein đã đóng góp vào những phát triển này bằng liên hệ chúng với các tư tưởng của Wilhelm Wien năm 1898. Wien đã đưa ra giả thuyết về "bất biến đoạn nhiệt" của trạng thái cân bằng nhiệt cho phép mọi bức xạ của vật đen tại các nhiệt độ khác nhau được dẫn ra từ 'định luật dịch chuyển Wien. Einstein năm 1911 đã chú ý đến là cùng nguyên lý đoạn nhiệt này cũng chỉ ra các đại lượng bị lượng tử hóa trong chuyển động cơ học bất kì phải là bất biến đoạn nhiệt. Arnold Sommerfeld đã đồng nhất bất biến đoạn nhiệt này là biến tác dụng của cơ học cổ điển. Định luật tác dụng thay đổi được bị lượng tử hóa là nguyên lý cơ sở của thuyết lượng tử khi nó được biết từ 1900 đến 1925. (hay lý thuyết lượng tử cổ điển) Lưỡng tính sóng - hạt. Mặc dù cục cấp bằng sáng chế đã bổ nhiệm Einstein làm nhân viên kĩ thuật kiểm tra hạng hai năm 1906, nhưng ông không hề từ bỏ sự nghiệp khoa học của mình. Năm 1908, ông trở thành "giảng viên thỉnh giảng" (privatdozent) tại trường Đại học Bern. Trong "über die Entwicklung unserer Anschauungen über das Wesen und die Konstitution der Strahlung" (""), về sự lượng tử hóa của ánh sáng, và trong một bài báo đầu năm 1909, Einstein chỉ ra rằng lượng tử năng lượng của Planck phải có động lượng và có thể cư xử như các hạt điểm độc lập. Bài báo này đưa ra khái niệm "photon" (mặc dù Gilbert N. Lewis đặt tên gọi photon mãi tới năm 1926) và mở ra khái niệm lưỡng tính sóng-hạt trong cơ học lượng tử. Dựa trên ý tưởng của Planck và của Einstein về sóng có bản chất hạt, nhà vật lý Louis de Broglie đặt ra vấn đề ngược là hạt vật chất có bản chất sóng và khai sinh ra nguyên lý lưỡng tính sóng hạt của vật chất. Lý thuyết giới hạn trắng đục. Einstein đã quay trở lại vấn đề nhiễu loạn nhiệt động học, với suy nghĩ tìm cách giải quyết những sự thay đổi mật độ trong chất lỏng tại điểm giới hạn của nó. Thông thường, nhiễu loạn mật độ được khử bởi đạo hàm bậc hai của năng lượng tự do theo mật độ. Tại điểm giới hạn này, đạo hàm bằng không, dẫn đến những nhiễu loạn lớn. Hiệu ứng nhiễu loạn mật độ mà theo đó mọi bước sóng của ánh sáng bị tán xạ khi đi vào môi trường khác, làm cho chất lỏng nhìn trắng như sữa. Einstein liên hệ hiện tượng này với hiện tượng tán xạ Raleigh, mà xảy ra khi độ lớn nhiễu loạn nhỏ hơn bước sóng, và hiện tượng này đã giải thích hiện tượng tại sao bầu trời có màu xanh. Năng lượng điểm không. Trực giác vật lý của Einstein đã dẫn ông chú ý đến các năng lượng dao động Planck không thể có điểm không. Ông sửa lại giả thuyết Planck bằng cách cho trạng thái năng lượng thấp nhất của một đối tượng dao động bằng với "hf", bằng một nửa khoảng năng lượng giữa hai mức. Sự thay đổi này được nghiên cứu cùng với Otto Stern, trên cơ sở của nhiệt động học phân tử hai nguyên tử mà có thể tách ra thành hai nguyên tử tự do. Nguyên lý tương đương. Năm 1907, khi còn đang làm việc tại cuc bằng sáng chế, Einstein đã có cái mà ông gọi là "ý tưởng hạnh phúc nhất" trong đời ông. Ông nhận ra là nguyên lý tương đối có thể mở rộng sang trường hấp dẫn. Ông suy nghĩ về trường hợp thang máy chuyển động với gia tốc đều nhưng không phải đặt trong trường hấp dẫn, và ông nhận ra là nó không thể khác biệt so với trường hợp thang máy im trong trường hấp dẫn không thay đổi. Ông áp dụng thuyết tương đối hẹp để thấy tốc độ của các đồng hồ tại đỉnh thang máy gia tốc lên trên sẽ nhanh hơn tốc độ của đồng hồ ở sàn thang máy. Ông kết luận là tốc độ của đồng hồ phụ thuộc vào vị trí của chúng trong trường hấp dẫn, và hiệu giữa hai tốc độ đồng hồ tỉ lệ với thế năng hấp dẫn theo xấp xỉ bậc nhất. Mặc du sự xấp xỉ này là thô, nó cho phép ông tính được độ lệch của tia sáng do hấp dẫn. Điều này làm cho ông tin tưởng rằng lý thuyết vô hướng về hấp dẫn được đề xuất bởi Gunnar Nordström là không đúng. Nhưng giá trị thực cho độ lệch mà ông tính ra nhỏ đi 2 lần so với giá trị thực, do xấp xỉ ông sử dụng không còn thỏa mãn đối với các vật thể di chuyển gần vận tốc của ánh sáng. Khi Einstein hoàn thiện thuyết tương đối tổng quát, ông đã sửa lại thiếu sót này và tiên đoán được giá trị đúng của độ lệch tia sáng đi gần Mặt Trời. Từ Praha, Einstein đăng một bài báo về các hiệu ứng của hấp dẫn tác động lên ánh sáng, đặc biệt là dịch chuyển đỏ do hấp dẫn và độ lệch ánh sáng do hấp dẫn. Bài báo đã thúc đẩy các nhà thiên văn học xác định độ lệch tia sáng trong quá trình quan sát nhật thực. Nhà thiên văn người Đức Erwin Finlay-Freundlich đã công bố tiên đoán của Einstein ra toàn thế giới để cộng đồng các nhà khoa học được biết đến. Einstein đã suy nghĩ về bản chất trường hấp dẫn trong các năm 1909-1912, nghiên cứu các tính chất của chúng bằng các thí nghiệm tưởng tượng đơn giản. Trong đó có thí nghiệm về một cái đĩa quay. Einstein tưởng tượng ra một quan sát viên thực hiện các thí nghiệm trên một cái bàn quay. Ông chú ý rằng quan sát viên có thể đo được một giá trị khác cho hằng số toán học pi so với trong hình học Euclid. Lý do là vì bán kính của một đường tròn là không đổi do được đo với một cái thước không bị co độ dài, nhưng theo thuyết tương đối hẹp chu vi của đường tròn dường như lớn hơn do cái thước dùng để đo chu vi bị co ngắn lại. Mặt khác Einstein tin tưởng rằng các định luật vật lý là cục bộ, được miêu tả bởi các hệ tọa độ cục bộ, ông kết luận rằng không thời gian có thể bị cong. Điều này dẫn ông đến nghiên cứu hình học Riemann, và hình thành lên ngôn ngữ của thuyết tương đối tổng quát. Thuyết tương đối rộng. Năm 1912, Einstein trở lại Thụy Sĩ để nhận chức danh giáo sư tại nơi ông từng học, trường ETH. Khi ông trở lại Zurich, ngay lập tức ông đến thăm người bạn cùng lớp đại học ETH là Marcel Grossmann, bây giờ trở thành giáo sư toán học. Einstein đã hỏi Grossmann có thứ hình học miêu tả không gian cong không và ông ta đã giới thiệu cho ông hình học Riemann và tổng quát hơn là hình học vi phân. Theo đề nghị của nhà toán học người Ý Tullio Levi-Civita, Einstein bắt đầu khám phá ra sự hữu ích của nguyên lý hiệp biến tổng quát (cơ bản là sử dụng tenxơ) cho lý thuyết hấp dẫn mới của ông. Có lúc Einstein nghĩ rằng có một số sai lầm với cách tiếp cận này, nhưng sau đó ông đã quay trở lại với nó, và cuối năm 1915, ông đã công bố thuyết tương đối rộng theo dạng ngày nay của lý thuyết. Lý thuyết này giải thích hấp dẫn là do sự cong của không thời gian do vật chất, ảnh hưởng tới chuyển động quán tính của các vật chất khác. Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Liên minh trung tâm chỉ có thể được thực hiện tại các viện Hàn lâm của liên minh này, vì lý do an ninh quốc gia. Một vài nghiên cứu của Einstein đã đến được Vương quốc Anh và Hoa Kỳ thông qua nỗ lỗ lực của nhà vật lý người Áo Paul Ehrenfest và của các nhà vật lý người Hà Lan, đặc biệt là Nobel gia Hendrik Lorentz và Willem de Sitter của Đại học Leiden. Sau khi chiến tranh kết thúc, Einstein vẫn duy trì mối liên hệ của ông với trường Đại học Leiden, và nhận làm giáo sư đặc biệt cho trường này trong mười năm, từ 1920 đến 1930, Einstein thường xuyên đến Hà Lan để giảng dạy. Năm 1917, một vài nhà thiên văn học chấp nhận lời đề xuất năm 1911 của Einstein khi ông ở Praha. Đài quan sát núi Wilson ở California, Hoa Kỳ, công bố kết quả phân tích phổ của Mặt Trời cho thấy không có sự dịch chuyển đỏ do hấp dẫn. Năm 1918, Đài quan sát Lick, cũng ở California, thông báo rằng rất khó có thể bác bỏ được tiên đoán của Einstein, mặc dù kết quả của họ không được công bố. Tuy nhiên vào tháng 5 năm 1919, một đội các nhà thiên văn học do Arthur Stanley Eddington dẫn đầu đã xác nhận rằng tiên đoán của Einstein về sự bẻ cong của tia sáng do hấp dẫn của Mặt Trời trong khi chụp các bức ảnh trong quá trình nhật thực tại Príncipe, một hòn đảo nằm phía tây châu Phi đồng thời với một đoàn thám hiểm ở Sobral, phía bắc Brasil. Nobel gia Max Born tán dương thuyết tương đối tổng quát như là "một kỳ công lớn nhất của tư duy con người về tự nhiên"; và Nobel gia người Anh Paul Dirac nói "nó có thể là khám phá khoa học lớn nhất đã từng được phát hiện". Các phương tiện thông tin quốc tế lan truyền khám phá này khiến Einstein trở nên nổi tiếng khắp thế giới. Đã có những ý kiến cho rằng việc kiểm tra lại các bức ảnh của đoàn thám hiểm Eddington cho thấy độ lớn sai số của thí nghiệm bằng với kết quả thu được từ hiệu ứng mà Eddington đã đo để chứng minh, và đoàn thám hiểm người Anh năm 1962 đã kết luận là phương pháp đã đo là không đủ tin cậy. Sự bẻ cong của tia sáng trong quá trình nhật thực đã được xác nhận bởi các quan sát chính xác hơn sau đó. Về sau, nhiều thí nghiệm sau này đã xác nhận các tiên đoán của thuyết tương đối rộng. Cùng với sự mới nổi tiếng của Einstein, nhiều nhà khoa học Đức thời đó đã có những động thái để chống lại Einstein cũng như các công trình của ông. Sóng hấp dẫn. Năm 1916, Einstein dự đoán tồn tại sóng hấp dẫn, những gợn sóng hình thành từ độ cong của không thời gian mà lan truyền từ nguồn ra bên ngoài như các sóng, chúng mang theo năng lượng dưới dạng bức xạ hấp dẫn. Sự tồn tại của sóng hấp dẫn theo khuôn khổ của thuyết tương đối tổng quát là do bất biến Lorentz đưa đến hệ quả của vận tốc lan truyền hữu hạn đối với các tương tác vật lý mà hấp dẫn tham gia. Ngược lại, sóng hấp dẫn không thể tồn tại trong lý thuyết hấp dẫn của Newton, khi cho rằng tương tác hấp dẫn lan truyền một cách tức thì hay với vận tốc lớn vô hạn. Sự phát hiện ra sóng hấp dẫn lần đầu tiên, một cách gián tiếp, đến từ những quan sát trong thập niên 1970 về cặp sao neutron quay trên quỹ đạo hẹp quanh nhau, PSR B1913+16. Quan sát cho thấy chu kỳ quỹ đạo của hệ giảm dần chứng tỏ hệ đang phát ra sóng hấp dẫn đúng như miêu tả của thuyết tương đối rộng. Dự đoán của Einstein đã được xác nhận vào ngày 11 tháng 2 năm 2016, khi các nhà khoa học thuộc nhóm LIGO công bố đã đo được trực tiếp sóng hấp dẫn lần đầu tiên, vào ngày 14 tháng 9 năm 2015, gần một trăm năm sau ngày ông đăng bài báo về sóng hấp dẫn. Vũ trụ học. Năm 1917, Einstein đã áp dụng thuyết tương đối rộng cho mô hình cấu trúc của vũ trụ trên toàn bộ. Theo dòng suy nghĩ đương thời, ông muốn vũ trụ là vĩnh hằng và bất biến, nhưng trong thuyết mới của ông, sau một thời gian dài lực hấp dẫn có thể hút vật chất về nhau dẫn tới vũ trụ co lại. Để sửa điều này, Einstein đã thay đổi nhỏ thuyết tương đối tổng quát bằng cách đưa ra một khái niệm mới, hằng số vũ trụ học. Với một hằng số vũ trụ dương, cân bằng chống lại lực hấp dẫn, vũ trụ có thể là quả cầu tĩnh vĩnh hằng Einstein tin tưởng rằng một vũ trụ tĩnh có tính đối xứng cầu sẽ phù hợp về mặt triết học, bởi vì nó tuân theo nguyên lý Mach. Ông đã chỉ ra rằng thuyết tương đối tổng quát gắn chặt với nguyên lý Mach trong trường hợp mở rộng hiệu ứng kéo hệ quy chiếu bằng trường hấp dẫn từ, nhưng ông biết rằng ý tưởng của Mach sẽ không đúng nếu vũ trụ cứ mở rộng ra vô hạn. Trong một vũ trụ đóng, ông tin rằng nguyên lý Mach sẽ được thỏa mãn. Nguyên lý Mach cũng đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong nhiều năm. Thuyết lượng tử hiện đại. Năm 1917, tại đỉnh cao của công việc nghiên cứu thuyết tương đối, Einstein xuất bản một bài báo trong ""Physikalische Zeitschrift" đề xuất khả năng tồn tại phát xạ kích thích, một quá trình vật lý giúp hiện thực được maser và laser. Bài báo này chỉ ra rằng tính thống kê của sự hấp thụ và bức xạ ánh sáng chỉ có thể phù hợp với định luật phân bố Planck khi sự bức xạ của ánh sáng trong một chế độ với n photon sẽ gần với tính thống kê hơn so với sự bức xạ của ánh sáng trong chế độ không có photon. Bài báo này có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển sau này của cơ học lượng tử, bởi vì nó là bài báo đầu tiên chỉ ra tính thống kê của sự chuyển dịch trạng thái nguyên tử tuân theo những định luật đơn giản. Einstein đã phát hiện ra nghiên cứu của Louis de Broglie, và đã ủng hộ những ý tưởng của ông, khi Einstein lần đầu tiên nhận được những ý tưởng phác thảo này. Một bài báo lớn khác trong thời kì này, Einstein đã viết ra phương trình sóng cho các sóng de Broglie, trong đó Einstein đã đề xuất từ phương trình Hamilton–Jacobi của cơ học. Bài báo này đã khích lệ các nghiên cứu của Schrödinger năm 1926. Thống kê Bose–Einstein. Năm 1924, Einstein nhận được một miêu tả về mô hình thống kê từ nhà vật lý người Ấn Độ Satyendra Nath Bose, trên cơ sở một phương pháp đếm với giả sử ánh sáng có thể được hiểu là khí của các hạt không thể phân biệt được. Einstein chú ý tới rằng thống kê của Bose có thể áp dụng cho một số nguyên tử có tính chất tương tự các hạt ánh sáng được đề xuất, và ông gửi bản dịch bài báo của Bose tới tạp chí "Zeitschrift für Physik". Einstein cũng tự viết các bài báo miêu tả mô hình thống kê này và những hệ quả của nó, bao gồm hiện tượng ngưng tụ Bose-Einstein mà trong một số trường hợp đặc biệt có thể xuất hiện tại nhiệt độ rất thấp.. Cho đến tận năm 1995, vật chất ngưng tụ lần đầu tiên đã được tạo ra bằng thực nghiệm bởi Eric Allin Cornell và Carl Wieman nhờ sử dụng các thiết bị siêu lạnh được lắp đặt tại NIST–phòng thí nghiệm JILA tại Đại học Colorado ở Boulder. Thống kê Bose-Einstein bây giờ được sử dụng để miêu tả hành xử của những hạt có spin nguyên, các boson. Những phác thảo của Einstein cho nghiên cứu này có thể xem tại "Einstein Archive" trong thư viện của đại học Leiden. Giả tenxơ năng lượng động lượng. Thuyết tương đối rộng bao gồm một không thời gian động lực, do vậy nó rất khó để tìm cách thống nhất các đại lượng bảo toàn năng lượng và động lượng. Định lý Noether cho phép những đại lượng được xác định từ hàm Lagrangian với bất biến tịnh tiến, nhưng hiệp biến tổng quát làm cho bất biến tịnh tiến trở thành một phần của đối xứng gauge. Tenxơ ứng suất - năng lượng trong phương trình trường Einstein không chứa năng lượng trường hấp dẫn, bởi vì theo nguyên lý tương đương bằng việc lựa chọn hệ quy chiếu cục bộ thích hợp, trường hấp dẫn sẽ biết mất. Năng lượng và động lượng bao hàm cả năng lượng hấp dẫn được dẫn ra từ thuyết tương đối rộng theo định lý Noether không phải là một tenxơ thực vì lý do như vậy. Einstein lập luận rằng điều này là đúng với những lý do cơ bản, bởi vì trường hấp dẫn có thể xuất hiện hoặc biến mất bằng cách chọn các tọa độ. Ông ủng hộ rằng giả tenxơ không hiệp biến năng lượng động lượng thực chất là cách miêu tả tốt nhất sự phân bố năng lượng và động lượng trong một trường hấp dẫn. Cách tiếp cận này đã được phát triển bởi Lev Landau và Evgeny Lifshitz, và những người khác, và đã trở thành một tiêu chuẩn. Việc sử dụng các đối tượng không-hiệp biến như các giả tenxơ đã bị phê phán nhiều bởi Erwin Schrödinger và những người khác năm 1917. Thuyết trường thống nhất. Tiếp theo nghiên cứu của ông về thuyết tương đối tổng quát, Einstein bắt tay vào chuỗi những cố gắng để tổng quát hóa lý thuyết hình học của ông về hấp dẫn, cho phép kết hợp được với tương tác điện từ. Năm 1950, ông miêu tả "thuyết trường thống nhất" của ông trong tạp chí "Scientific American" với tiêu đề "Về lý thuyết tổng quát của hấp dẫn". Mặc dù ông tiếp tục được ca ngợi cho các công trình của ông, Einstein đã dần dần bị đơn độc trong con đường nghiên cứu thuyết thống nhất này, và những nỗ lực của ông đã hoàn toàn bị thất bại. Trong việc theo đuổi một lý thuyết thống nhất các lực cơ bản của tự nhiên, Einstein đã bỏ qua một số hướng phát triển chính của vật lý thời đó, điển hình nhất là việc nghiên cứu các lực hạt nhân mạnh và lực hạt nhân yếu, chúng chưa được hiểu triệt để cho đến tận nhiều năm sau khi ông mất. Mặt khác, các xu hướng vật lý lại chủ yếu bỏ qua các phương pháp tiếp cận của ông đối với lý thuyết thống nhất; với cơ học lượng tử là khuôn khổ chính, lý thuyết mà ông không chấp nhận hoàn toàn về tính mô tả thực tại của nó. Giấc mơ của Einstein để thống nhất mọi định luật vật lý khác với hấp dẫn đã thôi thúc một cuộc tìm kiếm hiện đại cho một lý thuyết của mọi vật và đặc biệt là thuyết dây, trong đấy các trường hình học được kết hợp với lý thuyết trường lượng tử hay hấp dẫn lượng tử. Lỗ sâu. Trong nghiên cứu thuyết trường thống nhất, Einstein đã hợp tác với các nhà khoa học khác để đưa ra mô hình về một lỗ sâu. Mục đích của ông là thiết lập mô hình các hạt cơ bản với các tích (điện tích) của chúng như là một nghiệm của phương trình trường hấp dẫn, được đăng trong một bài báo với tiêu đề "Liệu trường hấp dẫn đóng một vai trò quan trọng trong cấu tạo của các hạt cơ bản?". Những nghiệm này cắt và dán các lỗ đen Schwarzschild để tạo ra một cầu nối giữa hai miền không gian. Nếu cuối một lỗ sâu mang điện tích dương, thì đầu kia của lỗ sâu phải mang điện tích âm. Những tính chất này dẫn Einstein đến sự tin tưởng rằng cặp các hạt và phản hạt có thể được miêu tả theo cách này. Lý thuyết Einstein–Cartan. Để có thể kết hợp spin của các hạt điểm vào trong thuyết tương đối tổng quát, liên thông aphin cần được tổng quát hóa để bao gồm được phần phản xứng, gọi là tenxơ xoắn. Năm 1922 nhà toán học Élie Cartan lần đầu tiên tiếp cận với đề xuất này và tiếp tục mở rộng lý thuyết trong các năm sau. Einstein cũng tham gia vào phát triển lý thuyết này vào năm 1928 với những nỗ lực không thành công khi sử dụng tenxơ xoắn để miêu tả trường điện từ trong thuyết trường thống nhất của ông. Nghịch lý Einstein–Podolsky–Rosen. Năm 1935, Einstein trở lại với cơ học lượng tử. Ông đã xét sự ảnh hưởng như thế nào của một hạt trong hệ hai hạt vướng víu với nhau đối với hạt kia. Ông đưa ra cùng với các cộng sự của ông rằng, bằng cách thực hiện các phép đo khác nhau trên một hạt ở rất xa, hoặc là về vị trí hoặc về động lượng, và các tính chất của hạt đối tác trong cặp vướng víu này có thể được khám phá mà không làm ảnh hưởng đến trạng thái của chính nó. Einstein do vậy đã sử dụng tính thực tại cục bộ để kết luận là những hạt khác có những tính chất này đã được định sẵn. Nguyên lý ông đề xuất là nếu có thể xác định được câu trả lời về vị trí hay động lượng qua phép đo một hạt đối tác, mà không ảnh hưởng đến hạt kia, thì các hạt thực sự có giá trị chính xác về vị trí hoặc động lượng, điều này mâu thuẫn với nguyên lý bất định Heisenberg. Nguyên lý này được rút ra từ quá trình phản bác của Einstein về cơ học lượng tử. Là một nguyên lý vật lý, nó đã được chứng minh là không tương thích với các kết quả thí nghiệm. Các phương trình chuyển động. Thuyết tương đối rộng có hai định luật cơ bản; - phương trình trường Einstein miêu tả sự cong của không gian, và phương trình trắc địa miêu tả sự di chuyển của các hạt trong trường hấp dẫn. Do các phương trình trong thuyết tương đôi tổng quát là phi tuyến, một lượng năng lượng xác định một trường hấp dẫn thuần túy, giống như hố đen, sẽ di chuyển trên một quỹ đạo được xác định bởi chính phương trình trường Einstein, không cần tới các định luật mới. Vì thế EInstein đề xuất rằng quỹ đạo của một nghiệm kì dị, giống như hố đen, có thể được xác định là một đường trắc địa từ chính thuyết tương đối rộng. Phương trình này được Einstein, Infeld và Hoffmann viết ra cho các vật thể hạt điểm không có mô men động lượng, và bởi Roy Kerr cho các vật thể quay. Cộng tác với những nhà khoa học khác. Ngoài sự cộng tác trong một thời gian dài với các nhà khoa học Leopold Infeld, Nathan Rosen, Peter Bergmann và những người khác, Einstein cũng từng cộng tác trong một thời gian ngắn với nhiều nhà khoa học. Tranh luận Bohr-Einstein. Tranh luận Bohr-Einstein là chuỗi các sự kiện phê bình giữa hai trong số những người sáng lập ra cơ học lượng tử là Albert Einstein và Niels Bohr về bản chất thực tại của lý thuyết này. Tranh luận của hai người không chỉ có ý nghĩa trong triết học của khoa học mà còn là động lực để các nhà lý thuyết và thực nghiệm lượng tử khám phá ra những tính chất mới đồng thời bổ sung cho nền tảng lý thuyết. Thí nghiệm Einstein-de Haas. Einstein và De Haas đã chứng tỏ rằng sự từ hóa là do chuyển động của các electron mà ngày nay được biết là spin. Để chỉ ra điều này, họ đảo ngược sự từ hóa trong một thanh thép treo trên một con lắc xoắn. Hai người quan sát thấy rằng thanh thép bị quay đi một góc, bởi vì mô men động lượng của electron bị thay đổi khi thay đổi sự từ hóa. Thí nghiệm này cần sự tinh tế, bởi vì mô men động lượng gắn với electron là nhỏ, nhưng nó cũng đủ để chứng minh chuyển động của electron vì một lý do nào đó ảnh hưởng đến sự từ hóa. Mô hình khí Schrödinger. Einstein gợi ý cho Erwin Schrödinger rằng ông có thể suy lại được sự thống kê của khí Bose–Einstein bằng xét đến một hộp. Sau đó mỗi chuyển động lượng tử khả dĩ của một hạt trong một hộp được gắn với một dao động tử điều hòa độc lập. Lượng tử hóa những dao động tử này, mỗi mức có một số nguyên tương ứng, sẽ là số các hạt trong hộp. Phương pháp này là một phần của lượng tử hóa chính tắc, nhưng nó đi ngược lại cơ học lượng tử hiện đại. Erwin Schrödinger áp dụng điều này để dẫn ra các tính chất nhiệt động của khí lý tưởng bán cổ điển. Schrödinger đã đề nghị Einstein để đưa thêm ông vào đồng tác giả, nhưng Einstein đã từ chối lời mời này. Tình yêu âm nhạc. Einstein bắt đầu cảm thụ âm nhạc từ khi còn nhỏ tuổi. Mẹ ông chơi dương cầm khá giỏi và muốn ông học đàn vĩ cầm, không chỉ để truyền dẫn cho ông niềm yêu thích âm nhạc mà còn giúp ông hòa nhập với nền văn hóa Đức. Theo nhạc trưởng Leon Botstein, Einstein có thể đã bắt đầu chơi nhạc từ lúc 5 tuổi nhưng chưa thể hiện niềm thích thú với âm nhạc khi đó. Tuy nhiên, bước sang tuổi 13, ông được học bản sonata vĩ cầm của Mozart. "Einstein trở nên yêu thích" âm nhạc Mozart, Botstein viết, và học chơi vĩ cầm một cách tự nguyện hơn. Theo Einstein, ông tự học chơi đàn bằng cách "thực hành có hệ thống", và nói rằng "say mê là một người thầy tốt hơn ý thức trách nhiệm." Khi 17 tuổi, ông trình bày bản sonata vĩ cầm của Beethoven trong một kỳ kiểm tra âm nhạc ở Aarau, và giáo viên chấm điểm đã nhận xét khi ông kết thúc là "xuất sắc và thể hiện nội dung tuyệt vời." Điều gây ấn tượng cho người giáo viên là, theo Botstein, Einstein "thể hiện sâu sắc tình yêu âm nhạc, một phẩm chất vẫn còn đang được hình thành. Âm nhạc có một ý nghĩa kỳ lạ đối với sinh viên này." Botstein lưu ý rằng âm nhạc đảm nhận một vai trò quan trọng và lâu dài trong cuộc sống kể từ thời gian đó của Einstein. Mặc dù chưa lúc nào ông nghĩ rằng sẽ theo đuổi sự nghiệp âm nhạc, nhưng ông thường tham gia chơi nhạc thính phòng với một vài nghệ sĩ, thường trình diễn cho nhóm vài người bạn. Âm nhạc thính phòng là một phần trong cuộc sống của ông khi còn ở Bern, Zurich, và Berlin, nơi ông chơi nhạc cùng Max Planck và những người khác. Năm 1931, trong thời gian đến Viện Công nghệ California, ông đến thăm gia đình Zoellner ở Los Angeles và chơi một số bản nhạc của Beethoven và Mozart cùng với các thành viên của nhóm tứ tấu Zoellner. Einstein sau đó trao cho người đại diện gia đình một bức ảnh lưu niệm chụp ông cùng với chữ ký. Âm nhạc không chỉ là niềm vui thích mà còn giúp ông trong công việc. Bà Elsa nói "âm nhạc giúp ông khi đang suy nghĩ về các lý thuyết. Ông mải mê nghiên cứu, quay trở ra giải trí bằng đánh vài đoạn hợp âm piano, rồi tiếp tục trở lại công việc". Quan điểm chính trị. Einstein là người ủng hộ chủ nghĩa xã hội và phê phán chủ nghĩa tư bản. Ông phản đối phong trào Quốc xã đang tăng lúc bấy giờ và sau đó cố gắng lên tiếng giảm bớt sự náo động của việc hình thành nước Israel. Fred Jerome trong quyển "Quan điểm của Einstein về nhà nước Israel và chủ nghĩa phục quốc Do Thái" cho rằng Einstein là một nhà văn hóa phục quốc Do Thái, người ủng hộ ý tưởng về một tổ quốc Do Thái nhưng phản đối việc hình thành một nhà nước Do Thái ở Palestine "với đường biên giới, quân đội, và một hệ thống pháp quyền riêng." Thay vào đó, ông ủng hộ một nhà nước liên bang gồm 2 quốc gia với "cơ cấu chức năng liên tục, hỗn hợp, quản trị, kinh tế, và xã hội." Trong cuộc Cách mạng tháng 11 ở Đức, Einstein đã ký vào một kháng nghị làm tiền đề cho đại hội tự do và dân chủ toàn quốc, được công bố ở tờ tin tức Berliner Tageblatt vào ngày 16 tháng 11 năm 1918 và ông trở thành Đảng viên của Đảng Dân chủ Đức. Sau Thế chiến thứ II, khi sự thù hằn giữa các nước đồng minh cũ trở nên căng thẳng, Einstein viết, "Tôi không biết Chiến tranh Thế giới lần thứ III người ta sẽ dùng vũ khí gì, nhưng tôi có thể nói với bạn con người có thể sử dụng vũ khí gì ở Chiến tranh Thế giới thứ IV - đá! Cùng với With Albert Schweitzer và Bertrand Russell, Einstein đã vận động để dừng việc thử nghiệm hạt nhân và bom trong tương lai. Trước lúc mất, Einstein đã ký vào bản tuyên ngôn Russell–Einstein, mà sau đó đã dẫn tới hội nghị Pugwash về Khoa học và Hòa bình Thế giới. Einstein là thành viên của nhiều nhóm quyền công dân, bao gồm đại hội Princeton của Hiệp hội quốc gia vì sự tiến bộ của người da màu (NAACP). khi W. E. B. Du Bois bị cáo buộc làm gián điệp Cộng sản, Einstein đã tình nguyện làm nhân chứng, và cáo buộc đã được bác bỏ ngay sau đó. Tình bạn của Einstein với nhà hoạt động Paul Robeson, người cùng với ông giữ chức đồng chủ tịch của Cuộc vận động người Mỹ chấm dứt kiểu hành hình Lynch phân biệt đối xử với người da đen, kéo dài đến 20 năm. Einstein từng nói "Chính trị là nhất thời, còn phương trình là vĩnh cửu." Ông đã từ chối lời đề nghị làm tổng thống Israel vào năm 1952. Quan điểm tôn giáo. Trên nghi vấn của quan điểm khoa học (quyết định luận) dẫn tới câu hỏi về lập trường của Einstein về quyết định luận thần học, liệu ông có tin vào Chúa, hay vào một vị thần nào đó hay không. Năm 1929, Einstein đã nói với giáo sĩ Do Thái Herbert S. Goldstein rằng ""Tôi tin vào Chúa của Spinoza, người mà biểu lộ chính mình trong nguyên lý hài hòa của thế giới, không phải là một vị Chúa có số mệnh và hành động của một con người". " Trong một bức thư năm 1954, ông viết, ""Tôi không tin vào một Chúa nhân cách hóa và tôi không bao giờ phủ định điều này và tôi đã biểu thị điều đó một cách rõ ràng"." Trong một bức thư gửi triết gia Erik Gutkind, Einstein nói rõ, "Danh từ Chúa đối với tôi không gì khác ngoài sự thể hiện và là sản phẩm của sự yếu đuối của loài người, Kinh thánh là tập hợp những điều đáng kính, nhưng vẫn còn nguyên sơ, huyền ảo tuy nhiên khá là ngây ngô." Báo chí đã cho đăng tải lặp đi lặp lại để thể hiện Albert Einstein là một người "khiêu khích" tôn giáo với phát biểu như sau của ông: Nhận xết về tôn giáo trên tờ New York Times số ra 09.11 năm 1930 như sau: Giải thưởng. Trong cuộc đời cống hiến nghiên cứu khoa học, Albert Einstein đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế. Tên của ông cũng được lấy để đặt cho nhiều giải thưởng. Vinh danh. Để ghi nhớ công lao của Einstein, ngoài những công thức, phương trình và hiện tượng trong vật lý đều mang tên ông (như phương trình trường Einstein, vành Einstein...) còn có rất nhiều thứ khác được gán cho tên của ông như: Trong văn hóa đại chúng. Einstein trở thành một trong những danh nhân khoa học nổi tiếng nhất, bắt đầu từ việc công bố thuyết tương đối rộng vào năm 1919. Mặc dù công chúng còn ít hiểu biết về những công trình của ông, Einstein vẫn được công nhận rộng rãi và nhận được sự tán dương. Trong giai đoạn trước Thế chiến thứ hai, tờ "The New Yorker" đã đăng một đoạn mô tả trong bài báo "The Talk of the Town" của họ nói rằng Einstein nổi tiếng ở Mỹ đến nỗi bị mọi người chặn lại trên đường phố vì muốn ông giải thích về "lý thuyết đó". Cuối cùng, ông cũng tìm ra cách để giải quyết những câu hỏi không ngừng. Ông nói với những người có mặt: "Xin lỗi, xin lỗi! Tôi luôn luôn bị nhầm lẫn với Giáo sư Einstein." Einstein là chủ đề hoặc là nguồn cảm hứng cho nhiều tiểu thuyết, phim, vở kịch và tác phẩm âm nhạc. Ông là một hình mẫu quen thuộc cho những mô tả về các giáo sư lơ đãng; khuôn mặt biểu cảm và kiểu tóc đặc biệt của ông đã bị sao chép và phóng đại rộng rãi. Frederic Golden của tạp chí "Time" đã viết rằng Einstein là "giấc mơ của một họa sĩ hoạt hình đã trở thành hiện thực". Nhiều câu trích dẫn phổ biến của ông thường được ghi sai.
17
17_electron_in_nhit_lng
[ "electron", "in", "nhit", "lng", "neutron", "thuyt", "ht", "einstein", "proton", "quark" ]
[ "Trong vật lý hạt nhân, năng lượng tách là năng lượng cần thiết để loại bỏ một hạt nhân (hoặc một hạt hoặc nhiều hạt được chỉ định khác) khỏi hạt nhân nguyên tử.\nNăng lượng tách khác nhau đối với mỗi hạt nhân và các hạt được loại bỏ. Các giá trị được liệt kê có thể là \"năng lượng tách neutron\", \"năng lượng tách hai neutron\", \"năng lượng tách proton\", \"năng lượng tách deuteron\", \"năng lượng tách alpha\", v.v.\nNăng lượng tách thấp nhất trong số các hạt nhân ổn định là 1,67 MeV, để loại bỏ một neutron ra khỏi beryllium-9.\nNăng lượng có thể được thêm vào hạt nhân bằng cách chiếu vào một tia gamma năng lượng cao. Nếu năng lượng của photon đạt đến mức vượt quá năng lượng tách, sựphân hủy quang có thể xảy ra. Năng lượng vượt quá giá trị ngưỡng trở thành động năng của hạt bị đẩy ra.\nNgược lại, năng lượng liên kết hạt nhân là năng lượng cần thiết để tháo rời hoàn toàn hạt nhân, hoặc năng lượng được giải phóng khi hạt nhân được lắp ráp từ các hạt nhân. Nó là tổng của nhiều năng lượng tách, nên được cộng vào cùng một tổng số bất kể thứ tự lắp ráp hay tháo gỡ.\nVật lý và hóa học.\nNăng lượng tách electron hoặc năng lượng liên kết electron là năng lượng cần thiết để loại bỏ một electron ra khỏi nguyên tử trung tính hoặc phân tử (hoặc cation) được gọi là năng lượng ion hóa. Phản ứng dẫn đến quang hóa, quang dẫn, hiệu ứng quang điện, quang điện, v.v.\nNăng lượng phân ly liên kết là năng lượng cần thiết để phá vỡ một liên kết của phân tử hoặc một ion, thường tách một nguyên tử hoặc nhiều nguyên tử.", "Bắt giữ electron kép là một phương thức phân rã của hạt nhân nguyên tử. Đối với một đồng vị phóng xạ (\"A\", \"Z\") có số hạt nhân \"A\" và số nguyên tử \"Z\", chỉ có thể bắt được electron kép nếu khối lượng của đồng vị phóng xạ của (\"A\", \"Z\"-2) thấp hơn.\nTrong phương thức phân rã này, hai trong số các electron quỹ đạo bị bắt bởi hai proton trong hạt nhân, tạo thành hai neutron. Hai neutrino được phát ra trong quá trình này. Vì các proton được thay đổi thành neutron, số lượng neutron tăng thêm 2, số lượng proton \"Z\" giảm đi 2 và số khối nguyên tử \"A\" không đổi. Bằng cách thay đổi số lượng proton, sự bắt electron kép sẽ biến đổi các hạt nhân thành một nguyên tố mới.\nVí dụ:\nĐộ hiếm.\nTrong hầu hết các trường hợp, phương thức phân rã này sẽ xảy ra ít hơn bởi có nhiều phương thức có thể xảy ra hơn (bắt giữ electron đơn...), nhưng khi tất cả các phương thức này bị “cấm” (bị triệt tiêu mạnh), bắt giữ electron kép sẽ trở thành phương thức phân rã chính.\nCó 34 đồng vị xuất hiện tự nhiên có thể trải qua quá trình bắt electron kép. Tuy nhiên, chỉ có ba quan sát được xác nhận về quá trình này: , , and .\nMột lý do là xác suất xảy ra bắt giữ electron kép là rất nhỏ (dự đoán lý thuyết về chu kỳ bán rã cho phương thức này là trên 10 năm). Lý do thứ hai là các hạt duy nhất có thể phát hiện được tạo ra trong quá trình này là các tia X và electron Auger được phát ra từ lớp vỏ nguyên tử bị kích thích. Trong phạm vi năng lượng của chúng (~1-10 keV), nền thường cao. Do đó, việc phát hiện và thử nghiệm bắt giữ electron kép khó khăn hơn so với phân rã beta kép. Việc bắt electron kép có thể đi kèm với sự kích thích của hạt nhân con. Lần lượt, sự khử kích thích của nó đi kèm với sự phát xạ của các photon có năng lượng lên đến hàng trăm keV.\nCác phương thức phát xạ positron.\nNếu sự chênh lệch khối lượng giữa các nguyên tử mẹ và con lớn hơn hai lần khối lượng của một electron (1,022 MeV), năng lượng được giải phóng trong quá trình này đủ để cho phép một phương thức phân rã khác được gọi là bắt electron bằng phát xạ positron. Nó xảy ra cùng với việc bắt electron kép, tỷ lệ phân nhánh của chúng tùy thuộc vào tính chất hạt nhân. Khi chênh lệch khối lượng lớn hơn bốn lần khối lượng electron (2,044 MeV), phương thức thứ ba, được gọi là phân rã positron kép, được cho phép. Chỉ có 6 đồng vị phóng xạ tự nhiên có thể phân rã thông qua ba phương thức này cùng một lúc.\nBắt giữ electron kép phi neutrino.\nQuá trình được mô tả ở trên với việc bắt giữ hai electron và phát xạ hai neutrino (bắt electron kép neutrino) được cho phép theo Mô hình Chuẩn của vật lý hạt: không vi phạm luật bảo tồn (bao gồm bảo toàn số lepton). Tuy nhiên, nếu số lepton không được bảo toàn hoặc neutrino là phản hạt của chính nó, thì một loại quá trình khác có thể xảy ra, được gọi là bắt giữ electron kép phi neutrino. Trong trường hợp này, hai electron bị hạt nhân bắt giữ, nhưng neutrino không được phát ra. Năng lượng được giải phóng trong quá trình này được mang đi bởi một lượng tử gamma bremsstrahlung.\nVí dụ:\nPhương thức phân rã này chưa bao giờ được quan sát bằng thực nghiệm và sẽ mâu thuẫn với Mô hình Chuẩn nếu nó được quan sát.", "Electron hay điện tử, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ nhất trong họ các hạt lepton, và nói chung được coi là những hạt cơ bản bởi vì chúng không có các thành phần nhỏ hay cấu trúc con. Electron có khối lượng xấp xỉ bằng 1/1836 so với của proton. Các tính chất cơ học lượng tử của electron bao gồm giá trị mômen động lượng (spin) bằng một nửa đơn vị, biểu diễn theo đơn vị của hằng số Planck thu gọn, \"ħ\". Vì là một fermion, trong hệ cô lập không có hai electron nào có thể ở cùng một trạng thái lượng tử, như nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli. Giống như tất cả các hạt cơ bản khác, electron thể hiện cả các tính chất của sóng và hạt: chúng có thể va chạm với các hạt khác và bị nhiễu xạ như ánh sáng. Các tính chất sóng của electron dễ dàng được quan sát thấy ở các thí nghiệm hơn so với những hạt khác ví dụ như neutron và proton bởi vì electron có khối lượng nhỏ hơn và do vậy có bước sóng de Broglie dài hơn ở cùng một mức năng lượng.\nElectron có vai trò cơ bản ở nhiều hiện tượng vật lý, như điện, từ học, hóa học và độ dẫn nhiệt. Ngoài ra nó cũng tham gia vào tương tác hấp dẫn, điện từ và yếu. Vì một electron mang điện tích, bao xung quanh nó là điện trường, và nếu electron chuyển động tương đối với một người quan sát, nó sẽ cảm ứng một từ trường. Trường điện từ tạo ra bởi những nguồn khác sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của hạt electron tuân theo định luật lực Lorentz. Electron phát ra hay hấp thụ năng lượng dưới dạng các photon khi chúng chuyển động gia tốc. Các thiết bị ở phòng thí nghiệm có khả năng bẫy từng electron đơn lẻ cũng như các electron plasma bằng sử dụng điện từ trường. Những kính thiên văn đặc biệt có thể phát hiện electron plasma trong không gian vũ trụ. Electron tham dự vào nhiều ứng dụng thực tiễn như điện tử học, hàn tia điện tử, ống tia âm cực, kính hiển vi điện tử, trị liệu bức xạ, laser electron tự do, máy dò khí ion hóa và máy gia tốc hạt.\nCác tương tác có sự tham gia của những electron với các hạt khác là một trong những chủ đề nghiên cứu của hóa học và vật lý hạt nhân. Tương tác lực Coulomb giữa các proton mang điện dương bên trong hạt nhân nguyên tử và các electron mang điện âm ở orbital cấu thành lên nguyên tử. Sự ion hóa hay sự chênh lệch giữa số electron mang điện âm và hạt nhân mang điện dương làm thay đổi năng lượng liên kết của một hệ nguyên tử. Sự trao đổi hay chia sẻ các electron giữa hai hay nhiều nguyên tử là nguyên nhân chủ yếu tạo ra liên kết hóa học. Năm 1838, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming lần đầu tiên đã đặt ra khái niệm về một đại lượng điện tích không thể chia nhỏ hơn nhằm giải thích các tính chất hóa học của các nguyên tử. Nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney sau đó đặt tên đại lượng điện tích này là 'electron' vào năm 1891, và sau đó J. J. Thomson cùng các cộng sự người Anh cuối cùng đã phát hiện ra electron có biểu hiện của một hạt cơ bản vào năm 1897. Electron cũng tham gia vào các phản ứng hạt nhân, như quá trình tổng hợp lên các hạt nhân nặng hơn trong các sao, mà chúng thường được gọi là các hạt beta. Electron cũng có thể được tạo ra trong phân rã beta từ các đồng vị phóng xạ và trong các va chạm năng lượng cao, như ở sự kiện các tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển. Phản hạt của electron được gọi là positron; nó có tính chất đồng nhất với electron ngoại trừ các tích như điện tích mang dấu ngược lại. Khi một electron va chạm với một positron, cả hai hạt bị hủy, tạo ra hai photon tia gamma năng lượng cao.\nLịch sử.\nKhám phá ra hiệu ứng của lực điện.\nNgười Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy rằng khi dùng bộ lông thú chà xát vào hổ phách thì nó có khả năng hút được những vật nhỏ. Cùng với sét, đây là một trong những hiện tượng về điện được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử loài người. Trong luận thuyết \"De Magnete\" viết năm 1600, nhà khoa học người Anh William Gilbert đưa ra thuật ngữ trong tiếng Latin mới là , để kể đến những chất có tính chất tương tự như hổ phách với khả năng có thể hút được những vật nhỏ khi chà xát với lông thú. Cả hai thuật ngữ \"electric\" và \"electricity\" đều có nguồn gốc từ tiếng Latin ' (cũng là từ nguyên của hợp kim có cùng tên); ' có từ nguyên bắt nguồn từ chữ hổ phách trong tiếng Hy Lạp, (\"\").\nKhám phá hai loại điện tích.\nĐầu những năm 1700, nhà hóa học người Pháp Charles François du Fay phát hiện thấy nếu một lá vàng tích điện bị đẩy bởi một que thủy tinh khi chà nó với lụa, thì cùng lá vàng tích điện này lại bị hút bởi hổ phách khi chà vào bông sợi. Từ quan sát này cùng những kết quả thí nghiệm tương tự, du Fay kết luận rằng điện phải chứa hai loại chất lỏng mang điện, chất lỏng \"vitreous\" từ đũa thủy tinh khi chà xát vào lụa và chất lỏng \"resinous\" từ hổ phách khi chà vào bông sợi. Hai chất lỏng này có thể trung hòa lẫn nhau khi được kết hợp lại. Nhà khoa học người Mỹ Ebenezer Kinnersley sau đó cũng độc lập đi đến kết luận tương tự của du Fay. Một thập kỷ sau, Benjamin Franklin đề xuất rằng điện không cấu tạo từ những loại chất lỏng điện khác nhau, mà là một chất lỏng điện có biểu hiện dư thừa (+) hay thiếu hụt (−) điện tích. Ông đưa ra thuật ngữ hiện đại tương ứng với chúng là điện tích dương và điện tích âm. Franklin từng nghĩ về chất mang điện sẽ có điện tích dương, nhưng ông đã không miêu tả đúng tình huống khi nào chất sẽ dư thừa điện tích, và khi nào bị thiếu hụt điện tích.\nGiữa các năm 1838 và 1851, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming phát triển ý tưởng cho rằng một nguyên tử là tổ hợp bao gồm một lõi vật chất được bao quanh bởi những hạt nhỏ hơn nguyên tử mà có điện tích bằng số lần điện tích đơn vị. Đầu năm 1846, nhà vật lý người Đức William Weber đưa ra lý thuyết miêu tả điện là chất tổng hợp bởi các chất lỏng tích điện dương và âm, và tương tác giữa chúng bị chi phối bởi luật nghịch đảo bình phương. Sau khi nghiên cứu hiện tượng điện phân vào năm 1874, nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney gợi ý có tồn tại một \"đại lượng xác định duy nhất cho điện\", điện tích của một ion hóa trị một. Ông đã có thể ước lượng giá trị của điện tích cơ bản \"e\" này bằng cách áp dụng định luật điện phân Faraday. Tuy nhiên, Stoney lại tin rằng những điện tích này lại gắn chặt vĩnh cửu vào nguyên tử và không thể bị tách rời. Năm 1881, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz cho rằng cả điện tích dương và điện tích âm có thể chia ra thành những thành phần cơ bản, mỗi một chúng \"hành xử như những nguyên tử của điện\".\nStoney ban đầu đưa ra thuật ngữ \"electrolion\" vào năm 1881. Mười năm sau, ông chuyển sang sử dụng \"electron\" để miêu tả những điện tích cơ bản này, khi ông viết vào năm 1894: \"... một ước lượng được thực hiện để tính toán số lượng thực tế của đơn vị điện cơ bản điển hình nhất này, mà tôi đã từng dám gợi ý đặt tên là \"electron\"\". Đã có một đề xuất vào năm 1906 nhằm đổi sang tên gọi \"electrion\" nhưng đã thất bại bởi vì Hendrik Lorentz vẫn thích tên gọi \"electron\" hơn. Từ \"electron\" là tổ hợp của các từ \"electric\" và \"ion\". Hậu tố -\"on\" mà hiện nay được sử dụng để đặt tên cho các hạt cơ bản khác, như proton hoặc neutron, có nguồn gốc bắt nguồn từ cách đặt tên cho electron.\nKhám phá ra các electron tự do bên ngoài vật chất.\nKhi nghiên cứu hiện tượng dẫn điện trong khí loãng vào năm 1859, nhà vật lý người Đức Julius Plücker quan sát thấy ánh sáng lân quang, vốn được tạo thành bởi bức xạ phát ra từ cathode, xuất hiện tại thành ống gần cathode, và vùng ánh sáng lân quang đó có thể di chuyển bằng việc ứng dụng từ trường. Năm 1869, Johann Wilhelm Hittorf, một học trò của Plücker, phát hiện rằng một vật rắn đặt giữa cathode và vùng lân quang tạo ra một vùng tối trên vùng lân quang của ống. Hittorf kết luận rằng có những tia truyền thẳng phát ra từ cathode và vùng lân quang đó được tạo ra bởi các tia chiếu qua thành ống. Năm 1876, nhà vật lý người Đức Eugen Goldstein chỉ ra rằng các tia này được phát ra theo phương vuông góc với mặt cathode, mặt phân cách giữa các tia phát ra từ cathode và ánh sáng sợi đốt. Goldstein đặt tên cho những tia này là tia âm cực. Công cuộc nghiên cứu về tia âm cực kéo dài hàng thập kỷ cả về lý thuyết và thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình khám phá ra electron của J. J. Thomson.\nTrong thập niên 1870, nhà hóa lý người Anh Sir William Crookes đã phát triển ống tia âm cực đầu tiên với môi trường chân không cao bên trong. Sau đó ông chứng tỏ rằng các tia phát quang xuất hiện bên trong ống có mang năng lượng và chuyển động từ phía cathode sang anode. Hơn nữa, khi đặt vào một từ trường, ông đã làm lệch đường đi của chùm tia, do đó chứng tỏ thêm chùm tia hành xử như nó chứa điện tích âm. Năm 1879, ông đề xuất rằng những tính chất này có thể được giải thích bằng cách coi rằng các tia âm cực bao gồm các phân tử khí mang điện tích âm trong trạng thái thứ tư của vật chất mà trong đó quãng đường tự do của các phân tử lớn đến mức có thể bỏ qua va chạm.\nNhà vật lý người Anh sinh ở Đức Arthur Schuster tiến hành mở rộng các thí nghiệm của Crookes khi đặt những tấm kim loại song song với chùm tia cathode và áp dụng vào một điện thế giữa các tấm này. Điện trường đã làm lệch chùm tia về phía tấm kim loại tích điện dương, chứng cứ đã củng cố thêm cho kết luận chùm tia mang điện tích âm. Bằng cách đo độ lệch của chùm tia tương ứng với từng lần điều chỉnh dòng điện giữa hai tấm kim loại, năm 1890 Schuster đã ước lượng được tỷ số khối lượng−điện tích của các thành phần trong chùm tia. Tuy vậy, giá trị ông thu được lớn hơn 1000 lần so với giá trị được dự đoán, do đó ít người đã để ý đến kết quả tính toán của ông vào thời điểm đó.\nNăm 1892, Hendrik Lorentz gợi ý rằng khối lượng của những hạt này (electron) có thể là hệ quả của lượng điện tích mà chúng mang theo.\nKhi đang nghiên cứu các khoáng chất huỳnh quang tự nhiên vào năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá thấy chúng phát ra các bức xạ mà không cần phải chiếu thêm một nguồn năng lượng từ bên ngoài. Những vật liệu phóng xạ này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học, bao gồm nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, ông đã phát hiện vật liệu phóng xạ có phát ra các hạt. Ông gọi những hạt này là các hạt alpha và hạt beta, dựa trên khả năng đâm xuyên của chúng qua vật chất. Năm 1900, Becquerel đã chứng tỏ chùm tia beta phát ra từ hạt nhân radium có thể bị làm lệch hướng trong một điện trường, và tỷ số khối lượng trên điện tích của chúng bằng với tỷ số này của chùm tia cathode. Chứng cứ này đã củng cố thêm quan điểm cho rằng electron tồn tại như là một trong các thành phần của nguyên tử.\nNăm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson, cùng với các đồng nghiệp John S. Townsend và H. A. Wilson, đã thực hiện các thí nghiệm chỉ ra chùm tia cathode thực sự chứa các hạt, hơn là một loại sóng, những hạt nguyên tử hoặc phân tử như nhiều nhà khoa học từng tin như vậy trước đó. Thomson đã có kết quả ước lượng khá tốt về điện tích \"e\" và khối lượng \"m\" của hạt tia cathode, mà ông gọi là \"corpuscles\", nó có khối lượng bằng một phần nghìn khối lượng của ion nhẹ nhất: ion hydro. Ông cũng đã chứng minh tỷ số điện tích−khối lượng, \"e\"/\"m\", có giá trị độc lập với vật liệu của bản cực cathode. Ông tiếp tục chứng tỏ thêm các vật liệu phóng xa, vật liệu nung nóng và vật liệu bị chiếu xạ có phát ra các hạt mang điện tích âm. Tên gọi electron về sau được cộng đồng khoa học chấp nhận sử dụng rộng rãi, chủ yếu do đề xuất của G. F. FitzGerald, J. Larmor và H. A. Lorentz.\nĐiện tích của electron đã được đo một cách chính xác hơn bởi các nhà vật lý Mỹ Robert Millikan và Harvey Fletcher trong thí nghiệm giọt dầu vào năm 1909, và kết quả được công bố vào 1911. Thí nghiệm sử dụng một điện trường để hãm các giọt dầu mang điện tích rơi trong không khí dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Thiết bị của họ có thể đo điện tích của 1–150 ion với sai số là 0,3%. Trước đó nhóm của Thomson cũng thực hiện thí nghiệm tương tự, sử dụng đám mây chứa các giọt nước tích điện tạo ra bởi sự điện phân,và thí nghiệm thực hiện bởi Abram Ioffe năm 1911, ông đã thu được kết quả tương tự một cách độc lập với nhóm Millikan khi sử dụng các vi hạt kim loại tích điện, và kết quả được công bố vào năm 1913. Tuy nhiên, các giọt dầu có tính ổn định hơn giọt nước bởi vì chúng có tốc độ bốc hơi chậm hơn, và do đó phù hợp hơn với thí nghiệm chính xác đòi hỏi thực hiện trong thời gian dài hơn.\nVào thời điểm bắt đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng dưới những điều kiện nhất định một hạt tích điện chuyển động nhanh trong buồng bọt có thể gây ra sự ngưng tụ của hơi nước siêu bão hòa trên quỹ đạo chuyển động của hạt. Năm 1911, Charles Wilson đã áp dụng nguyên lý này cho thiết bị buồng mây của mình, cho phép ông có thể chụp ảnh được quỹ đạo của các hạt tích điện, ví dụ như các electron chuyển động nhanh.\nLý thuyết nguyên tử.\nCho đến năm 1914, các thí nghiệm thực hiện bởi Ernest Rutherford, Henry Moseley, James Franck và Gustav Hertz hầu như đã khẳng định được cấu trúc nguyên tử bao gồm một hạt nhân cô đặc mang điện dương bao xung quanh bởi các electron có khối lượng rất nhỏ. Năm 1913, nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr giả thuyết các electron nằm trong các trạng thái có mức năng lượng bị lượng tử hóa, mức năng lượng của chúng được xác định bởi mômen động lượng của quỹ đạo electron quanh hạt nhân. Các electron có thể chuyển động trên những quỹ đạo này, bằng cách phát ra hay hấp thụ photon với tần số xác định. Với cơ sở là những quỹ đạo bị lượng tử hóa này, Bohr có thể giải thích một cách chính xác các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Tuy nhiên, mô hình của Bohr chưa thể giải thích được cường độ tương đối của các vạch này cũng như mô hình chưa thể giải thích quang phổ của những nguyên tử phức tạp hơn.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử được Gilbert Newton Lewis giải thích, khi vào năm 1916 ông đề xuất rằng liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử được duy trì bởi cặp electron chia sẻ giữa chúng. Sau đó, vào năm 1927, Walter Heitler và Fritz London đưa ra lý thuyết giải thích đầy đủ cho sự hình thành cặp electron và liên kết hóa học trong khuôn khổ của cơ học lượng tử. Năm 1919, nhà hóa học người Mỹ Irving Langmuir đưa ra mô hình tĩnh về nguyên tử và gợi ý rằng mọi electron được phân bố tuần tự theo \"những vỏ (gần) hình cầu đồng tâm, tất cả đều có độ dày bằng nhau\". Tiếp đó, ông chia những vỏ này ra thành một số ô, mà mỗi ô chứa một cặp electron. Với mô hình này, Langmuir có thể giải thích một cách định tính các tính chất hóa học của các nguyên tố trong bảng tuần hoàn, mà nhiều tính chất được lặp lại tuân theo định luật tuần hoàn trong bảng.\nNăm 1924, nhà vật lý người Áo Wolfgang Pauli nhận xét thấy cấu trúc tựa vỏ của nguyên tử có thể được giải thích bằng một tập hợp chứa bốn tham số xác định lên mỗi trạng thái năng lượng lượng tử, và mỗi trạng thái này không thể chiếm bởi nhiều hơn một electron. Việc không có nhiều hơn một electron chiếm chỗ ở cùng một trạng thái năng lượng lượng tử được phát biểu trong nguyên lý loại trừ Pauli. Cơ chế vật lý để giải thích cho tham số thứ tư, mà nó có hai giá trị phân biệt, được các nhà vật lý người Hà Lan Samuel Goudsmit và George Uhlenbeck đề xuất. Năm 1925, họ cho rằng một electron, cùng với mômen động lượng của quỹ đạo, còn sở hữu thêm mômen góc động lượng nội tại và mômen lưỡng cực từ. Điều này tương tự như sự tự quay của Trái Đất cũng như nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Mômen góc động lượng nội tại này được gọi là spin, và đưa ra cách giải thích cho sự tách vạch bí ẩn như được quan sát thấy ở các vạch quang phổ bằng phổ kế có độ phân giải cao; hiện tượng này được biết đến như là sự tách cấu trúc tinh tế.\nCơ học lượng tử.\nTrong luận án \"\" (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử) viết năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie giả thuyết rằng mọi vật chất có thể được biểu diễn bằng sóng de Broglie tương tự như sóng ánh sáng. Điều đó có nghĩa là dưới những điều kiện phù hợp, các electron và những hạt vật chất khác sẽ thể hiện những tính chất của sóng hoặc của hạt. Lý thuyết hạt ánh sáng được chứng tỏ khi nó thể hiện có vị trí định xứ trong không gian dọc theo quỹ đạo chùm sáng ở bất kỳ thời điểm nào. Bản chất sóng ánh sáng được hiện, ví dụ, khi một chùm sáng chiếu qua những khe hẹp song song nó sẽ tạo thành những vân giao thoa. Năm 1927 George Paget Thomson khám phá ra hiệu ứng giao thoa xuất hiện khi cho một chùm electron truyền qua những lá kim loại mỏng và kiểu thí nghiệm tương tự được các nhà vật lý người Mỹ Clinton Davisson và Lester Germer thực hiện khi cho chùm electron phản xạ từ tinh thể nikel và quan sát thấy hiệu ứng giao thoa. Các hiệu ứng này còn được gọi là hiện tượng nhiễu xạ electron.\nDự đoán của de Broglie về bản chất sóng của electron đưa Erwin Schrödinger thiết lập lên phương trình sóng miêu tả electron chuyển động dưới ảnh hưởng của hạt nhân trong nguyên tử. Năm 1926, với phương trình của mình, phương trình Schrödinger, ông đã miêu tả thành công sóng electron trong hệ nguyên tử. Hơn là chỉ việc tìm ra nghiệm xác định vị trí của một electron theo thời gian, phương trình sóng này cũng được áp dụng để dự đoán xác suất tìm thấy electron quanh vị trí cụ thể, đặc biệt vị trí gần nơi electron bị chặn trong không gian, mà tại đây phương trình sóng electron không thay đổi theo thời gian. Cách tiếp cận này đã đem đến một lý thuyết miêu tả cơ học lượng tử thứ hai (lý thuyết đầu tiên miêu tả bằng cơ học ma trận do Heisenberg phát triển năm 1925), và nghiệm của phương trình Schrödinger, giống như của Heisenberg, cho phép dẫn ra các trạng thái năng lượng của một electron trong nguyên tử hydro mà tương đương với các kết quả thu được bởi Bohr vào năm 1913, và miêu tả chính xác quang phổ nguyên tử hydro. Khi kể đến spin và tương tác giữa nhiều electron, cơ học lượng tử đưa ra những dự đoán chính xác về cấu hình electron trong những hệ nguyên tử phức tạp hơn hydro.\nNăm 1928, dựa trên các nghiên cứu của Wolfgang Pauli, Paul Dirac thiết lập nên một mô hình về electron – phương trình Dirac, nhất quán với thuyết tương đối hẹp, bằng cách áp dụng các điều kiện đối xứng và tương đối tính trong hình thức luận hamiltonian của cơ học lượng tử cho trường điện từ. Để có thể giải một số vấn đề trong phương trình tương đối tính của mình, năm 1930 Dirac nêu ra một mô hình chân không như là một biển chứa vô hạn các hạt có năng lượng âm, sau này gọi là biển Dirac. Mô hình này đã đưa ông đi đến dự đoán tồn tại positron, một hạt phản vật chất của electron. Hạt này sau đó được phát hiện vào năm 1932 bởi Carl Anderson, và ông đề xuất gọi các electron thường gặp là \"negatron\" và sử dụng thuật ngữ \"electron\" nhằm miêu tả những biến thể mang điện tích dương hoặc âm.\nNăm 1947 Willis Lamb, khi đang thực hiện nghiên cứu cùng với sinh viên Robert Retherford, đã tìm thấy có những trạng thái lượng tử riêng biệt của hydro, đáng ra phải có cùng mức năng lượng, lại được dịch chuyển tương đối với nhau; sự sai lệch này sau đó được gọi là dịch chuyển Lamb. Trong cùng thời gian, Polykarp Kusch, cùng với Henry M. Foley, đã khám phá bằng thí nghiệm mômen từ của electron có giá trị hơi lớn hơn so với dự đoán của lý thuyết Dirac. Giá trị chênh lệch nhỏ này sau đó được gọi là mômen lưỡng cực từ dị thường của electron. Sự chênh lệch này sau đó được giải thích trong lý thuyết điện động lực học lượng tử, phát triển bởi các nhà vật lý Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và\nRichard Feynman vào cuối thập niên 1940.\nMáy gia tốc hạt.\nVới sự phát triển của các loại máy gia tốc hạt trong nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn vào các tính chất của các hạt hạ nguyên tử. Thành công đầu tiên trong nỗ lực gia tốc electron sử dụng cảm ứng điện từ được thực hiện vào năm 1942 bởi Donald Kerst. Máy betatron ban đầu của ông đạt đến mức năng lượng 2,3 MeV, và những máy betatron về sau đạt đến mức 300 MeV. Năm 1947, bức xạ đồng bộ (synchrotron radiation) được phát hiện tại máy gia tốc synchrotron, đưa electron đạt mức năng lượng 70 MeV, tại cơ sở nghiên cứu của General Electric. Bức xạ này là do các electron chuyển động gia tốc đi qua một từ trường ở vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng.\nMáy gia tốc va chạm hạt ADONE là máy đầu tiên đạt mức năng lượng của chùm tia cỡ 1,5 GeV, bắt đầu hoạt động vào năm 1968. Trong thiết bị này, các hạt electron và positron được gia tốc theo hai hướng ngược chiều nhau, như vậy gần như làm tăng gấp đôi năng lượng va chạm so với máy gia tốc chùm tia electron bắn vào một bia cố định. Máy va chạm lớn Electron–Positron (Large Electron–Positron Collider; LEP) ở CERN, hoạt động từ 1989 đến 2000, đạt tới mức năng lượng va chạm 209 GeV và có những đo lường quan trọng cho Mô hình Chuẩn của vật lý hạt.\nGiam giữ từng electron.\nHiện nay từng electron đơn lẻ có thể dễ dàng bị giam hãm trong những transistor CMOS siêu nhỏ (, ) hoạt động ở ngưỡng nhiệt độ lạnh sâu từ −269 °C (4 K) cho đến khoảng −258 °C (15 K). Hàm sóng electron lan truyền trong một dàn chất bán dẫn và khi bỏ qua tương tác của nó với các electron trong dải hóa trị, thì có thể coi như là hàm của electron đơn lẻ, bằng cách thay thế khối lượng của nó bằng tenxơ khối lượng hiệu dụng.\nCác đặc tính.\nPhân loại.\nTrong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt, electron thuộc về nhóm các hạt hạ nguyên tử gọi là lepton, mà được cho là những hạt cơ bản. Electron có khối lượng nhỏ nhất trong nhóm lepton (cũng như trong nhóm các hạt mang điện) và thuộc về thế hệ thứ nhất của hạt cơ bản. Thế hệ thứ hai và thứ ba bao gồm các lepton mang điện, hạt muon và tau, chúng có giá trị điện tích, spin và tham gia tương tác giống với của electron, nhưng có khối lượng lớn hơn. Lepton khác so với những thành phần cơ bản khác của vật chất, hạt quark, khi lepton không tham gia vào tương tác mạnh. Tất cả các thành viên trong nhóm lepton đều là fermion, bởi vì chúng đều có spin bán nguyên; electron có spin .\nCác tính chất cơ bản.\nKhối lượng bất biến (khối lượng nghỉ) của electron xấp xỉ bằng  kilogram, hay  đơn vị khối lượng nguyên tử. Trên cơ sở của nguyên lý sự tương đương khối lượng−năng lượng của Einstein, khối lượng này tương ứng với mức năng lượng nghỉ 0,511 MeV. Tỷ số giữa khối lượng của một proton so với của electron bằng khoảng 1836. Các đo đạc thiên văn cho thấy tỷ số khối lượng proton trên khối lượng electron vẫn giữ nguyên không đổi, như được dự đoán bởi Mô hình Chuẩn, trong thời gian ít nhất bằng một nửa tuổi của vũ trụ.\nElectron có điện tích bằng coulomb, một giá trị đã được sử dụng làm đơn vị điện tích chuẩn cho các hạt hạ nguyên tử, và cũng được gọi là điện tích cơ bản. Trong khoảng giới hạn sai số thí nghiệm, giá trị điện tích của electron bằng giá trị của proton nhưng mang dấu ngược lại. Vì ký hiệu \"e\" được sử dụng cho điện tích cơ bản, electron thường được ký hiệu là , với dấu trừ thể hiện cho điện tích âm. Positron được ký hiệu bởi vì nó có cùng các tính chất với electron nhưng mang điện tích dương.\nElectron có mômen động lượng nội tại hay spin . Do tính chất này mà electron thường được coi các hạt có spin-. Những hạt như vậy có độ lớn spin bằng  \"ħ\", trong khi kết quả đo từ hình chiếu của spin lên một trục bất kỳ chỉ có thể bằng ±. Ngoài spin, electron còn có mômen từ hướng dọc theo trục spin của nó. Giá trị mômen từ electron xấp xỉ bằng một Bohr magneton,=\\frac{e\\hbar}{2m_{\\mathrm{e}}}.</math>|group=gc}} là hằng số vật lý bằng joule trên tesla. Hướng của spin so với hướng của mômen động lượng electron xác định lên tính chất của các hạt cơ bản được biết đến là tính xoắn (\"helicity\").\nElectron không có cấu trúc con đã biết, nên nó thường được coi là một hạt điểm, hay cụ thể là một điện tích điểm không có không gian trong. Quan sát electron đơn lẻ trong bẫy Penning gợi ý rằng giới hạn trên của bán kính của nó bằng 10−22 mét. Giá trị giới hạn trên của bán kính electron bằng 10−18 mét có thể dẫn ra từ nguyên lý bất định kết hợp với năng lượng. Ngoài ra, còn có một hằng số vật lý gọi là \"bán kính electron cổ điển\", với giá trị là , lớn hơn rất nhiều bán kính của proton. Tuy nhiên, giá trị này được tìm từ những phép tính đơn giản mà bỏ qua các hiệu ứng của cơ học lượng tử; trong thực tế, giá trị bán kính electron cổ điển không có nhiều ý nghĩa khi đề cập đến cấu trúc cơ bản bên trong của electron.\nCó những hạt cơ bản khác tự động phân rã thành những hạt khối lượng nhẹ hơn. Ví dụ cho muon, nó có thời gian sống trung bình  giây, và phân rã thành một electron, một neutrino muon và một phản neutrino electron. Hạt electron, mặt khác, theo lý thuyết được cho là hạt bền: electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất với điện tích khác 0, do đó sự phân rã của nó sẽ vi phạm định luật bảo toàn điện tích. Thực nghiệm xác định giới hạn dưới của thời gian sống của electron là năm, ở mức 90% độ tin cậy.\nCác tính chất lượng tử.\nNhư mọi hạt khác, các electron có hành xử như những sóng. Đặc điểm này được gọi là lưỡng tính sóng–hạt và được chứng minh bằng thí nghiệm giao thoa hai khe.\nBản chất sóng của electron cho phép nó đi qua hai khe song song một cách đồng thời, hơn là chỉ một khe ở một thời điểm như đối với trường hợp của hạt. Trong cơ học lượng tử, tính chất sóng của một hạt được miêu tả bằng toán học dưới dạng hàm giá trị phức, hay hàm sóng, thường được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp psi (\"ψ\"). Khi tính bình phương giá trị tuyệt đối của hàm này, sẽ cho xác suất quan sát được một hạt ở một vị trí cho trước—hay chính là mật độ xác suất.\nElectron là những hạt đồng nhất bởi vì không thể phân biệt được chúng dựa trên những tính chất vật lý nội tại của hạt. Trong cơ học lượng tử, điều này có nghĩa là một cặp electron tương tác có thể đổi chỗ cho nhau mà không làm thay đổi trạng thái quan sát được của hệ. Hàm sóng của các fermion, bao gồm electron, là hàm phản xứng, có nghĩa rằng nó thay đổi dấu khi hai electron trao đổi vị trí cho nhau; hay, , với các biến \"r\"1 và \"r\"2 tương ứng với electron thứ nhất và thứ hai. Vì giá trị tuyệt đối không thay đổi khi hai hạt đổi chỗ cho nhau, điều này tương ứng với xác suất của hai sự kiện là bằng nhau. Ngược lại, hạt boson, như photon, lại có hàm sóng đối xứng.\nTrong trường hợp phản xứng, các nghiệm của phương trình sóng cho các electron tương tác sẽ cho xác suất bằng 0 đối với mỗi cặp chiếm cùng một vị trí hoặc trạng thái. Kết quả này tương ứng với nguyên lý loại trừ Pauli, phát biểu rằng không thể có hai electron chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Nguyên lý này giải thích cho nhiều tính chất của các electron hóa học. Ví dụ, nó làm cho nhóm các electron liên kết chiếm những orbital khác nhau trong một nguyên tử, hơn là đan xen lẫn nhau trong cùng một orbital.\nHạt ảo.\nTrong một bức tranh đơn giản, mỗi photon đôi lúc được coi như là tổ hợp của một hạt electron ảo với phản hạt ảo của nó, positron ảo, mà chúng nhanh chóng hủy lẫn nhau khi vừa mới sinh ra trong một thời gian rất ngắn. Sự kết hợp của biến thiên năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt này, và khoảng thời gian trong đó chúng tồn tại, phải nằm trong ngưỡng chấp nhận được tuân theo nguyên lý bất định Heisenberg, Δ\"E\" · Δ\"t\" ≥ \"ħ\". Để thỏa mãn nguyên lý này, năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt ảo này, Δ\"E\", có thể được \"mượn\" từ chân không trong một khoảng thời gian, Δ\"t\", sao cho tích của chúng không được lớn hơn hằng số Planck thu gọn, . Do vậy, đối với một electron ảo, Δ\"t\" lớn nhất bằng . (nghĩa là nếu cặp electron ảo−positron ảo mượn năng lượng Δ\"E\" từ chân không lượng tử thì phải trả lại năng lượng này cho chân không sau tối đa một khoảng thời gian Δ\"t\" sao cho Δ\"E\" · Δ\"t\" ≤ \"ħ\")\nKhi một cặp electron–positron ảo đang tồn tại, lực tĩnh điện Coulomb từ điện trường tức thời xung quanh hạt electron sẽ làm hút hạt positron về phía electron gốc ban đầu, trong khi electron được sinh ra chịu một lực đẩy. Hiệu ứng này chính là sự phân cực chân không. Về mặt hiệu ứng, chân không hành xử như một môi trường có dielectric permittivity lớn hơn 1 đơn vị. Do vậy điện tích hữu hiệu của một electron thực sự nhỏ hơn giá trị thực của nó, và điện tích giảm dần khi khoảng cách tăng dần tính từ electron. Sự phân cực này đã được xác nhận bằng thực nghiệm vào năm 1997 tại máy gia tốc hạt TRISTAN ở Nhật Bản. Các hạt ảo cũng tạo ra hiệu ứng lá chắn đáng kể cho khối lượng của electron.\nTương tác với các hạt ảo cũng giải thích sự sai lệch nhỏ (khoảng 0,1%) về giá trị của mômen từ nội tại của electron so với magneton Bohr (sai lệch này được gọi là mômen từ dị thường của electron). Sự khớp chính xác tuyệt vời giữa giá trị tính toán trên lý thuyết và giá trị đo được bằng thực nghiệm của mômen từ dị thường electron được coi là một trong những thành tựu quan trọng nhất của điện động lực học lượng tử.\nNghịch lý trong vật lý cổ điển về hạt điểm electron lại có mômen góc spin và mômen từ nội tại có thể được giải quyết bởi sự hình thành của các cặp hạt photon ảo trong điện trường sinh bởi electron. Các photon ảo này (đến lượt lại sinh ra các cặp electron−positron ảo khác) làm cho electron luôn dịch chuyển xung quanh vị trí của nó (còn gọi là zitterbewegung), mà tổng hợp lại thành một chuyển động tròn với hiệu ứng tiến động. Chuyển động này tạo ra cả spin và mômen từ của electron. Trong nguyên tử, sự sinh các cặp hạt photon ảo giúp giải thích hiệu ứng dịch chuyển Lamb như đã quan sát thấy ở các vạch quang phổ.\nTương tác.\nElectron sinh ra từ trường tạo ra lực hút lên hạt mang điện dương, như proton, và lực đẩy lên hạt mang điện âm. Cường độ của lực này trong điện động lực học cổ điện được xác định bằng định luật nghịch đảo bình phương Coulomb. Khi một electron đang trong chuyển động, nó tạo ra một từ trường bao quanh. Định luật Ampère-Maxwell cho biết mối liên hệ giữa từ trường và chuyển động của dòng các electron (dòng điện) tương ứng với người quan sát. Tính chất cảm ứng này cung cấp một từ trường dẫn động làm quay động cơ điện. Trường điện từ của một hạt mang điện bất kỳ đang trong chuyển động được miêu tả bằng thế Liénard–Wiechert, thế này đúng cho cả trường hợp hạt chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (hay vận tốc tương đối tính).\nKhi một electron chuyển động trong từ trường, nó chịu tác dụng của lực Lorentz tác động theo phương vuông góc với mặt phẳng xác định bởi vectơ từ trường và vectơ vận tốc của electron. Lực hướng tâm làm cho electron chuyển động trên một quỹ đạo xoắn ốc trong từ trường với bán kính Larmor. Sự gia tốc từ chuyển động theo đường cong ghềnh này làm cảm ứng electron phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ đồng bộ. Năng lượng bức xạ này làm hãm electron, hay còn gọi là lực Abraham–Lorentz–Dirac, tạo ra ma sát làm chậm chuyển động của electron. Lực này cũng gây ra tác động ngược (back-reaction) lên điện từ trường của chính electron.\nTrong điện động lực học lượng tử photon là hạt truyền tải tương tác điện từ giữa các hạt. Một electron đơn lẻ chuyển động với vận tốc đều không thể phát ra hay hấp thụ một photon thực; do sẽ vi phạm định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Mặt khác, các photon ảo có thể truyền động lượng giữa hai hạt mang điện tích. Sự trao đổi này của các photon ảo, ví dụ, làm tạo ra lực Coulomb. Bức xạ năng lượng xuất hiện khi một electron chuyển động bị làm lệch quỹ đạo gây bởi điện trường của một hạt mang điện khác, như proton. Sự gia tốc của electron làm phát ra bức xạ Bremsstrahlung.\nMột photon (ánh sáng) va chạm phi đàn hồi với một electron (tự do) được gọi là tán xạ Compton. Kết quả của va chạm này là động lượng và năng lượng được truyền qua giữa các hạt, làm thay đổi bước sóng của photon bằng một lượng được gọi là dịch chuyển Compton. Độ dịch chuyển lớn nhất của bước sóng bằng \"h\"/\"m\"e\"c\", hay còn gọi là bước sóng Compton. Đối với một electron, nó có giá trị bằng . Khi bước sóng của ánh sáng là dài (ví dụ bước sóng của ánh sáng khả kiến bằng 0,4–0,7 μm) sự dịch chuyển bước sóng có thể bỏ qua được. Trong trường hợp này, tương tác giữa ánh sáng và electron tự do được gọi là tán xạ Thomson hay tán xạ Thomson tuyến tính.\nĐộ mạnh tương đối của tương tác điện từ giữa hai hạt điện tích, chẳng hạn giữa một electron và một proton, được xác định bởi hằng số cấu trúc tế vi. Đây là đại lượng không thứ nguyên hình thành dựa trên tỉ số của hai dạng năng lượng: năng lượng tĩnh điện của lực hút (hoặc đẩy) ở khoảng cách bằng một lần bước sóng Compton, và năng lượng nghỉ của các hạt mang điện tích. Nó có giá trị bằng \"α\" ≈ , hay xấp xỉ bằng .\nKhi electron và positron va chạm, chúng hủy lẫn nhau, làm phát ra hai hoặc ba photon tia gamma. Nếu electron và positron có động lượng bỏ qua được, va chạm có thể hình lên nguyên tử positronium trước khi hai hạt hủy lẫn nhau để hình ra các photon có tổng năng lượng 1,022 MeV. Mặt khác, một photon năng lượng cao có thể biến đổi thành cặp electron và positron bởi quá trình sinh cặp (pair production), nhưng chỉ trong sự có mặt của một hạt điện tích gần nó, như một hạt nhân chẳng hạn.\nTrong lý thuyết tương tác điện yếu, thành phần hàm sóng hướng bên trái (chiral) của electron tạo thành bộ đôi isospin yếu với neutrio electron. Điều này có nghĩa rằng trong tương tác yếu, neutrino electron hành xử như các electron. Mỗi loại hạt của bộ đôi này (doublet) có thể tham gia vào tương tác dòng tích (charged current) bằng cách phát ra hoặc hấp thụ một boson và biến đổi sang thành hạt kia. Điện tích được bảo toàn trong quá trình này bởi vì boson W cũng mang điện tích, làm cho tổng điện tích của quá trình biến đổi là không thay đổi. Các tương tác dòng tích chịu trách nhiệm cho hiện tượng phân rã beta trong một nguyên tử phóng xạ. Cả electron và neutrino electron có thể tham gia vào tương tác dòng trung hòa (neutral current interaction) thông qua sự trao đổi một boson , và chịu trách nhiệm cho tán xạ đàn hồi neutrino−electron.\nNguyên tử và phân tử.\nMột electron có thể \"liên kết\" với hạt nhân của một nguyên tử bởi lực hút Coulomb. Một hệ có một hoặc nhiều electron liên kết với một hạt nhân được gọi là một nguyên tử. Nếu số electron khác với số điện tích của hạt nhân, nguyên tử đó được gọi là một ion. Hành xử dạng sóng của một electron liên kết được miêu tả bằng một hàm sóng gọi là orbital nguyên tử. Mỗi orbital đặc trưng bởi các số lượng tử như mức năng lượng, mômen động lượng và hình chiếu của mômen góc, và chỉ có các orbital rời rạc tồn tại xung quanh hạt nhân. Theo nguyên lý loại trừ Pauli mỗi orbital có thể chiếm giữ bởi tối đa hai electron, và chúng phải có số lượng tử spin khác nhau.\nElectron có thể nhảy sang các orbital khác nhau thông qua sự hấp thụ hoặc phát ra photon có năng lượng bằng hiệu giữa hai mức năng lượng đó. Các phương pháp khác làm electron chuyển sang orbital khác bao gồm sự va chạm của nó với hạt khác, như các electron, và nhờ hiệu ứng Auger. Để thoát ra khỏi nguyên tử, năng lượng của electron phải tăng và lớn hơn năng lượng liên kết với nguyên tử. Điều này xảy ra, ví dụ, như ở hiệu ứng quang điện, khi một photon tới va chạm có năng lượng lớn hơn năng lượng ion hóa nguyên tử và bị electron hấp thụ.\nMômen góc orbital của electron bị lượng tử hóa. Bởi electron mang điện, nó có một mômen từ orbital tỷ lệ với mômen góc. Tổng mômen từ của một nguyên tử bằng tổng vec tơ của mô men từ spin và mômen từ orbital của tất cả các electron và hạt nhân. Mômen từ của hạt nhân là nhỏ so với của các electron. Mômen từ của các electron chiếm giữ cùng một orbital (còn gọi là cặp electron) triệt tiêu lẫn nhau.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử chính là tương tác điện từ giữa chúng, như miêu tả bởi các định luật của cơ học lượng tử. Liên kết mạnh nhất hình thành bởi chia sẻ hoặc cho/nhận các electron giữa các nguyên tử, dẫn đến hình thành lên các phân tử. Bên trong một phân tử, các electron chuyển động dưới ảnh hưởng của một vài hạt nhân, và chiếm giữ các orbital phân tử; giống như chúng chiếm giữ các orbital trong một nguyên tử cô lập. Một yếu tố cơ bản trong các cấu trúc phân tử đó là sự tồn tại các cặp electron. Đây là các electron có spin ngược nhau, cho phép chúng có thể chiếm giữ cùng một orbital phân tử mà không vi phạm nguyên lý loại trừ Pauli (tương tự như ở nguyên tử). Các orbital phân tử khác nhau có phân bố mật độ electron theo không gian khác nhau. Ví dụ, ở các cặp electron liên kết (nghĩa là các cặp thực sự liên kết các nguyên tử với nhau) có thể được tìm thấy với xác suất cực đại nằm ở vùng thể tích tương đối nhỏ giữa các hạt nhân. Ngược lại, ở các cặp electron không liên kết chúng phân bố trong thể tích lớn hơn bao quanh hạt nhân.\nDẫn điện.\nNếu một vật thể có nhiều hoặc ít hơn lượng electron cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân nguyên tử, thì tổng thể vật đó có mang điện tích. Khi có nhiều hơn electron, vật đó mang điện âm. Khi có ít electron hơn số lượng proton trong hạt nhân nguyên tử, vật mang điện dương. Khi số electron và proton bằng nhau, điện tích của chúng hủy lẫn nhau và vật thể ở trạng thái cân bằng điện (hay trung hòa). Nhờ tác động chà xát có thể làm vật thể vĩ mô mang điện thông qua hiệu ứng điện ma sát (triboelectric effect).\nCác electron độc lập chuyển động trong chân không được gọi là các electron \"tự do\". Các electron trong kim loại cũng hành xử như chúng chuyển động tự do. Thực sự thì các hạt được gọi là các electron trong kim loại và những thể rắn khác là những giả-electron—giả hạt, mà có cùng điện tích, spin, và mômen từ như các electron thực thụ nhưng có khối lượng khác với nó. Khi các electron tự do—trong chân không lẫn kim loại—chuyển động, chúng tạo ra một dòng mạng lưới điện tích được gọi là dòng điện, từ đó tạo ra một từ trường. Giống như một dòng điện có thể được sinh ra từ sự thay đổi của một từ trường. Những tương tác và mối quan hệ này được miêu tả bởi phương trình Maxwell.\nỞ mỗi nhiệt độ nhất định, từng vật liệu có một độ dẫn điện ảnh hưởng đến giá trị của dòng điện khi áp vào một điện thế. Những vật dẫn điện tốt bao gồm kim loại như đồng và vàng, trong khi thủy tinh và Teflon lại dẫn điện kém. Ở bất kỳ vật liệu cách điện nào, các electron vẫn bám vào các nguyên tử và vật liệu có tính chất như là một chất cách điện. Hầu hết các chất bán dẫn có mức độ dẫn điện biến đổi từ phạm vi dẫn điện cực tốt cho đến cách điện hoàn toàn. Mặt khác, các kim loại có cấu trúc dải điện tử chứa các vùng năng lượng được lấp đầy một phần bởi electron. Sự có mặt của những vùng năng lượng này cho phép các electron trong kim loại hành xử như chúng được tự do hoặc gọi là các electron phi định xứ (delocalized electrons). Những electron không liên kết với một nguyên tử nhất định, do vậy khi áp dụng một điện trường, chúng chuyển động tự do như một chất khí (được gọi là khí Fermi) đi qua vật liệu giống như các electron tự do.\nBởi vì có sự va chạm giữa các electron với các nguyên tử, vận tốc trôi của các electron trong một vật dẫn có độ lớn cỡ vài milimét trên một giây. Tuy nhiên, trường hợp có sự thay đổi dòng điện từ một điểm trong vật liệu gây ra sự thay đổi dòng điện ở điểm khác trong vật liệu, thì tốc độ lan truyền của hiệu ứng này, điển hình bằng khoảng 75% tốc độ ánh sáng. Điều này xảy ra bởi vì tín hiệu điện lan truyền như một sóng, với vận tốc phụ thuộc vào hằng số điện môi của vật liệu.\nĐa số kim loại có độ dẫn nhiệt tương đối tốt, chủ yếu bởi vì các electron phi định xứ vận chuyển năng lượng nhiệt tự do giữa các nguyên tử. Tuy nhiên, không giống như sự dẫn điện, sự dẫn nhiệt của một kim loại gần như độc lập với nhiệt độ của vật liệu. Điều này đã được phát biểu bằng định luật Wiedemann–Franz, nói rằng tỉ số độ dẫn nhiệt trên độ dẫn điện tỷ lệ thuận với nhiệt độ của vật liệu. Sự mất trật tự bởi nhiệt trong dàn tinh thể nguyên tử kim loại làm tăng điện trở của vật liệu, tạo ra sự phụ thuộc vào nhiệt độ đối với dòng điện.\nKhi làm lạnh vật liệu xuống dưới một mức gọi là nhiệt độ tới hạn, vật liệu trải qua sự chuyển pha trong đó nó mất hoàn toàn tính kháng điện (điện trở) đối với dòng điện, hay chính là hiệu ứng siêu dẫn. Trong lý thuyết BCS, các cặp electron được gọi là cặp Cooper trong chuyển động của chúng bắt cặp với nguyên tử gần đấy thông qua những dao động dàn nguyên tử gọi là phonon, do đó cặp Cooper tránh được va chạm với các nguyên tử mà thường tạo ra điện trở. (Các cặp Cooper có bán kính xấp xỉ bằng 100 nm, do đó nếu coi chúng như sóng vật chất thì chúng có thể chồng chập lẫn nhau.) Tuy nhiên, cơ chế cho hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu vẫn chưa có lý thuyết giải thích thỏa đáng.\nCác electron bên trong vật dẫn, mà chính chúng cũng là những giả hạt, khi đặt trong nhiệt độ rất gần với độ không tuyệt đối, có thể được phân ra thành ba loại giả hạt: spinon, orbiton và holon. Hạt đầu tiên mang spin và mômen từ, hạt tiếp theo mang vị trí orbital của nó trong khi hạt còn lại mang điện tích.\nChuyển động và năng lượng.\nTheo thuyết tương đối hẹp của Einstein, khi tốc độ của một electron tiệm cận tới tốc độ ánh sáng, người quan sát từ một hệ quy chiếu quán tính sẽ đo được khối lượng tương đối tính của hạt tăng lên, do đó khiến cho nó càng khó để có thể gia tốc nó từ bên trong hệ quy chiếu của người quan sát. Tốc độ của một electron có thể tiếp cận đến, nhưng không bao giờ bằng, tốc độ của ánh sáng trong chân không, \"c\". Tuy nhiên, khi các electron tương đối tính—là những electron chuyển động với tốc độ gần bằng \"c\"—chuyển động trong môi trường điện môi như nước, nơi vận tốc ánh sáng trong nó nhỏ hơn nhiều so với \"c\", các electron trong môi trường này có thể chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Khi chúng tương tác va chạm với môi trường, chúng tạo ra một ánh sáng nhạt được gọi là bức xạ Cherenkov.\nCác hiệu ứng trong thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên một đại lượng gọi là hệ số Lorentz, được xác định bằng formula_1 với \"v\" là tốc độ của hạt. Động năng \"K\"e của một electron chuyển động với vận tốc \"v\" bằng:\nvới \"m\"e là khối lượng của electron. Ví dụ, ở máy gia tốc thẳng Stanford có thể gia tốc một electron tới động năng gần bằng 51 GeV. Vì một electron hành xử như dạng sóng, ở một vận tốc bất kỳ nó có một bước sóng de Broglie đặc trưng. Bước sóng này được cho bởi \"λ\"e = \"h\"/\"p\" với \"h\" là hằng số Planck và \"p\" là động lượng. Đối với electron có động năng 51 GeV ở trên, bước sóng de Broglie bằng , đủ nhỏ để khám phá các cấu trúc có kích thước nhỏ hơn kích cỡ của một hạt nhân nguyên tử.\nSự hình thành.\nLý thuyết Vụ Nổ Lớn là lý thuyết khoa học được chấp nhận rộng rãi hiện nay miêu tả những giai đoạn ban đầu của sự tiến hóa của Vũ trụ. Ở những miligiây đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ trên 10 tỷ kelvin và các photon có năng lượng trung bình trên một triệu electronvolt. Các photon này có đủ năng lượng mà khi tương tác với nhau có thể dẫn tới sự hình thành cặp electron và positron. Ngược lại, những cặp positron−electron hủy lẫn nhau và phát ra các photon năng lượng cao:\nTrạng thái cân bằng giữa các electron, positron và photon được duy trì trong suốt giai đoạn này của sự tiến hóa Vũ trụ. Khi 15 giây trôi qua, tuy nhiên, nhiệt độ của Vũ trụ lúc này giảm xuống dưới ngưỡng cho phép hình thành cặp hạt electron−positron. Phần lớn các electron và positron tồn tại hủy lẫn nhau, giải phóng bức xạ gamma làm Vũ trụ nóng lên trong một thời gian ngắn.\nVì một lý do nào đó chưa được biết chắc chắn, trong suốt quá trình hủy cặp có sót lại một số lượng hạt nhiều hơn phản hạt vật chất. Cụ thể là có dư ra 1 electron tồn tại trong mỗi 1 tỷ cặp hạt electron−positron. Số lượng dư sót lại này bằng với số lượng proton còn dư từ quá trình hủy cặp hạt tương tự proton và phản proton, trong một điều kiện được gọi là bất đối xứng baryon, điều này mang đến tổng điện tích của toàn bộ Vũ trụ gần như bằng zero. Những proton và neutron còn dư lại bắt đầu tham gia vào các phản ứng với nhau—quá trình gọi là tổng hợp hạt nhân, tạo ra các đồng vị của hydro và heli, và một ít hạt nhân lithi. Các phản ứng này đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian ở sau năm phút. Bất kỳ neutron còn lại nào sẽ trải qua phản ứng phân rã beta âm với nửa thời gian sống bằng khoảng một nghìn giây, giải phóng ra một proton và một electron,\nTrong khoảng 300.000–400.000 năm tiếp theo, lượng các hạt electron còn lại có năng lượng quá lớn để có thể liên kết vào các hạt nhân nguyên tử. Giai đoạn tiếp theo là sự tái kếp hợp electron vào hạt nhân, khi ấy các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự giãn nở của vũ trụ làm cho vật chất trở lên trong suốt với bức xạ.\nGần một triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, thế hệ các ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành. Trong lòng một ngôi sao, dây chuyền phản ứng tổng hợp hạt nhân sao cho ra các sản phẩm trong đó có positron. Những hạt phản vật chất này ngay lập tức hủy với các electron, giải phóng tia gamma. Gộp chung lại số lượng hạt electron bị giảm dần, và tương ứng số lượng hạt neutron tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa sao cũng hình thành các sản phẩm là những đồng vị phóng xạ. Các đồng vị này có thể sau đó trải qua phân rã beta trừ, phát ra một electron và một phản neutrino từ hạt nhân. Một ví dụ là đồng vị cobalt-60 (60Co), mà phân rã thành nickel-60 (60Ni).\nCuối chu trình tiến hóa của chúng, một ngôi sao có khối lượng lớn hơn 20 lần khối lượng Mặt Trời đi đến kết cục suy sụp hấp dẫn để tạo thành một lỗ đen. Theo vật lý cổ điển, bên trong những ngôi sao khối lượng lớn này xuất hiện lực hút hấp dẫn đủ mạnh để ngăn bất kỳ thứ gì, kể cả bức xạ điện từ, thoát ra khỏi bán kính Schwarzschild. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử cho phép có khả năng tồn tại bức xạ Hawking ở phạm vi khoảng cách này. Các electron (và positron) được cho là tạo ra ở chân trời sự kiện của những tàn dư sao.\nKhi một cặp hạt ảo (như gồm một electron và một positron) được tạo ra tại biên giới của chân trời sự kiện, sự phân bố ngẫu nhiên trong vị trí của hạt có thể làm cho một trong hai hạt nằm ở bên trong chân trời sự kiện; mà quá trình này được gọi là sự xuyên hầm lượng tử. Thế năng hấp dẫn của lỗ đen có thể cấp năng lượng để biến một hạt ảo nằm bên ngoài chân trời sự kiện trở thành một hạt thực, cho phép nó bật phóng ra vào không gian. Đổi lại, hạt còn lại của cặp mang năng lượng âm và rơi về vùng kì dị lỗ đen, dẫn đến tổng cộng khối lượng−năng lượng của lỗ đen bị giảm đi. Tốc độ bức xạ Hawking tăng tiến khi khối lượng lỗ đen giảm dần, làm cho lỗ đen bốc hơi và cuối cùng là phát nổ.\nTia vũ trụ là những hạt chuyển động trong không gian với năng lượng cao. Các sự kiện năng lượng cao đến cỡ đã được ghi nhận. Khi những hạt này va chạm với các nucleon trong khí quyển Trái Đất, một trận mưa các hạt được tạo ra, bao gồm các pion. Hơn một nửa bức xạ vũ trụ được quan sát trên bề mặt Trái Đất có chứa các muon. Muon là một hạt loại lepton hình thành tại thượng tầng khí quyển sau quá trình phân rã của một pion.\nĐến lượt muon, nó có thể phân rã thành electron hoặc positron.\nQuan sát.\nQuan sát electron từ xa đòi hỏi việc đo được năng lượng bức xạ của chúng. Ví dụ, trong môi trường năng lượng cao như ở vành nhật hoa của một ngôi sao, các electron tự do tạo thành trạng thái plasma phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ Bremsstrahlung. Khí electron có thể biểu hiện dao động plasma, đó là những sóng gây bởi những biến đổi đồng bộ trong mật độ electron, và những sóng này tạo ra phát xạ năng lượng có thể phát hiện được nhờ quan sát qua kính thiên văn vô tuyến.\nTần số của một photon tỷ lệ với năng lượng của nó. Khi một electron liên kết trong nguyên tử chuyển trạng thái giữa các mức năng lượng khác nhau, nó hấp thụ hoặc phát ra photon ở những tần số đặc trưng. Ví dụ, khi chiếu nguồn bức xạ phổ liên tục vào các nguyên tử sẽ xuất hiện các vạch phổ hấp thụ đặc trưng trong quang phổ của bức xạ phản xạ. Mỗi nguyên tố hoặc phân tử thể hiện một lớp đặc trưng các vạch quang phổ, như các vạch quang phổ hydro. Những phép đo lường quang phổ về cường độ và bề rộng của các vạch này cho phép xác định được thành phần và tính chất vật lý của một chất cần xác định.\nTrong điều kiện của phòng thí nghiệm, có thể quan sát tương tác của từng electron đơn lẻ nhờ các máy gia tốc hạt nhân, mà cho phép đo những tính chất cụ thể như năng lượng, spin và điện tích. Nhờ sự phát triển của các kỹ thuật bẫy ion như bẫy Paul và bẫy Penning cho phép giam giữ các hạt mang điện trong một thể tích đủ nhỏ với thời gian dài. Điều này đã cho phép đo lường các tính chất cũng như thao tác lên những hạt này. Ví dụ, bẫy Penning từng được ứng dụng để chứa một electron đơn lẻ trong thời gian 10 tháng. Mômen từ của electron đã được đo với độ chính xác đến 11 chữ số thập phân mà vào năm 1980, độ chính xác này còn lớn hơn độ chính xác đo được của bất kỳ các hằng số vật lý khác.\nBộ phim chụp ảnh đầu tiên về sự phân bố năng lượng của electron đã được thực hiện bởi một đội các nhà vật lý tại Đại học Lund ở Thụy Điển vào tháng 2 năm 2008. Họ đã sử dụng một xung nhịp ánh sáng cực ngắn, hay gọi là các xung atto giây, cho phép lần đầu tiên chụp ảnh được chuyển động của một electron.\nSự phân bố của các electron trong chất rắn có thể được biểu hiện nhờ kỹ thuật chụp quang phổ bức xạ phân giải góc (angle-resolved photoemission spectroscopy, ARPES). Kỹ thuật này ứng dụng hiệu ứng quang điện để đo hàm phân bố không gian giàn tinh thể—một hàm toán học biểu diễn đặc tính cấu trúc tuần hoàn được áp dụng để suy đoán ra cấu trúc ban đầu của tinh thể. ARPES được ứng dụng để xác định hướng, tốc độ và sự tán xạ của các electron bên trong vật liệu.\nCác ứng dụng plasma.\nChùm hạt.\nTrong công nghệ và kỹ thuật, các chùm tia electron đã được ứng dụng để thực hiện hàn bằng chùm electron giữa hai loại vật liệu. Chúng cho phép mật độ năng lượng của chùm tia hàn lên tới 107 W·cm−2 được tập trung trong một hình nón tròn đường kính cỡ mà thường không cần đòi hỏi phải có lớp vật liệu đệm thứ 3. Kỹ thuật hàn này phải được thực hiện trong chân không để tránh các electron va chạm với một trường khí xung quanh trước khi chúng đến được vật liệu cần hàn, và nó có thể được sử dụng để nối các loại vật liệu dẫn điện mà những biện pháp hàn khác không phù hợp để áp dụng.\nQuang khắc chùm điện tử (EBL) là phương pháp tạo các chi tiết bán dẫn ở mức phân giải nhỏ hơn 1 µm. Kỹ thuật này có hạn chế là giá thành cao, tốc độ sản xuất chậm, cần phải vận hành chùm điện tử trong môi trường chân không cao và các electron có xu hướng tán xạ trên bề mặt vật liệu. Độ phân giải tối đa của phương pháp này vào khoảng 10 nm. Vì lý do này, EBL được ứng dụng chủ yếu cho sản xuất một số nhỏ các vi mạch chuyên biệt.\nPhương pháp xử lý chùm điện tử (electron-beam processing, hoặc electron irradiation EBI) được ứng dụng để làm thay đổi các đặc tính của vật liệu hoặc khử trùng trong y học và thực phẩm bằng cách chiếu chùm điện tử vào sản phẩm. Chùm electron hóa lỏng hoặc làm tan chảy thủy tinh mà không gây tăng nhiều nhiệt độ khi thực hiện chiếu với cường độ cao: ví dụ bức xạ electron mạnh gây ra sự giảm độ nhớt ở nhiều bậc độ lớn và làm giảm từng bước năng lượng hoạt hóa của nó.\nCác máy gia tốc quỹ đạo thẳng (linear particle accelerator) tạo ra những chùm electron cho chùm sáng dùng để điều trị các khối u trên bề mặt trong trị liệu bức xạ. Trị liệu điện tử (electron therapy) có thể điều trị các thương tổn ở da như ung thư tế bào đáy bởi vì một chùm electron chỉ có thể thâm nhập xuống một độ sâu nhất định trước khi bị hấp thụ, thường là đến 5 cm đối với electron có năng lượng trong phạm vi 5–20 MeV. Một chùm electron có thể được sử dụng phối hợp với chiếu xạ tia X trong điều trị bệnh.\nCác máy gia tốc hạt sử dụng điện trường để đẩy các electron và phản hạt của chúng lên mức năng lượng cao. Những hạt này phát ra bức xạ đồng bộ khi chúng bay qua từ trường. Cường độ của bức xạ đồng bộ phụ thuộc vào phân cực spin của chùm electron—quá trình được gọi là hiệu ứng Sokolov–Ternov. Các chùm electron phân cực được ứng dụng trong nhiều thí nghiệm khác nhau. Bức xạ synchrotron có thể dùng làm mát chùm electron với mục đích làm giảm sự phân tán động lượng của chùm hạt. Các chùm electron và positron được cho va chạm với nhau trong máy gia tốc khi chúng đạt đến mức năng lượng yêu cầu; các máy dò hạt (particle detector) quan sát năng lượng của bức xạ phát ra, ghi lại những thông tin và tính chất cần nghiên cứu trong vật lý hạt.\nChụp ảnh.\nNhiễu xạ electron năng lượng thấp (Low-energy electron diffraction, LEED) là một phương pháp bắn vào vật liệu có cấu trúc tinh thể bằng một chùm electron chuẩn trực sau đó quan sát hình ảnh nhiễu xạ giúp xác định lên cấu trúc của vật liệu. Năng lượng đòi hỏi của các electron ở những chùm này trong khoảng 20–200 eV. Kỹ thuật phản xạ nhiễu xạ electron năng lượng cao (reflection high-energy electron diffraction, RHEED) sử dụng sự phản xạ của một chùm electron bắn đến với nhiều góc hẹp khác nhau để nghiên cứu đặc trưng bề mặt của vật liệu có cấu trúc tinh thể. Chùm năng lượng thường nằm trong khoảng 8–20 keV và góc bắn electron thường bằng 1–4°.\nKính hiển vi điển tử hoạt động dựa trên nguyên lý tập trung chùm electron vào một mẫu vật. Một số electron sau khi va chạm vào mẫu vật thì bị thay đổi đặc tính, như hướng chuyển động, góc phản xạ và pha tương đối cũng như năng lượng bị giảm đi. Các nhà hiển vi học ghi lại những thay đổi này từ chùm electron để tái tạo ra những bức ảnh về mẫu vật. Trong ánh sáng xanh lam, các kín hiển vi quang học thông thường có giới hạn nhiễu xạ phân giải ở kích thước 200 nm. So sánh với kính hiển vi điện tử, loại này bị giới hạn bởi bước sóng de Broglie của electron. Ví dụ, bước sóng này bằng 0,0037 nm đối với những electron được gia tốc trong điện trường cỡ 100.000 volt. Kính hiển vi truyền điện tử hiệu chỉnh quang sai (Transmission Electron Aberration-Corrected Microscope) có độ phân giải dưới 0,05 nm, đủ để phân biệt được từng nguyên tử. Khả năng này mang lại những lợi thế cho sử dụng kính hiển vi điện tử trong phòng thí nghiệm để chụp các bức ảnh có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử là những thiết bị đắt tiền và tốn nhiều chi phí hoạt động và bảo trì.\nCó hai loại kính hiển vi điện tử: Loại truyền qua và loại quét bề mặt. Kính hiển vi điện tử truyền qua hoạt động giống như một máy chiếu, với một chùm electron được cho chiếu qua một lát vật liệu sau đó nó được hội tụ trên phim âm bản hoặc cảm biến CCD. Kính hiển vi điện tử quét bề mặt dùng chùm electron quét lên bề mặt mẫu vật, giống như hiển thị trên ti vi màn hình ống, để thu được bức ảnh về nó. Độ phóng đại của hai loại kính này vào cỡ 100× đến 1.000.000. Kính hiển vi quét xuyên hầm sử dụng hiệu ứng chui hầm lượng tử của electron từ mũi nhọn của một đầu dò kim loại để nghiên cứu vật liệu và tạo ra bức ảnh bề mặt vật liệu có độ phân giải cao.\nCác ứng dụng khác.\nTrong laser electron tự do (FEL), một chùm electron tương đối tính đi qua dãy các nam châm lưỡng cực (undulator) bị đổi hướng luân phiên do hướng của từ trường tạo bởi dãy các nam châm này. Vì đổi hướng luân phiên như vậy nên các electron phát ra bức xạ synchrotron một cách nhịp nhàng và đều đặn, bức xạ được khuếch đại ở tần số cộng hưởng. FEL có thể phát ra bức xạ điện từ với độ rọi cao trong dải tần số rộng, từ sóng vi ba cho đến tia X mềm. Những thiết bị này được sử dụng trong sản xuất, viễn thông, và trong các ứng dụng y tế, như phẫu thuật các mô mềm.\nỐng tia âm cực chứa electron, mà đã từng được sử dụng thường xuyên cho các màn hình hiển thị tại nhiều thiết bị thí nghiệm, màn hình máy tính và máy truyền hình. Trong một đèn nhân quang điện, mỗi photon va chạm đến âm cực quang khởi tạo ra một luồng các electron để hình thành một xung dòng điện mà bộ dò phát hiện được. Ống điện tử chân không sử dụng luồng các electron để thao tác lên tín hiệu điện, và chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công nghệ điện tử. Tuy nhiên, ngày nay chúng đã bị thay thế bởi các thiết bị bán dẫn như transistor." ]
electron - in - nhit - lng - neutron - thuyt - ht - einstein - proton - quark
0.929814
false
Sir Isaac Newton (25 tháng 12 năm 1642 – 20 tháng 3 năm 1726 (lịch cũ)) là một nhà toán học, nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà thần học, và tác giả (ở thời của ông được gọi là "nhà triết học tự nhiên") người Anh, người được công nhận rộng rãi là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất và nhà khoa học ảnh hưởng nhất mọi thời đại và là một hình ảnh điển hình trong cách mạng khoa học. Luận thuyết của ông "Philosophiæ Naturalis Principia Mathematica" ( "Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên"), xuất bản lần đầu năm 1687, đã đặt ra nền tảng cho cơ học cổ điển. Newton cũng có các đóng góp quan trọng cho quang học, và cùng với Gottfried Wilhelm Leibniz là những người phát triển lên phép tính vi tích phân vô cùng bé. Trong "Principia", Newton thiết lập các định luật về chuyển động và định luật vạn vật hấp dẫn đã thống trị các quan điểm vật lý học và khoa học trong hơn hai trăm năm trước khi bị thay thế bởi thuyết tương đối. Newton đã sử dụng công cụ toán học của ông để miêu tả lực hấp dẫn và suy luận ra các định luật Kepler về chuyển động thiên thể, giải thích hiện tượng thủy triều, tính toán đường đi của các sao chổi, sự tiến động của điểm xuân phân và các hiện tượng khác, loại bỏ hết các nghi ngờ về thuyết nhật tâm của hệ Mặt Trời. Ông chứng minh rằng chuyển động của các vật thể trên Trái Đất và các thiên thể được miêu tả bởi cùng các nguyên lý. Lập luận của Newton về Trái Đất là một hình phỏng cầu sau đó đã được xác nhận bằng các đo đạc trắc địa bởi Maupertuis, La Condamine, và những người khác, thuyết phục hầu hết các nhà khoa học châu Âu về tính ưu việt của cơ học Newton so với các hệ thống trước đó. Newton đã chế tạo kính thiên văn phản xạ thực tế đầu tiên và phát triển một lý thuyết phức tạp về màu sắc dựa trên quan sát rằng một lăng kính phân tách ánh sáng trắng thành các màu của quang phổ nhìn thấy được. Công trình nghiên cứu về ánh sáng của ông đã được tập hợp trong cuốn sách có ảnh hưởng lớn "Opticks", xuất bản năm 1704. Ông cũng đưa ra định luật thực nghiệm về sự tiêu tán nhiệt, thực hiện phép tính lý thuyết đầu tiên về tốc độ âm thanh và đưa ra khái niệm về chất lỏng Newton. Ngoài nghiên cứu về phép tính vi tích phân, nhà toán học Newton đã đóng góp vào việc nghiên cứu chuỗi lũy thừa, khái quát định lý nhị thức cho số mũ không nguyên, phát triển phương pháp tính gần đúng tìm nghiệm thực của một hàm số và phân loại hầu hết các đường cong phẳng bậc ba. Newton là một thành viên của trường Trinity College và đảm nhiệm chức danh giáo sư toán học Lucas thứ hai tại đại học Cambridge. Ông là một người sùng đạo Kitô hữu không chính thống, và cũng không thừa nhận học thuyết về chúa Ba Ngôi một cách kín đáo. Không như những thành viên khác của khoa Cambridge thời đó, ông đã từ chối nhận chức Thánh trong Giáo hội Anh. Ngoài nghiên cứu về khoa học toán học, Newton đã dành phần lớn thời gian của mình cho việc nghiên cứu về thuật giả kim và niên đại Kinh thánh, nhưng hầu hết các công trình của ông trong các lĩnh vực đó vẫn chưa được xuất bản cho đến rất lâu sau khi ông qua đời. Về mặt chính trị và cá nhân gắn liền với đảng Whig, Newton đã phục vụ hai nhiệm kỳ ngắn với tư cách là nghị sĩ Quốc hội của đại học Cambridge, vào các năm 1689–1690 và 1701–1702. Ông được Nữ vương Anne phong tước hiệp sĩ vào năm 1705 và trải qua ba thập kỷ cuối cùng của cuộc đời mình ở Luân Đôn, phục vụ với tư cách là người đứng đầu (Warden of the Mint) (1696–1699) và chủ tịch (Master of the Mint) (1699–1727) của Sở đúc tiền Hoàng gia (Royal Mint), cũng như là chủ tịch của Hội Hoàng gia (1703 –1727). Cuộc đời. Tuổi trẻ. Isaac Newton được sinh ra (theo lịch Julius, đang được sử dụng ở Anh vào thời điểm đó) vào ngày Giáng sinh, 25 tháng 12 năm 1642 (lịch mới là ngày 4 tháng 1 năm 1643) "một hoặc hai giờ sau nửa đêm", tại trang viên Woolsthorpe ở Woolsthorpe-by-Colsterworth, một ngôi làng ở hạt Lincolnshire. Cậu bé bị sinh non và những người có mặt lúc ấy nghĩ rằng Newton không thể sống được. Cậu chưa một lần nhìn thấy mặt cha, do cha mình – một nông dân cũng tên là Isaac Newton, mất trước khi cậu sinh ra ba tháng. Newton là một trẻ sơ sinh bé nhỏ, theo mẹ của ông là bà Hannah Ayscough thì cậu có thể cho vừa vào một chiếc cốc to bằng một quart (hơn 1 lít). Khi Newton lên ba, mẹ cậu tái hôn và đến sống với người chồng mới, mục sư Barnabas Smith, để lại con trai cho bà ngoại, Margery Ayscough (nhũ danh Blythe) chăm sóc. Newton không thích cha dượng của mình và có ác cảm với mẹ mình, dựa trên một tội trong danh sách những tội lỗi cậu đã phạm cho đến tuổi 19: "Threatening my father and mother Smith to burn them and the house over them" (Doạ cha tôi và mẹ tôi — Smith sẽ thiêu sống họ và đốt nhà của họ). Mẹ của Newton có ba người con (Mary, Benjamin và Hannah) từ cuộc hôn nhân thứ hai. Khi cậu ở tuổi từ khoảng 12 đến 17, cậu học tại King's School, Grantham, nơi mà cậu học tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp và có thể là một nền tảng quan trọng cho việc học toán. Sau đó, Newton rời khỏi trường và đến tháng 10 năm 1659, cậu có mặt tại Woolsthorpe-by-Colsterworth, nơi mà mẹ cậu, lần thứ hai góa bụa, đã cố gắng thuyết phục cậu trở thành một nông dân. Nhưng Newton lại ghét việc đồng áng. Henry Stocks, thầy của cậu tại King's School, đã thuyết phục mẹ ông cho cậu quay trở lại trường học để cậu có thể tiếp tục việc học của mình. Newton đã trở thành một trong những học sinh đứng đầu trường, một phần vì muốn trả đũa những học sinh đã bắt nạt cậu vượt lên thành một học sinh ưu tú bằng việc làm ra những đồng hồ Mặt Trời và tạo các mô hình cối xay gió. Vào tháng 6 năm 1661, Newton được gửi tới Trường đại học Trinity, Cambridge theo như đề xuất của một người thân và cũng là cựu sinh viên của trường này – William Ayscough. Ban đầu ông làm các công việc lặt vặt được trả thù lao như một người giúp việc cho đến khi cậu được trao học bổng vào năm 1664, đảm bảo cho cậu thêm bốn năm cho đến khi có thể lấy được bằng tốt nghiệp đại học. Vào thời điểm đó, giáo trình của ngôi trường dựa trên triết học của Aristoteles, nhưng cậu nhanh chóng bị cuốn hút bởi toán học của Descartes, thiên văn học của Galileo và Thomas Street mà qua đó cậu đọc được các nghiên cứu của Kepler. Newton đã viết một loạt các câu hỏi ("Quaestiones") về triết học cơ học trong thời gian này. Năm 1665, cậu phát hiện ra định lý nhị thức tổng quát và bắt đầu phát triển một lý thuyết toán học mà sau này trở thành vi tích phân. Ngay sau khi Newton lấy bằng cử nhân vào tháng 8 năm 1665, trường đại học tạm thời đóng cửa để đề phòng đại dịch hạch. Mặc dù cậu không được đánh giá cao khi còn là sinh viên Cambridge, các nghiên cứu riêng của Newton tại nhà ở Woolsthorpe trong hai năm sau đó đã chứng kiến sự phát triển các lý thuyết của ông về vi tích phân, quang học và định luật hấp dẫn. Vào tháng 4 năm 1667, cậu quay trở lại Cambridge và vào tháng 10 được nhận làm giảng viên của Trinity. Các nghiên cứu sinh được yêu cầu trở thành linh mục được thụ phong, mặc dù điều này không được thực hiện trong những năm tái thiết và chỉ cần họ tuân theo giáo hội Anh là đủ. Tuy nhiên, đến năm 1675, vấn đề này không thể tránh khỏi và lúc đó những quan điểm khác thường của cậu đã gây cản trở. Tuy nhiên, Newton đã tránh được điều đó bằng cách xin phép đặc biệt từ nhà vua Charles II của Anh. Các nghiên cứu của cậu đã gây ấn tượng với giáo sư Lucas Isaac Barrow, người luôn lo lắng để phát triển tiềm năng quản trị và tôn giáo của riêng mình (ông trở thành hiệu trưởng của trường Trinity hai năm sau đó); năm 1669 Newton kế nhiệm chức danh giáo sư Lucas của ông, chỉ một năm sau khi nhận bằng Thạc sĩ. Ông được bầu làm thành viên của Hội Hoàng gia London (FRS) vào năm 1672. Trung niên. Toán học. Công trình của Newton đã được cho là "thúc đẩy rõ rệt mọi ngành toán học được nghiên cứu sau đó." Công trình của ông về chủ đề này thường được gọi là thông lượng ("fluxion") hoặc phép tính ("calculus"), được thấy trong một bản thảo vào tháng 10 năm 1666, hiện đã được xuất bản trong số các bài báo toán học của Newton. Tác giả của bản thảo "De analysi per aequationes numro terminorum infinitas", do Isaac Barrow gửi đến nhà toán học John Collins vào tháng 6 năm 1669, được Barrow xác nhận trong một bức thư gửi cho Collins vào tháng 8 năm đó là "[...] của một thiên tài phi thường và thành thạo những thứ này." Newton sau đó đã tham gia vào một cuộc tranh luận với Leibniz về ai là người đầu tiên phát triển phép tính vi tích phân (cuộc tranh luận về phép tính vi tích phân Leibniz–Newton). Hầu hết các nhà sử học hiện đại tin rằng Newton và Leibniz đã phát triển phép tính một cách độc lập, mặc dù với các ký hiệu toán học rất khác nhau. Đôi khi người ta cho rằng Newton hầu như không công bố gì về nó cho đến năm 1693, và không đưa ra miêu tả đầy đủ cho đến năm 1704, trong khi Leibniz bắt đầu xuất bản một bản thảo đầy đủ về các phương pháp của mình vào năm 1684. Ký hiệu của Leibniz và "phương pháp vi phân", ngày nay được sử dụng và công nhận rộng rãi hơn, được chấp nhận bởi các nhà toán học lục địa châu Âu, và sau 1820 hoặc hơn, cũng bởi các nhà toán học Anh. Nghiên cứu của ông sử dụng rộng rãi phép tính vi tích phân ở dạng hình học dựa trên các giá trị giới hạn của tỷ số các đại lượng vô cùng bé: trong chính quyển "Principia", Newton đã chứng minh điều này dưới tên "phương pháp của tỷ lệ đầu tiên và tỷ lệ cuối cùng" và giải thích lý do tại sao ông trình bày ở dạng này, với ghi chú rằng "tại đây điều tương tự được thực hiện như bằng phương pháp phân chia." Bởi vì điều này, "Principia" đã được gọi là "một cuốn sách dày về lý thuyết và ứng dụng của phép tính vô cùng bé" trong thời hiện đại và trong thời của Newton là "gần như tất tần tật về phép tính này." Việc sử dụng của ông về các phương pháp liên quan đến "một hoặc nhiều bậc của đại lượng nhỏ vô cùng nhỏ" được trình bày trong "De motu corporum in gyrum" của ông năm 1684 và trong các bài báo về chuyển động của ông "trong hai thập kỷ trước năm 1684". Newton đã miễn cưỡng xuất bản phép tính của mình vì ông sợ các tranh cãi và chỉ trích. Ông thân thiết với nhà toán học Thụy Sĩ Nicolas Fatio de Duillier. Năm 1691, Duillier bắt đầu viết một ấn bản mới của "Principia", và trao đổi thư từ với Leibniz. Năm 1693, mối quan hệ giữa Duillier và Newton trở nên xấu đi và cuốn sách không bao giờ được hoàn thành. Bắt đầu từ năm 1699, các thành viên khác của Hội Hoàng gia đã buộc tội Leibniz sao chép các nghiên cứu của Newton. Cuộc tranh cãi sau đó bùng phát mạnh mẽ vào năm 1711 khi Hội Hoàng gia tuyên bố trong một nghiên cứu rằng chính Newton mới là người phát hiện ra và gán cho Leibniz là một kẻ lừa đảo; sau đó người ta thấy rằng Newton đã viết các nhận xét kết luận của nghiên cứu về Leibniz. Do đó, cuộc tranh cãi gay gắt bắt đầu đã làm cuộc đời của cả Newton và Leibniz bị hủy hoại cho đến khi Leibniz qua đời vào năm 1716. Newton được công nhận với khám phá về định lý nhị thức tổng quát, áp dụng đối với bất kỳ số mũ nào. Ông cũng khám phá ra đồng nhất thức Newton, phương pháp Newton, phân loại các đường cong phẳng bậc ba (đa thức bậc ba có hai biến số), đóng góp đáng kể vào lý thuyết sai phân hữu hạn và là người đầu tiên sử dụng chỉ số phân số và sử dụng hệ tọa độ để tìm ra các nghiệm của phương trình Diophantos. Ông đã tính gần đúng tổng từng phần của chuỗi điều hòa bằng logarit (tiền thân của công thức tính tổng của Euler) và là người đầu tiên tự tin sử dụng chuỗi lũy thừa và nghịch đảo của chuỗi. Công trình của Newton về chuỗi vô hạn được lấy cảm hứng từ số thập phân của Simon Stevin. Khi Newton nhận bằng thạc sĩ và trở thành thành viên của "Hội Chúa Ba Ngôi Thần Thánh và Không phân chia" vào năm 1667, ông đã cam kết rằng "Tôi sẽ đặt Thần học làm đối tượng nghiên cứu của mình và sẽ thực hiện các mệnh lệnh thánh trong thời gian quy định của các quy chế này [7 năm] có hiệu lực, nếu không tôi sẽ từ chức khỏi hội." Cho đến thời điểm này, ông vẫn chưa nghĩ nhiều về tôn giáo và đã hai lần ký vào thỏa thuận với ba mươi chín điều khoản, cơ sở của học thuyết Giáo hội Anh. Ông được bổ nhiệm chức danh giáo sư toán học Lucas vào năm 1669, theo đề nghị của Barrow. Trong thời gian đó, bất kỳ thành viên nào của một trường cao đẳng tại Cambridge hoặc Oxford đều phải nhận chức thánh và trở thành một linh mục Anh giáo được truyền chức. Tuy nhiên, các điều khoản của chức vụ giáo sư Lucas yêu cầu người nắm giữ chức danh không được hoạt động trong nhà thờ - có lẽ là để có nhiều thời gian hơn cho khoa học. Newton lập luận rằng từ điều này nên miễn cho ông ta khỏi yêu cầu trở thành linh mục, và vua Charles II, người quyết định đặc ân, đã chấp nhận đề xuất này. Do đó, xung đột giữa quan điểm tôn giáo của Newton và chính thống của Anh giáo đã không xảy ra. Quang học. Năm 1666, Newton quan sát thấy quang phổ của màu sắc thoát ra khỏi lăng kính ở vị trí có độ lệch cực tiểu là thuôn dài, ngay cả khi tia sáng đi vào lăng kính là hình tròn, nghĩa là lăng kính khúc xạ các màu khác nhau theo các góc khác nhau. Điều này khiến ông kết luận rằng màu sắc là một thuộc tính nội tại của ánh sáng - một điểm mà cho đến lúc đó vẫn còn là một vấn đề tranh luận. Từ 1670 đến 1672, Newton giảng về quang học. Trong thời kỳ này, ông đã nghiên cứu sự khúc xạ của ánh sáng, chứng minh rằng quang phổ nhiều màu do lăng kính tạo ra có thể được tổng hợp bằng thấu kính và lăng kính thứ hai để chuyển thành ánh sáng trắng. Các học giả hiện đại đã phát hiện ra rằng nghiên cứu phân tích và tái tổng hợp ánh sáng trắng của Newton có liên hệ với thuật giả kim cũng được ông nghiên cứu. Ông đã chỉ ra rằng ánh sáng có màu không thay đổi tính chất của nó bằng cách tách ra một chùm màu và chiếu nó lên các vật thể khác nhau, và bất kể là phản xạ, tán xạ hay truyền đi, ánh sáng vẫn có cùng một màu. Do đó, ông nhận thấy rằng màu sắc là kết quả của các vật thể tương tác với ánh sáng đã có màu chứ không phải là các vật thể tự tạo ra màu sắc. Đây được gọi là lý thuyết về màu sắc của Newton. Từ công trình nghiên cứu này, ông kết luận rằng thấu kính của bất kỳ kính thiên văn khúc xạ nào cũng sẽ bị phân tán ánh sáng thành nhiều màu sắc (sắc sai, chromatic aberration). Để chứng minh cho khái niệm này, ông đã chế tạo một kính thiên văn bằng cách sử dụng gương phản chiếu thay vì thấu kính làm vật kính để vượt qua vấn đề đó. Dựa vào thiết kế, kính thiên văn có chức năng phản xạ đầu tiên được xây dựng, ngày nay được gọi là kính thiên văn Newton, liên quan đến việc giải quyết vấn đề về vật liệu gương phù hợp và kỹ thuật tạo hình. Newton đã tự mài gương từ một thành phần tùy chỉnh của miếng gương kim loại có độ phản xạ cao, sử dụng hiện tượng các vòng Newton để đánh giá chất lượng quang học cho kính thiên văn của ông. Cuối năm 1668, ông làm xong chiếc kính thiên văn phản xạ đầu tiên này. Nó dài khoảng 8 inch và cho hình ảnh rõ ràng và lớn hơn. Năm 1671, hội Hoàng gia yêu cầu trình diễn kính thiên văn phản xạ của ông. Sự quan tâm của họ đã khuyến khích ông xuất bản các ghi chú của mình, thành cuốn "Of Colors", mà sau này ông mở rộng thành tác phẩm "Opticks". Khi Robert Hooke phê bình một số ý tưởng của Newton, Newton đã bị xúc phạm đến mức ông rút lui khỏi cuộc tranh luận công khai. Newton và Hooke đã có những cuộc trao đổi ngắn vào năm 1679–80, khi Hooke, được chỉ định quản lý thông tấn của hội Hoàng gia, mở ra một loạt trao đổi thư từ nhằm gợi ý những đóng góp từ Newton cho các tạp chí của hội Hoàng gia, đã có tác dụng thúc đẩy Newton nghiên cứu chứng minh rằng dạng elip của quỹ đạo hành tinh sẽ là kết quả của lực hướng tâm tỷ lệ nghịch với bình phương của vectơ bán kính. Nhưng hai người nói chung vẫn giữ quan hệ không tốt cho đến khi Hooke qua đời. Newton lập luận rằng ánh sáng bao gồm các hạt hoặc tiểu thể, mà chúng bị khúc xạ bằng cách gia tốc vào một môi trường đặc hơn. Ông dựa vào các sóng giống như âm thanh để giải thích các phần phản xạ và truyền lặp đi lặp lại của các màng mỏng (Opticks Bk.II, Props. 12), nhưng vẫn giữ lý thuyết của mình về 'sự phù hợp' sắp xếp các tiểu thể được phản xạ hoặc truyền đi (Props.13). Tuy nhiên, các nhà vật lý sau này ủng hộ cách giải thích ánh sáng thuần túy như dao động sóng để giải thích các vân giao thoa và hiện tượng nhiễu xạ nói chung. Cơ học lượng tử, photon ngày nay và ý tưởng về lưỡng tính sóng-hạt chỉ còn có một điểm tương đồng nhỏ với hiểu biết của Newton về ánh sáng trước đây. Trong "Giả thuyết về ánh sáng" ("Hypothesis of Light") năm 1675 của mình, Newton đã đặt ra sự tồn tại của "ête" để truyền lực giữa các hạt. Việc trao đổi với nhà triết học theo thuyết Platon ở Cambridge, Henry More đã làm sống lại mối quan tâm của ông đối với thuật giả kim. Ông đã thay thế "ête" bằng các lực huyền bí dựa trên ý tưởng của chủ nghĩa giáo điều ("Hermeticism") về lực hút và lực đẩy giữa các hạt. John Maynard Keynes, người đã đọc nhiều bài viết của Newton về thuật giả kim, tuyên bố rằng "Newton không phải là người đầu tiên của thời đại lý tính: Ông là nhà ảo thuật cuối cùng." Sự quan tâm của Newton đối với thuật giả kim không thể tách rời khỏi những đóng góp của ông cho khoa học. Đây là thời điểm mà không có sự phân biệt rõ ràng giữa giả kim thuật và khoa học. Nếu ông không dựa vào ý tưởng huyền bí về tác dụng ở khoảng cách xa, xuyên qua chân không, ông có thể đã không phát triển lý thuyết về lực hấp dẫn của mình. Năm 1704, Newton xuất bản cuốn "Opticks", trong đó ông đã giải thích lý thuyết hạt ánh sáng của mình. Ông cho rằng ánh sáng được tạo thành từ các tiểu thể cực kỳ nhỏ, vật chất thông thường được tạo thành từ các tiểu thể thô hơn và suy đoán rằng thông qua một loại biến đổi giả kim "phải chăng Vật thể thô và vật thể Ánh sáng có thể chuyển đổi thành một vật thể khác... và liệu Vật thể nhận được nhiều Hoạt động từ các Hạt ánh sáng đi vào Thành phần của chúng?" Newton cũng chế tạo một dạng nguyên thủy của máy phát tĩnh điện chà sát, sử dụng một quả cầu thủy tinh. Trong cuốn sách "Opticks", Newton là người đầu tiên đưa ra một sơ đồ sử dụng lăng kính làm bộ mở rộng chùm và cũng sử dụng mảng nhiều lăng kính. Khoảng 278 năm sau thảo luận của Newton, bộ mở rộng chùm tia đa lăng kính đã trở thành trung tâm cho sự phát triển của laser có thể điều chỉnh độ rộng đường hẹp. Ngoài ra, việc sử dụng các bộ mở rộng chùm này đã dẫn đến lý thuyết tán sắc đa lăng kính. Sau Newton, nhiều điều đã được sửa đổi. Young và Fresnel đã kết hợp lý thuyết hạt của Newton với lý thuyết sóng của Huygens để chỉ ra rằng màu sắc là biểu hiện nhìn thấy được của bước sóng ánh sáng. Khoa học cũng dần dần nhận ra sự khác biệt giữa nhận thức về màu sắc và quang học miêu tả bằng toán học. Nhà thơ và nhà khoa học người Đức, Goethe, không thể làm rung chuyển nền tảng Newton nhưng "một lỗ hổng mà Goethe đã tìm thấy trong áo giáp của Newton, ... Newton đã tự kết luận với học thuyết rằng sự khúc xạ mà không xuất hiện màu sắc là không thể. Do vậy ông nghĩ rằng vật kính của kính thiên văn phải mãi mãi không hoàn hảo, hiện tượng vô sắc và khúc xạ không tương thích. Suy luận này được Dollond chứng minh là sai." Cơ học và lực hấp dẫn. Năm 1679, Newton quay trở lại nghiên cứu về cơ học thiên thể bằng cách xem xét lực hấp dẫn và ảnh hưởng của nó lên quỹ đạo của các hành tinh có tham chiếu đến định luật Kepler về chuyển động của hành tinh. Điều này một phần từ sự gợi mở trong các trao đổi thư từ ngắn vào năm 1679–80 của ông với Hooke, người đã được bổ nhiệm quản lý thông tấn của hội Hoàng gia, và người đã viết thư nhằm thu hút sự đóng góp của Newton cho các tạp chí của hội Hoàng gia. Sự quan tâm trở lại của Newton đối với các vấn đề thiên văn càng nhận được sự phấn khích hơn nữa khi xuất hiện một sao chổi vào mùa đông năm 1680–1681, nơi ông đã trao đổi thư từ với John Flamsteed. Sau khi trao đổi với Hooke, Newton đã tìm cách chứng minh hình dạng elip của quỹ đạo hành tinh sẽ là kết quả của lực hướng tâm tỷ lệ nghịch với bình phương của vectơ bán kính. Newton đã thông báo kết quả của mình đến Edmond Halley và hội Hoàng gia trong "De motu corporum in gyrum", một bản thảo được viết trên khoảng chín trang đã được sao chép vào Sổ Đăng ký của hội Hoàng gia vào tháng 12 năm 1684. Bản thảo này chứa các ý tưởng trung tâm mà Newton đã phát triển và mở rộng để tạo thành "Principia". "Principia" được xuất bản vào ngày 5 tháng 7 năm 1687 với sự khuyến khích và giúp đỡ tài chính từ Edmond Halley. Trong công trình này, Newton đã phát biểu ba định luật chuyển động phổ quát. Cùng với nhau, các định luật này mô tả mối quan hệ giữa các vật thể bất kỳ, các lực tác động lên nó và chuyển động kết quả, đặt nền tảng cho cơ học cổ điển. Chúng đã đóng góp vào nhiều tiến bộ trong cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ngay sau đó và các định luật đứng vững trong hơn 200 năm. Nhiều tiến bộ trong số này tiếp tục là nền tảng của các công nghệ phi tương đối tính (có vận tốc nhỏ so với tốc độ ánh sáng) trong thế giới hiện đại. Ông sử dụng từ tiếng Latinh "gravitas" (trọng lượng) để chỉ hiệu ứng mà sau này gọi là lực hấp dẫn, và thiết lập lên định luật vạn vật hấp dẫn. Cũng trong công trình này, Newton đã trình bày một phương pháp phân tích hình học giống như phép tính vi tích phân sử dụng 'tỷ lệ đầu tiên và tỷ lệ cuối cùng' cho quỹ đạo hành tinh, đưa ra kết quả phân tích đầu tiên (dựa trên định luật Boyle) về tốc độ âm thanh trong không khí, suy ra độ dẹt của hình cầu Trái đất, tính đến sự tiến động của điểm phân là kết quả của lực hấp dẫn giữa Mặt Trăng đối với phần phình ra của Trái đất, bắt đầu nghiên cứu lực hấp dẫn về những bất thường trong chuyển động của Mặt Trăng, cung cấp một lý thuyết để xác định quỹ đạo của sao chổi, và nhiều hơn nữa. Newton đã làm rõ quan điểm nhật tâm của mình về hệ Mặt trời — được phát triển theo một cách gần hiện đại vì vào giữa những năm 1680, ông đã nhận ra "Mặt trời nằm lệch" khỏi khối tâm của hệ Mặt trời. Đối với Newton, trung tâm của Mặt trời hay bất kỳ thiên thể nào khác không thể được coi chính xác là ở trạng thái đứng yên, mà là "trọng tâm chung của Trái đất, Mặt trời và tất cả các Hành tinh được coi là trung tâm của hệ", và trọng tâm này "ở trạng thái nghỉ hoặc chuyển động đồng đều về phía trước theo một đường thẳng" (Newton đã chấp nhận thay thế "ở trạng thái nghỉ" theo quan điểm của sự đồng ý chung rằng trung tâm, dù nó ở đâu, đều ở trạng thái nghỉ). Định đề của Newton về một lực vô hình có thể tác động trên một khoảng cách lớn dẫn đến việc ông bị phê bình vì giới thiệu các "khái niệm huyền bí" vào khoa học. Sau đó, trong ấn bản lần hai của quyển "Principia" (1713), Newton đã kiên quyết phản bác các chỉ trích như thế trong đoạn kết luận của bản thảo "General Scholium", viết rằng chỉ cần các hiện tượng hàm ý một lực hấp dẫn như chúng đã xảy ra là đủ; nhưng cho đến nay vẫn chưa chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng, và việc khuôn khổ của giả thuyết về sự vật không được hiện tượng ngụ ý là không cần thiết và không phù hợp. (Ở đây Newton đã sử dụng câu nói nổi tiếng về sau "tôi không đặt ra các giả thuyết"). Với cuốn "Principia", Newton trở lên nổi tiếng khắp thế giới. Ông được cộng đồng các học giả ngưỡng mộ, bao gồm nhà toán học người Thụy Sĩ Nicolas Fatio de Duillier. Phân loại các đường cong phẳng bậc ba. Năm 1710, Newton đã tìm thấy 72 trong 78 "kiểu" đường cong phẳng bậc ba và xếp chúng vào bốn loại khác nhau. Năm 1717, có khả năng từ sự giúp đỡ của Newton, James Stirling đã chứng minh được rằng mỗi đường cong phẳng bậc ba được xếp vào một trong bốn loại này. Newton cũng cho rằng bốn loại này có thể thu được từ phép chiếu xạ ảnh phẳng từ một trong bốn loại, và điều này đã được chứng minh vào năm 1731, bốn năm sau khi ông qua đời. Cuối đời. Vào những năm 1690, Newton đã viết một số tác phẩm tôn giáo liên quan đến việc giải thích Kinh thánh theo nghĩa phàm tục và biểu tượng. Một bản thảo mà Newton gửi cho John Locke, trong đó ông nghi ngờ sự tin cậy của của cuốn kinh — Johannine Comma — và sự tin cậy của nó với các bản thảo gốc của kinh Tân Ước, vẫn chưa được xuất bản cho đến tận năm 1785. Newton cũng là thành viên của Nghị viện Anh cho Đại học Cambridge vào năm 1689 và 1701. Trong thời gian làm nghị sĩ, theo một số bản thảo ghi chép lại, ý kiến duy nhất của ông là phàn nàn về gió lạnh lùa vào trong phòng nghị viện và yêu cầu đóng cửa sổ lại. Tuy nhiên, như nhà khoa học người Cambridge Abraham de la Pryme ghi nhận là ông đã quở trách những sinh viên khi họ khiến người dân địa phương sợ hãi vì lan truyền đồn đại cho rằng một ngôi nhà bị ma ám. Newton chuyển đến London để đảm nhận vị trí quản lý của Xưởng đúc tiền Hoàng gia vào năm 1696, một vị trí mà ông có được nhờ sự bảo trợ của Charles Montagu, Bá tước thứ nhất của Halifax, sau đó là Thủ hiến của Exchequer. Ông phụ trách công việc đúc lại tiền của nước Anh, theo sự giám sát của Huân tước Lucas, thống đốc của Tòa tháp, và đảm bảo công việc phó tổng điều hành chi nhánh Chester tạm thời cho Edmond Halley. Newton có lẽ được biết đến nhiều nhất khi trở thành chủ tịch của xưởng đúc tiền Hoàng gia vào năm 1699 khi Thomas Neale qua đời, vị trí ông giữ trong suốt 30 năm cuối của cuộc đời ông. Sự bổ nhiệm này tưởng chừng như chỉ trên danh nghĩa, nhưng Newton đã nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ của mình. Ông kết thúc các nhiệm vụ ở Cambridge vào năm 1701, và thực hiện quyền hạn của mình để cải cách tiền tệ và trừng phạt những kẻ cắt xén và làm giả. Với tư cách là quản lý, và sau đó là Chủ tịch của Xưởng đúc tiền Hoàng gia, Newton ước tính rằng 20% số tiền xu được làm lại trong thời kỳ khôi phục đồng xu năm 1696 là hàng giả. Làm hàng giả là tội phản quốc nghiêm trọng, có thể bị trừng trị bằng hình phạt là treo cổ, xẻo thịt và phanh thây. Mặc dù vậy, việc kết án những tên tội phạm sừng sỏ nhất có thể cực kỳ khó khăn, tuy nhiên, Newton đã chứng minh được nhiệm vụ của mình. Cải trang thành khách quen của các quán bar và quán rượu, ông đã tự mình thu thập nhiều bằng chứng liên quan đến tội phạm làm tiền xu giả. Về tất cả các rào cản được đặt ra để truy tố và phân tách trách nhiệm của các đơn vị trong chính phủ, luật pháp Anh vẫn có những phong tục thẩm quyền cổ xưa và khó từ bỏ. Newton đã tự mình trở thành một thẩm phán hòa giải ở tất cả các quận xung quanh Đại London. Một dự thảo liên quan đến vấn đề này được đưa vào ấn bản cá nhân đầu tiên của "Philosophiæ Naturalis Principia Mathematica" tự Newton chắp bút, mà chắc hẳn ông đã sửa đổi vào thời điểm đó. Sau đó, ông tiến hành hơn 100 cuộc kiểm tra chéo các nhân chứng, người đưa tin và nghi phạm từ tháng 6 năm 1698 đến Giáng sinh năm 1699. Newton đã truy tố thành công 28 kẻ lừa đảo. Newton được bầu làm Chủ tịch Hội hoàng gia năm 1703 và thành viên của Viện Hàn lâm khoa học Pháp. Trên cương vị của mình tại hội Hoàng gia, Newton đã trở thành kẻ thù của John Flamsteed, nhà thiên văn học Hoàng gia, khi ông cho xuất bản quá sớm cuốn "Historia Coelestis Britannica" của Flamsteed, mà Newton đã sử dụng nội dung trong cuốn sách vào nghiên cứu của mình. Vào tháng 4 năm 1705, Nữ vương Anne phong tước hiệp sĩ cho Newton trong một chuyến thăm hoàng gia tới Trinity College, Cambridge. Chức hiệp sĩ có thể được thúc đẩy bởi những cân nhắc chính trị liên quan đến cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 5 năm 1705, hơn là bất kỳ sự công nhận nào về các nghiên cứu khoa học hoặc sự phụng sự của Newton với tư cách là chủ tịch xưởng đúc tiền. Newton là nhà khoa học thứ hai được phong hiệp sĩ, sau Francis Bacon. Theo kết quả của một báo cáo do Newton viết vào ngày 21 tháng 9 năm 1717 cho các ủy viên của Ngân khố Hoàng gia, mối quan hệ lưỡng kim giữa đồng tiền vàng và đồng xu bạc đã bị thay đổi bởi tuyên bố của hoàng gia vào ngày 22 tháng 12 năm 1717, cấm trao đổi đồng guineas vàng lấy nhiều hơn 21 shilling bạc. Điều này vô tình dẫn đến tình trạng thiếu bạc vì các đồng bạc được sử dụng để thanh toán cho hàng nhập khẩu, trong khi xuất khẩu được thanh toán bằng vàng, đưa Anh từ chế độ bản vị bạc sang bản vị vàng đầu tiên một cách hiệu quả. Đã có một tranh luận xem liệu Newton thực sự có định làm điều này hay không. Có ý kiến cho rằng Newton coi công việc của mình tại xưởng đúc tiền là sự tiếp nối công việc giả kim của ông. Newton đã đầu tư vào Công ty South Sea và mất khoảng 20.000 bảng Anh (4,4 triệu bảng Anh vào năm 2020) khi nó sụp đổ vào khoảng năm 1720. Về cuối đời, Newton cư trú ở công viên Cranbury, gần Winchester với cháu gái và chồng của cô, cho đến khi ông qua đời vào năm 1727. Cháu gái cùng cha khác mẹ của ông, Catherine Barton Conduitt, từng là quản gia của ông trong các hoạt động xã hội tại ngôi nhà của ông trên phố Jermyn ở London; ông là " người bác rất yêu thương" của cô, theo bức thư của ông gửi cho cô khi cô đang hồi phục sau bệnh đậu mùa. Các quan hệ cá nhân. Mặc dù có tuyên bố cho rằng ông đã từng đính hôn, Newton chưa bao giờ kết hôn. Nhà văn và nhà triết học người Pháp Voltaire, người đang ở London vào thời điểm tang lễ của Newton, nói rằng ông "không bao giờ nhạy cảm với bất kỳ niềm đam mê nào, không chịu sự yếu đuối chung của nhân loại, cũng như không có bất kỳ quan hệ nào với phụ nữ - một hoàn cảnh khiến tôi tin tưởng được đảm bảo bởi bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật, những người đã theo dõi ông trong những giây phút cuối cùng của ông ấy". Hiện nay niềm tin phổ biến rộng rãi rằng ông là một người đàn ông chưa từng có quan hệ với phụ nữ như được bình luận bởi các nhà toán học Charles Hutton, nhà kinh tế học John Maynard Keynes và nhà vật lý học Carl Sagan bình luận. Newton đã có một tình bạn thân thiết với nhà toán học Thụy Sĩ Nicolas Fatio de Duillier, người mà ông đã gặp ở London vào khoảng năm 1689—một số thư từ của họ vẫn còn tồn tại. Mối quan hệ của họ kết thúc đột ngột và không giải thích được vào năm 1693, và cùng lúc đó Newton bị suy nhược thần kinh bao gồm việc gửi những bức thư vu cáo hoang đường cho những người bạn của mình là Samuel Pepys và John Locke - ghi chú của ông cho người sau bao gồm cáo buộc rằng Locke "đã cố gắng làm cho tôi khốn khổ". Năm 2015, Steven Weinberg, người đoạt giải Nobel vật lý, đã gọi Newton là "một nhân vật phản diện khó chịu" và "một người xấu như một kẻ thù". Ông đặc biệt lưu ý thái độ của Newton đối với Robert Hooke và Gottfried Wilhelm Leibniz. Qua đời. Newton qua đời trong giấc ngủ ở London vào ngày 20 tháng 3 năm 1726 (lịch cũ: 20 tháng 3 năm 1726; lịch mới: 31 tháng 3 năm 1727). Thi hài của ông được chôn cất tại Tu viện Westminster. Voltaire có thể đã có mặt trong đám tang của ông. Là một người độc thân, ông đã chia phần lớn tài sản của mình cho người thân trong những năm cuối đời và qua đời không để lại di chúc. Giấy tờ của ông đã được chuyển cho John Conduitt và Catherine Barton. Sau khi ông qua đời, tóc của Newton đã được kiểm tra và phát hiện có chứa thủy ngân, có thể là do ông theo đuổi ngành giả kim thuật. Nhiễm độc thủy ngân có thể giải thích sự lập dị của Newton vào cuối đời. Sau khi qua đời. Danh tiếng. Nhà toán học Joseph-Louis Lagrange nói rằng Newton là thiên tài vĩ đại nhất từng được biết đến, và một lần còn nói thêm rằng Newton cũng là "người có phúc nhất, vì chúng ta không thể tìm thấy nhiều hơn một hệ thống của thế giới để thiết lập." Nhà thơ người Anh Alexander Pope đã viết văn bia nổi tiếng: Tự nhiên và các quy luật của tự nhiên nằm ẩn trong màn đêm;<br>Chúa nói "Hãy để Newton đến" và tất cả đều bừng sáng. Newton tương đối khiêm tốn về những thành tựu của mình, ông viết trong một bức thư cho Robert Hooke vào tháng 2 năm 1676, nói rằng "Nếu tôi có thể nhìn xa hơn thì đó là bằng cách đứng trên vai của những người khổng lồ." Có hai nhà văn cho rằng đoạn trích dẫn ở trên, được viết vào thời điểm Newton và Hooke đang tranh cãi về những khám phá quang học, là một cuộc tấn công xoi mói vào Hooke (được cho là lùn và bị gù), chứ không phải - hoặc thêm vào đó - là một tuyên bố của khiêm tốn. Mặt khác, câu tục ngữ được biết đến rộng rãi về việc đứng trên vai những người khổng lồ, được nhà thơ thế kỷ XVII George Herbert (một nhà hùng biện trước đây của đại học Cambridge và là đồng nghiệp của Trinity College) viết trong "Jacula Prudentum" của ông (1651), vì điểm chính của nó là "một người lùn trên vai một người khổng lồ nhìn thấy xa hơn so với hai người đứng độc lập", và do đó tác dụng của nó như một phép loại suy sẽ đặt Newton chứ không phải Hooke là 'người lùn'. Trong một cuốn hồi ký sau này, Newton đã viết: Tôi không biết mình có thể xuất hiện với thế giới như thế nào, nhưng với bản thân tôi, tôi dường như chỉ giống như một cậu bé đang chơi trên bờ biển, và bản thân đột nhiên chuyển hướng và sau đó tìm thấy một viên sỏi nhẵn hơn hoặc một cái vỏ sò đẹp hơn bình thường, trong khi trước mắt tôi là một đại dương lớn chứa đựng tất cả sự thật chưa được khám phá. Năm 1816, một chiếc răng được cho là của Newton đã được bán với giá £ 730 (3,633) ở London cho một nhà quý tộc, người đã đặt nó trong một chiếc nhẫn.Sách Kỷ lục Guinness năm 2002 đã xếp nó là chiếc răng có giá trị nhất, trị giá khoảng 25.000 bảng Anh (35.700 đô la Mỹ) vào cuối năm 2001. Ai đã mua nó và ai hiện giữ nó vẫn chưa được tiết lộ. Albert Einstein đã giữ một bức ảnh của Newton trên bức tường trong phòng nghiên cứu của mình cùng với những bức ảnh của Michael Faraday và James Clerk Maxwell. Trong một cuộc khảo sát năm 2005 với các thành viên của Hội Hoàng gia Anh (trước đây do Newton đứng đầu) hỏi ai có ảnh hưởng lớn hơn đến lịch sử khoa học, Newton hay Einstein, các thành viên cho rằng Newton đã có đóng góp tổng thể lớn hơn. Năm 1999, một cuộc thăm dò ý kiến của 100 nhà vật lý hàng đầu trên thế giới đã bình chọn Einstein là "nhà vật lý vĩ đại nhất từ trước đến nay", với Newton xếp thứ hai, trong khi một cuộc khảo sát song song về xếp hạng các nhà vật lý của trang PhysicsWeb đã trao vị trí đầu bảng cho Newton. Đơn vị dẫn xuất SI của lực được đặt tên là Newton để vinh danh ông. Tưởng niệm. Tượng đài của Newton (1731) có thể được nhìn thấy ở Tu viện Westminster, ở phía bắc của lối vào dàn hợp xướng đối diện với sân khấu dàn hợp xướng, gần lăng mộ của ông. Nó được thực hiện bởi nhà điêu khắc Michael Rysbrack (1694–1770) bằng đá cẩm thạch trắng và xám với thiết kế của kiến trúc sư William Kent. Tượng đài có hình Newton nằm trên đỉnh quan tài, khuỷu tay phải đặt trên một số cuốn sách vĩ đại của ông và tay trái hướng về một cuộn giấy có các hình vẽ toán học. Phía trên ông là một kim tự tháp và một thiên cầu thể hiện các chòm sao trên Hoàng đạo và đường đi của sao chổi năm 1680. Bên dưới ông là một tấm phù điêu mô tả các thiên thần sử dụng các dụng cụ như kính thiên văn và lăng kính. Dòng chữ Latin ở chân đế lăng mộ dịch là:Nơi yên nghỉ của Isaac Newton, Hiệp sĩ, người bằng trí lực gần như thần thánh và các nguyên lý toán học đặc biệt của riêng mình, đã khám phá đường đi và hình dáng của các hành tinh, đường đi của sao chổi, thủy triều của biển, sự khác biệt trong tia sáng, và, điều mà không một học giả nào trước đây tưởng tượng, các đặc tính của màu sắc do đó tạo ra. Siêng năng, ngoan cường và trung thành, trong những lần giải thích thiên nhiên, sự cổ xưa và Kinh thánh, ông đã minh oan bằng triết lý của mình về sự uy nghi của Thiên Chúa hùng mạnh và tốt lành, đồng thời thể hiện sự đơn giản của Phúc âm trong cách cư xử của ông. Những người phàm trần vui mừng vì đã tồn tại một niềm vinh dự tuyệt vời như vậy cho loài người! Ông sinh ngày 25 tháng 12 năm 1642, và mất ngày 20 tháng 3 1726/1727.—Dịch từ G.L. Smyth, "The Monuments and Genii of St. Paul's Cathedral, and of Westminster Abbey" (1826), ii, 703–704. Từ năm 1978 cho đến năm 1988, hình ảnh Newton do Harry Ecclestone thiết kế đã xuất hiện trên các tờ tiền Series D £ 1 do Ngân hàng Trung ương Anh phát hành (tờ 1 bảng Anh cuối cùng do Ngân hàng Anh phát hành). Newton xuất hiện trên mặt sau của các tờ giấy bạc với tay cầm một cuốn sách và đi kèm với một kính viễn vọng, một lăng kính và bản đồ của Hệ Mặt trời. Một bức tượng của Isaac Newton, đang nhìn vào các sơ đồ vẽ bằng compa trên cuộn giấy dưới chân của mình, có thể được nhìn thấy tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên của Đại học Oxford. Một bức tượng lớn bằng đồng, Newton, theo tên của William Blake, của Eduardo Paolozzi, tạo tác năm 1995 và lấy cảm hứng từ tranh khắc của Blake, nổi bật trên quảng trường của Thư viện Anh ở Luân Đôn. Quan điểm tôn giáo. Mặc dù sinh ra trong một gia đình Anh giáo, ở tuổi ba mươi, Newton đã giữ một đức tin Cơ đốc giáo mà nếu nó được công khai, sẽ không được Cơ đốc giáo chính thống coi là chính thống, với một sử gia gán cho ông là một người dị giáo. Đến năm 1672, ông bắt đầu ghi chép các nghiên cứu thần học của mình vào sổ tay mà ông không cho ai xem và chỉ mới được kiểm tra gần đây. Chúng chứng tỏ kiến thức sâu rộng của ông về các tác phẩm của Giáo hội sơ khai và cho thấy rằng trong cuộc xung đột giữa Athanasius và Arius, vốn định nghĩa Kinh Tin kính, ông đã đứng về phía Arius, kẻ thua cuộc, người đã bác bỏ quan điểm truyền thống về Chúa Ba Ngôi. Newton "công nhận Đấng Christ là đấng trung gian thần thánh giữa Đức Chúa Trời và con người, Đấng phục tùng Đức Chúa Cha, Đấng đã tạo ra Ngài." Ông đặc biệt quan tâm đến lời tiên tri, nhưng đối với ông, "sự bội đạo lớn là chủ nghĩa ba ngôi." Newton đã cố gắng không thành công để có được một trong hai học bổng miễn trừ cho người nắm giữ khỏi yêu cầu phong chức thánh. Cuối cùng vào năm 1675, ông nhận được mệnh lệnh từ chính phủ miễn cho ông và tất cả những người nắm giữ vị trí giáo sư Lucas trong tương lai khỏi nghĩa vụ của Giáo hội. Trong mắt Newton, việc tôn thờ Đấng Christ như Đức Chúa Trời là thờ ngẫu tượng, đối với ông là tội lỗi cơ bản. Năm 1999, nhà sử học Stephen D. Snobelen đã viết, "Isaac Newton là một người dị giáo. Nhưng... ông ấy chưa bao giờ tuyên bố công khai về đức tin riêng của mình - điều mà giới chính thống cho là cực kỳ cấp tiến. Ông ấy đã che giấu đức tin của mình rất tốt đến nỗi các học giả vẫn đang làm sáng tỏ niềm tin cá nhân của ông ấy. " Snobelen kết luận rằng Newton ít nhất là một người đồng tình với học thuyết của Socinus (ông sở hữu và đã đọc kỹ ít nhất tám cuốn sách của Socinus), có thể là một người theo học thuyết Arius và gần như chắc chắn là một chống thuyết Ba Ngôi. Ở ý kiến thiểu số, T.C. Pfizenmaier đưa ra một quan điểm sắc thái hơn, cho rằng Newton gần gũi hơn với quan điểm của lí thuyết nửa-Arius về Chúa Ba Ngôi rằng Chúa Giê-su Kitô là một "bản thể tương tự" (homoiousios) từ Chúa Cha hơn là quan điểm chính thống rằng Chúa Giê-su Kitô là "bản chất giống nhau "của Chúa Cha (homoousios) như được chứng thực bởi Chính thống giáo Đông phương, Công giáo La Mã và Tin lành hiện đại. Tuy nhiên, kiểu quan điểm này 'cuối cùng đã mất đi sự ủng hộ với các nội dung sẵn có từ các tài liệu thần học của Newton', và bây giờ hầu hết các học giả đều xác định Newton là một người chống thuyết độc thần Ba Ngôi. Mặc dù các định luật chuyển động và vạn vật hấp dẫn đã trở thành khám phá nổi tiếng nhất của Newton, ông cảnh báo không nên sử dụng chúng để coi Vũ trụ như một cỗ máy đơn thuần, giống như một chiếc đồng hồ vĩ đại. Ông nói, "Vậy thì lực hấp dẫn có thể đưa các hành tinh vào chuyển động, nhưng nếu không có Lực Siêu nhiên thì không bao giờ có thể đưa chúng vào chuyển động tròn như vậy, như chúng quay quanh mặt trời". Cùng với danh tiếng khoa học của mình, những nghiên cứu của Newton về Kinh thánh và về các Giáo phụ thời đầu của Giáo hội cũng rất đáng chú ý. Newton đã viết các tác phẩm về phê bình văn bản, đáng chú ý nhất là "Bản tường thuật lịch sử về hai sự sai lầm đáng chú ý của Kinh thánh" ("An Historical Account of Two Notable Corruptions of Scripture") và "Những quan sát về lời tiên tri của Daniel, và Ngày tận thế của St. John" ("Observations upon the Prophecies of Daniel, and the Apocalypse of St. John"). Ông đã đặt sự kiện đóng đinh Chúa Giêsu Kitô vào ngày 3 tháng 4, năm 33 sau Công Nguyên, điều này đồng ý với một ngày đã được chấp nhận theo truyền thống. Ông tin vào một thế giới nội tại hợp lý, nhưng ông bác bỏ thuyết vật hoạt (hylozoism) như được hàm ý bởi Leibniz and Baruch Spinoza. Tính trật tự và động lực cho thấy Vũ trụ có thể hiểu được, và phải được hiểu, bởi một lý do chủ động. Trong thư từ của mình, Newton tuyên bố rằng khi viết "Principia" "Tôi đã để mắt đến những Nguyên lí như vậy có thể có tác dụng với việc xem xét con người có niềm tin của Thần linh". Ông đã nhìn thấy bằng chứng về thiết kế trong hệ thống của thế giới: "Sự đồng nhất tuyệt vời như vậy trong hệ thống hành tinh phải được cho phép hiệu lực của sự lựa chọn". Nhưng Newton nhấn mạnh rằng cuối cùng cần có sự can thiệp của thần thánh để tái lập hệ thống, do tốc độ tăng trưởng chậm của các bất ổn định. Về điều này, Leibniz đã cảnh báo ông: "Chúa toàn năng muốn lên dây cót cho chiếc đồng hồ của ông: nếu không thì nó sẽ ngừng chuyển động. Có vẻ như ông đã không có đủ tầm nhìn xa để biến nó thành chuyển động vĩnh cửu." Quan điểm của Newton đã được bảo vệ mạnh mẽ bởi người ủng hộ ông là Samuel Clarke trong một bức thư nổi tiếng gửi đến Leibniz. Một thế kỷ sau, công trình "Cơ học Thiên thể" của Pierre-Simon Laplace đã giải thích một cách tự nhiên cho lý do tại sao các hành tinh quay quanh quỹ đạo không cần đến sự can thiệp định kỳ của thần thánh. Sự tương phản giữa thế giới quan cơ học của Laplace và thế giới quan của Newton là khắc nghiệt nhất khi xem xét câu trả lời nổi tiếng mà nhà khoa học Pháp này đưa ra cho Napoléon, người đã chỉ trích ông vì sự vắng mặt của Đấng Tạo hóa trong "Mécanique céleste": "Sire, j'ai pu me passer de cette hypothese" ("Tôi không cần một giả thuyết như vậy "). Các học giả đã tranh luận rất lâu về việc liệu Newton có phản bác học thuyết về Chúa Ba Ngôi hay không. Người viết tiểu sử đầu tiên của ông, David Brewster, người đã biên soạn các bản thảo của ông, giải thích rằng Newton đặt câu hỏi về tính xác thực của một số đoạn văn được sử dụng để ủng hộ Chúa Ba Ngôi, nhưng không bao giờ phủ nhận học thuyết về Chúa Ba Ngôi như vậy. Vào thế kỷ 20, những bản thảo được mã hóa do Newton viết mà John Maynard Keynes mua lại (và một số những người khác) đã được giải mã và người ta biết rằng Newton đã thực sự bác bỏ thuyết Ba Ngôi. Ảnh hưởng đến tư tưởng tôn giáo. Phương pháp tiếp cận triết học cơ học của Newton và Robert Boyle đã được những người theo thuyết duy lý quảng bá như một giải pháp thay thế khả thi cho thuyết phiếm thần và chủ nghĩa đam mê, và được chấp nhận một cách ngập ngừng bởi các nhà thuyết giáo chính thống cũng như những nhà thuyết giáo bất đồng chính kiến như những người theo chủ nghĩa tự do. Sự rõ ràng và đơn giản của khoa học được coi là một cách để chống lại những cảm xúc và sự cuồng nhiệt siêu hình học của cả sự mê tín và mối đe dọa của chủ nghĩa vô thần, đồng thời, làn sóng thần thánh thứ hai của thần giáo tự nhiên Anh đã sử dụng những khám phá của Newton để chứng minh khả năng của một "Tôn giáo Tự nhiên". Các cuộc tấn công chống lại "tư duy ma thuật" trước thời kỳ Khai sáng, và các yếu tố thần bí của Cơ đốc giáo, được đặt nền tảng từ quan niệm cơ học của Boyle về vũ trụ. Newton đã cung cấp cho việc hoàn thiện các ý tưởng của Boyle thông qua các chứng minh toán học và có lẽ quan trọng hơn là đã rất thành công trong việc phổ biến chúng. Yếu tố huyền bí. Trong một bản thảo mà ông viết vào năm 1704 (chưa bao giờ có ý định xuất bản), ông đề cập đến ngày 2060, nhưng nó không được coi là ngày cuối cùng. Nó đã bị nhầm lẫn khi cho rằng đây là một dự đoán. Đoạn văn trở lên rõ ràng khi ngày tháng được đọc trong ngữ cảnh. Ông đã chống lại việc thiết lập ngày cho cuối ngày, lo ngại rằng điều này sẽ khiến Cơ đốc giáo trở nên sai lệch. Giả kim thuật. Trong nhân vật Morton Opperly trong "Siêu nhân tội nghiệp" (1951), tác giả tiểu thuyết suy đoán Fritz Leiber nói về Newton, "Mọi người đều biết Newton như một nhà khoa học vĩ đại. Ít ai nhớ rằng ông đã dành cả nửa đời mình để nghiên cứu giả kim thuật, tìm kiếm hòn đá của các triết gia. Đó là viên sỏi bên bờ biển mà ông ấy thực sự muốn tìm." Trong số khoảng mười triệu từ được viết trên các bài báo của Newton, khoảng một triệu là liên quan đến thuật giả kim. Nhiều bài viết của Newton về thuật giả kim là bản sao của các bản thảo khác, với các chú thích của riêng ông. Các văn bản giả kim kết hợp kiến thức thủ công với suy đoán triết học, thường ẩn sau các lớp chơi chữ, ngụ ngôn và hình ảnh để bảo vệ bí mật thủ công. Một số nội dung trong các bài báo của Newton có thể bị nhà thờ coi là dị giáo. Năm 1888, sau mười sáu năm lập danh mục các bài báo của Newton, Đại học Cambridge đã giữ lại một số nhỏ và trả lại phần còn lại cho Bá tước Portsmouth. Năm 1936, một hậu duệ đã rao bán các giấy tờ tại Sotheby's. Bộ sưu tập đã được chia nhỏ và được bán với tổng giá khoảng 9.000 bảng Anh. John Maynard Keynes là một trong khoảng ba chục người đấu giá đã mua được một phần của bộ sưu tập tại cuộc đấu giá. Keynes tiếp tục tập hợp lại ước tính được một nửa bộ sưu tập các bài báo về thuật giả kim của Newton trước khi tặng lại bộ sưu tập của mình cho Đại học Cambridge vào năm 1946. Tất cả các bài viết được biết đến của Newton về thuật giả kim hiện đang được đưa lên mạng trong một dự án do Đại học Indiana thực hiện: "The Chymistry of Isaac Newton" và được tóm tắt trong một cuốn sách. Charles Coulston Gillispie phản đối rằng Newton đã từng thực hành thuật giả kim, nói rằng "hóa học của ông nằm trong tinh thần triết học vật thể của Boyle." Vào tháng 6 năm 2020, hai trang ghi chú của Newton chưa được xuất bản trong cuốn sách của Jan Baptist van Helmont về bệnh dịch, "De Peste", đã được bán đấu giá trực tuyến bởi Bonham's. Theo Bonham's, phân tích của Newton về cuốn sách này, cuốn sách mà ông thực hiện ở Cambridge trong khi bảo vệ bản thân khỏi sự lây nhiễm từ năm 1665–1666 ở London, là tuyên bố bằng văn bản quan trọng nhất mà ông đã thực hiện về bệnh dịch hạch. Về phương pháp trị liệu có liên quan, Newton viết rằng "điều tốt nhất là một con cóc bị treo chân trong ống khói trong ba ngày, cuối cùng nó đã nôn ra đất với nhiều loại côn trùng trong đó, vào một đĩa sáp màu vàng, ngay sau khi nó chết. Kết hợp bột cóc với dịch tiết và huyết thanh làm thành viên ngậm, đắp vào chỗ bị đau để xua đuổi lây lan và hút hết chất độc ra ngoài ". Các nhà triết học khai sáng. Các nhà triết học Khai sáng đã chọn một lịch sử ngắn của những nhà khoa học trước đó — về cơ bản là Galileo, Boyle và Newton — làm người hướng dẫn và bảo đảm cho việc áp dụng duy nhất các khái niệm về tự nhiên và quy luật tự nhiên vào mọi lĩnh vực vật lí và xã hội thời nay. Về mặt này, những bài học về lịch sử và cấu trúc xã hội được xây dựng dựa trên nó có thể bị loại bỏ. Chính nhận thức của Newton về vũ trụ dựa trên các quy luật tự nhiên và hợp lý có thể hiểu được đã trở thành một trong những mầm mống cho hệ tư tưởng Khai sáng. Locke và Voltaire áp dụng các khái niệm của định luật luật tự nhiên cho các hệ thống chính trị ủng hộ các quyền nội tại; những người theo chủ nghĩa trọng nông và Adam Smith đã áp dụng các quan niệm tự nhiên về tâm lý học và tư lợi cho các hệ thống kinh tế; và các nhà xã hội học chỉ trích trật tự xã hội hiện tại vì đã cố gắng đưa lịch sử vào các mô hình tiến bộ tự nhiên. Monboddo và Samuel Clarke chống lại các yếu tố trong công trình của Newton, nhưng cuối cùng đã hợp lý hóa nó để phù hợp với quan điểm tôn giáo mạnh mẽ của họ về tự nhiên. Giai thoại quả táo rơi. Bản thân Newton thường kể câu chuyện rằng ông đã được truyền cảm hứng để hình thành lý thuyết về lực hấp dẫn của mình khi quan sát và đặt câu hỏi về quả táo rơi từ trên cây. Câu chuyện này được cho là truyền vào kiến thức đại chúng sau khi được Catherine Barton, cháu gái của Newton, trao đổi với Voltaire. Voltaire sau đó đã viết trong cuốn "Essay on Epic Poetry" (1727), "Sir Isaac Newton đang đi dạo trong khu vườn của mình, đã có ý nghĩ đầu tiên về hệ thống hấp dẫn của mình, khi nhìn thấy một quả táo rơi từ trên cây xuống." Mặc dù người ta nói rằng câu chuyện về quả táo là một giai thoại và nỗ lực đạt được lý thuyết về lực hấp dẫn của Newton không phải chỉ ở một thời điểm, những người quen của Newton (chẳng hạn như William Stukeley, người có một bản thảo viết năm 1752 đã được cung cấp bởi Hội Hoàng gia Anh) trên thực tế đã xác nhận vụ việc, mặc dù không phải là sự kiện ngụy tạo khi quả táo thực sự rơi trúng vào đầu Newton. Stukeley đã ghi lại trong "Hồi ký về Cuộc đời của Sir Isaac Newton" ("Memoirs of Sir Isaac Newton's Life") một cuộc trò chuyện với Newton ở Kensington vào ngày 15 tháng 4 năm 1726: John Conduitt, trợ lý của Newton tại Xưởng đúc tiền Hoàng gia và là chồng của cháu gái Newton, cũng mô tả sự kiện này khi ông viết về cuộc đời của Newton: Từ sổ tay của ông, người ta biết rằng vào cuối những năm 1660 Newton đã bắt đầu bám lấy ý tưởng rằng lực hấp dẫn trên mặt đất có ảnh hưởng mở rộng, theo một tỷ lệ nghịch bình phương, lên Mặt trăng; tuy nhiên, ông đã mất hai thập kỷ để phát triển thành lý thuyết chính thức. Câu hỏi đặt ra không phải là liệu lực hấp dẫn có tồn tại hay không, mà liệu nó có mở rộng ra xa khỏi Trái đất đến mức nó cũng có thể là lực giữ Mặt Trăng quay trên quỹ đạo của nó hay không. Newton đã chỉ ra rằng nếu lực giảm đi dưới dạng bình phương nghịch đảo của khoảng cách, có thể thực sự tính được chu kỳ quỹ đạo của Mặt trăng và nhận được kết quả khớp khá tốt với quan sát. Ông đoán lực tương tự cũng chịu trách nhiệm cho các chuyển động quỹ đạo khác, và do đó đặt tên cho nó là "vạn vật hấp dẫn". Nhiều cây khác nhau được cho là "cây" mà Newton đã mô tả. Trường King, Grantham tuyên bố rằng cây đó đã được mua bởi trường học, nhổ gốc và vận chuyển đến khu vườn của hiệu trưởng vài năm sau đó. Các nhân viên của trang viên Woolsthorpe thuộc sở hữu của National Trust (hiện nay) phủ nhận điều này và cho rằng một cây táo có trong khu vườn của họ là cây được mô tả bởi Newton. Một hậu duệ của cây gốc còn tồn tại và trồng ở bên ngoài cổng chính của Đại học Trinity, Cambridge, bên dưới căn phòng mà Newton đã sống khi ông học ở đó. "Tổ chức sưu tập Trái cây Quốc gia" của Anh tại Brogdale ở Kent có thể cung cấp các cây ghép từ cây của họ, có vẻ giống với cây từ vùng Kent, một giống được dùng để nấu ăn.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Hoạch định tài nguyên doanh nghiệp (tiếng Anh: "enterprise resource planning – ERP") nguyên thủy ám chỉ một hệ thống dùng để hoạch định tài nguyên trong một tổ chức, một doanh nghiệp. Một hệ thống ERP điển hình là nó bao hàm tất cả những chức năng cơ bản của một tổ chức. Tổ chức đó có thể là doanh nghiệp, tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức phi chính phủ v.v. Một phần mềm ERP, nó tích hợp những chức năng chung của một tổ chức vào trong một hệ thống duy nhất. Thay vì phải sử dụng phần mềm kế toán, phần mềm nhân sự-tiền lương, quản trị sản xuất... song song, độc lập lẫn nhau thì ERP gom tất cả vào chung 1 gói phần mềm duy nhất mà giữa các chức năng đó có sự liên thông với nhau. Chức năng. Một phần mềm ERP cần phải thể hiện được tất cả các chu trình kinh doanh. Việc tích hợp một cách xuyên suốt và từ bỏ các giải pháp cô lập dẫn đến một hệ thống được trung tâm hóa trở lại mà qua đó các tài nguyên có thể được quản lý bởi toàn bộ doanh nghiệp. Các chức năng tiêu biểu của một phần mềm hoạch định tài nguyên doanh nghiệp bao gồm: Bên cạnh đó, do tính dây chuyền và phức tạp của hệ thống ERP, các doanh nghiệp cung cấp giải pháp ERP còn hỗ trợ khách hàng thông qua dịch vụ tư vấn, thiết kế theo đặc thù của doanh nghiệp. Tác dụng. Năng suất lao động sẽ tăng do các dữ liệu đầu vào chỉ phải nhập một lần cho mọi giao dịch có liên quan, đồng thời các báo cáo được thực hiện với tốc độ nhanh hơn, chính xác hơn. Doanh nghiệp (DN) có khả năng kiểm soát tốt hơn các hạn mức về tồn kho, công nợ, chi phí, doanh thu, lợi nhuận… đồng thời có khả năng tối ưu hóa các nguồn lực như nguyên vật liệu, nhân công, máy móc thi công… vừa đủ để sản xuất, kinh doanh. Các thông tin của DN được tập trung, đầy đủ, kịp thời và có khả năng chia sẻ cho mọi đối tượng cần sử dụng thông tin như khách hàng, đối tác, cổ đông. Khách hàng sẽ hài lòng hơn do việc giao hàng sẽ được thực hiện chính xác và đúng hạn. Ứng dụng ERP cũng đồng nghĩa với việc tổ chức lại các hoạt động của DN theo các quy trình chuyên nghiệp, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, do đó nó nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận, tăng năng lực cạnh tranh và phát triển thương hiệu của DN. Ứng dụng ERP là công cụ quan trọng để DN nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời nó cũng giúp DN tiếp cận tốt hơn với các tiêu chuẩn quốc tế. Một DN nếu ứng dụng ngay từ khi quy mô còn nhỏ sẽ có thuận lợi là dễ triển khai và DN sớm đi vào nề nếp. DN nào chậm trễ ứng dụng ERP, DN đó sẽ tự gây khó khăn cho mình và tạo lợi thế cho đối thủ. Tuy nhiên, ứng dụng ERP không phải dễ, cần hội tụ nhiều điều kiện để có thể ứng dụng thành công như: nhận thức và quyết tâm cao của ban lãnh đạo DN; cần xác định đúng đắn mục tiêu, phạm vi và các bước triển khai; lựa chọn giải pháp phù hợp; lựa chọn đối tác triển khai đúng; phối hợp tốt với đối tác triển khai trong quá trình thực hiện dự án; sẵn sàng thay đổi các quy trình bất hợp lý hiện hữu trong DN (đây là việc thường xuyên gặp nhiều sự chống đối nhất); chú trọng công tác đào tạo cán bộ theo các quy trình mới; chú trọng đào tạo khai thác hệ thống cho cán bộ mọi cấp; có cán bộ chuyên trách tiếp thu quản trị hệ thống… Phạm vi chức năng của các phần mềm ERP. Một hệ thống ERP có thể bao hàm rất nhiều chức năng trong các lĩnh vực khác nhau. Trong rất nhiều hệ thống ERP, các chức năng đó được đóng gói lại với nhau thành từng bộ và được gọi là các mô đun ERP (ERP modules):
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Một nhà vật lý hay vật lý gia là một nhà khoa học chuyên sâu vào lĩnh vực vật lý. Các nhà vật lý làm việc tại các trường Đại học với các chức vụ như giáo sư, giảng viên, nhà nghiên cứu, hoặc trong các phòng thí nghiệm. Các nhà vật lý chuyên nghiệp thường phải có bằng tiến sĩ. Một số nhà vật lý cũng sử dụng kiến thức của họ để làm việc trong các lĩnh vực khác như tin học hoặc tài chính. Thông thường, các nhà vật lý đều sử dụng kiến thức chuyên sâu hoặc có tham gia nghiên cứu về toán học. Vinh danh và giải thưởng. Vinh dự cao nhất của các nhà vật lý là Giải Nobel Vật lý, được trao kể từ năm 1901 bởi Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Chúa hay Chủ (Hán tự: 主) là người sở hữu, đứng đầu, cai trị hoặc có quyền lực rất cao đối với một vùng đất, một cộng đồng dân cư; hoặc người sáng lập, đứng đầu của một tổ chức, giáo phái, một thiết chế nào đó. Trong khi "Chủ" là âm Hán Việt tiêu chuẩn thì "Chúa" là âm Hán Việt đã được Nôm-hóa. Nhìn chung có một số cách dùng thông dụng sau: Tham khảo. __ĐỊNHHƯỚNG__
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
2004 được chỉ định là Năm Quốc tế về Gạo (bởi Liên Hợp Quốc), Năm Quốc tế tưởng nhớ cuộc chống chế độ nô lệ và việc hủy bỏ nó (bởi UNESCO), và năm Giáp Thân trong lịch Trung Quốc. Có 73 quốc gia tổ chức các cuộc bầu cử trong năm 2004. Mất. Xem thêm
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Hội chứng nhiễm virut gây suy giảm miễn dịch ở người (viết tắt HIV/AIDS); ; hoặc SIDA theo tiếng Pháp '), còn gọi là bệnh liệt kháng (tê liệt khả năng đề kháng), là một dạng bệnh tấn công vào hệ miễn dịch, gây ra do bị nhiễm virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV). HIV lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục không an toàn (bao gồm cả quan hệ tình dục qua đường hậu môn và thậm chí bằng miệng), qua việc truyền máu hoặc dùng chung kim tiêm với người nhiễm bệnh (tuy nhiên việc bị muỗi đốt không làm lây HIV), và từ mẹ sang con: trong khi mang thai, khi sinh (lây truyền chu sinh), hoặc khi cho con bú. Một số chất dịch của cơ thể như nước bọt và nước mắt không lây truyền HIV. HIV truyền từ các loài linh trưởng khác sang con người ở tây-trung Phi vào đầu đến giữa thế kỉ 20. AIDS được công nhận đầu tiên bởi Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ vào năm 1981 và nguyên nhân của nó—nhiễm HIV—được xác định vào đầu thập niên này. Nhiễm HIV ở người được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xem như là đại dịch. Năm 2009, toàn thế giới có 1,8 triệu người mắc bệnh AIDS, đã giảm so với mức đỉnh là 2,1 triệu người trong năm 2004. Khoảng 260.000 trẻ em chết vì AIDS trong năm 2009. Ước tính vẫn có khoảng 2,6 triệu người mới bị nhiễm HIV trong năm 2009. Giai đoạn đầu khi vừa nhiễm virus, người bệnh thường có những triệu chứng giống bệnh cúm trong một thời gian ngắn. Sau đó, bệnh nhân không có dấu hiệu gì trong một thời gian dài. Khi bệnh tiến triển, nó gây ảnh hưởng ngày càng nhiều đến hệ miễn dịch, làm cho bệnh nhân dễ mắc phải các nhiễm trùng, như các loại nhiễm trùng cơ hội hoặc các khối u, là những bệnh mà người có hệ miễn dịch hoạt động bình thường khó có thể mắc phải. Hầu hết những người nhiễm HIV-1 nếu không được chữa trị sẽ tiến triển sang giai đoạn AIDS. Người bệnh thường chết do nhiễm trùng cơ hội hoặc do các bệnh ác tính liên quan đến sự giảm sút của hệ thống miễn dịch. HIV tiến triển sang AIDS theo một tỷ lệ biến thiên phụ thuộc vào sự tác động của các virus, cơ thể vật chủ, và yếu tố môi trường; hầu hết sẽ chuyển sang giai đoạn AIDS trong vòng 10 năm sau khi nhiễm HIV: một số trường hợp chuyển rất sớm, một số lại lâu hơn. Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Hội chứng: nhóm các biểu hiện (triệu chứng) như: sốt, tiêu chảy, sụt cân, nổi hạch... do một căn bệnh nào đó gây ra. Suy giảm miễn dịch: Hệ miễn dịch là hệ thống phòng ngự bảo vệ cơ thể chống lại các mầm bệnh từ ngoài xâm nhập vào cơ thể, suy giảm miễn dịch là tình trạng hệ miễn dịch trở nên yếu, giảm hoặc không có khả năng chống lại sự tấn công của các tác nhân gây bệnh. Mắc phải: Không do di truyền mà do bị lây nhiễm trong cuộc sống. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng đến cuối năm 2009 sẽ có 37,2 triệu người lớn và 2,2 triệu trẻ em sống với HIV. Trong năm 2004, 4,9 triệu người đã bị nhiễm và 3,1 triệu chết vì AIDS. Từ năm 1981, AIDS đã giết 23,1 triệu người trong tổng cộng 79,9 triệu trường hợp. Ở Châu Phi, tuổi thọ đã giảm trong các thập kỉ vừa qua chỉ vì tử vong do AIDS và ung thư Kaposi, một khối u xuất hiện ở bệnh nhân AIDS, hiện nay là khối u phổ biến nhất được báo cáo ở các nước hạ Sahara. AIDS được phát hiện lần đầu tiên ở những người đàn ông đồng tính luyến ái và những người tiêm ma tuý vào tĩnh mạch vào thập niên 1980. Sang thập niên 1990 hội chứng này đã trở thành một dịch bệnh toàn cầu và vào năm 2004 58 phần trăm người bị AIDS là phụ nữ. Mặc dù những người đồng tính luyến ái nam và những người gốc Phi tiếp tục hứng chịu tỉ lệ AIDS theo đầu người cao nhất, phần lớn nạn nhân hiện nay là những người dị tính luyến ái nam và nữ, và trẻ em, ở các nước đang phát triển. Dấu hiệu và triệu chứng. Nhiễm HIV-1 dẫn đến sự suy giảm cấp tiến số lượng tế bào T-CD4+ và tăng tải lượng virus cũng như nồng độ HIV trong máu. Có thể xác định giai đoạn nhiễm bệnh bằng cách đo số lượng tế bào T-CD4+ và tải lượng virus của bệnh nhân. Nhiễm HIV có 3 giai đoạn: giai đoạn nhiễm trùng cấp tính (còn gọi là nhiễm trùng tiên phát), giai đoạn tiềm ẩn và giai đoạn AIDS. Nhiễm trùng cấp tính kéo dài trong vài tuần và có thể bao gồm các triệu chứng như nổi hạch (sưng hạch bạch huyết), sốt, viêm họng, phát ban, đau cơ, khó chịu, lở loét miệng và thực quản. Giai đoạn tiềm ẩn không có triệu chứng và có thể kéo dài từ hai tuần đến hai mươi năm hoặc hơn, tùy thuộc vào từng cá nhân. Giai đoạn AIDS là giai đoạn cuối của nhiễm HIV, được xác định bởi số lượng tế bào T-CD4+ thấp (ít hơn 200 trong một microlit), những bệnh nhiễm trùng cơ hội, ung thư và các tình trạng khác. Một tỷ lệ nhỏ các cá thể bị nhiễm HIV-1 vẫn giữ số lượng tế bào T-CD4+ ở mức cao mà không cần liệu pháp kháng ritrovirus. Tuy nhiên, hầu hết vẫn có thể phát hiện thông qua tải lượng virus và cuối cùng cũng sẽ tiến triển thành AIDS, mặc dù chậm hơn so với những người khác. Những người này được phân loại là những "HIV controller" hoặc "long-term nonprogressor" (LTNP). Những bệnh nhân có thể duy trì số lượng tế bào T-CD4+ đồng thời có tải lượng virus thấp hoặc không thể phát hiện được trên lâm sàng mà không cần điều trị kháng retrovirus được gọi là những "elite controller" hoặc "elite suppressor" (ES). Giai đoạn cấp tính. Nhiễm HIV thường xảy ra bằng cách đưa các chất dịch cơ thể từ người bị nhiễm bệnh vào cơ thể của một người không bị nhiễm bệnh. Giai đoạn virus nhân lên một cách nhanh chóng xảy ra ngay sau đó, dẫn đến có nhiều virus trong máu ngoại biên. Ở giai đoạn này, mức HIV có thể lên đến vài triệu hạt virus trong mỗi ml máu. Phản ứng này đi kèm với việc lưu lượng tế bào T-CD4+ bị giảm đáng kể. Trong tất cả các bệnh nhân, mức virus này thực tế là do sự hoạt hóa của các tế bào T-CD8+ đã giết chết những tế bào bị nhiễm HIV, sau đó sản sinh các kháng thể hoặc biến đổi huyết thanh. Phản ứng của tế bào T-CD8+ được cho là quan trọng trong việc kiểm soát mức virus từ mức cao trở thành suy giảm dần, và phục hồi số lượng tế bào T-CD4+. Phản ứng của tế bào T-CD8+ tốt sẽ làm tiến triển bệnh chậm hơn và việc dự đoán bệnh tốt hơn, mặc dù nó không thể loại trừ được virus. Trong thời gian này (thường là 2-4 tuần sau khi phơi nhiễm), hầu hết các bệnh nhân (80-90%) sẽ mắc bệnh cúm hoặc bệnh gần giống như bệnh bạch cầu đơn nhân, gọi chung là nhiễm HIV cấp tính, có thể với các triệu chứng phổ biến bao gồm sốt, nổi hạch, viêm họng, phát ban, đau cơ, khó chịu, lở miệng và thực quản, và ít phổ biến hơn còn có các triệu chứng như nhức đầu, buồn nôn và nôn, sưng gan/lá lách, giảm cân, bệnh tưa miệng, và các triệu chứng thần kinh. Từng cá thể bị nhiễm bệnh có thể có 1 hoặc vài triệu chứng này, cũng có trường hợp không xuất hiện bất cứ triệu chứng nào. Thời gian của các triệu chứng là khác nhau, trung bình kéo dài 28 ngày và ngắn nhất thường là một tuần. Do tính chất không rõ ràng của những triệu chứng này, cho nên bệnh nhân thường không nhận ra việc bị nhiễm HIV. Ngay cả khi bệnh nhân đến khám bác sĩ hay bệnh viện, họ thường sẽ được chẩn đoán nhầm là bị một trong các bệnh nhiễm khuẩn thông thường với các triệu chứng tương tự. Hệ quả là, những triệu chứng tiên phát này không được sử dụng để chẩn đoán nhiễm HIV, vì không phải tất cả các trường hợp nhiễm HIV đều xuất hiện những triệu chứng này và phần lớn lại giống triệu chứng của các bệnh thông thường khác. Tuy nhiên, nhận biết hội chứng là việc rất quan trọng, bởi vì bệnh nhân có thể dễ lây bệnh cho nhiều người trong giai đoạn này. Giai đoạn mãn tính. Sự bảo vệ mạnh mẽ của hệ miễn dịch sẽ làm giảm số lượng của các hạt virus trong máu, chuyển sang giai đoạn nhiễm HIV mãn tính. Giai đoạn này có thể kéo dài từ 2 tuần cho đến 20 năm tùy theo từng trường hợp. Trong suốt giai đoạn mãn tính, HIV hoạt động trong các hạch bạch huyết, làm cho các hạch này thường bị sưng do phản ứng với một số lượng lớn virus bị kẹt trong mạng lưới các tế bào tua hình nang (FDC). Các mô giàu tế bào CD4+ xung quanh cũng có thể bị nhiễm bệnh, các hạt virus tích tụ cả trong các tế bào bị nhiễm và ở dạng virus tự do. Trong giai đoạn này bệnh nhân vẫn có khả năng lây bệnh, tế bào T CD4+ CD45RO+ mang theo tải lượng virus nhiều nhất, và việc bắt đầu sớm điều trị kháng retrovirus sẽ cải thiện đáng kể thời gian sống. Giai đoạn cuối (AIDS). Khi số lượng các tế bào CD4+ giảm xuống dưới mức 200 tế bào trên 1uL máu, sự miễn dịch qua trung gian tế bào gần như đã bị vô hiệu. Khi đó, người bệnh sẽ xuất hiện nhiễm trùng do một loạt các vi sinh vật cơ hội gây ra. Các triệu chứng đầu tiên thường bao gồm giảm cân vừa phải và không giải thích được, nhiễm trùng đường hô hấp tái phát (như viêm xoang, viêm phế quản, viêm tai giữa, viêm họng), viêm tuyến tiền liệt, phát ban da, và loét miệng. Nhiễm trùng cơ hội và các khối u phổ biến ở người bình thường sẽ bị tế bào miễn dịch trung gian CD4+ khống chế sau đó chúng mới ảnh hưởng đến người bệnh. Đặc trưng của mất sức đề kháng là sẽ nhanh chóng bị nhiễm vi nấm "Candida species" gây nên bệnh nấm miệng (còn gọi là đẹn trắng hay tưa miệng) hoặc nhiễm vi khuẩn hiếu khí "Mycobacterium tuberculosis" (MTB) gây bệnh lao. Sau đó, các virus herpes tiềm ẩn sẽ được kích hoạt gây tái phát ngày càng nặng hơn các tổn thương đau đớn phun trào do herpes simplex, bệnh zona, ung thư hạch bạch huyết do virus Epstein-Barr và ung thư Kaposi's sarcoma. Viêm phổi do nấm "Pneumocystis jirovecii" cũng phổ biến và thường gây tử vong. Trong giai đoạn cuối của AIDS, đáng chú ý là những bệnh nhiễm "cytomegalovirus" (một loại virus herpes) hoặc nhiễm "Mycobacterium avium complex". Không phải tất cả các bệnh nhân AIDS đều bị tất cả các bệnh nhiễm trùng hoặc các khối u trên, nhưng có các loại khối u và các bệnh nhiễm trùng khác ít nổi bật hơn nhưng vẫn đáng kể. Lây truyền. Bệnh nhân AIDS và người nhiễm HIV là nguồn truyền nhiễm duy nhất của virus HIV. Không có ổ chứa nhiễm trùng ở động vật. Tất cả mọi người điều có khả năng cảm nhiễm HIV, không phân biệt sắc tộc, tuổi tác, sức khoẻ... HIV được phân lập từ máu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo, nước bọt, nước mắt, sữa mẹ, nước tiểu và các dịch khác của cơ thể, nhưng nhiều nghiên cứu về dịch tể học cho thấy rằng chỉ có máu, tinh dịch và dịch tiết âm đạo đóng vai trò quan trọng trong việc lây truyền HIV. Do đó chỉ có 3 phương thức hay đường lây truyền chính của HIV, trong đó HIV-2 có xác suất truyền qua đường mẹ sang con và quan hệ tình dục ít hơn HIV-1. Tình dục. Phần lớn HIV lây qua đường quan hệ tình dục không an toàn. Ước tính tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trên thế giới qua đường tình dục chiếm khoảng 75%. Việc chủ quan đối với HIV đóng một vai trò quan trọng trong nguy cơ bị lây bệnh. Lây truyền qua đường tình dục có thể xảy ra khi chất tiết sinh dục của một bạn tình có chứa virus, tiếp xúc với niêm mạc sinh dục, miệng, hoặc trực tràng của người còn lại. Nguy cơ lây nhiễm qua một lần giao hợp với người nhiễm HIV là 0,1% đến 1%. Ở các quốc gia có thu nhập cao, nguy cơ nữ lây truyền cho nam là 0,04% cho mỗi lần quan hệ và nam truyền cho nữ là 0,08%. Vì những lý do khác nhau, nguy cơ này cao hơn từ 4 đến 10 lần ở các nước có thu nhập thấp. Người nhận trong giao hợp qua đường hậu môn có nguy cơ bị lây nhiễm cao hơn nhiều, 1,7% cho mỗi lần quan hệ. Người nào có nhiều bạn tình, đồng thời quan hệ tình dục không an toàn thì càng có nguy cơ lây nhiễm HIV. Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục như giang mai, lậu... đều làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV lên gấp 20 lần. Các nghiên cứu năm 1999 về việc sử dụng bao cao su cho thấy rằng nếu sử dụng bao cao su đúng cách sẽ làm giảm nguy cơ lây truyền qua đường tình dục của HIV khoảng 85%. Tuy nhiên, chất diệt tinh trùng thực sự có thể làm tăng tỷ lệ lây truyền. Những thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, trong đó, nam giới chưa cắt bao quy đầu được phân ngẫu nhiên để được giải phẫu cắt bao quy đầu trong điều kiện vô trùng và được tư vấn đã được thực hiện tại Nam Phi, Kenya, và Uganda, kết quả cho thấy mức độ lây nhiễm HIV trong đường tình dục nữ truyền cho nam giảm xuống 60%, 53%, và 51%, tương ứng với từng quốc gia. Từ kết quả này, WHO và Ban Thư ký UNAIDS đã triệu tập một nhóm chuyên gia để "khuyến cáo rằng nam giới cắt bao quy đầu được công nhận như là một sự can thiệp bổ sung quan trọng để giảm nguy cơ lây nhiễm HIV trong quan hệ tình dục dị tính luyến ái đối với nam giới". Đối với trường hợp nam có quan hệ tình dục với nam, không có đủ bằng chứng để chứng minh nam giới cắt bao quy đầu sẽ bảo vệ chống lại nhiễm HIV hoặc nhiễm những bệnh lây truyền qua đường tình dục khác. Các nghiên cứu về lây truyền HIV ở phụ nữ đã cắt bộ phận sinh dục (FGC) đã báo cáo các kết quả khác nhau, nhưng với một số bằng chứng cho rằng việc này làm tăng nguy cơ lây truyền. Theo báo cáo về các nghiên cứu trong năm 2007 của Cochrane Collaboration, thì các chương trình nhằm mục đích khuyến khích việc tiết chế tình dục trong giới trẻ ở những nước phát triển, đồng thời cũng thực hiện các chiến lược cổ động và giáo dục về tình dục an toàn cho những đối tượng đã có quan hệ tình dục, có thể làm giảm trong ngắn hạn và dài hạn những hành vi có rủi ro lây nhiễm HIV. Đường máu. HIV có trong máu toàn phần và các thành phần của máu như hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương, các yếu tố đông máu. Do đó HIV có thể được truyền qua máu hay các sản phẩm của máu có nhiễm HIV. Nguy cơ lây truyền qua đường máu có tỷ lệ rất cao, trên 90%. Kể từ năm 1985, sau khi có các xét nghiệm sàng lọc phát hiện kháng thể kháng HIV, nguy cơ lây truyền theo đường máu ở nhiều nước đã giảm đi rõ rệt bởi các mẫu máu nhiễm HIV sẽ bị loại bỏ. Tuy nhiên ngay cả khi xét nghiệm máu cho kết quả âm tính, khả năng lây nhiễm HIV vẫn có thể xảy ra, do máu được lấy ở người mới bị nhiễm HIV, người đó đang ở trong "thời kỳ cửa sổ" của quá trình nhiễm HIV. Nguy cơ này xảy ra nhiều ở những nơi có tỷ lệ nhiễm HIV cao, đặc biệt ở những nơi mà người cho máu chuyên nghiệp cao và họ thường thay đổi địa điểm cho máu. Nếu vết thương hở tiếp xúc với máu bị nhiễm HIV thì sẽ bị lây truyền. Các đối tượng dễ bị lây nhiễm qua đường máu là những người tiêm chích ma túy, những bệnh nhân mắc bệnh rối loạn đông máu di truyền (bệnh ưa chảy máu), người nhận trong quá trình truyền máu (mặc dù tại hầu hết các nước thì máu khi dùng để truyền cho người bệnh đều đã được xét nghiệm HIV để loại bỏ từ trước) và các sản phẩm máu. Lây truyền HIV qua đường máu cũng là vấn đề lo ngại đối với những người được chăm sóc y tế tại các khu vực có vệ sinh không đạt tiêu chuẩn thông thường trong việc sử dụng các dụng cụ tiêm chích, chẳng hạn như việc tái sử dụng kim tiêm để dùng cho nhiều người ở các nước thế giới thứ ba. HIV cũng truyền qua các dụng cụ xuyên, chích qua da chưa được tiệt trùng như bơm kim tiêm (tiêm chích ma túy), kim xâu tai, dao cạo râu... khi các dụng cụ đó có dính máu nhiễm HIV. Lây truyền trong chăm sóc y tế: Nhân viên y tế như y tá, nhân viên phòng thí nghiệm, và các bác sĩ cũng là đối tượng rủi ro cao, mặc dù hiếm xảy ra hơn. Kể từ khi việc lây nhiễm HIV qua đường máu được phát hiện thì các nhân viên y tế cần tránh không tiếp xúc với máu bằng cách sử dụng các biện pháp dự phòng phổ quát. Trong quá trình xăm, xâu khuyên, và rạch da thì cả người thực hiện lẫn người được làm cũng đều dễ bị lây nhiễm HIV qua đường máu nếu các dụng cụ không được tiệt trùng kỹ càng. HIV được tìm thấy với nồng độ thấp trong nước bọt, nước mắt, và nước tiểu của các cá nhân bị nhiễm bệnh, nhưng không có trường hợp nào bị lây nhiễm bởi những chất tiết này được ghi nhận và nguy cơ tiềm năng lây truyền là không đáng kể. Việc bị muỗi đốt không thể làm lây truyền HIV. Mẹ lây truyền sang con. Việc lây truyền virus từ mẹ sang con có thể xảy ra trong tử cung (trong thời kỳ mang thai), trong quá trình chuyển dạ (sinh con), hoặc thông qua việc cho con bú. Trong trường hợp không điều trị, tỷ lệ lây truyền giữa mẹ và con lên đến khoảng 25%. Tuy nhiên, với sự kết hợp điều trị bằng thuốc kháng virus và mổ lấy thai thì nguy cơ này có thể được giảm xuống rất thấp, dưới 1%. Sau khi sinh thì có thể ngăn ngừa lây truyền bằng cách tránh hoàn toàn nuôi con bằng sữa mẹ, tuy nhiên, điều này liên quan đáng kể đến các bệnh khác. Cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ và cung cấp điều trị dự phòng kháng virus mở rộng cho trẻ sơ sinh cũng có hiệu quả trong việc tránh lây truyền. UNAIDS ước tính có 430.000 trẻ em bị nhiễm HIV trên toàn thế giới trong năm 2008 (19% là các ca nhiễm mới), chủ yếu là từ đường mẹ sang con, và thêm 65.000 ca lây nhiễm đã được ngăn chặn thông qua việc cung cấp điều trị dự phòng kháng virus cho phụ nữ nhiễm HIV dương tính. Sinh lí bệnh. Sau khi virus xâm nhập vào cơ thể, có một giai đoạn nhân lên nhanh chóng, dẫn đến sự bùng phát của virus trong máu ngoại vi. Trong quá trình lây nhiễm tiên phát, mức độ HIV có thể đạt tới vài triệu hạt vi rút trên một mililít máu. Phản ứng này đi kèm với sự sụt giảm rõ rệt số lượng tế bào CD4+ T trong màu. Nhiễm virut cấp tính gần như liên quan đến việc kích hoạt tế bào CD8+ T, tiêu diệt tế bào nhiễm HIV và sau đó sản xuất kháng thể hoặc chuyển đảo huyết thanh. Phản ứng của tế bào CD8+ T được cho là rất quan trọng trong việc kiểm soát mức độ vi rút, đạt mức cao nhất và sau đó giảm dần, khi số lượng tế bào CD4+ T phục hồi. Đáp ứng tế bào CD8+ T tốt có liên quan đến tiến triển bệnh chậm hơn và tiên lượng tốt hơn, mặc dù nó không loại bỏ được virus. Cuối cùng, HIV gây ra AIDS bằng cách làm cạn kiệt tế bào T CD4+. Điều này làm suy yếu hệ thống miễn dịch và dẫn đến nhiễm trùng cơ hội. Các tế bào T rất cần thiết cho phản ứng miễn dịch và không có chúng, cơ thể không thể chống lại nhiễm trùng hoặc tiêu diệt các tế bào ung thư. Cơ chế của sự suy giảm tế bào T CD4+ khác nhau trong các giai đoạn cấp tính và mãn tính. Trong giai đoạn cấp tính, ly giải tế bào do HIV và tiêu diệt tế bào bị nhiễm bởi các tế bào T CD8+ chiếm sự suy giảm tế bào T CD4+, mặc dù sự chết rụng tế bào cũng có thể là một yếu tố. Trong giai đoạn mãn tính, hậu quả của việc kích hoạt miễn dịch tổng quát cùng với việc mất dần khả năng của hệ thống miễn dịch để tạo ra các tế bào T mới dường như giải thích cho sự suy giảm chậm số lượng tế bào T CD4+ Mặc dù các triệu chứng suy giảm miễn dịch đặc trưng của AIDS không xuất hiện trong nhiều năm, phần lớn sự mất tế bào T CD4+ xảy ra trong những tuần đầu tiên của nhiễm trùng, đặc biệt là ở niêm mạc ruột, nơi chứa phần lớn các tế bào lympho được tìm thấy trong cơ thể. Lý do làm mất các tế bào T CD4+ niêm mạc là do phần lớn các tế bào T CD4+ niêm mạc chứa thành phần protein CCR5 mà HIV sử dụng như một đồng thụ thể để tiếp cận các tế bào, trong khi chỉ một phần nhỏ các tế bào T CD4+ trong máu tương tự. Một thay đổi di truyền cụ thể làm thay đổi protein CCR5 khi có trong cả hai nhiễm sắc thể ngăn ngừa nhiễm HIV-1 rất hiệu quả. HIV tìm kiếm và phá hủy CCR5 bộc phát bên trong tế bào T CD4+ trong khi nhiễm trùng cấp tính. Một sự phản ứng miễn dịch mạnh mẽ cuối cùng chuyển sang quá trình kiểm soát nhiễm trùng và bắt đầu giai đoạn tiềm ẩn lâm sàng. Các tế bào T CD4+ trong các mô niêm mạc đặc biệt vẫn bị ảnh hưởng. Sự sao chép liên tục của HIV xảy ra khiến cho tình trạng kích hoạt miễn dịch tổng quát vẫn tồn tại trong suốt giai đoạn mãn tính. Do đó, sự kích hoạt miễn dịch, được phản ánh bởi trạng thái kích hoạt tăng của các tế bào miễn dịch và giải phóng các cytokine tiền viêm, là kết quả từ hoạt động của một số sản phẩm gen HIV và đáp ứng miễn dịch đối với sự nhân lên của HIV đang diễn ra. Nó cũng liên quan đến sự phá vỡ hệ thống giám sát miễn dịch của hàng rào niêm mạc đường tiêu hóa gây ra bởi sự suy giảm của các tế bào T CD4+ trong giai đoạn cấp tính của căn bệnh. Chẩn đoán. Các xét nghiệm HIV được sử dụng để phát hiện sự hiện diện của virus HIV trong huyết thanh, nước bọt hoặc nước tiểu. Các xét nghiệm như vậy có thể phát hiện các kháng thể, kháng nguyên hoặc RNA. Giai đoạn cửa sổ là thời gian từ khi bị nhiễm trùng cho đến khi xét nghiệm có thể phát hiện bất kỳ thay đổi nào. Thời gian cửa sổ trung bình với xét nghiệm kháng thể HIV-1 là 25 ngày đối với phân nhóm B. Xét nghiệm kháng nguyên cắt giảm thời gian cửa sổ xuống còn khoảng 16 ngày và xét nghiệm axit nucleic (NAT) tiếp tục giảm thời gian này xuống còn 12 ngày. Phòng ngừa. Phòng chống lây nhiễm HIV, chủ yếu thông qua các chương trình trao đổi kim tiêm và tình dục an toàn, là một chiến dịch quan trọng để kiểm soát sự lây lan của căn bệnh này. Tăng cường việc nhận thức và các biện pháp phòng ngừa đối với người dân cũng đóng một vai trò quan trọng. Liệu pháp gen được đề nghị là biện pháp khả thi để ngăn ngừa hoặc điều trị nhiễm HIV. Trước phơi nhiễm. Theo nghiên cứu, dự phòng trước phơi nhiễm (tiếng Anh: "Pre-exposure prophylaxis", viết tắt là PrEP) mang lại hiệu quả phòng ngừa cao nếu được sử dụng đúng theo chỉ dẫn, làm giảm nguy cơ nhiễm HIV lên đến 99%. Sau phơi nhiễm. Năm 2007, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật của Hoa Kì khuyến cáo phác đồ thuốc HIV 28 ngày cho những người tin là họ đã tiếp xúc với virus. Phác đồ này đã được chứng minh có hiệu quả ngăn ngừa virus gần 100% nếu bệnh nhân áp dụng điều trị trong vòng 24 giờ sau phơi nhiễm. Độ hiệu quả giảm còn 52% nếu áp dụng điều trị trong 48 giờ; phác đồ này không được khuyến cáo dùng nếu quá 48 giờ sau phơi nhiễm. Vắc-xin HIV. Hiện tại không có vaccine nào để phòng ngừa lây nhiễm HIV, và cũng không có một liệu pháp nào có thể loại bỏ hoàn toàn vi-rút HIV ra khỏi cơ thể. Hiện đang có các nghiên cứu tìm vắc-xin ngừa HIV và phát triển thuốc mới kháng retrovirus. Cũng đang có một số thử nghiệm ở người. Điều trị. Tuy bệnh không thể chữa khỏi và cũng không có vắc-xin chủng ngừa, nhưng điều trị bằng thuốc kháng virus (ARV) có thể làm chậm tiến trình của bệnh và kéo dài tuổi thọ của người bệnh thêm 8-12 năm, thậm chí lâu hơn nếu uống đều đặn và đủ liều. Thuốc kháng HIV cần phải được uống mỗi ngày, nếu không thì virus có thể nhanh chóng vượt khỏi kiểm soát và trở nên kháng thuốc. Ngay cả khi HIV chuyển sang giai đoạn AIDS với những triệu chứng đặc trưng, thì việc điều trị bằng kháng retrovirus cũng có thể kéo dài tuổi thọ của bệnh nhân ước tính trung bình là hơn 5 năm (thống kê năm 2005). Trong khi đó, nếu không điều trị bằng kháng retrovirus thì bệnh nhân AIDS thường sẽ chết trong vòng 1 năm. Tuy điều trị bằng thuốc kháng virus có thể làm giảm nguy cơ tử vong và các biến chứng từ bệnh này, nhưng thuốc rất tốn kém và có thể gây ra các tác dụng phụ về sức khỏe cho người sử dụng. Điều trị bằng thuốc kháng retrovirus có thể làm giảm cả hai tỉ lệ tử vong và bệnh tật ở người nhiễm HIV. Mặc dù thuốc kháng retrovirus vẫn không có sẵn để dùng rộng rãi, nhưng việc mở rộng các chương trình điều trị bằng thuốc kháng retrovirus từ năm 2004 đã làm giảm số lượng các ca tử vong do AIDS và số ca nhiễm mới ở nhiều nơi trên thế giới. Những người sống chung với AIDS hiện nay có thể kéo dài và cải thiện chất lượng cuộc sống bằng liệu pháp điều trị kháng vi-rút, hay còn gọi là ART (viết tắt của Anti- Retroviral Therapy). ART là liệu pháp điều trị sử dụng các thuốc kháng vi-rút, hay còn gọi là thuốc ARV (Anti-retrovirus). Các thuốc ARV này có tác dụng làm chậm sự nhân lên của HIV trong cơ thể, do đó làm tăng khả năng miễn dịch và giảm khả năng mắc các nhiễm trùng cơ hội. Lựa chọn điều trị lý tưởng hiện tại bao gồm các kết hợp ("cocktail") hai hay nhiều loại thuốc kháng retrovirus như hai chất ức chế reverse transcriptase giống nucleoside (NRTI), và một chất ức chế protease hoặc một chất thuốc ức chế reverse transcriptase non-nucleoside (NNRTI). Với điều trị như vậy, kết quả cho thấy HIV không phát hiện được (âm tính) lặp đi lặp lại nhiều lần, nhưng nếu ngưng điều trị lượng virus trong cơ thể sẽ tăng nhanh chóng. Cũng có lo ngại cuối cùng sẽ xuất hiện đề kháng thuốc với phác đồ đó. Những năm gần đây thuật ngữ "điều trị kháng retrovirus tích cực cao" (highly-active anti-retroviral therapy, HAART) thường được dùng để chỉ cách thức điều trị này. Tuy nhiên, điều không may là phần lớn số người bệnh trên thế giới không tiếp cận được các điều trị HIV và AIDS. Tiên lượng. HIV/AIDS đã trở thành mãn tính chứ không phải là một căn bệnh gây tử vong cấp tính ở nhiều khu vực trên thế giới. Tiên lượng khác nhau giữa từng người và cả số lượng CD4 và tải lượng vi-rút đều hữu ích cho các kết quả dự đoán. Nếu không điều trị, thời gian sống sót trung bình sau khi nhiễm HIV được ước tính là 9 đến 11 năm, tùy thuộc vào phân nhóm HIV. Sau khi chẩn đoán AIDS, nếu không có phương pháp điều trị, thời gian sống sót dao động từ 6 đến 19 tháng. Liệu pháp kháng retrovirus có hoạt tính cao (HAART) và phòng ngừa thích hợp các bệnh nhiễm trùng cơ hội giúp giảm 80% tỷ lệ tử vong và tăng tuổi thọ cho một thanh niên mới được chẩn đoán mắc bệnh lên 20–50 năm. Con số này nằm giữa hai phần ba và gần bằng tuổi thọ của dân số chung. ations Programme on HIV/AIDS Nếu bắt đầu điều trị muộn khi nhiễm trùng, tiên lượng sẽ không tốt: ví dụ, nếu bắt đầu điều trị sau khi chẩn đoán AIDS, kỳ vọng sống là ~10–40 năm. Một nửa số trẻ sơ sinh nhiễm HIV chết trước hai tuổi mà không được điều trị. Dịch tễ học. Từ khi phát hiện ra HIV vào năm 1981 cho đến năm 2006, AIDS đã giết chết hơn 25 triệu người. Theo số liệu năm 2006, khoảng 0,6% dân số thế giới bị nhiễm HIV. Năm 2009, toàn thế giới có 1,8 triệu người mắc bệnh AIDS, đã giảm so với mức đỉnh là 2,1 triệu người trong năm 2004. Khoảng 260.000 trẻ em chết vì AIDS trong năm 2009. Một con số không cân xứng của số người tử vong do AIDS ở vùng Châu Phi hạ Sahara đã làm chậm tăng trưởng kinh tế và làm trầm trọng thêm gánh nặng của nghèo đói. Trong năm 2005, ước tính ở châu Phi có khoảng 26 triệu người bị nhiễm HIV, kết quả là một ước lượng tối thiểu sẽ có 18 triệu trẻ mồ côi. Ước tính vẫn có khoảng 2,6 triệu người mới bị nhiễm HIV trong năm 2009. Lịch sử. HIV truyền từ các loài linh trưởng khác sang con người ở tây-trung Phi vào đầu đến giữa thế kỉ 20. AIDS được công nhận đầu tiên bởi Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ vào năm 1981 và nguyên nhân của nó—nhiễm HIV—được xác định vào đầu thập niên này. Báo cáo khoa học đầu tiên về HIV/AIDS được công bố vào ngày 5 tháng 6 năm 1981, khi Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ mô tả những trường hợp nhiễm trùng phổi hiếm gặp ở nhóm nam đồng tính luyến ái tại Los Angeles. Sau đó, những ca nhiễm trùng hiếm gặp ở nam quan hệ tình dục đồng tính cũng được báo cáo từ các đô thị trên khắp nước Mỹ, thúc đẩy nhiều cuộc điều tra khoa học hơn AIDS chính thức được xác định bởi Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ vào cùng năm đó và nguyên nhân của nó — nhiễm virus HIV — được xác định vào đầu thập niên 1980. Việc chủ quan đối với HIV càng làm tăng nguy cơ bị lây bệnh. Xã hội và văn hóa. Định kiến. Sự kỳ thị AIDS tồn tại trên khắp thế giới theo nhiều cách khác nhau, bao gồm tẩy chay, từ chối, phân biệt đối xử và tránh những người nhiễm HIV; xét nghiệm HIV bắt buộc mà không có sự đồng ý trước hoặc bảo vệ bí mật cho họ; bạo lực đối với những người nhiễm HIV hoặc những người được coi là nhiễm HIV; và cách ly những người nhiễm HIV. Bạo lực liên quan đến kỳ thị hoặc nỗi sợ bạo lực ngăn cản nhiều người tìm kiếm xét nghiệm HIV, quay lại lấy kết quả hoặc đảm bảo điều trị, có thể biến một căn bệnh mãn tính có thể kiểm soát được thành bản án tử hình và tiếp tục lây lan HIV. Quan niệm sai lầm. Có nhiều quan niệm sai lầm về HIV và AIDS. Ba quan niệm sai lầm là AIDS có thể lây lan qua tiếp xúc thông thường, quan hệ tình dục với một trinh nữ sẽ chữa khỏi bệnh AIDS, và HIV chỉ có thể lây nhiễm cho những người đồng tính nam và những người sử dụng ma túy. Vào năm 2014, một số người dân Anh đã lầm tưởng rằng một người có thể bị nhiễm HIV khi hôn (16%), dùng chung ly (5%), khạc nhổ (16%), ngồi trong nhà vệ sinh công cộng (4%) và ho hoặc hắt hơi (5%). Nghiên cứu. Nghiên cứu về HIV/AIDS bao gồm tất cả nghiên cứu y học cố gắng ngăn ngừa, điều trị hoặc chữa khỏi HIV/AIDS, cùng với nghiên cứu cơ bản về bản chất của HIV như một tác nhân truyền nhiễm và về AIDS là căn bệnh do HIV gây ra. Nhiều chính phủ và viện nghiên cứu tham gia nghiên cứu về HIV/AIDS. Nghiên cứu này bao gồm hành vi can thiệp sức khỏe như giáo dục giới tính và phát triển thuốc, như nghiên cứu về thuốc diệt vi khuẩn đối với các bệnh lây truyền qua đường tình dục, vắc-xin HIV và thuốc kháng virus. Các lĩnh vực nghiên cứu y học khác bao gồm các chủ đề dự phòng trước phơi nhiễm, dự phòng sau phơi nhiễm, cắt bao quy đầu và HIV. Các nhân viên y tế công cộng, nhà nghiên cứu và chương trình y tế công cộng có thể có được bức tranh toàn cảnh hơn về những rào cản mà họ gặp phải cũng như hiệu quả của các phương pháp điều trị và phòng ngừa HIV hiện tại bằng cách theo dõi các chỉ số HIV tiêu chuẩn. Việc sử dụng các chỉ báo chung ngày càng được các tổ chức phát triển và nhà nghiên cứu chú trọng.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Giải thưởng Nobel, hay Giải Nobel (, , ), là một tập các giải thưởng quốc tế được tổ chức trao thưởng hằng năm kể từ năm 1901 cho những cá nhân đạt thành tựu trong lĩnh vực vật lý, hoá học, y học, văn học, kinh tế và hòa bình; đặc biệt là giải hoà bình có thể được trao cho tổ chức hay cho cá nhân. Vào năm 1968, Ngân hàng Thụy Điển đưa thêm vào một giải về lĩnh vực khoa học kinh tế, theo di chúc của nhà phát minh người Thụy Điển Alfred Nobel năm 1895. Từ năm 1901 đến năm 2020, các giải thưởng Nobel và giải thưởng về Khoa học Kinh tế được trao tặng 603 lần cho 962 người và tổ chức. Do một số cá nhân và tổ chức nhận giải Nobel nhiều hơn một lần, tổng cộng có 962 cá nhân (905 nam và 57 nữ) và 25 tổ chức đã nhận giải này. Kết quả đoạt giải được công bố hằng năm vào tháng 10 và được trao (bao gồm tiền thưởng, một huy chương vàng và một giấy chứng nhận) vào ngày 10 tháng 12, ngày kỷ niệm ngày mất của Nobel. Giải Nobel được thừa nhận rộng rãi như là giải thưởng danh giá nhất một người có thể nhận được trong lĩnh vực được trao. Giải Nobel Hòa bình được trao thưởng ở Oslo, Na Uy, trong khi các giải khác được trao ở Stockholm, Thụy Điển. Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển trao giải Nobel Vật lý, giải Nobel Hóa học và giải Nobel Kinh tế; Hội Nobel ở Karolinska Institutet trao giải Nobel Sinh học và Y học; Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học; và giải thưởng Nobel Hòa bình được Ủy ban Nobel Na Uy (gồm 5 thành viên do Quốc hội Na Uy bầu ra ) trao tặng thay vì một tổ chức của Thụy Điển. Các giải Nobel không bắt buộc phải được trao hàng năm, nhưng ít nhất phải được trao một lần cho mỗi 5 năm. Số tiền của giải thưởng mỗi năm một khác. Mỗi người đoạt giải nhận được một huy chương vàng, một chứng chỉ và một khoản tiền được Quỹ Nobel quyết định. Vào thời điểm năm 2020, mỗi giải thưởng trị giá 10.000.000 SEK (1,144 triệu USD, hoặc 968.000 €). Giải khi đã trao thì không bao giờ bị tước. Giải chỉ trao cho những người còn sống, không truy tặng. Tuy nhiên, nếu người đoạt giải mất sau khi công bố giải và trước khi nhận giải, giải vẫn sẽ được trao. Mặc dù tỷ lệ số người nhận trên mỗi giải có thay đổi, Giải Nobel được trao cho tối đa 3 người mỗi năm. Lịch sử. Alfred Nobel sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 ở Stockholm, Thụy Điển, trong một gia đình toàn kỹ sư. Ông là một nhà hóa học, kỹ sư, và nhà phát minh. Năm 1894, Nobel mua sắt thép và nhà máy Bofors, tại đó ông đã trở thành một nhà sản xuất vũ khí lớn. Nobel cũng phát minh ra ballistite. Sáng chế này là tiền thân của nhiều vật liệu nổ không khói dùng trong quân đội, đặc biệt là bột chất nổ không khói của người Anh. Do tuyên bố bằng sáng chế của mình, Nobel cuối cùng đã tham gia vào một vụ kiện vi phạm bằng sáng chế về chất nổ không khói. Ông tích lũy được một tài sản khổng lồ trong suốt cuộc đời của mình, hầu hết số tiền bắt nguồn từ 355 phát minh của ông, trong đó có phát minh thuốc nổ (dynamite) là nổi tiếng nhất. Khi người anh Ludvig của ông qua đời vào năm 1888, nhiều bài cáo phó đã nhầm lẫn và viết về cái chết của Alfred Nobel trong khi ông vẫn còn sống. Bản cáo phó trên một tờ báo Pháp viết "Le marchand de la mort est mort" (Nhà buôn cái chết đã chết) và tiếp tục viết, "Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ hết, đã qua đời ngày hôm qua." Bài viết này khiến Nobel bất ngờ và làm ông lo ngại về việc ông sẽ được ghi nhớ ra sao sau khi ông chết. Nó đã khiến ông muốn thay đổi di chúc của mình. Ngày 10 tháng 12 năm 1896, Alfred Nobel đã chết trong biệt thự của ông ở San Remo, Ý vì xuất huyết não, thọ 63 tuổi, 8 năm sau bản cáo phó nhầm lẫn trên. Trong bản di chúc gây bất ngờ lớn cho công chúng thời đó, Nobel đã ghi rằng tài sản của ông sẽ được sử dụng để tạo ra một loạt các giải thưởng cho những người trao "lợi ích lớn nhất cho nhân loại" trong vật lý, hóa học, hòa bình, sinh học, y học và văn học. Alfred đã dành 94% trị giá tài sản, 31 triệu SEK (khoảng 186 triệu USD, 150 triệu € tính theo thời giá 2008) và lấy lãi hàng năm để lập nên 5 giải Nobel cho "những ai, trong năm mà giải sẽ được trao, đã đưa đến những lợi ích tốt nhất cho con người.". Di chúc của ông ghi rõ: Do sự nghi ngờ về tính chân thực của bản di chúc này, đến ngày 26 tháng 4 năm 1897 bản di chúc mới được Tòa án Na Uy chấp nhận. Chấp hành di chúc của Nobel, Ragnar Sohlman và Rudolf Lilljequist đã lập ra Quỹ Nobel (Nobel Foundation) để quản lý tài sản của Nobel và tổ chức các giải thưởng của quỹ. Hướng dẫn của Nobel tạo ra một Ủy ban Nobel Na Uy trao giải Nobel Hòa bình, các thành viên của Ủy ban này đã được bổ nhiệm ngay sau khi di chúc đã được phê duyệt trong tháng 4 năm 1897. Không lâu sau đó, các tổ chức trao giải thưởng khác đã được chỉ định hoặc thành lập, bao gồm: Karolinska Institutet vào ngày 7 tháng 6, Học viện Thụy Điển vào ngày 9 tháng 6, và Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển vào ngày 11 tháng 6. Quỹ Nobel đã đạt được một thỏa thuận về tiêu chí trao các giải thưởng, và đến năm 1900, các tiêu chí trao giải của Quỹ Nobel đã được vua Oscar II ban hành chính thức. Năm 1905, các liên minh cá nhân giữa Thụy Điển và Na Uy đã bị giải tán. Sau đó, Ủy ban Nobel của Na Uy chịu trách nhiệm cho việc trao giải Nobel Hòa bình và các tổ chức Thụy Điển chịu trách nhiệm trao các giải còn lại. Quỹ Nobel. Quỹ Nobel được thành lập như một tổ chức tư nhân vào ngày 29 tháng 6 năm 1900. Chức năng của nó là quản lý tài chính và quản trị các giải thưởng Nobel. Tuân thủ theo di chúc của Nobel, nhiệm vụ chính của Quỹ là quản lý các tài sản Nobel để lại. Robert và Ludwig Nobel đã tham gia vào việc kinh doanh dầu ở Azerbaijan và theo nhà sử học Thụy Điển E. Bargengren, người truy cập các tài liệu lưu trữ của gia đình Nobel, "việc quyết định cho phép rút tiền của Alfred từ Baku đã trở thành yếu tố quyết định cho phép Quỹ Nobel được thành lập". Một nhiệm vụ quan trọng của Quỹ Nobel là quảng cáo các giải thưởng này trên bình diện quốc tế và giám sát các thủ tục liên quan đến giải thưởng. Quỹ không được tham gia vào quá trình lựa chọn người đoạt giải Nobel. Quỹ Nobel tương tự như một công ty đầu tư với việc đầu tư tiền Nobel để lại để tạo ra một nguồn tài chính vững chắc cho các giải thưởng và các hoạt động hành chính. Quỹ Nobel được miễn các loại thuế ở Thụy Điển (từ năm 1946) và các loại thuế đầu tư tại Hoa Kỳ (từ năm 1953). Từ những năm 1980, đầu tư của Quỹ đã có lợi nhuận nhiều hơn và tính đến 31 tháng 12 năm 2007, Quỹ Nobel kiểm soát các tài sản có giá trị lên tới 3.628 tỷ kronor Thụy Điển (khoảng 560 triệu USD). Theo luật, Quỹ bao gồm một hội đồng quản trị của năm công dân Thụy Điển hay Na Uy, với trụ sở tại Stockholm. Chủ tịch Hội đồng quản trị được Vua Thụy Điển bổ nhiệm, với bốn thành viên khác do ủy thác của các tổ chức trao giải thưởng bổ nhiệm. Một giám đốc điều hành được lựa chọn trong số các thành viên hội đồng quản trị, Phó giám đốc được Vua Thụy Điển bổ nhiệm, và hai phó chủ tịch được bổ nhiệm do người được ủy thác. Tuy nhiên, kể từ năm 1995, tất cả các thành viên của hội đồng quản trị được lựa chọn bởi các ủy viên quản trị; Giám đốc điều hành và các Phó Giám đốc chỉ định bởi chính hội đồng quản trị. Cũng như hội đồng quản trị, Quỹ Nobel được tạo thành từ các tổ chức trao giải (Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, Đại hội đồng Nobel tại Viện Karolinska, Viện Hàn lâm Thụy Điển, và các Ủy ban Nobel Na Uy), người được ủy thác của các tổ chức trên, và các kiểm toán viên. Huy chương Nobel. Huy chương Nobel làm bằng 150 gram vàng 18 ca-ra chạm hình Alfred Nobel. Mặt sau của tấm huy chương giải Nobel Vật lý và Hóa học là hình một phụ nữ để ngực trần. Một số tấm huy chương Nobel đã được chủ nhân mang ra bán đấu giá. Tấm huy chương Nobel Hòa bình được bán rẻ nhất trong đấu giá đó là của Aristide Briand, người Pháp đã có đóng góp lớn trong năm 1926 vào cuộc hoà hợp ngắn ngủi Đức – Pháp. Năm 2008 huy chương Nobel này được bảo tàng Ecomusée của Saint-Nazaire mua về với khoản tiền 12 nghìn euro. Khá hơn một chút, huy chương Nobel Hoà bình của người Anh William Randal Cremer vinh danh năm 1903 đã bán với giá 17.000 đô la tại một cuộc đấu giá năm 1985. Từ năm 2014, việc bán huy chương Nobel trở nên phổ thông. Cho tới giờ 8 huy chương đã được bán kể từ đó. Cũng về giải Nobel Hoà bình, tấm huy chương của người Bỉ Auguste Beernaert (được trao năm 1909) đã đạt tới giá 661 nghìn đô la và huy chương Nobel của Carlos Saavedra Lamas, người Argentina, nhận năm 1936, thậm chí đã tìm được người mua với giá kỷ lục 1,16 triệu đô la. Kỷ lục hiện nay là huy chương của James Watson, người Mỹ được nhận giải nobel Y học năm 1962 cho những phát hiện ra cấu trúc DNA. Ông đã bán được tấm huy chương Nobel của mình với giá 4,76 triệu đô la Mỹ vào tháng 12/2014. Trong khi đó chỉ trước đó có 20 tháng, những người được thừa kế của nhà khoa học Anh Francis Crick, nhận chung Nobel Y học với James Watson, lại chỉ bán được tấm huy chương với giá chưa bằng một nửa. Những tranh cãi và phê bình. Những người nhận gây tranh cãi. Trong những lời chỉ trích, Ủy ban Nobel đã bị cáo buộc là có những chương trình nghị sự mang tính chất chính trị hoặc bỏ qua những người xứng đáng. Họ cũng bị cáo buộc bởi chủ nghĩa trung dung châu Âu, nhất là trong Giải Nobel Văn học. Giải Nobel Hòa bình. Một trong những trường hợp bị chỉ trích nhiều nhất là giải thưởng của Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Những tranh cãi nãy đã dẫn đến sự ra đi của nhiều thành viên của Ủy ban Nobel Na Uy. Lê Đức Thọ đã từ chối nhận giải. Cả Lê Đức Thọ và Kissinger đều được nhận giải vì những nỗ lực chấm dứt chiến tranh giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ vào tháng 1 năm 1973. Tuy nhiên, khi giải thưởng của hai ông được tuyên bố, tất cả các bên liên quan đến chiến tranh Việt Nam đều bị kéo vào vòng chiến tranh. Nhiều ý kiến chỉ trích cho rằng Kissinger không phải là một người kiến tạo hòa bình mà là một người mở rộng cuộc chiến tranh. Yasser Arafat, Shimon Peres và Yitzhak Rabin được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1994 trong những nỗ lực kiến tạo hòa bình giữa Israel và Palestine. Tức thì sau khi giải thưởng được tuyên bố, một trong năm thành viên của Ủy ban Nobel Na Uy đã cáo buộc Arafat là một tên khủng bố và xin từ chức. Những mối nghi ngờ mới về Arafat đã được lan truyền trên các trang báo phổ biến. Một sự chỉ trích khác nhằm vào giải Nobel Hòa bình của Barack Obama vào năm 2009. Quyết định trao giải thưởng cho vị Tổng thống Mỹ da màu đầu tiên được đưa ra chỉ sau 7 ngày Obama nhậm chức, nhưng thực sự thì việc trao giải phải diễn ra 8 tháng sau đó. Obama tuyên bố ông không cảm thấy xứng đáng với giải thưởng này. Chuyện này đã gây ra hai luồng ý kiến khác nhau: một số người cho rằng Obama xứng đáng, số khác thì cho rằng ông chưa đạt được thành tựu nào để xứng đáng với điều đó như là một sự tưởng thưởng. Giải Nobel của ông, như của Jimmy Carter và Al Gore đã thúc đẩy sự những tố cáo của những người cánh tả. Giải Nobel Văn học. Giải thưởng năm 2004 được trao cho Elfriede Jelinek và nó đã gây ra một sự phản đối từ một thành viên của Viện hàn lâm Thụy Điển, Knut Ahnlund. Ông này quyết định từ chức, viện cớ rằng những ngôn từ của Jelinek là "một mớ văn bản được xúc vào mà không có các cấu trúc nghệ thuật". Giải thưởng năm 2009 dành cho Herta Müller cũng gây ra sự chỉ trích. Theo The Washington Post, những nhà phê bình và giáo sư người Mỹ đã trở nên ngu dốt vì tác phẩm của bà. Nó làm cho những nhà phê bình đó giải thưởng mang tính chất chủ nghĩa trung dung châu Âu. Giải Nobel dành cho khoa học. Năm 1948, nhà thần kinh học António Egas Moniz nhận Giải Nobel Sinh lý và Y khoa cho những phát triển của ông cho phẫu thuật tủy não. Năm trước, Walter Jackson Freeman II đã phát triển lĩnh vực này bằng một giải pháp nhanh hơn và dễ dàng hơn. Một phần của vấn đề là do khi công bố rộng rãi quy trình ban đầu, nó đã được mà không có sự cân nhắc xứng đáng hay sự quan tâm của đạo đức y học hiện đại. Có một sự thực được chứng thực bởi các ấn phẩm có ảnh hưởng như "The New England Journal of Medicine" rằng phẫu thuật tủy não đã được phổ biến khi có đến 5000 ca phẫu thuật trong vòng 3 năm và các ca này đều sử dụng phương pháp của Moniz. Những thành tựu đã bị bỏ qua. Giải Nobel Hòa bình. Ủy ban Nobel Na Uy đã xác nhận rằng Mahatma Gandhi xứng đáng là người được nhận giải thưởng Nobel Hòa bình trong các năm 1937–1939 và 1947. Sự xác nhận cuối cùng chỉ diễn ra vài ngày trước khi người anh hùng dân tộc của Ấn Độ bị ám sát vào ngày 30 tháng 1 năm 1948. Sau đó, Ủy ban trên đã xác nhận Gandhi đã không được nhận giải thưởng. Geir Lundestad, thư ký của Ủy ban vào năm 2006, đã nói rằng: Năm 1948, khi Gandhi qua đời, Ủy ban Nobel Na Uy đã từ chối ý định trao giải với ý rằng "không ứng viên nào xứng đáng" trong năm đó. Sau đó, khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 được trao Giải Nobel Hòa bình vào năm 1989, chủ tịch của ủy ban đã nói rằng "đó là một sự tri ân dành cho Mahatma Gandhi". Ngoài ra, có rất nhiều trường hợp khác đã bị bỏ qua. Theo Foreign Policy, những trường hợp như vậy gồm Eleanor Roosevelt, Václav Havel, Ken Saro-Wiwa, Sari Nusseibeh và Corazon Aquino, những người mà "không bao giờ được trao giải, nhưng họ xứng đáng". Thống kê. Malala Yousafzai; ở tuổi 17, nhận Giải Nobel Hòa bình (2014). John B. Goodenough; ở tuổi 97, nhận Giải Nobel Hóa học (2019).
95
95_nobel_trao_gii_ot
[ "nobel", "trao", "gii", "ot", "hc", "wolf", "khoa", "uy", "goncourt", "huy" ]
[ "Đây là danh sách người đoạt giải Nobel Kinh tế.\nThống kê theo quốc gia.\nCho đến năm 2008 thì tất cả các nhà kinh tế được trao giải Nobel đều là nam giới. Phần lớn người đoạt giải đến từ Mỹ, tiếp theo là Anh, Na Uy và Thụy Điển. Với người đến từ hai quốc gia thì mỗi quốc gia được tính nửa điểm.", "Hội đồng Nobel Hóa học là một Hội đồng Nobel chịu trách nhiệm đề xuất cá nhân, tập thể cho Giải Nobel Hóa học. Hội đồng Nobel Hóa học được bổ nhiệm bởi Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển. Thành viên hội đồng thường là các giáo sư của Viện, mặc dù về nguyên tắc Viện có thể bổ nhiệm bất kỳ ai vào hội đồng.\nHội đồng chỉ chịu trách nhiệm đề xuất và không có quyền ra quyết định cuối cùng về việc trao giải, quyền này thuộc về Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điểm.\nThư ký.\nThư ký được tham dự các cuộc họp, nhưng không có quyền bỏ phiếu trừ khi thư ký đó cũng là một thành viên của Hội đồng. Tính đến năm 1973, Hội đồng Nobel Vật lý và Hội đồng Nobel Hóa học có chung một thư ký. ", "Giải thưởng Nobel, hay Giải Nobel (, , ), là một tập các giải thưởng quốc tế được tổ chức trao thưởng hằng năm kể từ năm 1901 cho những cá nhân đạt thành tựu trong lĩnh vực vật lý, hoá học, y học, văn học, kinh tế và hòa bình; đặc biệt là giải hoà bình có thể được trao cho tổ chức hay cho cá nhân. Vào năm 1968, Ngân hàng Thụy Điển đưa thêm vào một giải về lĩnh vực khoa học kinh tế, theo di chúc của nhà phát minh người Thụy Điển Alfred Nobel năm 1895. Từ năm 1901 đến năm 2020, các giải thưởng Nobel và giải thưởng về Khoa học Kinh tế được trao tặng 603 lần cho 962 người và tổ chức. Do một số cá nhân và tổ chức nhận giải Nobel nhiều hơn một lần, tổng cộng có 962 cá nhân (905 nam và 57 nữ) và 25 tổ chức đã nhận giải này.\nKết quả đoạt giải được công bố hằng năm vào tháng 10 và được trao (bao gồm tiền thưởng, một huy chương vàng và một giấy chứng nhận) vào ngày 10 tháng 12, ngày kỷ niệm ngày mất của Nobel. Giải Nobel được thừa nhận rộng rãi như là giải thưởng danh giá nhất một người có thể nhận được trong lĩnh vực được trao.\nGiải Nobel Hòa bình được trao thưởng ở Oslo, Na Uy, trong khi các giải khác được trao ở Stockholm, Thụy Điển.\nViện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển trao giải Nobel Vật lý, giải Nobel Hóa học và giải Nobel Kinh tế; Hội Nobel ở Karolinska Institutet trao giải Nobel Sinh học và Y học; Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học; và giải thưởng Nobel Hòa bình được Ủy ban Nobel Na Uy (gồm 5 thành viên do Quốc hội Na Uy bầu ra ) trao tặng thay vì một tổ chức của Thụy Điển.\nCác giải Nobel không bắt buộc phải được trao hàng năm, nhưng ít nhất phải được trao một lần cho mỗi 5 năm. Số tiền của giải thưởng mỗi năm một khác. Mỗi người đoạt giải nhận được một huy chương vàng, một chứng chỉ và một khoản tiền được Quỹ Nobel quyết định. Vào thời điểm năm 2020, mỗi giải thưởng trị giá 10.000.000 SEK (1,144 triệu USD, hoặc 968.000 €). Giải khi đã trao thì không bao giờ bị tước. Giải chỉ trao cho những người còn sống, không truy tặng. Tuy nhiên, nếu người đoạt giải mất sau khi công bố giải và trước khi nhận giải, giải vẫn sẽ được trao. Mặc dù tỷ lệ số người nhận trên mỗi giải có thay đổi, Giải Nobel được trao cho tối đa 3 người mỗi năm.\nLịch sử.\nAlfred Nobel sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 ở Stockholm, Thụy Điển, trong một gia đình toàn kỹ sư. Ông là một nhà hóa học, kỹ sư, và nhà phát minh. Năm 1894, Nobel mua sắt thép và nhà máy Bofors, tại đó ông đã trở thành một nhà sản xuất vũ khí lớn. Nobel cũng phát minh ra ballistite. Sáng chế này là tiền thân của nhiều vật liệu nổ không khói dùng trong quân đội, đặc biệt là bột chất nổ không khói của người Anh. Do tuyên bố bằng sáng chế của mình, Nobel cuối cùng đã tham gia vào một vụ kiện vi phạm bằng sáng chế về chất nổ không khói. Ông tích lũy được một tài sản khổng lồ trong suốt cuộc đời của mình, hầu hết số tiền bắt nguồn từ 355 phát minh của ông, trong đó có phát minh thuốc nổ (dynamite) là nổi tiếng nhất.\nKhi người anh Ludvig của ông qua đời vào năm 1888, nhiều bài cáo phó đã nhầm lẫn và viết về cái chết của Alfred Nobel trong khi ông vẫn còn sống. Bản cáo phó trên một tờ báo Pháp viết \"Le marchand de la mort est mort\" (Nhà buôn cái chết đã chết) và tiếp tục viết, \"Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ hết, đã qua đời ngày hôm qua.\" Bài viết này khiến Nobel bất ngờ và làm ông lo ngại về việc ông sẽ được ghi nhớ ra sao sau khi ông chết. Nó đã khiến ông muốn thay đổi di chúc của mình.\nNgày 10 tháng 12 năm 1896, Alfred Nobel đã chết trong biệt thự của ông ở San Remo, Ý vì xuất huyết não, thọ 63 tuổi, 8 năm sau bản cáo phó nhầm lẫn trên. Trong bản di chúc gây bất ngờ lớn cho công chúng thời đó, Nobel đã ghi rằng tài sản của ông sẽ được sử dụng để tạo ra một loạt các giải thưởng cho những người trao \"lợi ích lớn nhất cho nhân loại\" trong vật lý, hóa học, hòa bình, sinh học, y học và văn học. Alfred đã dành 94% trị giá tài sản, 31 triệu SEK (khoảng 186 triệu USD, 150 triệu € tính theo thời giá 2008) và lấy lãi hàng năm để lập nên 5 giải Nobel cho \"những ai, trong năm mà giải sẽ được trao, đã đưa đến những lợi ích tốt nhất cho con người.\".\nDi chúc của ông ghi rõ:\nDo sự nghi ngờ về tính chân thực của bản di chúc này, đến ngày 26 tháng 4 năm 1897 bản di chúc mới được Tòa án Na Uy chấp nhận. Chấp hành di chúc của Nobel, Ragnar Sohlman và Rudolf Lilljequist đã lập ra Quỹ Nobel (Nobel Foundation) để quản lý tài sản của Nobel và tổ chức các giải thưởng của quỹ.\nHướng dẫn của Nobel tạo ra một Ủy ban Nobel Na Uy trao giải Nobel Hòa bình, các thành viên của Ủy ban này đã được bổ nhiệm ngay sau khi di chúc đã được phê duyệt trong tháng 4 năm 1897. Không lâu sau đó, các tổ chức trao giải thưởng khác đã được chỉ định hoặc thành lập, bao gồm: Karolinska Institutet vào ngày 7 tháng 6, Học viện Thụy Điển vào ngày 9 tháng 6, và Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển vào ngày 11 tháng 6. Quỹ Nobel đã đạt được một thỏa thuận về tiêu chí trao các giải thưởng, và đến năm 1900, các tiêu chí trao giải của Quỹ Nobel đã được vua Oscar II ban hành chính thức. Năm 1905, các liên minh cá nhân giữa Thụy Điển và Na Uy đã bị giải tán. Sau đó, Ủy ban Nobel của Na Uy chịu trách nhiệm cho việc trao giải Nobel Hòa bình và các tổ chức Thụy Điển chịu trách nhiệm trao các giải còn lại.\nQuỹ Nobel.\nQuỹ Nobel được thành lập như một tổ chức tư nhân vào ngày 29 tháng 6 năm 1900. Chức năng của nó là quản lý tài chính và quản trị các giải thưởng Nobel. Tuân thủ theo di chúc của Nobel, nhiệm vụ chính của Quỹ là quản lý các tài sản Nobel để lại. Robert và Ludwig Nobel đã tham gia vào việc kinh doanh dầu ở Azerbaijan và theo nhà sử học Thụy Điển E. Bargengren, người truy cập các tài liệu lưu trữ của gia đình Nobel, \"việc quyết định cho phép rút tiền của Alfred từ Baku đã trở thành yếu tố quyết định cho phép Quỹ Nobel được thành lập\". Một nhiệm vụ quan trọng của Quỹ Nobel là quảng cáo các giải thưởng này trên bình diện quốc tế và giám sát các thủ tục liên quan đến giải thưởng. Quỹ không được tham gia vào quá trình lựa chọn người đoạt giải Nobel. Quỹ Nobel tương tự như một công ty đầu tư với việc đầu tư tiền Nobel để lại để tạo ra một nguồn tài chính vững chắc cho các giải thưởng và các hoạt động hành chính. Quỹ Nobel được miễn các loại thuế ở Thụy Điển (từ năm 1946) và các loại thuế đầu tư tại Hoa Kỳ (từ năm 1953). Từ những năm 1980, đầu tư của Quỹ đã có lợi nhuận nhiều hơn và tính đến 31 tháng 12 năm 2007, Quỹ Nobel kiểm soát các tài sản có giá trị lên tới 3.628 tỷ kronor Thụy Điển (khoảng 560 triệu USD).\nTheo luật, Quỹ bao gồm một hội đồng quản trị của năm công dân Thụy Điển hay Na Uy, với trụ sở tại Stockholm. Chủ tịch Hội đồng quản trị được Vua Thụy Điển bổ nhiệm, với bốn thành viên khác do ủy thác của các tổ chức trao giải thưởng bổ nhiệm. Một giám đốc điều hành được lựa chọn trong số các thành viên hội đồng quản trị, Phó giám đốc được Vua Thụy Điển bổ nhiệm, và hai phó chủ tịch được bổ nhiệm do người được ủy thác. Tuy nhiên, kể từ năm 1995, tất cả các thành viên của hội đồng quản trị được lựa chọn bởi các ủy viên quản trị; Giám đốc điều hành và các Phó Giám đốc chỉ định bởi chính hội đồng quản trị. Cũng như hội đồng quản trị, Quỹ Nobel được tạo thành từ các tổ chức trao giải (Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, Đại hội đồng Nobel tại Viện Karolinska, Viện Hàn lâm Thụy Điển, và các Ủy ban Nobel Na Uy), người được ủy thác của các tổ chức trên, và các kiểm toán viên.\nHuy chương Nobel.\nHuy chương Nobel làm bằng 150 gram vàng 18 ca-ra chạm hình Alfred Nobel. Mặt sau của tấm huy chương giải Nobel Vật lý và Hóa học là hình một phụ nữ để ngực trần.\nMột số tấm huy chương Nobel đã được chủ nhân mang ra bán đấu giá. Tấm huy chương Nobel Hòa bình được bán rẻ nhất trong đấu giá đó là của Aristide Briand, người Pháp đã có đóng góp lớn trong năm 1926 vào cuộc hoà hợp ngắn ngủi Đức – Pháp. Năm 2008 huy chương Nobel này được bảo tàng Ecomusée của Saint-Nazaire mua về với khoản tiền 12 nghìn euro. Khá hơn một chút, huy chương Nobel Hoà bình của người Anh William Randal Cremer vinh danh năm 1903 đã bán với giá 17.000 đô la tại một cuộc đấu giá năm 1985.\nTừ năm 2014, việc bán huy chương Nobel trở nên phổ thông. Cho tới giờ 8 huy chương đã được bán kể từ đó. Cũng về giải Nobel Hoà bình, tấm huy chương của người Bỉ Auguste Beernaert (được trao năm 1909) đã đạt tới giá 661 nghìn đô la và huy chương Nobel của Carlos Saavedra Lamas, người Argentina, nhận năm 1936, thậm chí đã tìm được người mua với giá kỷ lục 1,16 triệu đô la.\nKỷ lục hiện nay là huy chương của James Watson, người Mỹ được nhận giải nobel Y học năm 1962 cho những phát hiện ra cấu trúc DNA. Ông đã bán được tấm huy chương Nobel của mình với giá 4,76 triệu đô la Mỹ vào tháng 12/2014. Trong khi đó chỉ trước đó có 20 tháng, những người được thừa kế của nhà khoa học Anh Francis Crick, nhận chung Nobel Y học với James Watson, lại chỉ bán được tấm huy chương với giá chưa bằng một nửa.\nNhững tranh cãi và phê bình.\nNhững người nhận gây tranh cãi.\nTrong những lời chỉ trích, Ủy ban Nobel đã bị cáo buộc là có những chương trình nghị sự mang tính chất chính trị hoặc bỏ qua những người xứng đáng. Họ cũng bị cáo buộc bởi chủ nghĩa trung dung châu Âu, nhất là trong Giải Nobel Văn học.\nGiải Nobel Hòa bình.\nMột trong những trường hợp bị chỉ trích nhiều nhất là giải thưởng của Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Những tranh cãi nãy đã dẫn đến sự ra đi của nhiều thành viên của Ủy ban Nobel Na Uy. Lê Đức Thọ đã từ chối nhận giải. Cả Lê Đức Thọ và Kissinger đều được nhận giải vì những nỗ lực chấm dứt chiến tranh giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ vào tháng 1 năm 1973. Tuy nhiên, khi giải thưởng của hai ông được tuyên bố, tất cả các bên liên quan đến chiến tranh Việt Nam đều bị kéo vào vòng chiến tranh. Nhiều ý kiến chỉ trích cho rằng Kissinger không phải là một người kiến tạo hòa bình mà là một người mở rộng cuộc chiến tranh.\nYasser Arafat, Shimon Peres và Yitzhak Rabin được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1994 trong những nỗ lực kiến tạo hòa bình giữa Israel và Palestine. Tức thì sau khi giải thưởng được tuyên bố, một trong năm thành viên của Ủy ban Nobel Na Uy đã cáo buộc Arafat là một tên khủng bố và xin từ chức. Những mối nghi ngờ mới về Arafat đã được lan truyền trên các trang báo phổ biến.\nMột sự chỉ trích khác nhằm vào giải Nobel Hòa bình của Barack Obama vào năm 2009. Quyết định trao giải thưởng cho vị Tổng thống Mỹ da màu đầu tiên được đưa ra chỉ sau 7 ngày Obama nhậm chức, nhưng thực sự thì việc trao giải phải diễn ra 8 tháng sau đó. Obama tuyên bố ông không cảm thấy xứng đáng với giải thưởng này. Chuyện này đã gây ra hai luồng ý kiến khác nhau: một số người cho rằng Obama xứng đáng, số khác thì cho rằng ông chưa đạt được thành tựu nào để xứng đáng với điều đó như là một sự tưởng thưởng. Giải Nobel của ông, như của Jimmy Carter và Al Gore đã thúc đẩy sự những tố cáo của những người cánh tả.\nGiải Nobel Văn học.\nGiải thưởng năm 2004 được trao cho Elfriede Jelinek và nó đã gây ra một sự phản đối từ một thành viên của Viện hàn lâm Thụy Điển, Knut Ahnlund. Ông này quyết định từ chức, viện cớ rằng những ngôn từ của Jelinek là \"một mớ văn bản được xúc vào mà không có các cấu trúc nghệ thuật\". Giải thưởng năm 2009 dành cho Herta Müller cũng gây ra sự chỉ trích. Theo The Washington Post, những nhà phê bình và giáo sư người Mỹ đã trở nên ngu dốt vì tác phẩm của bà. Nó làm cho những nhà phê bình đó giải thưởng mang tính chất chủ nghĩa trung dung châu Âu.\nGiải Nobel dành cho khoa học.\nNăm 1948, nhà thần kinh học António Egas Moniz nhận Giải Nobel Sinh lý và Y khoa cho những phát triển của ông cho phẫu thuật tủy não. Năm trước, Walter Jackson Freeman II đã phát triển lĩnh vực này bằng một giải pháp nhanh hơn và dễ dàng hơn. Một phần của vấn đề là do khi công bố rộng rãi quy trình ban đầu, nó đã được mà không có sự cân nhắc xứng đáng hay sự quan tâm của đạo đức y học hiện đại. Có một sự thực được chứng thực bởi các ấn phẩm có ảnh hưởng như \"The New England Journal of Medicine\" rằng phẫu thuật tủy não đã được phổ biến khi có đến 5000 ca phẫu thuật trong vòng 3 năm và các ca này đều sử dụng phương pháp của Moniz.\nNhững thành tựu đã bị bỏ qua.\nGiải Nobel Hòa bình.\nỦy ban Nobel Na Uy đã xác nhận rằng Mahatma Gandhi xứng đáng là người được nhận giải thưởng Nobel Hòa bình trong các năm 1937–1939 và 1947. Sự xác nhận cuối cùng chỉ diễn ra vài ngày trước khi người anh hùng dân tộc của Ấn Độ bị ám sát vào ngày 30 tháng 1 năm 1948. Sau đó, Ủy ban trên đã xác nhận Gandhi đã không được nhận giải thưởng. Geir Lundestad, thư ký của Ủy ban vào năm 2006, đã nói rằng:\nNăm 1948, khi Gandhi qua đời, Ủy ban Nobel Na Uy đã từ chối ý định trao giải với ý rằng \"không ứng viên nào xứng đáng\" trong năm đó. Sau đó, khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 được trao Giải Nobel Hòa bình vào năm 1989, chủ tịch của ủy ban đã nói rằng \"đó là một sự tri ân dành cho Mahatma Gandhi\".\nNgoài ra, có rất nhiều trường hợp khác đã bị bỏ qua. Theo Foreign Policy, những trường hợp như vậy gồm Eleanor Roosevelt, Václav Havel, Ken Saro-Wiwa, Sari Nusseibeh và Corazon Aquino, những người mà \"không bao giờ được trao giải, nhưng họ xứng đáng\".\nThống kê.\nMalala Yousafzai; ở tuổi 17, nhận Giải Nobel Hòa bình (2014).\nJohn B. Goodenough; ở tuổi 97, nhận Giải Nobel Hóa học (2019)." ]
nobel - trao - gii - ot - hc - wolf - khoa - uy - goncourt - huy
1
true
Giải Nobel (, ) là giải thưởng quốc tế do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, Viện Hàn lâm Thụy Điển, Học viện Karolinska và Ủy ban Nobel Na Uy trao hằng năm cho các cá nhân và tổ chức có đóng góp tiêu biểu trong các lĩnh vực hoá học, vật lý, văn học, hoà bình, và sinh lý học hoặc y học. Giải thưởng này được thành lập theo bản di chúc năm 1895 của Alfred Nobel; di chúc cũng ghi rõ giải sẽ do Quỹ Nobel quản lý. Năm 1968, Ngân hàng Trung ương Thụy Điển thành lập thêm Giải thưởng của Ngân hàng Thụy Điển cho khoa học kinh tế để tưởng nhớ Nobel, hay Giải Nobel Kinh tế, để vinh danh những đóng góp tiêu biểu trong lĩnh vực này. Mỗi người đoạt giải sẽ được nhận một huy chương vàng, một bằng chứng nhận cùng một khoản tiền thưởng (mỗi năm, Quỹ Nobel sẽ quyết định số tiền này). Giải thưởng. Mỗi giải được trao bởi một tổ chức riêng biệt. Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển trao giải Nobel Vật lý, Hoá học và Kinh tế; Học viện Karolinska trao giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học; Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học; Ủy ban Nobel Na Uy trao giải Nobel Hoà bình. Mỗi người đoạt giải được nhận một huy chương, một bằng chứng nhận cùng một khoản tiền thưởng (khác nhau tùy theo năm). Năm 1901, những người đoạt giải Nobel đầu tiên được nhận 150.782 krona, tương đương với 8.763.633 krona theo thời giá tháng 12 năm 2021. Năm 2022, người nhận giải được trao phần thưởng tiền mặt trị giá 10 triệu krona. Lễ trao giải diễn ra tại Stockholm, Thụy Điển vào ngày 10 tháng 12 hằng năm, để tưởng niệm ngày mất của Nobel. Trong những năm không trao giải Nobel do có sự kiện ngoài hoặc thiếu đề cử, tiền thưởng của giải sẽ được gửi trả lại về quỹ uỷ quyền cho giải đó. Từ năm 1940 đến 1942, không có giải Nobel nào được trao do Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Những người đoạt giải. Từ năm 1901 đến năm 2022, các giải Nobel cùng với giải Nobel Kinh tế đã được trao 615 lần cho 989 cá nhân và tổ chức. Vì một số cá nhân và tổ chức đoạt giải Nobel nhiều lần, nên tổng cộng có 954 cá nhân và 27 tổ chức nhận giải. Có sáu người không được chính quyền sở tại cho phép nhận giải Nobel. Chính quyền Adolf Hitler cấm bốn người Đức, Richard Kuhn (Nobel Hoá học 1938), Adolf Butenandt (Nobel Hoá học 1939), Gerhard Domagk (Nobel Sinh lý học hoặc Y học 1939), Carl von Ossietzky (Nobel Hoà bình 1935) nhận giải thưởng Nobel của mình. Chính phủ Trung Quốc không cho Lưu Hiểu Ba đến nhận giải Nobel Hoà bình 2010, và chính quyền Liên Xô gây áp lực buộc Boris Pasternak từ chối giải Nobel Văn học 1958. Lưu Hiểu Ba, Carl von Ossietzky và Aung San Suu Kyi đều được trao giải Nobel khi đang chịu án tù hoặc bị giam giữ. Có hai người đoạt giải Nobel, Jean-Paul Sartre (Nobel Văn học 1964) và Lê Đức Thọ (Nobel Hoà bình 1973), quyết định từ chối giải thưởng; Sartre khước từ giải Nobel cũng như mọi vinh dự chính thức khác, còn Lê Đức Thọ khước từ giải Nobel do tình hình Việt Nam thời điểm đó. Có 7 cá nhân và tổ chức đoạt giải Nobel nhiều lần. Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế được nhận giải Nobel Hoà bình ba lần, nhiều hơn bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào khác. Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn nhận giải Nobel Hoà bình hai lần, John Bardeen nhận giải Nobel Vật lý hai lần, còn Frederick Sanger và Karl Barry Sharpless nhận giải Nobel Hoá học hai lần. Có hai người đã được trao tặng giải Nobel hai lần ở hai lĩnh vực khác nhau: Marie Curie (Vật lý và Hoá học) và Linus Pauling (Hoá học và Hoà bình). Trong số 954 cá nhân nhận giải, có 60 người là nữ; người phụ nữ đầu tiên được trao giải Nobel là Marie Curie (Nobel Vật lý năm 1903). Với giải Nobel thứ hai về Hoá học năm 1911, bà trở thành người đầu tiên được trao hai giải Nobel.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Vật chất cùng với không gian và thời gian là những vấn đề cơ bản mà tôn giáo, triết học và vật lý học nghiên cứu. Vật lý học và các ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu cấu tạo cũng như những thuộc tính cụ thể của các dạng thực thể vật chất khác nhau trong thế giới tự nhiên. Các thực thể vật chất có thể ở dạng từ trường (cấu tạo bởi các hạt trường, thường không có khối lượng nghỉ, nhưng vẫn có khối lượng toàn phần), hoặc dạng chất (cấu tạo bởi các hạt chất, thường có khối lượng nghỉ) và chúng đều chiếm không gian. Với định nghĩa trên, các thực thể vật chất được hiểu khá rộng rãi, như một vật vĩ mô mà cũng có thể như bức xạ hoặc những hạt cơ bản cụ thể và ngay cả sự tác động qua lại của chúng. Đôi khi người ta nói đến thuật ngữ phản vật chất trong vật lý. Đó thực ra vẫn là những dạng thức vật chất theo định nghĩa trên, nhưng là một dạng vật chất đặc biệt ít gặp trong tự nhiên. Mọi thực thể vật chất đều tương tác lẫn nhau và những tương tác này cũng lại thông qua những dạng vật chất (cụ thể là những hạt tương tác trong các trường lực, ví dụ hạt photon trong trường điện từ). Các tính chất cơ bản. Khối lượng. Khối lượng là một thuộc tính cơ bản của các thực thể vật chất trong tự nhiên. Quán tính. Theo lý thuyết của Isaac Newton mọi vật có khối lượng đều có quán tính (định luật 1 và 2 của Newton, xem thêm trang cơ học cổ điển), do đó cũng có thể nói mọi dạng thực thể của vật chất trong tự nhiên đều có quán tính. Năng lượng. Năng lượng là một thuộc tính cơ bản của tất cả các thực thể vật chất trong tự nhiên. Theo lý thuyết của Albert Einstein mọi vật có khối lượng đều có năng lượng (công thức "E"="mc"², xem thêm trang lý thuyết tương đối), do đó cũng có thể nói mọi dạng thực thể của vật chất trong tự nhiên đều có năng lượng. Công thức "ΔE"="Δmc"² không nói rằng khối lượng và năng lượng chuyển hóa lẫn nhau. Năng lượng và khối lượng đều là những thuộc tính của các thực thể vật chất trong tự nhiên. Không có năng lượng chuyển hóa thành khối lượng hay ngược lại. Công thức Einstein chỉ cho thấy rằng nếu một vật có khối lượng là "m" thì nó có năng lượng tương ứng là "E"="mc"². Trong phản ứng hạt nhân, nếu khối lượng thay đổi một lượng là "Δm" thì năng lượng cũng thay đổi một lượng tương ứng là "ΔE". Phần năng lượng thay đổi "ΔE" có thể là tỏa ra hay thu vào. Nếu là tỏa ra thì tồn tại dưới dạng năng lượng nhiệt và bức xạ ra các hạt cơ bản. Lưỡng tính sóng-hạt. Lưỡng tính sóng-hạt là một đặc tính cơ bản của vật chất, thể hiện ở điểm mọi vật chất di chuyển trong không gian đều có tính chất như là sự lan truyền của sóng tương ứng với vật chất đó, đồng thời cũng có tính chất của các hạt chuyển động. Cụ thể, nếu một vật chất chuyển động giống như một hạt với động lượng "p" thì sự di chuyển của nó cũng giống như sự lan truyền của một sóng với bước sóng "λ" là: với: Các hạt có động lượng càng nhỏ thì tính sóng thể hiện càng mạnh. Ví dụ electron luôn thể hiện tính chất sóng khi nằm trong nguyên tử, và cũng bộc lộ tính chất di chuyển định hướng như các hạt khi nhận năng lượng cao trong máy gia tốc. Ánh sáng có động lượng nhỏ và thể hiện rõ tính sóng như nhiều bức xạ điện từ trong nhiều thí nghiệm, nhưng đôi lúc cũng thể hiện tính chất hạt như trong hiệu ứng quang điện. Tác động lên không thời gian. Vật chất, theo thuyết tương đối rộng, có quan hệ hữu cơ - biện chứng với không-thời gian. Cụ thể sự có mặt của vật chất gây ra độ cong của không thời gian và độ cong của không thời gian ảnh hưởng đến chuyển động tự do của vật chất. Không thời gian cong có những tính chất hình học đặc biệt được nghiên cứu trong hình học phi Euclid. Trong lý thuyết tương đối rộng, lực hấp dẫn được thay bằng hình dáng của không thời gian. Các hiện tượng mà cơ học cổ điển mô tả là tác động của lực hấp dẫn (như chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời) thì lại được xem xét như là chuyển động theo quán tính trong không thời gian cong. Một luận thuyết cho rằng vật chất là do các nguyên tử chịu tác động của sự rung động (vibration), hay chuyển động (motion), ở tần số hay vận tốc cao sinh từ trường (electro-magnetism) gây kết dính mà thành. Tất cả các dạng chất rắn, chất lỏng, chất khí; hay các dạng năng lượng như âm thanh, ánh sáng; cũng đều được tạo ra bằng các sóng rung động như thế. Albert Einstein đã phát biểu rằng: "Everything in life is vibration" (mọi thứ trên đời đều là rung động). Vật chất tối. Vật chất tối là phần vật chất mà con người chưa thể quan sát, cân đo được mà chỉ biết đến nó thông qua tác động tới những vật thể khác. Có những tính toán cho thấy vật chất tối chiếm phần lớn khối lượng của các thực thể vật chất trong vũ trụ. Phản vật chất. Phản vật chất cũng là vật chất, nhưng cấu thành bởi các phản hạt... Năm 1928, trong khi nghên cứu kết hợp thuyết lượng tử vào trong thuyết tương đối rộng của Albert Einstein, Paul Dirac đã phát hiện ra rằng các tính toán không phản đối chuyện tồn tại các hạt cơ bản đặc biệt, có hầu hết mọi đặc tính cơ bản như các hạt cơ bản thông thường, nhưng mang điện tích trái dấu. Từ đó hình thành nên giả thiết tồn tại các hạt phản vật chất. Theo tính toán, nếu một hạt phản vật chất gặp (tương tác) hạt vật chất tương ứng, chúng sẽ nổ tung và tỏa ra 1 năng lượng rất lớn, theo phương trình Einstein.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Tiên đề, định đề là một phát biểu được coi là đúng, để làm tiền đề hoặc điểm xuất phát cho các suy luận và lập luận tiếp theo. Các từ gốc tiếng Latin của nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp "axíōma" () 'điều đó được cho là xứng đáng hoặc phù hợp' hoặc 'tự coi mình là hiển nhiên.' Thuật ngữ này có sự khác biệt nhỏ về định nghĩa khi được sử dụng trong bối cảnh của các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Như được định nghĩa trong triết học cổ điển, tiên đề là một tuyên bố hiển nhiên hoặc có cơ sở rõ ràng, đến mức nó được chấp nhận mà không cần tranh cãi hay thắc mắc. Như được sử dụng trong lôgic học hiện đại, tiên đề là tiền đề hoặc điểm khởi đầu cho suy luận. Khi được sử dụng trong toán học, thuật ngữ "tiên đề" được sử dụng theo hai nghĩa liên quan nhưng có thể phân biệt được: "tiên đề lôgic" và "tiên đề phi lôgic". Tiên đề logic thường là những phát biểu được coi là đúng trong hệ thống logic mà chúng xác định và thường được thể hiện dưới dạng ký hiệu (ví dụ, ("A" và "B") suy ra "A"), trong khi tiên đề phi logic (ví dụ: ) thực sự là những khẳng định cơ bản về các yếu tố thuộc miền của một lý thuyết toán học cụ thể (chẳng hạn như số học). Khi được sử dụng theo nghĩa sau, "tiên đề" và "định đề" có thể được sử dụng thay thế cho nhau. Trong hầu hết các trường hợp, tiên đề phi lôgic chỉ đơn giản là một biểu thức lôgic hình thức được sử dụng trong phép suy diễn để xây dựng lý thuyết toán học và có thể có hoặc không hiển nhiên về bản chất (ví dụ, tiên đề song song trong hình học Euclid). Tiên đề hóa một hệ thống tri thức là chứng tỏ rằng các tuyên bố của nó có thể được rút ra từ một tập hợp các câu nhỏ, dễ hiểu (các tiên đề), và có thể có nhiều cách để tiên đề hóa một miền toán học nhất định. Bất kỳ tiên đề nào cũng là một phát biểu đóng vai trò là điểm khởi đầu mà từ đó các phát biểu khác được suy ra một cách logic. Liệu nó có ý nghĩa hay không (và nếu đúng thì nó có nghĩa gì) để một tiên đề là "đúng" là một chủ đề tranh luận trong triết học toán học. Phát triển trong lịch sử. Hy Lạp cổ đại. Phương pháp suy diễn logic theo đó kết luận sau (kiến thức mới) từ cơ sở (kiến thức cũ) thông qua việc áp dụng các lý luận hợp lý (tam đoạn luận, các quy tắc suy luận) được người Hy Lạp cổ đại phát triển, và điều này đã trở thành nguyên tắc cốt lõi của toán học hiện đại. Không có gì có thể được suy luận nếu không có gì được giả định. Do đó, tiên đề và định đề là những giả định cơ bản làm nền tảng cho một khối kiến thức suy diễn nhất định. Chúng được chấp nhận mà không cần chứng minh. Tất cả các khẳng định khác (định lý, trong trường hợp toán học) phải được chứng minh với sự hỗ trợ của các giả thiết cơ bản này. Tuy nhiên, cách giải thích kiến thức toán học đã thay đổi từ thời cổ đại sang hiện đại, và do đó các thuật ngữ "tiên đề" và "định đề" có một ý nghĩa hơi khác đối với nhà toán học ngày nay, so với những ý nghĩa của nó đối với Aristotle và Euclid. Người Hy Lạp cổ đại coi hình học chỉ là một trong một số ngành khoa học, và coi các định lý của hình học ngang hàng với các sự kiện khoa học. Do đó, họ đã phát triển và sử dụng phương pháp suy luận logic như một phương tiện tránh sai sót, cũng như để cấu trúc và truyền đạt kiến thức. Phân tích hậu nghiệm của Aristotle là một sự trình bày rõ ràng của quan điểm cổ điển. Sự cần thiết của tiên đề. Tiên đề là điều kiện cần thiết để xây dựng bất cứ một lý thuyết nào. Bất cứ một khẳng định (hay đề xuất) nào đưa ra đều cần được giải thích hay xác minh bằng một khẳng định khác. Và vì nếu một khẳng định được giải thích hay xác minh bằng chính nó thì khẳng định đó sẽ không có giá trị, nên cần có một số vô hạn các khẳng định để giải thích bất kì một khẳng định nào. Vì thế cần phải có một (hay một số) khẳng định được công nhận là đúng để làm chỗ bắt đầu và đưa quá trình suy diễn từ vô hạn về hữu hạn. Tương tự như vậy, bất cứ sự suy luận hay giao tiếp nào của con người cũng cần có điểm xuất phát chung. Tiên đề thuộc vào nhóm những yếu tố đầu tiên này. Một số yếu tố khác là: định nghĩa, quan hệ, v.v. Tiên đề trong vật lý. Tiên đề Bohr. Các tiên đề Bohr là các tiên đề của mô hình Bohr, được sử dụng để giải thích các hiện tượng vật lý, ví dụ như công thức Rydberg về các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Mô hình Bohr giữ nguyên mô hình hành tinh nguyên tử của Rutherford, nhưng bổ sung thêm hai tiên đề: Tiên đề Einstein. Trong thuyết tương đối hẹp, Einstein đưa ra hai tiên đề: Trong thuyết tương đối rộng, ông đưa ra:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Ánh sáng hay ánh sáng khả kiến là các bức xạ điện từ có bước sóng nằm trong vùng quang phổ nhìn thấy được bằng mắt thường của con người (tức là từ khoảng 380 nm đến 760 nm), còn gọi là vùng khả kiến. Giống như mọi bức xạ điện từ, ánh sáng có thể được mô tả như những đợt sóng hạt chuyển động gọi là photon. Ánh sáng có tốc độ rất nhanh, điều này dễ hiểu khi trời mưa, ta thấy ánh chớp xong rồi một lúc mới nghe thấy tiếng sấm. Nguồn sáng chính trên Trái Đất là từ Mặt Trời. Ánh sáng mặt trời cung cấp năng lượng mà thực vật xanh sử dụng để tạo ra đường chủ yếu dưới dạng tinh bột, quá trình này được gọi là quang hợp. Trong lịch sử, một nguồn ánh sáng quan trọng khác đối với con người là lửa, từ lửa trại cổ xưa đến đèn dầu hỏa hiện đại. Với sự phát triển của đèn điện và hệ thống điện, ánh sáng điện đã thay thế ánh sáng nhiệt. Một số loài động vật tạo ra ánh sáng của riêng chúng, một quá trình gọi là phát quang sinh học. Ví dụ, đom đóm sử dụng ánh sáng để xác định vị trí bạn tình và mực quỷ sử dụng ánh sáng để ẩn mình khỏi con mồi. Các tính chất cơ bản của ánh sáng nhìn thấy được như cường độ, hướng lan truyền, tần số hoặc bước sóng quang phổ và phân cực. tốc độ của nó trong chân không, 299.792.458 mét mỗi giây, là một trong những hằng số nền tảng của thiên nhiên. Ánh sáng nhìn thấy được, như với tất cả các loại bức xạ điện từ (EMR), được tìm thấy bằng thực nghiệm luôn luôn di chuyển ở tốc độ này trong chân không. Trong vật lý, thuật ngữ "ánh sáng" đôi khi dùng để chỉ bức xạ điện từ ở bất kỳ bước sóng nào, dù nhìn thấy hay không. Theo nghĩa này, tia gamma, tia X, sóng vi ba và sóng vô tuyến cũng là ánh sáng. Giống như tất cả các loại bức xạ EM, ánh sáng nhìn thấy lan truyền dưới dạng sóng. Tuy nhiên, năng lượng được truyền bởi sóng được hấp thụ tại các vị trí đơn lẻ theo cách các hạt được hấp thụ. Năng lượng hấp thụ của sóng EM được gọi là photon và đại diện cho lượng tử ánh sáng. Khi một sóng ánh sáng được biến đổi và hấp thụ dưới dạng photon, năng lượng của sóng ngay lập tức sụp đổ xuống một vị trí và vị trí này là nơi photon "đến". Đây là những gì được gọi là sự sụp đổ chức năng sóng. Bản chất ánh sáng giống như hạt và giống như sóng kép này được gọi là lưỡng tính sóng hạt. Nghiên cứu về ánh sáng, được gọi là quang học, là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng trong vật lý hiện đại. Quang phổ điện từ và ánh sáng khả kiến. Nói chung, bức xạ EM (ký hiệu "bức xạ" không bao gồm điện tĩnh, từ trường và trường gần), hoặc EMR, được phân loại theo bước sóng thành sóng vô tuyến, vi sóng, hồng ngoại, phổ khả kiến mà chúng ta cảm nhận được như ánh sáng, tia cực tím, tia X., và tia gamma. Hành vi của EMR phụ thuộc vào bước sóng của nó. Tần số cao hơn có bước sóng ngắn hơn, và tần số thấp hơn có bước sóng dài hơn. Khi EMR tương tác với các nguyên tử và phân tử đơn lẻ, hành vi của nó phụ thuộc vào lượng năng lượng trên mỗi lượng tử mà nó mang theo. EMR trong vùng ánh sáng khả kiến bao gồm các lượng tử (gọi là photon) nằm ở đầu dưới của năng lượng có khả năng gây ra kích thích điện tử trong phân tử, dẫn đến những thay đổi trong liên kết hoặc hóa học của phân tử. Ở phần cuối thấp hơn của phổ ánh sáng nhìn thấy, EMR trở nên vô hình đối với con người (tia hồng ngoại) vì các photon của nó không còn đủ năng lượng riêng lẻ để gây ra sự thay đổi phân tử lâu dài (sự thay đổi về cấu trúc) trong phân tử thị giác võng mạc của con người, mà thay đổi kích hoạt cảm giác thị giác. Có những loài động vật nhạy cảm với nhiều loại tia hồng ngoại khác nhau, nhưng không phải bằng phương pháp hấp thụ lượng tử. Cảm biến tia hồng ngoại ở rắn phụ thuộc vào một loại hình ảnh nhiệt tự nhiên, trong đó các gói nhỏ nước tế bào được tăng nhiệt độ bởi bức xạ hồng ngoại. EMR trong phạm vi này gây ra rung động phân tử và hiệu ứng sưởi ấm, đó là cách những động vật này phát hiện ra nó. Trên phạm vi của ánh sáng nhìn thấy, ánh sáng cực tím trở nên vô hình đối với con người, chủ yếu là do nó được hấp thụ bởi giác mạc dưới 360 nm và thấu kính bên trong dưới 400   nm. Hơn nữa, các tế bào hình que và tế bào hình nón nằm trong võng mạc của mắt người không thể phát hiện ra khoảng cách rất ngắn (dưới 360 nm) bước sóng tia cực tím và thực tế là bị tia cực tím làm hỏng. Nhiều động vật có mắt không cần thấu kính (chẳng hạn như côn trùng và tôm) có thể phát hiện tia cực tím, bằng cơ chế hấp thụ photon lượng tử, giống như cách thức hóa học mà con người phát hiện ánh sáng nhìn thấy. Các nguồn khác nhau xác định ánh sáng nhìn thấy trong phạm vi hẹp 420–680 nm rộng tới 380–800 nm. Trong điều kiện phòng thí nghiệm lý tưởng, mọi người có thể nhìn thấy tia hồng ngoại lên đến ít nhất 1050 nm; trẻ em và thanh niên có thể cảm nhận bước sóng cực tím xuống khoảng 310–313 nm. Sự phát triển của thực vật cũng bị ảnh hưởng bởi quang phổ màu của ánh sáng, một quá trình được gọi là quá trình photomorphogenesis. Tốc độ ánh sáng. Tốc độ ánh sáng trong chân không được xác định chính xác là 299.792.458m/s (xấp xỉ 186.282 dặm mỗi giây). Giá trị cố định của tốc độ ánh sáng tính bằng đơn vị SI là kết quả của thực tế rằng mét hiện được định nghĩa theo tốc độ ánh sáng. Tất cả các dạng bức xạ điện từ đều chuyển động với tốc độ chính xác như nhau trong chân không. Các nhà vật lý khác nhau đã cố gắng đo tốc độ ánh sáng trong suốt lịch sử. Galileo đã cố gắng đo tốc độ ánh sáng vào thế kỷ XVII. Một thí nghiệm ban đầu để đo tốc độ ánh sáng được tiến hành bởi Ole Rømer, một nhà vật lý người Đan Mạch, vào năm 1676. Sử dụng kính thiên văn, Rømer quan sát chuyển động của Sao Mộc và một trong những mặt trăng của nó, Io. Nhận thấy sự khác biệt trong chu kỳ biểu kiến của quỹ đạo Io, ông tính toán rằng ánh sáng mất khoảng 22 phút để đi qua đường kính của quỹ đạo Trái Đất. Tuy nhiên, kích thước của nó vẫn chưa được biết đến vào thời điểm đó. Nếu Rømer biết đường kính của quỹ đạo Trái Đất, Rømer sẽ tính được tốc độ ánh sáng là 227.000.000 m/s. Một phép đo khác chính xác hơn về tốc độ ánh sáng đã được Hippolyte Fizeau thực hiện ở châu Âu vào năm 1849. Fizeau hướng một chùm ánh sáng vào một tấm gương cách đó vài km. Một bánh răng quay được đặt trên đường truyền của chùm sáng khi nó đi từ nguồn, đến gương rồi quay trở lại điểm gốc. Fizeau nhận thấy rằng tại một tốc độ quay nhất định, chùm tia sẽ đi qua một khe hở trên bánh xe trên đường đi và khe hở tiếp theo trên đường quay trở lại. Biết khoảng cách đến gương, số răng trên bánh xe và tốc độ quay, Fizeau có thể tính được tốc độ ánh sáng là 313.000.000 m/s. Léon Foucault đã thực hiện một thí nghiệm sử dụng gương quay để thu được giá trị 298.000.000 m/s vào năm 1862. Albert A. Michelson đã tiến hành các thí nghiệm về tốc độ ánh sáng từ năm 1877 cho đến khi ông qua đời năm 1931. Ông đã cải tiến các phương pháp của Foucault vào năm 1926 bằng cách sử dụng gương xoay cải tiến để đo thời gian cần ánh sáng để thực hiện một chuyến đi vòng từ Núi Wilson đến Núi San Antonio ở California. Các phép đo chính xác mang lại tốc độ 299.796.000 m/s. Vận tốc hiệu quả của ánh sáng trong các chất trong suốt khác nhau chứa vật chất thông thường, là chậm hơn trong chân không. Ví dụ, tốc độ ánh sáng trong nước bằng 3/4 tốc độ trong chân không. Hai nhóm các nhà vật lý độc lập được cho là đã đưa ánh sáng đến tốc độ "hoàn toàn bế tắc" bằng cách truyền nó qua chất ngưng tụ Bose – Einstein của nguyên tố rubidium, một nhóm tại Đại học Harvard và Viện Khoa học Rowland ở Cambridge, Massachusetts, và nhóm kia tại Trung tâm Vật lý Thiên văn Harvard – Smithsonian, cũng ở Cambridge. Tuy nhiên, mô tả phổ biến về việc ánh sáng bị "dừng lại" trong các thí nghiệm này chỉ đề cập đến việc ánh sáng được lưu giữ trong trạng thái kích thích của nguyên tử, sau đó được phát ra lại vào một thời điểm tùy ý sau đó, như được kích thích bởi xung laser thứ hai. Trong thời gian nó đã "dừng lại" nó đã không còn là ánh sáng nữa. Quang học. Nghiên cứu về ánh sáng và sự tương tác của ánh sáng và vật chất được gọi là quang học. Việc quan sát và nghiên cứu các hiện tượng quang học như cầu vồng và cực quang cung cấp nhiều manh mối về bản chất của ánh sáng. Khúc xạ. Khúc xạ là sự bẻ cong của các tia sáng khi đi qua một bề mặt giữa vật liệu trong suốt này và vật liệu khác. Nó được mô tả bởi Định luật Snell: formula_1 trong đó θ1 là góc giữa tia và bề mặt pháp tuyến trong môi trường thứ nhất, θ2 là góc giữa tia và bề mặt pháp tuyến trong môi trường thứ hai, và n1 và n2 là chiết suất, "n" = 1 trong chân không và "n" > 1 trong chất trong suốt. Khi một chùm ánh sáng đi qua ranh giới giữa chân không và môi trường khác, hoặc giữa hai môi trường khác nhau, thì bước sóng của ánh sáng thay đổi, nhưng tần số không đổi. Nếu chùm ánh sáng không trực giao (hoặc đúng hơn là pháp tuyến) với biên, thì sự thay đổi bước sóng dẫn đến thay đổi hướng của chùm. Sự thay đổi hướng này được gọi là sự khúc xạ. Chất lượng khúc xạ của thấu kính thường được sử dụng để điều khiển ánh sáng nhằm thay đổi kích thước biểu kiến của hình ảnh. Kính lúp, kính cận, kính áp tròng, kính hiển vi và kính thiên văn khúc xạ đều là những ví dụ về thao tác này. Nguồn sáng. Có nhiều loại nguồn sáng. Một vật thể ở nhiệt độ nhất định phát ra một quang phổ đặc trưng của bức xạ vật đen. Một nguồn nhiệt đơn giản là ánh sáng mặt trời, bức xạ do sắc quyển của Mặt trời phát ra ở khoảng đạt cực đại trong vùng nhìn thấy của quang phổ điện từ khi được vẽ bằng đơn vị bước sóng và khoảng 44% năng lượng ánh sáng mặt trời chiếu tới mặt đất có thể nhìn thấy được. Một ví dụ khác là bóng đèn sợi đốt, chỉ phát ra khoảng 10% năng lượng dưới dạng ánh sáng nhìn thấy và phần còn lại là tia hồng ngoại. Nguồn ánh sáng nhiệt phổ biến trong lịch sử là các hạt rắn phát sáng trong ngọn lửa, nhưng chúng cũng phát ra phần lớn bức xạ của chúng trong tia hồng ngoại, và chỉ một phần nhỏ trong quang phổ nhìn thấy được. Đỉnh của quang phổ vật đen nằm trong vùng hồng ngoại sâu, ở bước sóng khoảng 10 micromet, đối với các vật thể tương đối mát như con người. Khi nhiệt độ tăng, đỉnh chuyển sang các bước sóng ngắn hơn, đầu tiên tạo ra ánh sáng màu đỏ, sau đó là màu trắng, và cuối cùng là màu trắng xanh khi cực điểm di chuyển ra khỏi phần nhìn thấy của quang phổ và đi vào vùng tử ngoại. Những màu này có thể được nhìn thấy khi kim loại được nung nóng đến "nóng đỏ" hoặc "nóng trắng". Sự phát xạ nhiệt màu trắng xanh không thường được nhìn thấy, ngoại trừ ở các ngôi sao (màu xanh lam tinh khiết thường thấy trong ngọn lửa khí hoặc ngọn đuốc của thợ hàn trên thực tế là do phát xạ phân tử, đặc biệt là bởi các gốc CH (phát ra dải bước sóng khoảng 425 nm, và không được nhìn thấy trong các ngôi sao hoặc bức xạ nhiệt thuần túy). Nguyên tử phát ra và hấp thụ ánh sáng với năng lượng đặc trưng. Điều này tạo ra " vạch phát xạ " trong quang phổ của mỗi nguyên tử. Sự phát xạ có thể là tự phát, như trong điốt phát sáng, đèn phóng điện (như đèn neon và bảng hiệu đèn neon, đèn hơi thủy ngân, v.v.) và ngọn lửa (ánh sáng từ chính khí nóng — vì vậy, ví dụ, natri trong ngọn lửa khí phát ra ánh sáng vàng đặc trưng). Sự phát xạ cũng có thể được kích thích, như trong tia laser hoặc máy nghiền vi sóng. Sự giảm tốc của một hạt mang điện tự do, chẳng hạn như một electron, có thể tạo ra bức xạ nhìn thấy được: bức xạ cyclotron, bức xạ synchrotron và bức xạ bremsstrahlung đều là những ví dụ về điều này. Các hạt di chuyển trong môi trường nhanh hơn vận tốc pha của ánh sáng trong môi trường đó có thể tạo ra bức xạ Cherenkov nhìn thấy được. Một số hóa chất tạo ra bức xạ có thể nhìn thấy bằng phát quang hóa học. Ở các sinh vật, quá trình này được gọi là quá trình phát quang sinh học. Ví dụ, đom đóm tạo ra ánh sáng bằng phương tiện này, và thuyền di chuyển trong nước có thể làm nhiễu động sinh vật phù du tạo ra ánh sáng hắt lên. Một số chất nhất định tạo ra ánh sáng khi chúng được chiếu sáng bởi bức xạ có năng lượng cao hơn, một quá trình được gọi là huỳnh quang. Một số chất phát ra ánh sáng chậm sau khi bị kích thích bởi bức xạ có năng lượng lớn hơn. Đây được gọi là hiện tượng lân quang. Các vật liệu lân quang cũng có thể bị kích thích bằng cách bắn phá chúng bằng các hạt hạ nguyên tử. Cathodoluminescence là một ví dụ. Cơ chế này được sử dụng trong máy thu hình ống tia âm cực và màn hình máy tính. Một số cơ chế khác có thể tạo ra ánh sáng: Khi khái niệm ánh sáng được dự định bao gồm các photon năng lượng rất cao (tia gamma), các cơ chế tạo ra bổ sung bao gồm: Đơn vị và phép đo. Ánh sáng được đo bằng hai bộ đơn vị thay thế chính: đo bức xạ bao gồm các phép đo công suất ánh sáng ở tất cả các bước sóng, trong khi trắc quang đo ánh sáng có bước sóng có trọng số đối với mô hình chuẩn hóa về nhận thức độ sáng của con người. Phép đo quang rất hữu ích, ví dụ, để định lượng Độ chiếu sáng (chiếu sáng) dành cho con người. Các đơn vị SI của cả hai hệ thống được tóm tắt trong bảng sau. Các đơn vị đo quang khác với hầu hết các hệ thống đơn vị vật lý ở chỗ chúng tính đến cách mắt người phản ứng với ánh sáng. Các tế bào hình nón trong mắt người có ba loại phản ứng khác nhau trên phổ khả kiến và phản ứng tích lũy đạt cực đại ở bước sóng khoảng 555   nm. Do đó, hai nguồn sáng tạo ra cùng cường độ (W/m²) ánh sáng nhìn thấy không nhất thiết phải xuất hiện sáng như nhau. Các đơn vị đo quang được thiết kế để tính đến điều này, và do đó, là sự thể hiện tốt hơn mức độ "sáng" của một ánh sáng so với cường độ thô. Chúng liên quan đến nguồn điện thô bằng một đại lượng gọi là hiệu suất phát sáng và được sử dụng cho các mục đích như xác định cách tốt nhất để đạt được đủ ánh sáng cho các nhiệm vụ khác nhau ở các cài đặt trong nhà và ngoài trời. Độ chiếu sáng được đo bằng cảm biến tế bào quang học không nhất thiết phải tương ứng với những gì mắt người cảm nhận được và không có bộ lọc có thể tốn kém, tế bào quang điện và thiết bị tích điện (CCD) có xu hướng phản ứng với một số tia hồng ngoại, tia cực tím hoặc cả hai. Áp lực ánh sáng. Ánh sáng gây áp lực vật lý lên các vật thể trên đường đi của nó, một hiện tượng có thể được suy ra bằng phương trình Maxwell, nhưng có thể dễ dàng giải thích hơn bằng bản chất hạt của ánh sáng: các photon va chạm và truyền động lượng của chúng. Áp suất ánh sáng bằng công suất của chùm sáng chia cho "c", tốc độ ánh sáng. Do độ lớn của "c" nên tác dụng của áp suất ánh sáng đối với các vật hàng ngày là không đáng kể. Ví dụ, một con trỏ laser một miliwatt tác động một lực khoảng 3,3 piconewton lên vật thể được chiếu sáng; do đó, người ta có thể nâng một đồng xu bằng con trỏ laser, nhưng làm như vậy sẽ cần khoảng 30 tỷ con trỏ laser 1 mW. Tuy nhiên, trong các ứng dụng quy mô nanomet như hệ thống cơ điện tử nano (NEMS), ảnh hưởng của áp suất ánh sáng là đáng kể hơn, và việc khai thác áp suất ánh sáng để điều khiển các cơ chế NEMS và lật công tắc vật lý quy mô nanomet trong các mạch tích hợp là một lĩnh vực nghiên cứu tích cực. Ở quy mô lớn hơn, áp suất ánh sáng có thể khiến các tiểu hành tinh quay nhanh hơn, tác động lên các hình dạng bất thường của chúng như trên các cánh của cối xay gió. Khả năng tạo ra những cánh buồm mặt trời có thể tăng tốc tàu vũ trụ trong không gian cũng đang được điều tra. Mặc dù chuyển động của máy đo bức xạ Crookes ban đầu được cho là do áp suất ánh sáng, cách giải thích này không chính xác; sự quay Crookes đặc trưng là kết quả của chân không một phần. Điều này không nên nhầm lẫn với các máy đo bức xạ Nichols, trong đó (nhẹ) chuyển động gây ra bởi mô-men xoắn (mặc dù không đủ để xoay đầy đủ chống lại ma sát) "được" trực tiếp gây ra bởi áp lực ánh sáng. Do hệ quả của áp suất ánh sáng, Einstein vào năm 1909 đã tiên đoán về sự tồn tại của "ma sát bức xạ" sẽ chống lại sự chuyển động của vật chất. Ông viết, "bức xạ sẽ gây áp lực lên cả hai mặt của tấm. Lực tác dụng lên hai mặt bằng nhau nếu tấm ở trạng thái nghỉ. Tuy nhiên, nếu nó đang chuyển động, nhiều bức xạ sẽ được phản xạ trên bề mặt phía trước trong quá trình chuyển động (bề mặt phía trước) hơn bề mặt phía sau. Do đó, lực tác dụng ngược của áp suất tác dụng lên bề mặt phía trước lớn hơn lực tác động lên mặt sau. Do đó, là kết quả của hai lực, vẫn còn một lực chống lại chuyển động của tấm và lực đó tăng lên theo vận tốc của tấm. Chúng ta sẽ gọi ngắn gọn kết quả này là 'ma sát bức xạ'. " Thông thường động lượng ánh sáng phù hợp với hướng chuyển động của nó. Tuy nhiên, ví dụ trong sóng phát ra xung lượng là phương ngang với hướng truyền. Các lý thuyết lịch sử về ánh sáng, theo trình tự thời gian. Trong lịch sử khám phá, đã có nhiều lý thuyết để giải thích các hiện tượng tự nhiên liên quan đến ánh sáng. Dưới đây trình bày các lý thuyết quan trọng, theo trình tự lịch sử. Hy Lạp cổ đại và Hellenism. Vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, Empedocles đã mặc định rằng mọi thứ đều được cấu tạo từ bốn yếu tố; lửa, không khí, đất và nước. Ông tin rằng Aphrodite đã tạo ra mắt người từ bốn yếu tố và cô ấy đã thắp sáng ngọn lửa trong mắt mà ánh sáng đó sẽ tỏa ra từ mắt giúp cho thị giác có thể nhìn thấy được. Nếu điều này là đúng, thì người ta có thể nhìn thấy vào ban đêm cũng như ban ngày, vì vậy Empedocles đã giả định sự tương tác giữa các tia từ mắt và các tia từ một nguồn như mặt trời. Vào khoảng 300 năm trước Công nguyên, Euclid đã viết "Optica", trong đó ông nghiên cứu các đặc tính của ánh sáng. Euclid giả định rằng ánh sáng truyền theo đường thẳng và ông mô tả các định luật phản xạ và nghiên cứu chúng bằng toán học. Anh ta đặt câu hỏi rằng thị giác là kết quả của một chùm tia từ mắt, vì anh ta hỏi làm thế nào người ta nhìn thấy các ngôi sao ngay lập tức, nếu một người nhắm mắt, rồi mở chúng ra vào ban đêm. Nếu chùm tia từ mắt truyền đi nhanh vô hạn thì đây không phải là vấn đề. Vào năm 55 trước Công nguyên, Lucretius, một người La Mã tiếp nối ý tưởng của các nhà nguyên tử Hy Lạp trước đó, đã viết rằng "Ánh sáng và sức nóng của mặt trời; chúng bao gồm các nguyên tử nhỏ, khi chúng bị đẩy ra, không mất thời gian bắn qua khoảng không khí theo hướng được truyền qua bởi xô đẩy. " (từ "Về bản chất của Vũ trụ"). Mặc dù tương tự với các lý thuyết hạt sau này, quan điểm của Lucretius thường không được chấp nhận. Ptolemy (khoảng thế kỷ thứ 2) đã viết về sự khúc xạ ánh sáng trong cuốn sách "Quang học" của mình. Ấn Độ cổ đại. Ở Ấn Độ cổ đại, các trường phái Hindu Samkhya và Vaishedhika, từ khoảng những thế kỷ đầu sau Công nguyên đã phát triển các lý thuyết về ánh sáng. Theo trường phái Samkhya, ánh sáng là một trong năm yếu tố cơ bản "vi tế" ("tanmatra") trong đó nổi lên các yếu tố thô. Tính nguyên tử của những nguyên tố này không được đề cập cụ thể và có vẻ như chúng thực sự được coi là liên tục. Mặt khác, trường phái Vaishedhika đưa ra lý thuyết nguyên tử về thế giới vật chất trên mặt đất phi nguyên tử của ête, không gian và thời gian. (Xem "thuyết nguyên tử của Ấn Độ".) Các nguyên tử cơ bản là của đất ("prthivi"), nước ("pani"), lửa ("agni") và không khí ("vayu") Các tia sáng được coi là một dòng nguyên tử "tejas" (lửa) vận tốc cao. Các hạt ánh sáng có thể thể hiện các đặc điểm khác nhau tùy thuộc vào tốc độ và sự sắp xếp của các nguyên tử "tejas". "Vishnu Purana" gọi ánh sáng mặt trời là "bảy tia sáng của mặt trời". Các Phật tử Ấn Độ, chẳng hạn như Dignāga vào thế kỷ thứ 5 và Dharmakirti vào thế kỷ thứ 7, đã phát triển một loại thuyết nguyên tử là một triết lý về thực tại bao gồm các thực thể nguyên tử là những tia sáng hoặc năng lượng chớp nhoáng nhất thời. Họ coi ánh sáng là một thực thể nguyên tử tương đương với năng lượng. Descartes. René Descartes (1596–1650) cho rằng ánh sáng là đặc tính cơ học của vật thể phát sáng, bác bỏ "dạng" của Ibn al-Haytham và Witelo cũng như "loài" của Bacon, Grosseteste và Kepler. Năm 1637, ông công bố lý thuyết về sự khúc xạ ánh sáng, giả định rằng ánh sáng truyền đi nhanh hơn trong môi trường đặc hơn so với trong môi trường ít đặc hơn. Descartes đưa ra kết luận này bằng cách tương tự với hành vi của sóng âm thanh. Mặc dù Descartes không chính xác về tốc độ tương đối, nhưng ông đã đúng khi cho rằng ánh sáng hoạt động giống như sóng và kết luận rằng khúc xạ có thể được giải thích bằng tốc độ ánh sáng trong các phương tiện khác nhau. Descartes không phải là người đầu tiên sử dụng phép loại suy cơ học nhưng vì ông khẳng định rõ ràng rằng ánh sáng chỉ là đặc tính cơ học của vật thể phát sáng và môi trường truyền dẫn, lý thuyết về ánh sáng của Descartes được coi là khởi đầu của quang học vật lý hiện đại. Lý thuyết hạt ánh sáng. Pierre Gassendi (1592–1655), một nhà nguyên tử học, đã đề xuất một lý thuyết về hạt của ánh sáng được công bố sau những năm 1660. Isaac Newton đã nghiên cứu công trình của Gassendi ngay từ khi còn nhỏ, và thích quan điểm của ông hơn lý thuyết của Descartes về "plenum". Ông tuyên bố trong "Giả thuyết về ánh sáng" năm 1675 của mình rằng ánh sáng bao gồm các tiểu thể (các hạt vật chất) được phát ra theo mọi hướng từ một nguồn. Một trong những lập luận của Newton chống lại bản chất sóng của ánh sáng là sóng được biết là có thể uốn cong quanh các chướng ngại vật, trong khi ánh sáng chỉ truyền theo đường thẳng. Tuy nhiên, ông đã giải thích được hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng (đã được Francesco Grimaldi quan sát thấy) bằng cách cho phép một hạt ánh sáng có thể tạo ra một làn sóng cục bộ trong aether. Lý thuyết của Newton có thể được sử dụng để dự đoán sự phản xạ của ánh sáng, nhưng chỉ có thể giải thích sự khúc xạ bằng cách giả định không chính xác rằng ánh sáng được gia tốc khi đi vào một môi trường đặc hơn vì lực hấp dẫn lớn hơn. Newton đã xuất bản phiên bản cuối cùng của lý thuyết của mình trong tác phẩm "Opticks" năm 1704. Danh tiếng của ông đã giúp lý thuyết hạt ánh sáng tiếp tục giữ uy tín trong thế kỷ 18. Lý thuyết hạt của ánh sáng khiến Laplace lập luận rằng một vật thể có khối lượng lớn đến mức ánh sáng không thể thoát ra khỏi nó. Nói cách khác, nó sẽ trở thành cái mà bây giờ được gọi là lỗ đen. Laplace đã rút lại đề xuất của mình sau đó, sau khi lý thuyết sóng của ánh sáng đã được thiết lập vững chắc như là mô hình cho ánh sáng (như đã được giải thích, cả lý thuyết hạt hay sóng đều không hoàn toàn đúng). Bản dịch bài luận của Newton về ánh sáng xuất hiện trong "Cấu trúc quy mô lớn của không-thời gian", của Stephen Hawking và George F. R. Ellis. Thực tế là ánh sáng có thể bị phân cực lần đầu tiên được Newton giải thích một cách định tính bằng lý thuyết hạt. Étienne-Louis Malus năm 1810 đã tạo ra một lý thuyết hạt toán học về sự phân cực. Jean-Baptiste Biot năm 1812 đã chỉ ra rằng lý thuyết này giải thích tất cả các hiện tượng phân cực ánh sáng đã biết. Lúc đó sự phân cực được coi là bằng chứng của lý thuyết hạt. Lý thuyết sóng ánh sáng. Để giải thích nguồn gốc của màu sắc, Robert Hooke (1635–1703) đã phát triển một "lý thuyết xung" và so sánh sự lan truyền của ánh sáng với sự lan truyền của sóng trong nước trong tác phẩm năm 1665 của ông là "Micrographia" ("Quan sát IX"). Năm 1672, Hooke cho rằng dao động của ánh sáng có thể vuông góc với hướng truyền. Christiaan Huygens (1629–1695) đã đưa ra lý thuyết sóng toán học của ánh sáng vào năm 1678, và xuất bản nó trong "cuốn luận thuyết về ánh sáng" vào năm 1690. Ông đề xuất rằng ánh sáng được phát ra theo mọi hướng dưới dạng một chuỗi sóng trong một môi trường được gọi là "Luminiferous ether". Vì sóng không bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn, nên người ta cho rằng chúng chậm lại khi đi vào một môi trường dày đặc hơn. Lý thuyết sóng dự đoán rằng sóng ánh sáng có thể giao thoa với nhau giống như sóng âm thanh (như được ghi nhận vào khoảng năm 1800 bởi Thomas Young). Young đã chỉ ra bằng một thí nghiệm nhiễu xạ rằng ánh sáng hoạt động như sóng. Ông cũng đề xuất rằng các màu sắc khác nhau là do các bước sóng ánh sáng khác nhau tạo ra và giải thích khả năng nhìn màu về các thụ thể ba màu trong mắt. Một người ủng hộ lý thuyết sóng là Leonhard Euler. Ông lập luận trong "Nova theoria lucis et colorum" (1746) rằng nhiễu xạ có thể dễ dàng giải thích hơn bằng lý thuyết sóng. Năm 1816, André-Marie Ampère đã đưa ra ý tưởng cho Augustin-Jean Fresnel rằng sự phân cực của ánh sáng có thể được giải thích bằng lý thuyết sóng nếu ánh sáng là sóng ngang. Sau đó, Fresnel đã độc lập nghiên cứu lý thuyết sóng ánh sáng của riêng mình, và trình bày nó cho Académie des Sciences năm 1817. Siméon Denis Poisson đã bổ sung vào công trình toán học của Fresnel để đưa ra một lập luận thuyết phục ủng hộ lý thuyết sóng, giúp lật ngược lý thuyết phân tử của Newton. Đến năm 1821, Fresnel đã có thể chỉ ra bằng các phương pháp toán học rằng sự phân cực có thể được giải thích bằng lý thuyết sóng của ánh sáng nếu và chỉ khi ánh sáng hoàn toàn là phương ngang, không có dao động dọc nào. Điểm yếu của lý thuyết sóng là sóng ánh sáng, giống như sóng âm thanh, sẽ cần một môi trường để truyền. Sự tồn tại của chất giả thuyết "aether phát sáng" do Huygens đề xuất năm 1678 đã bị nghi ngờ mạnh mẽ vào cuối thế kỷ XIX bởi thí nghiệm Michelson – Morley. Lý thuyết phân tử của Newton ngụ ý rằng ánh sáng sẽ truyền đi nhanh hơn trong môi trường dày đặc hơn, trong khi lý thuyết sóng của Huygens và những người khác ngụ ý ngược lại. Vào thời điểm đó, tốc độ ánh sáng không thể được đo đủ chính xác để quyết định lý thuyết nào là đúng. Người đầu tiên thực hiện một phép đo đủ chính xác là Léon Foucault, vào năm 1850. Kết quả của ông đã ủng hộ lý thuyết sóng, và lý thuyết hạt cổ điển cuối cùng đã bị loại bỏ, chỉ một phần xuất hiện trở lại vào thế kỷ 20. Lý thuyết điện từ. Năm 1845, Michael Faraday phát hiện ra rằng mặt phẳng phân cực của ánh sáng phân cực tuyến tính quay khi các tia sáng truyền dọc theo hướng từ trường với sự có mặt của chất điện môi trong suốt, một hiệu ứng ngày nay được gọi là quay Faraday. Đây là bằng chứng đầu tiên cho thấy ánh sáng có liên quan đến điện từ. Năm 1846, ông suy đoán rằng ánh sáng có thể là một dạng nhiễu loạn nào đó lan truyền dọc theo các đường sức từ. Năm 1847, Faraday đề xuất rằng ánh sáng là một dao động điện từ tần số cao, có thể lan truyền ngay cả khi không có môi trường như ête. Công việc của Faraday đã truyền cảm hứng cho James Clerk Maxwell nghiên cứu bức xạ điện từ và ánh sáng. Maxwell phát hiện ra rằng sóng điện từ tự lan truyền sẽ truyền trong không gian với một tốc độ không đổi, tương đương với tốc độ ánh sáng đã đo được trước đó. Từ đó, Maxwell kết luận rằng ánh sáng là một dạng bức xạ điện từ: lần đầu tiên ông phát biểu kết quả này vào năm 1862 trên tạp chí "On Physical Lines of Force". Năm 1873, ông xuất bản "một luận thuyết về điện và từ", trong đó có một mô tả toán học đầy đủ về hoạt động của điện trường và từ trường, vẫn được gọi là phương trình Maxwell. Ngay sau đó, Heinrich Hertz đã xác nhận lý thuyết của Maxwell bằng thực nghiệm bằng cách tạo và phát hiện các sóng vô tuyến trong phòng thí nghiệm, và chứng minh rằng những sóng này hoạt động chính xác như ánh sáng nhìn thấy, thể hiện các đặc tính như phản xạ, khúc xạ, nhiễu xạ và giao thoa. Lý thuyết của Maxwell và các thí nghiệm của Hertz đã trực tiếp dẫn đến sự phát triển của vô tuyến, radar, truyền hình, hình ảnh điện từ và truyền thông không dây hiện đại. Trong lý thuyết lượng tử, các photon được xem như các gói sóng của các sóng được mô tả trong lý thuyết cổ điển của Maxwell. Lý thuyết lượng tử cần thiết để giải thích các hiệu ứng ngay cả với ánh sáng thị giác mà lý thuyết cổ điển của Maxwell không thể giải thích được (chẳng hạn như các vạch quang phổ). Lý thuyết lượng tử ánh sáng. Năm 1900, Max Planck, cố gắng giải thích bức xạ vật đen, cho rằng mặc dù ánh sáng là một sóng, nhưng những sóng này chỉ có thể thu được hoặc mất năng lượng với một lượng hữu hạn liên quan đến tần số của chúng. Planck gọi những "cục" năng lượng ánh sáng này là " lượng tử " (từ một từ tiếng Latinh có nghĩa là "bao nhiêu"). Năm 1905, Albert Einstein sử dụng ý tưởng về lượng tử ánh sáng để giải thích hiệu ứng quang điện, và cho rằng những lượng tử ánh sáng này có sự tồn tại "thực". Năm 1923, Arthur Holly Compton đã chỉ ra rằng sự dịch chuyển bước sóng khi tia X cường độ thấp tán xạ từ các electron (gọi là tán xạ Compton) có thể được giải thích bằng lý thuyết hạt của tia X, nhưng không phải là lý thuyết sóng. Năm 1926, Gilbert N. Lewis đặt tên cho các hạt lượng tử ánh sáng này là photon. Cuối cùng lý thuyết hiện đại của cơ học lượng tử đã hình dung ánh sáng (theo một nghĩa nào đó) vừa có tính chất của hạt vừa có tính chất của sóng hay còn gọi là lưỡng tính sóng-hạt, và (theo một nghĩa khác), như một hiện tượng "không phải" là hạt cũng không phải là sóng (thực chất là các hiện tượng vĩ mô, chẳng hạn như bóng chày hoặc sóng biển). Thay vào đó, vật lý hiện đại coi ánh sáng là thứ có thể được mô tả đôi khi bằng toán học thích hợp với một kiểu ẩn dụ vĩ mô (hạt), và đôi khi là một phép ẩn dụ vĩ mô khác (sóng nước), nhưng thực sự là một thứ không thể hình dung hết được. Như trong trường hợp đối với sóng vô tuyến và tia X liên quan đến tán xạ Compton, các nhà vật lý đã lưu ý rằng bức xạ điện từ có xu hướng hoạt động giống như sóng cổ điển ở tần số thấp hơn, nhưng giống hạt cổ điển hơn ở tần số cao hơn, nhưng không bao giờ mất đi hoàn toàn. phẩm chất của cái này hay cái khác. Ánh sáng nhìn thấy, chiếm tần số trung bình, có thể dễ dàng hiển thị trong các thí nghiệm để mô tả được bằng cách sử dụng mô hình sóng hoặc hạt, hoặc đôi khi cả hai. Vào tháng 2 năm 2018, các nhà khoa học thông báo, lần đầu tiên, việc phát hiện ra một hình thức mới của ánh sáng, có thể liên quan đến polariton, đó có thể hữu ích trong việc phát triển các máy tính lượng tử.
17
17_electron_in_nhit_lng
[ "electron", "in", "nhit", "lng", "neutron", "thuyt", "ht", "einstein", "proton", "quark" ]
[ "Trong vật lý hạt nhân, năng lượng tách là năng lượng cần thiết để loại bỏ một hạt nhân (hoặc một hạt hoặc nhiều hạt được chỉ định khác) khỏi hạt nhân nguyên tử.\nNăng lượng tách khác nhau đối với mỗi hạt nhân và các hạt được loại bỏ. Các giá trị được liệt kê có thể là \"năng lượng tách neutron\", \"năng lượng tách hai neutron\", \"năng lượng tách proton\", \"năng lượng tách deuteron\", \"năng lượng tách alpha\", v.v.\nNăng lượng tách thấp nhất trong số các hạt nhân ổn định là 1,67 MeV, để loại bỏ một neutron ra khỏi beryllium-9.\nNăng lượng có thể được thêm vào hạt nhân bằng cách chiếu vào một tia gamma năng lượng cao. Nếu năng lượng của photon đạt đến mức vượt quá năng lượng tách, sựphân hủy quang có thể xảy ra. Năng lượng vượt quá giá trị ngưỡng trở thành động năng của hạt bị đẩy ra.\nNgược lại, năng lượng liên kết hạt nhân là năng lượng cần thiết để tháo rời hoàn toàn hạt nhân, hoặc năng lượng được giải phóng khi hạt nhân được lắp ráp từ các hạt nhân. Nó là tổng của nhiều năng lượng tách, nên được cộng vào cùng một tổng số bất kể thứ tự lắp ráp hay tháo gỡ.\nVật lý và hóa học.\nNăng lượng tách electron hoặc năng lượng liên kết electron là năng lượng cần thiết để loại bỏ một electron ra khỏi nguyên tử trung tính hoặc phân tử (hoặc cation) được gọi là năng lượng ion hóa. Phản ứng dẫn đến quang hóa, quang dẫn, hiệu ứng quang điện, quang điện, v.v.\nNăng lượng phân ly liên kết là năng lượng cần thiết để phá vỡ một liên kết của phân tử hoặc một ion, thường tách một nguyên tử hoặc nhiều nguyên tử.", "Bắt giữ electron kép là một phương thức phân rã của hạt nhân nguyên tử. Đối với một đồng vị phóng xạ (\"A\", \"Z\") có số hạt nhân \"A\" và số nguyên tử \"Z\", chỉ có thể bắt được electron kép nếu khối lượng của đồng vị phóng xạ của (\"A\", \"Z\"-2) thấp hơn.\nTrong phương thức phân rã này, hai trong số các electron quỹ đạo bị bắt bởi hai proton trong hạt nhân, tạo thành hai neutron. Hai neutrino được phát ra trong quá trình này. Vì các proton được thay đổi thành neutron, số lượng neutron tăng thêm 2, số lượng proton \"Z\" giảm đi 2 và số khối nguyên tử \"A\" không đổi. Bằng cách thay đổi số lượng proton, sự bắt electron kép sẽ biến đổi các hạt nhân thành một nguyên tố mới.\nVí dụ:\nĐộ hiếm.\nTrong hầu hết các trường hợp, phương thức phân rã này sẽ xảy ra ít hơn bởi có nhiều phương thức có thể xảy ra hơn (bắt giữ electron đơn...), nhưng khi tất cả các phương thức này bị “cấm” (bị triệt tiêu mạnh), bắt giữ electron kép sẽ trở thành phương thức phân rã chính.\nCó 34 đồng vị xuất hiện tự nhiên có thể trải qua quá trình bắt electron kép. Tuy nhiên, chỉ có ba quan sát được xác nhận về quá trình này: , , and .\nMột lý do là xác suất xảy ra bắt giữ electron kép là rất nhỏ (dự đoán lý thuyết về chu kỳ bán rã cho phương thức này là trên 10 năm). Lý do thứ hai là các hạt duy nhất có thể phát hiện được tạo ra trong quá trình này là các tia X và electron Auger được phát ra từ lớp vỏ nguyên tử bị kích thích. Trong phạm vi năng lượng của chúng (~1-10 keV), nền thường cao. Do đó, việc phát hiện và thử nghiệm bắt giữ electron kép khó khăn hơn so với phân rã beta kép. Việc bắt electron kép có thể đi kèm với sự kích thích của hạt nhân con. Lần lượt, sự khử kích thích của nó đi kèm với sự phát xạ của các photon có năng lượng lên đến hàng trăm keV.\nCác phương thức phát xạ positron.\nNếu sự chênh lệch khối lượng giữa các nguyên tử mẹ và con lớn hơn hai lần khối lượng của một electron (1,022 MeV), năng lượng được giải phóng trong quá trình này đủ để cho phép một phương thức phân rã khác được gọi là bắt electron bằng phát xạ positron. Nó xảy ra cùng với việc bắt electron kép, tỷ lệ phân nhánh của chúng tùy thuộc vào tính chất hạt nhân. Khi chênh lệch khối lượng lớn hơn bốn lần khối lượng electron (2,044 MeV), phương thức thứ ba, được gọi là phân rã positron kép, được cho phép. Chỉ có 6 đồng vị phóng xạ tự nhiên có thể phân rã thông qua ba phương thức này cùng một lúc.\nBắt giữ electron kép phi neutrino.\nQuá trình được mô tả ở trên với việc bắt giữ hai electron và phát xạ hai neutrino (bắt electron kép neutrino) được cho phép theo Mô hình Chuẩn của vật lý hạt: không vi phạm luật bảo tồn (bao gồm bảo toàn số lepton). Tuy nhiên, nếu số lepton không được bảo toàn hoặc neutrino là phản hạt của chính nó, thì một loại quá trình khác có thể xảy ra, được gọi là bắt giữ electron kép phi neutrino. Trong trường hợp này, hai electron bị hạt nhân bắt giữ, nhưng neutrino không được phát ra. Năng lượng được giải phóng trong quá trình này được mang đi bởi một lượng tử gamma bremsstrahlung.\nVí dụ:\nPhương thức phân rã này chưa bao giờ được quan sát bằng thực nghiệm và sẽ mâu thuẫn với Mô hình Chuẩn nếu nó được quan sát.", "Electron hay điện tử, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ nhất trong họ các hạt lepton, và nói chung được coi là những hạt cơ bản bởi vì chúng không có các thành phần nhỏ hay cấu trúc con. Electron có khối lượng xấp xỉ bằng 1/1836 so với của proton. Các tính chất cơ học lượng tử của electron bao gồm giá trị mômen động lượng (spin) bằng một nửa đơn vị, biểu diễn theo đơn vị của hằng số Planck thu gọn, \"ħ\". Vì là một fermion, trong hệ cô lập không có hai electron nào có thể ở cùng một trạng thái lượng tử, như nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli. Giống như tất cả các hạt cơ bản khác, electron thể hiện cả các tính chất của sóng và hạt: chúng có thể va chạm với các hạt khác và bị nhiễu xạ như ánh sáng. Các tính chất sóng của electron dễ dàng được quan sát thấy ở các thí nghiệm hơn so với những hạt khác ví dụ như neutron và proton bởi vì electron có khối lượng nhỏ hơn và do vậy có bước sóng de Broglie dài hơn ở cùng một mức năng lượng.\nElectron có vai trò cơ bản ở nhiều hiện tượng vật lý, như điện, từ học, hóa học và độ dẫn nhiệt. Ngoài ra nó cũng tham gia vào tương tác hấp dẫn, điện từ và yếu. Vì một electron mang điện tích, bao xung quanh nó là điện trường, và nếu electron chuyển động tương đối với một người quan sát, nó sẽ cảm ứng một từ trường. Trường điện từ tạo ra bởi những nguồn khác sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của hạt electron tuân theo định luật lực Lorentz. Electron phát ra hay hấp thụ năng lượng dưới dạng các photon khi chúng chuyển động gia tốc. Các thiết bị ở phòng thí nghiệm có khả năng bẫy từng electron đơn lẻ cũng như các electron plasma bằng sử dụng điện từ trường. Những kính thiên văn đặc biệt có thể phát hiện electron plasma trong không gian vũ trụ. Electron tham dự vào nhiều ứng dụng thực tiễn như điện tử học, hàn tia điện tử, ống tia âm cực, kính hiển vi điện tử, trị liệu bức xạ, laser electron tự do, máy dò khí ion hóa và máy gia tốc hạt.\nCác tương tác có sự tham gia của những electron với các hạt khác là một trong những chủ đề nghiên cứu của hóa học và vật lý hạt nhân. Tương tác lực Coulomb giữa các proton mang điện dương bên trong hạt nhân nguyên tử và các electron mang điện âm ở orbital cấu thành lên nguyên tử. Sự ion hóa hay sự chênh lệch giữa số electron mang điện âm và hạt nhân mang điện dương làm thay đổi năng lượng liên kết của một hệ nguyên tử. Sự trao đổi hay chia sẻ các electron giữa hai hay nhiều nguyên tử là nguyên nhân chủ yếu tạo ra liên kết hóa học. Năm 1838, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming lần đầu tiên đã đặt ra khái niệm về một đại lượng điện tích không thể chia nhỏ hơn nhằm giải thích các tính chất hóa học của các nguyên tử. Nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney sau đó đặt tên đại lượng điện tích này là 'electron' vào năm 1891, và sau đó J. J. Thomson cùng các cộng sự người Anh cuối cùng đã phát hiện ra electron có biểu hiện của một hạt cơ bản vào năm 1897. Electron cũng tham gia vào các phản ứng hạt nhân, như quá trình tổng hợp lên các hạt nhân nặng hơn trong các sao, mà chúng thường được gọi là các hạt beta. Electron cũng có thể được tạo ra trong phân rã beta từ các đồng vị phóng xạ và trong các va chạm năng lượng cao, như ở sự kiện các tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển. Phản hạt của electron được gọi là positron; nó có tính chất đồng nhất với electron ngoại trừ các tích như điện tích mang dấu ngược lại. Khi một electron va chạm với một positron, cả hai hạt bị hủy, tạo ra hai photon tia gamma năng lượng cao.\nLịch sử.\nKhám phá ra hiệu ứng của lực điện.\nNgười Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy rằng khi dùng bộ lông thú chà xát vào hổ phách thì nó có khả năng hút được những vật nhỏ. Cùng với sét, đây là một trong những hiện tượng về điện được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử loài người. Trong luận thuyết \"De Magnete\" viết năm 1600, nhà khoa học người Anh William Gilbert đưa ra thuật ngữ trong tiếng Latin mới là , để kể đến những chất có tính chất tương tự như hổ phách với khả năng có thể hút được những vật nhỏ khi chà xát với lông thú. Cả hai thuật ngữ \"electric\" và \"electricity\" đều có nguồn gốc từ tiếng Latin ' (cũng là từ nguyên của hợp kim có cùng tên); ' có từ nguyên bắt nguồn từ chữ hổ phách trong tiếng Hy Lạp, (\"\").\nKhám phá hai loại điện tích.\nĐầu những năm 1700, nhà hóa học người Pháp Charles François du Fay phát hiện thấy nếu một lá vàng tích điện bị đẩy bởi một que thủy tinh khi chà nó với lụa, thì cùng lá vàng tích điện này lại bị hút bởi hổ phách khi chà vào bông sợi. Từ quan sát này cùng những kết quả thí nghiệm tương tự, du Fay kết luận rằng điện phải chứa hai loại chất lỏng mang điện, chất lỏng \"vitreous\" từ đũa thủy tinh khi chà xát vào lụa và chất lỏng \"resinous\" từ hổ phách khi chà vào bông sợi. Hai chất lỏng này có thể trung hòa lẫn nhau khi được kết hợp lại. Nhà khoa học người Mỹ Ebenezer Kinnersley sau đó cũng độc lập đi đến kết luận tương tự của du Fay. Một thập kỷ sau, Benjamin Franklin đề xuất rằng điện không cấu tạo từ những loại chất lỏng điện khác nhau, mà là một chất lỏng điện có biểu hiện dư thừa (+) hay thiếu hụt (−) điện tích. Ông đưa ra thuật ngữ hiện đại tương ứng với chúng là điện tích dương và điện tích âm. Franklin từng nghĩ về chất mang điện sẽ có điện tích dương, nhưng ông đã không miêu tả đúng tình huống khi nào chất sẽ dư thừa điện tích, và khi nào bị thiếu hụt điện tích.\nGiữa các năm 1838 và 1851, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming phát triển ý tưởng cho rằng một nguyên tử là tổ hợp bao gồm một lõi vật chất được bao quanh bởi những hạt nhỏ hơn nguyên tử mà có điện tích bằng số lần điện tích đơn vị. Đầu năm 1846, nhà vật lý người Đức William Weber đưa ra lý thuyết miêu tả điện là chất tổng hợp bởi các chất lỏng tích điện dương và âm, và tương tác giữa chúng bị chi phối bởi luật nghịch đảo bình phương. Sau khi nghiên cứu hiện tượng điện phân vào năm 1874, nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney gợi ý có tồn tại một \"đại lượng xác định duy nhất cho điện\", điện tích của một ion hóa trị một. Ông đã có thể ước lượng giá trị của điện tích cơ bản \"e\" này bằng cách áp dụng định luật điện phân Faraday. Tuy nhiên, Stoney lại tin rằng những điện tích này lại gắn chặt vĩnh cửu vào nguyên tử và không thể bị tách rời. Năm 1881, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz cho rằng cả điện tích dương và điện tích âm có thể chia ra thành những thành phần cơ bản, mỗi một chúng \"hành xử như những nguyên tử của điện\".\nStoney ban đầu đưa ra thuật ngữ \"electrolion\" vào năm 1881. Mười năm sau, ông chuyển sang sử dụng \"electron\" để miêu tả những điện tích cơ bản này, khi ông viết vào năm 1894: \"... một ước lượng được thực hiện để tính toán số lượng thực tế của đơn vị điện cơ bản điển hình nhất này, mà tôi đã từng dám gợi ý đặt tên là \"electron\"\". Đã có một đề xuất vào năm 1906 nhằm đổi sang tên gọi \"electrion\" nhưng đã thất bại bởi vì Hendrik Lorentz vẫn thích tên gọi \"electron\" hơn. Từ \"electron\" là tổ hợp của các từ \"electric\" và \"ion\". Hậu tố -\"on\" mà hiện nay được sử dụng để đặt tên cho các hạt cơ bản khác, như proton hoặc neutron, có nguồn gốc bắt nguồn từ cách đặt tên cho electron.\nKhám phá ra các electron tự do bên ngoài vật chất.\nKhi nghiên cứu hiện tượng dẫn điện trong khí loãng vào năm 1859, nhà vật lý người Đức Julius Plücker quan sát thấy ánh sáng lân quang, vốn được tạo thành bởi bức xạ phát ra từ cathode, xuất hiện tại thành ống gần cathode, và vùng ánh sáng lân quang đó có thể di chuyển bằng việc ứng dụng từ trường. Năm 1869, Johann Wilhelm Hittorf, một học trò của Plücker, phát hiện rằng một vật rắn đặt giữa cathode và vùng lân quang tạo ra một vùng tối trên vùng lân quang của ống. Hittorf kết luận rằng có những tia truyền thẳng phát ra từ cathode và vùng lân quang đó được tạo ra bởi các tia chiếu qua thành ống. Năm 1876, nhà vật lý người Đức Eugen Goldstein chỉ ra rằng các tia này được phát ra theo phương vuông góc với mặt cathode, mặt phân cách giữa các tia phát ra từ cathode và ánh sáng sợi đốt. Goldstein đặt tên cho những tia này là tia âm cực. Công cuộc nghiên cứu về tia âm cực kéo dài hàng thập kỷ cả về lý thuyết và thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình khám phá ra electron của J. J. Thomson.\nTrong thập niên 1870, nhà hóa lý người Anh Sir William Crookes đã phát triển ống tia âm cực đầu tiên với môi trường chân không cao bên trong. Sau đó ông chứng tỏ rằng các tia phát quang xuất hiện bên trong ống có mang năng lượng và chuyển động từ phía cathode sang anode. Hơn nữa, khi đặt vào một từ trường, ông đã làm lệch đường đi của chùm tia, do đó chứng tỏ thêm chùm tia hành xử như nó chứa điện tích âm. Năm 1879, ông đề xuất rằng những tính chất này có thể được giải thích bằng cách coi rằng các tia âm cực bao gồm các phân tử khí mang điện tích âm trong trạng thái thứ tư của vật chất mà trong đó quãng đường tự do của các phân tử lớn đến mức có thể bỏ qua va chạm.\nNhà vật lý người Anh sinh ở Đức Arthur Schuster tiến hành mở rộng các thí nghiệm của Crookes khi đặt những tấm kim loại song song với chùm tia cathode và áp dụng vào một điện thế giữa các tấm này. Điện trường đã làm lệch chùm tia về phía tấm kim loại tích điện dương, chứng cứ đã củng cố thêm cho kết luận chùm tia mang điện tích âm. Bằng cách đo độ lệch của chùm tia tương ứng với từng lần điều chỉnh dòng điện giữa hai tấm kim loại, năm 1890 Schuster đã ước lượng được tỷ số khối lượng−điện tích của các thành phần trong chùm tia. Tuy vậy, giá trị ông thu được lớn hơn 1000 lần so với giá trị được dự đoán, do đó ít người đã để ý đến kết quả tính toán của ông vào thời điểm đó.\nNăm 1892, Hendrik Lorentz gợi ý rằng khối lượng của những hạt này (electron) có thể là hệ quả của lượng điện tích mà chúng mang theo.\nKhi đang nghiên cứu các khoáng chất huỳnh quang tự nhiên vào năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá thấy chúng phát ra các bức xạ mà không cần phải chiếu thêm một nguồn năng lượng từ bên ngoài. Những vật liệu phóng xạ này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học, bao gồm nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, ông đã phát hiện vật liệu phóng xạ có phát ra các hạt. Ông gọi những hạt này là các hạt alpha và hạt beta, dựa trên khả năng đâm xuyên của chúng qua vật chất. Năm 1900, Becquerel đã chứng tỏ chùm tia beta phát ra từ hạt nhân radium có thể bị làm lệch hướng trong một điện trường, và tỷ số khối lượng trên điện tích của chúng bằng với tỷ số này của chùm tia cathode. Chứng cứ này đã củng cố thêm quan điểm cho rằng electron tồn tại như là một trong các thành phần của nguyên tử.\nNăm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson, cùng với các đồng nghiệp John S. Townsend và H. A. Wilson, đã thực hiện các thí nghiệm chỉ ra chùm tia cathode thực sự chứa các hạt, hơn là một loại sóng, những hạt nguyên tử hoặc phân tử như nhiều nhà khoa học từng tin như vậy trước đó. Thomson đã có kết quả ước lượng khá tốt về điện tích \"e\" và khối lượng \"m\" của hạt tia cathode, mà ông gọi là \"corpuscles\", nó có khối lượng bằng một phần nghìn khối lượng của ion nhẹ nhất: ion hydro. Ông cũng đã chứng minh tỷ số điện tích−khối lượng, \"e\"/\"m\", có giá trị độc lập với vật liệu của bản cực cathode. Ông tiếp tục chứng tỏ thêm các vật liệu phóng xa, vật liệu nung nóng và vật liệu bị chiếu xạ có phát ra các hạt mang điện tích âm. Tên gọi electron về sau được cộng đồng khoa học chấp nhận sử dụng rộng rãi, chủ yếu do đề xuất của G. F. FitzGerald, J. Larmor và H. A. Lorentz.\nĐiện tích của electron đã được đo một cách chính xác hơn bởi các nhà vật lý Mỹ Robert Millikan và Harvey Fletcher trong thí nghiệm giọt dầu vào năm 1909, và kết quả được công bố vào 1911. Thí nghiệm sử dụng một điện trường để hãm các giọt dầu mang điện tích rơi trong không khí dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Thiết bị của họ có thể đo điện tích của 1–150 ion với sai số là 0,3%. Trước đó nhóm của Thomson cũng thực hiện thí nghiệm tương tự, sử dụng đám mây chứa các giọt nước tích điện tạo ra bởi sự điện phân,và thí nghiệm thực hiện bởi Abram Ioffe năm 1911, ông đã thu được kết quả tương tự một cách độc lập với nhóm Millikan khi sử dụng các vi hạt kim loại tích điện, và kết quả được công bố vào năm 1913. Tuy nhiên, các giọt dầu có tính ổn định hơn giọt nước bởi vì chúng có tốc độ bốc hơi chậm hơn, và do đó phù hợp hơn với thí nghiệm chính xác đòi hỏi thực hiện trong thời gian dài hơn.\nVào thời điểm bắt đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng dưới những điều kiện nhất định một hạt tích điện chuyển động nhanh trong buồng bọt có thể gây ra sự ngưng tụ của hơi nước siêu bão hòa trên quỹ đạo chuyển động của hạt. Năm 1911, Charles Wilson đã áp dụng nguyên lý này cho thiết bị buồng mây của mình, cho phép ông có thể chụp ảnh được quỹ đạo của các hạt tích điện, ví dụ như các electron chuyển động nhanh.\nLý thuyết nguyên tử.\nCho đến năm 1914, các thí nghiệm thực hiện bởi Ernest Rutherford, Henry Moseley, James Franck và Gustav Hertz hầu như đã khẳng định được cấu trúc nguyên tử bao gồm một hạt nhân cô đặc mang điện dương bao xung quanh bởi các electron có khối lượng rất nhỏ. Năm 1913, nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr giả thuyết các electron nằm trong các trạng thái có mức năng lượng bị lượng tử hóa, mức năng lượng của chúng được xác định bởi mômen động lượng của quỹ đạo electron quanh hạt nhân. Các electron có thể chuyển động trên những quỹ đạo này, bằng cách phát ra hay hấp thụ photon với tần số xác định. Với cơ sở là những quỹ đạo bị lượng tử hóa này, Bohr có thể giải thích một cách chính xác các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Tuy nhiên, mô hình của Bohr chưa thể giải thích được cường độ tương đối của các vạch này cũng như mô hình chưa thể giải thích quang phổ của những nguyên tử phức tạp hơn.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử được Gilbert Newton Lewis giải thích, khi vào năm 1916 ông đề xuất rằng liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử được duy trì bởi cặp electron chia sẻ giữa chúng. Sau đó, vào năm 1927, Walter Heitler và Fritz London đưa ra lý thuyết giải thích đầy đủ cho sự hình thành cặp electron và liên kết hóa học trong khuôn khổ của cơ học lượng tử. Năm 1919, nhà hóa học người Mỹ Irving Langmuir đưa ra mô hình tĩnh về nguyên tử và gợi ý rằng mọi electron được phân bố tuần tự theo \"những vỏ (gần) hình cầu đồng tâm, tất cả đều có độ dày bằng nhau\". Tiếp đó, ông chia những vỏ này ra thành một số ô, mà mỗi ô chứa một cặp electron. Với mô hình này, Langmuir có thể giải thích một cách định tính các tính chất hóa học của các nguyên tố trong bảng tuần hoàn, mà nhiều tính chất được lặp lại tuân theo định luật tuần hoàn trong bảng.\nNăm 1924, nhà vật lý người Áo Wolfgang Pauli nhận xét thấy cấu trúc tựa vỏ của nguyên tử có thể được giải thích bằng một tập hợp chứa bốn tham số xác định lên mỗi trạng thái năng lượng lượng tử, và mỗi trạng thái này không thể chiếm bởi nhiều hơn một electron. Việc không có nhiều hơn một electron chiếm chỗ ở cùng một trạng thái năng lượng lượng tử được phát biểu trong nguyên lý loại trừ Pauli. Cơ chế vật lý để giải thích cho tham số thứ tư, mà nó có hai giá trị phân biệt, được các nhà vật lý người Hà Lan Samuel Goudsmit và George Uhlenbeck đề xuất. Năm 1925, họ cho rằng một electron, cùng với mômen động lượng của quỹ đạo, còn sở hữu thêm mômen góc động lượng nội tại và mômen lưỡng cực từ. Điều này tương tự như sự tự quay của Trái Đất cũng như nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Mômen góc động lượng nội tại này được gọi là spin, và đưa ra cách giải thích cho sự tách vạch bí ẩn như được quan sát thấy ở các vạch quang phổ bằng phổ kế có độ phân giải cao; hiện tượng này được biết đến như là sự tách cấu trúc tinh tế.\nCơ học lượng tử.\nTrong luận án \"\" (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử) viết năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie giả thuyết rằng mọi vật chất có thể được biểu diễn bằng sóng de Broglie tương tự như sóng ánh sáng. Điều đó có nghĩa là dưới những điều kiện phù hợp, các electron và những hạt vật chất khác sẽ thể hiện những tính chất của sóng hoặc của hạt. Lý thuyết hạt ánh sáng được chứng tỏ khi nó thể hiện có vị trí định xứ trong không gian dọc theo quỹ đạo chùm sáng ở bất kỳ thời điểm nào. Bản chất sóng ánh sáng được hiện, ví dụ, khi một chùm sáng chiếu qua những khe hẹp song song nó sẽ tạo thành những vân giao thoa. Năm 1927 George Paget Thomson khám phá ra hiệu ứng giao thoa xuất hiện khi cho một chùm electron truyền qua những lá kim loại mỏng và kiểu thí nghiệm tương tự được các nhà vật lý người Mỹ Clinton Davisson và Lester Germer thực hiện khi cho chùm electron phản xạ từ tinh thể nikel và quan sát thấy hiệu ứng giao thoa. Các hiệu ứng này còn được gọi là hiện tượng nhiễu xạ electron.\nDự đoán của de Broglie về bản chất sóng của electron đưa Erwin Schrödinger thiết lập lên phương trình sóng miêu tả electron chuyển động dưới ảnh hưởng của hạt nhân trong nguyên tử. Năm 1926, với phương trình của mình, phương trình Schrödinger, ông đã miêu tả thành công sóng electron trong hệ nguyên tử. Hơn là chỉ việc tìm ra nghiệm xác định vị trí của một electron theo thời gian, phương trình sóng này cũng được áp dụng để dự đoán xác suất tìm thấy electron quanh vị trí cụ thể, đặc biệt vị trí gần nơi electron bị chặn trong không gian, mà tại đây phương trình sóng electron không thay đổi theo thời gian. Cách tiếp cận này đã đem đến một lý thuyết miêu tả cơ học lượng tử thứ hai (lý thuyết đầu tiên miêu tả bằng cơ học ma trận do Heisenberg phát triển năm 1925), và nghiệm của phương trình Schrödinger, giống như của Heisenberg, cho phép dẫn ra các trạng thái năng lượng của một electron trong nguyên tử hydro mà tương đương với các kết quả thu được bởi Bohr vào năm 1913, và miêu tả chính xác quang phổ nguyên tử hydro. Khi kể đến spin và tương tác giữa nhiều electron, cơ học lượng tử đưa ra những dự đoán chính xác về cấu hình electron trong những hệ nguyên tử phức tạp hơn hydro.\nNăm 1928, dựa trên các nghiên cứu của Wolfgang Pauli, Paul Dirac thiết lập nên một mô hình về electron – phương trình Dirac, nhất quán với thuyết tương đối hẹp, bằng cách áp dụng các điều kiện đối xứng và tương đối tính trong hình thức luận hamiltonian của cơ học lượng tử cho trường điện từ. Để có thể giải một số vấn đề trong phương trình tương đối tính của mình, năm 1930 Dirac nêu ra một mô hình chân không như là một biển chứa vô hạn các hạt có năng lượng âm, sau này gọi là biển Dirac. Mô hình này đã đưa ông đi đến dự đoán tồn tại positron, một hạt phản vật chất của electron. Hạt này sau đó được phát hiện vào năm 1932 bởi Carl Anderson, và ông đề xuất gọi các electron thường gặp là \"negatron\" và sử dụng thuật ngữ \"electron\" nhằm miêu tả những biến thể mang điện tích dương hoặc âm.\nNăm 1947 Willis Lamb, khi đang thực hiện nghiên cứu cùng với sinh viên Robert Retherford, đã tìm thấy có những trạng thái lượng tử riêng biệt của hydro, đáng ra phải có cùng mức năng lượng, lại được dịch chuyển tương đối với nhau; sự sai lệch này sau đó được gọi là dịch chuyển Lamb. Trong cùng thời gian, Polykarp Kusch, cùng với Henry M. Foley, đã khám phá bằng thí nghiệm mômen từ của electron có giá trị hơi lớn hơn so với dự đoán của lý thuyết Dirac. Giá trị chênh lệch nhỏ này sau đó được gọi là mômen lưỡng cực từ dị thường của electron. Sự chênh lệch này sau đó được giải thích trong lý thuyết điện động lực học lượng tử, phát triển bởi các nhà vật lý Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và\nRichard Feynman vào cuối thập niên 1940.\nMáy gia tốc hạt.\nVới sự phát triển của các loại máy gia tốc hạt trong nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn vào các tính chất của các hạt hạ nguyên tử. Thành công đầu tiên trong nỗ lực gia tốc electron sử dụng cảm ứng điện từ được thực hiện vào năm 1942 bởi Donald Kerst. Máy betatron ban đầu của ông đạt đến mức năng lượng 2,3 MeV, và những máy betatron về sau đạt đến mức 300 MeV. Năm 1947, bức xạ đồng bộ (synchrotron radiation) được phát hiện tại máy gia tốc synchrotron, đưa electron đạt mức năng lượng 70 MeV, tại cơ sở nghiên cứu của General Electric. Bức xạ này là do các electron chuyển động gia tốc đi qua một từ trường ở vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng.\nMáy gia tốc va chạm hạt ADONE là máy đầu tiên đạt mức năng lượng của chùm tia cỡ 1,5 GeV, bắt đầu hoạt động vào năm 1968. Trong thiết bị này, các hạt electron và positron được gia tốc theo hai hướng ngược chiều nhau, như vậy gần như làm tăng gấp đôi năng lượng va chạm so với máy gia tốc chùm tia electron bắn vào một bia cố định. Máy va chạm lớn Electron–Positron (Large Electron–Positron Collider; LEP) ở CERN, hoạt động từ 1989 đến 2000, đạt tới mức năng lượng va chạm 209 GeV và có những đo lường quan trọng cho Mô hình Chuẩn của vật lý hạt.\nGiam giữ từng electron.\nHiện nay từng electron đơn lẻ có thể dễ dàng bị giam hãm trong những transistor CMOS siêu nhỏ (, ) hoạt động ở ngưỡng nhiệt độ lạnh sâu từ −269 °C (4 K) cho đến khoảng −258 °C (15 K). Hàm sóng electron lan truyền trong một dàn chất bán dẫn và khi bỏ qua tương tác của nó với các electron trong dải hóa trị, thì có thể coi như là hàm của electron đơn lẻ, bằng cách thay thế khối lượng của nó bằng tenxơ khối lượng hiệu dụng.\nCác đặc tính.\nPhân loại.\nTrong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt, electron thuộc về nhóm các hạt hạ nguyên tử gọi là lepton, mà được cho là những hạt cơ bản. Electron có khối lượng nhỏ nhất trong nhóm lepton (cũng như trong nhóm các hạt mang điện) và thuộc về thế hệ thứ nhất của hạt cơ bản. Thế hệ thứ hai và thứ ba bao gồm các lepton mang điện, hạt muon và tau, chúng có giá trị điện tích, spin và tham gia tương tác giống với của electron, nhưng có khối lượng lớn hơn. Lepton khác so với những thành phần cơ bản khác của vật chất, hạt quark, khi lepton không tham gia vào tương tác mạnh. Tất cả các thành viên trong nhóm lepton đều là fermion, bởi vì chúng đều có spin bán nguyên; electron có spin .\nCác tính chất cơ bản.\nKhối lượng bất biến (khối lượng nghỉ) của electron xấp xỉ bằng  kilogram, hay  đơn vị khối lượng nguyên tử. Trên cơ sở của nguyên lý sự tương đương khối lượng−năng lượng của Einstein, khối lượng này tương ứng với mức năng lượng nghỉ 0,511 MeV. Tỷ số giữa khối lượng của một proton so với của electron bằng khoảng 1836. Các đo đạc thiên văn cho thấy tỷ số khối lượng proton trên khối lượng electron vẫn giữ nguyên không đổi, như được dự đoán bởi Mô hình Chuẩn, trong thời gian ít nhất bằng một nửa tuổi của vũ trụ.\nElectron có điện tích bằng coulomb, một giá trị đã được sử dụng làm đơn vị điện tích chuẩn cho các hạt hạ nguyên tử, và cũng được gọi là điện tích cơ bản. Trong khoảng giới hạn sai số thí nghiệm, giá trị điện tích của electron bằng giá trị của proton nhưng mang dấu ngược lại. Vì ký hiệu \"e\" được sử dụng cho điện tích cơ bản, electron thường được ký hiệu là , với dấu trừ thể hiện cho điện tích âm. Positron được ký hiệu bởi vì nó có cùng các tính chất với electron nhưng mang điện tích dương.\nElectron có mômen động lượng nội tại hay spin . Do tính chất này mà electron thường được coi các hạt có spin-. Những hạt như vậy có độ lớn spin bằng  \"ħ\", trong khi kết quả đo từ hình chiếu của spin lên một trục bất kỳ chỉ có thể bằng ±. Ngoài spin, electron còn có mômen từ hướng dọc theo trục spin của nó. Giá trị mômen từ electron xấp xỉ bằng một Bohr magneton,=\\frac{e\\hbar}{2m_{\\mathrm{e}}}.</math>|group=gc}} là hằng số vật lý bằng joule trên tesla. Hướng của spin so với hướng của mômen động lượng electron xác định lên tính chất của các hạt cơ bản được biết đến là tính xoắn (\"helicity\").\nElectron không có cấu trúc con đã biết, nên nó thường được coi là một hạt điểm, hay cụ thể là một điện tích điểm không có không gian trong. Quan sát electron đơn lẻ trong bẫy Penning gợi ý rằng giới hạn trên của bán kính của nó bằng 10−22 mét. Giá trị giới hạn trên của bán kính electron bằng 10−18 mét có thể dẫn ra từ nguyên lý bất định kết hợp với năng lượng. Ngoài ra, còn có một hằng số vật lý gọi là \"bán kính electron cổ điển\", với giá trị là , lớn hơn rất nhiều bán kính của proton. Tuy nhiên, giá trị này được tìm từ những phép tính đơn giản mà bỏ qua các hiệu ứng của cơ học lượng tử; trong thực tế, giá trị bán kính electron cổ điển không có nhiều ý nghĩa khi đề cập đến cấu trúc cơ bản bên trong của electron.\nCó những hạt cơ bản khác tự động phân rã thành những hạt khối lượng nhẹ hơn. Ví dụ cho muon, nó có thời gian sống trung bình  giây, và phân rã thành một electron, một neutrino muon và một phản neutrino electron. Hạt electron, mặt khác, theo lý thuyết được cho là hạt bền: electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất với điện tích khác 0, do đó sự phân rã của nó sẽ vi phạm định luật bảo toàn điện tích. Thực nghiệm xác định giới hạn dưới của thời gian sống của electron là năm, ở mức 90% độ tin cậy.\nCác tính chất lượng tử.\nNhư mọi hạt khác, các electron có hành xử như những sóng. Đặc điểm này được gọi là lưỡng tính sóng–hạt và được chứng minh bằng thí nghiệm giao thoa hai khe.\nBản chất sóng của electron cho phép nó đi qua hai khe song song một cách đồng thời, hơn là chỉ một khe ở một thời điểm như đối với trường hợp của hạt. Trong cơ học lượng tử, tính chất sóng của một hạt được miêu tả bằng toán học dưới dạng hàm giá trị phức, hay hàm sóng, thường được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp psi (\"ψ\"). Khi tính bình phương giá trị tuyệt đối của hàm này, sẽ cho xác suất quan sát được một hạt ở một vị trí cho trước—hay chính là mật độ xác suất.\nElectron là những hạt đồng nhất bởi vì không thể phân biệt được chúng dựa trên những tính chất vật lý nội tại của hạt. Trong cơ học lượng tử, điều này có nghĩa là một cặp electron tương tác có thể đổi chỗ cho nhau mà không làm thay đổi trạng thái quan sát được của hệ. Hàm sóng của các fermion, bao gồm electron, là hàm phản xứng, có nghĩa rằng nó thay đổi dấu khi hai electron trao đổi vị trí cho nhau; hay, , với các biến \"r\"1 và \"r\"2 tương ứng với electron thứ nhất và thứ hai. Vì giá trị tuyệt đối không thay đổi khi hai hạt đổi chỗ cho nhau, điều này tương ứng với xác suất của hai sự kiện là bằng nhau. Ngược lại, hạt boson, như photon, lại có hàm sóng đối xứng.\nTrong trường hợp phản xứng, các nghiệm của phương trình sóng cho các electron tương tác sẽ cho xác suất bằng 0 đối với mỗi cặp chiếm cùng một vị trí hoặc trạng thái. Kết quả này tương ứng với nguyên lý loại trừ Pauli, phát biểu rằng không thể có hai electron chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Nguyên lý này giải thích cho nhiều tính chất của các electron hóa học. Ví dụ, nó làm cho nhóm các electron liên kết chiếm những orbital khác nhau trong một nguyên tử, hơn là đan xen lẫn nhau trong cùng một orbital.\nHạt ảo.\nTrong một bức tranh đơn giản, mỗi photon đôi lúc được coi như là tổ hợp của một hạt electron ảo với phản hạt ảo của nó, positron ảo, mà chúng nhanh chóng hủy lẫn nhau khi vừa mới sinh ra trong một thời gian rất ngắn. Sự kết hợp của biến thiên năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt này, và khoảng thời gian trong đó chúng tồn tại, phải nằm trong ngưỡng chấp nhận được tuân theo nguyên lý bất định Heisenberg, Δ\"E\" · Δ\"t\" ≥ \"ħ\". Để thỏa mãn nguyên lý này, năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt ảo này, Δ\"E\", có thể được \"mượn\" từ chân không trong một khoảng thời gian, Δ\"t\", sao cho tích của chúng không được lớn hơn hằng số Planck thu gọn, . Do vậy, đối với một electron ảo, Δ\"t\" lớn nhất bằng . (nghĩa là nếu cặp electron ảo−positron ảo mượn năng lượng Δ\"E\" từ chân không lượng tử thì phải trả lại năng lượng này cho chân không sau tối đa một khoảng thời gian Δ\"t\" sao cho Δ\"E\" · Δ\"t\" ≤ \"ħ\")\nKhi một cặp electron–positron ảo đang tồn tại, lực tĩnh điện Coulomb từ điện trường tức thời xung quanh hạt electron sẽ làm hút hạt positron về phía electron gốc ban đầu, trong khi electron được sinh ra chịu một lực đẩy. Hiệu ứng này chính là sự phân cực chân không. Về mặt hiệu ứng, chân không hành xử như một môi trường có dielectric permittivity lớn hơn 1 đơn vị. Do vậy điện tích hữu hiệu của một electron thực sự nhỏ hơn giá trị thực của nó, và điện tích giảm dần khi khoảng cách tăng dần tính từ electron. Sự phân cực này đã được xác nhận bằng thực nghiệm vào năm 1997 tại máy gia tốc hạt TRISTAN ở Nhật Bản. Các hạt ảo cũng tạo ra hiệu ứng lá chắn đáng kể cho khối lượng của electron.\nTương tác với các hạt ảo cũng giải thích sự sai lệch nhỏ (khoảng 0,1%) về giá trị của mômen từ nội tại của electron so với magneton Bohr (sai lệch này được gọi là mômen từ dị thường của electron). Sự khớp chính xác tuyệt vời giữa giá trị tính toán trên lý thuyết và giá trị đo được bằng thực nghiệm của mômen từ dị thường electron được coi là một trong những thành tựu quan trọng nhất của điện động lực học lượng tử.\nNghịch lý trong vật lý cổ điển về hạt điểm electron lại có mômen góc spin và mômen từ nội tại có thể được giải quyết bởi sự hình thành của các cặp hạt photon ảo trong điện trường sinh bởi electron. Các photon ảo này (đến lượt lại sinh ra các cặp electron−positron ảo khác) làm cho electron luôn dịch chuyển xung quanh vị trí của nó (còn gọi là zitterbewegung), mà tổng hợp lại thành một chuyển động tròn với hiệu ứng tiến động. Chuyển động này tạo ra cả spin và mômen từ của electron. Trong nguyên tử, sự sinh các cặp hạt photon ảo giúp giải thích hiệu ứng dịch chuyển Lamb như đã quan sát thấy ở các vạch quang phổ.\nTương tác.\nElectron sinh ra từ trường tạo ra lực hút lên hạt mang điện dương, như proton, và lực đẩy lên hạt mang điện âm. Cường độ của lực này trong điện động lực học cổ điện được xác định bằng định luật nghịch đảo bình phương Coulomb. Khi một electron đang trong chuyển động, nó tạo ra một từ trường bao quanh. Định luật Ampère-Maxwell cho biết mối liên hệ giữa từ trường và chuyển động của dòng các electron (dòng điện) tương ứng với người quan sát. Tính chất cảm ứng này cung cấp một từ trường dẫn động làm quay động cơ điện. Trường điện từ của một hạt mang điện bất kỳ đang trong chuyển động được miêu tả bằng thế Liénard–Wiechert, thế này đúng cho cả trường hợp hạt chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (hay vận tốc tương đối tính).\nKhi một electron chuyển động trong từ trường, nó chịu tác dụng của lực Lorentz tác động theo phương vuông góc với mặt phẳng xác định bởi vectơ từ trường và vectơ vận tốc của electron. Lực hướng tâm làm cho electron chuyển động trên một quỹ đạo xoắn ốc trong từ trường với bán kính Larmor. Sự gia tốc từ chuyển động theo đường cong ghềnh này làm cảm ứng electron phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ đồng bộ. Năng lượng bức xạ này làm hãm electron, hay còn gọi là lực Abraham–Lorentz–Dirac, tạo ra ma sát làm chậm chuyển động của electron. Lực này cũng gây ra tác động ngược (back-reaction) lên điện từ trường của chính electron.\nTrong điện động lực học lượng tử photon là hạt truyền tải tương tác điện từ giữa các hạt. Một electron đơn lẻ chuyển động với vận tốc đều không thể phát ra hay hấp thụ một photon thực; do sẽ vi phạm định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Mặt khác, các photon ảo có thể truyền động lượng giữa hai hạt mang điện tích. Sự trao đổi này của các photon ảo, ví dụ, làm tạo ra lực Coulomb. Bức xạ năng lượng xuất hiện khi một electron chuyển động bị làm lệch quỹ đạo gây bởi điện trường của một hạt mang điện khác, như proton. Sự gia tốc của electron làm phát ra bức xạ Bremsstrahlung.\nMột photon (ánh sáng) va chạm phi đàn hồi với một electron (tự do) được gọi là tán xạ Compton. Kết quả của va chạm này là động lượng và năng lượng được truyền qua giữa các hạt, làm thay đổi bước sóng của photon bằng một lượng được gọi là dịch chuyển Compton. Độ dịch chuyển lớn nhất của bước sóng bằng \"h\"/\"m\"e\"c\", hay còn gọi là bước sóng Compton. Đối với một electron, nó có giá trị bằng . Khi bước sóng của ánh sáng là dài (ví dụ bước sóng của ánh sáng khả kiến bằng 0,4–0,7 μm) sự dịch chuyển bước sóng có thể bỏ qua được. Trong trường hợp này, tương tác giữa ánh sáng và electron tự do được gọi là tán xạ Thomson hay tán xạ Thomson tuyến tính.\nĐộ mạnh tương đối của tương tác điện từ giữa hai hạt điện tích, chẳng hạn giữa một electron và một proton, được xác định bởi hằng số cấu trúc tế vi. Đây là đại lượng không thứ nguyên hình thành dựa trên tỉ số của hai dạng năng lượng: năng lượng tĩnh điện của lực hút (hoặc đẩy) ở khoảng cách bằng một lần bước sóng Compton, và năng lượng nghỉ của các hạt mang điện tích. Nó có giá trị bằng \"α\" ≈ , hay xấp xỉ bằng .\nKhi electron và positron va chạm, chúng hủy lẫn nhau, làm phát ra hai hoặc ba photon tia gamma. Nếu electron và positron có động lượng bỏ qua được, va chạm có thể hình lên nguyên tử positronium trước khi hai hạt hủy lẫn nhau để hình ra các photon có tổng năng lượng 1,022 MeV. Mặt khác, một photon năng lượng cao có thể biến đổi thành cặp electron và positron bởi quá trình sinh cặp (pair production), nhưng chỉ trong sự có mặt của một hạt điện tích gần nó, như một hạt nhân chẳng hạn.\nTrong lý thuyết tương tác điện yếu, thành phần hàm sóng hướng bên trái (chiral) của electron tạo thành bộ đôi isospin yếu với neutrio electron. Điều này có nghĩa rằng trong tương tác yếu, neutrino electron hành xử như các electron. Mỗi loại hạt của bộ đôi này (doublet) có thể tham gia vào tương tác dòng tích (charged current) bằng cách phát ra hoặc hấp thụ một boson và biến đổi sang thành hạt kia. Điện tích được bảo toàn trong quá trình này bởi vì boson W cũng mang điện tích, làm cho tổng điện tích của quá trình biến đổi là không thay đổi. Các tương tác dòng tích chịu trách nhiệm cho hiện tượng phân rã beta trong một nguyên tử phóng xạ. Cả electron và neutrino electron có thể tham gia vào tương tác dòng trung hòa (neutral current interaction) thông qua sự trao đổi một boson , và chịu trách nhiệm cho tán xạ đàn hồi neutrino−electron.\nNguyên tử và phân tử.\nMột electron có thể \"liên kết\" với hạt nhân của một nguyên tử bởi lực hút Coulomb. Một hệ có một hoặc nhiều electron liên kết với một hạt nhân được gọi là một nguyên tử. Nếu số electron khác với số điện tích của hạt nhân, nguyên tử đó được gọi là một ion. Hành xử dạng sóng của một electron liên kết được miêu tả bằng một hàm sóng gọi là orbital nguyên tử. Mỗi orbital đặc trưng bởi các số lượng tử như mức năng lượng, mômen động lượng và hình chiếu của mômen góc, và chỉ có các orbital rời rạc tồn tại xung quanh hạt nhân. Theo nguyên lý loại trừ Pauli mỗi orbital có thể chiếm giữ bởi tối đa hai electron, và chúng phải có số lượng tử spin khác nhau.\nElectron có thể nhảy sang các orbital khác nhau thông qua sự hấp thụ hoặc phát ra photon có năng lượng bằng hiệu giữa hai mức năng lượng đó. Các phương pháp khác làm electron chuyển sang orbital khác bao gồm sự va chạm của nó với hạt khác, như các electron, và nhờ hiệu ứng Auger. Để thoát ra khỏi nguyên tử, năng lượng của electron phải tăng và lớn hơn năng lượng liên kết với nguyên tử. Điều này xảy ra, ví dụ, như ở hiệu ứng quang điện, khi một photon tới va chạm có năng lượng lớn hơn năng lượng ion hóa nguyên tử và bị electron hấp thụ.\nMômen góc orbital của electron bị lượng tử hóa. Bởi electron mang điện, nó có một mômen từ orbital tỷ lệ với mômen góc. Tổng mômen từ của một nguyên tử bằng tổng vec tơ của mô men từ spin và mômen từ orbital của tất cả các electron và hạt nhân. Mômen từ của hạt nhân là nhỏ so với của các electron. Mômen từ của các electron chiếm giữ cùng một orbital (còn gọi là cặp electron) triệt tiêu lẫn nhau.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử chính là tương tác điện từ giữa chúng, như miêu tả bởi các định luật của cơ học lượng tử. Liên kết mạnh nhất hình thành bởi chia sẻ hoặc cho/nhận các electron giữa các nguyên tử, dẫn đến hình thành lên các phân tử. Bên trong một phân tử, các electron chuyển động dưới ảnh hưởng của một vài hạt nhân, và chiếm giữ các orbital phân tử; giống như chúng chiếm giữ các orbital trong một nguyên tử cô lập. Một yếu tố cơ bản trong các cấu trúc phân tử đó là sự tồn tại các cặp electron. Đây là các electron có spin ngược nhau, cho phép chúng có thể chiếm giữ cùng một orbital phân tử mà không vi phạm nguyên lý loại trừ Pauli (tương tự như ở nguyên tử). Các orbital phân tử khác nhau có phân bố mật độ electron theo không gian khác nhau. Ví dụ, ở các cặp electron liên kết (nghĩa là các cặp thực sự liên kết các nguyên tử với nhau) có thể được tìm thấy với xác suất cực đại nằm ở vùng thể tích tương đối nhỏ giữa các hạt nhân. Ngược lại, ở các cặp electron không liên kết chúng phân bố trong thể tích lớn hơn bao quanh hạt nhân.\nDẫn điện.\nNếu một vật thể có nhiều hoặc ít hơn lượng electron cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân nguyên tử, thì tổng thể vật đó có mang điện tích. Khi có nhiều hơn electron, vật đó mang điện âm. Khi có ít electron hơn số lượng proton trong hạt nhân nguyên tử, vật mang điện dương. Khi số electron và proton bằng nhau, điện tích của chúng hủy lẫn nhau và vật thể ở trạng thái cân bằng điện (hay trung hòa). Nhờ tác động chà xát có thể làm vật thể vĩ mô mang điện thông qua hiệu ứng điện ma sát (triboelectric effect).\nCác electron độc lập chuyển động trong chân không được gọi là các electron \"tự do\". Các electron trong kim loại cũng hành xử như chúng chuyển động tự do. Thực sự thì các hạt được gọi là các electron trong kim loại và những thể rắn khác là những giả-electron—giả hạt, mà có cùng điện tích, spin, và mômen từ như các electron thực thụ nhưng có khối lượng khác với nó. Khi các electron tự do—trong chân không lẫn kim loại—chuyển động, chúng tạo ra một dòng mạng lưới điện tích được gọi là dòng điện, từ đó tạo ra một từ trường. Giống như một dòng điện có thể được sinh ra từ sự thay đổi của một từ trường. Những tương tác và mối quan hệ này được miêu tả bởi phương trình Maxwell.\nỞ mỗi nhiệt độ nhất định, từng vật liệu có một độ dẫn điện ảnh hưởng đến giá trị của dòng điện khi áp vào một điện thế. Những vật dẫn điện tốt bao gồm kim loại như đồng và vàng, trong khi thủy tinh và Teflon lại dẫn điện kém. Ở bất kỳ vật liệu cách điện nào, các electron vẫn bám vào các nguyên tử và vật liệu có tính chất như là một chất cách điện. Hầu hết các chất bán dẫn có mức độ dẫn điện biến đổi từ phạm vi dẫn điện cực tốt cho đến cách điện hoàn toàn. Mặt khác, các kim loại có cấu trúc dải điện tử chứa các vùng năng lượng được lấp đầy một phần bởi electron. Sự có mặt của những vùng năng lượng này cho phép các electron trong kim loại hành xử như chúng được tự do hoặc gọi là các electron phi định xứ (delocalized electrons). Những electron không liên kết với một nguyên tử nhất định, do vậy khi áp dụng một điện trường, chúng chuyển động tự do như một chất khí (được gọi là khí Fermi) đi qua vật liệu giống như các electron tự do.\nBởi vì có sự va chạm giữa các electron với các nguyên tử, vận tốc trôi của các electron trong một vật dẫn có độ lớn cỡ vài milimét trên một giây. Tuy nhiên, trường hợp có sự thay đổi dòng điện từ một điểm trong vật liệu gây ra sự thay đổi dòng điện ở điểm khác trong vật liệu, thì tốc độ lan truyền của hiệu ứng này, điển hình bằng khoảng 75% tốc độ ánh sáng. Điều này xảy ra bởi vì tín hiệu điện lan truyền như một sóng, với vận tốc phụ thuộc vào hằng số điện môi của vật liệu.\nĐa số kim loại có độ dẫn nhiệt tương đối tốt, chủ yếu bởi vì các electron phi định xứ vận chuyển năng lượng nhiệt tự do giữa các nguyên tử. Tuy nhiên, không giống như sự dẫn điện, sự dẫn nhiệt của một kim loại gần như độc lập với nhiệt độ của vật liệu. Điều này đã được phát biểu bằng định luật Wiedemann–Franz, nói rằng tỉ số độ dẫn nhiệt trên độ dẫn điện tỷ lệ thuận với nhiệt độ của vật liệu. Sự mất trật tự bởi nhiệt trong dàn tinh thể nguyên tử kim loại làm tăng điện trở của vật liệu, tạo ra sự phụ thuộc vào nhiệt độ đối với dòng điện.\nKhi làm lạnh vật liệu xuống dưới một mức gọi là nhiệt độ tới hạn, vật liệu trải qua sự chuyển pha trong đó nó mất hoàn toàn tính kháng điện (điện trở) đối với dòng điện, hay chính là hiệu ứng siêu dẫn. Trong lý thuyết BCS, các cặp electron được gọi là cặp Cooper trong chuyển động của chúng bắt cặp với nguyên tử gần đấy thông qua những dao động dàn nguyên tử gọi là phonon, do đó cặp Cooper tránh được va chạm với các nguyên tử mà thường tạo ra điện trở. (Các cặp Cooper có bán kính xấp xỉ bằng 100 nm, do đó nếu coi chúng như sóng vật chất thì chúng có thể chồng chập lẫn nhau.) Tuy nhiên, cơ chế cho hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu vẫn chưa có lý thuyết giải thích thỏa đáng.\nCác electron bên trong vật dẫn, mà chính chúng cũng là những giả hạt, khi đặt trong nhiệt độ rất gần với độ không tuyệt đối, có thể được phân ra thành ba loại giả hạt: spinon, orbiton và holon. Hạt đầu tiên mang spin và mômen từ, hạt tiếp theo mang vị trí orbital của nó trong khi hạt còn lại mang điện tích.\nChuyển động và năng lượng.\nTheo thuyết tương đối hẹp của Einstein, khi tốc độ của một electron tiệm cận tới tốc độ ánh sáng, người quan sát từ một hệ quy chiếu quán tính sẽ đo được khối lượng tương đối tính của hạt tăng lên, do đó khiến cho nó càng khó để có thể gia tốc nó từ bên trong hệ quy chiếu của người quan sát. Tốc độ của một electron có thể tiếp cận đến, nhưng không bao giờ bằng, tốc độ của ánh sáng trong chân không, \"c\". Tuy nhiên, khi các electron tương đối tính—là những electron chuyển động với tốc độ gần bằng \"c\"—chuyển động trong môi trường điện môi như nước, nơi vận tốc ánh sáng trong nó nhỏ hơn nhiều so với \"c\", các electron trong môi trường này có thể chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Khi chúng tương tác va chạm với môi trường, chúng tạo ra một ánh sáng nhạt được gọi là bức xạ Cherenkov.\nCác hiệu ứng trong thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên một đại lượng gọi là hệ số Lorentz, được xác định bằng formula_1 với \"v\" là tốc độ của hạt. Động năng \"K\"e của một electron chuyển động với vận tốc \"v\" bằng:\nvới \"m\"e là khối lượng của electron. Ví dụ, ở máy gia tốc thẳng Stanford có thể gia tốc một electron tới động năng gần bằng 51 GeV. Vì một electron hành xử như dạng sóng, ở một vận tốc bất kỳ nó có một bước sóng de Broglie đặc trưng. Bước sóng này được cho bởi \"λ\"e = \"h\"/\"p\" với \"h\" là hằng số Planck và \"p\" là động lượng. Đối với electron có động năng 51 GeV ở trên, bước sóng de Broglie bằng , đủ nhỏ để khám phá các cấu trúc có kích thước nhỏ hơn kích cỡ của một hạt nhân nguyên tử.\nSự hình thành.\nLý thuyết Vụ Nổ Lớn là lý thuyết khoa học được chấp nhận rộng rãi hiện nay miêu tả những giai đoạn ban đầu của sự tiến hóa của Vũ trụ. Ở những miligiây đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ trên 10 tỷ kelvin và các photon có năng lượng trung bình trên một triệu electronvolt. Các photon này có đủ năng lượng mà khi tương tác với nhau có thể dẫn tới sự hình thành cặp electron và positron. Ngược lại, những cặp positron−electron hủy lẫn nhau và phát ra các photon năng lượng cao:\nTrạng thái cân bằng giữa các electron, positron và photon được duy trì trong suốt giai đoạn này của sự tiến hóa Vũ trụ. Khi 15 giây trôi qua, tuy nhiên, nhiệt độ của Vũ trụ lúc này giảm xuống dưới ngưỡng cho phép hình thành cặp hạt electron−positron. Phần lớn các electron và positron tồn tại hủy lẫn nhau, giải phóng bức xạ gamma làm Vũ trụ nóng lên trong một thời gian ngắn.\nVì một lý do nào đó chưa được biết chắc chắn, trong suốt quá trình hủy cặp có sót lại một số lượng hạt nhiều hơn phản hạt vật chất. Cụ thể là có dư ra 1 electron tồn tại trong mỗi 1 tỷ cặp hạt electron−positron. Số lượng dư sót lại này bằng với số lượng proton còn dư từ quá trình hủy cặp hạt tương tự proton và phản proton, trong một điều kiện được gọi là bất đối xứng baryon, điều này mang đến tổng điện tích của toàn bộ Vũ trụ gần như bằng zero. Những proton và neutron còn dư lại bắt đầu tham gia vào các phản ứng với nhau—quá trình gọi là tổng hợp hạt nhân, tạo ra các đồng vị của hydro và heli, và một ít hạt nhân lithi. Các phản ứng này đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian ở sau năm phút. Bất kỳ neutron còn lại nào sẽ trải qua phản ứng phân rã beta âm với nửa thời gian sống bằng khoảng một nghìn giây, giải phóng ra một proton và một electron,\nTrong khoảng 300.000–400.000 năm tiếp theo, lượng các hạt electron còn lại có năng lượng quá lớn để có thể liên kết vào các hạt nhân nguyên tử. Giai đoạn tiếp theo là sự tái kếp hợp electron vào hạt nhân, khi ấy các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự giãn nở của vũ trụ làm cho vật chất trở lên trong suốt với bức xạ.\nGần một triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, thế hệ các ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành. Trong lòng một ngôi sao, dây chuyền phản ứng tổng hợp hạt nhân sao cho ra các sản phẩm trong đó có positron. Những hạt phản vật chất này ngay lập tức hủy với các electron, giải phóng tia gamma. Gộp chung lại số lượng hạt electron bị giảm dần, và tương ứng số lượng hạt neutron tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa sao cũng hình thành các sản phẩm là những đồng vị phóng xạ. Các đồng vị này có thể sau đó trải qua phân rã beta trừ, phát ra một electron và một phản neutrino từ hạt nhân. Một ví dụ là đồng vị cobalt-60 (60Co), mà phân rã thành nickel-60 (60Ni).\nCuối chu trình tiến hóa của chúng, một ngôi sao có khối lượng lớn hơn 20 lần khối lượng Mặt Trời đi đến kết cục suy sụp hấp dẫn để tạo thành một lỗ đen. Theo vật lý cổ điển, bên trong những ngôi sao khối lượng lớn này xuất hiện lực hút hấp dẫn đủ mạnh để ngăn bất kỳ thứ gì, kể cả bức xạ điện từ, thoát ra khỏi bán kính Schwarzschild. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử cho phép có khả năng tồn tại bức xạ Hawking ở phạm vi khoảng cách này. Các electron (và positron) được cho là tạo ra ở chân trời sự kiện của những tàn dư sao.\nKhi một cặp hạt ảo (như gồm một electron và một positron) được tạo ra tại biên giới của chân trời sự kiện, sự phân bố ngẫu nhiên trong vị trí của hạt có thể làm cho một trong hai hạt nằm ở bên trong chân trời sự kiện; mà quá trình này được gọi là sự xuyên hầm lượng tử. Thế năng hấp dẫn của lỗ đen có thể cấp năng lượng để biến một hạt ảo nằm bên ngoài chân trời sự kiện trở thành một hạt thực, cho phép nó bật phóng ra vào không gian. Đổi lại, hạt còn lại của cặp mang năng lượng âm và rơi về vùng kì dị lỗ đen, dẫn đến tổng cộng khối lượng−năng lượng của lỗ đen bị giảm đi. Tốc độ bức xạ Hawking tăng tiến khi khối lượng lỗ đen giảm dần, làm cho lỗ đen bốc hơi và cuối cùng là phát nổ.\nTia vũ trụ là những hạt chuyển động trong không gian với năng lượng cao. Các sự kiện năng lượng cao đến cỡ đã được ghi nhận. Khi những hạt này va chạm với các nucleon trong khí quyển Trái Đất, một trận mưa các hạt được tạo ra, bao gồm các pion. Hơn một nửa bức xạ vũ trụ được quan sát trên bề mặt Trái Đất có chứa các muon. Muon là một hạt loại lepton hình thành tại thượng tầng khí quyển sau quá trình phân rã của một pion.\nĐến lượt muon, nó có thể phân rã thành electron hoặc positron.\nQuan sát.\nQuan sát electron từ xa đòi hỏi việc đo được năng lượng bức xạ của chúng. Ví dụ, trong môi trường năng lượng cao như ở vành nhật hoa của một ngôi sao, các electron tự do tạo thành trạng thái plasma phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ Bremsstrahlung. Khí electron có thể biểu hiện dao động plasma, đó là những sóng gây bởi những biến đổi đồng bộ trong mật độ electron, và những sóng này tạo ra phát xạ năng lượng có thể phát hiện được nhờ quan sát qua kính thiên văn vô tuyến.\nTần số của một photon tỷ lệ với năng lượng của nó. Khi một electron liên kết trong nguyên tử chuyển trạng thái giữa các mức năng lượng khác nhau, nó hấp thụ hoặc phát ra photon ở những tần số đặc trưng. Ví dụ, khi chiếu nguồn bức xạ phổ liên tục vào các nguyên tử sẽ xuất hiện các vạch phổ hấp thụ đặc trưng trong quang phổ của bức xạ phản xạ. Mỗi nguyên tố hoặc phân tử thể hiện một lớp đặc trưng các vạch quang phổ, như các vạch quang phổ hydro. Những phép đo lường quang phổ về cường độ và bề rộng của các vạch này cho phép xác định được thành phần và tính chất vật lý của một chất cần xác định.\nTrong điều kiện của phòng thí nghiệm, có thể quan sát tương tác của từng electron đơn lẻ nhờ các máy gia tốc hạt nhân, mà cho phép đo những tính chất cụ thể như năng lượng, spin và điện tích. Nhờ sự phát triển của các kỹ thuật bẫy ion như bẫy Paul và bẫy Penning cho phép giam giữ các hạt mang điện trong một thể tích đủ nhỏ với thời gian dài. Điều này đã cho phép đo lường các tính chất cũng như thao tác lên những hạt này. Ví dụ, bẫy Penning từng được ứng dụng để chứa một electron đơn lẻ trong thời gian 10 tháng. Mômen từ của electron đã được đo với độ chính xác đến 11 chữ số thập phân mà vào năm 1980, độ chính xác này còn lớn hơn độ chính xác đo được của bất kỳ các hằng số vật lý khác.\nBộ phim chụp ảnh đầu tiên về sự phân bố năng lượng của electron đã được thực hiện bởi một đội các nhà vật lý tại Đại học Lund ở Thụy Điển vào tháng 2 năm 2008. Họ đã sử dụng một xung nhịp ánh sáng cực ngắn, hay gọi là các xung atto giây, cho phép lần đầu tiên chụp ảnh được chuyển động của một electron.\nSự phân bố của các electron trong chất rắn có thể được biểu hiện nhờ kỹ thuật chụp quang phổ bức xạ phân giải góc (angle-resolved photoemission spectroscopy, ARPES). Kỹ thuật này ứng dụng hiệu ứng quang điện để đo hàm phân bố không gian giàn tinh thể—một hàm toán học biểu diễn đặc tính cấu trúc tuần hoàn được áp dụng để suy đoán ra cấu trúc ban đầu của tinh thể. ARPES được ứng dụng để xác định hướng, tốc độ và sự tán xạ của các electron bên trong vật liệu.\nCác ứng dụng plasma.\nChùm hạt.\nTrong công nghệ và kỹ thuật, các chùm tia electron đã được ứng dụng để thực hiện hàn bằng chùm electron giữa hai loại vật liệu. Chúng cho phép mật độ năng lượng của chùm tia hàn lên tới 107 W·cm−2 được tập trung trong một hình nón tròn đường kính cỡ mà thường không cần đòi hỏi phải có lớp vật liệu đệm thứ 3. Kỹ thuật hàn này phải được thực hiện trong chân không để tránh các electron va chạm với một trường khí xung quanh trước khi chúng đến được vật liệu cần hàn, và nó có thể được sử dụng để nối các loại vật liệu dẫn điện mà những biện pháp hàn khác không phù hợp để áp dụng.\nQuang khắc chùm điện tử (EBL) là phương pháp tạo các chi tiết bán dẫn ở mức phân giải nhỏ hơn 1 µm. Kỹ thuật này có hạn chế là giá thành cao, tốc độ sản xuất chậm, cần phải vận hành chùm điện tử trong môi trường chân không cao và các electron có xu hướng tán xạ trên bề mặt vật liệu. Độ phân giải tối đa của phương pháp này vào khoảng 10 nm. Vì lý do này, EBL được ứng dụng chủ yếu cho sản xuất một số nhỏ các vi mạch chuyên biệt.\nPhương pháp xử lý chùm điện tử (electron-beam processing, hoặc electron irradiation EBI) được ứng dụng để làm thay đổi các đặc tính của vật liệu hoặc khử trùng trong y học và thực phẩm bằng cách chiếu chùm điện tử vào sản phẩm. Chùm electron hóa lỏng hoặc làm tan chảy thủy tinh mà không gây tăng nhiều nhiệt độ khi thực hiện chiếu với cường độ cao: ví dụ bức xạ electron mạnh gây ra sự giảm độ nhớt ở nhiều bậc độ lớn và làm giảm từng bước năng lượng hoạt hóa của nó.\nCác máy gia tốc quỹ đạo thẳng (linear particle accelerator) tạo ra những chùm electron cho chùm sáng dùng để điều trị các khối u trên bề mặt trong trị liệu bức xạ. Trị liệu điện tử (electron therapy) có thể điều trị các thương tổn ở da như ung thư tế bào đáy bởi vì một chùm electron chỉ có thể thâm nhập xuống một độ sâu nhất định trước khi bị hấp thụ, thường là đến 5 cm đối với electron có năng lượng trong phạm vi 5–20 MeV. Một chùm electron có thể được sử dụng phối hợp với chiếu xạ tia X trong điều trị bệnh.\nCác máy gia tốc hạt sử dụng điện trường để đẩy các electron và phản hạt của chúng lên mức năng lượng cao. Những hạt này phát ra bức xạ đồng bộ khi chúng bay qua từ trường. Cường độ của bức xạ đồng bộ phụ thuộc vào phân cực spin của chùm electron—quá trình được gọi là hiệu ứng Sokolov–Ternov. Các chùm electron phân cực được ứng dụng trong nhiều thí nghiệm khác nhau. Bức xạ synchrotron có thể dùng làm mát chùm electron với mục đích làm giảm sự phân tán động lượng của chùm hạt. Các chùm electron và positron được cho va chạm với nhau trong máy gia tốc khi chúng đạt đến mức năng lượng yêu cầu; các máy dò hạt (particle detector) quan sát năng lượng của bức xạ phát ra, ghi lại những thông tin và tính chất cần nghiên cứu trong vật lý hạt.\nChụp ảnh.\nNhiễu xạ electron năng lượng thấp (Low-energy electron diffraction, LEED) là một phương pháp bắn vào vật liệu có cấu trúc tinh thể bằng một chùm electron chuẩn trực sau đó quan sát hình ảnh nhiễu xạ giúp xác định lên cấu trúc của vật liệu. Năng lượng đòi hỏi của các electron ở những chùm này trong khoảng 20–200 eV. Kỹ thuật phản xạ nhiễu xạ electron năng lượng cao (reflection high-energy electron diffraction, RHEED) sử dụng sự phản xạ của một chùm electron bắn đến với nhiều góc hẹp khác nhau để nghiên cứu đặc trưng bề mặt của vật liệu có cấu trúc tinh thể. Chùm năng lượng thường nằm trong khoảng 8–20 keV và góc bắn electron thường bằng 1–4°.\nKính hiển vi điển tử hoạt động dựa trên nguyên lý tập trung chùm electron vào một mẫu vật. Một số electron sau khi va chạm vào mẫu vật thì bị thay đổi đặc tính, như hướng chuyển động, góc phản xạ và pha tương đối cũng như năng lượng bị giảm đi. Các nhà hiển vi học ghi lại những thay đổi này từ chùm electron để tái tạo ra những bức ảnh về mẫu vật. Trong ánh sáng xanh lam, các kín hiển vi quang học thông thường có giới hạn nhiễu xạ phân giải ở kích thước 200 nm. So sánh với kính hiển vi điện tử, loại này bị giới hạn bởi bước sóng de Broglie của electron. Ví dụ, bước sóng này bằng 0,0037 nm đối với những electron được gia tốc trong điện trường cỡ 100.000 volt. Kính hiển vi truyền điện tử hiệu chỉnh quang sai (Transmission Electron Aberration-Corrected Microscope) có độ phân giải dưới 0,05 nm, đủ để phân biệt được từng nguyên tử. Khả năng này mang lại những lợi thế cho sử dụng kính hiển vi điện tử trong phòng thí nghiệm để chụp các bức ảnh có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử là những thiết bị đắt tiền và tốn nhiều chi phí hoạt động và bảo trì.\nCó hai loại kính hiển vi điện tử: Loại truyền qua và loại quét bề mặt. Kính hiển vi điện tử truyền qua hoạt động giống như một máy chiếu, với một chùm electron được cho chiếu qua một lát vật liệu sau đó nó được hội tụ trên phim âm bản hoặc cảm biến CCD. Kính hiển vi điện tử quét bề mặt dùng chùm electron quét lên bề mặt mẫu vật, giống như hiển thị trên ti vi màn hình ống, để thu được bức ảnh về nó. Độ phóng đại của hai loại kính này vào cỡ 100× đến 1.000.000. Kính hiển vi quét xuyên hầm sử dụng hiệu ứng chui hầm lượng tử của electron từ mũi nhọn của một đầu dò kim loại để nghiên cứu vật liệu và tạo ra bức ảnh bề mặt vật liệu có độ phân giải cao.\nCác ứng dụng khác.\nTrong laser electron tự do (FEL), một chùm electron tương đối tính đi qua dãy các nam châm lưỡng cực (undulator) bị đổi hướng luân phiên do hướng của từ trường tạo bởi dãy các nam châm này. Vì đổi hướng luân phiên như vậy nên các electron phát ra bức xạ synchrotron một cách nhịp nhàng và đều đặn, bức xạ được khuếch đại ở tần số cộng hưởng. FEL có thể phát ra bức xạ điện từ với độ rọi cao trong dải tần số rộng, từ sóng vi ba cho đến tia X mềm. Những thiết bị này được sử dụng trong sản xuất, viễn thông, và trong các ứng dụng y tế, như phẫu thuật các mô mềm.\nỐng tia âm cực chứa electron, mà đã từng được sử dụng thường xuyên cho các màn hình hiển thị tại nhiều thiết bị thí nghiệm, màn hình máy tính và máy truyền hình. Trong một đèn nhân quang điện, mỗi photon va chạm đến âm cực quang khởi tạo ra một luồng các electron để hình thành một xung dòng điện mà bộ dò phát hiện được. Ống điện tử chân không sử dụng luồng các electron để thao tác lên tín hiệu điện, và chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công nghệ điện tử. Tuy nhiên, ngày nay chúng đã bị thay thế bởi các thiết bị bán dẫn như transistor." ]
electron - in - nhit - lng - neutron - thuyt - ht - einstein - proton - quark
0.998271
false
Trong vật lý học, lực hấp dẫn, hay chính xác hơn là tương tác hấp dẫn, là một hiện tượng tự nhiên mà tất cả vật có khối lượng hoặc năng lượng - bao gồm các hành tinh, ngôi sao, thiên hà, và thậm chí cả ánh sáng đều bị hút về nhau. Trên Trái Đất, lực hấp dẫn tạo ra trọng lượng cho các vật thể và lực hấp dẫn của Mặt Trăng gây ra thủy triều. Lực hấp dẫn cũng chính là lực khiến các vật chất khí ban đầu có trong vũ trụ kết tụ và hình thành các ngôi sao và khiến các ngôi sao tập hợp lại thành các thiên hà, do đó lực hấp dẫn chịu trách nhiệm cho nhiều cấu trúc quy mô lớn trong Vũ trụ. Lực hấp dẫn có một phạm vi vô hạn, mặc dù tác dụng lực của nó sẽ yếu đi nếu các vật thể xa nhau. Lực hấp dẫn được mô tả chính xác nhất bằng lý thuyết tương đối tổng quát (do Albert Einstein đề xuất năm 1915), mô tả lực hấp dẫn không phải là một lực, mà là kết quả của độ cong của không thời gian gây ra bởi sự phân bố khối lượng không đồng đều. Ví dụ cực đoan nhất về độ cong của không thời gian này là một lỗ đen, từ đó, không có gì mà ngay cả ánh sáng cũng không thể thoát ra được khi vượt qua chân trời sự kiện của lỗ đen. Tuy nhiên, đối với hầu hết các ứng dụng, lực hấp dẫn gần đúng theo định luật vạn vật hấp dẫn của Newton, mô tả lực hấp dẫn là một lực, khiến cho hai vật thể bị hút vào nhau, với lực tỷ lệ với sản phẩm của khối lượng của chúng và tỷ lệ nghịch với bình phương của khoảng cách giữa chúng. Lực hấp dẫn là yếu nhất trong bốn tương tác cơ bản của vật lý, yếu hơn khoảng 1038 lần so với tương tác mạnh, yếu hơn 1036 lần so với lực điện từ và yếu hơn 1029 lần so với tương tác yếu. Kết quả là, nó không có ảnh hưởng đáng kể ở cấp độ của các hạt hạ nguyên tử. Ngược lại, nó là sự tương tác vượt trội ở quy mô vĩ mô, và là nguyên nhân của sự hình thành, tạo hình dạng và quỹ đạo (quỹ đạo thiên thể) của các thiên thể. Trong cơ học cổ điển, lực hấp dẫn xuất hiện như một ngoại lực tác động lên vật thể. Trong thuyết tương đối rộng, lực hấp dẫn là bản chất của không thời gian bị uốn cong bởi sự hiện diện của khối lượng, và không phải là một ngoại lực. Trong thuyết hấp dẫn lượng tử, hạt graviton được cho là hạt mang lực hấp dẫn. Trường hợp đầu tiên của lực hấp dẫn trong Vũ trụ, có thể ở dạng hấp dẫn lượng tử, siêu trọng lực hoặc một điểm kỳ dị hấp dẫn, cùng với không gian và thời gian thông thường, được phát triển trong kỷ nguyên Planck (tối đa 10−43 giây sau khi Vũ trụ ra đời), có thể từ một trạng thái nguyên thủy, chẳng hạn như chân không giả, chân không lượng tử hoặc hạt ảo, theo cách hiện chưa biết. Nỗ lực phát triển một lý thuyết về lực hấp dẫn phù hợp với cơ học lượng tử, một lý thuyết hấp dẫn lượng tử, cho phép lực hấp dẫn được hợp nhất trong một khung toán học chung (một lý thuyết về mọi thứ) với ba tương tác cơ bản khác của vật lý, là một lĩnh vực nghiên cứu hiện tại. Lịch sử lý thuyết về hấp dẫn. Thế giới cổ đại. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Archimedes đã phát hiện ra trọng tâm của một hình tam giác. Ông cũng cho rằng nếu hai trọng lượng bằng nhau không có cùng trọng tâm thì trọng tâm của hai vật liên kết với nhau sẽ ở giữa đường nối với trọng tâm của chúng. Kiến trúc sư và kỹ sư La Mã Vitruvius trong tác phẩm "De Architectura" đã quy định rằng trọng lực của một vật thể không phụ thuộc vào khối lượng mà là "bản chất" của nó. Ở Ấn Độ cổ đại, Aryabhata lần đầu tiên xác định lực lượng để giải thích tại sao các vật thể không bị ném ra ngoài khi Trái Đất quay. Brahmagupta mô tả trọng lực là một lực hấp dẫn và sử dụng thuật ngữ "gurutvaakarshan" cho trọng lực. Cách mạng khoa học. Công trình hiện đại về lý thuyết hấp dẫn bắt đầu với công trình của Galileo Galilei vào cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17. Trong thí nghiệm nổi tiếng (mặc dù có thể ông đã ngụy tạo) thả bóng từ Tháp nghiêng Pisa, và sau đó với các phép đo cẩn thận của quả bóng lăn xuống theo mặt phẳng nghiêng, Galileo cho thấy gia tốc trọng trường là như nhau cho tất cả các vật thể. Đây là một sự khởi đầu lớn từ niềm tin của Aristotle rằng các vật nặng hơn có gia tốc trọng trường cao hơn. Galileo cho rằng sức cản không khí là lý do khiến các vật thể có khối lượng nhỏ hơn rơi chậm hơn trong bầu khí quyển. Công trình của Galileo tạo tiền đề cho việc hình thành thuyết hấp dẫn của Newton. Thuyết hấp dẫn của Newton. Năm 1687, nhà toán học người Anh Sir Isaac Newton đã xuất bản tác phẩm "Principia", trong đó đưa ra giả thuyết về định luật nghịch đảo bình phương của trọng lực phổ quát. Newton viết, "Tôi đã suy luận rằng các lực giữ các hành tinh trong quỹ đạo của chúng phải tương ứng với nhau như bình phương khoảng cách của chúng từ các trung tâm mà chúng quay tròn: và do đó so sánh lực cần thiết để giữ Mặt trăng trong quỹ đạo của nó với lực hấp dẫn ở bề mặt Trái Đất và thấy chúng gần như vậy. " Phương trình như sau: formula_1 Trong đó "F" là lực, "m1" và "m2" là khối lượng của các vật tương tác, "r" là khoảng cách giữa tâm của khối lượng và "G" là hằng số hấp dẫn. Lý thuyết của Newton đã tận hưởng thành công lớn nhất của nó khi nó được sử dụng để dự đoán sự tồn tại của sao Hải Vương dựa trên các chuyển động của sao Thiên Vương không thể giải thích được bằng hành động của các hành tinh khác. Tính toán của cả John Couch Adams và Urbain Le Verrier đã dự đoán vị trí chung của hành tinh này và tính toán của Le Verrier là điều khiến Johann Gottfried Galle phát hiện ra sao Hải Vương. Một sự khác biệt trong quỹ đạo của sao Thủy đã chỉ ra những sai sót trong lý thuyết của Newton. Vào cuối thế kỷ 19, người ta đã biết rằng quỹ đạo của nó cho thấy những nhiễu loạn nhỏ không thể giải thích hoàn toàn theo lý thuyết của Newton, nhưng tất cả các tìm kiếm cho một vật thể nhiễu loạn khác (như một hành tinh quay quanh Mặt trời thậm chí gần hơn Sao Thủy) đã được không có kết quả Vấn đề đã được giải quyết vào năm 1915 bởi thuyết tương đối mới của Albert Einstein, tính toán cho sự khác biệt nhỏ trong quỹ đạo của Sao Thủy. Sự khác biệt này là sự tiến bộ trong sự đi nhanh hơn của Sao Thủy với chênh lệch 42,98 giây cung trong mỗi thế kỷ. Mặc dù lý thuyết của Newton đã được thay thế bởi thuyết tương đối rộng của Albert Einstein, nhưng hầu hết các phép tính hấp dẫn không tương đối hiện đại vẫn được thực hiện bằng lý thuyết của Newton bởi vì nó đơn giản hơn để làm việc và nó cho kết quả đủ chính xác cho hầu hết các ứng dụng có khối lượng, tốc độ và năng lượng đủ nhỏ. Nguyên lý tương đương. Nguyên lý tương đương, được khám phá bởi một loạt các nhà nghiên cứu bao gồm Galileo, Loránd Eötvös và Einstein, bày tỏ ý tưởng rằng tất cả các vật thể rơi theo cùng một cách, và các tác động của trọng lực không thể phân biệt được từ các khía cạnh nhất định của gia tốc và giảm tốc. Cách đơn giản nhất để kiểm tra nguyên lý tương đương yếu là thả hai vật có khối lượng hoặc thành phần khác nhau trong chân không và xem liệu chúng có chạm đất cùng một lúc không. Các thí nghiệm như vậy chứng minh rằng tất cả các vật thể rơi ở cùng một tốc độ khi các lực khác (như sức cản không khí và hiệu ứng điện từ) không đáng kể. Các thử nghiệm tinh vi hơn sử dụng cân bằng xoắn của một loại được phát minh bởi Eötvös. Các thí nghiệm vệ tinh, ví dụ STEP, được lên kế hoạch cho các thí nghiệm chính xác hơn trong không gian. Các công thức của nguyên lý tương đương bao gồm: Thuyết tương đối rộng. Trong thuyết tương đối rộng, ảnh hưởng của trọng lực được gán cho độ cong không thời gian thay vì một lực. Điểm khởi đầu cho thuyết tương đối rộng là nguyên lý tương đương, đánh đồng sự rơi tự do với chuyển động quán tính và mô tả các vật thể quán tính rơi tự do khi được gia tốc so với các quan sát viên không quán tính trên mặt đất. Tuy nhiên, trong vật lý Newton, không có gia tốc như vậy có thể xảy ra trừ khi ít nhất một trong số các vật thể đang được vận hành bởi một lực. Einstein đã đề xuất rằng không thời gian bị cong bởi vật chất và các vật thể rơi tự do đang di chuyển dọc theo các đường thẳng cục bộ trong không thời gian cong. Những đường thẳng này được gọi là trắc địa. Giống như định luật chuyển động đầu tiên của Newton, lý thuyết của Einstein nói rằng nếu một lực được tác dụng lên một vật thể, nó sẽ lệch khỏi một trắc địa. Chẳng hạn, chúng ta không còn theo dõi trắc địa trong khi đứng vì sức cản cơ học của Trái Đất tác động lên một lực hướng lên chúng ta và kết quả là chúng ta không có quán tính trên mặt đất. Điều này giải thích tại sao di chuyển dọc theo trắc địa trong không thời gian được coi là quán tính. Einstein đã khám phá ra các phương trình trường của thuyết tương đối rộng, liên quan đến sự hiện diện của vật chất và độ cong của không thời gian và được đặt theo tên ông. Các Phương trình trường Einstein là một tập hợp của 10 đồng thời, phi tuyến tính, phương trình vi phân. Các giải pháp của phương trình trường là các thành phần của thang đo hệ số không thời gian. Một tenxơ mét mô tả một hình học của không thời gian. Các đường trắc địa cho một không thời gian được tính từ thang đo hệ mét. Cụ thể. Lực hấp dẫn của Trái Đất. Mọi hành tinh (bao gồm cả Trái Đất) được bao quanh bởi trường hấp dẫn của chính nó, có thể được khái niệm hóa với vật lý Newton như tác dụng một lực hấp dẫn lên tất cả các vật thể. Giả sử một hành tinh đối xứng hình cầu, sức mạnh của trường này tại bất kỳ điểm nào trên bề mặt tỷ lệ thuận với khối lượng của hành tinh và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ tâm của vật thể. Độ mạnh của trường hấp dẫn bằng số với gia tốc của các vật dưới ảnh hưởng của nó. Tốc độ gia tốc của các vật rơi gần bề mặt Trái Đất thay đổi rất ít tùy thuộc vào vĩ độ, các đặc điểm bề mặt như núi và rặng núi, và có lẽ mật độ bề mặt dưới cao hoặc thấp bất thường. Đối với mục đích của khối lượng và thước đo, giá trị trọng lực tiêu chuẩn được xác định bởi Cục Trọng lượng và Đo lường Quốc tế, theo Hệ thống Đơn vị Quốc tế (SI). Giá trị đó, ký hiệu là "g" = 9,80665 m/s2 (32,1740 ft/s2). Giá trị tiêu chuẩn 9,80665 m/s2 là cái ban đầu được Ủy ban Quốc tế về Trọng lượng và Đo lường áp dụng vào năm 1901 cho vĩ độ 45°, mặc dù nó đã được chứng minh là cao hơn khoảng năm phần nghìn. Giá trị này đã tồn tại trong khí tượng học và trong một số khí quyển tiêu chuẩn là giá trị cho vĩ độ 45° mặc dù nó áp dụng chính xác hơn cho vĩ độ 45°32'33". Giả sử giá trị chuẩn cho g và bỏ qua sức cản của không khí, điều này có nghĩa là một vật rơi tự do gần bề mặt Trái Đất làm tăng vận tốc của nó thêm 9,80665 m/s (32,1740 ft/s hoặc 22 mph) cho mỗi giây gốc của nó. Do đó, một vật bắt đầu từ phần còn lại sẽ đạt vận tốc 9,80665 m/s (32,1740 ft/s) sau một giây, khoảng 19,62 m/s (64,4 ft/s) sau hai giây, v.v., thêm 9,80665 m/s (32,1740 ft/s) đến từng vận tốc kết quả. Ngoài ra, nếu một lần nữa bỏ qua sức cản không khí, thì tất cả các vật thể, khi rơi từ cùng một độ cao, sẽ chạm đất cùng một lúc. Theo Định luật 3 của Newton, bản thân Trái Đất trải qua một lực có độ lớn bằng nhau và ngược chiều với lực mà nó tác dụng lên một vật rơi. Điều này có nghĩa là Trái Đất cũng tăng tốc đi về phía vật thể cho đến khi chúng va chạm. Tuy nhiên, do khối lượng của Trái Đất là rất lớn, nên gia tốc truyền tới Trái Đất bởi lực đối nghịch này không đáng kể so với vật thể. Nếu vật thể không nảy sau khi nó va chạm với Trái Đất, thì mỗi vật thể sau đó sẽ tác dụng lực tiếp xúc lên vật kia để cân bằng hiệu quả lực hấp dẫn và ngăn cản gia tốc hơn nữa. Lực hấp dẫn trên Trái Đất là kết quả (tổng vectơ) của hai lực: (a) Lực hấp dẫn theo định luật vạn vật hấp dẫn của Newton và (b) lực ly tâm, kết quả từ sự lựa chọn của một Trái Đất, khung quay của tài liệu tham khảo. Lực hấp dẫn yếu nhất ở xích đạo do lực ly tâm gây ra bởi sự quay của Trái Đất và do các điểm trên đường xích đạo nằm xa nhất từ tâm Trái Đất. Lực hấp dẫn thay đổi theo vĩ độ và tăng từ khoảng 9.780 m/s2 tại xích đạo đến khoảng 9,832 m/s2 ở hai cực. Phương trình cho một vật thể rơi xuống gần bề mặt Trái Đất. Theo giả định về lực hấp dẫn không đổi, định luật vạn vật hấp dẫn của Newton đơn giản hóa thành "F" = "mg", trong đó "m" là khối lượng của cơ thể và "g" là một vectơ không đổi có cường độ trung bình 9,81 m/s2 trên Trái Đất. Lực kết quả này là do khối lượng của đối tượng. Gia tốc do trọng lực bằng "g". Một vật thể đứng yên ban đầu được phép rơi tự do dưới trọng lực sẽ giảm một khoảng cách tỷ lệ với bình phương của thời gian trôi qua. Hình ảnh bên phải, kéo dài nửa giây, được chụp bằng đèn flash stroboscopic ở tốc độ 20 lần / giây. Trong quá trình đầu tiên của một giây bóng xuống một đơn vị khoảng cách (ở đây, một đơn vị khoảng 12 mm); bởi nó đã giảm tại tổng cộng 4 đơn vị; 9 đơn vị và vân vân. Theo cùng một giả định trọng lực không đổi, thế năng, "E"p, của một cơ thể ở độ cao "h" được cho bởi "E" p = "mgh" (hoặc "E"p = "Wh", với "W" có nghĩa là trọng lượng). Biểu thức này chỉ có giá trị trong khoảng cách nhỏ "h" từ bề mặt Trái Đất. Tương tự, biểu thức formula_2 đối với chiều cao tối đa đạt được của một cơ thể chiếu thẳng đứng với vận tốc ban đầu "v" chỉ hữu ích cho các độ cao nhỏ và vận tốc ban đầu nhỏ. Lực hấp dẫn và thiên văn học. Việc áp dụng định luật hấp dẫn của Newton đã cho phép thu được nhiều thông tin chi tiết mà chúng ta có về các hành tinh trong Hệ Mặt trời, khối lượng Mặt trời và chi tiết về các quasar; ngay cả sự tồn tại của vật chất tối cũng được suy luận bằng định luật hấp dẫn của Newton. Mặc dù chúng ta chưa đi đến tất cả các hành tinh cũng như Mặt trời, chúng ta biết khối lượng của chúng. Những khối lượng này có được bằng cách áp dụng định luật hấp dẫn cho các đặc tính đo được của quỹ đạo. Trong không gian một vật thể duy trì quỹ đạo của nó do lực hấp dẫn tác dụng lên nó. Các hành tinh quay quanh các ngôi sao, các ngôi sao quay quanh các trung tâm thiên hà, các thiên hà quay quanh một tâm khối lượng trong các cụm và các quỹ đạo của các cụm trong các siêu sao. Lực hấp dẫn tác dụng lên vật này bằng vật khác tỷ lệ thuận với tích của khối lượng của vật đó và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Trọng lực sớm nhất (có thể dưới dạng trọng lực lượng tử, siêu trọng lực hoặc một điểm kỳ dị hấp dẫn), cùng với không gian và thời gian thông thường, được phát triển trong kỷ nguyên Planck (tối đa 10 −43 giây sau khi vũ trụ ra đời), có thể từ một nguyên thủy trạng thái (như chân không giả, chân không lượng tử hoặc hạt ảo), theo cách hiện chưa biết. Bức xạ hấp dẫn. Thuyết tương đối rộng dự đoán rằng năng lượng có thể được vận chuyển ra khỏi hệ thống thông qua bức xạ hấp dẫn. Bất kỳ vật chất tăng tốc nào cũng có thể tạo ra độ cong trong chỉ số không-thời gian, đó là cách bức xạ hấp dẫn được vận chuyển ra khỏi hệ thống. Các vật thể cùng quỹ đạo có thể tạo ra độ cong trong không-thời gian như hệ Trái Đất-Mặt trời, các cặp sao neutron và cặp lỗ đen. Một hệ thống vật lý thiên văn khác dự đoán sẽ mất năng lượng dưới dạng bức xạ hấp dẫn đang phát nổ siêu tân tinh. Bằng chứng gián tiếp đầu tiên cho bức xạ hấp dẫn là thông qua các phép đo nhị phân Hulse hè Taylor năm 1973. Hệ thống này bao gồm một sao xung và sao neutron trên quỹ đạo xung quanh nhau. Thời kỳ quỹ đạo của nó đã giảm kể từ khi phát hiện ban đầu do mất năng lượng, phù hợp với lượng năng lượng bị mất do bức xạ hấp dẫn. Nghiên cứu này đã được trao giải thưởng Nobel Vật lý năm 1993. Bằng chứng trực tiếp đầu tiên về bức xạ hấp dẫn được đo vào ngày 14 tháng 9 năm 2015 bởi các máy dò LIGO. Các sóng hấp dẫn phát ra trong vụ va chạm của hai lỗ đen cách Trái Đất 1,3 tỷ năm ánh sáng đã được đo. Quan sát này xác nhận dự đoán lý thuyết của Einstein và những người khác rằng những sóng như vậy tồn tại. Nó cũng mở đường cho sự quan sát và hiểu biết thực tế về bản chất của lực hấp dẫn và các sự kiện trong Vũ trụ bao gồm cả Vụ nổ lớn. Sao neutron và sự hình thành lỗ đen cũng tạo ra lượng bức xạ hấp dẫn có thể phát hiện được. Nghiên cứu này đã được trao giải thưởng Nobel về vật lý năm 2017. Tốc độ của lực hấp dẫn. Vào tháng 12 năm 2012, một nhóm nghiên cứu ở Trung Quốc tuyên bố rằng họ đã thực hiện các phép đo độ trễ pha của thủy triều Trái Đất trong các mặt trăng đầy đủ và mới dường như chứng minh rằng tốc độ của trọng lực bằng tốc độ ánh sáng. Điều này có nghĩa là nếu Mặt trời đột nhiên biến mất, Trái Đất sẽ quay quanh nó bình thường trong 8 phút, đó là thời gian ánh sáng cần thiết để di chuyển quãng đường đó. Phát hiện của nhóm đã được công bố trong Bản tin Khoa học Trung Quốc vào tháng 2 năm 2013. Vào tháng 10 năm 2017, các máy dò LIGO và Virgo đã nhận được tín hiệu sóng hấp dẫn trong vòng 2 giây của các vệ tinh tia gamma và kính viễn vọng quang học nhìn thấy các tín hiệu từ cùng một hướng. Điều này khẳng định rằng tốc độ của sóng hấp dẫn giống như tốc độ của ánh sáng. Các bất thường và khác biệt. Có một số quan sát không được tính toán đầy đủ, điều này có thể chỉ ra sự cần thiết phải có lý thuyết tốt hơn về lực hấp dẫn hoặc có thể được giải thích theo những cách khác.
17
17_electron_in_nhit_lng
[ "electron", "in", "nhit", "lng", "neutron", "thuyt", "ht", "einstein", "proton", "quark" ]
[ "Trong vật lý hạt nhân, năng lượng tách là năng lượng cần thiết để loại bỏ một hạt nhân (hoặc một hạt hoặc nhiều hạt được chỉ định khác) khỏi hạt nhân nguyên tử.\nNăng lượng tách khác nhau đối với mỗi hạt nhân và các hạt được loại bỏ. Các giá trị được liệt kê có thể là \"năng lượng tách neutron\", \"năng lượng tách hai neutron\", \"năng lượng tách proton\", \"năng lượng tách deuteron\", \"năng lượng tách alpha\", v.v.\nNăng lượng tách thấp nhất trong số các hạt nhân ổn định là 1,67 MeV, để loại bỏ một neutron ra khỏi beryllium-9.\nNăng lượng có thể được thêm vào hạt nhân bằng cách chiếu vào một tia gamma năng lượng cao. Nếu năng lượng của photon đạt đến mức vượt quá năng lượng tách, sựphân hủy quang có thể xảy ra. Năng lượng vượt quá giá trị ngưỡng trở thành động năng của hạt bị đẩy ra.\nNgược lại, năng lượng liên kết hạt nhân là năng lượng cần thiết để tháo rời hoàn toàn hạt nhân, hoặc năng lượng được giải phóng khi hạt nhân được lắp ráp từ các hạt nhân. Nó là tổng của nhiều năng lượng tách, nên được cộng vào cùng một tổng số bất kể thứ tự lắp ráp hay tháo gỡ.\nVật lý và hóa học.\nNăng lượng tách electron hoặc năng lượng liên kết electron là năng lượng cần thiết để loại bỏ một electron ra khỏi nguyên tử trung tính hoặc phân tử (hoặc cation) được gọi là năng lượng ion hóa. Phản ứng dẫn đến quang hóa, quang dẫn, hiệu ứng quang điện, quang điện, v.v.\nNăng lượng phân ly liên kết là năng lượng cần thiết để phá vỡ một liên kết của phân tử hoặc một ion, thường tách một nguyên tử hoặc nhiều nguyên tử.", "Bắt giữ electron kép là một phương thức phân rã của hạt nhân nguyên tử. Đối với một đồng vị phóng xạ (\"A\", \"Z\") có số hạt nhân \"A\" và số nguyên tử \"Z\", chỉ có thể bắt được electron kép nếu khối lượng của đồng vị phóng xạ của (\"A\", \"Z\"-2) thấp hơn.\nTrong phương thức phân rã này, hai trong số các electron quỹ đạo bị bắt bởi hai proton trong hạt nhân, tạo thành hai neutron. Hai neutrino được phát ra trong quá trình này. Vì các proton được thay đổi thành neutron, số lượng neutron tăng thêm 2, số lượng proton \"Z\" giảm đi 2 và số khối nguyên tử \"A\" không đổi. Bằng cách thay đổi số lượng proton, sự bắt electron kép sẽ biến đổi các hạt nhân thành một nguyên tố mới.\nVí dụ:\nĐộ hiếm.\nTrong hầu hết các trường hợp, phương thức phân rã này sẽ xảy ra ít hơn bởi có nhiều phương thức có thể xảy ra hơn (bắt giữ electron đơn...), nhưng khi tất cả các phương thức này bị “cấm” (bị triệt tiêu mạnh), bắt giữ electron kép sẽ trở thành phương thức phân rã chính.\nCó 34 đồng vị xuất hiện tự nhiên có thể trải qua quá trình bắt electron kép. Tuy nhiên, chỉ có ba quan sát được xác nhận về quá trình này: , , and .\nMột lý do là xác suất xảy ra bắt giữ electron kép là rất nhỏ (dự đoán lý thuyết về chu kỳ bán rã cho phương thức này là trên 10 năm). Lý do thứ hai là các hạt duy nhất có thể phát hiện được tạo ra trong quá trình này là các tia X và electron Auger được phát ra từ lớp vỏ nguyên tử bị kích thích. Trong phạm vi năng lượng của chúng (~1-10 keV), nền thường cao. Do đó, việc phát hiện và thử nghiệm bắt giữ electron kép khó khăn hơn so với phân rã beta kép. Việc bắt electron kép có thể đi kèm với sự kích thích của hạt nhân con. Lần lượt, sự khử kích thích của nó đi kèm với sự phát xạ của các photon có năng lượng lên đến hàng trăm keV.\nCác phương thức phát xạ positron.\nNếu sự chênh lệch khối lượng giữa các nguyên tử mẹ và con lớn hơn hai lần khối lượng của một electron (1,022 MeV), năng lượng được giải phóng trong quá trình này đủ để cho phép một phương thức phân rã khác được gọi là bắt electron bằng phát xạ positron. Nó xảy ra cùng với việc bắt electron kép, tỷ lệ phân nhánh của chúng tùy thuộc vào tính chất hạt nhân. Khi chênh lệch khối lượng lớn hơn bốn lần khối lượng electron (2,044 MeV), phương thức thứ ba, được gọi là phân rã positron kép, được cho phép. Chỉ có 6 đồng vị phóng xạ tự nhiên có thể phân rã thông qua ba phương thức này cùng một lúc.\nBắt giữ electron kép phi neutrino.\nQuá trình được mô tả ở trên với việc bắt giữ hai electron và phát xạ hai neutrino (bắt electron kép neutrino) được cho phép theo Mô hình Chuẩn của vật lý hạt: không vi phạm luật bảo tồn (bao gồm bảo toàn số lepton). Tuy nhiên, nếu số lepton không được bảo toàn hoặc neutrino là phản hạt của chính nó, thì một loại quá trình khác có thể xảy ra, được gọi là bắt giữ electron kép phi neutrino. Trong trường hợp này, hai electron bị hạt nhân bắt giữ, nhưng neutrino không được phát ra. Năng lượng được giải phóng trong quá trình này được mang đi bởi một lượng tử gamma bremsstrahlung.\nVí dụ:\nPhương thức phân rã này chưa bao giờ được quan sát bằng thực nghiệm và sẽ mâu thuẫn với Mô hình Chuẩn nếu nó được quan sát.", "Electron hay điện tử, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ nhất trong họ các hạt lepton, và nói chung được coi là những hạt cơ bản bởi vì chúng không có các thành phần nhỏ hay cấu trúc con. Electron có khối lượng xấp xỉ bằng 1/1836 so với của proton. Các tính chất cơ học lượng tử của electron bao gồm giá trị mômen động lượng (spin) bằng một nửa đơn vị, biểu diễn theo đơn vị của hằng số Planck thu gọn, \"ħ\". Vì là một fermion, trong hệ cô lập không có hai electron nào có thể ở cùng một trạng thái lượng tử, như nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli. Giống như tất cả các hạt cơ bản khác, electron thể hiện cả các tính chất của sóng và hạt: chúng có thể va chạm với các hạt khác và bị nhiễu xạ như ánh sáng. Các tính chất sóng của electron dễ dàng được quan sát thấy ở các thí nghiệm hơn so với những hạt khác ví dụ như neutron và proton bởi vì electron có khối lượng nhỏ hơn và do vậy có bước sóng de Broglie dài hơn ở cùng một mức năng lượng.\nElectron có vai trò cơ bản ở nhiều hiện tượng vật lý, như điện, từ học, hóa học và độ dẫn nhiệt. Ngoài ra nó cũng tham gia vào tương tác hấp dẫn, điện từ và yếu. Vì một electron mang điện tích, bao xung quanh nó là điện trường, và nếu electron chuyển động tương đối với một người quan sát, nó sẽ cảm ứng một từ trường. Trường điện từ tạo ra bởi những nguồn khác sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của hạt electron tuân theo định luật lực Lorentz. Electron phát ra hay hấp thụ năng lượng dưới dạng các photon khi chúng chuyển động gia tốc. Các thiết bị ở phòng thí nghiệm có khả năng bẫy từng electron đơn lẻ cũng như các electron plasma bằng sử dụng điện từ trường. Những kính thiên văn đặc biệt có thể phát hiện electron plasma trong không gian vũ trụ. Electron tham dự vào nhiều ứng dụng thực tiễn như điện tử học, hàn tia điện tử, ống tia âm cực, kính hiển vi điện tử, trị liệu bức xạ, laser electron tự do, máy dò khí ion hóa và máy gia tốc hạt.\nCác tương tác có sự tham gia của những electron với các hạt khác là một trong những chủ đề nghiên cứu của hóa học và vật lý hạt nhân. Tương tác lực Coulomb giữa các proton mang điện dương bên trong hạt nhân nguyên tử và các electron mang điện âm ở orbital cấu thành lên nguyên tử. Sự ion hóa hay sự chênh lệch giữa số electron mang điện âm và hạt nhân mang điện dương làm thay đổi năng lượng liên kết của một hệ nguyên tử. Sự trao đổi hay chia sẻ các electron giữa hai hay nhiều nguyên tử là nguyên nhân chủ yếu tạo ra liên kết hóa học. Năm 1838, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming lần đầu tiên đã đặt ra khái niệm về một đại lượng điện tích không thể chia nhỏ hơn nhằm giải thích các tính chất hóa học của các nguyên tử. Nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney sau đó đặt tên đại lượng điện tích này là 'electron' vào năm 1891, và sau đó J. J. Thomson cùng các cộng sự người Anh cuối cùng đã phát hiện ra electron có biểu hiện của một hạt cơ bản vào năm 1897. Electron cũng tham gia vào các phản ứng hạt nhân, như quá trình tổng hợp lên các hạt nhân nặng hơn trong các sao, mà chúng thường được gọi là các hạt beta. Electron cũng có thể được tạo ra trong phân rã beta từ các đồng vị phóng xạ và trong các va chạm năng lượng cao, như ở sự kiện các tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển. Phản hạt của electron được gọi là positron; nó có tính chất đồng nhất với electron ngoại trừ các tích như điện tích mang dấu ngược lại. Khi một electron va chạm với một positron, cả hai hạt bị hủy, tạo ra hai photon tia gamma năng lượng cao.\nLịch sử.\nKhám phá ra hiệu ứng của lực điện.\nNgười Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy rằng khi dùng bộ lông thú chà xát vào hổ phách thì nó có khả năng hút được những vật nhỏ. Cùng với sét, đây là một trong những hiện tượng về điện được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử loài người. Trong luận thuyết \"De Magnete\" viết năm 1600, nhà khoa học người Anh William Gilbert đưa ra thuật ngữ trong tiếng Latin mới là , để kể đến những chất có tính chất tương tự như hổ phách với khả năng có thể hút được những vật nhỏ khi chà xát với lông thú. Cả hai thuật ngữ \"electric\" và \"electricity\" đều có nguồn gốc từ tiếng Latin ' (cũng là từ nguyên của hợp kim có cùng tên); ' có từ nguyên bắt nguồn từ chữ hổ phách trong tiếng Hy Lạp, (\"\").\nKhám phá hai loại điện tích.\nĐầu những năm 1700, nhà hóa học người Pháp Charles François du Fay phát hiện thấy nếu một lá vàng tích điện bị đẩy bởi một que thủy tinh khi chà nó với lụa, thì cùng lá vàng tích điện này lại bị hút bởi hổ phách khi chà vào bông sợi. Từ quan sát này cùng những kết quả thí nghiệm tương tự, du Fay kết luận rằng điện phải chứa hai loại chất lỏng mang điện, chất lỏng \"vitreous\" từ đũa thủy tinh khi chà xát vào lụa và chất lỏng \"resinous\" từ hổ phách khi chà vào bông sợi. Hai chất lỏng này có thể trung hòa lẫn nhau khi được kết hợp lại. Nhà khoa học người Mỹ Ebenezer Kinnersley sau đó cũng độc lập đi đến kết luận tương tự của du Fay. Một thập kỷ sau, Benjamin Franklin đề xuất rằng điện không cấu tạo từ những loại chất lỏng điện khác nhau, mà là một chất lỏng điện có biểu hiện dư thừa (+) hay thiếu hụt (−) điện tích. Ông đưa ra thuật ngữ hiện đại tương ứng với chúng là điện tích dương và điện tích âm. Franklin từng nghĩ về chất mang điện sẽ có điện tích dương, nhưng ông đã không miêu tả đúng tình huống khi nào chất sẽ dư thừa điện tích, và khi nào bị thiếu hụt điện tích.\nGiữa các năm 1838 và 1851, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming phát triển ý tưởng cho rằng một nguyên tử là tổ hợp bao gồm một lõi vật chất được bao quanh bởi những hạt nhỏ hơn nguyên tử mà có điện tích bằng số lần điện tích đơn vị. Đầu năm 1846, nhà vật lý người Đức William Weber đưa ra lý thuyết miêu tả điện là chất tổng hợp bởi các chất lỏng tích điện dương và âm, và tương tác giữa chúng bị chi phối bởi luật nghịch đảo bình phương. Sau khi nghiên cứu hiện tượng điện phân vào năm 1874, nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney gợi ý có tồn tại một \"đại lượng xác định duy nhất cho điện\", điện tích của một ion hóa trị một. Ông đã có thể ước lượng giá trị của điện tích cơ bản \"e\" này bằng cách áp dụng định luật điện phân Faraday. Tuy nhiên, Stoney lại tin rằng những điện tích này lại gắn chặt vĩnh cửu vào nguyên tử và không thể bị tách rời. Năm 1881, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz cho rằng cả điện tích dương và điện tích âm có thể chia ra thành những thành phần cơ bản, mỗi một chúng \"hành xử như những nguyên tử của điện\".\nStoney ban đầu đưa ra thuật ngữ \"electrolion\" vào năm 1881. Mười năm sau, ông chuyển sang sử dụng \"electron\" để miêu tả những điện tích cơ bản này, khi ông viết vào năm 1894: \"... một ước lượng được thực hiện để tính toán số lượng thực tế của đơn vị điện cơ bản điển hình nhất này, mà tôi đã từng dám gợi ý đặt tên là \"electron\"\". Đã có một đề xuất vào năm 1906 nhằm đổi sang tên gọi \"electrion\" nhưng đã thất bại bởi vì Hendrik Lorentz vẫn thích tên gọi \"electron\" hơn. Từ \"electron\" là tổ hợp của các từ \"electric\" và \"ion\". Hậu tố -\"on\" mà hiện nay được sử dụng để đặt tên cho các hạt cơ bản khác, như proton hoặc neutron, có nguồn gốc bắt nguồn từ cách đặt tên cho electron.\nKhám phá ra các electron tự do bên ngoài vật chất.\nKhi nghiên cứu hiện tượng dẫn điện trong khí loãng vào năm 1859, nhà vật lý người Đức Julius Plücker quan sát thấy ánh sáng lân quang, vốn được tạo thành bởi bức xạ phát ra từ cathode, xuất hiện tại thành ống gần cathode, và vùng ánh sáng lân quang đó có thể di chuyển bằng việc ứng dụng từ trường. Năm 1869, Johann Wilhelm Hittorf, một học trò của Plücker, phát hiện rằng một vật rắn đặt giữa cathode và vùng lân quang tạo ra một vùng tối trên vùng lân quang của ống. Hittorf kết luận rằng có những tia truyền thẳng phát ra từ cathode và vùng lân quang đó được tạo ra bởi các tia chiếu qua thành ống. Năm 1876, nhà vật lý người Đức Eugen Goldstein chỉ ra rằng các tia này được phát ra theo phương vuông góc với mặt cathode, mặt phân cách giữa các tia phát ra từ cathode và ánh sáng sợi đốt. Goldstein đặt tên cho những tia này là tia âm cực. Công cuộc nghiên cứu về tia âm cực kéo dài hàng thập kỷ cả về lý thuyết và thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình khám phá ra electron của J. J. Thomson.\nTrong thập niên 1870, nhà hóa lý người Anh Sir William Crookes đã phát triển ống tia âm cực đầu tiên với môi trường chân không cao bên trong. Sau đó ông chứng tỏ rằng các tia phát quang xuất hiện bên trong ống có mang năng lượng và chuyển động từ phía cathode sang anode. Hơn nữa, khi đặt vào một từ trường, ông đã làm lệch đường đi của chùm tia, do đó chứng tỏ thêm chùm tia hành xử như nó chứa điện tích âm. Năm 1879, ông đề xuất rằng những tính chất này có thể được giải thích bằng cách coi rằng các tia âm cực bao gồm các phân tử khí mang điện tích âm trong trạng thái thứ tư của vật chất mà trong đó quãng đường tự do của các phân tử lớn đến mức có thể bỏ qua va chạm.\nNhà vật lý người Anh sinh ở Đức Arthur Schuster tiến hành mở rộng các thí nghiệm của Crookes khi đặt những tấm kim loại song song với chùm tia cathode và áp dụng vào một điện thế giữa các tấm này. Điện trường đã làm lệch chùm tia về phía tấm kim loại tích điện dương, chứng cứ đã củng cố thêm cho kết luận chùm tia mang điện tích âm. Bằng cách đo độ lệch của chùm tia tương ứng với từng lần điều chỉnh dòng điện giữa hai tấm kim loại, năm 1890 Schuster đã ước lượng được tỷ số khối lượng−điện tích của các thành phần trong chùm tia. Tuy vậy, giá trị ông thu được lớn hơn 1000 lần so với giá trị được dự đoán, do đó ít người đã để ý đến kết quả tính toán của ông vào thời điểm đó.\nNăm 1892, Hendrik Lorentz gợi ý rằng khối lượng của những hạt này (electron) có thể là hệ quả của lượng điện tích mà chúng mang theo.\nKhi đang nghiên cứu các khoáng chất huỳnh quang tự nhiên vào năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá thấy chúng phát ra các bức xạ mà không cần phải chiếu thêm một nguồn năng lượng từ bên ngoài. Những vật liệu phóng xạ này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học, bao gồm nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, ông đã phát hiện vật liệu phóng xạ có phát ra các hạt. Ông gọi những hạt này là các hạt alpha và hạt beta, dựa trên khả năng đâm xuyên của chúng qua vật chất. Năm 1900, Becquerel đã chứng tỏ chùm tia beta phát ra từ hạt nhân radium có thể bị làm lệch hướng trong một điện trường, và tỷ số khối lượng trên điện tích của chúng bằng với tỷ số này của chùm tia cathode. Chứng cứ này đã củng cố thêm quan điểm cho rằng electron tồn tại như là một trong các thành phần của nguyên tử.\nNăm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson, cùng với các đồng nghiệp John S. Townsend và H. A. Wilson, đã thực hiện các thí nghiệm chỉ ra chùm tia cathode thực sự chứa các hạt, hơn là một loại sóng, những hạt nguyên tử hoặc phân tử như nhiều nhà khoa học từng tin như vậy trước đó. Thomson đã có kết quả ước lượng khá tốt về điện tích \"e\" và khối lượng \"m\" của hạt tia cathode, mà ông gọi là \"corpuscles\", nó có khối lượng bằng một phần nghìn khối lượng của ion nhẹ nhất: ion hydro. Ông cũng đã chứng minh tỷ số điện tích−khối lượng, \"e\"/\"m\", có giá trị độc lập với vật liệu của bản cực cathode. Ông tiếp tục chứng tỏ thêm các vật liệu phóng xa, vật liệu nung nóng và vật liệu bị chiếu xạ có phát ra các hạt mang điện tích âm. Tên gọi electron về sau được cộng đồng khoa học chấp nhận sử dụng rộng rãi, chủ yếu do đề xuất của G. F. FitzGerald, J. Larmor và H. A. Lorentz.\nĐiện tích của electron đã được đo một cách chính xác hơn bởi các nhà vật lý Mỹ Robert Millikan và Harvey Fletcher trong thí nghiệm giọt dầu vào năm 1909, và kết quả được công bố vào 1911. Thí nghiệm sử dụng một điện trường để hãm các giọt dầu mang điện tích rơi trong không khí dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Thiết bị của họ có thể đo điện tích của 1–150 ion với sai số là 0,3%. Trước đó nhóm của Thomson cũng thực hiện thí nghiệm tương tự, sử dụng đám mây chứa các giọt nước tích điện tạo ra bởi sự điện phân,và thí nghiệm thực hiện bởi Abram Ioffe năm 1911, ông đã thu được kết quả tương tự một cách độc lập với nhóm Millikan khi sử dụng các vi hạt kim loại tích điện, và kết quả được công bố vào năm 1913. Tuy nhiên, các giọt dầu có tính ổn định hơn giọt nước bởi vì chúng có tốc độ bốc hơi chậm hơn, và do đó phù hợp hơn với thí nghiệm chính xác đòi hỏi thực hiện trong thời gian dài hơn.\nVào thời điểm bắt đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng dưới những điều kiện nhất định một hạt tích điện chuyển động nhanh trong buồng bọt có thể gây ra sự ngưng tụ của hơi nước siêu bão hòa trên quỹ đạo chuyển động của hạt. Năm 1911, Charles Wilson đã áp dụng nguyên lý này cho thiết bị buồng mây của mình, cho phép ông có thể chụp ảnh được quỹ đạo của các hạt tích điện, ví dụ như các electron chuyển động nhanh.\nLý thuyết nguyên tử.\nCho đến năm 1914, các thí nghiệm thực hiện bởi Ernest Rutherford, Henry Moseley, James Franck và Gustav Hertz hầu như đã khẳng định được cấu trúc nguyên tử bao gồm một hạt nhân cô đặc mang điện dương bao xung quanh bởi các electron có khối lượng rất nhỏ. Năm 1913, nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr giả thuyết các electron nằm trong các trạng thái có mức năng lượng bị lượng tử hóa, mức năng lượng của chúng được xác định bởi mômen động lượng của quỹ đạo electron quanh hạt nhân. Các electron có thể chuyển động trên những quỹ đạo này, bằng cách phát ra hay hấp thụ photon với tần số xác định. Với cơ sở là những quỹ đạo bị lượng tử hóa này, Bohr có thể giải thích một cách chính xác các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Tuy nhiên, mô hình của Bohr chưa thể giải thích được cường độ tương đối của các vạch này cũng như mô hình chưa thể giải thích quang phổ của những nguyên tử phức tạp hơn.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử được Gilbert Newton Lewis giải thích, khi vào năm 1916 ông đề xuất rằng liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử được duy trì bởi cặp electron chia sẻ giữa chúng. Sau đó, vào năm 1927, Walter Heitler và Fritz London đưa ra lý thuyết giải thích đầy đủ cho sự hình thành cặp electron và liên kết hóa học trong khuôn khổ của cơ học lượng tử. Năm 1919, nhà hóa học người Mỹ Irving Langmuir đưa ra mô hình tĩnh về nguyên tử và gợi ý rằng mọi electron được phân bố tuần tự theo \"những vỏ (gần) hình cầu đồng tâm, tất cả đều có độ dày bằng nhau\". Tiếp đó, ông chia những vỏ này ra thành một số ô, mà mỗi ô chứa một cặp electron. Với mô hình này, Langmuir có thể giải thích một cách định tính các tính chất hóa học của các nguyên tố trong bảng tuần hoàn, mà nhiều tính chất được lặp lại tuân theo định luật tuần hoàn trong bảng.\nNăm 1924, nhà vật lý người Áo Wolfgang Pauli nhận xét thấy cấu trúc tựa vỏ của nguyên tử có thể được giải thích bằng một tập hợp chứa bốn tham số xác định lên mỗi trạng thái năng lượng lượng tử, và mỗi trạng thái này không thể chiếm bởi nhiều hơn một electron. Việc không có nhiều hơn một electron chiếm chỗ ở cùng một trạng thái năng lượng lượng tử được phát biểu trong nguyên lý loại trừ Pauli. Cơ chế vật lý để giải thích cho tham số thứ tư, mà nó có hai giá trị phân biệt, được các nhà vật lý người Hà Lan Samuel Goudsmit và George Uhlenbeck đề xuất. Năm 1925, họ cho rằng một electron, cùng với mômen động lượng của quỹ đạo, còn sở hữu thêm mômen góc động lượng nội tại và mômen lưỡng cực từ. Điều này tương tự như sự tự quay của Trái Đất cũng như nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Mômen góc động lượng nội tại này được gọi là spin, và đưa ra cách giải thích cho sự tách vạch bí ẩn như được quan sát thấy ở các vạch quang phổ bằng phổ kế có độ phân giải cao; hiện tượng này được biết đến như là sự tách cấu trúc tinh tế.\nCơ học lượng tử.\nTrong luận án \"\" (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử) viết năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie giả thuyết rằng mọi vật chất có thể được biểu diễn bằng sóng de Broglie tương tự như sóng ánh sáng. Điều đó có nghĩa là dưới những điều kiện phù hợp, các electron và những hạt vật chất khác sẽ thể hiện những tính chất của sóng hoặc của hạt. Lý thuyết hạt ánh sáng được chứng tỏ khi nó thể hiện có vị trí định xứ trong không gian dọc theo quỹ đạo chùm sáng ở bất kỳ thời điểm nào. Bản chất sóng ánh sáng được hiện, ví dụ, khi một chùm sáng chiếu qua những khe hẹp song song nó sẽ tạo thành những vân giao thoa. Năm 1927 George Paget Thomson khám phá ra hiệu ứng giao thoa xuất hiện khi cho một chùm electron truyền qua những lá kim loại mỏng và kiểu thí nghiệm tương tự được các nhà vật lý người Mỹ Clinton Davisson và Lester Germer thực hiện khi cho chùm electron phản xạ từ tinh thể nikel và quan sát thấy hiệu ứng giao thoa. Các hiệu ứng này còn được gọi là hiện tượng nhiễu xạ electron.\nDự đoán của de Broglie về bản chất sóng của electron đưa Erwin Schrödinger thiết lập lên phương trình sóng miêu tả electron chuyển động dưới ảnh hưởng của hạt nhân trong nguyên tử. Năm 1926, với phương trình của mình, phương trình Schrödinger, ông đã miêu tả thành công sóng electron trong hệ nguyên tử. Hơn là chỉ việc tìm ra nghiệm xác định vị trí của một electron theo thời gian, phương trình sóng này cũng được áp dụng để dự đoán xác suất tìm thấy electron quanh vị trí cụ thể, đặc biệt vị trí gần nơi electron bị chặn trong không gian, mà tại đây phương trình sóng electron không thay đổi theo thời gian. Cách tiếp cận này đã đem đến một lý thuyết miêu tả cơ học lượng tử thứ hai (lý thuyết đầu tiên miêu tả bằng cơ học ma trận do Heisenberg phát triển năm 1925), và nghiệm của phương trình Schrödinger, giống như của Heisenberg, cho phép dẫn ra các trạng thái năng lượng của một electron trong nguyên tử hydro mà tương đương với các kết quả thu được bởi Bohr vào năm 1913, và miêu tả chính xác quang phổ nguyên tử hydro. Khi kể đến spin và tương tác giữa nhiều electron, cơ học lượng tử đưa ra những dự đoán chính xác về cấu hình electron trong những hệ nguyên tử phức tạp hơn hydro.\nNăm 1928, dựa trên các nghiên cứu của Wolfgang Pauli, Paul Dirac thiết lập nên một mô hình về electron – phương trình Dirac, nhất quán với thuyết tương đối hẹp, bằng cách áp dụng các điều kiện đối xứng và tương đối tính trong hình thức luận hamiltonian của cơ học lượng tử cho trường điện từ. Để có thể giải một số vấn đề trong phương trình tương đối tính của mình, năm 1930 Dirac nêu ra một mô hình chân không như là một biển chứa vô hạn các hạt có năng lượng âm, sau này gọi là biển Dirac. Mô hình này đã đưa ông đi đến dự đoán tồn tại positron, một hạt phản vật chất của electron. Hạt này sau đó được phát hiện vào năm 1932 bởi Carl Anderson, và ông đề xuất gọi các electron thường gặp là \"negatron\" và sử dụng thuật ngữ \"electron\" nhằm miêu tả những biến thể mang điện tích dương hoặc âm.\nNăm 1947 Willis Lamb, khi đang thực hiện nghiên cứu cùng với sinh viên Robert Retherford, đã tìm thấy có những trạng thái lượng tử riêng biệt của hydro, đáng ra phải có cùng mức năng lượng, lại được dịch chuyển tương đối với nhau; sự sai lệch này sau đó được gọi là dịch chuyển Lamb. Trong cùng thời gian, Polykarp Kusch, cùng với Henry M. Foley, đã khám phá bằng thí nghiệm mômen từ của electron có giá trị hơi lớn hơn so với dự đoán của lý thuyết Dirac. Giá trị chênh lệch nhỏ này sau đó được gọi là mômen lưỡng cực từ dị thường của electron. Sự chênh lệch này sau đó được giải thích trong lý thuyết điện động lực học lượng tử, phát triển bởi các nhà vật lý Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và\nRichard Feynman vào cuối thập niên 1940.\nMáy gia tốc hạt.\nVới sự phát triển của các loại máy gia tốc hạt trong nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn vào các tính chất của các hạt hạ nguyên tử. Thành công đầu tiên trong nỗ lực gia tốc electron sử dụng cảm ứng điện từ được thực hiện vào năm 1942 bởi Donald Kerst. Máy betatron ban đầu của ông đạt đến mức năng lượng 2,3 MeV, và những máy betatron về sau đạt đến mức 300 MeV. Năm 1947, bức xạ đồng bộ (synchrotron radiation) được phát hiện tại máy gia tốc synchrotron, đưa electron đạt mức năng lượng 70 MeV, tại cơ sở nghiên cứu của General Electric. Bức xạ này là do các electron chuyển động gia tốc đi qua một từ trường ở vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng.\nMáy gia tốc va chạm hạt ADONE là máy đầu tiên đạt mức năng lượng của chùm tia cỡ 1,5 GeV, bắt đầu hoạt động vào năm 1968. Trong thiết bị này, các hạt electron và positron được gia tốc theo hai hướng ngược chiều nhau, như vậy gần như làm tăng gấp đôi năng lượng va chạm so với máy gia tốc chùm tia electron bắn vào một bia cố định. Máy va chạm lớn Electron–Positron (Large Electron–Positron Collider; LEP) ở CERN, hoạt động từ 1989 đến 2000, đạt tới mức năng lượng va chạm 209 GeV và có những đo lường quan trọng cho Mô hình Chuẩn của vật lý hạt.\nGiam giữ từng electron.\nHiện nay từng electron đơn lẻ có thể dễ dàng bị giam hãm trong những transistor CMOS siêu nhỏ (, ) hoạt động ở ngưỡng nhiệt độ lạnh sâu từ −269 °C (4 K) cho đến khoảng −258 °C (15 K). Hàm sóng electron lan truyền trong một dàn chất bán dẫn và khi bỏ qua tương tác của nó với các electron trong dải hóa trị, thì có thể coi như là hàm của electron đơn lẻ, bằng cách thay thế khối lượng của nó bằng tenxơ khối lượng hiệu dụng.\nCác đặc tính.\nPhân loại.\nTrong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt, electron thuộc về nhóm các hạt hạ nguyên tử gọi là lepton, mà được cho là những hạt cơ bản. Electron có khối lượng nhỏ nhất trong nhóm lepton (cũng như trong nhóm các hạt mang điện) và thuộc về thế hệ thứ nhất của hạt cơ bản. Thế hệ thứ hai và thứ ba bao gồm các lepton mang điện, hạt muon và tau, chúng có giá trị điện tích, spin và tham gia tương tác giống với của electron, nhưng có khối lượng lớn hơn. Lepton khác so với những thành phần cơ bản khác của vật chất, hạt quark, khi lepton không tham gia vào tương tác mạnh. Tất cả các thành viên trong nhóm lepton đều là fermion, bởi vì chúng đều có spin bán nguyên; electron có spin .\nCác tính chất cơ bản.\nKhối lượng bất biến (khối lượng nghỉ) của electron xấp xỉ bằng  kilogram, hay  đơn vị khối lượng nguyên tử. Trên cơ sở của nguyên lý sự tương đương khối lượng−năng lượng của Einstein, khối lượng này tương ứng với mức năng lượng nghỉ 0,511 MeV. Tỷ số giữa khối lượng của một proton so với của electron bằng khoảng 1836. Các đo đạc thiên văn cho thấy tỷ số khối lượng proton trên khối lượng electron vẫn giữ nguyên không đổi, như được dự đoán bởi Mô hình Chuẩn, trong thời gian ít nhất bằng một nửa tuổi của vũ trụ.\nElectron có điện tích bằng coulomb, một giá trị đã được sử dụng làm đơn vị điện tích chuẩn cho các hạt hạ nguyên tử, và cũng được gọi là điện tích cơ bản. Trong khoảng giới hạn sai số thí nghiệm, giá trị điện tích của electron bằng giá trị của proton nhưng mang dấu ngược lại. Vì ký hiệu \"e\" được sử dụng cho điện tích cơ bản, electron thường được ký hiệu là , với dấu trừ thể hiện cho điện tích âm. Positron được ký hiệu bởi vì nó có cùng các tính chất với electron nhưng mang điện tích dương.\nElectron có mômen động lượng nội tại hay spin . Do tính chất này mà electron thường được coi các hạt có spin-. Những hạt như vậy có độ lớn spin bằng  \"ħ\", trong khi kết quả đo từ hình chiếu của spin lên một trục bất kỳ chỉ có thể bằng ±. Ngoài spin, electron còn có mômen từ hướng dọc theo trục spin của nó. Giá trị mômen từ electron xấp xỉ bằng một Bohr magneton,=\\frac{e\\hbar}{2m_{\\mathrm{e}}}.</math>|group=gc}} là hằng số vật lý bằng joule trên tesla. Hướng của spin so với hướng của mômen động lượng electron xác định lên tính chất của các hạt cơ bản được biết đến là tính xoắn (\"helicity\").\nElectron không có cấu trúc con đã biết, nên nó thường được coi là một hạt điểm, hay cụ thể là một điện tích điểm không có không gian trong. Quan sát electron đơn lẻ trong bẫy Penning gợi ý rằng giới hạn trên của bán kính của nó bằng 10−22 mét. Giá trị giới hạn trên của bán kính electron bằng 10−18 mét có thể dẫn ra từ nguyên lý bất định kết hợp với năng lượng. Ngoài ra, còn có một hằng số vật lý gọi là \"bán kính electron cổ điển\", với giá trị là , lớn hơn rất nhiều bán kính của proton. Tuy nhiên, giá trị này được tìm từ những phép tính đơn giản mà bỏ qua các hiệu ứng của cơ học lượng tử; trong thực tế, giá trị bán kính electron cổ điển không có nhiều ý nghĩa khi đề cập đến cấu trúc cơ bản bên trong của electron.\nCó những hạt cơ bản khác tự động phân rã thành những hạt khối lượng nhẹ hơn. Ví dụ cho muon, nó có thời gian sống trung bình  giây, và phân rã thành một electron, một neutrino muon và một phản neutrino electron. Hạt electron, mặt khác, theo lý thuyết được cho là hạt bền: electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất với điện tích khác 0, do đó sự phân rã của nó sẽ vi phạm định luật bảo toàn điện tích. Thực nghiệm xác định giới hạn dưới của thời gian sống của electron là năm, ở mức 90% độ tin cậy.\nCác tính chất lượng tử.\nNhư mọi hạt khác, các electron có hành xử như những sóng. Đặc điểm này được gọi là lưỡng tính sóng–hạt và được chứng minh bằng thí nghiệm giao thoa hai khe.\nBản chất sóng của electron cho phép nó đi qua hai khe song song một cách đồng thời, hơn là chỉ một khe ở một thời điểm như đối với trường hợp của hạt. Trong cơ học lượng tử, tính chất sóng của một hạt được miêu tả bằng toán học dưới dạng hàm giá trị phức, hay hàm sóng, thường được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp psi (\"ψ\"). Khi tính bình phương giá trị tuyệt đối của hàm này, sẽ cho xác suất quan sát được một hạt ở một vị trí cho trước—hay chính là mật độ xác suất.\nElectron là những hạt đồng nhất bởi vì không thể phân biệt được chúng dựa trên những tính chất vật lý nội tại của hạt. Trong cơ học lượng tử, điều này có nghĩa là một cặp electron tương tác có thể đổi chỗ cho nhau mà không làm thay đổi trạng thái quan sát được của hệ. Hàm sóng của các fermion, bao gồm electron, là hàm phản xứng, có nghĩa rằng nó thay đổi dấu khi hai electron trao đổi vị trí cho nhau; hay, , với các biến \"r\"1 và \"r\"2 tương ứng với electron thứ nhất và thứ hai. Vì giá trị tuyệt đối không thay đổi khi hai hạt đổi chỗ cho nhau, điều này tương ứng với xác suất của hai sự kiện là bằng nhau. Ngược lại, hạt boson, như photon, lại có hàm sóng đối xứng.\nTrong trường hợp phản xứng, các nghiệm của phương trình sóng cho các electron tương tác sẽ cho xác suất bằng 0 đối với mỗi cặp chiếm cùng một vị trí hoặc trạng thái. Kết quả này tương ứng với nguyên lý loại trừ Pauli, phát biểu rằng không thể có hai electron chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Nguyên lý này giải thích cho nhiều tính chất của các electron hóa học. Ví dụ, nó làm cho nhóm các electron liên kết chiếm những orbital khác nhau trong một nguyên tử, hơn là đan xen lẫn nhau trong cùng một orbital.\nHạt ảo.\nTrong một bức tranh đơn giản, mỗi photon đôi lúc được coi như là tổ hợp của một hạt electron ảo với phản hạt ảo của nó, positron ảo, mà chúng nhanh chóng hủy lẫn nhau khi vừa mới sinh ra trong một thời gian rất ngắn. Sự kết hợp của biến thiên năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt này, và khoảng thời gian trong đó chúng tồn tại, phải nằm trong ngưỡng chấp nhận được tuân theo nguyên lý bất định Heisenberg, Δ\"E\" · Δ\"t\" ≥ \"ħ\". Để thỏa mãn nguyên lý này, năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt ảo này, Δ\"E\", có thể được \"mượn\" từ chân không trong một khoảng thời gian, Δ\"t\", sao cho tích của chúng không được lớn hơn hằng số Planck thu gọn, . Do vậy, đối với một electron ảo, Δ\"t\" lớn nhất bằng . (nghĩa là nếu cặp electron ảo−positron ảo mượn năng lượng Δ\"E\" từ chân không lượng tử thì phải trả lại năng lượng này cho chân không sau tối đa một khoảng thời gian Δ\"t\" sao cho Δ\"E\" · Δ\"t\" ≤ \"ħ\")\nKhi một cặp electron–positron ảo đang tồn tại, lực tĩnh điện Coulomb từ điện trường tức thời xung quanh hạt electron sẽ làm hút hạt positron về phía electron gốc ban đầu, trong khi electron được sinh ra chịu một lực đẩy. Hiệu ứng này chính là sự phân cực chân không. Về mặt hiệu ứng, chân không hành xử như một môi trường có dielectric permittivity lớn hơn 1 đơn vị. Do vậy điện tích hữu hiệu của một electron thực sự nhỏ hơn giá trị thực của nó, và điện tích giảm dần khi khoảng cách tăng dần tính từ electron. Sự phân cực này đã được xác nhận bằng thực nghiệm vào năm 1997 tại máy gia tốc hạt TRISTAN ở Nhật Bản. Các hạt ảo cũng tạo ra hiệu ứng lá chắn đáng kể cho khối lượng của electron.\nTương tác với các hạt ảo cũng giải thích sự sai lệch nhỏ (khoảng 0,1%) về giá trị của mômen từ nội tại của electron so với magneton Bohr (sai lệch này được gọi là mômen từ dị thường của electron). Sự khớp chính xác tuyệt vời giữa giá trị tính toán trên lý thuyết và giá trị đo được bằng thực nghiệm của mômen từ dị thường electron được coi là một trong những thành tựu quan trọng nhất của điện động lực học lượng tử.\nNghịch lý trong vật lý cổ điển về hạt điểm electron lại có mômen góc spin và mômen từ nội tại có thể được giải quyết bởi sự hình thành của các cặp hạt photon ảo trong điện trường sinh bởi electron. Các photon ảo này (đến lượt lại sinh ra các cặp electron−positron ảo khác) làm cho electron luôn dịch chuyển xung quanh vị trí của nó (còn gọi là zitterbewegung), mà tổng hợp lại thành một chuyển động tròn với hiệu ứng tiến động. Chuyển động này tạo ra cả spin và mômen từ của electron. Trong nguyên tử, sự sinh các cặp hạt photon ảo giúp giải thích hiệu ứng dịch chuyển Lamb như đã quan sát thấy ở các vạch quang phổ.\nTương tác.\nElectron sinh ra từ trường tạo ra lực hút lên hạt mang điện dương, như proton, và lực đẩy lên hạt mang điện âm. Cường độ của lực này trong điện động lực học cổ điện được xác định bằng định luật nghịch đảo bình phương Coulomb. Khi một electron đang trong chuyển động, nó tạo ra một từ trường bao quanh. Định luật Ampère-Maxwell cho biết mối liên hệ giữa từ trường và chuyển động của dòng các electron (dòng điện) tương ứng với người quan sát. Tính chất cảm ứng này cung cấp một từ trường dẫn động làm quay động cơ điện. Trường điện từ của một hạt mang điện bất kỳ đang trong chuyển động được miêu tả bằng thế Liénard–Wiechert, thế này đúng cho cả trường hợp hạt chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (hay vận tốc tương đối tính).\nKhi một electron chuyển động trong từ trường, nó chịu tác dụng của lực Lorentz tác động theo phương vuông góc với mặt phẳng xác định bởi vectơ từ trường và vectơ vận tốc của electron. Lực hướng tâm làm cho electron chuyển động trên một quỹ đạo xoắn ốc trong từ trường với bán kính Larmor. Sự gia tốc từ chuyển động theo đường cong ghềnh này làm cảm ứng electron phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ đồng bộ. Năng lượng bức xạ này làm hãm electron, hay còn gọi là lực Abraham–Lorentz–Dirac, tạo ra ma sát làm chậm chuyển động của electron. Lực này cũng gây ra tác động ngược (back-reaction) lên điện từ trường của chính electron.\nTrong điện động lực học lượng tử photon là hạt truyền tải tương tác điện từ giữa các hạt. Một electron đơn lẻ chuyển động với vận tốc đều không thể phát ra hay hấp thụ một photon thực; do sẽ vi phạm định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Mặt khác, các photon ảo có thể truyền động lượng giữa hai hạt mang điện tích. Sự trao đổi này của các photon ảo, ví dụ, làm tạo ra lực Coulomb. Bức xạ năng lượng xuất hiện khi một electron chuyển động bị làm lệch quỹ đạo gây bởi điện trường của một hạt mang điện khác, như proton. Sự gia tốc của electron làm phát ra bức xạ Bremsstrahlung.\nMột photon (ánh sáng) va chạm phi đàn hồi với một electron (tự do) được gọi là tán xạ Compton. Kết quả của va chạm này là động lượng và năng lượng được truyền qua giữa các hạt, làm thay đổi bước sóng của photon bằng một lượng được gọi là dịch chuyển Compton. Độ dịch chuyển lớn nhất của bước sóng bằng \"h\"/\"m\"e\"c\", hay còn gọi là bước sóng Compton. Đối với một electron, nó có giá trị bằng . Khi bước sóng của ánh sáng là dài (ví dụ bước sóng của ánh sáng khả kiến bằng 0,4–0,7 μm) sự dịch chuyển bước sóng có thể bỏ qua được. Trong trường hợp này, tương tác giữa ánh sáng và electron tự do được gọi là tán xạ Thomson hay tán xạ Thomson tuyến tính.\nĐộ mạnh tương đối của tương tác điện từ giữa hai hạt điện tích, chẳng hạn giữa một electron và một proton, được xác định bởi hằng số cấu trúc tế vi. Đây là đại lượng không thứ nguyên hình thành dựa trên tỉ số của hai dạng năng lượng: năng lượng tĩnh điện của lực hút (hoặc đẩy) ở khoảng cách bằng một lần bước sóng Compton, và năng lượng nghỉ của các hạt mang điện tích. Nó có giá trị bằng \"α\" ≈ , hay xấp xỉ bằng .\nKhi electron và positron va chạm, chúng hủy lẫn nhau, làm phát ra hai hoặc ba photon tia gamma. Nếu electron và positron có động lượng bỏ qua được, va chạm có thể hình lên nguyên tử positronium trước khi hai hạt hủy lẫn nhau để hình ra các photon có tổng năng lượng 1,022 MeV. Mặt khác, một photon năng lượng cao có thể biến đổi thành cặp electron và positron bởi quá trình sinh cặp (pair production), nhưng chỉ trong sự có mặt của một hạt điện tích gần nó, như một hạt nhân chẳng hạn.\nTrong lý thuyết tương tác điện yếu, thành phần hàm sóng hướng bên trái (chiral) của electron tạo thành bộ đôi isospin yếu với neutrio electron. Điều này có nghĩa rằng trong tương tác yếu, neutrino electron hành xử như các electron. Mỗi loại hạt của bộ đôi này (doublet) có thể tham gia vào tương tác dòng tích (charged current) bằng cách phát ra hoặc hấp thụ một boson và biến đổi sang thành hạt kia. Điện tích được bảo toàn trong quá trình này bởi vì boson W cũng mang điện tích, làm cho tổng điện tích của quá trình biến đổi là không thay đổi. Các tương tác dòng tích chịu trách nhiệm cho hiện tượng phân rã beta trong một nguyên tử phóng xạ. Cả electron và neutrino electron có thể tham gia vào tương tác dòng trung hòa (neutral current interaction) thông qua sự trao đổi một boson , và chịu trách nhiệm cho tán xạ đàn hồi neutrino−electron.\nNguyên tử và phân tử.\nMột electron có thể \"liên kết\" với hạt nhân của một nguyên tử bởi lực hút Coulomb. Một hệ có một hoặc nhiều electron liên kết với một hạt nhân được gọi là một nguyên tử. Nếu số electron khác với số điện tích của hạt nhân, nguyên tử đó được gọi là một ion. Hành xử dạng sóng của một electron liên kết được miêu tả bằng một hàm sóng gọi là orbital nguyên tử. Mỗi orbital đặc trưng bởi các số lượng tử như mức năng lượng, mômen động lượng và hình chiếu của mômen góc, và chỉ có các orbital rời rạc tồn tại xung quanh hạt nhân. Theo nguyên lý loại trừ Pauli mỗi orbital có thể chiếm giữ bởi tối đa hai electron, và chúng phải có số lượng tử spin khác nhau.\nElectron có thể nhảy sang các orbital khác nhau thông qua sự hấp thụ hoặc phát ra photon có năng lượng bằng hiệu giữa hai mức năng lượng đó. Các phương pháp khác làm electron chuyển sang orbital khác bao gồm sự va chạm của nó với hạt khác, như các electron, và nhờ hiệu ứng Auger. Để thoát ra khỏi nguyên tử, năng lượng của electron phải tăng và lớn hơn năng lượng liên kết với nguyên tử. Điều này xảy ra, ví dụ, như ở hiệu ứng quang điện, khi một photon tới va chạm có năng lượng lớn hơn năng lượng ion hóa nguyên tử và bị electron hấp thụ.\nMômen góc orbital của electron bị lượng tử hóa. Bởi electron mang điện, nó có một mômen từ orbital tỷ lệ với mômen góc. Tổng mômen từ của một nguyên tử bằng tổng vec tơ của mô men từ spin và mômen từ orbital của tất cả các electron và hạt nhân. Mômen từ của hạt nhân là nhỏ so với của các electron. Mômen từ của các electron chiếm giữ cùng một orbital (còn gọi là cặp electron) triệt tiêu lẫn nhau.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử chính là tương tác điện từ giữa chúng, như miêu tả bởi các định luật của cơ học lượng tử. Liên kết mạnh nhất hình thành bởi chia sẻ hoặc cho/nhận các electron giữa các nguyên tử, dẫn đến hình thành lên các phân tử. Bên trong một phân tử, các electron chuyển động dưới ảnh hưởng của một vài hạt nhân, và chiếm giữ các orbital phân tử; giống như chúng chiếm giữ các orbital trong một nguyên tử cô lập. Một yếu tố cơ bản trong các cấu trúc phân tử đó là sự tồn tại các cặp electron. Đây là các electron có spin ngược nhau, cho phép chúng có thể chiếm giữ cùng một orbital phân tử mà không vi phạm nguyên lý loại trừ Pauli (tương tự như ở nguyên tử). Các orbital phân tử khác nhau có phân bố mật độ electron theo không gian khác nhau. Ví dụ, ở các cặp electron liên kết (nghĩa là các cặp thực sự liên kết các nguyên tử với nhau) có thể được tìm thấy với xác suất cực đại nằm ở vùng thể tích tương đối nhỏ giữa các hạt nhân. Ngược lại, ở các cặp electron không liên kết chúng phân bố trong thể tích lớn hơn bao quanh hạt nhân.\nDẫn điện.\nNếu một vật thể có nhiều hoặc ít hơn lượng electron cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân nguyên tử, thì tổng thể vật đó có mang điện tích. Khi có nhiều hơn electron, vật đó mang điện âm. Khi có ít electron hơn số lượng proton trong hạt nhân nguyên tử, vật mang điện dương. Khi số electron và proton bằng nhau, điện tích của chúng hủy lẫn nhau và vật thể ở trạng thái cân bằng điện (hay trung hòa). Nhờ tác động chà xát có thể làm vật thể vĩ mô mang điện thông qua hiệu ứng điện ma sát (triboelectric effect).\nCác electron độc lập chuyển động trong chân không được gọi là các electron \"tự do\". Các electron trong kim loại cũng hành xử như chúng chuyển động tự do. Thực sự thì các hạt được gọi là các electron trong kim loại và những thể rắn khác là những giả-electron—giả hạt, mà có cùng điện tích, spin, và mômen từ như các electron thực thụ nhưng có khối lượng khác với nó. Khi các electron tự do—trong chân không lẫn kim loại—chuyển động, chúng tạo ra một dòng mạng lưới điện tích được gọi là dòng điện, từ đó tạo ra một từ trường. Giống như một dòng điện có thể được sinh ra từ sự thay đổi của một từ trường. Những tương tác và mối quan hệ này được miêu tả bởi phương trình Maxwell.\nỞ mỗi nhiệt độ nhất định, từng vật liệu có một độ dẫn điện ảnh hưởng đến giá trị của dòng điện khi áp vào một điện thế. Những vật dẫn điện tốt bao gồm kim loại như đồng và vàng, trong khi thủy tinh và Teflon lại dẫn điện kém. Ở bất kỳ vật liệu cách điện nào, các electron vẫn bám vào các nguyên tử và vật liệu có tính chất như là một chất cách điện. Hầu hết các chất bán dẫn có mức độ dẫn điện biến đổi từ phạm vi dẫn điện cực tốt cho đến cách điện hoàn toàn. Mặt khác, các kim loại có cấu trúc dải điện tử chứa các vùng năng lượng được lấp đầy một phần bởi electron. Sự có mặt của những vùng năng lượng này cho phép các electron trong kim loại hành xử như chúng được tự do hoặc gọi là các electron phi định xứ (delocalized electrons). Những electron không liên kết với một nguyên tử nhất định, do vậy khi áp dụng một điện trường, chúng chuyển động tự do như một chất khí (được gọi là khí Fermi) đi qua vật liệu giống như các electron tự do.\nBởi vì có sự va chạm giữa các electron với các nguyên tử, vận tốc trôi của các electron trong một vật dẫn có độ lớn cỡ vài milimét trên một giây. Tuy nhiên, trường hợp có sự thay đổi dòng điện từ một điểm trong vật liệu gây ra sự thay đổi dòng điện ở điểm khác trong vật liệu, thì tốc độ lan truyền của hiệu ứng này, điển hình bằng khoảng 75% tốc độ ánh sáng. Điều này xảy ra bởi vì tín hiệu điện lan truyền như một sóng, với vận tốc phụ thuộc vào hằng số điện môi của vật liệu.\nĐa số kim loại có độ dẫn nhiệt tương đối tốt, chủ yếu bởi vì các electron phi định xứ vận chuyển năng lượng nhiệt tự do giữa các nguyên tử. Tuy nhiên, không giống như sự dẫn điện, sự dẫn nhiệt của một kim loại gần như độc lập với nhiệt độ của vật liệu. Điều này đã được phát biểu bằng định luật Wiedemann–Franz, nói rằng tỉ số độ dẫn nhiệt trên độ dẫn điện tỷ lệ thuận với nhiệt độ của vật liệu. Sự mất trật tự bởi nhiệt trong dàn tinh thể nguyên tử kim loại làm tăng điện trở của vật liệu, tạo ra sự phụ thuộc vào nhiệt độ đối với dòng điện.\nKhi làm lạnh vật liệu xuống dưới một mức gọi là nhiệt độ tới hạn, vật liệu trải qua sự chuyển pha trong đó nó mất hoàn toàn tính kháng điện (điện trở) đối với dòng điện, hay chính là hiệu ứng siêu dẫn. Trong lý thuyết BCS, các cặp electron được gọi là cặp Cooper trong chuyển động của chúng bắt cặp với nguyên tử gần đấy thông qua những dao động dàn nguyên tử gọi là phonon, do đó cặp Cooper tránh được va chạm với các nguyên tử mà thường tạo ra điện trở. (Các cặp Cooper có bán kính xấp xỉ bằng 100 nm, do đó nếu coi chúng như sóng vật chất thì chúng có thể chồng chập lẫn nhau.) Tuy nhiên, cơ chế cho hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu vẫn chưa có lý thuyết giải thích thỏa đáng.\nCác electron bên trong vật dẫn, mà chính chúng cũng là những giả hạt, khi đặt trong nhiệt độ rất gần với độ không tuyệt đối, có thể được phân ra thành ba loại giả hạt: spinon, orbiton và holon. Hạt đầu tiên mang spin và mômen từ, hạt tiếp theo mang vị trí orbital của nó trong khi hạt còn lại mang điện tích.\nChuyển động và năng lượng.\nTheo thuyết tương đối hẹp của Einstein, khi tốc độ của một electron tiệm cận tới tốc độ ánh sáng, người quan sát từ một hệ quy chiếu quán tính sẽ đo được khối lượng tương đối tính của hạt tăng lên, do đó khiến cho nó càng khó để có thể gia tốc nó từ bên trong hệ quy chiếu của người quan sát. Tốc độ của một electron có thể tiếp cận đến, nhưng không bao giờ bằng, tốc độ của ánh sáng trong chân không, \"c\". Tuy nhiên, khi các electron tương đối tính—là những electron chuyển động với tốc độ gần bằng \"c\"—chuyển động trong môi trường điện môi như nước, nơi vận tốc ánh sáng trong nó nhỏ hơn nhiều so với \"c\", các electron trong môi trường này có thể chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Khi chúng tương tác va chạm với môi trường, chúng tạo ra một ánh sáng nhạt được gọi là bức xạ Cherenkov.\nCác hiệu ứng trong thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên một đại lượng gọi là hệ số Lorentz, được xác định bằng formula_1 với \"v\" là tốc độ của hạt. Động năng \"K\"e của một electron chuyển động với vận tốc \"v\" bằng:\nvới \"m\"e là khối lượng của electron. Ví dụ, ở máy gia tốc thẳng Stanford có thể gia tốc một electron tới động năng gần bằng 51 GeV. Vì một electron hành xử như dạng sóng, ở một vận tốc bất kỳ nó có một bước sóng de Broglie đặc trưng. Bước sóng này được cho bởi \"λ\"e = \"h\"/\"p\" với \"h\" là hằng số Planck và \"p\" là động lượng. Đối với electron có động năng 51 GeV ở trên, bước sóng de Broglie bằng , đủ nhỏ để khám phá các cấu trúc có kích thước nhỏ hơn kích cỡ của một hạt nhân nguyên tử.\nSự hình thành.\nLý thuyết Vụ Nổ Lớn là lý thuyết khoa học được chấp nhận rộng rãi hiện nay miêu tả những giai đoạn ban đầu của sự tiến hóa của Vũ trụ. Ở những miligiây đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ trên 10 tỷ kelvin và các photon có năng lượng trung bình trên một triệu electronvolt. Các photon này có đủ năng lượng mà khi tương tác với nhau có thể dẫn tới sự hình thành cặp electron và positron. Ngược lại, những cặp positron−electron hủy lẫn nhau và phát ra các photon năng lượng cao:\nTrạng thái cân bằng giữa các electron, positron và photon được duy trì trong suốt giai đoạn này của sự tiến hóa Vũ trụ. Khi 15 giây trôi qua, tuy nhiên, nhiệt độ của Vũ trụ lúc này giảm xuống dưới ngưỡng cho phép hình thành cặp hạt electron−positron. Phần lớn các electron và positron tồn tại hủy lẫn nhau, giải phóng bức xạ gamma làm Vũ trụ nóng lên trong một thời gian ngắn.\nVì một lý do nào đó chưa được biết chắc chắn, trong suốt quá trình hủy cặp có sót lại một số lượng hạt nhiều hơn phản hạt vật chất. Cụ thể là có dư ra 1 electron tồn tại trong mỗi 1 tỷ cặp hạt electron−positron. Số lượng dư sót lại này bằng với số lượng proton còn dư từ quá trình hủy cặp hạt tương tự proton và phản proton, trong một điều kiện được gọi là bất đối xứng baryon, điều này mang đến tổng điện tích của toàn bộ Vũ trụ gần như bằng zero. Những proton và neutron còn dư lại bắt đầu tham gia vào các phản ứng với nhau—quá trình gọi là tổng hợp hạt nhân, tạo ra các đồng vị của hydro và heli, và một ít hạt nhân lithi. Các phản ứng này đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian ở sau năm phút. Bất kỳ neutron còn lại nào sẽ trải qua phản ứng phân rã beta âm với nửa thời gian sống bằng khoảng một nghìn giây, giải phóng ra một proton và một electron,\nTrong khoảng 300.000–400.000 năm tiếp theo, lượng các hạt electron còn lại có năng lượng quá lớn để có thể liên kết vào các hạt nhân nguyên tử. Giai đoạn tiếp theo là sự tái kếp hợp electron vào hạt nhân, khi ấy các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự giãn nở của vũ trụ làm cho vật chất trở lên trong suốt với bức xạ.\nGần một triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, thế hệ các ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành. Trong lòng một ngôi sao, dây chuyền phản ứng tổng hợp hạt nhân sao cho ra các sản phẩm trong đó có positron. Những hạt phản vật chất này ngay lập tức hủy với các electron, giải phóng tia gamma. Gộp chung lại số lượng hạt electron bị giảm dần, và tương ứng số lượng hạt neutron tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa sao cũng hình thành các sản phẩm là những đồng vị phóng xạ. Các đồng vị này có thể sau đó trải qua phân rã beta trừ, phát ra một electron và một phản neutrino từ hạt nhân. Một ví dụ là đồng vị cobalt-60 (60Co), mà phân rã thành nickel-60 (60Ni).\nCuối chu trình tiến hóa của chúng, một ngôi sao có khối lượng lớn hơn 20 lần khối lượng Mặt Trời đi đến kết cục suy sụp hấp dẫn để tạo thành một lỗ đen. Theo vật lý cổ điển, bên trong những ngôi sao khối lượng lớn này xuất hiện lực hút hấp dẫn đủ mạnh để ngăn bất kỳ thứ gì, kể cả bức xạ điện từ, thoát ra khỏi bán kính Schwarzschild. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử cho phép có khả năng tồn tại bức xạ Hawking ở phạm vi khoảng cách này. Các electron (và positron) được cho là tạo ra ở chân trời sự kiện của những tàn dư sao.\nKhi một cặp hạt ảo (như gồm một electron và một positron) được tạo ra tại biên giới của chân trời sự kiện, sự phân bố ngẫu nhiên trong vị trí của hạt có thể làm cho một trong hai hạt nằm ở bên trong chân trời sự kiện; mà quá trình này được gọi là sự xuyên hầm lượng tử. Thế năng hấp dẫn của lỗ đen có thể cấp năng lượng để biến một hạt ảo nằm bên ngoài chân trời sự kiện trở thành một hạt thực, cho phép nó bật phóng ra vào không gian. Đổi lại, hạt còn lại của cặp mang năng lượng âm và rơi về vùng kì dị lỗ đen, dẫn đến tổng cộng khối lượng−năng lượng của lỗ đen bị giảm đi. Tốc độ bức xạ Hawking tăng tiến khi khối lượng lỗ đen giảm dần, làm cho lỗ đen bốc hơi và cuối cùng là phát nổ.\nTia vũ trụ là những hạt chuyển động trong không gian với năng lượng cao. Các sự kiện năng lượng cao đến cỡ đã được ghi nhận. Khi những hạt này va chạm với các nucleon trong khí quyển Trái Đất, một trận mưa các hạt được tạo ra, bao gồm các pion. Hơn một nửa bức xạ vũ trụ được quan sát trên bề mặt Trái Đất có chứa các muon. Muon là một hạt loại lepton hình thành tại thượng tầng khí quyển sau quá trình phân rã của một pion.\nĐến lượt muon, nó có thể phân rã thành electron hoặc positron.\nQuan sát.\nQuan sát electron từ xa đòi hỏi việc đo được năng lượng bức xạ của chúng. Ví dụ, trong môi trường năng lượng cao như ở vành nhật hoa của một ngôi sao, các electron tự do tạo thành trạng thái plasma phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ Bremsstrahlung. Khí electron có thể biểu hiện dao động plasma, đó là những sóng gây bởi những biến đổi đồng bộ trong mật độ electron, và những sóng này tạo ra phát xạ năng lượng có thể phát hiện được nhờ quan sát qua kính thiên văn vô tuyến.\nTần số của một photon tỷ lệ với năng lượng của nó. Khi một electron liên kết trong nguyên tử chuyển trạng thái giữa các mức năng lượng khác nhau, nó hấp thụ hoặc phát ra photon ở những tần số đặc trưng. Ví dụ, khi chiếu nguồn bức xạ phổ liên tục vào các nguyên tử sẽ xuất hiện các vạch phổ hấp thụ đặc trưng trong quang phổ của bức xạ phản xạ. Mỗi nguyên tố hoặc phân tử thể hiện một lớp đặc trưng các vạch quang phổ, như các vạch quang phổ hydro. Những phép đo lường quang phổ về cường độ và bề rộng của các vạch này cho phép xác định được thành phần và tính chất vật lý của một chất cần xác định.\nTrong điều kiện của phòng thí nghiệm, có thể quan sát tương tác của từng electron đơn lẻ nhờ các máy gia tốc hạt nhân, mà cho phép đo những tính chất cụ thể như năng lượng, spin và điện tích. Nhờ sự phát triển của các kỹ thuật bẫy ion như bẫy Paul và bẫy Penning cho phép giam giữ các hạt mang điện trong một thể tích đủ nhỏ với thời gian dài. Điều này đã cho phép đo lường các tính chất cũng như thao tác lên những hạt này. Ví dụ, bẫy Penning từng được ứng dụng để chứa một electron đơn lẻ trong thời gian 10 tháng. Mômen từ của electron đã được đo với độ chính xác đến 11 chữ số thập phân mà vào năm 1980, độ chính xác này còn lớn hơn độ chính xác đo được của bất kỳ các hằng số vật lý khác.\nBộ phim chụp ảnh đầu tiên về sự phân bố năng lượng của electron đã được thực hiện bởi một đội các nhà vật lý tại Đại học Lund ở Thụy Điển vào tháng 2 năm 2008. Họ đã sử dụng một xung nhịp ánh sáng cực ngắn, hay gọi là các xung atto giây, cho phép lần đầu tiên chụp ảnh được chuyển động của một electron.\nSự phân bố của các electron trong chất rắn có thể được biểu hiện nhờ kỹ thuật chụp quang phổ bức xạ phân giải góc (angle-resolved photoemission spectroscopy, ARPES). Kỹ thuật này ứng dụng hiệu ứng quang điện để đo hàm phân bố không gian giàn tinh thể—một hàm toán học biểu diễn đặc tính cấu trúc tuần hoàn được áp dụng để suy đoán ra cấu trúc ban đầu của tinh thể. ARPES được ứng dụng để xác định hướng, tốc độ và sự tán xạ của các electron bên trong vật liệu.\nCác ứng dụng plasma.\nChùm hạt.\nTrong công nghệ và kỹ thuật, các chùm tia electron đã được ứng dụng để thực hiện hàn bằng chùm electron giữa hai loại vật liệu. Chúng cho phép mật độ năng lượng của chùm tia hàn lên tới 107 W·cm−2 được tập trung trong một hình nón tròn đường kính cỡ mà thường không cần đòi hỏi phải có lớp vật liệu đệm thứ 3. Kỹ thuật hàn này phải được thực hiện trong chân không để tránh các electron va chạm với một trường khí xung quanh trước khi chúng đến được vật liệu cần hàn, và nó có thể được sử dụng để nối các loại vật liệu dẫn điện mà những biện pháp hàn khác không phù hợp để áp dụng.\nQuang khắc chùm điện tử (EBL) là phương pháp tạo các chi tiết bán dẫn ở mức phân giải nhỏ hơn 1 µm. Kỹ thuật này có hạn chế là giá thành cao, tốc độ sản xuất chậm, cần phải vận hành chùm điện tử trong môi trường chân không cao và các electron có xu hướng tán xạ trên bề mặt vật liệu. Độ phân giải tối đa của phương pháp này vào khoảng 10 nm. Vì lý do này, EBL được ứng dụng chủ yếu cho sản xuất một số nhỏ các vi mạch chuyên biệt.\nPhương pháp xử lý chùm điện tử (electron-beam processing, hoặc electron irradiation EBI) được ứng dụng để làm thay đổi các đặc tính của vật liệu hoặc khử trùng trong y học và thực phẩm bằng cách chiếu chùm điện tử vào sản phẩm. Chùm electron hóa lỏng hoặc làm tan chảy thủy tinh mà không gây tăng nhiều nhiệt độ khi thực hiện chiếu với cường độ cao: ví dụ bức xạ electron mạnh gây ra sự giảm độ nhớt ở nhiều bậc độ lớn và làm giảm từng bước năng lượng hoạt hóa của nó.\nCác máy gia tốc quỹ đạo thẳng (linear particle accelerator) tạo ra những chùm electron cho chùm sáng dùng để điều trị các khối u trên bề mặt trong trị liệu bức xạ. Trị liệu điện tử (electron therapy) có thể điều trị các thương tổn ở da như ung thư tế bào đáy bởi vì một chùm electron chỉ có thể thâm nhập xuống một độ sâu nhất định trước khi bị hấp thụ, thường là đến 5 cm đối với electron có năng lượng trong phạm vi 5–20 MeV. Một chùm electron có thể được sử dụng phối hợp với chiếu xạ tia X trong điều trị bệnh.\nCác máy gia tốc hạt sử dụng điện trường để đẩy các electron và phản hạt của chúng lên mức năng lượng cao. Những hạt này phát ra bức xạ đồng bộ khi chúng bay qua từ trường. Cường độ của bức xạ đồng bộ phụ thuộc vào phân cực spin của chùm electron—quá trình được gọi là hiệu ứng Sokolov–Ternov. Các chùm electron phân cực được ứng dụng trong nhiều thí nghiệm khác nhau. Bức xạ synchrotron có thể dùng làm mát chùm electron với mục đích làm giảm sự phân tán động lượng của chùm hạt. Các chùm electron và positron được cho va chạm với nhau trong máy gia tốc khi chúng đạt đến mức năng lượng yêu cầu; các máy dò hạt (particle detector) quan sát năng lượng của bức xạ phát ra, ghi lại những thông tin và tính chất cần nghiên cứu trong vật lý hạt.\nChụp ảnh.\nNhiễu xạ electron năng lượng thấp (Low-energy electron diffraction, LEED) là một phương pháp bắn vào vật liệu có cấu trúc tinh thể bằng một chùm electron chuẩn trực sau đó quan sát hình ảnh nhiễu xạ giúp xác định lên cấu trúc của vật liệu. Năng lượng đòi hỏi của các electron ở những chùm này trong khoảng 20–200 eV. Kỹ thuật phản xạ nhiễu xạ electron năng lượng cao (reflection high-energy electron diffraction, RHEED) sử dụng sự phản xạ của một chùm electron bắn đến với nhiều góc hẹp khác nhau để nghiên cứu đặc trưng bề mặt của vật liệu có cấu trúc tinh thể. Chùm năng lượng thường nằm trong khoảng 8–20 keV và góc bắn electron thường bằng 1–4°.\nKính hiển vi điển tử hoạt động dựa trên nguyên lý tập trung chùm electron vào một mẫu vật. Một số electron sau khi va chạm vào mẫu vật thì bị thay đổi đặc tính, như hướng chuyển động, góc phản xạ và pha tương đối cũng như năng lượng bị giảm đi. Các nhà hiển vi học ghi lại những thay đổi này từ chùm electron để tái tạo ra những bức ảnh về mẫu vật. Trong ánh sáng xanh lam, các kín hiển vi quang học thông thường có giới hạn nhiễu xạ phân giải ở kích thước 200 nm. So sánh với kính hiển vi điện tử, loại này bị giới hạn bởi bước sóng de Broglie của electron. Ví dụ, bước sóng này bằng 0,0037 nm đối với những electron được gia tốc trong điện trường cỡ 100.000 volt. Kính hiển vi truyền điện tử hiệu chỉnh quang sai (Transmission Electron Aberration-Corrected Microscope) có độ phân giải dưới 0,05 nm, đủ để phân biệt được từng nguyên tử. Khả năng này mang lại những lợi thế cho sử dụng kính hiển vi điện tử trong phòng thí nghiệm để chụp các bức ảnh có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử là những thiết bị đắt tiền và tốn nhiều chi phí hoạt động và bảo trì.\nCó hai loại kính hiển vi điện tử: Loại truyền qua và loại quét bề mặt. Kính hiển vi điện tử truyền qua hoạt động giống như một máy chiếu, với một chùm electron được cho chiếu qua một lát vật liệu sau đó nó được hội tụ trên phim âm bản hoặc cảm biến CCD. Kính hiển vi điện tử quét bề mặt dùng chùm electron quét lên bề mặt mẫu vật, giống như hiển thị trên ti vi màn hình ống, để thu được bức ảnh về nó. Độ phóng đại của hai loại kính này vào cỡ 100× đến 1.000.000. Kính hiển vi quét xuyên hầm sử dụng hiệu ứng chui hầm lượng tử của electron từ mũi nhọn của một đầu dò kim loại để nghiên cứu vật liệu và tạo ra bức ảnh bề mặt vật liệu có độ phân giải cao.\nCác ứng dụng khác.\nTrong laser electron tự do (FEL), một chùm electron tương đối tính đi qua dãy các nam châm lưỡng cực (undulator) bị đổi hướng luân phiên do hướng của từ trường tạo bởi dãy các nam châm này. Vì đổi hướng luân phiên như vậy nên các electron phát ra bức xạ synchrotron một cách nhịp nhàng và đều đặn, bức xạ được khuếch đại ở tần số cộng hưởng. FEL có thể phát ra bức xạ điện từ với độ rọi cao trong dải tần số rộng, từ sóng vi ba cho đến tia X mềm. Những thiết bị này được sử dụng trong sản xuất, viễn thông, và trong các ứng dụng y tế, như phẫu thuật các mô mềm.\nỐng tia âm cực chứa electron, mà đã từng được sử dụng thường xuyên cho các màn hình hiển thị tại nhiều thiết bị thí nghiệm, màn hình máy tính và máy truyền hình. Trong một đèn nhân quang điện, mỗi photon va chạm đến âm cực quang khởi tạo ra một luồng các electron để hình thành một xung dòng điện mà bộ dò phát hiện được. Ống điện tử chân không sử dụng luồng các electron để thao tác lên tín hiệu điện, và chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công nghệ điện tử. Tuy nhiên, ngày nay chúng đã bị thay thế bởi các thiết bị bán dẫn như transistor." ]
electron - in - nhit - lng - neutron - thuyt - ht - einstein - proton - quark
1
false
Khối lượng vừa là một đặc tính của vật thể vật lý vừa là thước đo khả năng chống lại gia tốc của nó (sự thay đổi trạng thái chuyển động của nó) khi một lực ròng được áp dụng. Khối lượng của một vật thể cũng xác định sức mạnh của lực hấp dẫn của nó đối với các vật thể khác. Đơn vị khối lượng SI cơ bản là kilôgam (kg). Trong vật lý, khối lượng khác trọng lượng, mặc dù khối lượng thường được đo bằng cân lò xo hơn là cân thăng bằng đòn bẩy so với một vật mẫu. Một vật sẽ nhẹ hơn khi ở trên mặt trăng so với Trái Đất, tuy vậy nó vẫn sẽ có cùng một lượng vật chất. Điều này là do trọng lượng là một lực, còn khối lượng là một tính chất (cùng với trọng lực) quyết định độ lớn của lực này. Trong cơ học cổ điển, khái niệm khối lượng có thể hiểu là số vật chất có trong một vật. Mặc dù vậy, trong trường hợp vật di chuyển rất nhanh, thuyết tương đối hẹp phát biểu rằng động năng sẽ trở thành một phần lớn khối lượng. Do đó, tất cả các vật ở trạng thái nghỉ sẽ có cùng một mức năng lượng, và tất cả các trạng thái năng lượng cản trở gia tốc và các lực hấp dẫn. Trong vật lý hiện đại, vật chất không phải là một khái niệm cơ bản vì định nghĩa của nó khá là khó nắm bắt. Hiện tượng. Có một số hiện tượng khác biệt có thể được sử dụng để đo khối lượng. Mặc dù một số nhà lý thuyết đã suy đoán rằng một số hiện tượng có thể là độc lập với nhau, các bài kiểm tra hiện tại không tìm thấy sự khác nhau trong kết quả mặc dù được đo như thế nào: Khối lượng của một vật quy định gia tốc của một vật nếu vật đó bị tác động bởi ngoại lực. Quán tính và khối lượng quán tính miêu tả cùng một tính chất vật lí cả về hai mặt định tính và định lượng. Theo như các định luật về chuyển động của Newton, nếu một vật có khối lượng "m" và bị tác động bởi lực "F", gia tốc của nó được tính bằng công thức "F"/"m". Khối lượng cũng quyết định tính chất hút vật và bị hấp dẫn bởi một trường hấp dẫn. Nếu vật một có khối lượng "m"A được đặt cách vật khối lượng 2 "m"B một khoảng "r" (tính từ tâm của mỗi vật), chúng sẽ hấp dẫn nhau tạo ra lực hấp dẫn với công thức , trong đó là hằng số hấp dẫn. Các thí nghiệm lặp đi lặp lại từ thế kỷ 17 đã chứng minh rằng khối lượng quán tính và lực hấp dẫn là giống hệt nhau; kể từ năm 1915, quan sát này đã được kéo theo "một tiên nghiệm" trong nguyên lý tương đương của thuyết tương đối rộng. Đơn vị khối lượng. Đơn vị khối lượng tiêu chuẩn của hệ thống quốc tế (SI) là kilôgam (kg). Kilôgam là 1000   gam (g), lần đầu tiên được xác định vào năm 1795 là một mét khối nước tại điểm nóng chảy của băng. Tuy nhiên, do việc đo chính xác một mét khối nước ở nhiệt độ và áp suất phù hợp là khó khăn, năm 1889, kilôgam được xác định lại là khối lượng của nguyên mẫu quốc tế của kilôgam được làm bằng gang, và do đó trở nên độc lập với đơn vị mét và tính chất của nước. Tuy nhiên, khối lượng của nguyên mẫu quốc tế và các bản sao quốc gia được cho là giống hệt nhau của nó đã được phát hiện là đang giảm dần theo thời gian. Dự kiến, việc định nghĩa lại kilogam và một số đơn vị khác đã diễn ra vào ngày 20 tháng 5 năm 2019, sau cuộc bỏ phiếu cuối cùng của CGPM vào tháng 11 năm 2018. Định nghĩa mới sẽ chỉ sử dụng các đại lượng bất biến của tự nhiên: tốc độ ánh sáng, tần số siêu mịn Caesium và hằng số Planck. Các đơn vị khác được chấp nhận để sử dụng trong SI: Ngoài hệ thống SI, các đơn vị khối lượng khác bao gồm: Tính chất. Khối lượng của một vật là một đại lượng vật lý đặc trưng cho mức độ quán tính của vật đó. Vật có khối lượng lớn có sức ì lớn hơn và cần có lực lớn hơn để làm thay đổi chuyển động của nó. Mối liên hệ giữa quán tính với khối lượng được Isaac Newton phát biểu trong định luật 2 Newton. Khối lượng trong chuyển động thẳng đều còn được mở rộng thành khái niệm mô men quán tính trong chuyển động quay. Khối lượng của một vật cũng đặc trưng cho mức độ vật đó hấp dẫn các vật thể khác, theo định luật vạn vật hấp dẫn Newton. Vật có khối lượng lớn có tạo ra xung quanh trường hấp dẫn lớn. Khối lượng hiểu theo nghĩa độ lớn của quán tính, khối lượng quán tính, không nhất thiết trùng với khối lượng hiểu theo nghĩa mức độ hấp dẫn vật thể khác, khối lượng hấp dẫn. Tuy nhiên các thí nghiệm chính xác hiện nay cho thấy hai khối lượng này rất gần nhau và một tiên đề của thuyết tương đối rộng của Albert Einstein phát biểu rằng hai khối lượng lượng này là một. Khối lượng tương đối tính. Trong vật lý cổ điển người ta coi khối lượng của một vật là một đại lượng bất biến, không phụ thuộc vào chuyển động của vật. Tuy nhiên đến vật lý hiện đại người ta lại có cách nhìn khác về khối lượng, khối lượng có thể thay đổi tùy theo hệ quy chiếu. Khối lượng trong vật lý hiện đại bao gồm khối lượng nghỉ, có giá trị trùng với khối lượng cổ điển khi vật thể đứng yên trong hệ quy chiếu đang xét, cộng với khối lượng kèm theo động năng của vật. Khối lượng toàn phần lúc này, formula_1, còn gọi là khối lượng tương đối tính, liên hệ với khối lượng nghỉ, formula_2, và vận tốc chuyển động, formula_3, theo công thức:formula_4 với:formula_5formula_6Khối lượng toàn phần có ý nghĩa tương đương năng lượng toàn phần chứa trong vật, qua mối liên hệ được thể hiện qua công thức của Einstein:formula_7Với formula_8 là tốc độ ánh sáng. Khối lượng toàn phần, formula_1, cũng được dùng để định nghĩa động lượng tương đối tính, formula_10:formula_11Ví dụ: Hạt photon có khối lượng nghỉ bằng 0, nhưng có khối lượng toàn phần khác không. Nó do vậy cũng có năng lượng tương đối tính và động lượng tương đối tính. Nhưng theo quan niệm mới (xuất hiện trong vòng 20 năm trở lại đây) thì chỉ có một khối lượng gắn bó với hạt, khối lượng này là một cái gì đó giống như khối lượng của cơ học Newton. Vì chỉ có 1 khối lượng nên không cần thiết phải dùng thuật ngữ khối lượng nghỉ hay kí hiệu là formula_2. Mặt khác, hệ thức formula_13 củng cố thêm cho quan niệm khối lượng formula_1 là 1 bất biến trong khi formula_15 và formula_10 thì phụ thuộc vào hệ quy chiếu. Không có khối lượng tương đối tính mà chỉ có năng lượng tương đối tính formula_17 và động lượng tương đối tính được viết là formula_18. Định luật bảo toàn khối lượng. Khối lượng toàn phần của một hệ vật lý kín, xét trong một hệ quy chiếu cố định, là không đổi theo thời gian. Ví dụ: khi vật chất thường gặp phản vật chất, chúng sẽ bị biến thành các photon. Khối lượng toàn phần của hệ gồm vật chất thường và phản vật chất trước lúc gặp nhau bằng khối lượng toàn phần của các photon. Chú ý trong ví dụ này, khối lượng nghỉ cổ điển không bảo toàn, vì trước khi gặp nhau, vật chất và phản vật chất có khối lượng nghỉ lớn hơn không, còn sau khi gặp nhau, các photon có khối lượng nghỉ bằng 0.
17
17_electron_in_nhit_lng
[ "electron", "in", "nhit", "lng", "neutron", "thuyt", "ht", "einstein", "proton", "quark" ]
[ "Trong vật lý hạt nhân, năng lượng tách là năng lượng cần thiết để loại bỏ một hạt nhân (hoặc một hạt hoặc nhiều hạt được chỉ định khác) khỏi hạt nhân nguyên tử.\nNăng lượng tách khác nhau đối với mỗi hạt nhân và các hạt được loại bỏ. Các giá trị được liệt kê có thể là \"năng lượng tách neutron\", \"năng lượng tách hai neutron\", \"năng lượng tách proton\", \"năng lượng tách deuteron\", \"năng lượng tách alpha\", v.v.\nNăng lượng tách thấp nhất trong số các hạt nhân ổn định là 1,67 MeV, để loại bỏ một neutron ra khỏi beryllium-9.\nNăng lượng có thể được thêm vào hạt nhân bằng cách chiếu vào một tia gamma năng lượng cao. Nếu năng lượng của photon đạt đến mức vượt quá năng lượng tách, sựphân hủy quang có thể xảy ra. Năng lượng vượt quá giá trị ngưỡng trở thành động năng của hạt bị đẩy ra.\nNgược lại, năng lượng liên kết hạt nhân là năng lượng cần thiết để tháo rời hoàn toàn hạt nhân, hoặc năng lượng được giải phóng khi hạt nhân được lắp ráp từ các hạt nhân. Nó là tổng của nhiều năng lượng tách, nên được cộng vào cùng một tổng số bất kể thứ tự lắp ráp hay tháo gỡ.\nVật lý và hóa học.\nNăng lượng tách electron hoặc năng lượng liên kết electron là năng lượng cần thiết để loại bỏ một electron ra khỏi nguyên tử trung tính hoặc phân tử (hoặc cation) được gọi là năng lượng ion hóa. Phản ứng dẫn đến quang hóa, quang dẫn, hiệu ứng quang điện, quang điện, v.v.\nNăng lượng phân ly liên kết là năng lượng cần thiết để phá vỡ một liên kết của phân tử hoặc một ion, thường tách một nguyên tử hoặc nhiều nguyên tử.", "Bắt giữ electron kép là một phương thức phân rã của hạt nhân nguyên tử. Đối với một đồng vị phóng xạ (\"A\", \"Z\") có số hạt nhân \"A\" và số nguyên tử \"Z\", chỉ có thể bắt được electron kép nếu khối lượng của đồng vị phóng xạ của (\"A\", \"Z\"-2) thấp hơn.\nTrong phương thức phân rã này, hai trong số các electron quỹ đạo bị bắt bởi hai proton trong hạt nhân, tạo thành hai neutron. Hai neutrino được phát ra trong quá trình này. Vì các proton được thay đổi thành neutron, số lượng neutron tăng thêm 2, số lượng proton \"Z\" giảm đi 2 và số khối nguyên tử \"A\" không đổi. Bằng cách thay đổi số lượng proton, sự bắt electron kép sẽ biến đổi các hạt nhân thành một nguyên tố mới.\nVí dụ:\nĐộ hiếm.\nTrong hầu hết các trường hợp, phương thức phân rã này sẽ xảy ra ít hơn bởi có nhiều phương thức có thể xảy ra hơn (bắt giữ electron đơn...), nhưng khi tất cả các phương thức này bị “cấm” (bị triệt tiêu mạnh), bắt giữ electron kép sẽ trở thành phương thức phân rã chính.\nCó 34 đồng vị xuất hiện tự nhiên có thể trải qua quá trình bắt electron kép. Tuy nhiên, chỉ có ba quan sát được xác nhận về quá trình này: , , and .\nMột lý do là xác suất xảy ra bắt giữ electron kép là rất nhỏ (dự đoán lý thuyết về chu kỳ bán rã cho phương thức này là trên 10 năm). Lý do thứ hai là các hạt duy nhất có thể phát hiện được tạo ra trong quá trình này là các tia X và electron Auger được phát ra từ lớp vỏ nguyên tử bị kích thích. Trong phạm vi năng lượng của chúng (~1-10 keV), nền thường cao. Do đó, việc phát hiện và thử nghiệm bắt giữ electron kép khó khăn hơn so với phân rã beta kép. Việc bắt electron kép có thể đi kèm với sự kích thích của hạt nhân con. Lần lượt, sự khử kích thích của nó đi kèm với sự phát xạ của các photon có năng lượng lên đến hàng trăm keV.\nCác phương thức phát xạ positron.\nNếu sự chênh lệch khối lượng giữa các nguyên tử mẹ và con lớn hơn hai lần khối lượng của một electron (1,022 MeV), năng lượng được giải phóng trong quá trình này đủ để cho phép một phương thức phân rã khác được gọi là bắt electron bằng phát xạ positron. Nó xảy ra cùng với việc bắt electron kép, tỷ lệ phân nhánh của chúng tùy thuộc vào tính chất hạt nhân. Khi chênh lệch khối lượng lớn hơn bốn lần khối lượng electron (2,044 MeV), phương thức thứ ba, được gọi là phân rã positron kép, được cho phép. Chỉ có 6 đồng vị phóng xạ tự nhiên có thể phân rã thông qua ba phương thức này cùng một lúc.\nBắt giữ electron kép phi neutrino.\nQuá trình được mô tả ở trên với việc bắt giữ hai electron và phát xạ hai neutrino (bắt electron kép neutrino) được cho phép theo Mô hình Chuẩn của vật lý hạt: không vi phạm luật bảo tồn (bao gồm bảo toàn số lepton). Tuy nhiên, nếu số lepton không được bảo toàn hoặc neutrino là phản hạt của chính nó, thì một loại quá trình khác có thể xảy ra, được gọi là bắt giữ electron kép phi neutrino. Trong trường hợp này, hai electron bị hạt nhân bắt giữ, nhưng neutrino không được phát ra. Năng lượng được giải phóng trong quá trình này được mang đi bởi một lượng tử gamma bremsstrahlung.\nVí dụ:\nPhương thức phân rã này chưa bao giờ được quan sát bằng thực nghiệm và sẽ mâu thuẫn với Mô hình Chuẩn nếu nó được quan sát.", "Electron hay điện tử, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ nhất trong họ các hạt lepton, và nói chung được coi là những hạt cơ bản bởi vì chúng không có các thành phần nhỏ hay cấu trúc con. Electron có khối lượng xấp xỉ bằng 1/1836 so với của proton. Các tính chất cơ học lượng tử của electron bao gồm giá trị mômen động lượng (spin) bằng một nửa đơn vị, biểu diễn theo đơn vị của hằng số Planck thu gọn, \"ħ\". Vì là một fermion, trong hệ cô lập không có hai electron nào có thể ở cùng một trạng thái lượng tử, như nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli. Giống như tất cả các hạt cơ bản khác, electron thể hiện cả các tính chất của sóng và hạt: chúng có thể va chạm với các hạt khác và bị nhiễu xạ như ánh sáng. Các tính chất sóng của electron dễ dàng được quan sát thấy ở các thí nghiệm hơn so với những hạt khác ví dụ như neutron và proton bởi vì electron có khối lượng nhỏ hơn và do vậy có bước sóng de Broglie dài hơn ở cùng một mức năng lượng.\nElectron có vai trò cơ bản ở nhiều hiện tượng vật lý, như điện, từ học, hóa học và độ dẫn nhiệt. Ngoài ra nó cũng tham gia vào tương tác hấp dẫn, điện từ và yếu. Vì một electron mang điện tích, bao xung quanh nó là điện trường, và nếu electron chuyển động tương đối với một người quan sát, nó sẽ cảm ứng một từ trường. Trường điện từ tạo ra bởi những nguồn khác sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của hạt electron tuân theo định luật lực Lorentz. Electron phát ra hay hấp thụ năng lượng dưới dạng các photon khi chúng chuyển động gia tốc. Các thiết bị ở phòng thí nghiệm có khả năng bẫy từng electron đơn lẻ cũng như các electron plasma bằng sử dụng điện từ trường. Những kính thiên văn đặc biệt có thể phát hiện electron plasma trong không gian vũ trụ. Electron tham dự vào nhiều ứng dụng thực tiễn như điện tử học, hàn tia điện tử, ống tia âm cực, kính hiển vi điện tử, trị liệu bức xạ, laser electron tự do, máy dò khí ion hóa và máy gia tốc hạt.\nCác tương tác có sự tham gia của những electron với các hạt khác là một trong những chủ đề nghiên cứu của hóa học và vật lý hạt nhân. Tương tác lực Coulomb giữa các proton mang điện dương bên trong hạt nhân nguyên tử và các electron mang điện âm ở orbital cấu thành lên nguyên tử. Sự ion hóa hay sự chênh lệch giữa số electron mang điện âm và hạt nhân mang điện dương làm thay đổi năng lượng liên kết của một hệ nguyên tử. Sự trao đổi hay chia sẻ các electron giữa hai hay nhiều nguyên tử là nguyên nhân chủ yếu tạo ra liên kết hóa học. Năm 1838, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming lần đầu tiên đã đặt ra khái niệm về một đại lượng điện tích không thể chia nhỏ hơn nhằm giải thích các tính chất hóa học của các nguyên tử. Nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney sau đó đặt tên đại lượng điện tích này là 'electron' vào năm 1891, và sau đó J. J. Thomson cùng các cộng sự người Anh cuối cùng đã phát hiện ra electron có biểu hiện của một hạt cơ bản vào năm 1897. Electron cũng tham gia vào các phản ứng hạt nhân, như quá trình tổng hợp lên các hạt nhân nặng hơn trong các sao, mà chúng thường được gọi là các hạt beta. Electron cũng có thể được tạo ra trong phân rã beta từ các đồng vị phóng xạ và trong các va chạm năng lượng cao, như ở sự kiện các tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển. Phản hạt của electron được gọi là positron; nó có tính chất đồng nhất với electron ngoại trừ các tích như điện tích mang dấu ngược lại. Khi một electron va chạm với một positron, cả hai hạt bị hủy, tạo ra hai photon tia gamma năng lượng cao.\nLịch sử.\nKhám phá ra hiệu ứng của lực điện.\nNgười Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy rằng khi dùng bộ lông thú chà xát vào hổ phách thì nó có khả năng hút được những vật nhỏ. Cùng với sét, đây là một trong những hiện tượng về điện được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử loài người. Trong luận thuyết \"De Magnete\" viết năm 1600, nhà khoa học người Anh William Gilbert đưa ra thuật ngữ trong tiếng Latin mới là , để kể đến những chất có tính chất tương tự như hổ phách với khả năng có thể hút được những vật nhỏ khi chà xát với lông thú. Cả hai thuật ngữ \"electric\" và \"electricity\" đều có nguồn gốc từ tiếng Latin ' (cũng là từ nguyên của hợp kim có cùng tên); ' có từ nguyên bắt nguồn từ chữ hổ phách trong tiếng Hy Lạp, (\"\").\nKhám phá hai loại điện tích.\nĐầu những năm 1700, nhà hóa học người Pháp Charles François du Fay phát hiện thấy nếu một lá vàng tích điện bị đẩy bởi một que thủy tinh khi chà nó với lụa, thì cùng lá vàng tích điện này lại bị hút bởi hổ phách khi chà vào bông sợi. Từ quan sát này cùng những kết quả thí nghiệm tương tự, du Fay kết luận rằng điện phải chứa hai loại chất lỏng mang điện, chất lỏng \"vitreous\" từ đũa thủy tinh khi chà xát vào lụa và chất lỏng \"resinous\" từ hổ phách khi chà vào bông sợi. Hai chất lỏng này có thể trung hòa lẫn nhau khi được kết hợp lại. Nhà khoa học người Mỹ Ebenezer Kinnersley sau đó cũng độc lập đi đến kết luận tương tự của du Fay. Một thập kỷ sau, Benjamin Franklin đề xuất rằng điện không cấu tạo từ những loại chất lỏng điện khác nhau, mà là một chất lỏng điện có biểu hiện dư thừa (+) hay thiếu hụt (−) điện tích. Ông đưa ra thuật ngữ hiện đại tương ứng với chúng là điện tích dương và điện tích âm. Franklin từng nghĩ về chất mang điện sẽ có điện tích dương, nhưng ông đã không miêu tả đúng tình huống khi nào chất sẽ dư thừa điện tích, và khi nào bị thiếu hụt điện tích.\nGiữa các năm 1838 và 1851, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming phát triển ý tưởng cho rằng một nguyên tử là tổ hợp bao gồm một lõi vật chất được bao quanh bởi những hạt nhỏ hơn nguyên tử mà có điện tích bằng số lần điện tích đơn vị. Đầu năm 1846, nhà vật lý người Đức William Weber đưa ra lý thuyết miêu tả điện là chất tổng hợp bởi các chất lỏng tích điện dương và âm, và tương tác giữa chúng bị chi phối bởi luật nghịch đảo bình phương. Sau khi nghiên cứu hiện tượng điện phân vào năm 1874, nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney gợi ý có tồn tại một \"đại lượng xác định duy nhất cho điện\", điện tích của một ion hóa trị một. Ông đã có thể ước lượng giá trị của điện tích cơ bản \"e\" này bằng cách áp dụng định luật điện phân Faraday. Tuy nhiên, Stoney lại tin rằng những điện tích này lại gắn chặt vĩnh cửu vào nguyên tử và không thể bị tách rời. Năm 1881, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz cho rằng cả điện tích dương và điện tích âm có thể chia ra thành những thành phần cơ bản, mỗi một chúng \"hành xử như những nguyên tử của điện\".\nStoney ban đầu đưa ra thuật ngữ \"electrolion\" vào năm 1881. Mười năm sau, ông chuyển sang sử dụng \"electron\" để miêu tả những điện tích cơ bản này, khi ông viết vào năm 1894: \"... một ước lượng được thực hiện để tính toán số lượng thực tế của đơn vị điện cơ bản điển hình nhất này, mà tôi đã từng dám gợi ý đặt tên là \"electron\"\". Đã có một đề xuất vào năm 1906 nhằm đổi sang tên gọi \"electrion\" nhưng đã thất bại bởi vì Hendrik Lorentz vẫn thích tên gọi \"electron\" hơn. Từ \"electron\" là tổ hợp của các từ \"electric\" và \"ion\". Hậu tố -\"on\" mà hiện nay được sử dụng để đặt tên cho các hạt cơ bản khác, như proton hoặc neutron, có nguồn gốc bắt nguồn từ cách đặt tên cho electron.\nKhám phá ra các electron tự do bên ngoài vật chất.\nKhi nghiên cứu hiện tượng dẫn điện trong khí loãng vào năm 1859, nhà vật lý người Đức Julius Plücker quan sát thấy ánh sáng lân quang, vốn được tạo thành bởi bức xạ phát ra từ cathode, xuất hiện tại thành ống gần cathode, và vùng ánh sáng lân quang đó có thể di chuyển bằng việc ứng dụng từ trường. Năm 1869, Johann Wilhelm Hittorf, một học trò của Plücker, phát hiện rằng một vật rắn đặt giữa cathode và vùng lân quang tạo ra một vùng tối trên vùng lân quang của ống. Hittorf kết luận rằng có những tia truyền thẳng phát ra từ cathode và vùng lân quang đó được tạo ra bởi các tia chiếu qua thành ống. Năm 1876, nhà vật lý người Đức Eugen Goldstein chỉ ra rằng các tia này được phát ra theo phương vuông góc với mặt cathode, mặt phân cách giữa các tia phát ra từ cathode và ánh sáng sợi đốt. Goldstein đặt tên cho những tia này là tia âm cực. Công cuộc nghiên cứu về tia âm cực kéo dài hàng thập kỷ cả về lý thuyết và thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình khám phá ra electron của J. J. Thomson.\nTrong thập niên 1870, nhà hóa lý người Anh Sir William Crookes đã phát triển ống tia âm cực đầu tiên với môi trường chân không cao bên trong. Sau đó ông chứng tỏ rằng các tia phát quang xuất hiện bên trong ống có mang năng lượng và chuyển động từ phía cathode sang anode. Hơn nữa, khi đặt vào một từ trường, ông đã làm lệch đường đi của chùm tia, do đó chứng tỏ thêm chùm tia hành xử như nó chứa điện tích âm. Năm 1879, ông đề xuất rằng những tính chất này có thể được giải thích bằng cách coi rằng các tia âm cực bao gồm các phân tử khí mang điện tích âm trong trạng thái thứ tư của vật chất mà trong đó quãng đường tự do của các phân tử lớn đến mức có thể bỏ qua va chạm.\nNhà vật lý người Anh sinh ở Đức Arthur Schuster tiến hành mở rộng các thí nghiệm của Crookes khi đặt những tấm kim loại song song với chùm tia cathode và áp dụng vào một điện thế giữa các tấm này. Điện trường đã làm lệch chùm tia về phía tấm kim loại tích điện dương, chứng cứ đã củng cố thêm cho kết luận chùm tia mang điện tích âm. Bằng cách đo độ lệch của chùm tia tương ứng với từng lần điều chỉnh dòng điện giữa hai tấm kim loại, năm 1890 Schuster đã ước lượng được tỷ số khối lượng−điện tích của các thành phần trong chùm tia. Tuy vậy, giá trị ông thu được lớn hơn 1000 lần so với giá trị được dự đoán, do đó ít người đã để ý đến kết quả tính toán của ông vào thời điểm đó.\nNăm 1892, Hendrik Lorentz gợi ý rằng khối lượng của những hạt này (electron) có thể là hệ quả của lượng điện tích mà chúng mang theo.\nKhi đang nghiên cứu các khoáng chất huỳnh quang tự nhiên vào năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá thấy chúng phát ra các bức xạ mà không cần phải chiếu thêm một nguồn năng lượng từ bên ngoài. Những vật liệu phóng xạ này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học, bao gồm nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, ông đã phát hiện vật liệu phóng xạ có phát ra các hạt. Ông gọi những hạt này là các hạt alpha và hạt beta, dựa trên khả năng đâm xuyên của chúng qua vật chất. Năm 1900, Becquerel đã chứng tỏ chùm tia beta phát ra từ hạt nhân radium có thể bị làm lệch hướng trong một điện trường, và tỷ số khối lượng trên điện tích của chúng bằng với tỷ số này của chùm tia cathode. Chứng cứ này đã củng cố thêm quan điểm cho rằng electron tồn tại như là một trong các thành phần của nguyên tử.\nNăm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson, cùng với các đồng nghiệp John S. Townsend và H. A. Wilson, đã thực hiện các thí nghiệm chỉ ra chùm tia cathode thực sự chứa các hạt, hơn là một loại sóng, những hạt nguyên tử hoặc phân tử như nhiều nhà khoa học từng tin như vậy trước đó. Thomson đã có kết quả ước lượng khá tốt về điện tích \"e\" và khối lượng \"m\" của hạt tia cathode, mà ông gọi là \"corpuscles\", nó có khối lượng bằng một phần nghìn khối lượng của ion nhẹ nhất: ion hydro. Ông cũng đã chứng minh tỷ số điện tích−khối lượng, \"e\"/\"m\", có giá trị độc lập với vật liệu của bản cực cathode. Ông tiếp tục chứng tỏ thêm các vật liệu phóng xa, vật liệu nung nóng và vật liệu bị chiếu xạ có phát ra các hạt mang điện tích âm. Tên gọi electron về sau được cộng đồng khoa học chấp nhận sử dụng rộng rãi, chủ yếu do đề xuất của G. F. FitzGerald, J. Larmor và H. A. Lorentz.\nĐiện tích của electron đã được đo một cách chính xác hơn bởi các nhà vật lý Mỹ Robert Millikan và Harvey Fletcher trong thí nghiệm giọt dầu vào năm 1909, và kết quả được công bố vào 1911. Thí nghiệm sử dụng một điện trường để hãm các giọt dầu mang điện tích rơi trong không khí dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Thiết bị của họ có thể đo điện tích của 1–150 ion với sai số là 0,3%. Trước đó nhóm của Thomson cũng thực hiện thí nghiệm tương tự, sử dụng đám mây chứa các giọt nước tích điện tạo ra bởi sự điện phân,và thí nghiệm thực hiện bởi Abram Ioffe năm 1911, ông đã thu được kết quả tương tự một cách độc lập với nhóm Millikan khi sử dụng các vi hạt kim loại tích điện, và kết quả được công bố vào năm 1913. Tuy nhiên, các giọt dầu có tính ổn định hơn giọt nước bởi vì chúng có tốc độ bốc hơi chậm hơn, và do đó phù hợp hơn với thí nghiệm chính xác đòi hỏi thực hiện trong thời gian dài hơn.\nVào thời điểm bắt đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng dưới những điều kiện nhất định một hạt tích điện chuyển động nhanh trong buồng bọt có thể gây ra sự ngưng tụ của hơi nước siêu bão hòa trên quỹ đạo chuyển động của hạt. Năm 1911, Charles Wilson đã áp dụng nguyên lý này cho thiết bị buồng mây của mình, cho phép ông có thể chụp ảnh được quỹ đạo của các hạt tích điện, ví dụ như các electron chuyển động nhanh.\nLý thuyết nguyên tử.\nCho đến năm 1914, các thí nghiệm thực hiện bởi Ernest Rutherford, Henry Moseley, James Franck và Gustav Hertz hầu như đã khẳng định được cấu trúc nguyên tử bao gồm một hạt nhân cô đặc mang điện dương bao xung quanh bởi các electron có khối lượng rất nhỏ. Năm 1913, nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr giả thuyết các electron nằm trong các trạng thái có mức năng lượng bị lượng tử hóa, mức năng lượng của chúng được xác định bởi mômen động lượng của quỹ đạo electron quanh hạt nhân. Các electron có thể chuyển động trên những quỹ đạo này, bằng cách phát ra hay hấp thụ photon với tần số xác định. Với cơ sở là những quỹ đạo bị lượng tử hóa này, Bohr có thể giải thích một cách chính xác các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Tuy nhiên, mô hình của Bohr chưa thể giải thích được cường độ tương đối của các vạch này cũng như mô hình chưa thể giải thích quang phổ của những nguyên tử phức tạp hơn.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử được Gilbert Newton Lewis giải thích, khi vào năm 1916 ông đề xuất rằng liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử được duy trì bởi cặp electron chia sẻ giữa chúng. Sau đó, vào năm 1927, Walter Heitler và Fritz London đưa ra lý thuyết giải thích đầy đủ cho sự hình thành cặp electron và liên kết hóa học trong khuôn khổ của cơ học lượng tử. Năm 1919, nhà hóa học người Mỹ Irving Langmuir đưa ra mô hình tĩnh về nguyên tử và gợi ý rằng mọi electron được phân bố tuần tự theo \"những vỏ (gần) hình cầu đồng tâm, tất cả đều có độ dày bằng nhau\". Tiếp đó, ông chia những vỏ này ra thành một số ô, mà mỗi ô chứa một cặp electron. Với mô hình này, Langmuir có thể giải thích một cách định tính các tính chất hóa học của các nguyên tố trong bảng tuần hoàn, mà nhiều tính chất được lặp lại tuân theo định luật tuần hoàn trong bảng.\nNăm 1924, nhà vật lý người Áo Wolfgang Pauli nhận xét thấy cấu trúc tựa vỏ của nguyên tử có thể được giải thích bằng một tập hợp chứa bốn tham số xác định lên mỗi trạng thái năng lượng lượng tử, và mỗi trạng thái này không thể chiếm bởi nhiều hơn một electron. Việc không có nhiều hơn một electron chiếm chỗ ở cùng một trạng thái năng lượng lượng tử được phát biểu trong nguyên lý loại trừ Pauli. Cơ chế vật lý để giải thích cho tham số thứ tư, mà nó có hai giá trị phân biệt, được các nhà vật lý người Hà Lan Samuel Goudsmit và George Uhlenbeck đề xuất. Năm 1925, họ cho rằng một electron, cùng với mômen động lượng của quỹ đạo, còn sở hữu thêm mômen góc động lượng nội tại và mômen lưỡng cực từ. Điều này tương tự như sự tự quay của Trái Đất cũng như nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Mômen góc động lượng nội tại này được gọi là spin, và đưa ra cách giải thích cho sự tách vạch bí ẩn như được quan sát thấy ở các vạch quang phổ bằng phổ kế có độ phân giải cao; hiện tượng này được biết đến như là sự tách cấu trúc tinh tế.\nCơ học lượng tử.\nTrong luận án \"\" (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử) viết năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie giả thuyết rằng mọi vật chất có thể được biểu diễn bằng sóng de Broglie tương tự như sóng ánh sáng. Điều đó có nghĩa là dưới những điều kiện phù hợp, các electron và những hạt vật chất khác sẽ thể hiện những tính chất của sóng hoặc của hạt. Lý thuyết hạt ánh sáng được chứng tỏ khi nó thể hiện có vị trí định xứ trong không gian dọc theo quỹ đạo chùm sáng ở bất kỳ thời điểm nào. Bản chất sóng ánh sáng được hiện, ví dụ, khi một chùm sáng chiếu qua những khe hẹp song song nó sẽ tạo thành những vân giao thoa. Năm 1927 George Paget Thomson khám phá ra hiệu ứng giao thoa xuất hiện khi cho một chùm electron truyền qua những lá kim loại mỏng và kiểu thí nghiệm tương tự được các nhà vật lý người Mỹ Clinton Davisson và Lester Germer thực hiện khi cho chùm electron phản xạ từ tinh thể nikel và quan sát thấy hiệu ứng giao thoa. Các hiệu ứng này còn được gọi là hiện tượng nhiễu xạ electron.\nDự đoán của de Broglie về bản chất sóng của electron đưa Erwin Schrödinger thiết lập lên phương trình sóng miêu tả electron chuyển động dưới ảnh hưởng của hạt nhân trong nguyên tử. Năm 1926, với phương trình của mình, phương trình Schrödinger, ông đã miêu tả thành công sóng electron trong hệ nguyên tử. Hơn là chỉ việc tìm ra nghiệm xác định vị trí của một electron theo thời gian, phương trình sóng này cũng được áp dụng để dự đoán xác suất tìm thấy electron quanh vị trí cụ thể, đặc biệt vị trí gần nơi electron bị chặn trong không gian, mà tại đây phương trình sóng electron không thay đổi theo thời gian. Cách tiếp cận này đã đem đến một lý thuyết miêu tả cơ học lượng tử thứ hai (lý thuyết đầu tiên miêu tả bằng cơ học ma trận do Heisenberg phát triển năm 1925), và nghiệm của phương trình Schrödinger, giống như của Heisenberg, cho phép dẫn ra các trạng thái năng lượng của một electron trong nguyên tử hydro mà tương đương với các kết quả thu được bởi Bohr vào năm 1913, và miêu tả chính xác quang phổ nguyên tử hydro. Khi kể đến spin và tương tác giữa nhiều electron, cơ học lượng tử đưa ra những dự đoán chính xác về cấu hình electron trong những hệ nguyên tử phức tạp hơn hydro.\nNăm 1928, dựa trên các nghiên cứu của Wolfgang Pauli, Paul Dirac thiết lập nên một mô hình về electron – phương trình Dirac, nhất quán với thuyết tương đối hẹp, bằng cách áp dụng các điều kiện đối xứng và tương đối tính trong hình thức luận hamiltonian của cơ học lượng tử cho trường điện từ. Để có thể giải một số vấn đề trong phương trình tương đối tính của mình, năm 1930 Dirac nêu ra một mô hình chân không như là một biển chứa vô hạn các hạt có năng lượng âm, sau này gọi là biển Dirac. Mô hình này đã đưa ông đi đến dự đoán tồn tại positron, một hạt phản vật chất của electron. Hạt này sau đó được phát hiện vào năm 1932 bởi Carl Anderson, và ông đề xuất gọi các electron thường gặp là \"negatron\" và sử dụng thuật ngữ \"electron\" nhằm miêu tả những biến thể mang điện tích dương hoặc âm.\nNăm 1947 Willis Lamb, khi đang thực hiện nghiên cứu cùng với sinh viên Robert Retherford, đã tìm thấy có những trạng thái lượng tử riêng biệt của hydro, đáng ra phải có cùng mức năng lượng, lại được dịch chuyển tương đối với nhau; sự sai lệch này sau đó được gọi là dịch chuyển Lamb. Trong cùng thời gian, Polykarp Kusch, cùng với Henry M. Foley, đã khám phá bằng thí nghiệm mômen từ của electron có giá trị hơi lớn hơn so với dự đoán của lý thuyết Dirac. Giá trị chênh lệch nhỏ này sau đó được gọi là mômen lưỡng cực từ dị thường của electron. Sự chênh lệch này sau đó được giải thích trong lý thuyết điện động lực học lượng tử, phát triển bởi các nhà vật lý Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và\nRichard Feynman vào cuối thập niên 1940.\nMáy gia tốc hạt.\nVới sự phát triển của các loại máy gia tốc hạt trong nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn vào các tính chất của các hạt hạ nguyên tử. Thành công đầu tiên trong nỗ lực gia tốc electron sử dụng cảm ứng điện từ được thực hiện vào năm 1942 bởi Donald Kerst. Máy betatron ban đầu của ông đạt đến mức năng lượng 2,3 MeV, và những máy betatron về sau đạt đến mức 300 MeV. Năm 1947, bức xạ đồng bộ (synchrotron radiation) được phát hiện tại máy gia tốc synchrotron, đưa electron đạt mức năng lượng 70 MeV, tại cơ sở nghiên cứu của General Electric. Bức xạ này là do các electron chuyển động gia tốc đi qua một từ trường ở vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng.\nMáy gia tốc va chạm hạt ADONE là máy đầu tiên đạt mức năng lượng của chùm tia cỡ 1,5 GeV, bắt đầu hoạt động vào năm 1968. Trong thiết bị này, các hạt electron và positron được gia tốc theo hai hướng ngược chiều nhau, như vậy gần như làm tăng gấp đôi năng lượng va chạm so với máy gia tốc chùm tia electron bắn vào một bia cố định. Máy va chạm lớn Electron–Positron (Large Electron–Positron Collider; LEP) ở CERN, hoạt động từ 1989 đến 2000, đạt tới mức năng lượng va chạm 209 GeV và có những đo lường quan trọng cho Mô hình Chuẩn của vật lý hạt.\nGiam giữ từng electron.\nHiện nay từng electron đơn lẻ có thể dễ dàng bị giam hãm trong những transistor CMOS siêu nhỏ (, ) hoạt động ở ngưỡng nhiệt độ lạnh sâu từ −269 °C (4 K) cho đến khoảng −258 °C (15 K). Hàm sóng electron lan truyền trong một dàn chất bán dẫn và khi bỏ qua tương tác của nó với các electron trong dải hóa trị, thì có thể coi như là hàm của electron đơn lẻ, bằng cách thay thế khối lượng của nó bằng tenxơ khối lượng hiệu dụng.\nCác đặc tính.\nPhân loại.\nTrong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt, electron thuộc về nhóm các hạt hạ nguyên tử gọi là lepton, mà được cho là những hạt cơ bản. Electron có khối lượng nhỏ nhất trong nhóm lepton (cũng như trong nhóm các hạt mang điện) và thuộc về thế hệ thứ nhất của hạt cơ bản. Thế hệ thứ hai và thứ ba bao gồm các lepton mang điện, hạt muon và tau, chúng có giá trị điện tích, spin và tham gia tương tác giống với của electron, nhưng có khối lượng lớn hơn. Lepton khác so với những thành phần cơ bản khác của vật chất, hạt quark, khi lepton không tham gia vào tương tác mạnh. Tất cả các thành viên trong nhóm lepton đều là fermion, bởi vì chúng đều có spin bán nguyên; electron có spin .\nCác tính chất cơ bản.\nKhối lượng bất biến (khối lượng nghỉ) của electron xấp xỉ bằng  kilogram, hay  đơn vị khối lượng nguyên tử. Trên cơ sở của nguyên lý sự tương đương khối lượng−năng lượng của Einstein, khối lượng này tương ứng với mức năng lượng nghỉ 0,511 MeV. Tỷ số giữa khối lượng của một proton so với của electron bằng khoảng 1836. Các đo đạc thiên văn cho thấy tỷ số khối lượng proton trên khối lượng electron vẫn giữ nguyên không đổi, như được dự đoán bởi Mô hình Chuẩn, trong thời gian ít nhất bằng một nửa tuổi của vũ trụ.\nElectron có điện tích bằng coulomb, một giá trị đã được sử dụng làm đơn vị điện tích chuẩn cho các hạt hạ nguyên tử, và cũng được gọi là điện tích cơ bản. Trong khoảng giới hạn sai số thí nghiệm, giá trị điện tích của electron bằng giá trị của proton nhưng mang dấu ngược lại. Vì ký hiệu \"e\" được sử dụng cho điện tích cơ bản, electron thường được ký hiệu là , với dấu trừ thể hiện cho điện tích âm. Positron được ký hiệu bởi vì nó có cùng các tính chất với electron nhưng mang điện tích dương.\nElectron có mômen động lượng nội tại hay spin . Do tính chất này mà electron thường được coi các hạt có spin-. Những hạt như vậy có độ lớn spin bằng  \"ħ\", trong khi kết quả đo từ hình chiếu của spin lên một trục bất kỳ chỉ có thể bằng ±. Ngoài spin, electron còn có mômen từ hướng dọc theo trục spin của nó. Giá trị mômen từ electron xấp xỉ bằng một Bohr magneton,=\\frac{e\\hbar}{2m_{\\mathrm{e}}}.</math>|group=gc}} là hằng số vật lý bằng joule trên tesla. Hướng của spin so với hướng của mômen động lượng electron xác định lên tính chất của các hạt cơ bản được biết đến là tính xoắn (\"helicity\").\nElectron không có cấu trúc con đã biết, nên nó thường được coi là một hạt điểm, hay cụ thể là một điện tích điểm không có không gian trong. Quan sát electron đơn lẻ trong bẫy Penning gợi ý rằng giới hạn trên của bán kính của nó bằng 10−22 mét. Giá trị giới hạn trên của bán kính electron bằng 10−18 mét có thể dẫn ra từ nguyên lý bất định kết hợp với năng lượng. Ngoài ra, còn có một hằng số vật lý gọi là \"bán kính electron cổ điển\", với giá trị là , lớn hơn rất nhiều bán kính của proton. Tuy nhiên, giá trị này được tìm từ những phép tính đơn giản mà bỏ qua các hiệu ứng của cơ học lượng tử; trong thực tế, giá trị bán kính electron cổ điển không có nhiều ý nghĩa khi đề cập đến cấu trúc cơ bản bên trong của electron.\nCó những hạt cơ bản khác tự động phân rã thành những hạt khối lượng nhẹ hơn. Ví dụ cho muon, nó có thời gian sống trung bình  giây, và phân rã thành một electron, một neutrino muon và một phản neutrino electron. Hạt electron, mặt khác, theo lý thuyết được cho là hạt bền: electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất với điện tích khác 0, do đó sự phân rã của nó sẽ vi phạm định luật bảo toàn điện tích. Thực nghiệm xác định giới hạn dưới của thời gian sống của electron là năm, ở mức 90% độ tin cậy.\nCác tính chất lượng tử.\nNhư mọi hạt khác, các electron có hành xử như những sóng. Đặc điểm này được gọi là lưỡng tính sóng–hạt và được chứng minh bằng thí nghiệm giao thoa hai khe.\nBản chất sóng của electron cho phép nó đi qua hai khe song song một cách đồng thời, hơn là chỉ một khe ở một thời điểm như đối với trường hợp của hạt. Trong cơ học lượng tử, tính chất sóng của một hạt được miêu tả bằng toán học dưới dạng hàm giá trị phức, hay hàm sóng, thường được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp psi (\"ψ\"). Khi tính bình phương giá trị tuyệt đối của hàm này, sẽ cho xác suất quan sát được một hạt ở một vị trí cho trước—hay chính là mật độ xác suất.\nElectron là những hạt đồng nhất bởi vì không thể phân biệt được chúng dựa trên những tính chất vật lý nội tại của hạt. Trong cơ học lượng tử, điều này có nghĩa là một cặp electron tương tác có thể đổi chỗ cho nhau mà không làm thay đổi trạng thái quan sát được của hệ. Hàm sóng của các fermion, bao gồm electron, là hàm phản xứng, có nghĩa rằng nó thay đổi dấu khi hai electron trao đổi vị trí cho nhau; hay, , với các biến \"r\"1 và \"r\"2 tương ứng với electron thứ nhất và thứ hai. Vì giá trị tuyệt đối không thay đổi khi hai hạt đổi chỗ cho nhau, điều này tương ứng với xác suất của hai sự kiện là bằng nhau. Ngược lại, hạt boson, như photon, lại có hàm sóng đối xứng.\nTrong trường hợp phản xứng, các nghiệm của phương trình sóng cho các electron tương tác sẽ cho xác suất bằng 0 đối với mỗi cặp chiếm cùng một vị trí hoặc trạng thái. Kết quả này tương ứng với nguyên lý loại trừ Pauli, phát biểu rằng không thể có hai electron chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Nguyên lý này giải thích cho nhiều tính chất của các electron hóa học. Ví dụ, nó làm cho nhóm các electron liên kết chiếm những orbital khác nhau trong một nguyên tử, hơn là đan xen lẫn nhau trong cùng một orbital.\nHạt ảo.\nTrong một bức tranh đơn giản, mỗi photon đôi lúc được coi như là tổ hợp của một hạt electron ảo với phản hạt ảo của nó, positron ảo, mà chúng nhanh chóng hủy lẫn nhau khi vừa mới sinh ra trong một thời gian rất ngắn. Sự kết hợp của biến thiên năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt này, và khoảng thời gian trong đó chúng tồn tại, phải nằm trong ngưỡng chấp nhận được tuân theo nguyên lý bất định Heisenberg, Δ\"E\" · Δ\"t\" ≥ \"ħ\". Để thỏa mãn nguyên lý này, năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt ảo này, Δ\"E\", có thể được \"mượn\" từ chân không trong một khoảng thời gian, Δ\"t\", sao cho tích của chúng không được lớn hơn hằng số Planck thu gọn, . Do vậy, đối với một electron ảo, Δ\"t\" lớn nhất bằng . (nghĩa là nếu cặp electron ảo−positron ảo mượn năng lượng Δ\"E\" từ chân không lượng tử thì phải trả lại năng lượng này cho chân không sau tối đa một khoảng thời gian Δ\"t\" sao cho Δ\"E\" · Δ\"t\" ≤ \"ħ\")\nKhi một cặp electron–positron ảo đang tồn tại, lực tĩnh điện Coulomb từ điện trường tức thời xung quanh hạt electron sẽ làm hút hạt positron về phía electron gốc ban đầu, trong khi electron được sinh ra chịu một lực đẩy. Hiệu ứng này chính là sự phân cực chân không. Về mặt hiệu ứng, chân không hành xử như một môi trường có dielectric permittivity lớn hơn 1 đơn vị. Do vậy điện tích hữu hiệu của một electron thực sự nhỏ hơn giá trị thực của nó, và điện tích giảm dần khi khoảng cách tăng dần tính từ electron. Sự phân cực này đã được xác nhận bằng thực nghiệm vào năm 1997 tại máy gia tốc hạt TRISTAN ở Nhật Bản. Các hạt ảo cũng tạo ra hiệu ứng lá chắn đáng kể cho khối lượng của electron.\nTương tác với các hạt ảo cũng giải thích sự sai lệch nhỏ (khoảng 0,1%) về giá trị của mômen từ nội tại của electron so với magneton Bohr (sai lệch này được gọi là mômen từ dị thường của electron). Sự khớp chính xác tuyệt vời giữa giá trị tính toán trên lý thuyết và giá trị đo được bằng thực nghiệm của mômen từ dị thường electron được coi là một trong những thành tựu quan trọng nhất của điện động lực học lượng tử.\nNghịch lý trong vật lý cổ điển về hạt điểm electron lại có mômen góc spin và mômen từ nội tại có thể được giải quyết bởi sự hình thành của các cặp hạt photon ảo trong điện trường sinh bởi electron. Các photon ảo này (đến lượt lại sinh ra các cặp electron−positron ảo khác) làm cho electron luôn dịch chuyển xung quanh vị trí của nó (còn gọi là zitterbewegung), mà tổng hợp lại thành một chuyển động tròn với hiệu ứng tiến động. Chuyển động này tạo ra cả spin và mômen từ của electron. Trong nguyên tử, sự sinh các cặp hạt photon ảo giúp giải thích hiệu ứng dịch chuyển Lamb như đã quan sát thấy ở các vạch quang phổ.\nTương tác.\nElectron sinh ra từ trường tạo ra lực hút lên hạt mang điện dương, như proton, và lực đẩy lên hạt mang điện âm. Cường độ của lực này trong điện động lực học cổ điện được xác định bằng định luật nghịch đảo bình phương Coulomb. Khi một electron đang trong chuyển động, nó tạo ra một từ trường bao quanh. Định luật Ampère-Maxwell cho biết mối liên hệ giữa từ trường và chuyển động của dòng các electron (dòng điện) tương ứng với người quan sát. Tính chất cảm ứng này cung cấp một từ trường dẫn động làm quay động cơ điện. Trường điện từ của một hạt mang điện bất kỳ đang trong chuyển động được miêu tả bằng thế Liénard–Wiechert, thế này đúng cho cả trường hợp hạt chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (hay vận tốc tương đối tính).\nKhi một electron chuyển động trong từ trường, nó chịu tác dụng của lực Lorentz tác động theo phương vuông góc với mặt phẳng xác định bởi vectơ từ trường và vectơ vận tốc của electron. Lực hướng tâm làm cho electron chuyển động trên một quỹ đạo xoắn ốc trong từ trường với bán kính Larmor. Sự gia tốc từ chuyển động theo đường cong ghềnh này làm cảm ứng electron phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ đồng bộ. Năng lượng bức xạ này làm hãm electron, hay còn gọi là lực Abraham–Lorentz–Dirac, tạo ra ma sát làm chậm chuyển động của electron. Lực này cũng gây ra tác động ngược (back-reaction) lên điện từ trường của chính electron.\nTrong điện động lực học lượng tử photon là hạt truyền tải tương tác điện từ giữa các hạt. Một electron đơn lẻ chuyển động với vận tốc đều không thể phát ra hay hấp thụ một photon thực; do sẽ vi phạm định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Mặt khác, các photon ảo có thể truyền động lượng giữa hai hạt mang điện tích. Sự trao đổi này của các photon ảo, ví dụ, làm tạo ra lực Coulomb. Bức xạ năng lượng xuất hiện khi một electron chuyển động bị làm lệch quỹ đạo gây bởi điện trường của một hạt mang điện khác, như proton. Sự gia tốc của electron làm phát ra bức xạ Bremsstrahlung.\nMột photon (ánh sáng) va chạm phi đàn hồi với một electron (tự do) được gọi là tán xạ Compton. Kết quả của va chạm này là động lượng và năng lượng được truyền qua giữa các hạt, làm thay đổi bước sóng của photon bằng một lượng được gọi là dịch chuyển Compton. Độ dịch chuyển lớn nhất của bước sóng bằng \"h\"/\"m\"e\"c\", hay còn gọi là bước sóng Compton. Đối với một electron, nó có giá trị bằng . Khi bước sóng của ánh sáng là dài (ví dụ bước sóng của ánh sáng khả kiến bằng 0,4–0,7 μm) sự dịch chuyển bước sóng có thể bỏ qua được. Trong trường hợp này, tương tác giữa ánh sáng và electron tự do được gọi là tán xạ Thomson hay tán xạ Thomson tuyến tính.\nĐộ mạnh tương đối của tương tác điện từ giữa hai hạt điện tích, chẳng hạn giữa một electron và một proton, được xác định bởi hằng số cấu trúc tế vi. Đây là đại lượng không thứ nguyên hình thành dựa trên tỉ số của hai dạng năng lượng: năng lượng tĩnh điện của lực hút (hoặc đẩy) ở khoảng cách bằng một lần bước sóng Compton, và năng lượng nghỉ của các hạt mang điện tích. Nó có giá trị bằng \"α\" ≈ , hay xấp xỉ bằng .\nKhi electron và positron va chạm, chúng hủy lẫn nhau, làm phát ra hai hoặc ba photon tia gamma. Nếu electron và positron có động lượng bỏ qua được, va chạm có thể hình lên nguyên tử positronium trước khi hai hạt hủy lẫn nhau để hình ra các photon có tổng năng lượng 1,022 MeV. Mặt khác, một photon năng lượng cao có thể biến đổi thành cặp electron và positron bởi quá trình sinh cặp (pair production), nhưng chỉ trong sự có mặt của một hạt điện tích gần nó, như một hạt nhân chẳng hạn.\nTrong lý thuyết tương tác điện yếu, thành phần hàm sóng hướng bên trái (chiral) của electron tạo thành bộ đôi isospin yếu với neutrio electron. Điều này có nghĩa rằng trong tương tác yếu, neutrino electron hành xử như các electron. Mỗi loại hạt của bộ đôi này (doublet) có thể tham gia vào tương tác dòng tích (charged current) bằng cách phát ra hoặc hấp thụ một boson và biến đổi sang thành hạt kia. Điện tích được bảo toàn trong quá trình này bởi vì boson W cũng mang điện tích, làm cho tổng điện tích của quá trình biến đổi là không thay đổi. Các tương tác dòng tích chịu trách nhiệm cho hiện tượng phân rã beta trong một nguyên tử phóng xạ. Cả electron và neutrino electron có thể tham gia vào tương tác dòng trung hòa (neutral current interaction) thông qua sự trao đổi một boson , và chịu trách nhiệm cho tán xạ đàn hồi neutrino−electron.\nNguyên tử và phân tử.\nMột electron có thể \"liên kết\" với hạt nhân của một nguyên tử bởi lực hút Coulomb. Một hệ có một hoặc nhiều electron liên kết với một hạt nhân được gọi là một nguyên tử. Nếu số electron khác với số điện tích của hạt nhân, nguyên tử đó được gọi là một ion. Hành xử dạng sóng của một electron liên kết được miêu tả bằng một hàm sóng gọi là orbital nguyên tử. Mỗi orbital đặc trưng bởi các số lượng tử như mức năng lượng, mômen động lượng và hình chiếu của mômen góc, và chỉ có các orbital rời rạc tồn tại xung quanh hạt nhân. Theo nguyên lý loại trừ Pauli mỗi orbital có thể chiếm giữ bởi tối đa hai electron, và chúng phải có số lượng tử spin khác nhau.\nElectron có thể nhảy sang các orbital khác nhau thông qua sự hấp thụ hoặc phát ra photon có năng lượng bằng hiệu giữa hai mức năng lượng đó. Các phương pháp khác làm electron chuyển sang orbital khác bao gồm sự va chạm của nó với hạt khác, như các electron, và nhờ hiệu ứng Auger. Để thoát ra khỏi nguyên tử, năng lượng của electron phải tăng và lớn hơn năng lượng liên kết với nguyên tử. Điều này xảy ra, ví dụ, như ở hiệu ứng quang điện, khi một photon tới va chạm có năng lượng lớn hơn năng lượng ion hóa nguyên tử và bị electron hấp thụ.\nMômen góc orbital của electron bị lượng tử hóa. Bởi electron mang điện, nó có một mômen từ orbital tỷ lệ với mômen góc. Tổng mômen từ của một nguyên tử bằng tổng vec tơ của mô men từ spin và mômen từ orbital của tất cả các electron và hạt nhân. Mômen từ của hạt nhân là nhỏ so với của các electron. Mômen từ của các electron chiếm giữ cùng một orbital (còn gọi là cặp electron) triệt tiêu lẫn nhau.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử chính là tương tác điện từ giữa chúng, như miêu tả bởi các định luật của cơ học lượng tử. Liên kết mạnh nhất hình thành bởi chia sẻ hoặc cho/nhận các electron giữa các nguyên tử, dẫn đến hình thành lên các phân tử. Bên trong một phân tử, các electron chuyển động dưới ảnh hưởng của một vài hạt nhân, và chiếm giữ các orbital phân tử; giống như chúng chiếm giữ các orbital trong một nguyên tử cô lập. Một yếu tố cơ bản trong các cấu trúc phân tử đó là sự tồn tại các cặp electron. Đây là các electron có spin ngược nhau, cho phép chúng có thể chiếm giữ cùng một orbital phân tử mà không vi phạm nguyên lý loại trừ Pauli (tương tự như ở nguyên tử). Các orbital phân tử khác nhau có phân bố mật độ electron theo không gian khác nhau. Ví dụ, ở các cặp electron liên kết (nghĩa là các cặp thực sự liên kết các nguyên tử với nhau) có thể được tìm thấy với xác suất cực đại nằm ở vùng thể tích tương đối nhỏ giữa các hạt nhân. Ngược lại, ở các cặp electron không liên kết chúng phân bố trong thể tích lớn hơn bao quanh hạt nhân.\nDẫn điện.\nNếu một vật thể có nhiều hoặc ít hơn lượng electron cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân nguyên tử, thì tổng thể vật đó có mang điện tích. Khi có nhiều hơn electron, vật đó mang điện âm. Khi có ít electron hơn số lượng proton trong hạt nhân nguyên tử, vật mang điện dương. Khi số electron và proton bằng nhau, điện tích của chúng hủy lẫn nhau và vật thể ở trạng thái cân bằng điện (hay trung hòa). Nhờ tác động chà xát có thể làm vật thể vĩ mô mang điện thông qua hiệu ứng điện ma sát (triboelectric effect).\nCác electron độc lập chuyển động trong chân không được gọi là các electron \"tự do\". Các electron trong kim loại cũng hành xử như chúng chuyển động tự do. Thực sự thì các hạt được gọi là các electron trong kim loại và những thể rắn khác là những giả-electron—giả hạt, mà có cùng điện tích, spin, và mômen từ như các electron thực thụ nhưng có khối lượng khác với nó. Khi các electron tự do—trong chân không lẫn kim loại—chuyển động, chúng tạo ra một dòng mạng lưới điện tích được gọi là dòng điện, từ đó tạo ra một từ trường. Giống như một dòng điện có thể được sinh ra từ sự thay đổi của một từ trường. Những tương tác và mối quan hệ này được miêu tả bởi phương trình Maxwell.\nỞ mỗi nhiệt độ nhất định, từng vật liệu có một độ dẫn điện ảnh hưởng đến giá trị của dòng điện khi áp vào một điện thế. Những vật dẫn điện tốt bao gồm kim loại như đồng và vàng, trong khi thủy tinh và Teflon lại dẫn điện kém. Ở bất kỳ vật liệu cách điện nào, các electron vẫn bám vào các nguyên tử và vật liệu có tính chất như là một chất cách điện. Hầu hết các chất bán dẫn có mức độ dẫn điện biến đổi từ phạm vi dẫn điện cực tốt cho đến cách điện hoàn toàn. Mặt khác, các kim loại có cấu trúc dải điện tử chứa các vùng năng lượng được lấp đầy một phần bởi electron. Sự có mặt của những vùng năng lượng này cho phép các electron trong kim loại hành xử như chúng được tự do hoặc gọi là các electron phi định xứ (delocalized electrons). Những electron không liên kết với một nguyên tử nhất định, do vậy khi áp dụng một điện trường, chúng chuyển động tự do như một chất khí (được gọi là khí Fermi) đi qua vật liệu giống như các electron tự do.\nBởi vì có sự va chạm giữa các electron với các nguyên tử, vận tốc trôi của các electron trong một vật dẫn có độ lớn cỡ vài milimét trên một giây. Tuy nhiên, trường hợp có sự thay đổi dòng điện từ một điểm trong vật liệu gây ra sự thay đổi dòng điện ở điểm khác trong vật liệu, thì tốc độ lan truyền của hiệu ứng này, điển hình bằng khoảng 75% tốc độ ánh sáng. Điều này xảy ra bởi vì tín hiệu điện lan truyền như một sóng, với vận tốc phụ thuộc vào hằng số điện môi của vật liệu.\nĐa số kim loại có độ dẫn nhiệt tương đối tốt, chủ yếu bởi vì các electron phi định xứ vận chuyển năng lượng nhiệt tự do giữa các nguyên tử. Tuy nhiên, không giống như sự dẫn điện, sự dẫn nhiệt của một kim loại gần như độc lập với nhiệt độ của vật liệu. Điều này đã được phát biểu bằng định luật Wiedemann–Franz, nói rằng tỉ số độ dẫn nhiệt trên độ dẫn điện tỷ lệ thuận với nhiệt độ của vật liệu. Sự mất trật tự bởi nhiệt trong dàn tinh thể nguyên tử kim loại làm tăng điện trở của vật liệu, tạo ra sự phụ thuộc vào nhiệt độ đối với dòng điện.\nKhi làm lạnh vật liệu xuống dưới một mức gọi là nhiệt độ tới hạn, vật liệu trải qua sự chuyển pha trong đó nó mất hoàn toàn tính kháng điện (điện trở) đối với dòng điện, hay chính là hiệu ứng siêu dẫn. Trong lý thuyết BCS, các cặp electron được gọi là cặp Cooper trong chuyển động của chúng bắt cặp với nguyên tử gần đấy thông qua những dao động dàn nguyên tử gọi là phonon, do đó cặp Cooper tránh được va chạm với các nguyên tử mà thường tạo ra điện trở. (Các cặp Cooper có bán kính xấp xỉ bằng 100 nm, do đó nếu coi chúng như sóng vật chất thì chúng có thể chồng chập lẫn nhau.) Tuy nhiên, cơ chế cho hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu vẫn chưa có lý thuyết giải thích thỏa đáng.\nCác electron bên trong vật dẫn, mà chính chúng cũng là những giả hạt, khi đặt trong nhiệt độ rất gần với độ không tuyệt đối, có thể được phân ra thành ba loại giả hạt: spinon, orbiton và holon. Hạt đầu tiên mang spin và mômen từ, hạt tiếp theo mang vị trí orbital của nó trong khi hạt còn lại mang điện tích.\nChuyển động và năng lượng.\nTheo thuyết tương đối hẹp của Einstein, khi tốc độ của một electron tiệm cận tới tốc độ ánh sáng, người quan sát từ một hệ quy chiếu quán tính sẽ đo được khối lượng tương đối tính của hạt tăng lên, do đó khiến cho nó càng khó để có thể gia tốc nó từ bên trong hệ quy chiếu của người quan sát. Tốc độ của một electron có thể tiếp cận đến, nhưng không bao giờ bằng, tốc độ của ánh sáng trong chân không, \"c\". Tuy nhiên, khi các electron tương đối tính—là những electron chuyển động với tốc độ gần bằng \"c\"—chuyển động trong môi trường điện môi như nước, nơi vận tốc ánh sáng trong nó nhỏ hơn nhiều so với \"c\", các electron trong môi trường này có thể chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Khi chúng tương tác va chạm với môi trường, chúng tạo ra một ánh sáng nhạt được gọi là bức xạ Cherenkov.\nCác hiệu ứng trong thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên một đại lượng gọi là hệ số Lorentz, được xác định bằng formula_1 với \"v\" là tốc độ của hạt. Động năng \"K\"e của một electron chuyển động với vận tốc \"v\" bằng:\nvới \"m\"e là khối lượng của electron. Ví dụ, ở máy gia tốc thẳng Stanford có thể gia tốc một electron tới động năng gần bằng 51 GeV. Vì một electron hành xử như dạng sóng, ở một vận tốc bất kỳ nó có một bước sóng de Broglie đặc trưng. Bước sóng này được cho bởi \"λ\"e = \"h\"/\"p\" với \"h\" là hằng số Planck và \"p\" là động lượng. Đối với electron có động năng 51 GeV ở trên, bước sóng de Broglie bằng , đủ nhỏ để khám phá các cấu trúc có kích thước nhỏ hơn kích cỡ của một hạt nhân nguyên tử.\nSự hình thành.\nLý thuyết Vụ Nổ Lớn là lý thuyết khoa học được chấp nhận rộng rãi hiện nay miêu tả những giai đoạn ban đầu của sự tiến hóa của Vũ trụ. Ở những miligiây đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ trên 10 tỷ kelvin và các photon có năng lượng trung bình trên một triệu electronvolt. Các photon này có đủ năng lượng mà khi tương tác với nhau có thể dẫn tới sự hình thành cặp electron và positron. Ngược lại, những cặp positron−electron hủy lẫn nhau và phát ra các photon năng lượng cao:\nTrạng thái cân bằng giữa các electron, positron và photon được duy trì trong suốt giai đoạn này của sự tiến hóa Vũ trụ. Khi 15 giây trôi qua, tuy nhiên, nhiệt độ của Vũ trụ lúc này giảm xuống dưới ngưỡng cho phép hình thành cặp hạt electron−positron. Phần lớn các electron và positron tồn tại hủy lẫn nhau, giải phóng bức xạ gamma làm Vũ trụ nóng lên trong một thời gian ngắn.\nVì một lý do nào đó chưa được biết chắc chắn, trong suốt quá trình hủy cặp có sót lại một số lượng hạt nhiều hơn phản hạt vật chất. Cụ thể là có dư ra 1 electron tồn tại trong mỗi 1 tỷ cặp hạt electron−positron. Số lượng dư sót lại này bằng với số lượng proton còn dư từ quá trình hủy cặp hạt tương tự proton và phản proton, trong một điều kiện được gọi là bất đối xứng baryon, điều này mang đến tổng điện tích của toàn bộ Vũ trụ gần như bằng zero. Những proton và neutron còn dư lại bắt đầu tham gia vào các phản ứng với nhau—quá trình gọi là tổng hợp hạt nhân, tạo ra các đồng vị của hydro và heli, và một ít hạt nhân lithi. Các phản ứng này đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian ở sau năm phút. Bất kỳ neutron còn lại nào sẽ trải qua phản ứng phân rã beta âm với nửa thời gian sống bằng khoảng một nghìn giây, giải phóng ra một proton và một electron,\nTrong khoảng 300.000–400.000 năm tiếp theo, lượng các hạt electron còn lại có năng lượng quá lớn để có thể liên kết vào các hạt nhân nguyên tử. Giai đoạn tiếp theo là sự tái kếp hợp electron vào hạt nhân, khi ấy các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự giãn nở của vũ trụ làm cho vật chất trở lên trong suốt với bức xạ.\nGần một triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, thế hệ các ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành. Trong lòng một ngôi sao, dây chuyền phản ứng tổng hợp hạt nhân sao cho ra các sản phẩm trong đó có positron. Những hạt phản vật chất này ngay lập tức hủy với các electron, giải phóng tia gamma. Gộp chung lại số lượng hạt electron bị giảm dần, và tương ứng số lượng hạt neutron tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa sao cũng hình thành các sản phẩm là những đồng vị phóng xạ. Các đồng vị này có thể sau đó trải qua phân rã beta trừ, phát ra một electron và một phản neutrino từ hạt nhân. Một ví dụ là đồng vị cobalt-60 (60Co), mà phân rã thành nickel-60 (60Ni).\nCuối chu trình tiến hóa của chúng, một ngôi sao có khối lượng lớn hơn 20 lần khối lượng Mặt Trời đi đến kết cục suy sụp hấp dẫn để tạo thành một lỗ đen. Theo vật lý cổ điển, bên trong những ngôi sao khối lượng lớn này xuất hiện lực hút hấp dẫn đủ mạnh để ngăn bất kỳ thứ gì, kể cả bức xạ điện từ, thoát ra khỏi bán kính Schwarzschild. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử cho phép có khả năng tồn tại bức xạ Hawking ở phạm vi khoảng cách này. Các electron (và positron) được cho là tạo ra ở chân trời sự kiện của những tàn dư sao.\nKhi một cặp hạt ảo (như gồm một electron và một positron) được tạo ra tại biên giới của chân trời sự kiện, sự phân bố ngẫu nhiên trong vị trí của hạt có thể làm cho một trong hai hạt nằm ở bên trong chân trời sự kiện; mà quá trình này được gọi là sự xuyên hầm lượng tử. Thế năng hấp dẫn của lỗ đen có thể cấp năng lượng để biến một hạt ảo nằm bên ngoài chân trời sự kiện trở thành một hạt thực, cho phép nó bật phóng ra vào không gian. Đổi lại, hạt còn lại của cặp mang năng lượng âm và rơi về vùng kì dị lỗ đen, dẫn đến tổng cộng khối lượng−năng lượng của lỗ đen bị giảm đi. Tốc độ bức xạ Hawking tăng tiến khi khối lượng lỗ đen giảm dần, làm cho lỗ đen bốc hơi và cuối cùng là phát nổ.\nTia vũ trụ là những hạt chuyển động trong không gian với năng lượng cao. Các sự kiện năng lượng cao đến cỡ đã được ghi nhận. Khi những hạt này va chạm với các nucleon trong khí quyển Trái Đất, một trận mưa các hạt được tạo ra, bao gồm các pion. Hơn một nửa bức xạ vũ trụ được quan sát trên bề mặt Trái Đất có chứa các muon. Muon là một hạt loại lepton hình thành tại thượng tầng khí quyển sau quá trình phân rã của một pion.\nĐến lượt muon, nó có thể phân rã thành electron hoặc positron.\nQuan sát.\nQuan sát electron từ xa đòi hỏi việc đo được năng lượng bức xạ của chúng. Ví dụ, trong môi trường năng lượng cao như ở vành nhật hoa của một ngôi sao, các electron tự do tạo thành trạng thái plasma phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ Bremsstrahlung. Khí electron có thể biểu hiện dao động plasma, đó là những sóng gây bởi những biến đổi đồng bộ trong mật độ electron, và những sóng này tạo ra phát xạ năng lượng có thể phát hiện được nhờ quan sát qua kính thiên văn vô tuyến.\nTần số của một photon tỷ lệ với năng lượng của nó. Khi một electron liên kết trong nguyên tử chuyển trạng thái giữa các mức năng lượng khác nhau, nó hấp thụ hoặc phát ra photon ở những tần số đặc trưng. Ví dụ, khi chiếu nguồn bức xạ phổ liên tục vào các nguyên tử sẽ xuất hiện các vạch phổ hấp thụ đặc trưng trong quang phổ của bức xạ phản xạ. Mỗi nguyên tố hoặc phân tử thể hiện một lớp đặc trưng các vạch quang phổ, như các vạch quang phổ hydro. Những phép đo lường quang phổ về cường độ và bề rộng của các vạch này cho phép xác định được thành phần và tính chất vật lý của một chất cần xác định.\nTrong điều kiện của phòng thí nghiệm, có thể quan sát tương tác của từng electron đơn lẻ nhờ các máy gia tốc hạt nhân, mà cho phép đo những tính chất cụ thể như năng lượng, spin và điện tích. Nhờ sự phát triển của các kỹ thuật bẫy ion như bẫy Paul và bẫy Penning cho phép giam giữ các hạt mang điện trong một thể tích đủ nhỏ với thời gian dài. Điều này đã cho phép đo lường các tính chất cũng như thao tác lên những hạt này. Ví dụ, bẫy Penning từng được ứng dụng để chứa một electron đơn lẻ trong thời gian 10 tháng. Mômen từ của electron đã được đo với độ chính xác đến 11 chữ số thập phân mà vào năm 1980, độ chính xác này còn lớn hơn độ chính xác đo được của bất kỳ các hằng số vật lý khác.\nBộ phim chụp ảnh đầu tiên về sự phân bố năng lượng của electron đã được thực hiện bởi một đội các nhà vật lý tại Đại học Lund ở Thụy Điển vào tháng 2 năm 2008. Họ đã sử dụng một xung nhịp ánh sáng cực ngắn, hay gọi là các xung atto giây, cho phép lần đầu tiên chụp ảnh được chuyển động của một electron.\nSự phân bố của các electron trong chất rắn có thể được biểu hiện nhờ kỹ thuật chụp quang phổ bức xạ phân giải góc (angle-resolved photoemission spectroscopy, ARPES). Kỹ thuật này ứng dụng hiệu ứng quang điện để đo hàm phân bố không gian giàn tinh thể—một hàm toán học biểu diễn đặc tính cấu trúc tuần hoàn được áp dụng để suy đoán ra cấu trúc ban đầu của tinh thể. ARPES được ứng dụng để xác định hướng, tốc độ và sự tán xạ của các electron bên trong vật liệu.\nCác ứng dụng plasma.\nChùm hạt.\nTrong công nghệ và kỹ thuật, các chùm tia electron đã được ứng dụng để thực hiện hàn bằng chùm electron giữa hai loại vật liệu. Chúng cho phép mật độ năng lượng của chùm tia hàn lên tới 107 W·cm−2 được tập trung trong một hình nón tròn đường kính cỡ mà thường không cần đòi hỏi phải có lớp vật liệu đệm thứ 3. Kỹ thuật hàn này phải được thực hiện trong chân không để tránh các electron va chạm với một trường khí xung quanh trước khi chúng đến được vật liệu cần hàn, và nó có thể được sử dụng để nối các loại vật liệu dẫn điện mà những biện pháp hàn khác không phù hợp để áp dụng.\nQuang khắc chùm điện tử (EBL) là phương pháp tạo các chi tiết bán dẫn ở mức phân giải nhỏ hơn 1 µm. Kỹ thuật này có hạn chế là giá thành cao, tốc độ sản xuất chậm, cần phải vận hành chùm điện tử trong môi trường chân không cao và các electron có xu hướng tán xạ trên bề mặt vật liệu. Độ phân giải tối đa của phương pháp này vào khoảng 10 nm. Vì lý do này, EBL được ứng dụng chủ yếu cho sản xuất một số nhỏ các vi mạch chuyên biệt.\nPhương pháp xử lý chùm điện tử (electron-beam processing, hoặc electron irradiation EBI) được ứng dụng để làm thay đổi các đặc tính của vật liệu hoặc khử trùng trong y học và thực phẩm bằng cách chiếu chùm điện tử vào sản phẩm. Chùm electron hóa lỏng hoặc làm tan chảy thủy tinh mà không gây tăng nhiều nhiệt độ khi thực hiện chiếu với cường độ cao: ví dụ bức xạ electron mạnh gây ra sự giảm độ nhớt ở nhiều bậc độ lớn và làm giảm từng bước năng lượng hoạt hóa của nó.\nCác máy gia tốc quỹ đạo thẳng (linear particle accelerator) tạo ra những chùm electron cho chùm sáng dùng để điều trị các khối u trên bề mặt trong trị liệu bức xạ. Trị liệu điện tử (electron therapy) có thể điều trị các thương tổn ở da như ung thư tế bào đáy bởi vì một chùm electron chỉ có thể thâm nhập xuống một độ sâu nhất định trước khi bị hấp thụ, thường là đến 5 cm đối với electron có năng lượng trong phạm vi 5–20 MeV. Một chùm electron có thể được sử dụng phối hợp với chiếu xạ tia X trong điều trị bệnh.\nCác máy gia tốc hạt sử dụng điện trường để đẩy các electron và phản hạt của chúng lên mức năng lượng cao. Những hạt này phát ra bức xạ đồng bộ khi chúng bay qua từ trường. Cường độ của bức xạ đồng bộ phụ thuộc vào phân cực spin của chùm electron—quá trình được gọi là hiệu ứng Sokolov–Ternov. Các chùm electron phân cực được ứng dụng trong nhiều thí nghiệm khác nhau. Bức xạ synchrotron có thể dùng làm mát chùm electron với mục đích làm giảm sự phân tán động lượng của chùm hạt. Các chùm electron và positron được cho va chạm với nhau trong máy gia tốc khi chúng đạt đến mức năng lượng yêu cầu; các máy dò hạt (particle detector) quan sát năng lượng của bức xạ phát ra, ghi lại những thông tin và tính chất cần nghiên cứu trong vật lý hạt.\nChụp ảnh.\nNhiễu xạ electron năng lượng thấp (Low-energy electron diffraction, LEED) là một phương pháp bắn vào vật liệu có cấu trúc tinh thể bằng một chùm electron chuẩn trực sau đó quan sát hình ảnh nhiễu xạ giúp xác định lên cấu trúc của vật liệu. Năng lượng đòi hỏi của các electron ở những chùm này trong khoảng 20–200 eV. Kỹ thuật phản xạ nhiễu xạ electron năng lượng cao (reflection high-energy electron diffraction, RHEED) sử dụng sự phản xạ của một chùm electron bắn đến với nhiều góc hẹp khác nhau để nghiên cứu đặc trưng bề mặt của vật liệu có cấu trúc tinh thể. Chùm năng lượng thường nằm trong khoảng 8–20 keV và góc bắn electron thường bằng 1–4°.\nKính hiển vi điển tử hoạt động dựa trên nguyên lý tập trung chùm electron vào một mẫu vật. Một số electron sau khi va chạm vào mẫu vật thì bị thay đổi đặc tính, như hướng chuyển động, góc phản xạ và pha tương đối cũng như năng lượng bị giảm đi. Các nhà hiển vi học ghi lại những thay đổi này từ chùm electron để tái tạo ra những bức ảnh về mẫu vật. Trong ánh sáng xanh lam, các kín hiển vi quang học thông thường có giới hạn nhiễu xạ phân giải ở kích thước 200 nm. So sánh với kính hiển vi điện tử, loại này bị giới hạn bởi bước sóng de Broglie của electron. Ví dụ, bước sóng này bằng 0,0037 nm đối với những electron được gia tốc trong điện trường cỡ 100.000 volt. Kính hiển vi truyền điện tử hiệu chỉnh quang sai (Transmission Electron Aberration-Corrected Microscope) có độ phân giải dưới 0,05 nm, đủ để phân biệt được từng nguyên tử. Khả năng này mang lại những lợi thế cho sử dụng kính hiển vi điện tử trong phòng thí nghiệm để chụp các bức ảnh có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử là những thiết bị đắt tiền và tốn nhiều chi phí hoạt động và bảo trì.\nCó hai loại kính hiển vi điện tử: Loại truyền qua và loại quét bề mặt. Kính hiển vi điện tử truyền qua hoạt động giống như một máy chiếu, với một chùm electron được cho chiếu qua một lát vật liệu sau đó nó được hội tụ trên phim âm bản hoặc cảm biến CCD. Kính hiển vi điện tử quét bề mặt dùng chùm electron quét lên bề mặt mẫu vật, giống như hiển thị trên ti vi màn hình ống, để thu được bức ảnh về nó. Độ phóng đại của hai loại kính này vào cỡ 100× đến 1.000.000. Kính hiển vi quét xuyên hầm sử dụng hiệu ứng chui hầm lượng tử của electron từ mũi nhọn của một đầu dò kim loại để nghiên cứu vật liệu và tạo ra bức ảnh bề mặt vật liệu có độ phân giải cao.\nCác ứng dụng khác.\nTrong laser electron tự do (FEL), một chùm electron tương đối tính đi qua dãy các nam châm lưỡng cực (undulator) bị đổi hướng luân phiên do hướng của từ trường tạo bởi dãy các nam châm này. Vì đổi hướng luân phiên như vậy nên các electron phát ra bức xạ synchrotron một cách nhịp nhàng và đều đặn, bức xạ được khuếch đại ở tần số cộng hưởng. FEL có thể phát ra bức xạ điện từ với độ rọi cao trong dải tần số rộng, từ sóng vi ba cho đến tia X mềm. Những thiết bị này được sử dụng trong sản xuất, viễn thông, và trong các ứng dụng y tế, như phẫu thuật các mô mềm.\nỐng tia âm cực chứa electron, mà đã từng được sử dụng thường xuyên cho các màn hình hiển thị tại nhiều thiết bị thí nghiệm, màn hình máy tính và máy truyền hình. Trong một đèn nhân quang điện, mỗi photon va chạm đến âm cực quang khởi tạo ra một luồng các electron để hình thành một xung dòng điện mà bộ dò phát hiện được. Ống điện tử chân không sử dụng luồng các electron để thao tác lên tín hiệu điện, và chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công nghệ điện tử. Tuy nhiên, ngày nay chúng đã bị thay thế bởi các thiết bị bán dẫn như transistor." ]
electron - in - nhit - lng - neutron - thuyt - ht - einstein - proton - quark
1
false
Thể tích của một vật là lượng không gian mà vật ấy chiếm. Thể tích có đơn vị đo là lập phương của khoảng cách (khoảng cách mũ 3). Trong Hệ đo lường quốc tế, do đơn vị đo của khoảng cách là mét, đơn vị đo của thể tích là mét khối, ký hiệu là m³ Đơn vị thể tích. Bất kỳ đơn vị độ dài nào cũng có đơn vị thể tích tương ứng: thể tích của khối lập phương có các cạnh có chiều dài nhất định. Ví dụ, một xen-ti-mét khối (cm³) là thể tích của khối lập phương có cạnh là một xentimét (1 cm). Trong Hệ đo lường quốc tế (SI), đơn vị tiêu chuẩn của thể tích là mét khối (m³). Hệ mét cũng bao gồm đơn vị lít (litre) (kí hiệu: L) như một đơn vị của thể tích, trong đó một lít là thể tích của khối lập phương 1 dm. Như vậy : vậy Một lượng nhỏ chất lỏng thường được đo bằng đơn vị mililít (ml) (Tiếng Anh: mililitre) Cũng như vậy, một lượng lớn chất lỏng thường được đo bằng đơn vị mêgalít (Tiếng Anh: megalitre) Nhiều đơn vị thể tích truyền thống khác cũng được sử dụng, bao gồm inch khối, foot khối, yard khối, dặm khối, muỗng cà phê, thìa canh, ounce chất lỏng, dram chất lỏng, gill , pint, quart , gallon, minim, barrel, coóc, peck, giạ, hogshead, mẫu-feet và bảng feet. Đây là tất cả các đơn vị của khối lượng. Một số công thức tính. Bảng dưới đây liệt kê một số công thức tính thể tích của một số hình đơn giản. Tỉ số của một hình nón, hình cầu và hình trụ có cùng bán kính và chiều cao. Các công thức trên có thể được sử dụng để chứng minh rằng thể tích của một hình nón, hình cầu và hình trụ có cùng bán kính và chiều cao theo tỷ lệ 1 : 2 : 3 như sau. Gọi bán kính là "r" và chiều cao là "h" (là 2"r" cho hình cầu), khi đó thể tích của khối nón là thể tích của quả cầu là trong khi thể tích của hình trụ là Archimedes đã phát hiện ra tỷ lệ 2 : 3 của thể tích khối cầu và khối trụ. Đơn vị đo thể tích trong cuộc sống. Trong cuộc sống hàng ngày tại Việt Nam và phần lớn các quốc gia sử dụng các đơn vị đo lường của hệ đo lường quốc tế (SI) thì đơn vị đo thể tích (cũng như dung tích) thường được sử dụng là lít (1000 lít = 1 m³) hay lít (viết tắt "l") (1"l" = 1000 cm³) do đơn vị mét khối là tương đối lớn, không phù hợp lắm cho nhiều tính toán trong các hoạt động hàng ngày. Quan hệ giữa thể tích và khối lượng. Thể tích của một vật đặc và đồng nhất (về cấu tạo) với một hình dạng bất kỳ được tính theo công thức sau: Trong đó:
17
17_electron_in_nhit_lng
[ "electron", "in", "nhit", "lng", "neutron", "thuyt", "ht", "einstein", "proton", "quark" ]
[ "Trong vật lý hạt nhân, năng lượng tách là năng lượng cần thiết để loại bỏ một hạt nhân (hoặc một hạt hoặc nhiều hạt được chỉ định khác) khỏi hạt nhân nguyên tử.\nNăng lượng tách khác nhau đối với mỗi hạt nhân và các hạt được loại bỏ. Các giá trị được liệt kê có thể là \"năng lượng tách neutron\", \"năng lượng tách hai neutron\", \"năng lượng tách proton\", \"năng lượng tách deuteron\", \"năng lượng tách alpha\", v.v.\nNăng lượng tách thấp nhất trong số các hạt nhân ổn định là 1,67 MeV, để loại bỏ một neutron ra khỏi beryllium-9.\nNăng lượng có thể được thêm vào hạt nhân bằng cách chiếu vào một tia gamma năng lượng cao. Nếu năng lượng của photon đạt đến mức vượt quá năng lượng tách, sựphân hủy quang có thể xảy ra. Năng lượng vượt quá giá trị ngưỡng trở thành động năng của hạt bị đẩy ra.\nNgược lại, năng lượng liên kết hạt nhân là năng lượng cần thiết để tháo rời hoàn toàn hạt nhân, hoặc năng lượng được giải phóng khi hạt nhân được lắp ráp từ các hạt nhân. Nó là tổng của nhiều năng lượng tách, nên được cộng vào cùng một tổng số bất kể thứ tự lắp ráp hay tháo gỡ.\nVật lý và hóa học.\nNăng lượng tách electron hoặc năng lượng liên kết electron là năng lượng cần thiết để loại bỏ một electron ra khỏi nguyên tử trung tính hoặc phân tử (hoặc cation) được gọi là năng lượng ion hóa. Phản ứng dẫn đến quang hóa, quang dẫn, hiệu ứng quang điện, quang điện, v.v.\nNăng lượng phân ly liên kết là năng lượng cần thiết để phá vỡ một liên kết của phân tử hoặc một ion, thường tách một nguyên tử hoặc nhiều nguyên tử.", "Bắt giữ electron kép là một phương thức phân rã của hạt nhân nguyên tử. Đối với một đồng vị phóng xạ (\"A\", \"Z\") có số hạt nhân \"A\" và số nguyên tử \"Z\", chỉ có thể bắt được electron kép nếu khối lượng của đồng vị phóng xạ của (\"A\", \"Z\"-2) thấp hơn.\nTrong phương thức phân rã này, hai trong số các electron quỹ đạo bị bắt bởi hai proton trong hạt nhân, tạo thành hai neutron. Hai neutrino được phát ra trong quá trình này. Vì các proton được thay đổi thành neutron, số lượng neutron tăng thêm 2, số lượng proton \"Z\" giảm đi 2 và số khối nguyên tử \"A\" không đổi. Bằng cách thay đổi số lượng proton, sự bắt electron kép sẽ biến đổi các hạt nhân thành một nguyên tố mới.\nVí dụ:\nĐộ hiếm.\nTrong hầu hết các trường hợp, phương thức phân rã này sẽ xảy ra ít hơn bởi có nhiều phương thức có thể xảy ra hơn (bắt giữ electron đơn...), nhưng khi tất cả các phương thức này bị “cấm” (bị triệt tiêu mạnh), bắt giữ electron kép sẽ trở thành phương thức phân rã chính.\nCó 34 đồng vị xuất hiện tự nhiên có thể trải qua quá trình bắt electron kép. Tuy nhiên, chỉ có ba quan sát được xác nhận về quá trình này: , , and .\nMột lý do là xác suất xảy ra bắt giữ electron kép là rất nhỏ (dự đoán lý thuyết về chu kỳ bán rã cho phương thức này là trên 10 năm). Lý do thứ hai là các hạt duy nhất có thể phát hiện được tạo ra trong quá trình này là các tia X và electron Auger được phát ra từ lớp vỏ nguyên tử bị kích thích. Trong phạm vi năng lượng của chúng (~1-10 keV), nền thường cao. Do đó, việc phát hiện và thử nghiệm bắt giữ electron kép khó khăn hơn so với phân rã beta kép. Việc bắt electron kép có thể đi kèm với sự kích thích của hạt nhân con. Lần lượt, sự khử kích thích của nó đi kèm với sự phát xạ của các photon có năng lượng lên đến hàng trăm keV.\nCác phương thức phát xạ positron.\nNếu sự chênh lệch khối lượng giữa các nguyên tử mẹ và con lớn hơn hai lần khối lượng của một electron (1,022 MeV), năng lượng được giải phóng trong quá trình này đủ để cho phép một phương thức phân rã khác được gọi là bắt electron bằng phát xạ positron. Nó xảy ra cùng với việc bắt electron kép, tỷ lệ phân nhánh của chúng tùy thuộc vào tính chất hạt nhân. Khi chênh lệch khối lượng lớn hơn bốn lần khối lượng electron (2,044 MeV), phương thức thứ ba, được gọi là phân rã positron kép, được cho phép. Chỉ có 6 đồng vị phóng xạ tự nhiên có thể phân rã thông qua ba phương thức này cùng một lúc.\nBắt giữ electron kép phi neutrino.\nQuá trình được mô tả ở trên với việc bắt giữ hai electron và phát xạ hai neutrino (bắt electron kép neutrino) được cho phép theo Mô hình Chuẩn của vật lý hạt: không vi phạm luật bảo tồn (bao gồm bảo toàn số lepton). Tuy nhiên, nếu số lepton không được bảo toàn hoặc neutrino là phản hạt của chính nó, thì một loại quá trình khác có thể xảy ra, được gọi là bắt giữ electron kép phi neutrino. Trong trường hợp này, hai electron bị hạt nhân bắt giữ, nhưng neutrino không được phát ra. Năng lượng được giải phóng trong quá trình này được mang đi bởi một lượng tử gamma bremsstrahlung.\nVí dụ:\nPhương thức phân rã này chưa bao giờ được quan sát bằng thực nghiệm và sẽ mâu thuẫn với Mô hình Chuẩn nếu nó được quan sát.", "Electron hay điện tử, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ nhất trong họ các hạt lepton, và nói chung được coi là những hạt cơ bản bởi vì chúng không có các thành phần nhỏ hay cấu trúc con. Electron có khối lượng xấp xỉ bằng 1/1836 so với của proton. Các tính chất cơ học lượng tử của electron bao gồm giá trị mômen động lượng (spin) bằng một nửa đơn vị, biểu diễn theo đơn vị của hằng số Planck thu gọn, \"ħ\". Vì là một fermion, trong hệ cô lập không có hai electron nào có thể ở cùng một trạng thái lượng tử, như nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli. Giống như tất cả các hạt cơ bản khác, electron thể hiện cả các tính chất của sóng và hạt: chúng có thể va chạm với các hạt khác và bị nhiễu xạ như ánh sáng. Các tính chất sóng của electron dễ dàng được quan sát thấy ở các thí nghiệm hơn so với những hạt khác ví dụ như neutron và proton bởi vì electron có khối lượng nhỏ hơn và do vậy có bước sóng de Broglie dài hơn ở cùng một mức năng lượng.\nElectron có vai trò cơ bản ở nhiều hiện tượng vật lý, như điện, từ học, hóa học và độ dẫn nhiệt. Ngoài ra nó cũng tham gia vào tương tác hấp dẫn, điện từ và yếu. Vì một electron mang điện tích, bao xung quanh nó là điện trường, và nếu electron chuyển động tương đối với một người quan sát, nó sẽ cảm ứng một từ trường. Trường điện từ tạo ra bởi những nguồn khác sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của hạt electron tuân theo định luật lực Lorentz. Electron phát ra hay hấp thụ năng lượng dưới dạng các photon khi chúng chuyển động gia tốc. Các thiết bị ở phòng thí nghiệm có khả năng bẫy từng electron đơn lẻ cũng như các electron plasma bằng sử dụng điện từ trường. Những kính thiên văn đặc biệt có thể phát hiện electron plasma trong không gian vũ trụ. Electron tham dự vào nhiều ứng dụng thực tiễn như điện tử học, hàn tia điện tử, ống tia âm cực, kính hiển vi điện tử, trị liệu bức xạ, laser electron tự do, máy dò khí ion hóa và máy gia tốc hạt.\nCác tương tác có sự tham gia của những electron với các hạt khác là một trong những chủ đề nghiên cứu của hóa học và vật lý hạt nhân. Tương tác lực Coulomb giữa các proton mang điện dương bên trong hạt nhân nguyên tử và các electron mang điện âm ở orbital cấu thành lên nguyên tử. Sự ion hóa hay sự chênh lệch giữa số electron mang điện âm và hạt nhân mang điện dương làm thay đổi năng lượng liên kết của một hệ nguyên tử. Sự trao đổi hay chia sẻ các electron giữa hai hay nhiều nguyên tử là nguyên nhân chủ yếu tạo ra liên kết hóa học. Năm 1838, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming lần đầu tiên đã đặt ra khái niệm về một đại lượng điện tích không thể chia nhỏ hơn nhằm giải thích các tính chất hóa học của các nguyên tử. Nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney sau đó đặt tên đại lượng điện tích này là 'electron' vào năm 1891, và sau đó J. J. Thomson cùng các cộng sự người Anh cuối cùng đã phát hiện ra electron có biểu hiện của một hạt cơ bản vào năm 1897. Electron cũng tham gia vào các phản ứng hạt nhân, như quá trình tổng hợp lên các hạt nhân nặng hơn trong các sao, mà chúng thường được gọi là các hạt beta. Electron cũng có thể được tạo ra trong phân rã beta từ các đồng vị phóng xạ và trong các va chạm năng lượng cao, như ở sự kiện các tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển. Phản hạt của electron được gọi là positron; nó có tính chất đồng nhất với electron ngoại trừ các tích như điện tích mang dấu ngược lại. Khi một electron va chạm với một positron, cả hai hạt bị hủy, tạo ra hai photon tia gamma năng lượng cao.\nLịch sử.\nKhám phá ra hiệu ứng của lực điện.\nNgười Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy rằng khi dùng bộ lông thú chà xát vào hổ phách thì nó có khả năng hút được những vật nhỏ. Cùng với sét, đây là một trong những hiện tượng về điện được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử loài người. Trong luận thuyết \"De Magnete\" viết năm 1600, nhà khoa học người Anh William Gilbert đưa ra thuật ngữ trong tiếng Latin mới là , để kể đến những chất có tính chất tương tự như hổ phách với khả năng có thể hút được những vật nhỏ khi chà xát với lông thú. Cả hai thuật ngữ \"electric\" và \"electricity\" đều có nguồn gốc từ tiếng Latin ' (cũng là từ nguyên của hợp kim có cùng tên); ' có từ nguyên bắt nguồn từ chữ hổ phách trong tiếng Hy Lạp, (\"\").\nKhám phá hai loại điện tích.\nĐầu những năm 1700, nhà hóa học người Pháp Charles François du Fay phát hiện thấy nếu một lá vàng tích điện bị đẩy bởi một que thủy tinh khi chà nó với lụa, thì cùng lá vàng tích điện này lại bị hút bởi hổ phách khi chà vào bông sợi. Từ quan sát này cùng những kết quả thí nghiệm tương tự, du Fay kết luận rằng điện phải chứa hai loại chất lỏng mang điện, chất lỏng \"vitreous\" từ đũa thủy tinh khi chà xát vào lụa và chất lỏng \"resinous\" từ hổ phách khi chà vào bông sợi. Hai chất lỏng này có thể trung hòa lẫn nhau khi được kết hợp lại. Nhà khoa học người Mỹ Ebenezer Kinnersley sau đó cũng độc lập đi đến kết luận tương tự của du Fay. Một thập kỷ sau, Benjamin Franklin đề xuất rằng điện không cấu tạo từ những loại chất lỏng điện khác nhau, mà là một chất lỏng điện có biểu hiện dư thừa (+) hay thiếu hụt (−) điện tích. Ông đưa ra thuật ngữ hiện đại tương ứng với chúng là điện tích dương và điện tích âm. Franklin từng nghĩ về chất mang điện sẽ có điện tích dương, nhưng ông đã không miêu tả đúng tình huống khi nào chất sẽ dư thừa điện tích, và khi nào bị thiếu hụt điện tích.\nGiữa các năm 1838 và 1851, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming phát triển ý tưởng cho rằng một nguyên tử là tổ hợp bao gồm một lõi vật chất được bao quanh bởi những hạt nhỏ hơn nguyên tử mà có điện tích bằng số lần điện tích đơn vị. Đầu năm 1846, nhà vật lý người Đức William Weber đưa ra lý thuyết miêu tả điện là chất tổng hợp bởi các chất lỏng tích điện dương và âm, và tương tác giữa chúng bị chi phối bởi luật nghịch đảo bình phương. Sau khi nghiên cứu hiện tượng điện phân vào năm 1874, nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney gợi ý có tồn tại một \"đại lượng xác định duy nhất cho điện\", điện tích của một ion hóa trị một. Ông đã có thể ước lượng giá trị của điện tích cơ bản \"e\" này bằng cách áp dụng định luật điện phân Faraday. Tuy nhiên, Stoney lại tin rằng những điện tích này lại gắn chặt vĩnh cửu vào nguyên tử và không thể bị tách rời. Năm 1881, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz cho rằng cả điện tích dương và điện tích âm có thể chia ra thành những thành phần cơ bản, mỗi một chúng \"hành xử như những nguyên tử của điện\".\nStoney ban đầu đưa ra thuật ngữ \"electrolion\" vào năm 1881. Mười năm sau, ông chuyển sang sử dụng \"electron\" để miêu tả những điện tích cơ bản này, khi ông viết vào năm 1894: \"... một ước lượng được thực hiện để tính toán số lượng thực tế của đơn vị điện cơ bản điển hình nhất này, mà tôi đã từng dám gợi ý đặt tên là \"electron\"\". Đã có một đề xuất vào năm 1906 nhằm đổi sang tên gọi \"electrion\" nhưng đã thất bại bởi vì Hendrik Lorentz vẫn thích tên gọi \"electron\" hơn. Từ \"electron\" là tổ hợp của các từ \"electric\" và \"ion\". Hậu tố -\"on\" mà hiện nay được sử dụng để đặt tên cho các hạt cơ bản khác, như proton hoặc neutron, có nguồn gốc bắt nguồn từ cách đặt tên cho electron.\nKhám phá ra các electron tự do bên ngoài vật chất.\nKhi nghiên cứu hiện tượng dẫn điện trong khí loãng vào năm 1859, nhà vật lý người Đức Julius Plücker quan sát thấy ánh sáng lân quang, vốn được tạo thành bởi bức xạ phát ra từ cathode, xuất hiện tại thành ống gần cathode, và vùng ánh sáng lân quang đó có thể di chuyển bằng việc ứng dụng từ trường. Năm 1869, Johann Wilhelm Hittorf, một học trò của Plücker, phát hiện rằng một vật rắn đặt giữa cathode và vùng lân quang tạo ra một vùng tối trên vùng lân quang của ống. Hittorf kết luận rằng có những tia truyền thẳng phát ra từ cathode và vùng lân quang đó được tạo ra bởi các tia chiếu qua thành ống. Năm 1876, nhà vật lý người Đức Eugen Goldstein chỉ ra rằng các tia này được phát ra theo phương vuông góc với mặt cathode, mặt phân cách giữa các tia phát ra từ cathode và ánh sáng sợi đốt. Goldstein đặt tên cho những tia này là tia âm cực. Công cuộc nghiên cứu về tia âm cực kéo dài hàng thập kỷ cả về lý thuyết và thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình khám phá ra electron của J. J. Thomson.\nTrong thập niên 1870, nhà hóa lý người Anh Sir William Crookes đã phát triển ống tia âm cực đầu tiên với môi trường chân không cao bên trong. Sau đó ông chứng tỏ rằng các tia phát quang xuất hiện bên trong ống có mang năng lượng và chuyển động từ phía cathode sang anode. Hơn nữa, khi đặt vào một từ trường, ông đã làm lệch đường đi của chùm tia, do đó chứng tỏ thêm chùm tia hành xử như nó chứa điện tích âm. Năm 1879, ông đề xuất rằng những tính chất này có thể được giải thích bằng cách coi rằng các tia âm cực bao gồm các phân tử khí mang điện tích âm trong trạng thái thứ tư của vật chất mà trong đó quãng đường tự do của các phân tử lớn đến mức có thể bỏ qua va chạm.\nNhà vật lý người Anh sinh ở Đức Arthur Schuster tiến hành mở rộng các thí nghiệm của Crookes khi đặt những tấm kim loại song song với chùm tia cathode và áp dụng vào một điện thế giữa các tấm này. Điện trường đã làm lệch chùm tia về phía tấm kim loại tích điện dương, chứng cứ đã củng cố thêm cho kết luận chùm tia mang điện tích âm. Bằng cách đo độ lệch của chùm tia tương ứng với từng lần điều chỉnh dòng điện giữa hai tấm kim loại, năm 1890 Schuster đã ước lượng được tỷ số khối lượng−điện tích của các thành phần trong chùm tia. Tuy vậy, giá trị ông thu được lớn hơn 1000 lần so với giá trị được dự đoán, do đó ít người đã để ý đến kết quả tính toán của ông vào thời điểm đó.\nNăm 1892, Hendrik Lorentz gợi ý rằng khối lượng của những hạt này (electron) có thể là hệ quả của lượng điện tích mà chúng mang theo.\nKhi đang nghiên cứu các khoáng chất huỳnh quang tự nhiên vào năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá thấy chúng phát ra các bức xạ mà không cần phải chiếu thêm một nguồn năng lượng từ bên ngoài. Những vật liệu phóng xạ này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học, bao gồm nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, ông đã phát hiện vật liệu phóng xạ có phát ra các hạt. Ông gọi những hạt này là các hạt alpha và hạt beta, dựa trên khả năng đâm xuyên của chúng qua vật chất. Năm 1900, Becquerel đã chứng tỏ chùm tia beta phát ra từ hạt nhân radium có thể bị làm lệch hướng trong một điện trường, và tỷ số khối lượng trên điện tích của chúng bằng với tỷ số này của chùm tia cathode. Chứng cứ này đã củng cố thêm quan điểm cho rằng electron tồn tại như là một trong các thành phần của nguyên tử.\nNăm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson, cùng với các đồng nghiệp John S. Townsend và H. A. Wilson, đã thực hiện các thí nghiệm chỉ ra chùm tia cathode thực sự chứa các hạt, hơn là một loại sóng, những hạt nguyên tử hoặc phân tử như nhiều nhà khoa học từng tin như vậy trước đó. Thomson đã có kết quả ước lượng khá tốt về điện tích \"e\" và khối lượng \"m\" của hạt tia cathode, mà ông gọi là \"corpuscles\", nó có khối lượng bằng một phần nghìn khối lượng của ion nhẹ nhất: ion hydro. Ông cũng đã chứng minh tỷ số điện tích−khối lượng, \"e\"/\"m\", có giá trị độc lập với vật liệu của bản cực cathode. Ông tiếp tục chứng tỏ thêm các vật liệu phóng xa, vật liệu nung nóng và vật liệu bị chiếu xạ có phát ra các hạt mang điện tích âm. Tên gọi electron về sau được cộng đồng khoa học chấp nhận sử dụng rộng rãi, chủ yếu do đề xuất của G. F. FitzGerald, J. Larmor và H. A. Lorentz.\nĐiện tích của electron đã được đo một cách chính xác hơn bởi các nhà vật lý Mỹ Robert Millikan và Harvey Fletcher trong thí nghiệm giọt dầu vào năm 1909, và kết quả được công bố vào 1911. Thí nghiệm sử dụng một điện trường để hãm các giọt dầu mang điện tích rơi trong không khí dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Thiết bị của họ có thể đo điện tích của 1–150 ion với sai số là 0,3%. Trước đó nhóm của Thomson cũng thực hiện thí nghiệm tương tự, sử dụng đám mây chứa các giọt nước tích điện tạo ra bởi sự điện phân,và thí nghiệm thực hiện bởi Abram Ioffe năm 1911, ông đã thu được kết quả tương tự một cách độc lập với nhóm Millikan khi sử dụng các vi hạt kim loại tích điện, và kết quả được công bố vào năm 1913. Tuy nhiên, các giọt dầu có tính ổn định hơn giọt nước bởi vì chúng có tốc độ bốc hơi chậm hơn, và do đó phù hợp hơn với thí nghiệm chính xác đòi hỏi thực hiện trong thời gian dài hơn.\nVào thời điểm bắt đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng dưới những điều kiện nhất định một hạt tích điện chuyển động nhanh trong buồng bọt có thể gây ra sự ngưng tụ của hơi nước siêu bão hòa trên quỹ đạo chuyển động của hạt. Năm 1911, Charles Wilson đã áp dụng nguyên lý này cho thiết bị buồng mây của mình, cho phép ông có thể chụp ảnh được quỹ đạo của các hạt tích điện, ví dụ như các electron chuyển động nhanh.\nLý thuyết nguyên tử.\nCho đến năm 1914, các thí nghiệm thực hiện bởi Ernest Rutherford, Henry Moseley, James Franck và Gustav Hertz hầu như đã khẳng định được cấu trúc nguyên tử bao gồm một hạt nhân cô đặc mang điện dương bao xung quanh bởi các electron có khối lượng rất nhỏ. Năm 1913, nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr giả thuyết các electron nằm trong các trạng thái có mức năng lượng bị lượng tử hóa, mức năng lượng của chúng được xác định bởi mômen động lượng của quỹ đạo electron quanh hạt nhân. Các electron có thể chuyển động trên những quỹ đạo này, bằng cách phát ra hay hấp thụ photon với tần số xác định. Với cơ sở là những quỹ đạo bị lượng tử hóa này, Bohr có thể giải thích một cách chính xác các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Tuy nhiên, mô hình của Bohr chưa thể giải thích được cường độ tương đối của các vạch này cũng như mô hình chưa thể giải thích quang phổ của những nguyên tử phức tạp hơn.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử được Gilbert Newton Lewis giải thích, khi vào năm 1916 ông đề xuất rằng liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử được duy trì bởi cặp electron chia sẻ giữa chúng. Sau đó, vào năm 1927, Walter Heitler và Fritz London đưa ra lý thuyết giải thích đầy đủ cho sự hình thành cặp electron và liên kết hóa học trong khuôn khổ của cơ học lượng tử. Năm 1919, nhà hóa học người Mỹ Irving Langmuir đưa ra mô hình tĩnh về nguyên tử và gợi ý rằng mọi electron được phân bố tuần tự theo \"những vỏ (gần) hình cầu đồng tâm, tất cả đều có độ dày bằng nhau\". Tiếp đó, ông chia những vỏ này ra thành một số ô, mà mỗi ô chứa một cặp electron. Với mô hình này, Langmuir có thể giải thích một cách định tính các tính chất hóa học của các nguyên tố trong bảng tuần hoàn, mà nhiều tính chất được lặp lại tuân theo định luật tuần hoàn trong bảng.\nNăm 1924, nhà vật lý người Áo Wolfgang Pauli nhận xét thấy cấu trúc tựa vỏ của nguyên tử có thể được giải thích bằng một tập hợp chứa bốn tham số xác định lên mỗi trạng thái năng lượng lượng tử, và mỗi trạng thái này không thể chiếm bởi nhiều hơn một electron. Việc không có nhiều hơn một electron chiếm chỗ ở cùng một trạng thái năng lượng lượng tử được phát biểu trong nguyên lý loại trừ Pauli. Cơ chế vật lý để giải thích cho tham số thứ tư, mà nó có hai giá trị phân biệt, được các nhà vật lý người Hà Lan Samuel Goudsmit và George Uhlenbeck đề xuất. Năm 1925, họ cho rằng một electron, cùng với mômen động lượng của quỹ đạo, còn sở hữu thêm mômen góc động lượng nội tại và mômen lưỡng cực từ. Điều này tương tự như sự tự quay của Trái Đất cũng như nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Mômen góc động lượng nội tại này được gọi là spin, và đưa ra cách giải thích cho sự tách vạch bí ẩn như được quan sát thấy ở các vạch quang phổ bằng phổ kế có độ phân giải cao; hiện tượng này được biết đến như là sự tách cấu trúc tinh tế.\nCơ học lượng tử.\nTrong luận án \"\" (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử) viết năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie giả thuyết rằng mọi vật chất có thể được biểu diễn bằng sóng de Broglie tương tự như sóng ánh sáng. Điều đó có nghĩa là dưới những điều kiện phù hợp, các electron và những hạt vật chất khác sẽ thể hiện những tính chất của sóng hoặc của hạt. Lý thuyết hạt ánh sáng được chứng tỏ khi nó thể hiện có vị trí định xứ trong không gian dọc theo quỹ đạo chùm sáng ở bất kỳ thời điểm nào. Bản chất sóng ánh sáng được hiện, ví dụ, khi một chùm sáng chiếu qua những khe hẹp song song nó sẽ tạo thành những vân giao thoa. Năm 1927 George Paget Thomson khám phá ra hiệu ứng giao thoa xuất hiện khi cho một chùm electron truyền qua những lá kim loại mỏng và kiểu thí nghiệm tương tự được các nhà vật lý người Mỹ Clinton Davisson và Lester Germer thực hiện khi cho chùm electron phản xạ từ tinh thể nikel và quan sát thấy hiệu ứng giao thoa. Các hiệu ứng này còn được gọi là hiện tượng nhiễu xạ electron.\nDự đoán của de Broglie về bản chất sóng của electron đưa Erwin Schrödinger thiết lập lên phương trình sóng miêu tả electron chuyển động dưới ảnh hưởng của hạt nhân trong nguyên tử. Năm 1926, với phương trình của mình, phương trình Schrödinger, ông đã miêu tả thành công sóng electron trong hệ nguyên tử. Hơn là chỉ việc tìm ra nghiệm xác định vị trí của một electron theo thời gian, phương trình sóng này cũng được áp dụng để dự đoán xác suất tìm thấy electron quanh vị trí cụ thể, đặc biệt vị trí gần nơi electron bị chặn trong không gian, mà tại đây phương trình sóng electron không thay đổi theo thời gian. Cách tiếp cận này đã đem đến một lý thuyết miêu tả cơ học lượng tử thứ hai (lý thuyết đầu tiên miêu tả bằng cơ học ma trận do Heisenberg phát triển năm 1925), và nghiệm của phương trình Schrödinger, giống như của Heisenberg, cho phép dẫn ra các trạng thái năng lượng của một electron trong nguyên tử hydro mà tương đương với các kết quả thu được bởi Bohr vào năm 1913, và miêu tả chính xác quang phổ nguyên tử hydro. Khi kể đến spin và tương tác giữa nhiều electron, cơ học lượng tử đưa ra những dự đoán chính xác về cấu hình electron trong những hệ nguyên tử phức tạp hơn hydro.\nNăm 1928, dựa trên các nghiên cứu của Wolfgang Pauli, Paul Dirac thiết lập nên một mô hình về electron – phương trình Dirac, nhất quán với thuyết tương đối hẹp, bằng cách áp dụng các điều kiện đối xứng và tương đối tính trong hình thức luận hamiltonian của cơ học lượng tử cho trường điện từ. Để có thể giải một số vấn đề trong phương trình tương đối tính của mình, năm 1930 Dirac nêu ra một mô hình chân không như là một biển chứa vô hạn các hạt có năng lượng âm, sau này gọi là biển Dirac. Mô hình này đã đưa ông đi đến dự đoán tồn tại positron, một hạt phản vật chất của electron. Hạt này sau đó được phát hiện vào năm 1932 bởi Carl Anderson, và ông đề xuất gọi các electron thường gặp là \"negatron\" và sử dụng thuật ngữ \"electron\" nhằm miêu tả những biến thể mang điện tích dương hoặc âm.\nNăm 1947 Willis Lamb, khi đang thực hiện nghiên cứu cùng với sinh viên Robert Retherford, đã tìm thấy có những trạng thái lượng tử riêng biệt của hydro, đáng ra phải có cùng mức năng lượng, lại được dịch chuyển tương đối với nhau; sự sai lệch này sau đó được gọi là dịch chuyển Lamb. Trong cùng thời gian, Polykarp Kusch, cùng với Henry M. Foley, đã khám phá bằng thí nghiệm mômen từ của electron có giá trị hơi lớn hơn so với dự đoán của lý thuyết Dirac. Giá trị chênh lệch nhỏ này sau đó được gọi là mômen lưỡng cực từ dị thường của electron. Sự chênh lệch này sau đó được giải thích trong lý thuyết điện động lực học lượng tử, phát triển bởi các nhà vật lý Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và\nRichard Feynman vào cuối thập niên 1940.\nMáy gia tốc hạt.\nVới sự phát triển của các loại máy gia tốc hạt trong nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn vào các tính chất của các hạt hạ nguyên tử. Thành công đầu tiên trong nỗ lực gia tốc electron sử dụng cảm ứng điện từ được thực hiện vào năm 1942 bởi Donald Kerst. Máy betatron ban đầu của ông đạt đến mức năng lượng 2,3 MeV, và những máy betatron về sau đạt đến mức 300 MeV. Năm 1947, bức xạ đồng bộ (synchrotron radiation) được phát hiện tại máy gia tốc synchrotron, đưa electron đạt mức năng lượng 70 MeV, tại cơ sở nghiên cứu của General Electric. Bức xạ này là do các electron chuyển động gia tốc đi qua một từ trường ở vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng.\nMáy gia tốc va chạm hạt ADONE là máy đầu tiên đạt mức năng lượng của chùm tia cỡ 1,5 GeV, bắt đầu hoạt động vào năm 1968. Trong thiết bị này, các hạt electron và positron được gia tốc theo hai hướng ngược chiều nhau, như vậy gần như làm tăng gấp đôi năng lượng va chạm so với máy gia tốc chùm tia electron bắn vào một bia cố định. Máy va chạm lớn Electron–Positron (Large Electron–Positron Collider; LEP) ở CERN, hoạt động từ 1989 đến 2000, đạt tới mức năng lượng va chạm 209 GeV và có những đo lường quan trọng cho Mô hình Chuẩn của vật lý hạt.\nGiam giữ từng electron.\nHiện nay từng electron đơn lẻ có thể dễ dàng bị giam hãm trong những transistor CMOS siêu nhỏ (, ) hoạt động ở ngưỡng nhiệt độ lạnh sâu từ −269 °C (4 K) cho đến khoảng −258 °C (15 K). Hàm sóng electron lan truyền trong một dàn chất bán dẫn và khi bỏ qua tương tác của nó với các electron trong dải hóa trị, thì có thể coi như là hàm của electron đơn lẻ, bằng cách thay thế khối lượng của nó bằng tenxơ khối lượng hiệu dụng.\nCác đặc tính.\nPhân loại.\nTrong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt, electron thuộc về nhóm các hạt hạ nguyên tử gọi là lepton, mà được cho là những hạt cơ bản. Electron có khối lượng nhỏ nhất trong nhóm lepton (cũng như trong nhóm các hạt mang điện) và thuộc về thế hệ thứ nhất của hạt cơ bản. Thế hệ thứ hai và thứ ba bao gồm các lepton mang điện, hạt muon và tau, chúng có giá trị điện tích, spin và tham gia tương tác giống với của electron, nhưng có khối lượng lớn hơn. Lepton khác so với những thành phần cơ bản khác của vật chất, hạt quark, khi lepton không tham gia vào tương tác mạnh. Tất cả các thành viên trong nhóm lepton đều là fermion, bởi vì chúng đều có spin bán nguyên; electron có spin .\nCác tính chất cơ bản.\nKhối lượng bất biến (khối lượng nghỉ) của electron xấp xỉ bằng  kilogram, hay  đơn vị khối lượng nguyên tử. Trên cơ sở của nguyên lý sự tương đương khối lượng−năng lượng của Einstein, khối lượng này tương ứng với mức năng lượng nghỉ 0,511 MeV. Tỷ số giữa khối lượng của một proton so với của electron bằng khoảng 1836. Các đo đạc thiên văn cho thấy tỷ số khối lượng proton trên khối lượng electron vẫn giữ nguyên không đổi, như được dự đoán bởi Mô hình Chuẩn, trong thời gian ít nhất bằng một nửa tuổi của vũ trụ.\nElectron có điện tích bằng coulomb, một giá trị đã được sử dụng làm đơn vị điện tích chuẩn cho các hạt hạ nguyên tử, và cũng được gọi là điện tích cơ bản. Trong khoảng giới hạn sai số thí nghiệm, giá trị điện tích của electron bằng giá trị của proton nhưng mang dấu ngược lại. Vì ký hiệu \"e\" được sử dụng cho điện tích cơ bản, electron thường được ký hiệu là , với dấu trừ thể hiện cho điện tích âm. Positron được ký hiệu bởi vì nó có cùng các tính chất với electron nhưng mang điện tích dương.\nElectron có mômen động lượng nội tại hay spin . Do tính chất này mà electron thường được coi các hạt có spin-. Những hạt như vậy có độ lớn spin bằng  \"ħ\", trong khi kết quả đo từ hình chiếu của spin lên một trục bất kỳ chỉ có thể bằng ±. Ngoài spin, electron còn có mômen từ hướng dọc theo trục spin của nó. Giá trị mômen từ electron xấp xỉ bằng một Bohr magneton,=\\frac{e\\hbar}{2m_{\\mathrm{e}}}.</math>|group=gc}} là hằng số vật lý bằng joule trên tesla. Hướng của spin so với hướng của mômen động lượng electron xác định lên tính chất của các hạt cơ bản được biết đến là tính xoắn (\"helicity\").\nElectron không có cấu trúc con đã biết, nên nó thường được coi là một hạt điểm, hay cụ thể là một điện tích điểm không có không gian trong. Quan sát electron đơn lẻ trong bẫy Penning gợi ý rằng giới hạn trên của bán kính của nó bằng 10−22 mét. Giá trị giới hạn trên của bán kính electron bằng 10−18 mét có thể dẫn ra từ nguyên lý bất định kết hợp với năng lượng. Ngoài ra, còn có một hằng số vật lý gọi là \"bán kính electron cổ điển\", với giá trị là , lớn hơn rất nhiều bán kính của proton. Tuy nhiên, giá trị này được tìm từ những phép tính đơn giản mà bỏ qua các hiệu ứng của cơ học lượng tử; trong thực tế, giá trị bán kính electron cổ điển không có nhiều ý nghĩa khi đề cập đến cấu trúc cơ bản bên trong của electron.\nCó những hạt cơ bản khác tự động phân rã thành những hạt khối lượng nhẹ hơn. Ví dụ cho muon, nó có thời gian sống trung bình  giây, và phân rã thành một electron, một neutrino muon và một phản neutrino electron. Hạt electron, mặt khác, theo lý thuyết được cho là hạt bền: electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất với điện tích khác 0, do đó sự phân rã của nó sẽ vi phạm định luật bảo toàn điện tích. Thực nghiệm xác định giới hạn dưới của thời gian sống của electron là năm, ở mức 90% độ tin cậy.\nCác tính chất lượng tử.\nNhư mọi hạt khác, các electron có hành xử như những sóng. Đặc điểm này được gọi là lưỡng tính sóng–hạt và được chứng minh bằng thí nghiệm giao thoa hai khe.\nBản chất sóng của electron cho phép nó đi qua hai khe song song một cách đồng thời, hơn là chỉ một khe ở một thời điểm như đối với trường hợp của hạt. Trong cơ học lượng tử, tính chất sóng của một hạt được miêu tả bằng toán học dưới dạng hàm giá trị phức, hay hàm sóng, thường được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp psi (\"ψ\"). Khi tính bình phương giá trị tuyệt đối của hàm này, sẽ cho xác suất quan sát được một hạt ở một vị trí cho trước—hay chính là mật độ xác suất.\nElectron là những hạt đồng nhất bởi vì không thể phân biệt được chúng dựa trên những tính chất vật lý nội tại của hạt. Trong cơ học lượng tử, điều này có nghĩa là một cặp electron tương tác có thể đổi chỗ cho nhau mà không làm thay đổi trạng thái quan sát được của hệ. Hàm sóng của các fermion, bao gồm electron, là hàm phản xứng, có nghĩa rằng nó thay đổi dấu khi hai electron trao đổi vị trí cho nhau; hay, , với các biến \"r\"1 và \"r\"2 tương ứng với electron thứ nhất và thứ hai. Vì giá trị tuyệt đối không thay đổi khi hai hạt đổi chỗ cho nhau, điều này tương ứng với xác suất của hai sự kiện là bằng nhau. Ngược lại, hạt boson, như photon, lại có hàm sóng đối xứng.\nTrong trường hợp phản xứng, các nghiệm của phương trình sóng cho các electron tương tác sẽ cho xác suất bằng 0 đối với mỗi cặp chiếm cùng một vị trí hoặc trạng thái. Kết quả này tương ứng với nguyên lý loại trừ Pauli, phát biểu rằng không thể có hai electron chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Nguyên lý này giải thích cho nhiều tính chất của các electron hóa học. Ví dụ, nó làm cho nhóm các electron liên kết chiếm những orbital khác nhau trong một nguyên tử, hơn là đan xen lẫn nhau trong cùng một orbital.\nHạt ảo.\nTrong một bức tranh đơn giản, mỗi photon đôi lúc được coi như là tổ hợp của một hạt electron ảo với phản hạt ảo của nó, positron ảo, mà chúng nhanh chóng hủy lẫn nhau khi vừa mới sinh ra trong một thời gian rất ngắn. Sự kết hợp của biến thiên năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt này, và khoảng thời gian trong đó chúng tồn tại, phải nằm trong ngưỡng chấp nhận được tuân theo nguyên lý bất định Heisenberg, Δ\"E\" · Δ\"t\" ≥ \"ħ\". Để thỏa mãn nguyên lý này, năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt ảo này, Δ\"E\", có thể được \"mượn\" từ chân không trong một khoảng thời gian, Δ\"t\", sao cho tích của chúng không được lớn hơn hằng số Planck thu gọn, . Do vậy, đối với một electron ảo, Δ\"t\" lớn nhất bằng . (nghĩa là nếu cặp electron ảo−positron ảo mượn năng lượng Δ\"E\" từ chân không lượng tử thì phải trả lại năng lượng này cho chân không sau tối đa một khoảng thời gian Δ\"t\" sao cho Δ\"E\" · Δ\"t\" ≤ \"ħ\")\nKhi một cặp electron–positron ảo đang tồn tại, lực tĩnh điện Coulomb từ điện trường tức thời xung quanh hạt electron sẽ làm hút hạt positron về phía electron gốc ban đầu, trong khi electron được sinh ra chịu một lực đẩy. Hiệu ứng này chính là sự phân cực chân không. Về mặt hiệu ứng, chân không hành xử như một môi trường có dielectric permittivity lớn hơn 1 đơn vị. Do vậy điện tích hữu hiệu của một electron thực sự nhỏ hơn giá trị thực của nó, và điện tích giảm dần khi khoảng cách tăng dần tính từ electron. Sự phân cực này đã được xác nhận bằng thực nghiệm vào năm 1997 tại máy gia tốc hạt TRISTAN ở Nhật Bản. Các hạt ảo cũng tạo ra hiệu ứng lá chắn đáng kể cho khối lượng của electron.\nTương tác với các hạt ảo cũng giải thích sự sai lệch nhỏ (khoảng 0,1%) về giá trị của mômen từ nội tại của electron so với magneton Bohr (sai lệch này được gọi là mômen từ dị thường của electron). Sự khớp chính xác tuyệt vời giữa giá trị tính toán trên lý thuyết và giá trị đo được bằng thực nghiệm của mômen từ dị thường electron được coi là một trong những thành tựu quan trọng nhất của điện động lực học lượng tử.\nNghịch lý trong vật lý cổ điển về hạt điểm electron lại có mômen góc spin và mômen từ nội tại có thể được giải quyết bởi sự hình thành của các cặp hạt photon ảo trong điện trường sinh bởi electron. Các photon ảo này (đến lượt lại sinh ra các cặp electron−positron ảo khác) làm cho electron luôn dịch chuyển xung quanh vị trí của nó (còn gọi là zitterbewegung), mà tổng hợp lại thành một chuyển động tròn với hiệu ứng tiến động. Chuyển động này tạo ra cả spin và mômen từ của electron. Trong nguyên tử, sự sinh các cặp hạt photon ảo giúp giải thích hiệu ứng dịch chuyển Lamb như đã quan sát thấy ở các vạch quang phổ.\nTương tác.\nElectron sinh ra từ trường tạo ra lực hút lên hạt mang điện dương, như proton, và lực đẩy lên hạt mang điện âm. Cường độ của lực này trong điện động lực học cổ điện được xác định bằng định luật nghịch đảo bình phương Coulomb. Khi một electron đang trong chuyển động, nó tạo ra một từ trường bao quanh. Định luật Ampère-Maxwell cho biết mối liên hệ giữa từ trường và chuyển động của dòng các electron (dòng điện) tương ứng với người quan sát. Tính chất cảm ứng này cung cấp một từ trường dẫn động làm quay động cơ điện. Trường điện từ của một hạt mang điện bất kỳ đang trong chuyển động được miêu tả bằng thế Liénard–Wiechert, thế này đúng cho cả trường hợp hạt chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (hay vận tốc tương đối tính).\nKhi một electron chuyển động trong từ trường, nó chịu tác dụng của lực Lorentz tác động theo phương vuông góc với mặt phẳng xác định bởi vectơ từ trường và vectơ vận tốc của electron. Lực hướng tâm làm cho electron chuyển động trên một quỹ đạo xoắn ốc trong từ trường với bán kính Larmor. Sự gia tốc từ chuyển động theo đường cong ghềnh này làm cảm ứng electron phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ đồng bộ. Năng lượng bức xạ này làm hãm electron, hay còn gọi là lực Abraham–Lorentz–Dirac, tạo ra ma sát làm chậm chuyển động của electron. Lực này cũng gây ra tác động ngược (back-reaction) lên điện từ trường của chính electron.\nTrong điện động lực học lượng tử photon là hạt truyền tải tương tác điện từ giữa các hạt. Một electron đơn lẻ chuyển động với vận tốc đều không thể phát ra hay hấp thụ một photon thực; do sẽ vi phạm định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Mặt khác, các photon ảo có thể truyền động lượng giữa hai hạt mang điện tích. Sự trao đổi này của các photon ảo, ví dụ, làm tạo ra lực Coulomb. Bức xạ năng lượng xuất hiện khi một electron chuyển động bị làm lệch quỹ đạo gây bởi điện trường của một hạt mang điện khác, như proton. Sự gia tốc của electron làm phát ra bức xạ Bremsstrahlung.\nMột photon (ánh sáng) va chạm phi đàn hồi với một electron (tự do) được gọi là tán xạ Compton. Kết quả của va chạm này là động lượng và năng lượng được truyền qua giữa các hạt, làm thay đổi bước sóng của photon bằng một lượng được gọi là dịch chuyển Compton. Độ dịch chuyển lớn nhất của bước sóng bằng \"h\"/\"m\"e\"c\", hay còn gọi là bước sóng Compton. Đối với một electron, nó có giá trị bằng . Khi bước sóng của ánh sáng là dài (ví dụ bước sóng của ánh sáng khả kiến bằng 0,4–0,7 μm) sự dịch chuyển bước sóng có thể bỏ qua được. Trong trường hợp này, tương tác giữa ánh sáng và electron tự do được gọi là tán xạ Thomson hay tán xạ Thomson tuyến tính.\nĐộ mạnh tương đối của tương tác điện từ giữa hai hạt điện tích, chẳng hạn giữa một electron và một proton, được xác định bởi hằng số cấu trúc tế vi. Đây là đại lượng không thứ nguyên hình thành dựa trên tỉ số của hai dạng năng lượng: năng lượng tĩnh điện của lực hút (hoặc đẩy) ở khoảng cách bằng một lần bước sóng Compton, và năng lượng nghỉ của các hạt mang điện tích. Nó có giá trị bằng \"α\" ≈ , hay xấp xỉ bằng .\nKhi electron và positron va chạm, chúng hủy lẫn nhau, làm phát ra hai hoặc ba photon tia gamma. Nếu electron và positron có động lượng bỏ qua được, va chạm có thể hình lên nguyên tử positronium trước khi hai hạt hủy lẫn nhau để hình ra các photon có tổng năng lượng 1,022 MeV. Mặt khác, một photon năng lượng cao có thể biến đổi thành cặp electron và positron bởi quá trình sinh cặp (pair production), nhưng chỉ trong sự có mặt của một hạt điện tích gần nó, như một hạt nhân chẳng hạn.\nTrong lý thuyết tương tác điện yếu, thành phần hàm sóng hướng bên trái (chiral) của electron tạo thành bộ đôi isospin yếu với neutrio electron. Điều này có nghĩa rằng trong tương tác yếu, neutrino electron hành xử như các electron. Mỗi loại hạt của bộ đôi này (doublet) có thể tham gia vào tương tác dòng tích (charged current) bằng cách phát ra hoặc hấp thụ một boson và biến đổi sang thành hạt kia. Điện tích được bảo toàn trong quá trình này bởi vì boson W cũng mang điện tích, làm cho tổng điện tích của quá trình biến đổi là không thay đổi. Các tương tác dòng tích chịu trách nhiệm cho hiện tượng phân rã beta trong một nguyên tử phóng xạ. Cả electron và neutrino electron có thể tham gia vào tương tác dòng trung hòa (neutral current interaction) thông qua sự trao đổi một boson , và chịu trách nhiệm cho tán xạ đàn hồi neutrino−electron.\nNguyên tử và phân tử.\nMột electron có thể \"liên kết\" với hạt nhân của một nguyên tử bởi lực hút Coulomb. Một hệ có một hoặc nhiều electron liên kết với một hạt nhân được gọi là một nguyên tử. Nếu số electron khác với số điện tích của hạt nhân, nguyên tử đó được gọi là một ion. Hành xử dạng sóng của một electron liên kết được miêu tả bằng một hàm sóng gọi là orbital nguyên tử. Mỗi orbital đặc trưng bởi các số lượng tử như mức năng lượng, mômen động lượng và hình chiếu của mômen góc, và chỉ có các orbital rời rạc tồn tại xung quanh hạt nhân. Theo nguyên lý loại trừ Pauli mỗi orbital có thể chiếm giữ bởi tối đa hai electron, và chúng phải có số lượng tử spin khác nhau.\nElectron có thể nhảy sang các orbital khác nhau thông qua sự hấp thụ hoặc phát ra photon có năng lượng bằng hiệu giữa hai mức năng lượng đó. Các phương pháp khác làm electron chuyển sang orbital khác bao gồm sự va chạm của nó với hạt khác, như các electron, và nhờ hiệu ứng Auger. Để thoát ra khỏi nguyên tử, năng lượng của electron phải tăng và lớn hơn năng lượng liên kết với nguyên tử. Điều này xảy ra, ví dụ, như ở hiệu ứng quang điện, khi một photon tới va chạm có năng lượng lớn hơn năng lượng ion hóa nguyên tử và bị electron hấp thụ.\nMômen góc orbital của electron bị lượng tử hóa. Bởi electron mang điện, nó có một mômen từ orbital tỷ lệ với mômen góc. Tổng mômen từ của một nguyên tử bằng tổng vec tơ của mô men từ spin và mômen từ orbital của tất cả các electron và hạt nhân. Mômen từ của hạt nhân là nhỏ so với của các electron. Mômen từ của các electron chiếm giữ cùng một orbital (còn gọi là cặp electron) triệt tiêu lẫn nhau.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử chính là tương tác điện từ giữa chúng, như miêu tả bởi các định luật của cơ học lượng tử. Liên kết mạnh nhất hình thành bởi chia sẻ hoặc cho/nhận các electron giữa các nguyên tử, dẫn đến hình thành lên các phân tử. Bên trong một phân tử, các electron chuyển động dưới ảnh hưởng của một vài hạt nhân, và chiếm giữ các orbital phân tử; giống như chúng chiếm giữ các orbital trong một nguyên tử cô lập. Một yếu tố cơ bản trong các cấu trúc phân tử đó là sự tồn tại các cặp electron. Đây là các electron có spin ngược nhau, cho phép chúng có thể chiếm giữ cùng một orbital phân tử mà không vi phạm nguyên lý loại trừ Pauli (tương tự như ở nguyên tử). Các orbital phân tử khác nhau có phân bố mật độ electron theo không gian khác nhau. Ví dụ, ở các cặp electron liên kết (nghĩa là các cặp thực sự liên kết các nguyên tử với nhau) có thể được tìm thấy với xác suất cực đại nằm ở vùng thể tích tương đối nhỏ giữa các hạt nhân. Ngược lại, ở các cặp electron không liên kết chúng phân bố trong thể tích lớn hơn bao quanh hạt nhân.\nDẫn điện.\nNếu một vật thể có nhiều hoặc ít hơn lượng electron cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân nguyên tử, thì tổng thể vật đó có mang điện tích. Khi có nhiều hơn electron, vật đó mang điện âm. Khi có ít electron hơn số lượng proton trong hạt nhân nguyên tử, vật mang điện dương. Khi số electron và proton bằng nhau, điện tích của chúng hủy lẫn nhau và vật thể ở trạng thái cân bằng điện (hay trung hòa). Nhờ tác động chà xát có thể làm vật thể vĩ mô mang điện thông qua hiệu ứng điện ma sát (triboelectric effect).\nCác electron độc lập chuyển động trong chân không được gọi là các electron \"tự do\". Các electron trong kim loại cũng hành xử như chúng chuyển động tự do. Thực sự thì các hạt được gọi là các electron trong kim loại và những thể rắn khác là những giả-electron—giả hạt, mà có cùng điện tích, spin, và mômen từ như các electron thực thụ nhưng có khối lượng khác với nó. Khi các electron tự do—trong chân không lẫn kim loại—chuyển động, chúng tạo ra một dòng mạng lưới điện tích được gọi là dòng điện, từ đó tạo ra một từ trường. Giống như một dòng điện có thể được sinh ra từ sự thay đổi của một từ trường. Những tương tác và mối quan hệ này được miêu tả bởi phương trình Maxwell.\nỞ mỗi nhiệt độ nhất định, từng vật liệu có một độ dẫn điện ảnh hưởng đến giá trị của dòng điện khi áp vào một điện thế. Những vật dẫn điện tốt bao gồm kim loại như đồng và vàng, trong khi thủy tinh và Teflon lại dẫn điện kém. Ở bất kỳ vật liệu cách điện nào, các electron vẫn bám vào các nguyên tử và vật liệu có tính chất như là một chất cách điện. Hầu hết các chất bán dẫn có mức độ dẫn điện biến đổi từ phạm vi dẫn điện cực tốt cho đến cách điện hoàn toàn. Mặt khác, các kim loại có cấu trúc dải điện tử chứa các vùng năng lượng được lấp đầy một phần bởi electron. Sự có mặt của những vùng năng lượng này cho phép các electron trong kim loại hành xử như chúng được tự do hoặc gọi là các electron phi định xứ (delocalized electrons). Những electron không liên kết với một nguyên tử nhất định, do vậy khi áp dụng một điện trường, chúng chuyển động tự do như một chất khí (được gọi là khí Fermi) đi qua vật liệu giống như các electron tự do.\nBởi vì có sự va chạm giữa các electron với các nguyên tử, vận tốc trôi của các electron trong một vật dẫn có độ lớn cỡ vài milimét trên một giây. Tuy nhiên, trường hợp có sự thay đổi dòng điện từ một điểm trong vật liệu gây ra sự thay đổi dòng điện ở điểm khác trong vật liệu, thì tốc độ lan truyền của hiệu ứng này, điển hình bằng khoảng 75% tốc độ ánh sáng. Điều này xảy ra bởi vì tín hiệu điện lan truyền như một sóng, với vận tốc phụ thuộc vào hằng số điện môi của vật liệu.\nĐa số kim loại có độ dẫn nhiệt tương đối tốt, chủ yếu bởi vì các electron phi định xứ vận chuyển năng lượng nhiệt tự do giữa các nguyên tử. Tuy nhiên, không giống như sự dẫn điện, sự dẫn nhiệt của một kim loại gần như độc lập với nhiệt độ của vật liệu. Điều này đã được phát biểu bằng định luật Wiedemann–Franz, nói rằng tỉ số độ dẫn nhiệt trên độ dẫn điện tỷ lệ thuận với nhiệt độ của vật liệu. Sự mất trật tự bởi nhiệt trong dàn tinh thể nguyên tử kim loại làm tăng điện trở của vật liệu, tạo ra sự phụ thuộc vào nhiệt độ đối với dòng điện.\nKhi làm lạnh vật liệu xuống dưới một mức gọi là nhiệt độ tới hạn, vật liệu trải qua sự chuyển pha trong đó nó mất hoàn toàn tính kháng điện (điện trở) đối với dòng điện, hay chính là hiệu ứng siêu dẫn. Trong lý thuyết BCS, các cặp electron được gọi là cặp Cooper trong chuyển động của chúng bắt cặp với nguyên tử gần đấy thông qua những dao động dàn nguyên tử gọi là phonon, do đó cặp Cooper tránh được va chạm với các nguyên tử mà thường tạo ra điện trở. (Các cặp Cooper có bán kính xấp xỉ bằng 100 nm, do đó nếu coi chúng như sóng vật chất thì chúng có thể chồng chập lẫn nhau.) Tuy nhiên, cơ chế cho hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu vẫn chưa có lý thuyết giải thích thỏa đáng.\nCác electron bên trong vật dẫn, mà chính chúng cũng là những giả hạt, khi đặt trong nhiệt độ rất gần với độ không tuyệt đối, có thể được phân ra thành ba loại giả hạt: spinon, orbiton và holon. Hạt đầu tiên mang spin và mômen từ, hạt tiếp theo mang vị trí orbital của nó trong khi hạt còn lại mang điện tích.\nChuyển động và năng lượng.\nTheo thuyết tương đối hẹp của Einstein, khi tốc độ của một electron tiệm cận tới tốc độ ánh sáng, người quan sát từ một hệ quy chiếu quán tính sẽ đo được khối lượng tương đối tính của hạt tăng lên, do đó khiến cho nó càng khó để có thể gia tốc nó từ bên trong hệ quy chiếu của người quan sát. Tốc độ của một electron có thể tiếp cận đến, nhưng không bao giờ bằng, tốc độ của ánh sáng trong chân không, \"c\". Tuy nhiên, khi các electron tương đối tính—là những electron chuyển động với tốc độ gần bằng \"c\"—chuyển động trong môi trường điện môi như nước, nơi vận tốc ánh sáng trong nó nhỏ hơn nhiều so với \"c\", các electron trong môi trường này có thể chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Khi chúng tương tác va chạm với môi trường, chúng tạo ra một ánh sáng nhạt được gọi là bức xạ Cherenkov.\nCác hiệu ứng trong thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên một đại lượng gọi là hệ số Lorentz, được xác định bằng formula_1 với \"v\" là tốc độ của hạt. Động năng \"K\"e của một electron chuyển động với vận tốc \"v\" bằng:\nvới \"m\"e là khối lượng của electron. Ví dụ, ở máy gia tốc thẳng Stanford có thể gia tốc một electron tới động năng gần bằng 51 GeV. Vì một electron hành xử như dạng sóng, ở một vận tốc bất kỳ nó có một bước sóng de Broglie đặc trưng. Bước sóng này được cho bởi \"λ\"e = \"h\"/\"p\" với \"h\" là hằng số Planck và \"p\" là động lượng. Đối với electron có động năng 51 GeV ở trên, bước sóng de Broglie bằng , đủ nhỏ để khám phá các cấu trúc có kích thước nhỏ hơn kích cỡ của một hạt nhân nguyên tử.\nSự hình thành.\nLý thuyết Vụ Nổ Lớn là lý thuyết khoa học được chấp nhận rộng rãi hiện nay miêu tả những giai đoạn ban đầu của sự tiến hóa của Vũ trụ. Ở những miligiây đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ trên 10 tỷ kelvin và các photon có năng lượng trung bình trên một triệu electronvolt. Các photon này có đủ năng lượng mà khi tương tác với nhau có thể dẫn tới sự hình thành cặp electron và positron. Ngược lại, những cặp positron−electron hủy lẫn nhau và phát ra các photon năng lượng cao:\nTrạng thái cân bằng giữa các electron, positron và photon được duy trì trong suốt giai đoạn này của sự tiến hóa Vũ trụ. Khi 15 giây trôi qua, tuy nhiên, nhiệt độ của Vũ trụ lúc này giảm xuống dưới ngưỡng cho phép hình thành cặp hạt electron−positron. Phần lớn các electron và positron tồn tại hủy lẫn nhau, giải phóng bức xạ gamma làm Vũ trụ nóng lên trong một thời gian ngắn.\nVì một lý do nào đó chưa được biết chắc chắn, trong suốt quá trình hủy cặp có sót lại một số lượng hạt nhiều hơn phản hạt vật chất. Cụ thể là có dư ra 1 electron tồn tại trong mỗi 1 tỷ cặp hạt electron−positron. Số lượng dư sót lại này bằng với số lượng proton còn dư từ quá trình hủy cặp hạt tương tự proton và phản proton, trong một điều kiện được gọi là bất đối xứng baryon, điều này mang đến tổng điện tích của toàn bộ Vũ trụ gần như bằng zero. Những proton và neutron còn dư lại bắt đầu tham gia vào các phản ứng với nhau—quá trình gọi là tổng hợp hạt nhân, tạo ra các đồng vị của hydro và heli, và một ít hạt nhân lithi. Các phản ứng này đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian ở sau năm phút. Bất kỳ neutron còn lại nào sẽ trải qua phản ứng phân rã beta âm với nửa thời gian sống bằng khoảng một nghìn giây, giải phóng ra một proton và một electron,\nTrong khoảng 300.000–400.000 năm tiếp theo, lượng các hạt electron còn lại có năng lượng quá lớn để có thể liên kết vào các hạt nhân nguyên tử. Giai đoạn tiếp theo là sự tái kếp hợp electron vào hạt nhân, khi ấy các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự giãn nở của vũ trụ làm cho vật chất trở lên trong suốt với bức xạ.\nGần một triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, thế hệ các ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành. Trong lòng một ngôi sao, dây chuyền phản ứng tổng hợp hạt nhân sao cho ra các sản phẩm trong đó có positron. Những hạt phản vật chất này ngay lập tức hủy với các electron, giải phóng tia gamma. Gộp chung lại số lượng hạt electron bị giảm dần, và tương ứng số lượng hạt neutron tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa sao cũng hình thành các sản phẩm là những đồng vị phóng xạ. Các đồng vị này có thể sau đó trải qua phân rã beta trừ, phát ra một electron và một phản neutrino từ hạt nhân. Một ví dụ là đồng vị cobalt-60 (60Co), mà phân rã thành nickel-60 (60Ni).\nCuối chu trình tiến hóa của chúng, một ngôi sao có khối lượng lớn hơn 20 lần khối lượng Mặt Trời đi đến kết cục suy sụp hấp dẫn để tạo thành một lỗ đen. Theo vật lý cổ điển, bên trong những ngôi sao khối lượng lớn này xuất hiện lực hút hấp dẫn đủ mạnh để ngăn bất kỳ thứ gì, kể cả bức xạ điện từ, thoát ra khỏi bán kính Schwarzschild. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử cho phép có khả năng tồn tại bức xạ Hawking ở phạm vi khoảng cách này. Các electron (và positron) được cho là tạo ra ở chân trời sự kiện của những tàn dư sao.\nKhi một cặp hạt ảo (như gồm một electron và một positron) được tạo ra tại biên giới của chân trời sự kiện, sự phân bố ngẫu nhiên trong vị trí của hạt có thể làm cho một trong hai hạt nằm ở bên trong chân trời sự kiện; mà quá trình này được gọi là sự xuyên hầm lượng tử. Thế năng hấp dẫn của lỗ đen có thể cấp năng lượng để biến một hạt ảo nằm bên ngoài chân trời sự kiện trở thành một hạt thực, cho phép nó bật phóng ra vào không gian. Đổi lại, hạt còn lại của cặp mang năng lượng âm và rơi về vùng kì dị lỗ đen, dẫn đến tổng cộng khối lượng−năng lượng của lỗ đen bị giảm đi. Tốc độ bức xạ Hawking tăng tiến khi khối lượng lỗ đen giảm dần, làm cho lỗ đen bốc hơi và cuối cùng là phát nổ.\nTia vũ trụ là những hạt chuyển động trong không gian với năng lượng cao. Các sự kiện năng lượng cao đến cỡ đã được ghi nhận. Khi những hạt này va chạm với các nucleon trong khí quyển Trái Đất, một trận mưa các hạt được tạo ra, bao gồm các pion. Hơn một nửa bức xạ vũ trụ được quan sát trên bề mặt Trái Đất có chứa các muon. Muon là một hạt loại lepton hình thành tại thượng tầng khí quyển sau quá trình phân rã của một pion.\nĐến lượt muon, nó có thể phân rã thành electron hoặc positron.\nQuan sát.\nQuan sát electron từ xa đòi hỏi việc đo được năng lượng bức xạ của chúng. Ví dụ, trong môi trường năng lượng cao như ở vành nhật hoa của một ngôi sao, các electron tự do tạo thành trạng thái plasma phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ Bremsstrahlung. Khí electron có thể biểu hiện dao động plasma, đó là những sóng gây bởi những biến đổi đồng bộ trong mật độ electron, và những sóng này tạo ra phát xạ năng lượng có thể phát hiện được nhờ quan sát qua kính thiên văn vô tuyến.\nTần số của một photon tỷ lệ với năng lượng của nó. Khi một electron liên kết trong nguyên tử chuyển trạng thái giữa các mức năng lượng khác nhau, nó hấp thụ hoặc phát ra photon ở những tần số đặc trưng. Ví dụ, khi chiếu nguồn bức xạ phổ liên tục vào các nguyên tử sẽ xuất hiện các vạch phổ hấp thụ đặc trưng trong quang phổ của bức xạ phản xạ. Mỗi nguyên tố hoặc phân tử thể hiện một lớp đặc trưng các vạch quang phổ, như các vạch quang phổ hydro. Những phép đo lường quang phổ về cường độ và bề rộng của các vạch này cho phép xác định được thành phần và tính chất vật lý của một chất cần xác định.\nTrong điều kiện của phòng thí nghiệm, có thể quan sát tương tác của từng electron đơn lẻ nhờ các máy gia tốc hạt nhân, mà cho phép đo những tính chất cụ thể như năng lượng, spin và điện tích. Nhờ sự phát triển của các kỹ thuật bẫy ion như bẫy Paul và bẫy Penning cho phép giam giữ các hạt mang điện trong một thể tích đủ nhỏ với thời gian dài. Điều này đã cho phép đo lường các tính chất cũng như thao tác lên những hạt này. Ví dụ, bẫy Penning từng được ứng dụng để chứa một electron đơn lẻ trong thời gian 10 tháng. Mômen từ của electron đã được đo với độ chính xác đến 11 chữ số thập phân mà vào năm 1980, độ chính xác này còn lớn hơn độ chính xác đo được của bất kỳ các hằng số vật lý khác.\nBộ phim chụp ảnh đầu tiên về sự phân bố năng lượng của electron đã được thực hiện bởi một đội các nhà vật lý tại Đại học Lund ở Thụy Điển vào tháng 2 năm 2008. Họ đã sử dụng một xung nhịp ánh sáng cực ngắn, hay gọi là các xung atto giây, cho phép lần đầu tiên chụp ảnh được chuyển động của một electron.\nSự phân bố của các electron trong chất rắn có thể được biểu hiện nhờ kỹ thuật chụp quang phổ bức xạ phân giải góc (angle-resolved photoemission spectroscopy, ARPES). Kỹ thuật này ứng dụng hiệu ứng quang điện để đo hàm phân bố không gian giàn tinh thể—một hàm toán học biểu diễn đặc tính cấu trúc tuần hoàn được áp dụng để suy đoán ra cấu trúc ban đầu của tinh thể. ARPES được ứng dụng để xác định hướng, tốc độ và sự tán xạ của các electron bên trong vật liệu.\nCác ứng dụng plasma.\nChùm hạt.\nTrong công nghệ và kỹ thuật, các chùm tia electron đã được ứng dụng để thực hiện hàn bằng chùm electron giữa hai loại vật liệu. Chúng cho phép mật độ năng lượng của chùm tia hàn lên tới 107 W·cm−2 được tập trung trong một hình nón tròn đường kính cỡ mà thường không cần đòi hỏi phải có lớp vật liệu đệm thứ 3. Kỹ thuật hàn này phải được thực hiện trong chân không để tránh các electron va chạm với một trường khí xung quanh trước khi chúng đến được vật liệu cần hàn, và nó có thể được sử dụng để nối các loại vật liệu dẫn điện mà những biện pháp hàn khác không phù hợp để áp dụng.\nQuang khắc chùm điện tử (EBL) là phương pháp tạo các chi tiết bán dẫn ở mức phân giải nhỏ hơn 1 µm. Kỹ thuật này có hạn chế là giá thành cao, tốc độ sản xuất chậm, cần phải vận hành chùm điện tử trong môi trường chân không cao và các electron có xu hướng tán xạ trên bề mặt vật liệu. Độ phân giải tối đa của phương pháp này vào khoảng 10 nm. Vì lý do này, EBL được ứng dụng chủ yếu cho sản xuất một số nhỏ các vi mạch chuyên biệt.\nPhương pháp xử lý chùm điện tử (electron-beam processing, hoặc electron irradiation EBI) được ứng dụng để làm thay đổi các đặc tính của vật liệu hoặc khử trùng trong y học và thực phẩm bằng cách chiếu chùm điện tử vào sản phẩm. Chùm electron hóa lỏng hoặc làm tan chảy thủy tinh mà không gây tăng nhiều nhiệt độ khi thực hiện chiếu với cường độ cao: ví dụ bức xạ electron mạnh gây ra sự giảm độ nhớt ở nhiều bậc độ lớn và làm giảm từng bước năng lượng hoạt hóa của nó.\nCác máy gia tốc quỹ đạo thẳng (linear particle accelerator) tạo ra những chùm electron cho chùm sáng dùng để điều trị các khối u trên bề mặt trong trị liệu bức xạ. Trị liệu điện tử (electron therapy) có thể điều trị các thương tổn ở da như ung thư tế bào đáy bởi vì một chùm electron chỉ có thể thâm nhập xuống một độ sâu nhất định trước khi bị hấp thụ, thường là đến 5 cm đối với electron có năng lượng trong phạm vi 5–20 MeV. Một chùm electron có thể được sử dụng phối hợp với chiếu xạ tia X trong điều trị bệnh.\nCác máy gia tốc hạt sử dụng điện trường để đẩy các electron và phản hạt của chúng lên mức năng lượng cao. Những hạt này phát ra bức xạ đồng bộ khi chúng bay qua từ trường. Cường độ của bức xạ đồng bộ phụ thuộc vào phân cực spin của chùm electron—quá trình được gọi là hiệu ứng Sokolov–Ternov. Các chùm electron phân cực được ứng dụng trong nhiều thí nghiệm khác nhau. Bức xạ synchrotron có thể dùng làm mát chùm electron với mục đích làm giảm sự phân tán động lượng của chùm hạt. Các chùm electron và positron được cho va chạm với nhau trong máy gia tốc khi chúng đạt đến mức năng lượng yêu cầu; các máy dò hạt (particle detector) quan sát năng lượng của bức xạ phát ra, ghi lại những thông tin và tính chất cần nghiên cứu trong vật lý hạt.\nChụp ảnh.\nNhiễu xạ electron năng lượng thấp (Low-energy electron diffraction, LEED) là một phương pháp bắn vào vật liệu có cấu trúc tinh thể bằng một chùm electron chuẩn trực sau đó quan sát hình ảnh nhiễu xạ giúp xác định lên cấu trúc của vật liệu. Năng lượng đòi hỏi của các electron ở những chùm này trong khoảng 20–200 eV. Kỹ thuật phản xạ nhiễu xạ electron năng lượng cao (reflection high-energy electron diffraction, RHEED) sử dụng sự phản xạ của một chùm electron bắn đến với nhiều góc hẹp khác nhau để nghiên cứu đặc trưng bề mặt của vật liệu có cấu trúc tinh thể. Chùm năng lượng thường nằm trong khoảng 8–20 keV và góc bắn electron thường bằng 1–4°.\nKính hiển vi điển tử hoạt động dựa trên nguyên lý tập trung chùm electron vào một mẫu vật. Một số electron sau khi va chạm vào mẫu vật thì bị thay đổi đặc tính, như hướng chuyển động, góc phản xạ và pha tương đối cũng như năng lượng bị giảm đi. Các nhà hiển vi học ghi lại những thay đổi này từ chùm electron để tái tạo ra những bức ảnh về mẫu vật. Trong ánh sáng xanh lam, các kín hiển vi quang học thông thường có giới hạn nhiễu xạ phân giải ở kích thước 200 nm. So sánh với kính hiển vi điện tử, loại này bị giới hạn bởi bước sóng de Broglie của electron. Ví dụ, bước sóng này bằng 0,0037 nm đối với những electron được gia tốc trong điện trường cỡ 100.000 volt. Kính hiển vi truyền điện tử hiệu chỉnh quang sai (Transmission Electron Aberration-Corrected Microscope) có độ phân giải dưới 0,05 nm, đủ để phân biệt được từng nguyên tử. Khả năng này mang lại những lợi thế cho sử dụng kính hiển vi điện tử trong phòng thí nghiệm để chụp các bức ảnh có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử là những thiết bị đắt tiền và tốn nhiều chi phí hoạt động và bảo trì.\nCó hai loại kính hiển vi điện tử: Loại truyền qua và loại quét bề mặt. Kính hiển vi điện tử truyền qua hoạt động giống như một máy chiếu, với một chùm electron được cho chiếu qua một lát vật liệu sau đó nó được hội tụ trên phim âm bản hoặc cảm biến CCD. Kính hiển vi điện tử quét bề mặt dùng chùm electron quét lên bề mặt mẫu vật, giống như hiển thị trên ti vi màn hình ống, để thu được bức ảnh về nó. Độ phóng đại của hai loại kính này vào cỡ 100× đến 1.000.000. Kính hiển vi quét xuyên hầm sử dụng hiệu ứng chui hầm lượng tử của electron từ mũi nhọn của một đầu dò kim loại để nghiên cứu vật liệu và tạo ra bức ảnh bề mặt vật liệu có độ phân giải cao.\nCác ứng dụng khác.\nTrong laser electron tự do (FEL), một chùm electron tương đối tính đi qua dãy các nam châm lưỡng cực (undulator) bị đổi hướng luân phiên do hướng của từ trường tạo bởi dãy các nam châm này. Vì đổi hướng luân phiên như vậy nên các electron phát ra bức xạ synchrotron một cách nhịp nhàng và đều đặn, bức xạ được khuếch đại ở tần số cộng hưởng. FEL có thể phát ra bức xạ điện từ với độ rọi cao trong dải tần số rộng, từ sóng vi ba cho đến tia X mềm. Những thiết bị này được sử dụng trong sản xuất, viễn thông, và trong các ứng dụng y tế, như phẫu thuật các mô mềm.\nỐng tia âm cực chứa electron, mà đã từng được sử dụng thường xuyên cho các màn hình hiển thị tại nhiều thiết bị thí nghiệm, màn hình máy tính và máy truyền hình. Trong một đèn nhân quang điện, mỗi photon va chạm đến âm cực quang khởi tạo ra một luồng các electron để hình thành một xung dòng điện mà bộ dò phát hiện được. Ống điện tử chân không sử dụng luồng các electron để thao tác lên tín hiệu điện, và chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công nghệ điện tử. Tuy nhiên, ngày nay chúng đã bị thay thế bởi các thiết bị bán dẫn như transistor." ]
electron - in - nhit - lng - neutron - thuyt - ht - einstein - proton - quark
1
false
Tích phân là một khái niệm toán học và cùng với nghịch đảo của nó vi phân ("differentiation") đóng vai trò là 2 phép tính cơ bản và chủ chốt trong lĩnh vực giải tích ("calculus"). Có thể hiểu đơn giản tích phân như là diện tích hoặc diện tích tổng quát hóa. Giả sử cần tính diện tích một hình phẳng được bao bởi các đoạn thẳng, ta chỉ việc chia hình đó thành các hình nhỏ đơn giản hơn và đã biết cách tính diện tích như hình tam giác, hình vuông, hình thang, hình chữ nhật... Tiếp theo, xét một hình phức tạp hơn mà nó được bao bởi cả đoạn thẳng lẫn đường cong, ta cũng chia nó thành các hình nhỏ hơn, nhưng bây giờ kết quả có thêm các hình thang cong. Tích phân giúp ta tính được diện tích của hình thang cong đó. Hoặc giải thích bằng toán học như sau: Cho một hàm f của một biến thực x và một miền giá trị thực ["a", "b"]. Như vậy một tích phân xác định ("definite integral") từ a đến b của f(x), ký hiệu là: được định nghĩa là diện tích của một vùng trong không gian phẳng xy được bao bởi đồ thị của hàm f, trục hoành, và các đường thẳng và , sao cho các vùng trên trục hoành sẽ được tính vào tổng diện tích, còn dưới trục hoành sẽ bị trừ vào tổng diện tích. Ta gọi a là cận dưới của tích phân, còn b là cận trên của tích phân. Cho "F"("x") là nguyên hàm của "f"("x") trong ("a", "b"). Khi đó, tích phân bất định ("indefinite integral") được viết như sau: Nhiều định nghĩa tích phân có thể được xây dựng dựa vào lý thuyết độ đo ("measure"). Ví dụ, tích phân Riemann dựa trên độ đo Jordan, còn tích phân Lebesgue dựa trên độ đo Lebesgue. Tích phân Riemann là định nghĩa đơn giản nhất của tích phân và thường xuyên được sử dụng trong vật lý và giải tích cơ bản. Lược sử tích phân. Những phép tính tích phân đầu tiên đã được thực hiện từ cách đây trên 2.100 năm bởi Archimedes (287–212 trước Công nguyên), khi ông tính diện tích bề mặt và thể tích khối của một vài hình như hình cầu, hình parabol và hình nón. Phương pháp tính của Archimedes rất hiện đại dù vào thời ấy chưa có khái niệm về đại số, hàm số hay thậm chí cách viết số dạng thập phân. Tích phân, vi phân và môn toán học của những phép tính này, giải tích, đã chính thức được khám phá bởi Leibniz (1646–1716) và Isaac Newton (1642–1727). Ý tưởng chủ đạo là tích phân và vi phân là hai phép tính nghịch đảo của nhau. Sử dụng mối liên hệ hình thức này, hai nhà toán học đã giải được một số lượng khổng lồ các bài toán quan trọng trong toán học, vật lý và thiên văn học. J. B. Fourier (1768–1830) khi nghiên cứu sự truyền nhiệt đã tìm ra chuỗi các hàm lượng giác có thể dùng để biểu diễn nhiều hàm số khác. Biến đổi Fourier (biến đổi từ hàm số thành chuỗi các hàm lượng giác và ngược lại) và biến đổi tích phân ngày nay được ứng dụng rất rộng rãi không chỉ trong khoa học cơ bản mà cả trong Y học, âm nhạc và ngôn ngữ học. Người đầu tiên lập bảng tra cứu các tích phân tính sẵn là Gauss (1777–1855). Ông đã cùng nhiều nhà toán học khác ứng dụng tích phân vào các bài toán của toán học và vật lý. Cauchy (1789–1857) mở rộng tích phân sang cho số phức. Riemann (1826–1866) và Lebesgue (1875–1941) là những người tiên phong đặt nền tảng lô-gíc vững chắc cho định nghĩa của tích phân. Liouville (1809–1882) xây dựng một phương pháp để tìm xem khi nào tích phân vô định của hàm cơ bản lại là một hàm cơ bản. Hermite (1822–1901) tìm thấy một thuật toán để tính tích phân cho các hàm phân thức. Phương pháp này đã được mở rộng cho các phân thức chứa lô-ga-rít vào những năm 1940 bởi A. M. Ostrowski. Vào những năm trước thời đại máy tính của thế kỷ 20, nhiều lý thuyết giúp tính các tích phân khác nhau đã không ngừng được phát triển và ứng dụng để lập các bảng tra cứu tích phân và biến đổi tích phân. Một số những nhà toán học đóng góp cho công việc này là G. N. Watson, E. C. Titchmarsh, E. W. Barnes, H. Mellin, C. S. Meijer, W. Grobner, N. Hofreiter, A. Erdelyi, L. Lewin, Y. L. Luke, W. Magnus, A. Apelblat, F. Oberhettinger, I. S. Gradshteyn, H. Exton, H. M. Srivastava, A. P. Prudnikov, Ya. A. Brychkov, và O. I. Marichev. Vào năm 1969, R. H. Risch đã đóng góp một phát triển vượt bậc cho các thuật toán tính tích phân vô định bằng công trình của ông về lý thuyết tổng quát và ứng dụng trong tích phân các hàm cơ bản. Phương pháp đã chưa thể được ứng dụng ngay cho mọi hàm cơ bản vì cốt lõi của phương pháp là giải một phương trình vi phân khá khó. Những phát triển tiếp nối của nhiều nhà toán học khác đã giúp giải được phương trình vi phân này cho nhiều dạng hàm cơ bản khác nhau, ngày càng hoàn thiện phương pháp của Risch. Trong những năm 1980 đã có những tiến bộ mở rộng phương pháp này cho cả các hàm không cơ bản đặc biệt. Từ thập niên 1990 trở lại đây, các thuật toán để tính biểu thức tích phân vô định được chuyển giao sang và tối ưu hoá cho tính toán bằng máy tính điện tử. Máy tính đã giúp loại bỏ sai sót con người, tạo nên khả năng tính hàng nghìn tích phân mới chưa bao giờ xuất hiện trong các bảng tra cứu. Một số phần mềm máy tính thương mại có khả năng tính biểu thức tích phân hiện nay là Mathematica, Maple... Thuật ngữ và ký pháp. Đối với trường hợp đơn giản nhất, tích phân của một hàm số thực f(x) trên x, được viết là: Với: Danh sách các tích phân cơ bản. Còn gọi là danh sách của các nguyên hàm của một số hàm số thường gặp. Phân loại tích phân. Tích phân Riemann. Có hai dạng tích phân Riemann, tích phân xác định (có cận trên và cận dưới) và tích phân bất định. Tích phân Riemann xác định của hàm "f"("x") với "x" chạy trong khoảng từ "a" (cận dưới) đến "b" (cận trên) được viết là: Dạng bất định (không có cận) được viết là: Theo định lý cơ bản thứ nhất của giải tích, nếu "F"("x") là tích phân bất định của "f"("x") thì "f"("x") là vi phân của "F"("x"). Tích phân xác định được tính từ tích phân bất định như sau: Còn đối với tích phân bất định, tồn tại cùng lúc nhiều hàm số sai khác nhau bằng hằng số tích phân "C" thoả mãn điều kiện cùng có chung vi phân, bởi vì vi phân của hằng số bằng 0: Ngày nay biểu thức toán học của tích phân bất định có thể được tính cho nhiều hàm số tự động bằng máy tính. Giá trị số của tích phân xác định có thể được tìm bằng các phương pháp số, ngay cả khi biểu thức toán học của tích phân bất định tương ứng không tồn tại. Định lý cơ bản thứ nhất của giải tích được thể hiện ở đẳng thức sau: Tồn tại những hàm số mà tích phân bất định của chúng không thể biểu diễn bằng các hàm toán học cơ bản. Dưới đây là một vài ví dụ: Tích phân Lebesgue. Một hàm formula_17 được gọi là một hàm đơn giản nếu tập ảnh của nó là hữu hạn. Gọi các giá trị của tập ảnh là formula_18 và đặt formula_19, ta có formula_20 trong đó formula_21 là hàm chỉ thị của tập hợp formula_22. Gọi formula_23 là một độ đo không âm trên một không gian độ đo formula_24 và formula_17 là một hàm đơn giản formula_26. Hàm formula_17 là đo được khi và chỉ khi các tập hợp formula_22 là đo được. Tích phân của formula_17 theo độ đo formula_23 trên một tập con đo được formula_31 được định nghĩa là formula_32 Nếu formula_33 là một hàm không âm đo được, ta định nghĩa formula_34. Một hàm formula_33 được gọi là khả tích Lebesgue nếu formula_36. Ký hiệu formula_37 và formula_38. Đây đều là các hàm không âm. Thế thì tích phần của formula_33 là formula_40 Các loại tích phân khác. Ngoài tích phân Riemann và Lebesgue được sử dụng rộng rãi, còn có một số loại tích phân khác như:
21
21_vect_ton_hm_gic
[ "vect", "ton", "hm", "gic", "logarit", "tam", "nu", "formula1", "xc", "tp" ]
[ " \nTam giác hay hình tam giác là một loại hình cơ bản trong hình học: hình hai chiều phẳng có ba đỉnh là ba điểm không thẳng hàng và ba cạnh là ba đoạn thẳng nối các đỉnh với nhau. Tam giác là đa giác có số cạnh ít nhất (3 cạnh). Tam giác luôn luôn là một đa giác đơn và luôn là một đa giác lồi (các góc trong luôn nhỏ hơn 180°). Một tam giác có các cạnh AB, BC và AC được ký hiệu là formula_1.\nTừ nguyên.\nChữ Hán: 三角; nghĩa: \"ba góc\".\nCác yếu tố trong một tam giác.\nCác góc trong một tam giác được gọi là góc trong. Các góc kề bù với góc trong được gọi là góc ngoài. Góc ngoài thì bằng tổng các góc trong không kề bù với nó. Mỗi tam giác chỉ có 3 góc trong và 6 góc ngoài.\nCác đường đồng quy của tam giác.\nĐường cao là một đoạn thẳng đi qua một đỉnh và vuông góc với cạnh đối diện của đỉnh đó. Mỗi tam giác chỉ có ba đường cao. Ba đường cao của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm này được gọi là trực tâm của tam giác. Đường cao đi qua đỉnh góc vuông của một tam giác vuông thì sẽ chia tam giác ấy thành 2 tam giác đồng dạng với và cùng đồng dạng với tam giác đã cho.\nĐường trung tuyến là một đoạn thẳng nối từ đỉnh đến trung điểm của cạnh đối diện. Một tam giác chỉ có ba đường trung tuyến. Ba đường trung tuyến của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm này được gọi là trọng tâm của tam giác. Khoảng cách từ trọng tâm đến mỗi đỉnh bằng formula_2 đường trung tuyến tương ứng với đỉnh đó và suy ra, khoảng cách từ trọng tâm đến mỗi trung điểm bằng formula_3 đường trung tuyến tương ứng với điểm đó. Trên một mặt phẳng, đường thẳng đi qua bất kỳ một đỉnh và trọng tâm của \"tam giác đều\" thì chia tam giác đó thành hai tam giác có diện tích bằng nhau. Trong một tam giác, ba trung tuyến chia tam giác đó thành 6 tam giác có diện tích bằng nhau.\nĐường trung trực của một tam giác là đường vuông góc với một cạnh của tam giác đó tại trung điểm. Mỗi tam giác chỉ có ba đường trung trực. Ba đường trung trực của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm đó có tên gọi là tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác. Tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác cách đều ba đỉnh của tam giác đó.\nĐường phân giác là đoạn thẳng nối từ đỉnh đến cạnh đối diện và chia góc ở đỉnh làm 2 phần có số đo góc bằng nhau. Mỗi tam giác chỉ có ba đường phân giác. Ba đường này đồng quy tại một điểm. Điểm đó có tên gọi là tâm của đường tròn nội tiếp tam giác. Khoảng cách từ tâm của đường tròn nội tiếp tam giác tới các cạnh là bằng nhau. Đường phân giác đi qua một góc của một đinh tam giác thì chia cạnh đối diện của góc đó những đoạn tỉ lệ với hai cạnh còn lại của tam giác.\nTheo định lý Euler: \"Trong một tam giác:\" \"trực tâm, trọng tâm, tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác cùng thuộc một đường thẳng, trọng tâm sẽ nằm giữa trực tâm và tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác, từ trực tâm đến tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác sẽ bằng 3 lần từ trọng tâm đến tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác. Đường thẳng chứa ba điểm đó được gọi là đường thẳng Euler.\"\nSự bằng nhau giữa các tam giác.\nHai tam giác được gọi là bằng nhau khi chúng có thể đặt trùng khít lên nhau sau một số phép tịnh tiến, quay và đối xứng. Nói cách khác hai tam giác được gọi là bằng nhau nếu chúng có các cạnh tương ứng bằng nhau và các góc tương ứng bằng nhau. Hai tam giác bằng nhau khi và chỉ khi thỏa mãn một trong bảy điều kiện sau đây:\nSự đồng dạng giữa các tam giác.\nHai tam giác được gọi là đồng dạng nếu một trong chúng bằng với một tam giác nhận được từ tam giác kia sau một phép vị tự. Các điều kiện cần và đủ để hai tam giác đồng dạng:\nCác tính chất của tam giác đồng dạng:\nTỉ số đồng dạng của hai tam giác là tỷ số giữa hai cạnh tương ứng bất của hai tam giác đó khi chúng đồng dạng\nPhân loại tam giác.\nTrong hình học Euclid, thuật ngữ \"tam giác\" thường được hiểu là tam giác nằm trên một mặt phẳng. Ngoài ra còn có tam giác cầu trong hình học cầu, tam giác hyperbol trong hình học hyperbol. Tam giác phẳng có một số dạng đặc biệt, được xét theo tính chất các cạnh và các góc của nó:\nMột số tính chất của tam giác (trong hình học Euclid).\nTrong hình học phi Euclid thì một tam giác có thể có tổng ba góc phụ thuộc vào kích thước của tam giác, khi kích thước tam giác gia tăng thì tổng đó tiến tới giá trị là 0 và có diện tích là vô hạn.\nCác công thức tính diện tích tam giác.\nTính diện tích tam giác là một bài toán cơ bản thường được gặp trong hình học sơ cấp.\nBằng cách sử dụng hình học.\nDiện tích \"S\" bằng \"½bh\", trong đó \"b\" là độ dài của một cạnh bất kỳ của tam giác (thường gọi là \"đáy\") và \"h\" là độ dài đường cao hạ từ đỉnh đối diện xuống cạnh ấy.\nCó thể giải thích công thức này bằng cách dùng diện tích hình chữ nhật như sau:\nTừ một tam giác (màu xanh lục), ta sẽ sao một tam giác bằng nó,(màu xanh lam), quay góc 180°, và ghép chúng thành hình bình hành. Cắt một phần của hình bình hành, ghép lại thành hình chữ nhật. Vì diện tích hình chữ nhật là \"bh\", nên diện tích tam giác là ½\"bh\".\nNói cách khác, diện tích tam giác bằng độ dài cạnh đáy nhân với chiều cao chia 2:\nBằng phương pháp dùng tọa độ.\nNếu đỉnh A đặt ở gốc tọa độ (0, 0) của hệ tọa độ Descartes và tọa độ của hai đỉnh kia là B = (\"x\"B, \"y\"B) và C = (\"x\"C, \"y\"C), thì diện tích \"S\" của tam giác ABC bằng một nửa của giá trị tuyệt đối của định thức\nTrong trường hợp tổng quát, ta có:\nTrong không gian ba chiều, diện tích của tam giác cho bởi {A = (\"x\"A, \"y\"A, \"z\"A), B = (\"x\"B, \"y\"B, \"z\"B) và C = (\"x\"C, \"y\"C, \"z\"C)} là tổng 'Pythagor' của các diện tích các hình chiếu của chúng trên các mặt phẳng tọa độ (nghĩa là \"x\"=0, \"y\"=0 and \"z\"=0):\nÁp dụng công thức Heron.\nCũng có thể tính diện tích tam giác \"S\" theo Công thức Heron: formula_9\ntrong đó formula_10 là nửa chu vi của tam giác.\nNhững nguyên tắc cơ bản.\nEuclid đã trình bày các nguyên tắc cơ bản về tam giác trong tập 1 đến tập 4 tác phẩm Cơ sở (\"Elements\") của ông, viết khoảng năm 300 TCN.\nTam giác là một đa giác và đơn hình bậc 2 (\"xem đa diện\").\nHai tam giác là đồng dạng nếu có thể khai triển (co hay giãn) tam giác này theo cùng một tỷ lệ để có tam giác kia. Trường hợp này, độ dài của những bên đồng vị có tỷ lệ bằng nhau. Tức là hai tam giác đồng dạng với nhau, nếu cạnh lớn nhất của tam giác này gấp bao nhiêu lần cạnh lớn nhất của tam giác kia, thì cạnh bé nhất của tam giác này cũng gấp bấy nhiêu lần cạnh bé nhất của tam giác kia và tương tự với cạnh còn lại.\nHơn nữa, tỷ lệ cạnh dài trên cạnh ngắn của một tam giác sẽ phải bằng tỷ lệ cạnh dài trên cạnh ngắn của tam giác kia. Điều quan trọng là những góc đồng vị phải bằng nhau để hai tam giác được đồng dạng nhau. Việc này cũng xảy ra nếu một tam giác có một cạnh chung với tam giác kia, và những cạnh đối với nó thì bằng nhau.\nHàm lượng giác sin và cosin có thể hiểu được khi dùng tam giác vuông và khái niệm đồng dạng. Đó là hai hàm của góc được nghiên cứu bởi lượng giác học.\nNhững định lý nổi tiếng được áp dụng trong tam giác.\nMột số định lý nổi tiếng có liên quan đến tam giác là:\nCác công trình kiến trúc sử dụng hình tam giác.\nHiện nay, hình chữ nhật là một dạng hình học phổ biến và phổ biến nhất cho các công trình vì hình dạng dễ xếp chồng và sắp xếp, thật dễ dàng để thiết kế đồ nội thất và đồ đạc để phù hợp với bên trong các tòa nhà hình chữ nhật. Hình tam giác, trong khi khó sử dụng hơn về mặt khái niệm nhưng nó cung cấp rất nhiều sức mạnh cho chúng ta. Khi công nghệ máy tính giúp các kiến ​​trúc sư thiết kế các tòa nhà mới sáng tạo, hình dạng tam giác ngày càng trở nên phổ biến như là một phần của các công trình và là hình dạng chính cho một số loại nhà cao tầng cũng như các vật liệu xây dựng, đồ dùng nội thất. Năm 1989 tại Tokyo, Nhật Bản, các kiến ​​trúc sư đã tự hỏi liệu có thể xây dựng một tòa tháp với hơn 500 tầng để cung cấp không gian văn phòng giá cả phải chăng cho thành phố đông đúc như thế này hay không. Nhưng sự nguy hiểm đối với các tòa nhà từ trận động đất, các kiến ​​trúc sư cho rằng hình dạng tam giác sẽ là cần thiết, và như vậy một tòa nhà hình tam giác đã được xây dựng.\nTại thành phố New York, khi đi qua các đại lộ lớn, ta có thể nhìn thấy nhiều các công trình lớn xây dựng theo hình lăng trụ đứng có đáy là tam giác. Ví dụ điển hình như vậy là Tòa nhà Flatiron hình tam giác mà mọi người thừa nhận có một \"không gian thật không dễ để chứa đồ nội thất văn phòng hiện đại\" nhưng điều đó không ngăn cản công trình trở thành một biểu tượng mang tính bước ngoặt. Các nhà thiết kế đã làm nhà ở Na Uy bằng cách sử dụng các chủ đề hình tam giác. Hình dạng tam giác cũng đã xuất hiện trong nhà thờ cũng như các tòa nhà công cộng bao gồm các trường đại học cũng như hỗ trợ cho các mẫu thiết kế nhà sáng tạo hơn nữa.\nCấu trúc của một hình tam giác rất chắc chắn, trong khi đó cấu trúc của một hình chữ nhật có thể bị bẻ nghiêng thành hình bình hành từ áp suất đến những điểm trong nó, hình tam giác có sức mạnh tự nhiên hỗ trợ các cấu trúc chống lại các áp lực bên. Một hình tam giác sẽ không bao giờ thay đổi hình dạng trừ khi các cạnh của nó bị uốn cong, mở rộng hoặc gãy hoặc nếu các khớp của nó bị gãy. Về bản chất, mỗi một cạnh trong tam giác đều hỗ trợ cho hai cạnh còn lại. Một hình chữ nhật, ngược lại, phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh của các khớp theo nghĩa cấu trúc. Một số nhà thiết kế sáng tạo đã đề xuất làm cho gạch không chỉ có hình dạng chữ nhật, và với hình dạng tam giác có thể được kết hợp theo ba chiều. Rất có khả năng các hình tam giác sẽ được sử dụng ngày càng nhiều theo những cách mới khi kiến ​​trúc tăng độ phức tạp. Điều quan trọng cần nhớ là hình tam giác rất mạnh về độ cứng, nhưng trong khi được sắp xếp theo hình tam giác sắp xếp không mạnh như hình lục giác khi bị (do đó sự phổ biến của các hình lục giác trong tự nhiên).", "Trong toán học, một phép biến đổi tuyến tính (còn được gọi là toán tử tuyến tính hoặc là ánh xạ tuyến tính) là một ánh xạ formula_1 giữa hai mô đun (cụ thể, hai không gian vectơ) mà bảo toàn được các thao tác cộng và nhân vô hướng vectơ. Nói một cách khác, nó bảo toàn tổ hợp tuyến tính. Nếu ánh xạ tuyến tính là một song ánh thì nó được gọi là đẳng cấu tuyến tính.\nMột trường hợp quan trọng là khi formula_2, khi đó ánh xạ tuyến tính được gọi là một tự đồng cấu (tuyến tính) trong formula_3. Đôi khi thuật ngữ toán tử tuyến tính chỉ ánh xạ trong trường hợp này, nhưng nó có thể mang ý nghĩa khác tùy theo các quy ước: ví dụ, thuật ngữ này có thể được dùng để nhấn mạnh rằng formula_3 và formula_5 là các không gian vectơ thực (không nhất thiết là formula_2), hay để nhấn mạnh rằng formula_3 là một không gian hàm (đây là một quy ước thông thường trong giải tích hàm). Đôi khi thuật ngữ \"hàm tuyến tính\" cũng mang nghĩa là \"ánh xạ tuyến tính\", nhưng không phải trong hình học giải tích.\nMột biến đổi tuyến tính từ \"V\" vào \"W\" luôn ánh xạ gốc tọa độ của \"V\" tới gốc tọa độ của \"W\". Hơn nữa, nó luôn là ánh xạ từ một không gian con (tuyến tính) vào một không gian con (có thể với số chiều khác nhau); ví dụ, ánh xạ từ một mặt phẳng qua gốc tọa độ trong \"V\" vào một mặt phẳng qua gốc tọa độ trong \"W\", hoặc tới một đường thẳng đi qua gốc tọa độ trong \"W,\" hoặc chỉ tới điểm gốc tọa độ của \"W\". Ánh xạ tuyến tính có thể được biểu diễn bởi các ma trận, các ví dụ đơn giản là các ma trận của các phép biến đổi tuyến tính quay và phản xạ.\nTrong ngôn ngữ của đại số trừu tượng, một phép biến đổi tuyến tính là một đồng cấu giữa các mô đun. Trong ngôn ngữ của lý thuyết phạm trù, nó là một cấu xạ trong phạm trù các mô đun trên một vành đã cho.\nĐịnh nghĩa và các hệ quả đầu tiên.\nMột cách chính thức, nếu \"formula_3\" và \"formula_5\" là các không gian vectơ trên cùng một trường \"formula_10\", chúng ta nói rằng ánh xạ formula_11 là một (phép) biến đổi tuyến tính nếu cho bất kỳ hai vectơ formula_12 và bất kỳ vô hướng formula_13, chúng ta có\nĐiều này có ý nghĩa tương đương với khẳng định formula_14 \"bảo toàn tổ hợp tuyến tính\", có nghĩa là không quan trọng là ánh xạ được áp dụng trước (vế phải ở các đẳng thức trên) hay sau (vế trái) khi thực hiện các phép toán cộng và nhân vô hướng.\nCho bất kỳ các vectơ formula_15 và các vô hướng formula_16 bởi tính kết hợp của phép cộng chúng ta có\nKý hiệu các phần tử không của các không gian vectơ formula_3 và formula_5 tương ứng là formula_20 và formula_21, ta suy ra formula_22\nCho formula_23 và formula_24 trong phương trình của tính thuần nhất bậc 1:\nThông thường, formula_3 và formula_5 có thể xem như là các không gian vectơ trên các trường khác nhau, và khi đó điều quan trọng là xác định trường nào được dùng cho định nghĩa \"tuyến tính\". Nếu formula_3 và formula_5 là các không gian trên trường formula_10 như xác định ở trên, chúng ta nói về formula_10-ánh xạ tuyến tính. Ví dụ, phép lấy liên hợp của một số phức là một formula_32-ánh xạ tuyến tính formula_33, nhưng nó không phải là formula_34-tuyến tính, trong đó các trường formula_32 và formula_34 tương ứng là các trường số thực và số phức.\nMột ánh xạ tuyến tính formula_37 với trường formula_10 được xem như là một không gian vectơ 1 chiều trên chính nó được gọi là một phiếm hàm tuyến tính.\nCác mệnh đề trên đây có thể được tổng quát hóa đối với một mô đun trái bất kỳ formula_39 trên một vành formula_40 mà không cần sửa lại, và đối với một mô đun phải bất kỳ nhưng phải đổi thứ tự của phép nhân vô hướng.\nMa trận.\nNếu \"formula_3\" và \"formula_5\" là các không gian vectơ hữu hạn chiều và một cơ sở được xác định cho mỗi không gian vectơ, thì mọi ánh xạ tuyến tính từ \"formula_3\" vào \"formula_5\" có thể được biểu diễn bởi một ma trận. Điều này hữu ích vì nó cho phép tính toán các ánh xạ một cách cụ thể. Các ma trận chính là các ví dụ của ánh xạ tuyến tính: Nếu \"formula_48\" là ma trận thực formula_49, thì formula_78 mô tả một ánh xạ tuyến tính formula_79 (xem không gian Euclid).\nCho \"formula_80\" là một cơ sở của . Vậy thì mỗi vectơ \"formula_81\" được xác định duy nhất bởi các hệ số (tọa độ) \"formula_82\"trong trường formula_51:\nNếu formula_55 là một ánh xạ tuyến tính thì ta có\ntừ điều này suy ra rằng hàm \"formula_57\" hoàn toàn được xác định bởi các vectơ \"formula_88\". Ta có \"formula_89\" là một cơ sở của \"formula_5\". Vậy thì ta có thể biểu diễn từng vectơ \"formula_91\" dưới dạng\nVì vậy, biến đổi \"formula_57\" hoàn toàn được xác định bởi các giá trị \"formula_94\". Nếu ta đặt các giá trị này vào một ma trận \"formula_95\" với kích thước formula_49, thì ta có thể sử dụng để tính toán một cách thuận tiện vectơ đầu ra của \"formula_57\" cho một vectơ bất kỳ trong \"formula_3\". Để xây dựng \"formula_95\", mỗi cột \"formula_100\" của \"formula_95\" là một vectơ\ntương ứng với \"formula_91\" được định nghĩa như trên. Để định nghĩa một cách rõ ràng hơn, đối với một cột \"formula_100\" tương ứng với ánh xạ \"formula_91\"thì\ntrong đó formula_95 là ma trận của biến đổi \"formula_57\". Nói cách khác, ở mỗi cột \"formula_109\" có một vectơ tương ứng \"formula_91\"với tọa độ formula_111 là các phần tử của cột \"formula_100\". Một ánh xạ tuyến tính có thể được biểu diễn bởi nhiều ma trận. Điều này là bởi các giá trị của các phần tử trong một ma trận phụ thuộc vào cơ sở được chọn.\nVí dụ của ma trận biến đổi tuyến tính.\nTrong không gian hai chiều R2 các ánh xạ tuyến tính được biểu diễn bởi các ma trận thực 2 × 2. Dưới đây là một số ví dụ:\nKhông gian các ánh xạ tuyến tính.\nÁnh xạ hợp của các ánh xạ tuyến tính cũng là ánh xạ tuyến tính: nếu các ánh xạ và là tuyến tính, thì ánh xạ hợp formula_122 cũng vậy. Từ đây suy ra rằng lớp các không gian vectơ trên một trường cho trước \"K\", cùng với các \"K\"-ánh xạ tuyến tính là các cấu xạ, tạo thành một phạm trù.\nÁnh xạ ngược của một ánh xạ tuyến tính nếu tồn tại cũng là tuyến tính.\nNếu formula_123 và formula_124 là tuyến tính, thì hàm tổng của chúng formula_125 cũng tuyến tính, được định nghĩa là formula_126.\nNếu formula_55 là tuyến tính và \"formula_128\" là một phần tử của trường bên dưới \"formula_129\", thì ánh xạ \"formula_130\", định nghĩa bởi \"formula_131\" cũng là tuyến tính.\nVì thế tập hợp \"formula_132\" gồm các ánh xạ tuyến tính từ \"formula_133\" vào \"formula_134\" cũng là một không gian vectơ trên trường \"formula_129\", đôi khi ký hiệu là \"formula_136\". Hơn nữa, trong trường hợp \"formula_137\" thì không gian này, ký hiệu \"formula_138\", là một đại số kết hợp dưới phép hợp ánh xạ, vì hợp của hai ánh xạ tuyến tính cũng là một ánh xạ tuyến tính, và phép hợp ánh xạ có tính kết hợp. Trường hợp này được nói cụ thể hơn ở dưới.\nTrong trường hợp hữu hạn chiều, nếu các cơ sở đã được chọn trước thì phép hợp các ánh xạ tuyến tính tương ứng với phép nhân ma trận, phép cộng các ánh xạ tuyến tính tương ứng với phép cộng ma trận, và phép nhân vô hướng các ánh xạ tuyến tính tương ứng với phép nhân ma trận với vô hướng.\nTự đồng cấu, tự đẳng cấu.\nMột biến đổi tuyến tính formula_139 là một tự đồng cấu trên \"formula_133\"; tập hợp các tự đồng cấu \"formula_138\" cùng với phép cộng, phép hợp và phép nhân vô hướng được định nghĩa như trên tạo thành một đại số kết hợp có đơn vị trên trường \"formula_129\" (và cụ thể hơn là một vành). Phần tử đơn vị phép nhân của đại số này là ánh xạ đồng nhất formula_143.\nMột tự đồng cấu trên \"formula_133\" mà đồng thời cũng là một đẳng cấu được gọi là một tự đẳng cấu trên \"formula_133\". Hợp của hai tự đẳng cấu cũng là một tự đẳng cấu, và tập hợp các tự đẳng cấu trên \"formula_133\" tạo thành một nhóm gọi là nhóm các tự đẳng cấu trên \"formula_133\" và được ký hiệu là \"formula_148\" hay \"formula_149\". Vì các tự đẳng cấu cũng chính là các tự đồng cấu có ánh xạ ngược dưới phép hợp ánh xạ nên \"formula_148\" là nhóm các đơn vị trên vành \"formula_138\".\nNếu \"formula_133\" có số chiều hữu hạn \"formula_153\", thì \"formula_138\" đẳng cấu với đại số kết hợp gồm các ma trận vuông \"formula_155\" với các phần tử trong \"formula_129\". Nhóm các tự đẳng cấu trên \"formula_133\" đẳng cấu với nhóm tuyến tính tổng quát \"formula_158\" gồm các ma trận khả nghịch \"formula_155\" với các phần tử trong \"formula_129\".\nHạt nhân, ảnh và định lý về hạng.\n Nếu biến đổi formula_161 là tuyến tính, ta định nghĩa hạt nhân của \"formula_57\" ký hiệu formula_163, ảnh của \"formula_57\" và hạng của \"formula_57\" như sau:\nformula_163 là một không gian con của formula_3 và formula_170 là không gian con của formula_5. Công thức sau đây được xem là định lý về số chiều:\nSố formula_173 cũng được gọi là \"hạng của \"formula_57 ký hiệu là formula_175, hoặc formula_176; còn số formula_177 được gọi là \"số vô hiệu (nullity) của \"formula_57 và ký hiệu là formula_179 hay formula_180. Nếu formula_3 và formula_5 là hữu hạn chiều, và \"formula_57\" được biểu diễn bởi ma trận formula_48, thì hạng và số vô hiệu của \"formula_57\" tương ứng bằng hạng và số vô hiệu của ma trận formula_48.\nPhân loại đại số của các biến đổi tuyến tính.\nKhông có cách phân loại các biến đổi tuyến tính nào là triệt để. Sau đây là một số phân loại đặc biệt mà không xét bất kỳ cấu trúc bổ sung nào trên không gian vectơ.\nCho formula_3 và formula_5 là các không gian vectơ trên một trường formula_189 và cho formula_190 là một ánh xạ tuyến tính.\nĐịnh nghĩa: formula_191 được gọi là \"biến đổi đơn ánh\" hay là một \"đơn cấu\" không gian vectơ nếu một trong số các điều kiện tương đương sau đây được thỏa mãn:\nĐịnh nghĩa: formula_191 được gọi là \"biến đổi toàn ánh\" hay một \"toàn cấu\" không gian vectơ nếu một trong các điều kiện tương đương sau đây được thỏa mãn:\nĐịnh nghĩa: formula_191 được gọi là một \"đẳng cấu\" nếu nó đồng thời là khả nghịch trái và là khả nghịch phải. Điều này là tương đương với formula_191 đồng thời là đơn ánh và là toàn ánh (tức là một song ánh) hay formula_191 đồng thời là một đơn cấu và là một toàn cấu.\nCho formula_221 gọi là một tự đồng cấu, ta có:\nChuyển cơ sở.\nCho một ánh xạ tuyến tính và là một tự đồng cấu có biểu diễn ma trận là \"A\", đối với cùng một cơ sở \"B\" của không gian, \"A\" biến đổi tọa độ vectơ [u] thành [v] = \"A\"[u]. Khi chuyển từ một cơ sở khác sang \"B\" ta thực hiện biến đổi [v] = \"B\"[v'].\nThay vào biểu thức thứ nhất ta được\nsuy ra\nVì vậy, ma trận của biến đổi ấy trong cơ sở kia là \"A′\" = \"B\"−1\"AB\", trong đó \"B\" là ma trận của cơ sở đã cho. Hai ma trận \"A\" và \"A\"' được gọi là hai ma trận đồng dạng.\nỨng dụng.\nMột ứng dụng cụ thể của ánh xạ tuyến tính là cho các biến đổi hình học, ví dụ như trong đồ họa máy tính, khi các phép di chuyển tịnh tiến, quay và phóng tỉ lệ một đối tượng 2D hoặc 3D được thực hiện nhờ sử dụng một ma trận biến đổi. Các ánh xạ tuyến tính cũng được sử dụng như một cơ chế để mô tả sự thay đổi: như trong giải tích ứng với đạo hàm; hay trong thuyết tương đối, được dùng như một phương tiện để theo dõi các biến đổi cục bộ trong các hệ quy chiếu.\nMột ứng dụng khác của các biến đổi tuyến tính là trong việc tối ưu hóa trình biên dịch đối với các đoạn mã lồng nhau, và trong việc song song hóa kỹ thuật biên dịch.", "Số nguyên tố là số tự nhiên lớn hơn 1 không phải là tích của hai số tự nhiên nhỏ hơn. Nói cách khác, số nguyên tố là những số chỉ có đúng hai ước số là 1 và chính nó. Các số tự nhiên lớn hơn 1 không phải là số nguyên tố được gọi là hợp số. Chẳng hạn, 5 là số nguyên tố bởi vì cách duy nhất để viết nó dưới dạng một tích, hoặc , có một thừa số là chính số 5. Tuy nhiên, 6 là hợp số vì nó là tích của hai số () mà cả hai số đều nhỏ hơn 6. Số nguyên tố là nội dung trọng tâm trong lý thuyết số theo định lý cơ bản của số học: mọi số tự nhiên lớn hơn 1 hoặc là số nguyên tố hoặc có thể được phân tích ra thừa số nguyên tố một cách duy nhất xê xích một phép hoán vị.\nTính chất nguyên tố của một số được gọi là tính nguyên tố. Một phương pháp đơn giản để kiểm tra tính nguyên tố của một số formula_1, được gọi là giải thuật chia thử, kiểm tra xem formula_1 có phải là bội số của bất kỳ số nguyên nào giữa 2 và formula_3 hay không. Một số thuật toán khác bao gồm phép kiểm tra Miller–Rabin, tuy nhanh nhưng có xác suất nhỏ cho kết quả sai và phép kiểm tra tính nguyên tố AKS, vốn luôn cho lời giải đúng trong khoảng thời gian đa thức nhưng quá chậm để áp dụng trong thực tế. Ngoài ra, còn có một số thuật toán nhanh dành cho các số có dạng đặc biệt, chẳng hạn như số nguyên tố Mersenne. Đến nay, số nguyên tố lớn nhất đã biết là một số nguyên tố Mersenne có 24.862.048 chữ số, được khám phá vào tháng 12 năm 2018.\nCó vô số số nguyên tố, như đã được Euclid chứng minh vào khoảng năm 300 TCN. Hầu như không có công thức đơn giản nào để phân biệt số nguyên tố và hợp số. Tuy nhiên, sự phân phối các số nguyên tố trong tập hợp các số tự nhiên có trong một khoảng giá trị lớn có thể được mô hình hóa theo thống kê. Kết quả đầu tiên theo hướng đó là định lý số nguyên tố, được chứng minh vào cuối thế kỷ 19, cho rằng xác suất để một số bất kỳ là số nguyên tố tỉ lệ nghịch với số chữ số của nó, nghĩa là với logarit của nó.\nMột số bài toán lịch sử liên quan đến số nguyên tố vẫn chưa có lời giải. Chúng bao gồm giả thuyết Goldbach, cho rằng mọi số nguyên chẵn lớn hơn 2 có thể được biểu diễn thành tổng của hai số nguyên tố, và phỏng đoán về số nguyên tố sinh đôi, cho rằng có vô số cặp số nguyên tố chỉ có một số chẵn giữa chúng. Những bài toán như thế đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều nhánh trong lý thuyết số tập trung vào khía cạnh đại số và giải tích của các số. Số nguyên tố cũng có ứng dụng trong một số lĩnh vực của công nghệ thông tin, chẳng hạn như mật mã hóa khóa công khai, dựa vào sự phức tạp trong việc phân tích các số nguyên lớn ra thừa số nguyên tố. Trong đại số trừu tượng, còn có một số đối tượng khác có đặc điểm và tính chất giống với số nguyên tố, trong đó gồm phần tử nguyên tố và i-đê-an nguyên tố.\nĐịnh nghĩa và ví dụ.\nMột số tự nhiên (1, 2, 3, 4, 5, 6...) được gọi là \"số nguyên tố\" nếu nó lớn hơn 1 và không thể được biểu diễn thành tích của hai số tự nhiên nhỏ hơn khác 1. Các số lớn hơn 1 không phải là số nguyên tố được gọi là hợp số. Nói cách khác, formula_1 là số nguyên tố nếu formula_1 vật không thể chia đều thành nhiều nhóm nhỏ gồm nhiều hơn một vật, hoặc formula_1 dấu chấm không thể được sắp xếp thành một hình chữ nhật có chiều dài và chiều rộng nhiều hơn một dấu chấm. Chẳng hạn, trong các số từ 1 đến 6, số 2, 3 và 5 là số nguyên tố vì không có số nào khác có thể chia hết được chúng (số dư bằng 0). 1 không phải là số nguyên tố vì nó đã được loại trừ ra khỏi định nghĩa. và đều là hợp số.\nƯớc số của một số tự nhiên formula_1 là các số tự nhiên có thể chia hết được formula_1. Mọi số tự nhiên đều có ít nhất hai ước số là 1 và chính nó. Nếu nó còn có thêm một ước số khác thì nó không thể là số nguyên tố. Từ ý tưởng đó mà ta có một định nghĩa khác về số nguyên tố: đó là những số chỉ có đúng hai ước số dương là 1 và chính nó. Ngoài ra, còn có một cách diễn đạt khác nữa: formula_1 là số nguyên tố nếu nó lớn hơn 1 và không có số nào trong các số formula_10 có thể chia hết được nó.\n25 số nguyên tố đầu tiên (tất cả các số nguyên tố nhỏ hơn 100) là:\nKhông có số chẵn formula_1 lớn hơn 2 nào là số nguyên tố vì một số chẵn bất kỳ có thể được biểu diễn thành formula_12. Do đó, số 2 là \"số nguyên tố chẵn\" duy nhất; tất cả số nguyên tố ngoài số 2 là số lẻ và được gọi là \"số nguyên tố lẻ\". Tương tự, khi được viết trong hệ thập phân, tất cả số nguyên tố lớn hơn 5 đều có tận cùng là 1, 3, 7 hoặc 9. Các số có tận cùng là chữ số khác đều là hợp số: số có tận cùng là 0, 2, 4, 6 hoặc 8 là số chẵn, và số có tận cùng là 0 hoặc 5 thì chia hết cho 5.\nTập hợp các số nguyên tố được ký hiệu là formula_13 (chữ \"P\" viết hoa, in đậm) hoặc formula_14 (chữ \"P\" viết hoa, in đậm bảng đen).\nLịch sử.\nCuộn giấy Rhind (từ khoảng năm 1550 trước Công nguyên) có chứa các khai triển phân số Ai Cập theo nhiều dạng khác nhau cho số nguyên tố và hợp số. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu cụ thể về số nguyên tố được lưu lại sớm nhất đến từ toán học Hy Lạp cổ đại. Bộ \"Cơ sở\" của Euclid (khoảng 300 TCN) có phần chứng minh sự tồn tại vô số số nguyên tố và định lý cơ bản của số học, đồng thời nêu cách tạo ra một số hoàn thiện từ số nguyên tố Mersenne. Một phát minh khác từ Hy Lạp là sàng Eratosthenes vẫn còn được dùng để lập danh sách các số nguyên tố.\nKhoảng năm 1000, nhà toán học Hồi giáo Ibn al-Haytham (Alhazen) tìm ra định lý Wilson, xác định số nguyên tố là các số formula_1 chia hết formula_16. Ông cũng phỏng đoán rằng tất cả số hoàn thiện chẵn đều có thể được tạo ra từ số Mersenne theo cách xây dựng của Euclid, nhưng không chứng minh được. Một nhà toán học Hồi giáo khác, Ibn al-Banna' al-Marrakushi tìm ra rằng sàng Eratosthenes có thể được đẩy nhanh khi chỉ kiểm tra các ước số lớn đến căn bậc hai của số lớn nhất được kiểm tra. Fibonacci sau đó đã mang những ý tưởng mới này từ toán học Hồi giáo về châu Âu. Cuốn \"Liber Abaci\" (1202) của ông là cuốn sách đầu tiên mô tả phép chia thử để kiểm tra tính nguyên tố chỉ bằng việc kiểm tra các ước số lớn đến căn bậc hai của số cần kiểm tra.\nNăm 1640, Pierre de Fermat phát biểu định lý nhỏ Fermat (về sau được Leibniz và Euler chứng minh). Fermat cũng đã nghiên cứu và kiểm tra tính nguyên tố của số Fermat formula_17, và Marin Mersenne nghiên cứu số nguyên tố Mersenne, số nguyên tố có dạng formula_18 với formula_19 cũng là số nguyên tố. Trong thư gửi Euler năm 1742, Christian Goldbach đã phát biểu giả thuyết Goldbach cho rằng mọi số chẵn đều là tổng của hai số nguyên tố. Euler chứng minh được giả thuyết của Alhazen (về sau gọi là định lý Euclid–Euler) rằng mọi số hoàn thiện chẵn có thể được tạo ra từ số nguyên tố Mersenne. Ông cũng giới thiệu các phương pháp được ứng dụng từ giải tích toán học trong lĩnh vực này khi chứng minh sự tồn tại vô số số nguyên tố và tính phân kỳ của tổng nghịch đảo các số nguyên tố formula_20. Đầu thế kỷ 19, Legendre và Gauss đưa ra phỏng đoán rằng khi formula_21 tiến về vô hạn thì số lượng số nguyên tố nhỏ hơn hoặc bằng formula_21 tiệm cận về formula_23 với formula_24 là logarit tự nhiên của formula_21. Một hệ quả yếu hơn từ kết quả về mật độ số nguyên tố nói trên là định đề Bertrand rằng với một số nguyên formula_26 bất kỳ thì tồn tại một số nguyên tố nằm giữa formula_1 và formula_28, được Pafnuty Chebyshev chứng minh vào năm 1852. Ý tưởng của Bernhard Riemann trong bài báo năm 1859 về hàm zeta của mình đã góp phần vạch ra hướng đi để chứng minh phỏng đoán đó. Mặc dù một phỏng đoán liên quan là giả thuyết Riemann vẫn chưa có lời giải, đại cương của Riemann đã được hoàn thành vào năm 1896 bởi Hadamard và de la Vallée Poussin và kết quả này hiện được biết đến với tên gọi định lý số nguyên tố. Một thành tựu quan trọng khác trong thế kỷ 19 là định lý Dirichlet về cấp số cộng cho rằng một cấp số cộng nhất định chứa vô số số nguyên tố.\nNhiều nhà toán học đã nghiên cứu các thuật toán kiểm tra tính nguyên tố với các số lớn hơn so với các số mà giải thuật chia thử có thể áp dụng được. Các thuật toán giới hạn về một dạng số cụ thể bao gồm kiểm tra Pépin cho số Fermat (1877), định lý Proth (khoảng 1878), kiểm tra Lucas–Lehmer (1856) và dạng tổng quát của nó, kiểm tra Lucas.\nTừ năm 1951, tất cả các số nguyên tố lớn nhất đã biết đều được tìm ra thông qua các thuật toán trên máy tính. Công cuộc tìm ra số nguyên tố lớn hơn thế đã gây chú ý ngoài phạm vi toán học với dự án Great Internet Mersenne Prime Search và nhiều dự án điện toán phân tán khác. Quan niệm rằng số nguyên tố ít được ứng dụng ngoài toán học thuần túy đã bị xóa bỏ vào những năm 1970 khi mật mã hóa khóa công khai và mã hóa RSA được phát minh dựa trên số nguyên tố.\nTầm quan trọng ngày càng lớn của việc kiểm tra tính nguyên tố và phân tích số nguyên tố trên máy tính dẫn đến sự phát triển của nhiều thuật toán khác có thể thực hiện được với các số rất lớn không thuộc bất kỳ dạng đặc biệt nào. Lý thuyết toán học về số nguyên tố cũng tiếp tục phát triển trong thời kỳ hiện đại với định lý Green–Tao (2004) phát biểu rằng tồn tại các cấp số cộng dài bất kỳ chỉ chứa số nguyên tố, và chứng minh của Yitang Zhang năm 2013 rằng tồn tại vô số khoảng cách số nguyên tố với kích thước giới hạn.\nTính nguyên tố của số 1.\nĐa số nhà toán học Hy Lạp cổ không cho rằng 1 là một số nên họ không thể xét được tính nguyên tố của nó. Một số nhà toán học thời điểm đó cũng cho rằng số nguyên tố có được từ sự chia nhỏ các số lẻ nên họ không xem số 2 là số nguyên tố. Tuy nhiên, Euclid và đa số nhà toán học Hy Lạp cổ xem 2 là số nguyên tố. Các nhà toán học Hồi giáo cũng nối tiếp theo Hy Lạp, không công nhận 1 là một số. Đến thời Trung Cổ và Phục Hưng, các nhà toán học bắt đầu thừa nhận 1 là một số, và một vài trong số đó cho rằng số 1 là số nguyên tố đầu tiên. Giữa thế kỷ 18, Christian Goldbach công nhận số 1 là số nguyên tố trong thư gửi Leonhard Euler, nhưng Euler lại không thừa nhận như thế. Nhiều nhà toán học thế kỷ 19 vẫn cho rằng 1 là số nguyên tố, và danh sách số nguyên tố có chứa số 1 vẫn tiếp tục được xuất bản cho đến năm 1956.\nNếu định nghĩa số nguyên tố bị thay đổi để công nhận 1 là số nguyên tố, nhiều định lý liên quan đến nó sẽ phải được diễn đạt lại một cách rắc rối. Chẳng hạn, định lý cơ bản của số học khi đó sẽ bị sửa lại về mặt phân tích thành các số nguyên tố lớn hơn 1, vì mọi số đều có vô số cách phân tích mà trong đó số 1 xuất hiện với số lần bất kỳ. Tương tự, sàng Eratosthenes cũng sẽ không hoạt động đúng cách, vì khi đó nó loại bỏ tất cả các bội của 1 (tức là tất cả các số khác) và cho đầu ra chỉ có duy nhất số 1. Một số tính chất của số nguyên tố cũng không đúng đối với số 1: ví dụ, công thức của hàm phi Euler hoặc hàm tổng các ước số khác nhau với số nguyên tố so với số 1. Đến đầu thế kỷ 20, các nhà toán học bắt đầu thừa nhận rằng số 1 không nên nằm trong danh sách số nguyên tố, mà thay vào đó cần nằm ở một thể loại đặc biệt: \"đơn vị\" trong lý thuyết vành.\nTính chất cơ bản.\nSự phân tích duy nhất.\nViết một số thành tích của các số nguyên tố được gọi là \"phân tích nguyên tố\" của số đó. Chẳng hạn: \nCác thừa số trong tích được gọi là \"thừa số nguyên tố\". Một thừa số nguyên tố có thể xuất hiện nhiều lần, khi đó có thể dùng lũy thừa để gộp nhiều thừa số giống nhau đó lại thành một. Trong ví dụ trên, số 3 xuất hiện hai lần và formula_30 là bình phương hay lũy thừa bậc hai của 3.\nTầm quan trọng thiết yếu của số nguyên tố trong lý thuyết số và toán học nói chung có được từ \"định lý cơ bản của số học\". Định lý này phát biểu rằng bất kỳ số nguyên nào lớn hơn 1 đều có thể được viết thành tích của một hoặc nhiều số nguyên tố. Hơn nữa, tích đó là duy nhất, vì dễ thấy trong hai phân tích nguyên tố của cùng một số, các thừa số nguyên tố luôn xuất hiện với số lần bằng nhau dù thứ tự của chúng có thể khác nhau. Do đó, mặc dù có nhiều cách khác nhau để tìm cách phân tích một số thông qua thuật toán phân tích số nguyên nhưng chúng đều phải cho cùng một kết quả. Số nguyên tố vì vậy còn được gọi là \"khối gạch cơ bản\" của số tự nhiên.\nMột số chứng minh về tính duy nhất của phân tích nguyên tố được dựa trên bổ đề Euclid: Nếu formula_19 là số nguyên tố và formula_19 chia hết một tích formula_33 với formula_34 và formula_35 là số nguyên thì formula_19 cũng chia hết formula_34 hoặc formula_35 (hoặc cả hai). Ngược lại, nếu một số formula_19 có tính chất khi chia hết một tích thì nó cũng chia hết ít nhất một thừa số trong tích, thì formula_19 phải là số nguyên tố.\nSự tồn tại vô số số nguyên tố.\nCó vô số số nguyên tố. Nói cách khác, dãy các số nguyên tố\nkhông bao giờ kết thúc. Phát biểu trên còn được gọi là \"định lý Euclid\" theo tên của nhà toán học Hy Lạp cổ đại Euclid vì ông là người đầu tiên chứng minh được phát biểu này. Một số cách chứng minh khác về sự tồn tại vô số số nguyên tố bao gồm một chứng minh bằng giải tích của Euler, chứng minh của Goldbach dựa trên số Fermat, chứng minh từ tô pô học của Furstenberg, hay cách chứng minh đơn giản của Kummer.\nChứng minh của Euclid cho thấy rằng một tập hợp hữu hạn các số nguyên tố bất kỳ là chưa hoàn thành. Thật vậy, xét một tập hợp hữu hạn gồm các số nguyên tố formula_41. Khi nhân các số đó với nhau và cộng thêm 1 thì ta được\nTheo định lý cơ bản của số học thì formula_43 có một phân tích nguyên tố\nvới một hoặc nhiều thừa số nguyên tố. formula_43 có thể được chia hết bởi bất kỳ thừa số nào trong tích trên, nhưng lại có phần dư bằng 1 khi được chia bởi bất kỳ số nguyên tố nào trong tập hợp đã cho, nên không có thừa số nguyên tố nào của formula_43 có trong tập hợp đó. Vì không tồn tại một tập hợp hữu hạn nào chứa tất cả các số nguyên tố nên phải có vô số số nguyên tố.\nCác số được tạo ra khi cộng thêm 1 vào tích của các số nguyên tố nhỏ nhất được gọi là số Euclid. Năm số Euclid đầu tiên là số nguyên tố, nhưng số Euclid thứ sáu,\nlà hợp số.\nCông thức số nguyên tố.\nKhông có công thức số nguyên tố hiệu quả nào được biết đến. Chẳng hạn, không có đa thức khác hằng số nào, kể cả đa thức đa biến, chỉ cho duy nhất các giá trị nguyên tố. Tuy nhiên, có một số biểu thức có thể tạo ra các giá trị nguyên tố, nhưng hiệu quả hoạt động khá thấp. Một công thức như thế được dựa trên định lý Wilson và có thể cho giá trị 2 nhiều lần, các giá trị nguyên tố khác đúng một lần. Một hệ phương trình Diophantine gồm 9 biến và một tham số cũng tồn tại với tính chất: tham số đó là số nguyên tố khi và chỉ khi hệ phương trình thu được có một nghiệm trên tập hợp số tự nhiên. Tính chất đó có thể được dùng để suy ra một công thức với tính chất là tất cả các giá trị dương của nó đều là số nguyên tố.\nHai công thức số nguyên tố khác đến từ định lý Mills và một định lý của Wright, cho rằng tồn tại hằng số thực formula_48 và formula_49 sao cho giá trị của\nlà số nguyên tố với mọi số tự nhiên formula_1 bất kỳ ở công thức thứ nhất và bất kỳ số lũy thừa nào trong công thức thứ hai. Ở đây formula_52 là hàm sàn, số lớn nhất nhỏ hơn hoặc bằng với số được xét. Tuy nhiên, các công thức này không hữu ích vì cần phải tạo ra các số nguyên tố trước tiên để tính formula_53 hoặc formula_49.\nCác bài toán mở.\nĐã có nhiều giả thuyết được đặt ra liên quan đến số nguyên tố, và đa số giả thuyết như vậy không được chứng minh trong nhiều thập kỷ: cả bốn bài toán của Landau từ năm 1912 vẫn chưa có lời giải. Một trong số đó là giả thuyết Goldbach cho rằng mọi số nguyên chẵn formula_1 lớn hơn 2 có thể được viết thành tổng của hai số nguyên tố. Tính đến năm 2014, giả thuyết này đã được xác nhận là đúng với các số lớn đến formula_56. Một số giả thuyết tương tự như vậy đã được chúng minh, chẳng hạn, định lý Vinogradov cho rằng một số nguyên lẻ đủ lớn có thể được viết thành tổng của ba số nguyên tố. Còn theo định lý Chen, một số nguyên chẵn đủ lớn có thể được biểu diễn thành tổng của một số nguyên tố và một số nửa nguyên tố (tích của hai số nguyên tố). Đồng thời, một số nguyên chẵn lớn hơn 10 có thể được viết thành tổng của 6 số nguyên tố. Nhánh của lý thuyết số nghiên cứu những bài toán như thế được gọi là lý thuyết cộng tính số.\nMột dạng bài toán khác có liên quan đến khoảng cách số nguyên tố, tức là chênh lệch giữa hai số nguyên tố liên tiếp. Có thể thấy được sự tồn tại của các khoảng cách số nguyên tố lớn tùy ý bằng cách chú ý rằng dãy số formula_57 chứa formula_58 hợp số với formula_1 là số tự nhiên. Tuy nhiên, khoảng cách số nguyên tố lớn này bắt đầu xuất hiện sớm hơn so với thời điểm mà lập luận này đã cho. Chẳng hạn, khoảng cách số nguyên tố đầu tiên với độ dài bằng 8 nằm giữa hai số nguyên tố 89 và 97, nhỏ hơn nhiều so với formula_60. Có giả thuyết cho rằng có vô số cặp số nguyên tố sinh đôi, tức là cặp số nguyên tố với chênh lệch bằng 2; đó chính là giả thuyết số nguyên tố sinh đôi. Giả thuyết Polignac phát biểu tổng quát hơn rằng với một số nguyên dương formula_61 bất kỳ, tồn tại vô số các cặp số nguyên tố liên tiếp sai khác nhau formula_62. Giả thuyết Andrica, giả thuyết Brocard, giả thuyết Legendre và giả thuyết Oppermann đều cho rằng khoảng cách lớn nhất giữa các số nguyên tố từ 1 đến formula_1 phải là xấp xỉ formula_3, một kết quả được cho là suy ra từ giả thuyết Riemann, trong khi giả thuyết Cramér đặt khoảng cách lớn nhất bằng formula_65. Khoảng cách số nguyên tố có thể được khái quát hóa thành bộ formula_61 số nguyên tố, thể hiện những dãy lặp lại khoảng cách giữa nhiều hơn hai số nguyên tố. Tính vô hạn và mật độ của chúng là vấn đề chính trong giả thuyết Hardy–Littlewood đầu tiên, vốn có thể được suy ra từ thuật giải heuristic rằng dãy số nguyên tố hành xử tương tự như một dãy số ngẫu nhiên với mật độ được cho bởi định lý số nguyên tố.\nTính chất trong giải tích.\nLý thuyết số giải tích nghiên cứu lý thuyết số qua các khái niệm hàm số liên tục, giới hạn, chuỗi vô hạn và các khái niệm liên quan đến vô hạn và số nhỏ vô hạn.\nLeonhard Euler là người đầu tiên khởi xướng ra ngành nghiên cứu này với thành tựu quan trọng đầu tiên là lời giải cho bài toán Basel. Bài toán yêu cầu tìm giá trị của tổng vô hạn formula_67 mà ngày nay được công nhận là giá trị formula_68 của hàm zeta Riemann. Hàm này có liên hệ mật thiết với số nguyên tố và giả thuyết Riemann, một trong những bài toán chưa được giải có ý nghĩa quan trọng nhất trong toán học. Euler chứng minh được rằng formula_69. Nghịch đảo của số đó, formula_70, là giới hạn của xác suất để hai số được chọn ngẫu nhiên từ một khoảng giá trị lớn là hai số nguyên tố cùng nhau (không có thừa số chung nào).\nSự phân phối các số nguyên tố trong khoảng giá trị lớn đó, chẳng hạn như có bao nhiêu số nguyên tố nhỏ hơn một số lớn cho trước, được mô tả bởi định lý số nguyên tố, nhưng không có công thức cho số nguyên tố thứ formula_1 được biết đến. Ở dạng cơ bản nhất, định lý Dirichlet về cấp số cộng phát biểu rằng đa thức tuyến tính\nvới formula_34 và formula_35 nguyên tố cùng nhau cho vô số các giá trị nguyên tố. Dạng chặt chẽ hơn của định lý phát biểu rằng tổng của nghịch đảo các giá trị nguyên tố đó phân kỳ, và các đa thức tuyến tính khác nhau với formula_35 bằng nhau có tỉ lệ số nguyên tố gần như nhau. Mặc dù đã có nhiều giả thuyết được đặt ra về tỉ lệ số nguyên tố trong các đa thức bậc cao nhưng chúng vẫn chưa được chứng minh, và không rõ có tồn tại một đa thức bậc hai nào có thể luôn cho các giá trị nguyên tố một cách thường xuyên hơn hay không.\nChứng minh định lý Euclid bằng giải tích.\nChứng minh của Euler về sự tồn tại vô số số nguyên tố xét tổng nghịch đảo các số nguyên tố\nEuler chứng minh được rằng với một số thực formula_21 bất kỳ, tồn tại một số nguyên tố formula_19 sao cho tổng trên lớn hơn formula_21. Nếu chỉ có một số hữu hạn các số nguyên tố thì tổng này phải đạt giá trị lớn nhất tại số nguyên tố lớn nhất thay vì tăng dần qua các giá trị của formula_21, do đó có vô số số nguyên tố. Tốc độ gia tăng giá trị của tổng này được mô tả rõ hơn trong định lý thứ hai của Mertens. Để so sánh, tổng\nkhông tăng đến vô hạn khi formula_1 tiến đến vô hạn (xem bài toán Basel). Trong trường hợp này, số nguyên tố xuất hiện thường xuyên hơn so với bình phương các số tự nhiên, mặc dù cả hai tập hợp đều là vô hạn. Định lý Brun phát biểu rằng tổng nghịch đảo các số nguyên tố sinh đôi\nlà hữu hạn. Do định lý này nên không thể áp dụng cách của Euler để chứng minh giả thuyết số nguyên tố sinh đôi rằng có vô số cặp số nguyên tố sinh đôi.\nSố lượng số nguyên tố nằm dưới một số cho trước.\nHàm đếm số nguyên tố formula_84 được định nghĩa là số lượng số nguyên tố không lớn hơn formula_1. Ví dụ, formula_86, nghĩa là có 5 số nguyên tố nhỏ hơn hoặc bằng 11. Có một số phương pháp để tính giá trị chính xác của formula_84 nhanh hơn so với khi liệt kê tất cả các số nguyên tố lớn đến formula_1, chẳng hạn như thuật toán Meissel–Lehmer. Định lý số nguyên tố phát biểu rằng formula_84 tiệm cận với formula_90 hay \nnghĩa là tỉ số giữa formula_84 và phân số ở vế phải tiến về 1 khi formula_1 tăng đến vô hạn. Kéo theo đó, xác suất để một số nhỏ hơn formula_1 được chọn ngẫu nhiên là số nguyên tố tỉ lệ nghịch với số chữ số của formula_1. Đồng thời, số nguyên tố thứ formula_1 tỉ lệ thuận với formula_97 và độ dài trung bình của khoảng cách nguyên tố tỉ lệ thuận với formula_98. Một xấp xỉ chính xác hơn của formula_84 được cho bởi tích phân logarit bù\nCấp số cộng.\nCấp số cộng là một dãy số hữu hạn hoặc vô hạn sao cho các số liên tiếp trong dãy đều có chênh lệch bằng nhau. Chênh lệch đó được gọi là mô đun (công sai) của cấp số cộng. Ví dụ,\nlà cấp số cộng vô hạn với mô đun 9. Trong một cấp số cộng, phép chia của tất cả các số cho mô đun đều cho số dư bằng nhau; trong ví dụ trên, số dư đó bằng 3. Vì cả mô đun 9 và số dư 3 đều là bội của 3 nên các phần tử khác trong dãy cũng vậy. Do đó, cấp số cộng đã cho chỉ chứa một số nguyên tố duy nhất, đó chính là số 3. Tổng quát, cấp số cộng vô hạn\ncó thể chứa nhiều hơn một số nguyên tố chỉ khi số dư formula_34 và mô đun formula_103 nguyên tố cùng nhau. Khi đó, theo định lý Dirichlet về cấp số cộng, cấp số cộng đó chứa vô số số nguyên tố.\nĐịnh lý Green–Tao cho thấy tồn tại các cấp số cộng hữu hạn dài tùy ý chỉ chứa các số nguyên tố.\nGiá trị nguyên tố của đa thức bậc hai.\nEuler nhận thấy rằng hàm\ncho giá trị là số nguyên tố với formula_105, mặc dù các giá trị hợp số bắt đầu xuất hiện khi formula_1 lớn hơn 40. Việc tìm ra giải thích cho hiện tượng này chính là tiền đề của lý thuyết số đại số với số Heegner và bài toán lớp số. Giả thuyết F của Hardy–Littlewood dự đoán mật độ số nguyên tố trong các giá trị của đa thức bậc hai với hệ số nguyên về mặt tích phân logarit và hệ số của đa thức. Không có đa thức bậc hai nào được chứng minh là chỉ cho các giá trị nguyên tố.\nXoắn Ulam sắp xếp các số tự nhiên thành một mặt phẳng hai chiều, xoắn ở các hình vuông đồng tâm quanh điểm gốc với số nguyên tố được đánh dấu. Dễ thấy trong ví dụ này, các số nguyên tố chỉ tập trung ở một số đường chéo nhất định, ngụ ý rằng có một số đa thức bậc hai cho giá trị nguyên tố thường xuyên hơn các đa thức khác.\nHàm zeta và giả thuyết Riemann.\nGiả thuyết Riemann (1859) là một trong những bài toán chưa được giải nổi tiếng nhất toán học và một là trong bảy bài toán thiên niên kỷ, yêu cầu tìm các nghiệm số của hàm zeta Riemann formula_107. Hàm này là một hàm giải tích trên tập số phức. Với số phức formula_108 có phần thực lớn hơn 1, nó bằng một tổng vô hạn trên tất cả số nguyên và một tích vô hạn trên tất cả số nguyên tố:\nSự bằng nhau này giữa một tổng và một tích (do Euler tìm ra) được gọi là tích Euler. Tích Euler có thể được suy ra từ định lý cơ bản của số học và cho thấy sự liên hệ giữa hàm zeta và số nguyên tố. Nó dẫn đến một cách chứng minh khác về sự tồn tại vô số số nguyên tố: nếu chỉ có một số hữu hạn số nguyên tố thì dấu bằng giữa tổng và tích cũng xảy ra tại formula_110 nhưng tổng có tính phân kỳ (đó chính là chuỗi điều hòa formula_111) trong khi tích có tính hội tụ (mang giá trị hữu hạn), mâu thuẫn.\nGiả thuyết Riemann phát biểu rằng nghiệm số của hàm zeta là tất cả các số âm chẵn hoặc các số phức với phần thực bằng 1/2. Chứng minh ban đầu của định lý số nguyên tố được dựa trên dạng không chặt chẽ của giả thuyết này cho rằng không có nghiệm số nào có phần thực bằng 1, mặc dù còn có thêm một số cách chứng minh cơ bản khác. Hàm đếm số nguyên tố có thể được biểu diễn bởi công thức tường minh của Riemann thành một tổng mà trong đó, mỗi số hạng đến từ một nghiệm số của hàm zeta: số hạng chính của tổng là tích phân logarit và các số hạng còn lại làm cho giá trị của tổng dao động quanh số hạng chính đó. Trong trường hợp này, các nghiệm số làm ảnh hưởng đến sự phân phối các số nguyên tố. Nếu giả thuyết Riemann là đúng, độ dao động đó sẽ nhỏ lại và sự phân phối tiệm cận các số nguyên tố được cho bởi định lý số nguyên tố cũng đúng trên các khoảng nhỏ hơn rất nhiều (có độ dài gần bằng căn bậc hai của formula_21 đối với khoảng nằm gần một số formula_21).\nĐại số trừu tượng.\nSố học mô đun và trường hữu hạn.\nSố học mô đun là một dạng khác của số học thông thường chỉ dùng các số formula_114 với một số tự nhiên formula_1 được gọi là mô đun. Bất kỳ số tự nhiên nào khác đều có thể được ánh xạ vào hệ thống này bằng cách thay nó bằng số dư của nó khi được chia bởi formula_1. Mô đun tổng, hiệu và tích được tính bằng cách thực hiện phép thế bằng số dư trong phép chia của tổng, hiệu hoặc tích các số nguyên thông thường. Sự bằng nhau giữa các số nguyên có liên quan đến khái niệm \"đồng dư\" trong số học mô đun: formula_21 và formula_118 đồng dư (ký hiệu formula_119) khi phép chia của chúng bởi formula_1 cho số dư bằng nhau. Tuy nhiên, trong hệ thống số đó, chỉ có thể xảy ra phép chia cho một số khác 0 khi và chỉ khi mô đun là số nguyên tố. Chẳng hạn, với mô đun 7, có thể tồn tại phép chia cho 3: formula_121, vì khi nhân cả hai vế cho 3 thì ta được biểu thức đúng formula_122. Nhưng với mô đun 6 (là một hợp số), không thể tồn tại phép chia cho 3: phương trình formula_123 vô nghiệm vì khi nhân cả hai vế cho 3 thì vế trái trở thành số 2 còn vế phải trở thành số 0 hoặc số 3. Trong đại số trừu tượng, khả năng thực hiện phép chia có nghĩa rằng mô đun một số nguyên tố tạo thành một trường được gọi là trường hữu hạn, trong khi các mô đun khác chỉ tạo ra vành.\nBằng số học mô đun, có thể suy ra được một số định lý về số nguyên tố. Ví dụ, định lý nhỏ Fermat phát biểu rằng nếu formula_124 (mod formula_19) thì formula_126 (mod formula_19). Lấy tổng trên tất cả giá trị của formula_34, ta được phương trình\nđúng khi formula_19 là số nguyên tố. Giả thuyết Giuga cho rằng phương trình này là điều kiện đủ để formula_19 là số nguyên tố. Theo định lý Wilson, một số nguyên formula_132 là số nguyên tố khi và chỉ khi giai thừa formula_133 đồng dư với –1 mod formula_19. Với một hợp sốformula_135thì định lý này không đúng, vì khi đó có một trong hai thừa số chia hết cả và formula_136 nên không thể có formula_137.\nSố \"p\"-adic.\nCấp formula_19-adic formula_139 của một số nguyên formula_1 là số lần xuất hiện của formula_19 trong phân tích nguyên tố của formula_1. Khái niệm này có thể được mở rộng cho số hữu tỉ: cấp formula_19-adic của một phân số formula_144 được xác định là formula_145. Khi đó, giá trị tuyệt đối formula_19-adic formula_147 của một số hữu tỉ formula_103 là formula_149. Khi nhân một số nguyên với giá trị tuyệt đối formula_19-adic của nó thì các thừa số formula_19 trong phân tích nguyên tố của số nguyên đó bị khử và chỉ còn lại các thừa số nguyên tố khác. Giống như khi đo khoảng cách giữa hai số thực bằng giá trị tuyệt đối thông thường, khoảng cách giữa hai số hữu tỉ có thể được đo bằng độ dài formula_19-adic, tức là giá trị tuyệt đối formula_19-adic của hiệu hai số đó. Theo định nghĩa khoảng cách đó, hai số được gọi là gần nhau (có khoảng cách nhỏ) khi hiệu giữa chúng có thể chia hết bởi một lũy thừa bậc cao của formula_19. Bằng cùng một cách mà số thực được tạo thành từ số hữu tỉ và khoảng cách giữa chúng cùng một số giá trị giới hạn được thêm vào để hợp lại thành một trường đầy đủ, các số hữu tỉ với khoảng cách formula_19 có thể được mở rộng sang một trường đầy đủ khác được gọi là số formula_19-adic.\nCác khái niệm về cấp, giá trị tuyệt đối và trường đầy đủ suy ra từ chúng có thể được khái quát hóa cho trường số đại số cùng với định chuẩn (ánh xạ nhất định từ nhóm nhân của trường đó sang một nhóm cộng được sắp toàn phần), giá trị tuyệt đối (ánh xạ nhân nhất định từ một trường sang số thực), và vị trí (sự mở rộng sang trường đầy đủ mà trong đó tập cho trước là một tập trù mật) của chúng. Chẳng hạn, sự mở rộng từ tập số hữu tỉ sang tập số thực là một vị trí mà tại đó khoảng cách giữa hai số là giá trị tuyệt đối thông thường của hiệu hai số đó. Ánh xạ tương ứng sang một nhóm cộng là logarit của giá trị tuyệt đối đó, mặc dù nó không thỏa mãn tất cả yêu cầu của một định chuẩn. Theo định lý Ostrowski, trước khái niệm tự nhiên về tương đương, số thực và số formula_19-adic cùng cấp và giá trị tuyệt đối của chúng là định chuẩn, giá trị tuyệt đối và vị trí duy nhất trên tập số hữu tỉ. Nguyên lý Hasse cho phép giải nhiều bài toán trên số hữu tỉ bằng cách hợp các nghiệm từ các vị trí của chúng lại với nhau, một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của số nguyên tố trong lý thuyết số.\nPhần tử nguyên tố trong vành.\nVành giao hoán là một cấu trúc đại số có định nghĩa phép cộng, phép trừ và phép nhân. Tập số nguyên là một vành và số nguyên tố trong tập đó đã được khái quát hóa sang lý thuyết vành với thuật ngữ \"phần tử nguyên tố\" và \"phần tử tối giản\". Một phần tử formula_19 của vành formula_159 được gọi là phần tử nguyên tố nếu nó khác 0, không có nghịch đảo (không phải phần tử đơn vị) và thỏa mãn điều kiện: khi formula_19 chia hết tích formula_161 gồm hai phần tử trong formula_159 thì nó cũng chia hết ít nhất một trong hai phần tử formula_21 và formula_118. Một phần tử được gọi là phần tử tối giản nếu nó không phải phần tử đơn vị, cũng không phải là tích của hai phần tử khác phần tử đơn vị. Trong vành số nguyên, các phần tử nguyên tố và tối giản tạo thành cùng một tập hợp\nTrong một vành bất kỳ, mọi phần tử nguyên tố đều là phần tử tối giản. Phát biểu ngược lại của nó chỉ đúng trong miền phân tích nhân tử duy nhất.\nĐịnh lý cơ bản của số học là đúng (theo định nghĩa) trong miền phân tích nhân tử duy nhất. Ví dụ về một miền như thế là vành số nguyên Gauss formula_166, vành các số phức dạng formula_167 với formula_168 là đơn vị ảo và formula_34 và formula_35 là số nguyên bất kỳ. Các phần tử nguyên tố của vành đó được gọi là số nguyên tố Gauss. Một số nguyên tố trong vành số nguyên có thể không phải là số nguyên tố trong vành số nguyên Gauss; chẳng hạn, số 2 có thể được viết thành tích của hai số nguyên tố Gauss formula_171 và formula_172. Số nguyên tố hữu tỉ (phần tử nguyên tố trong vành số nguyên) đồng dư với 3 mod 4 là số nguyên tố Gauss, nhưng số nguyên tố hữu tỉ đồng dư với 1 mod 4 không phải vậy. Đó là một hệ quả của định lý Fermat về tổng của hai số chính phương, phát biểu rằng một số nguyên tố lẻ formula_19 có thể được biểu diễn thành tổng của hai số chính phương, formula_174, và do đó có thể được phân tích thành formula_175, chỉ khi formula_19 đồng dư với 1 mod 4.\nI-đê-an nguyên tố.\nKhông phải mọi vành đều là miền phân tích nhân tử duy nhất. Chẳng hạn, trong vành các số formula_177 (với formula_34 và formula_35 là số nguyên), số 21 có hai cách phân tích: formula_180, trong đó cả bốn thừa số đều là tối giản, nên nó không có một phân tích nhân tử duy nhất. Để mở rộng khái niệm phân tích nhân tử duy nhất sang các lớp vành khác lớn hơn, có thể thay thế thuật ngữ về số bằng thuật ngữ về i-đê-an, một tập hợp con của các phần tử trong một vành chứa tổng của mỗi cặp phần tử của nó và tích của mỗi phần tử của nó với một phần tử trong vành. \"I-đê-an nguyên tố\", vốn khái quát hóa phần tử nguyên tố trong trường hợp i-đê-an chính tạo ra bởi một phần tử nguyên tố là một i-đê-an nguyên tố, là một công cụ quan trọng và chủ đề nghiên cứu chính trong đại số giao hoán, lý thuyết số đại số và hình học đại số. Các i-đê-an nguyên tố trong vành số nguyên là (0), (2), (3), (5), (7), (11)... Định lý cơ bản của số học được khái quát hóa thành định lý Lasker–Noether biểu diễn một i-đê-an bất kỳ trong một vành giao hoán Noether thành giao của các i-đê-an sơ cấp, một dạng khái quát hóa thích hợp của lũy thừa nguyên tố.\nPhổ của một vành là một không gian hình học mà các điểm trong đó là các i-đê-an nguyên tố của vành đó. Thuật ngữ này giúp ích nhiều cho hình học đại số và nhiều khái niệm liên quan khác cũng xuất hiện trong hình học và lý thuyết số. Chẳng hạn, sự phân tích hoặc phân chia i-đê-an nguyên tố khi áp dụng trong một trường mở rộng, một bài toán cơ bản của lý thuyết số đại số, thì có tương đồng với sự phân chia trong hình học. Các khái niệm này thậm chí còn có thể hỗ trợ giải một số bài toán đặc biệt liên quan đến số nguyên trong lý thuyết số. Ví dụ, có thể dùng i-đê-an nguyên tố trong vành số nguyên của trường số bậc hai để chứng minh luật tương hỗ bậc hai, một phát biểu về sự tồn tại của biểu thức căn bậc hai mô đun một số nguyên tố nguyên. Những cố gắng ban đầu để chứng minh định lý cuối của Fermat đã dẫn đến sự ra đời khái niệm số nguyên tố chính quy, những số nguyên tố nguyên liên quan đến sự không tồn tại phân tích nhân tử duy nhất trong trường số nguyên chia đường tròn. Bài toán có bao nhiêu số nguyên tố nguyên có thể được phân tích thành một tích gồm nhiều i-đê-an nguyên tố trong một trường số đại số được giải quyết bằng định lý mật độ Chebotarev mà khi được áp dụng cho số nguyên chia đường tròn thì có trường hợp đặc biệt là định lý Dirichlet về số nguyên tố trong cấp số cộng.\nLý thuyết nhóm.\nTrong lý thuyết nhóm hữu hạn, định lý Sylow phát biểu rằng nếu lũy thừa của một số nguyên tố formula_181 chia hết cấp của một nhóm thì nó có một nhóm con với cấp formula_181. Theo định lý Lagrange, một nhóm với cấp nguyên tố là nhóm cyclic, và theo định lý Burnside thì một nhóm có cấp chia hết được bởi đúng hai số nguyên tố là nhóm giải được.\nPhương pháp tính.\nTrong một thời gian dài, lý thuyết số nói chung và ngành nghiên cứu số nguyên tố nói riêng từng được xem là ví dụ kinh điển về toán học thuần túy khi không có ứng dụng nào ngoài phạm vi toán học, ngoại trừ việc dùng các bánh răng với số răng là số nguyên tố để hạn chế mài mòn. Thậm chí, một số nhà lý thuyết số như nhà toán học người Anh G. H. Hardy còn tự hào về chính họ khi làm những công trình nghiên cứu hoàn toàn không có ý nghĩa quân sự gì.\nGóc nhìn này đã bị xóa bỏ vào những năm 1970, khi số nguyên tố đã có thể được dùng làm cơ sở để tạo ra các thuật toán mật mã hóa khóa công khai. Những ứng dụng này đã góp phần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thuật toán thực hiện phép tính trên số nguyên tố và các phương pháp kiểm tra tính nguyên tố của một số. Thuật toán kiểm tra tính nguyên tố cơ bản nhất, giải thuật chia thử, quá chậm đối với số rất lớn. Một nhóm thuật toán hiện đại có thể áp dụng được cho một số bất kỳ, trong khi còn có các thuật toán hiệu quả hơn dành cho các nhóm số đặc biệt. Đa số thuật toán kiểm tra tính nguyên tố chỉ cho biết đầu vào của chúng có phải là số nguyên tố hay không. Một số đoạn chương trình khác còn xuất ra một (hoặc tất cả) thừa số nguyên tố từ đầu vào là hợp số và được gọi là thuật toán phân tích số nguyên. Số nguyên tố cũng có ứng dụng trong điện toán như giá trị tổng kiểm, bảng băm và bộ sinh số giả ngẫu nhiên.\nGiải thuật chia thử.\nPhương pháp cơ bản nhất để kiểm tra tính nguyên tố của một số nguyên formula_1 cho trước được gọi là \"chia thử\". Thuật toán này chia formula_1 cho tất cả số nguyên từ 2 đến căn bậc hai của formula_1. Khi có bất kỳ số nguyên nào chia hết formula_1 thì formula_1 là hợp số, ngược lại thì nó là số nguyên tố. Các số lớn hơn căn bậc hai đó không cần được kiểm tra, vì khi formula_188 thì một trong hai thừa số formula_34 và formula_35 nhỏ hơn hoặc bằng căn bậc hai của formula_1. Một dạng tối ưu khác là chỉ kiểm tra các thừa số nguyên tố trong khoảng đó. Chẳng hạn, để kiểm tra xem 37 có phải là số nguyên tố hay không, thuật toán này chia nó cho các số nguyên tố trong khoảng từ 2 đến , đó là số 2, 3 và 5. Cả ba phép chia đều có số dư khác 0 nên 37 chính là số nguyên tố.\nPhương pháp này có thể được mô tả một cách đơn giản, nhưng không thực tế khi kiểm tra tính nguyên tố của các số nguyên lớn, vì số phép chia nó thực hiện tăng dần theo cấp số nhân khi số chữ số của số nguyên đó càng nhiều. Tuy nhiên, giải thuật chia thử vẫn được sử dụng để tìm nhanh hợp số với thừa số nhỏ trước khi áp dụng những phương pháp phức tạp hơn đối với các số vượt qua được giải thuật đó.\nSàng.\nTrước khi máy tính ra đời, nhiều bảng số liệt kê tất cả số nguyên tố hoặc phân tích nguyên tố đến một giới hạn cho trước đã được phát hành rộng rãi. Phương pháp cổ xưa nhất để lập danh sách số nguyên tố được gọi là sàng Eratosthenes. Hình minh họa bên phải cho thấy một dạng tối ưu của phương pháp này. Một sàng khác hiệu quả hơn để giải quyết bài toán đó là sàng Atkin. Trong toán học nâng cao, lý thuyết sàng áp dụng các phương pháp tương tự vào nhiều bài toán khác.\nKiểm tra tính nguyên tố và chứng minh tính nguyên tố.\nMột số thuật toán hiện đại nhanh nhất để giải quyết bài toán về tính nguyên tố của một số formula_1 bất kỳ cho trước là các thuật toán xác suất (Monte Carlo), nghĩa là nó có một khả năng nhỏ ngẫu nhiên cho câu trả lời sai. Chẳng hạn, kiểm tra Solovay–Strassen với một số cho trước formula_19 chọn ngẫu nhiên một số formula_34 trong khoảng từ 2 đến formula_195 và sử dụng lũy thừa mô đun để kiểm tra xem formula_196 có chia hết được bởi formula_19 hay không. Nếu đúng là như vậy thì nó trả lời \"có\" và ngược lại thì nó trả lời \"không\". Nếu formula_19 đúng là số nguyên tố thì nó luôn trả lời \"có\", nhưng nếu formula_19 là hợp số thì nó trả lời \"có\" với xác suất lớn nhất là 1/2 và \"không\" với xác suất nhỏ nhất là 1/2. Nếu thuật toán này được lặp lại formula_1 lần trong cùng một số, xác suất lớn nhất để một hợp số vượt qua được thuật toán mọi lần là formula_201. Vì xác suất đó giảm dần theo cấp số nhân khi số lần thực hiện kiểm tra tăng dần nên nó dẫn đến khả năng cao (nhưng không chắc chắn) rằng một số vượt qua được thuật toán lặp lại đó là số nguyên tố. Mặt khác, nếu một số không vượt qua được kiểm tra thì nó chắc chắn là hợp số. Một hợp số vượt qua được một kiểm tra như thế được gọi là số giả nguyên tố.\nNgược lại, một số thuật toán khác đảm bảo rằng câu trả lời luôn luôn đúng: số nguyên tố sẽ luôn luôn được xác định là số nguyên tố và hợp số sẽ luôn luôn được xác định là hợp số. Chẳng hạn, phát biểu này là đúng đối với giải thuật chia thử. Những thuật toán với đầu ra đảm bảo chính xác bao gồm thuật toán tất định như phép kiểm tra tính nguyên tố AKS, và các thuật toán Las Vegas ngẫu nhiên mà trong đó những lựa chọn ngẫu nhiên của thuật toán không ảnh hưởng gì đến kết quả cuối cùng, chẳng hạn như một số dạng của phép chứng minh tính nguyên tố bằng đường cong elliptic. Khi phương pháp đường cong elliptic kết luận rằng một số là số nguyên tố, nó cũng xuất ra một chứng nhận tính nguyên tố có thể được xác nhận nhanh chóng. Kỹ thuật đường cong elliptic là nhanh nhất trong số các thuật toán với độ chính xác tuyệt đối, nhưng thời gian thực thi chỉ được đo dựa trên thực nghiệm thay vì lập luận chứng minh. Kiểm tra AKS có độ phức tạp tính toán được chứng minh bằng lập luận toán học nhưng hoạt động chậm hơn so với kỹ thuật đường cong elliptic. Các phương pháp này có thể được dùng để tạo ra các số nguyên tố lớn bằng cách tạo và kiểm tra các số ngẫu nhiên đến khi tìm được một số nguyên tố; khi đó, một thuật toán kiểm tra xác suất có thể nhanh chóng loại đi phần lớn hợp số trước khi một thuật toán \"chắc chắn đúng\" được dùng để xác thực lại rằng các số còn lại là số nguyên tố.\nBảng dưới đây liệt kê một số thuật toán như vậy. Thời gian hoạt động được cho theo số được kiểm tra formula_1 và số vòng lặp formula_61 (đối với thuật toán xác suất). Đồng thời, formula_204 là một số dương nhỏ bất kỳ và formula_205 là logarit cơ số không xác định. Ký hiệu O lớn nghĩa là mỗi khoảng thời gian phải được nhân lên bởi một hằng số tỉ lệ để chuyển nó từ một đại lượng vô hướng sang đơn vị thời gian; hằng số này phụ thuộc vào thông số kỹ thuật chẳng hạn như loại máy tính được dùng để thực hiện thuật toán, nhưng không phụ thuộc vào tham số đầu vào formula_1 và formula_61.\nCác thuật toán đặc biệt và số nguyên tố lớn nhất đã biết.\nCùng với các thuật toán nói trên áp dụng được cho bất kỳ số tự nhiên nào, một vài số với dạng đặc biệt còn có thể được kiểm tra tính nguyên tố nhanh hơn. Ví dụ, kiểm tra Lucas–Lehmer có thể xác định được một số Mersenne (lũy thừa của 2 trừ 1) có phải là số nguyên tố hay không một cách tất định với thời gian bằng với một vòng lặp của kiểm tra Miller–Rabin. Đó là lý do kể từ năm 1992 (tính đến tháng 12 năm 2018) số nguyên tố lớn nhất đã biết luôn là một số nguyên tố Mersenne. Có giả thuyết cho rằng có vô số số nguyên tố Mersenne.\nBảng dưới đây liệt kê các số nguyên tố lớn nhất đã biết theo nhiều dạng khác nhau. Một vài trong số đó được tìm thấy qua điện toán phân tán. Năm 2009, dự án Great Internet Mersenne Prime Search đã được trao giải thưởng 100.000 USD cho số nguyên tố đầu tiên có ít nhất 10 triệu chữ số thập phân. Tổ chức Biên giới Điện tử cũng có giải thưởng lần lượt là 150.000 và 250.000 USD dành cho số nguyên tố có ít nhất 100 triệu và 1 tỷ chữ số.\nPhân tích số nguyên.\nCho một hợp số formula_1, công việc xuất ra một (hoặc tất cả) thừa số nguyên tố được gọi là \"phân tích\" của formula_1. Công việc này khó hơn đáng kể so với kiểm tra tính nguyên tố, và mặc dù tồn tại nhiều thuật toán phân tích nhưng chúng đều chậm hơn so với các phương pháp nhanh nhất để kiểm tra tính nguyên tố. Giải thuật chia thử và thuật toán RHO có thể được dùng để tìm các nhân tử rất nhỏ của formula_1, và thuật toán phân tích bằng đường cong elliptic có thể hiệu quả khi formula_1 có các nhân tử lớn vừa phải. Một số phương pháp phù hợp đối với số lớn bất kỳ không phụ thuộc vào độ lớn của nhân tử bao gồm sàng cấp hai và sàng trường số thông thường. Giống như kiểm tra tính nguyên tố, có một số thuật toán phân tích yêu cầu đầu vào có dạng đặc biệt, trong đó có sàng trường số đặc biệt. Tính đến tháng 2 năm 2020 số lớn nhất được phân tích bằng một thuật toán thông thường là RSA-250, một số có 250 chữ số (829 bit) và là tích của hai số nguyên tố lớn.\nThuật toán Shor cho phép phân tích bất kỳ số nguyên nào với số bước đa thức trong một máy tính lượng tử. Tuy nhiên, với công nghệ hiện nay thì thuật toán này chỉ hoạt động được với các số rất nhỏ. Tính đến tháng 10 năm 2012 số lớn nhất được phân tích bằng thuật toán Shor trong một máy tính lượng tử là 21.\nỨng dụng khác trong điện toán.\nMột số thuật toán mật mã hóa khóa công khai, chẳng hạn như RSA và trao đổi khóa Diffie−Hellman được dựa trên số nguyên tố lớn (phổ biến nhất là số nguyên tố 2048 bit). RSA dựa vào giả thiết rằng thực hiện phép nhân hai số lớn formula_21 và formula_118 dễ hơn nhiều so với khi tính formula_21 và formula_118 (giả sử là hai số nguyên tố cùng nhau) nếu chỉ biết một tích formula_161. Trao đổi khóa Diffie−Hellman dựa vào thực tế rằng có một số thuật toán hiệu quả đối với lũy thừa mô đun (tính formula_217), trong khi phép tính ngược lại (logarit rời rạc) được cho là một bài toán khó.\nSố nguyên tố được sử dụng thường xuyên trong bảng băm. Chẳng hạn phương pháp ban đầu của Carter và Wegman đối với băm phổ quát được dựa vào việc tính hàm băm bằng cách chọn ngẫu nhiên hàm tuyến tính mô đun số nguyên tố lớn. Carter và Wegman đã khái quát hóa phương pháp này cho băm formula_61-độc lập bằng cách sử dụng đa thức bậc cao mô đun số nguyên tố lớn. Cũng như trong hàm băm, số nguyên tố được dùng trong kích thước của bảng băm dựa trên dò cấp hai để đảm bảo rằng chuỗi dò bao phủ hết bảng đó.\nMột số phương pháp giá trị tổng kiểm được dựa trên kiến thức toán học về số nguyên tố. Chẳng hạn giá trị tổng kiểm dùng trong ISBN được xác định bằng cách lấy tổng của tất cả các chữ số (ngoài chữ số cuối cùng) mô đun 11. Vì 11 là số nguyên tố nên phương pháp này có thể phát hiện các chữ số bị sai và chuyển vị của các chữ số liền kề nhau. Adler-32, một công cụ kiểm tra tổng kiểm khác, sử dụng số học mô đun 65521, số nguyên tố lớn nhất nhỏ hơn formula_219. Số nguyên tố cũng được dùng trong bộ sinh số giả ngẫu nhiên, trong đó có bộ sinh số đồng dư tuyến tính và Mersenne Twister.\nCác ứng dụng khác.\nSố nguyên tố là chủ đề trọng tâm của lý thuyết số và có nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực khác của toán học, trong đó có đại số trừu tượng và hình học cơ bản. Ví dụ, có thể đặt một số lượng số nguyên tố các điểm trên mặt phẳng hai chiều sao cho không có ba điểm nào thẳng hàng, hoặc sao cho một tam giác bất kỳ với ba đỉnh là ba trong số các điểm đó có kích thước lớn. Một ví dụ khác là tiêu chuẩn Eisenstein, dùng để kiểm tra xem một đa thức có tối giản hay không dựa vào tính chia hết của các hệ số cho một số nguyên tố và bình phương của nó.\nKhái niệm số nguyên tố quan trọng đến mức nó đã được khái quát hóa sang các nhánh khác của toán học. Thông thường, \"nguyên tố\" có nghĩa là \"tối thiểu\" hoặc \"không khai triển, phân tích được\" trong trường hợp thích hợp. Ví dụ, trường nguyên tố của một trường cho trước là trường con nhỏ nhất của trường đã cho có chứa cả 0 và 1. Nó có thể là trường số hữu tỉ hoặc một trường hữu hạn có số lượng phần tử là số nguyên tố. Một nghĩa thứ hai ám chỉ rằng bất kỳ đối tượng nào cũng đều có một cách phân tích duy nhất thành các thành phần nguyên tố. Chẳng hạn, trong lý thuyết nút thắt, nút thắt nguyên tố là một nút thắt không phân tích được, nghĩa là nó không thể được viết thành tổng liên kết của hai nút thắt không tầm thường. Mỗi nút thắt bất kỳ có một cách biểu diễn duy nhất thành tổng liên kết của các nút thắt nguyên tố. Phân tích nguyên tố của 3-đa tạp là ví dụ khác của dạng này.\nCùng với toán học và điện toán, số nguyên tố có mối liên hệ với cơ học lượng tử và là hình ảnh ẩn dụ trong nghệ thuật và văn học. Chúng cũng có ứng dụng trong sinh học tiến hóa để giải thích vòng đời của liên họ Ve sầu.\nĐa giác vẽ được và phân chia đa giác.\nSố Fermat là những số có dạng\nvới formula_61 là số nguyên không âm. Chúng được đặt tên theo Pierre de Fermat, người đã dự đoán rằng tất cả các số dạng này đều là số nguyên tố. Năm số Fermat đầu tiên – 3, 5, 17, 257 và 65.537 – đều là số nguyên tố, nhưng formula_222 là hợp số và tương tự với tất cả các số Fermat khác (tính đến năm 2017). Một formula_1-giác đều có thể vẽ được bằng thước thẳng và compa khi và chỉ khi tập hợp các thừa số nguyên tố lẻ của formula_1 (nếu có) chỉ gồm các số nguyên tố Fermat. Tương tự, một formula_1-giác đều có thể vẽ được bằng thước, compa và thước góc phần ba khi và chỉ khi tập hợp các thừa số nguyên tố của formula_1 có chứa số 2 hoặc số 3 cùng một tập hợp (có thể rỗng) các số nguyên tố Pierpont, số nguyên tố có dạng formula_227.\nCó thể chia một đa giác lồi bất kỳ thành formula_1 đa giác lồi nhỏ hơn với diện tích và chu vi bằng nhau khi formula_1 là lũy thừa của một số nguyên tố, nhưng chưa rõ tính chất này ra sao với các giá trị khác của formula_1.\nCơ học lượng tử.\nBắt đầu từ công trình của Hugh Montgomery và Freeman Dyson vào những năm 1970, nhiều nhà toán học và vật lý suy đoán rằng nghiệm số của hàm zeta Riemann có liên hệ với mức năng lượng của hệ thống lượng tử. Số nguyên tố cũng có ý nghĩa quan trọng trong khoa học thông tin lượng tử nhờ vào các cấu trúc toán học như cơ sở không lệch qua lại và SIC-POVM (độ đo giá trị toán tử dương đối xứng đầy đủ thông tin).\nSinh học.\nChu kỳ tiến hóa của liên họ ve sầu chi \"Magicicada\" ở Bắc Mỹ có liên quan đến số nguyên tố. Các côn trùng này sống phần lớn cuộc đời dưới dạng ấu trùng dưới lòng đất. Chúng chỉ phát triển dần và chui lên mặt đất sau 7, 13 hoặc 17 năm, từ đó chúng bay, sinh sản và chết sau nhiều nhất vài tuần. Các nhà sinh học giả thiết rằng tính nguyên tố của chu kỳ sinh sản là để tránh đồng bộ với chu kỳ của động vật ăn thịt. Ngược lại, chu kỳ ra hoa nhiều năm của tre được cho là số nhẵn, chỉ có các thừa số nguyên tố nhỏ trong phân tích của nó.\nNghệ thuật và văn học.\nSố nguyên tố đã làm ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ và nhà văn. Nhà soạn nhạc người Pháp Olivier Messiaen sử dụng số nguyên tố để sáng tác nhạc qua \"hiện tượng tự nhiên\". Trong một số sáng tác như \"La Nativité du Seigneur\" (1935) và \"Quatre études de rythme\" (1949–1950), ông đồng thời áp dụng nhạc tố với độ dài cho bởi các số nguyên tố khác nhau để tạo những nhịp điệu đặc biệt: số 41, 43, 47 và 53 xuất hiện trong khúc luyện thứ ba \"Neumes rythmiques\". Theo Messiaen, phong cách sáng tác này \"lấy cảm hứng từ vận động tự nhiên, vận động theo hướng tự do và khác biệt\".\nTrong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng \"Contact\" (1985), nhà khoa học Carl Sagan gợi ý rằng phân tích nguyên tố có thể được dùng để tạo mặt phẳng ảnh hai chiều khi liên lạc với người ngoài hành tinh, một ý tưởng mà ông cùng nhà thiên văn người Hoa Kỳ Frank Drake phát triển từ năm 1975. Trong tiểu thuyết \"The Curious Incident of the Dog in the Night-Time\" (\"Bí ẩn về con chó lúc nửa đêm\") của Mark Haddon, tác giả đánh số các mục của câu chuyện bằng các số nguyên tố liên tiếp để truyền đạt trạng thái tinh thần của nhân vật chính, một cậu bé có năng khiếu toán học mắc hội chứng Asperger. Số nguyên tố là hình ảnh ẩn dụ cho sự cô đơn trong tiểu thuyết \"La Solitudine dei Numeri Primi\" (\"Nỗi cô đơn của các số nguyên tố\") của Paolo Giordano, ở đó chúng được mô tả là \"người ngoài cuộc\" trong các số nguyên." ]
vect - ton - hm - gic - logarit - tam - nu - formula1 - xc - tp
0.709934
false
Tân Bình là tên một phủ thuộc tỉnh Gia Định ở miền Nam Việt Nam trước đây. Địa danh này tồn tại đến đầu thời Pháp thuộc thì bị chính quyền thực dân Pháp bãi bỏ. Vùng đất phủ Tân Bình trước khi giải thể gần tương ứng với địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Lịch sử. Theo sách "Gia Định thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức, vào năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý. Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, lập ra dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn. Tân Bình khi đó là huyện duy nhất của dinh Phiên Trấn, phủ Gia Định, có địa giới rất rộng, nằm từ hữu ngạn sông Sài Gòn đến tả ngạn sông Vàm Cỏ với diện tích khoảng 11.000 km², tức trên 1/5 diện tích toàn Nam bộ (63.058 km²). Năm 1808, dưới thời vua Gia Long, huyện Tân Bình được nâng lên thành phủ Tân Bình, bốn tổng trực thuộc lúc bấy giờ là: Bình Dương, Tân Long, Thuận An, Phước Lộc đều được đổi thành huyện. Từ năm Minh Mạng thứ 13 (1832), phủ Tân Bình trở thành vùng đất của tỉnh Gia Định. Về sau, do tách đất để lập thêm các phủ Tân An (1832) và Tây Ninh (1836) nên diện tích phủ Tân Bình chỉ còn lại khoảng 1.280 km², gồm 2 huyện: Bình Dương và Tân Long. Năm 1841, tách một phần huyện Bình Dương để lập ra huyện Bình Long (lỵ sở đặt tại Hóc Môn). Phủ Tân Bình lúc này bao gồm 3 huyện với 18 tổng, 365 thôn (hoặc các đơn vị hành chính cơ sở khác tương đương như: ấp, bang, điếm, giáp, hộ, lân, nậu, phường, sóc, thủ, thuộc, xã) trực thuộc: Sau khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ vào năm 1867, chính quyền thực dân Pháp bãi bỏ các đơn vị hành chính phủ, huyện, phân chia lại toàn bộ cõi Nam Kỳ. Các hạt thanh tra về sau cũng được đổi thành hạt tham biện ("arrondissement"), do các Chánh tham biện ("administrateur") người Pháp đứng đầu. Tuy vậy, chính quyền thực dân Pháp vẫn giữ lại cơ cấu hành chính cấp thấp như tổng, xã thôn. Như vậy, phủ Tân Bình cùng các huyện trực thuộc đã bị bãi bỏ hoàn toàn.
0
0_huyn_ngikm_yn_long
[ "huyn", "ngikm", "yn", "long", "tch", "thuc", "an", "ninh", "vnh", "giang" ]
[ "Mộc Hóa là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam.\nMộc Hóa từng là tỉnh lỵ của tỉnh Kiến Tường cũ trong giai đoạn 1956 - 1975 dưới thời Việt Nam Cộng hòa (tỉnh lỵ có tên là \"Mộc Hóa\"). Năm 1976, tỉnh Kiến Tường bị giải thể và sáp nhập vào tỉnh Long An. Ngày 18 tháng 3 năm 2013, một phần diện tích và dân số của huyện Mộc Hóa bao gồm thị trấn Mộc Hóa và một số xã lân cận được tách ra để thành lập mới thị xã Kiến Tường trực thuộc tỉnh Long An.\nĐịa lý.\nHuyện Mộc Hóa nằm ở phía tây tỉnh Long An, cách thành phố Tân An khoảng 70 km, là huyện thuộc vùng Đồng Tháp Mười, hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ lụt, có vị trí địa lý:\nTheo thống kê năm 2019, huyện có diện tích 297,64 km², dân số là 28.165 người, mật độ dân số đạt 95 người/km².\nĐịa hình.\nHuyện Mộc Hoá nằm ở vùng chuyển tiếp giữa bậc thềm phù sa cổ với vùng thượng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long nên có 2 kiểu cảnh quan chính là bồn trủng phèn và khối đất xám dọc biên giới Việt Nam - Campuchia.\nKhí hậu.\nMộc Hoá chịu ảnh hưởng vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào chia làm 2 mùa mưa nắng rõ rệt:\nNhiệt độ trung bình 27,3 °C, thấp nhất 16 °C, cao nhất 38 °C.\nTài nguyên.\nChủ yếu là đất trủng phèn và đất xám:\nY tế.\nToàn huyện có 1 bệnh viện đa khoa, Trung tâm Y tế huyện và 1 Trung tâm Dân số kế hoạch hóa gia đình Mộc Hóa. Tính đến năm 2010, huyện Mộc Hóa có 100% xã đạt chuẩn Quốc gia Y tế.\nLịch sử.\nThời phong kiến.\nVào thời nhà Nguyễn, Mộc Hóa chỉ là tên gọi một tổng thuộc huyện Quang Hóa, phủ Tây Ninh, tỉnh Gia Định. Vùng đất Mộc Hóa ngày nay khi ấy vừa thuộc tổng Mộc Hóa, huyện Quang Hóa, phủ Tây Ninh, tỉnh Gia Định và thuộc tổng Hưng Long, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường. Tổng Mộc Hóa gồm cả vùng rộng lớn nằm hai bên sông Vàm Cỏ Tây.\nThời Pháp thuộc.\nSau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (gồm Biên Hòa, Gia Định và Định Tường), đến năm 1867 thực dân Pháp bãi bỏ phân chia hành chính cũ của thời nhà Nguyễn và đặt ra các hạt Thanh tra mới. Hai tổng Mộc Hóa (nguyên thuộc huyện Quang Hóa, tỉnh Gia Định) và Hưng Long (nguyên thuộc huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường) khi đó cùng thuộc hạt Thanh tra Tân An. Năm 1872, tổng Hưng Long gồm 25 làng và tổng Mộc Hóa gồm 9 làng.\nNăm 1876, Pháp đổi tên các hạt Thanh tra thành hạt tham biện. Đến ngày 1 tháng 1 năm 1900, lại đổi các hạt tham niện thành tỉnh. Hai tổng Hưng Long và Mộc Hóa khi đó cùng thuộc tỉnh Tân An. Năm 1910, hai tổng Hưng Long và Mộc Hóa có các làng trực thuộc như sau:\nQuận Mộc Hóa được thành lập từ ngày 15 tháng 5 năm 1917, thuộc tỉnh Tân An, gồm có 2 tổng: Thanh Hoà Thượng với 9 làng, Thanh Hoà Hạ với 8 làng. Hai tổng cũ là Mộc Hóa và Hưng Long đều bị giải thể. Quận lỵ Mộc Hóa đặt tại làng Tuyên Thạnh vốn trước đó thuộc tổng Mộc Hóa.\nGiai đoạn 1956-1976.\nViệt Nam Cộng hòa.\nNgày 17 tháng 2 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành số Sắc lệnh 21-NV về việc thành lập tỉnh Mộc Hóa. Đất đai tỉnh Mộc Hóa bao gồm toàn bộ quận Mộc Hóa (thuộc tỉnh Tân An), một phần quận Thủ Thừa (thuộc tỉnh Tân An), một phần đất tỉnh Sa Đéc và một phần đất tỉnh Mỹ Tho. Tỉnh lỵ đặt tại Mộc Hóa.\nNgày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm lại ban hành Sắc lệnh 143-NV để \"thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam\". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Kiến Tường được thành lập do đổi tên từ tỉnh Mộc Hóa trước đó. Tỉnh lỵ tỉnh Kiến Tường vẫn giữ nguyên tên là \"Mộc Hóa\", về mặt hành chánh thuộc xã Tuyên Thạnh, quận Châu Thành.\nNgày 24 tháng 4 năm 1957, tỉnh Kiến Tường bao gồm ba quận: Châu Thành, Tuyên Bình và Ấp Bắc.\nNgày 7 tháng 6 năm 1958, tỉnh Kiến Tường bao gồm ba quận: Châu Thành, Tuyên Bình, Kiến Bình. Trong đó, quận Kiến Bình đổi tên từ quận Ấp Bắc.\nNgày 10 tháng 3 năm 1959, tỉnh Kiến Tường được lập thêm quận mới là quận Tuyên Nhơn, do tách từ quận Kiến Bình. Cho đến năm 1975, tỉnh Kiến Tường bao gồm bốn quận: Châu Thành, Kiến Bình, Tuyên Nhơn và Tuyên Bình.\nChính quyền Cách mạng.\nVề phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, để đối phó kịp thời với âm mưu địch và chỉ đạo sát đúng với thực tế tình hình địa phương, tháng 7 năm 1957 tách Mộc Hóa ra khỏi tỉnh Tân An, lập đơn vị hành chính cấp tỉnh, vẫn lấy tên là tỉnh Kiến Tường như bên chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, bên dưới tỉnh Kiến Tường chia làm bốn vùng, mỗi vùng tương ứng với một quận của phía Việt Nam Cộng hòa:\nSau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì tên gọi tỉnh Kiến Tường cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng \"quận\" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng \"huyện\" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).\nBên cạnh đó, chính quyền Cách mạng cũng tách một phần đất đai xã Tân Bình (thuộc quận Kiến Bình cũ) và một phần đất đai xã Tân Đông (thuộc quận Tuyên Nhơn cũ) cùng thuộc tỉnh Kiến Tường để sáp nhập vào địa bàn tỉnh Mỹ Tho lúc bấy giờ (ngày nay là tỉnh Tiền Giang). Hiện nay, vùng đất này tương ứng với các xã Tân Hòa Đông, Thạnh Mỹ, Thạnh Tân, Thạnh Hòa cùng thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.\nNgày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc \"nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước\". Theo Nghị quyết này, tỉnh Long Châu Tiền, tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến Tường sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.\nNhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Long An, tỉnh Hậu Nghĩa và tỉnh Kiến Tường được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh.\nTừ năm 1976 đến nay.\nTháng 3 năm 1976, tỉnh Kiến Tường bị giải thể, sáp nhập vào tỉnh Long An. Ban đầu, toàn bộ đất tỉnh Kiến Tường cũ được chuyển thành một huyện mới: huyện Mộc Hóa của tỉnh Long An. Huyện Mộc Hóa lúc đó bao gồm 5 huyện và 1 thị xã vùng Đồng Tháp Mười ngày nay (thuộc tỉnh Long An) và có diện tích tự nhiên 2.296 km² với 21.390 hộ và khoảng 130.000 dân. Huyện Mộc Hóa khi đó bao gồm thị trấn Mộc Hóa và 29 xã: Bắc Hòa, Bình Hiệp, Bình Hòa, Bình Phong Thạnh, Hậu Thạnh, Hưng Điền A, Hưng Điền B, Kiến Bình, Nhơn Hòa Lập, Nhơn Ninh, Tân Đông, Tân Hòa, Tân Lập, Tân Ninh, Thái Bình Trung, Thái Trị, Thạnh Phú, Thạnh Phước, Thạnh Trị, Thuận Nghĩa Hòa, Thủy Đông, Tuyên Bình, Tuyên Thạnh, Vĩnh Châu A, Vĩnh Châu B, Vĩnh Đại, Vĩnh Lợi, Vĩnh Thanh, Vĩnh Trị.\nNgày 30 tháng 3 năm 1978, chia tách huyện Mộc Hóa thành 2 huyện: Mộc Hóa và Vĩnh Hưng. Huyện Mộc Hóa lúc này còn 19 xã: Tuyên Bình, Tân Lập, Bình Hòa, Nhơn Ninh, Bình Hiệp, Thạnh Trị, Tuyên Thạnh, Tân Hòa, Nhơn Hòa Lập, Hậu Thạnh, Bắc Hòa, Thuận Nghĩa Hòa, Tân Đông, Thủy Đông, Thạnh Phước, Bình Phong Thạnh, Tân Ninh, Kiến Bình, Thạnh Phú và thị trấn Mộc Hóa.\nNgày 20 tháng 7 năm 1978, chia xã Bình Hòa thành 2 xã: Bình Hòa Đông và Bình Hòa Tây.\nNgày 19 tháng 9 năm 1980, Hội đồng Chính phủ Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 298-CP, chia huyện Mộc Hóa thành 2 huyện: Mộc Hóa và Tân Thạnh. Huyện Mộc Hóa lúc này còn 10 xã: Tuyên Bình, Tuyên Thạnh, Bình Hiệp, Thạnh Trị, Bình Hòa Tây, Bình Hòa Đông, Bình Phòng Thạnh, Thạnh Phước, Tân Lập, Thạnh Phú và thị trấn Mộc Hóa.\nNgày 4 tháng 4 năm 1989, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định 37-HĐBT. Theo đó: \nNgày 26 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 74/HĐBT. Theo đó:\nNgày 24 tháng 3 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 27-CP. Theo đó:\nTừ đó, huyện Mộc Hóa có 13 đơn vị hành chính, bao gồm thị trấn Mộc Hóa và 12 xã: Bình Hiệp, Bình Hòa Đông, Bình Hòa Tây, Bình Hòa Trung, Bình Phong Thạnh, Bình Tân, Bình Thạnh, Tân Lập, Tân Thành, Thạnh Hưng, Thạnh Trị, Tuyên Thạnh.\nNgày 18 tháng 3 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Mộc Hóa như sau:\nNgày 1 tháng 1 năm 2020, chuyển xã Bình Phong Thạnh thành thị trấn Bình Phong Thạnh (thị trấn huyện lỵ huyện Mộc Hóa), huyện Mộc Hóa có 1 thị trấn và 6 xã như hiện nay.\nHành chính.\nHuyện Mộc Hóa có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Bình Phong Thạnh (huyện lỵ) và 6 xã: Bình Hòa Đông, Bình Hòa Tây, Bình Hòa Trung, Bình Thạnh, Tân Lập, Tân Thành.", "Châu Phú là một huyện thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam. Châu Phú là huyện nằm trong tứ giác Long Xuyên ở phía Hữu ngạn sông Hậu. Đồng thời nằm ở trung tâm của tỉnh An Giang. Được thiên nhiên ưu đãi, hàng năm tiếp nhận lượng phù sa đáng kể. Dự kiến huyện Châu Phú sẽ trở thành thị xã Châu Phú trực thuộc tỉnh An Giang vào năm 2030.\nĐịa lý.\nHuyện Châu Phú nằm ở khu vực trung tâm của tỉnh An Giang, có vị trí địa lý:\nHuyện lỵ của huyện là thị trấn Cái Dầu, cách thành phố Long Xuyên 33 km về phía bắc và cách thành phố Châu Đốc 22 km về phía nam. Huyện có diện tích tự nhiên 425,7 km², trên địa bàn huyện có nhiều kinh rạch dẫn nước vào đồng như: rạch Thầy Phó, rạch Hóa Cù, kinh xáng Cây Dương (Bình Mỹ), rạch Phù Dật, rạch Voi (Cái Dầu), kinh xáng Vịnh Tre (Vĩnh Thạnh Trung), kinh Cần Thảo, kinh Đào (Mỹ Đức)...\nDân số.\nTính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số của huyện là 206.676 người, mật độ dân số đạt 485 người/km². Trong đó dân số nam là 102.793 người, nữ là 103.883 người. So với thời điểm năm 2009, dân số huyện Châu Phú đã giảm đi gần 38.500 người.\nLịch sử.\nHuyện Châu Phú có nhiều di tích lịch sử. Tại đây có vị anh hùng dân tộc Trần Văn Thành, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa. Dân chúng đa số theo đạo Hòa Hảo, mỗi nhà thường có ảnh thờ Huỳnh Phú Sổ, là Giáo chủ của đạo.\nThời phong kiến.\nChâu Phú xưa bao gồm cả thành phố Châu Đốc ngày nay, là vùng đất hoang vu ngập nước, rừng rậm, nhiều thú dữ thuộc đạo Châu Đốc của dinh Long Hồ. Thời vua Gia Long, Châu Phú thuộc huyện Vĩnh Định của trấn Vĩnh Thanh.\nCho đến giữa thế kỷ 18, vùng Châu Phú chỉ có rải rác vài nhóm lưu dân người Việt sinh sống ở ven bờ, cồn bãi sông Hậu. Bên cạnh người Việt, người Hoa, còn có số người Chăm đến định cư lập làng ở vùng ngang chợ Châu Đốc (Châu Giang ngày nay), ở cù lao Cổ Tầm Bon (Khánh Hòa ngày nay). Số dân này tổ chức thành từng đội có quan hiệp quản cầm đầu.\nNăm 1783 ông Dương Văn Hóa nên khai khẩn cù lao Năng Gù lập thôn đặt tên Bình Lâm (nay là Bình Thủy) một trong những nơi được khai phá đầu tiên trên địa bàn huyện, ông cũng lập Đình Bình Lâm vào năm này nay là Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Bình Thủy.\nThời Gia Long trên địa bàn châu Châu Phú ngày nay có ba thôn theo tứ tự từ Bắc xuống Nam gồm: Bình Thạnh Tây, Bình Trung, Bình Lâm. Thời Minh Mạng có bốn thôn: Mỹ Đức (thôn mới), Vĩnh Thạnh Trung (Bình Thạnh Tây cũ), Bình Mỹ (Bình Trung cũ), Bình Lâm. Ngoài ra còn cón các thôn mà ngày nay không còn nằm trên địa bàn Châu Phú. Châu Phú lúc này là một tổng của huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Phủ trị và huyện trị đặt tại thôn Mỹ Đức.\nThời Pháp thuộc.\nNăm 1867, sau khi chiếm toàn bộ Nam Kỳ, thực dân Pháp chia tỉnh An Giang thành nhiều khu vực gọi là hạt tham biện. Châu Phú thuộc hạt tham biện Châu Đốc. Từ năm 1867 đến 1873, Quản cơ Trần Văn Thành tập hợp nghĩa binh tại Láng Linh - Bảy Thưa để chống Pháp. Hiện đền thờ ông tọa lạc tại xã Thạnh Mỹ Tây, bên bờ kênh xáng Vịnh Tre.\nNăm 1899, Pháp bỏ hạt lập tỉnh, vùng đất này thuộc quận Châu Thành, tỉnh Châu Đốc. Năm 1917, huyện Châu Phú ngày nay tương ứng với các xã Bình Long, Bình Mỹ, Khánh Hoà, Thạnh Mỹ Tây, Vĩnh Thạnh Trung của tổng An Lương và các xã Mỹ Đức, Châu Phú của tổng Châu Phú, quận Châu Thành, tỉnh Châu Đốc, bao gồm cả phần đất của thành phố Châu Đốc bây giờ.\nNăm 1919, quận Châu Thành đổi thành quận Châu Phú thuộc tỉnh Châu Đốc. Tuy nhiên năm 1939 lại đổi về tên quận Châu Thành như cũ. Quận lỵ đặt tại làng Châu Phú thuộc tổng Châu Phú. Thời Pháp thuộc, làng Châu Phú vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc.\nSau Cách mạng tháng Tám (1945), huyện Châu Phú vẫn thuộc tỉnh Châu Đốc. Năm 1948 huyện Châu Phú chia làm hai huyện: huyện Châu Phú A thuộc tỉnh Long Châu Hậu và huyện Châu Phú B (nay là huyện An Phú) thuộc tỉnh Long Châu Tiền. Năm 1950 huyện Châu Phú A thuộc tỉnh Long Châu Hà. Năm 1951 huyện Châu Phú B thuộc tỉnh Long Châu Sa. Năm 1954 huyện Châu Phú trở lại tên cũ là huyện Châu Thành thuộc tỉnh Châu Đốc.\nGiai đoạn 1956-1975.\nNgày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thành lập tỉnh An Giang trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên trước đó. Cũng sau năm 1956, các làng gọi là xã.\nLúc này ở vùng đất cả hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc trước đó đều có quận Châu Thành cả. Tuy nhiên, do tỉnh lỵ tỉnh An Giang có tên là \"Long Xuyên\" và được đặt ở quận Châu Thành thuộc tỉnh Long Xuyên cũ, cho nên quận Châu Thành thuộc tỉnh Châu Đốc cũ được đổi tên là quận Châu Phú như ở giai đoạn 1919-1939. Quận lỵ Châu Phú đặt tại xã Châu Phú thuộc tổng Châu Phú.\nNgày 24 tháng 4 năm 1957, quận Châu Phú thuộc tỉnh An Giang, gồm 3 tổng (Châu Phú, An Phú, An Lương) với 27 xã. Ngày 6 tháng 8 năm 1957, tách một phần phía bắc quận Châu Phú để thành lập quận An Phú bao gồm tổng An Phú với 9 xã và 4 xã của tổng Châu Phú là Đa Phước, Vĩnh Hậu, Vĩnh Phong, Vĩnh Trường. Quận Châu Phú còn lại 2 tổng với 14 xã:\nNgày 8 tháng 9 năm 1964, chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định tái lập tỉnh Châu Đốc. Quận Châu Phú trở lại thuộc tỉnh Châu Đốc cho đến năm 1975. Sau năm 1965, tất cả các tổng đều bị giải thể. Lúc bấy giờ, xã Châu Phú thuộc quận Châu Phú vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Phú và đồng thời cũng là tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc trong giai đoạn 1964-1975. Tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc khi đó lại có tên là \"Thị xã Châu Phú\", do nằm trong khu vực xã Châu Phú, quận Châu Phú.\nNăm 1957, chính quyền Cách mạng cũng đặt huyện Châu Phú thuộc tỉnh An Giang, giống như sự phân chia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Giữa năm 1966, tách xã Châu Phú ra khỏi huyện Châu Phú để thành lập thị xã Châu Đốc trực thuộc tỉnh An Giang.\nTrong giai đoạn 1964-1971, địa bàn tỉnh Châu Đốc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh An Giang của chính quyền Cách mạng quản lý. Chính vì vậy, trong giai đoạn này chính quyền Cách mạng vẫn đặt huyện Châu Phú và thị xã Châu Đốc cùng thuộc tỉnh An Giang.\nTháng 12 năm 1968, chính quyền Cách mạng lại điều chỉnh hành chính trong tỉnh An Giang như sau: huyện Châu Phú cắt 5 xã là Châu Giang, Hưng Nhơn, Hiệp Xương, Bình Thạnh Đông và Hoà Lạc nhập với 4 xã Long Sơn, Phú Lâm, Phú An, Hoà Hảo của huyện Tân Châu để thành lập huyện Phú Tân.\nNăm 1971, Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập tỉnh Châu Hà, tách ra từ tỉnh An Giang, trên phần đất tỉnh Châu Đốc và tỉnh Hà Tiên trước năm 1956. Lúc này, huyện Châu Phú vẫn thuộc về tỉnh An Giang. Tháng 5 năm 1974, huyện Châu Phú thuộc tỉnh Long Châu Hà.\nSau năm 1975.\nSau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt huyện Châu Phú trực thuộc tỉnh Long Châu Hà.\nĐầu năm 1976, huyện Châu Phú trở lại thuộc tỉnh An Giang, ban đầu gồm 8 xã: Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Mỹ Đức, Khánh Hoà, Vĩnh Thạnh Trung, Thạnh Mỹ Tây, Bình Long và Bình Mỹ.\nNgày 27 tháng 1 năm 1977, sáp nhập xã Vĩnh Nguơn vào thị xã Châu Đốc theo Quyết định số 199/TC.UB của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.\nNgày 25 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 181-CP điều chỉnh địa giới và đổi tên một số xã và thị trấn thuộc tỉnh An Giang, theo đó:\nNgày 23 tháng 8 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 300-CP về việc điều chỉnh địa giới một số huyện và thị xã thuộc tỉnh An Giang, theo đó:\nNgày 12 tháng 1 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 8-HĐBT. Theo đó:\nNgày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1107/NQ-UBTVQH14 thành lập thị trấn Vĩnh Thạnh Trung trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Vĩnh Thạnh Trung (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2021). Huyện Châu Phú có 2 thị trấn và 11 xã trực thuộc như hiện nay.\nNgày 29 tháng 4 năm 2022, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 354/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Cái Dầu mở rộng (bao gồm thị trấn Cái Dầu và hai xã Bình Long, Bình Mỹ) là đô thị loại IV.\nHành chính.\nNgày nay, huyện Châu Phú có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Cái Dầu (huyện lỵ), Vĩnh Thạnh Trung và 11 xã: Bình Long, Bình Mỹ, Bình Chánh, Bình Phú, Bình Thủy, Đào Hữu Cảnh, Khánh Hòa, Mỹ Đức, Mỹ Phú, Ô Long Vĩ, Thạnh Mỹ Tây được chia thành 100 khóm - ấp.\nVăn hóa.\nNhiều lễ hội tại Châu Phú mang sắc thái dân tộc độc đáo như: lễ Kỳ Yên và đua thuyền đình thần đình Bình Thủy, lễ vía Quản cơ Trần Văn Thành. Châu Phú có nhiều món ẩm thực đa dạng, mang chậm bản chất làng quê như: Cá lóc nướng trui, Lẫu cháo Cá lóc rau đắng, khô cá tra phồng và ba sa.\nĐặc biệt, sau mùa nước nổi (nước lũ ngập đồng), mọi ngõ ngách, mọi con kênh ở huyện cơ man nào là cá linh, cá thác lát, cá chốt, cá leo... dân chúng đánh bắt bằng chày lưới, gió cất, gió gạc, thả đáy... cá đầy ghe xuồng, ăn không hết phải phơi khô, làm mắm, nước mắm, những ai từng sống ở An Giang giờ tha hương không bao giờ quên mùa nước nổi.", "Hà Nội là thủ đô, thành phố trực thuộc trung ương và là một trong hai đô thị loại đặc biệt của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là thành phố lớn thứ hai, có vị trí là trung tâm chính trị, văn hóa, giáo dục, một trong hai trung tâm kinh tế quan trọng tại Việt Nam. Hà Nội nằm về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, với địa hình bao gồm vùng đồng bằng trung tâm và vùng đồi núi ở phía bắc và phía tây thành phố. Với diện tích 3.359,82 km², và dân số 8,4 triệu người, Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất Việt Nam, đồng thời cũng là thành phố đông dân thứ hai và có mật độ dân số cao thứ hai trong 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh của Việt Nam, nhưng phân bố dân số không đồng đều. Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12 quận, 17 huyện và 1 thị xã.\nHà Nội đã sớm trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Với vai trò thủ đô, Hà Nội là nơi tập trung nhiều địa điểm văn hóa giải trí, công trình thể thao quan trọng của đất nước, đồng thời cũng là địa điểm được lựa chọn để tổ chức nhiều sự kiện chính trị và thể thao quốc tế. Đây là nơi tập trung nhiều làng nghề truyền thống, đồng thời cũng là một trong ba vùng tập trung nhiều hội lễ của miền Bắc Việt Nam. Thành phố có chỉ số phát triển con người ở mức cao, dẫn đầu trong số các đơn vị hành chính của Việt Nam. Nền ẩm thực Hà Nội với nhiều nét riêng biệt cũng là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch tới thành phố. Năm 2019, Hà Nội là đơn vị hành chính Việt Nam xếp thứ 2 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 8 về GRDP bình quân đầu người và đứng thứ 41 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Thành phố được UNESCO trao tặng danh hiệu \"Thành phố vì hòa bình\" vào ngày 16 tháng 7 năm 1999. Khu Hoàng thành Thăng Long cũng được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.\nTên gọi.\nTrước khi có tên gọi như hiện nay, Hà Nội đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau. Tên gọi “Hà Nội” bắt đầu được dùng làm địa danh ở Việt Nam từ năm Minh Mạng thứ 12 (năm 1831) khi có một tỉnh có tên là tỉnh Hà Nội được thành lập ở Bắc Thành. “Hà Nội” viết bằng chữ Hán là “”, nghĩa là \"bao quanh bởi các con sông\", tên gọi này phản ánh vị trí địa lý của tỉnh Hà Nội. Tỉnh này nằm giữa hai con sông là sông Nhị ở phía đông bắc và sông Thanh Quyết ở phía tây nam.\nTỉnh Hà Nội gồm có bốn phủ là Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hoà và Lý Nhân. Toà thành nơi có đặt trị sở của tỉnh Hà Nội, tức tỉnh lị của tỉnh Hà Nội, được gọi là thành Hà Nội theo tên tỉnh. Thành Hà Nội nằm trên địa phận hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Cả hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận đều cùng thuộc phủ Hoài Đức. Ngày 1 tháng 10 năm 1888, vua Đồng Khánh ký chỉ dụ cắt toàn bộ huyện Thọ Xương và một phần huyện Vĩnh Thuận của tỉnh Hà Nội làm nhượng địa cho Pháp để Pháp thành lập thành phố Hà Nội. Trước đó, ngày 19 tháng 7, tổng thống Pháp Marie François Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội trước khi có sự công nhận của Triều đình Việt Nam. Năm 1890, phủ Lý Nhân bị tách khỏi tỉnh Hà Nội, đổi thành tỉnh Hà Nam.\nNăm 1896, tỉnh lị của tỉnh Hà Nội được dời ra làng Cầu Đơ thuộc tổng Thanh Oai Thượng, huyện Thanh Oai. Để tránh trùng tên với thành phố Hà Nội, năm 1902, tỉnh Hà Nội được đổi tên thành tỉnh Cầu Đơ theo tên của tỉnh lị. Ngày 6 tháng 12 năm 1904, quan toàn quyền Đông Dương ra nghị định đổi tên tỉnh Cầu Đơ và tỉnh lị của tỉnh này thành “Hà Đông”. Tên gọi “Hà Đông” là do quan đốc học tỉnh Cầu Đơ Vũ Phạm Hàm đề xuất, lấy từ một câu nói của Lương Huệ vương được ghi trong sách Mạnh Tử là “” (âm Hán Việt: \"Hà Nội hung, tắc di kỳ dân ư Hà Đông, di kỳ túc ư Hà Nội\"), có nghĩa là Hà Nội bị mất mùa thì chuyển dân ở Hà Nội sang Hà Đông, chuyển lương thực ở Hà Đông sang Hà Nội. “Hà Nội” trong câu nói trên của Lương Huệ vương là chỉ vùng phía bắc sông Hoàng Hà, còn “Hà Đông” là chỉ vùng phía đông sông Hoàng Hà, thuộc tây nam bộ tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc ngày nay.\nLịch sử.\nThời kỳ tiền Thăng Long.\nNhững di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên vùng núi. Phải tới khoảng 4 hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người mới quay lại sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời đại văn hóa: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. Những cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai đoạn tiền sử này tương ứng với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thế kỷ III trước Công Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về chính trị và xã hội.\nThất bại của Thục Phán đầu thế kỷ II trước Công Nguyên đã kết thúc giai đoạn độc lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một ngàn năm do các triều đại phong kiến Trung Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, Âu Lạc cũ được chia thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó thuộc quận Giao Chỉ. Vắng bóng trong sử sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng năm 454–456 thời Lưu Tống, Hà Nội mới được ghi lại là trung tâm của huyện Tống Bình. Năm 226 Nhà Hán khi cai trị Giao Châu đã đổi tên Tống Bình thành Long Uyên (hoặc Long Biên). Năm 544, Lý Bí nổi dậy chống lại nhà Lương, tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Uyên. Người cháu của Lý Bí là Lý Phật Tử tới đóng đô ở Cổ Loa, nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài tới năm 602. Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Long Uyên lại được đổi thành Tống Bình, là trung tâm của An Nam đô hộ phủ. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành trì mới, Tống Bình được đổi tên thành \"Đại La\" – thủ phủ của Tĩnh Hải quân. Theo truyền thuyết, khi đắp thành, Cao Biền thấy một vị thần hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy, sử sách còn gọi Thăng Long là đất \"Long Đỗ\". Thế kỷ X, sau chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán, Cổ Loa một lần nữa trở thành kinh đô của nước Việt.\nThăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh.\nSau khi lên ngôi năm 1009 tại Hoa Lư, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời đô về Đại La. Theo một truyền thuyết phổ biến, khi tới Đại La, Lý Thái Tổ nhìn thấy một con rồng bay lên, vì vậy đặt tên kinh thành mới là \"Thăng Long\". Kinh thành Thăng Long khi đó giới hạn bởi ba con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô phía Bắc và sông Kim Ngưu phía Nam. Khu hoàng thành được xây dựng gần hồ Tây với cung điện hoàng gia cùng các công trình chính trị. Phần còn lại của đô thị là những khu dân cư, bao gồm các phường cả nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Ngay trong thế kỷ X, nhiều công trình tôn giáo nhanh chóng được xây dựng như chùa Diên Hựu phía Tây hoàng thành xây năm 1049, chùa Báo Thiên xây năm 1057, Văn Miếu xây năm 1070, Quốc Tử Giám dựng năm 1076. Chỉ sau một thế kỷ, Thăng Long trở thành trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả quốc gia.\nNhà Trần nối bước nhà Lý cai trị Đại Việt, coi Thăng Long là kinh đô thứ nhất và Thiên Trường là kinh đô thứ hai, nơi các Thượng hoàng ở. Kinh thành Thăng Long tiếp tục được xây dựng. Hoàng thành được củng cố và xuất hiện thêm những cung điện. Năm 1230, Thăng Long được chia thành 61 phường, kinh thành đông đúc hơn dù địa giới không thay đổi. Giai đoạn này cũng ghi nhận sự xuất hiện của những cư dân ngoại quốc, như người Hoa, người Java và người Ấn Độ. Nền kinh tế công thương nghiệp cũng sản sinh tầng lớp thị dân và Thăng Long còn là nơi quy tụ của nhiều học giả, trí thức như Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu và Chu Văn An. Trong cuộc chiến tranh với nhà Nguyên, kinh thành Thăng Long ba lần bị chiếm giữ nhưng đều kết thúc trong chiến thắng của Đại Việt. Cuối thế kỷ XIV, thời kỳ nhà Trần suy vi, một quý tộc ngoại thích là Hồ Quý Ly thâu tóm quyền lực, ép vua Trần dời kinh đô về Thanh Hóa. Khi Hồ Quý Ly chính thức lên ngôi, lập nên nước Đại Ngu năm 1400, kinh đô mới mang tên Tây Đô, Thăng Long được đổi thành \"Đông Đô\". Nhưng vương triều của nhà Hồ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành \"Đông Quan\". Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt đầu từ năm 1407 và kéo dài tới năm 1428. Các nho sĩ và người dân Thăng Long thời ấy cũng thường tự nhận Thăng Long là \"Tràng An\", mang ý nghĩa \"bình yên lâu dài\" hoặc \"phồn thịnh mãi mãi\". Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu cho rằng Tràng An là để chỉ vùng đất của Ninh Bình chứ không phải Thăng Long .\nSau chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và Đông Đô cũng lấy lại vị thế kinh thành. Năm 1430, thành phố được đổi tên thành \"Đông Kinh\", đến 1466 được gọi là phủ Trung Đô. Hoàng thành Thăng Long dưới thời nhà Lê tiếp tục được mở rộng. Bên cạnh, khu vực dân cư được chia thành 2 huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường. Thời kỳ này, đứng đầu bộ máy hành chính là chức Phủ doãn. Thành phố tiếp tục một thời kỳ của những phường hội buôn bán, tuy bị hạn chế bởi tư tưởng ức thương của nhà Lê. Trong giai đoạn tranh giành quyền lực giữa nhà Lê, nhà Mạc và chúa Trịnh, Thăng Long vẫn duy trì vị trí kinh đô. Sự phức tạp của chính trị thời kỳ này cũng đem lại cho thành phố một điểm đặc biệt: Bên cạnh hoàng thành của vua Lê, phủ Chúa Trịnh được xây dựng và là trung tâm quyền lực thực sự. Nhờ nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của ngoại thương, đô thị Thăng Long bước vào thời kỳ phồn vinh, thu hút thêm nhiều cư dân tới sinh sống. Câu ca \"Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến\" nói lên sự sầm uất giàu có của thành phố, giai đoạn này còn có tên gọi khác là \"Kẻ Chợ\". Nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes ước tính dân số Thăng Long khi đó khoảng 1 triệu người. William Dampier, nhà phiêu lưu người Anh, đưa ra con số thường được xem hợp lý hơn, khoảng 2 vạn nóc nhà.\nMùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra miền Bắc lật đổ chính quyền chúa Trịnh, chấm dứt hai thế kỷ chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài. Sau khi Nguyễn Huệ cùng quân Tây Sơn quay về miền Nam, năm 1788, nhà Thanh đưa quân xâm lược Đại Việt. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi ngày 22 tháng 12 năm 1788 rồi đưa quân ra Bắc. Sau chiến thắng ở trận Ngọc Hồi – Đống Đa, nhà Tây Sơn trị vì Đại Việt với kinh đô mới ở Phú Xuân. Hoàng đế Quang Trung đổi tên Thăng Long thành \"Bắc Thành\".\nThời nhà Nguyễn và Pháp thuộc.\nTriều đại Tây Sơn sụp đổ sau một thời gian ngắn ngủi, Gia Long lên ngôi năm 1802 lấy kinh đô ở Phú Xuân, bắt đầu nhà Nguyễn. Năm 1805, Gia Long cho phá tòa thành cũ của Thăng Long, xây dựng thành mới mà dấu vết còn lại tới ngày nay, bao bọc bởi các con đường Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Trần Phú và Phùng Hưng. Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng, toàn quốc được chia thành 29 tỉnh, Thăng Long thuộc tỉnh \"Hà Nội\". Với hàm nghĩa \"nằm trong sông\", tỉnh Hà Nội khi đó gồm 4 phủ, 15 huyện, nằm giữa sông Hồng và Sông Đáy. Tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Sơn Tây, và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam; trong đó Phủ Hoài Đức gồm 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm; phủ Thường Tín gồm 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên; phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện: Sơn Minh (nay là Ứng Hòa), Hoài An (nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức), Chương Đức (nay là Chương Mỹ – Thanh Oai); và phủ Lý Nhân gồm 5 huyện: Nam Xang (nay là Lý Nhân), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục. Hà Nội có tên gọi bắt đầu từ đây.\nNền kinh tế Hà Nội nửa đầu thế kỷ XIX cũng khác biệt so với Thăng Long trước đó. Các phường, thôn phía Tây và Nam chuyên về nông nghiệp, còn phía Đông, những khu dân cư sinh sống nhờ thương mại, thủ công làm nên bộ mặt của đô thị Hà Nội. Bên cạnh một số cửa ô được xây dựng lại, Hà Nội thời kỳ này còn xuất hiện thêm những công trình tín ngưỡng, tôn giáo như đền Ngọc Sơn, chùa Báo Ân. \nNăm 1858, Pháp bắt đầu nổ súng xâm chiếm Đông Dương. Sau khi chiếm ba tỉnh Đông Nam Kỳ, quân đội Pháp dưới sự chỉ đạo của Francis Garnier tiến đến Hà Nội đầu tháng 11 năm 1873. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn chủ hòa, nhưng dân chúng Hà Nội vẫn tiếp tục chống lại người Pháp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. Năm 1884, nhà Nguyễn ký hòa ước công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hà Nội cũng bước vào thời kỳ thuộc địa.\nNgày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội. Thành phố Hà Nội lúc này có diện tích nhỏ bao gồm 2 huyện Thọ Xương và huyện Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức. Phạm vi thành phố bó hẹp nằm trong khu vực thành Đại La mở rộng thời nhà Mạc. 3 phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa thuộc về tỉnh Hà Đông. Phủ Lý Nhân tách ra tạo thành tỉnh Hà Nam. Một thời gian ngắn sau, khu vực phía Tây vườn bách thảo và khu vực tương ứng với các quận Đống Đa, Tây Hồ ngày nay được tách ra thành huyện Hoàn Long, trực thuộc tỉnh Hà Đông, đến khoảng năm 1940 thì sáp nhập trở lại.\nĐến năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Liên bang Đông Dương. Nhờ sự quy hoạch của người Pháp, thành phố dần có được bộ mặt mới. Lũy thành thời Nguyễn đã bị triệt hạ, chỉ còn lại Cột Cờ, Cửa Bắc với vết đạn năm 1873, Đoan Môn và lan can rồng đá ở trong hoàng thành cũ; đến năm 1897 thì lũy thành hầu như bị phá hủy hoàn toàn. Năm 1901, các công trình phủ Thống sứ, Nhà bưu điện, Kho bạc, Nhà đốc lý, Nhà hát lớn, cầu Long Biên, Ga Hà Nội, những quảng trường, bệnh viện... được xây dựng. Hà Nội cũng có thêm trường đua ngựa, các nhà thờ Cơ Đốc giáo, trường Đại học Y khoa, Đại học Đông dương, Đại học Mỹ thuật, các trường Cao đẳng Pháp lý, Nông lâm cùng những nhà máy sản xuất rượu bia, diêm, hàng dệt, điện, nước... Khi những nhà tư bản người Pháp tới Hà Nội ngày một nhiều hơn, các rạp chiếu phim, nhà hát, khách sạn... dần xuất hiện, những con phố cũng thay đổi để phù hợp với tầng lớp dân cư mới. Vào năm 1921, toàn thành phố có khoảng 4.000 dân châu Âu và 100.000 dân bản địa.\nSự xuất hiện của tầng lớp tư sản Việt Nam khiến văn hóa Hà Nội cũng thay đổi. Nền văn hóa phương Tây theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam kéo theo những xáo trộn trong xã hội. Không còn là một kinh thành thời phong kiến, Hà Nội ít nhiều mang dáng dấp của một đô thị châu Âu. Thành phố vẫn tiếp tục giữ vai trò trung tâm tri thức, nghệ thuật của cả quốc gia, nơi tập trung các nhà thơ mới, những nhạc sĩ tân nhạc cùng những trí thức, học giả nổi tiếng.\nTrong hai cuộc chiến tranh.\nGiữa thế kỷ XX, Hà Nội chịu những biến cố phức tạp của lịch sử. Sự kiện Nhật Bản tấn công Đông Dương năm 1940 khiến Việt Nam phải nằm dưới sự cai trị của cả đế quốc Pháp và Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, tại Hà Nội, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Nhưng chỉ năm tháng sau, quốc gia này phải đầu hàng quân Đồng Minh, kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào thời điểm thuận lợi đó, lực lượng Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, lật đổ nhà nước Đế quốc Việt Nam, buộc vua Bảo Đại thoái vị, giành lấy quyền lực ở Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội. Sau độc lập, thành phố chia thành các khu phố, đổi tên nhiều vườn hoa, đường phố, như đại lộ (\"Avenue\") Paul Doumer đổi tên là Nhân quyền, đường (\"Rue de la\") République đổi tên là Dân Quyền, đại lộ Puginier đổi tên là Dân Chủ Cộng Hòa, đường Ollivier đổi là Hạnh Phúc, đường Dr Morel đổi là Tự Do...\nCuối năm 1945, quân đội Pháp quay lại Đông Dương. Sau những thương lượng không thành, Chiến tranh Đông Dương bùng nổ vào tháng 12 năm 1946 và thành phố Hà Nội nằm trong vùng kiểm soát của người Pháp. Sau khi Quốc gia Việt Nam được thành lập năm 1949, Hà Nội được Pháp chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam quản lý. Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam Bảo Đại bổ nhiệm dược sĩ Thẩm Hoàng Tín làm Thị trưởng thành phố. Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ giúp Việt Minh kiểm soát toàn bộ miền Bắc Việt Nam, Hà Nội tiếp tục giữ vị trí thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 30 tháng 9 năm 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp ký Hiệp định chuyển giao Hà Nội về quân sự; ngày 2 tháng 10, ký Hiệp định chuyển giao Hà Nội về hành chính. Vào thời điểm được tiếp quản, thành phố gồm 4 quận nội thành với 34 khu phố, 37.000 dân và 4 quận ngoại thành với 45 xã, 16.000 dân. Cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, Hà Nội nhiều lần thay đổi về hành chính và địa giới. Năm 1958, bốn quận nội thành bị xóa bỏ và thay bằng 12 khu phố. Năm 1959, khu vực nội thành được chia lại thành 8 khu phố, Hà Nội cũng có thêm 4 huyện ngoại thành. Tháng 4 năm 1961, Quốc hội quyết định mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm một số xã của Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên. Toàn thành phố có diện tích 584 km², dân số 91.000 người. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, bốn khu phố nội thành Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa và 4 huyện ngoại thành Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm được thành lập.\nKhi cuộc Chiến tranh Việt Nam leo thang, Hà Nội phải hứng chịu những cuộc tấn công trực tiếp từ Hoa Kỳ. Riêng trong chiến dịch Linebacker II năm 1972, trong khoảng 2.200 người dân bị thiệt mạng ở miền Bắc, số nạn nhân ở Hà Nội được thống kê là 1.318 người. Nhiều cơ quan, trường học phải sơ tán tới các tỉnh lân cận.\nHà Nội ngày nay.\nSau chiến tranh, Hà Nội tiếp tục giữ vai trò thủ đô của quốc gia Việt Nam thống nhất. Hà Nội đã được UNESCO trao danh hiệu \"Thành phố vì hòa bình\" vào ngày 16 tháng 7 năm 1999. Năm 2000, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tặng thưởng thành phố Hà Nội danh hiệu \"Thủ đô anh hùng\" vào ngày 4 tháng 10. Với tuổi đời hơn 1000 năm, Hà Nội chính là thủ đô lâu đời nhất trong 11 thủ đô của các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á.\nNgày 21 tháng 12 năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh Phú là Mê Linh, Sóc Sơn. Dân số Hà Nội lên tới con số 2,5 triệu người. Bên cạnh lượng dân cư các tỉnh tới định cư ở thành phố, trong khoảng thời gian từ 1977 tới 1984, Hà Nội cũng đưa 12.861 hộ, 21.587 nhân khẩu tới Lâm Đồng theo chính sách xây dựng kinh tế mới. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, ranh giới Hà Nội lại được điều chỉnh, chuyển lại 5 huyện và 1 thị xã đã lấy của Hà Sơn Bình năm 1978 cho Hà Tây và Mê Linh được nhập vào tỉnh Vĩnh Phúc. Hà Nội còn lại 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, với diện tích đất tự nhiên 924 km².\nNgày 28 tháng 10 năm 1995, quận Tây Hồ được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 3 phường Bưởi, Thụy Khuê, Yên Phụ thuộc quận Ba Đình và 5 xã Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng thuộc huyện Từ Liêm. Ngày 26 tháng 11 năm 1996, quận Thanh Xuân được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Thượng Đình, Kim Giang, Phương Liệt cùng một phần phường Nguyễn Trãi và Khương Thượng thuộc quận Đống Đa, với toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Nhân Chính thuộc huyện Từ Liêm và xã Khương Đình thuộc huyện Thanh Trì. Cùng lúc đó, quận Cầu Giấy cũng được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 4 thị trấn Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Mai Dịch và 3 xã Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa thuộc huyện Từ Liêm.\nNgày 6 tháng 11 năm 2003, thành lập quận Long Biên trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 10 xã Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và 3 thị trấn Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng thuộc huyện Gia Lâm. Cùng lúc đó, quận Hoàng Mai cũng được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 9 xã Định Công, Đại Kim, Hoàng Liệt, Thịnh Liệt, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam, Trần Phú, Yên Sở cùng một phần diện tích xã Tứ Hiệp thuộc huyện Thanh Trì, và toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường Mai Động, Tương Mai, Tân Mai, Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hai Bà Trưng.\nSau thời kỳ bao cấp, từ cuối thập niên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu vực ngoại ô Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa. Những cao ốc mọc lên ở khu vực nội đô và các trung tâm công nghiệp cũng được xây dựng ở những huyện ngoại thành. Sự phát triển cũng kéo theo những hệ lụy. Do không được quy hoạch tốt, giao thông thành phố thường xuyên ùn tắc khi số lượng xe máy tăng cao. Nhiều khu phố phải chịu tình trạng ngập úng mỗi khi mưa lớn. Mật độ dân số quá cao khiến những dân cư nội ô phải sống trong tình trạng chật chội và thiếu tiện nghi. Vào năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một người. Mật độ cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m²/người, thuộc hàng rất thấp so với các thành phố trên thế giới. Song việc tăng dân số quá nhanh cùng quá trình đô thị hóa thiếu quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở nên chật chội, ô nhiễm và giao thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc đang dần biến mất, thay vào đó là những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên các con phố. Hà Nội còn là một thành phố phát triển không đồng đều với giữa các khu vực như giữa các quận nội thành và huyện ngoại thành, nhiều nơi người dân vẫn chưa có được những điều kiện sinh hoạt thiết yếu. Năm 2012, Hà Nội được đánh giá là một trong những thành phố ô nhiễm nhất khu vực Đông Nam Á, với hàm lượng bụi cao gấp nhiều lần mức cho phép.\nNgày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội Việt Nam thông qua nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ 1 tháng 8 cùng năm. Theo nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được sáp nhập về Hà Nội. Từ diện tích gần 1.000 km² và dân số khoảng 3,4 triệu người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km² và dân số 6.232.940 người, nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới. Ngày 8 tháng 5 năm 2009, địa giới các huyện Thạch Thất và Quốc Oai được điều chỉnh lại. Cũng trong cùng thời điểm này, quận Hà Đông được thành lập từ thành phố Hà Đông trước đây và thành phố Sơn Tây được chuyển thành thị xã Sơn Tây như cũ.\nNăm 2010, Hà Nội đã tổ chức thành công Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội để lại dấu ấn trong lòng người dân và bạn bè quốc tế. Hoàng thành Thăng Long, văn bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám và Lễ hội Thánh Gióng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Nhiều công trình quan trọng như cầu Vĩnh Tuy, Bảo tàng Hà Nội, công viên Hòa Bình đã được khánh thành. Ngày 27 tháng 12 năm 2013, huyện Từ Liêm được chia thành hai quận là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm. Ngày 4 tháng 7 năm 2023, quận Đông Anh được thành lập trên cơ sở nguyên trạng diện tích tự nhiên và dân số của huyện Đông Anh cũ. Từ đó, Hà Nội có 13 quận, 12 huyện và 1 thị xã.\nĐịa lý.\nVị trí và lãnh thổ.\nThủ đô Hà Nội nằm về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, trong phạm vi từ 20°34' đến 21°18' vĩ độ Bắc và từ 105°17' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp với 8 tỉnh là Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Hà Nội cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km, cách thành phố Nam Định 87 km tạo thành 3 cực chính của Đồng bằng sông Hồng. Hiện nay, thành phố có diện tích 3358,6 km², chiếm khoảng 1% diện tích tự nhiên của cả nước, đứng hàng thứ 41 về diện tích trong 63 tỉnh, thành phố ở nước ta , và là 1 trong 17 thủ đô có diện tích trên 3000 km².\nCác điểm cực của thủ đô Hà Nội là:\nĐịa hình.\nĐại bộ phận diện tích Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Địa hình của Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông phản ánh rõ nét qua hướng dòng chảy tự nhiên của các con sông chính chảy qua Hà Nội, và có thể chia ra làm hai vùng.\nVùng đồng bằng thấp và khá bằng phẳng, chiếm đại bộ phận diện tích của các huyện thị xã và các quận nội thành, được bồi đắp bởi các dòng sông với các bãi bồi hiện đại, bãi bồi cao và các bậc thềm. Xen giữa các bãi bồi hiện đại và các bãi bồi cao còn có các vùng trũng với các hồ, đầm (dấu vết của các dòng sông cổ). Đó là các ô trũng tự nhiên rất dễ bị úng ngập trong mùa mưa lũ và khi có mưa lớn ở các huyện Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Thanh Oai, Quốc Oai, Chương Mỹ, Ứng Hòa, Mỹ Đức. Do được khai phá và canh tác từ lâu đời nên hiện nay ở Hà Nội có hệ thống đê điều ngăn lũ chạy dọc những triền sông. Hệ thống đê điều này khiến cho các cánh đồng trong đê không được bồi đắp phù sa hằng năm và phải xây dựng nhiều công trình thủy lợi để tưới và tiêu nước.\nVùng đồi núi tập trung ở ngoại thành phía bắc và phía tây thành phố, thuộc các huyện Sóc Sơn, Thạch Thất, Ba Vì, Quốc Oai và Mỹ Đức, với các đỉnh núi cao như Ba Vì (1296 m) , Viên Nam (1031 m), Hàm Lợn (462 m); trong đó đỉnh Ba Vì là điểm cao nhất của thành phố Hà Nội. Khu vực nội thành có một số gò đồi thấp như gò Đống Đa, núi Nùng, núi Sưa. Phần lớn các gò đồi trong nội thành tập trung ở quận Ba Đình.\nThủy văn.\nSông Hồng là con sông chính của thành phố, bắt đầu chảy vào Hà Nội ở huyện Ba Vì và ra khỏi thành phố ở khu vực huyện Phú Xuyên tiếp giáp Hưng Yên rồi xuôi về Nam Định, đã có nhiều gắn kết với Thăng Long từ thời nhà Trần. Sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm khoảng một phần ba chiều dài của con sông này trên đất Việt Nam. Hà Nội còn có sông Đà là ranh giới giữa Hà Nội với Phú Thọ, hợp lưu với sông Hồng ở phía Bắc thành phố tại huyện Ba Vì. Ngoài ra, trên địa phận Hà Nội còn nhiều sông khác như sông Đáy, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ... Các sông nhỏ chảy trong khu vực nội thành như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu... là những đường tiêu thoát nước của Hà Nội.\nHà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, là dấu vết còn lại của các dòng sông cổ. Trong khu vực nội thành, hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng 500 ha, đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh đô thị, ngày nay được bao quanh bởi nhiều khách sạn, biệt thự. Hồ Gươm nằm ở trung tâm lịch sử của thành phố, khu vực sầm uất nhất, luôn giữ một vị trí đặc biệt đối với Hà Nội. Trong khu vực nội ô có thể kể tới những hồ khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ... Ngoài ra, còn nhiều đầm hồ lớn nằm trên địa phận Hà Nội như Đồng Mô, Suối Hai, Đồng Quan, Mèo Gù, Xuân Khanh, Đồng Đò, Tuy Lai - Quan Sơn.\nDo quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần lớn các sông hồ Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Theo PGS–TS Trần Đức Hạ – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Cấp thoát nước và Môi trường thuộc Hội Cấp thoát nước Việt Nam, lượng nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi trường quá lớn. Chỉ tính riêng trong khu vực nội đô, mỗi ngày lượng nước thải xả thẳng ra hệ thống sông hồ vào khoảng 650.000 m³/ngày (2015). Sông Tô Lịch, trục tiêu thoát nước thải chính của thành phố, hàng ngày phải tiếp nhận khoảng 250.000 m³ nước thải xả thẳng xuống dòng sông mà không hề qua xử lý. Nó bị ô nhiễm nặng nề: nước sông càng lúc càng cạn, màu nước càng ngày càng đen và bốc mùi hôi thối nặng. Với chiều dài gần 20 km chảy qua địa bàn thủ đô, nhiều khúc của sông Nhuệ nước đen kịt, đặc quánh, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc và gần như không còn xuất hiện sự sống dưới lòng sông. Tương tự, sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ nước thải sinh hoạt mỗi ngày. Sông Lừ và sông Sét trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngưu khoảng 110.000 m³. Lượng nước thải sinh hoạt và công nghiệp này đều có hàm lượng hóa chất độc hại cao. Các sông mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu thoát nước còn phải nhận thêm một phần rác thải của người dân và chất thải công nghiệp. Những làng nghề thủ công cũng góp phần vào gây nên tình trạng ô nhiễm này.\nKhí hậu.\nKhí hậu Hà Nội mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa, được nêu trên trang web chính thức của Hà Nội. Tuy nhiên, dựa theo Phân loại khí hậu Köppen, trang web \"ClimaTemps.com\" lại xếp Hà Nội mang khí hậu cận nhiệt đới ẩm với mã Cwa.\nThời tiết có sự khác biệt rõ ràng giữa mùa nóng và mùa lạnh, do nằm khá sâu trong nội địa và gần như không có một vùng nước lớn nào giúp điều hoà khí hậu. Mặc dù thời tiết được chia làm hai mùa chính là mùa mưa – từ tháng 4 tới tháng 10 – và mùa khô – từ tháng 11 tới tháng 3, nhưng Hà Nội vẫn được tận hưởng thời tiết bốn mùa nhờ các tháng giao mùa. Mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 8, khí hậu nóng ẩm vào đầu mùa và cuối mùa mưa nhiều rồi mát mẻ, khô ráo vào tháng 9 và tháng 10. Mùa lạnh bắt đầu từ cuối tháng 11 đến hết tháng 3 năm sau. Từ cuối tháng 11 đến nửa đầu tháng 2 rét và hanh khô, từ nửa cuối tháng 2 đến hết tháng 3 lạnh ẩm và mưa phùn kéo dài từng đợt. Đôi khi mưa phùn còn có thể kéo dài đến tận cuối tháng 4. Trong khoảng tháng 9 đến giữa tháng 11, Hà Nội có những ngày thu với tiết trời mát mẻ (rõ rệt hơn Hải Phòng, Nam Định và nhiều tỉnh phía Bắc khác) do đón vài đợt không khí lạnh yếu tràn về. Tuy nhiên, do chịu sự tác động mạnh mẽ của gió mùa nên thời gian bắt đầu và kết thúc của mỗi mùa thường không đồng đều nhau giữa các năm, nên sự phân chia các tháng chỉ mang tính tương đối.\nNhiệt độ trung bình mùa đông của thành phố từ tháng 11 đến tháng 3 không vượt quá 22 °C, với tháng lạnh nhất là tháng 1 với nhiệt độ trung bình 16,4 °C, lúc thấp xuống tới 2,7 °C. Nhiệt độ trung bình mùa hạ của Hà Nội từ tháng 5 đến tháng 9 đều vượt 27 °C, với tháng nóng nhất là tháng 7 với nhiệt độ trung bình đạt 29,2 °C, lúc cao nhất lên tới 42,8 °C. Nhiệt độ trung bình cả năm là 23,6 °C, lượng mưa trung bình hàng năm vào mức 1.500mm đến 1.900mm. Vào tháng 5 năm 1926, nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức kỷ lục 42,8 °C. Tháng 1 năm 1955, nhiệt độ xuống mức thấp nhất, 2,7 °C do chịu ảnh hưởng của La Niña. Vào đầu tháng 6 năm 2017 với việc bị ảnh hưởng bởi El Niño trên toàn thế giới, Hà Nội phải hứng chịu đợt nóng dữ dội trong 1 tuần với nhiệt độ lên tới 42,5 °C, là nhiệt độ kỷ lục ghi nhận trong lịch sử. Hơn nữa, do chịu ảnh hưởng của hiệu ứng đô thị và là vùng khí hậu có độ ẩm cao nên những đợt nắng nóng, nhiệt độ cảm nhận thực tế luôn cao hơn mức đo đạc, có thể lên tới 50 °C. Nơi có tuyết vào mùa đông ở Hà Nội là đỉnh núi Ba Vì ngày 24 tháng 1 năm 2016 với mức nhiệt đo được là 0 °C.\nMôi trường.\nHà Nội thường xuyên nằm ở top đầu các thành phố ô nhiễm, thậm chí nhiều ngày trong năm là thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới, với chỉ số bụi mịn ở mức nguy hiểm cho sức khỏe con người. Theo Báo cáo chất lượng không khí toàn cầu 2018, Hà Nội có hàm lượng bụi mịn cao gấp 4 lần mức khuyến cáo của WHO (40,8 mg/m³, mức khuyến cáo: 10 mg/m³). Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam thì Hà Nội là thành phố ô nhiễm không khí nhất với số ngày chất lượng không khí lên mức kém, xấu, nguy hại chiếm tỷ lệ cao. Ngoài ra, các con sông chảy qua Hà Nội (sông Nhuệ, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Lừ, sông Sét) và các hồ cũng bị ô nhiễm rất nặng do 78% nước thải của Hà Nội xả thẳng trực tiếp ra sông, hồ mà không qua xử lý, trong đó mỗi con sông của Hà Nội tiếp nhận hàng vạn m³ nước thải đổ vào mỗi ngày.\nTổ chức hành chính và chính quyền.\nTổ chức hành chính.\nHà Nội là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được xếp vào đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt và cũng đồng thời là đô thị loại đặc biệt, thỏa mãn các tiêu chuẩn như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động trên 90%, quy mô dân số trên 5 triệu, mật độ dân số bình quân từ 15.000 người/km² trở lên, cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh.\nSau những thay đổi về địa giới hành chính, tính đến năm 2023, Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 13 quận, 16 huyện, 1 thị xã với 579 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 360 xã, 199 phường và 20 thị trấn. Đây là thành phố trực thuộc trung ương duy nhất của Việt Nam có thị xã.\nChính quyền.\nCũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội do người dân thành phố trực tiếp bầu lên, là cơ quan quyền lực Nhà nước ở thành phố. Hội đồng Nhân dân Hà Nội hiện nay, nhiệm kỳ 2021–2026, gồm 95 đại biểu. Chủ tịch HĐND Hà Nội hiện nay là ông Nguyễn Ngọc Tuấn.\nỦy ban nhân dân thành phố Hà Nội là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ và các nghị quyết của hội đồng nhân dân thành phố. Chủ tịch UBND Hà Nội hiện nay là ông Trần Sỹ Thanh. Ngoài các sở, ban như những tỉnh khác, thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội còn có thêm báo \"Hà Nội mới\", báo \"Kinh tế và Đô thị\", Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội, Ban Chỉ đạo 1000 năm Thăng Long, Ban quản lý khu phố cổ... và một số tổng công ty trên địa bàn thành phố. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Hà Nội có trụ sở nằm ở số 12 phố Lê Lai, bên cạnh hồ Hoàn Kiếm.\nTòa án nhân dân thành phố Hà Nội là cơ quan xét xử ở thành phố. Chánh án TAND Hà Nội hiện nay là ông Nguyễn Hữu Chính.\nVề phía Đảng ủy, Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội – thường gọi tắt là Thành ủy Hà Nội – là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Thành phố Hà Nội giữa hai kỳ đại hội đại biểu của Đảng bộ Thành phố. Ban chấp hành Đảng bộ Hà Nội khóa XVII nhiệm kỳ 2020-2025 gồm có 71 người, bầu ra Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội 2020–2025 gồm 16 ủy viên. Đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy và phải là ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Bí thư Thành ủy hiện tại là ông Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII.\nỦy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hà Nội nhiệm kỳ XVII (2019–2024) được Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam TP Hà Nội lần thứ XVII (2019–2024) bầu ngày 25 tháng 7 năm 2019 gồm 132 ủy viên, bầu ra Ban thường trực UBMTTQ Thành phố gồm 12 thành viên. Chủ tịch UBMTTQ TP Hà Nội đương nhiệm là bà Nguyễn Lan Hương (được bầu ngày 14 tháng 3 năm 2019 thay thế ông Vũ Hồng Khanh đã nhận quyết định nghỉ hưu từ ngày 1-2-2019.).\nKiến trúc và quy hoạch đô thị.\nLịch sử lâu đời cùng nền văn hóa phong phú đã giúp Hà Nội có được kiến trúc đa dạng và mang dấu ấn riêng. Nhưng sau một thời gian phát triển thiếu quy hoạch, thành phố hiện nay tràn ngập những ngôi nhà ống trên các con phố lắt léo, những công trình tôn giáo nằm sâu trong các khu dân cư, những cao ốc bên các khu phố cũ, những cột điện chăng kín dây... Nhưng thiếu vắng không gian công cộng. Năm 2010, Hà Nội lập \"Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050\" cho một thành phố 9,1 triệu dân vào năm 2030 và trên 10 triệu người vào năm 2050. Về mặt kiến trúc, có thể chia Hà Nội ngày nay thành bốn khu vực: khu phố cổ, khu thành cổ, khu phố Pháp và các khu mới quy hoạch.\nKhu phố cổ.\nKhu phố cổ Hà Nội, trung tâm lịch sử của thành phố, hiện nay vẫn là khu vực đông đúc nhất. Địa giới không gian khu phố cổ có thể coi là một hình tam giác cân với đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía Đông là đê sông Hồng, cạnh phía Tây là Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông–Hàng Gai–Cầu Gỗ. Qua nhiều năm, những cư dân sinh sống nhờ các nghề thủ công, buôn bán tiểu thương đã hình thành những con phố nghề đặc trưng mang những cái tên như Hàng Bạc, Hàng Bồ, Hàng Đường, Hàng Thùng...\nTất cả các ngôi nhà hai bên đường khu phố cổ đều theo kiểu nhà ống, mang nét đặc trưng: bề ngang hẹp, chiều dài sâu, đôi khi thông sang phố khác. Bên trong các ngôi nhà này cũng có cách bố trí gần như nhau: gian ngoài là nơi bán hoặc làm hàng, tiếp đó là khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng, trên sân có bể cạn trang trí, quanh sân là cây cảnh, giàn hoa, gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối tiếp là khu phụ. Những năm gần đây, mật độ dân số cao khiến phố cổ Hà Nội xuống cấp khá nghiêm trọng. Một phần cư dân ở đây phải sống trong điều kiện thiếu tiện nghi, thậm chí bất tiện, nguy hiểm. Một vài trường hợp đặc biệt được ghi nhận như ba người sống trong một diện tích 1,5 m² hay bốn người sống trong một căn phòng 10 m² nhưng trên nóc một nhà vệ sinh chung. Trong khu 36 phố phường thuộc dự án bảo tồn, hiện chỉ còn một vài nhà cổ có giá trị, còn lại hầu hết đã được xây mới hoặc cải tạo tùy tiện.\nKhu thành cổ.\nKhu thành cổ, tức hoàng thành Thăng Long, nằm ở khoảng giữa hồ Tây và hồ Hoàn Kiếm, xuất hiện cùng với kinh đô Thăng Long. Trải qua nhiều lần phá hủy, xây dựng lại rồi tiếp tục bị tàn phá, hoàng thành Thăng Long hiện chỉ lưu lại ở một vài dấu vết. Trên phố Phan Đình Phùng hiện nay còn cửa Bắc của thành được xây bằng đá và gạch rất kiên cố. Cột cờ Hà Nội xây năm 1812 hiện nằm trên đường Điện Biên Phủ. Công trình cao 40 mét này gồm ba nền thềm rộng và tháp cổ hình lăng trụ, bên trong có cầu thang xoắn ốc dẫn lên kỳ đài. Phía Nam thành cổ còn lưu lại được một quần thể di tích đa dạng là Văn Miếu-Quốc Tử Giám, được xây từ đầu thế kỷ XI. Gồm hai di tích chính, Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Chu Văn An – và Quốc Tử Giám – trường quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam – công trình không chỉ là điểm du lịch hấp dẫn mà còn là nơi tổ chức nhiều hoạt động văn hóa.\nNgày 31 tháng 7 năm 2010, tại kỳ họp lần thứ 34 tại Brasilia, thủ đô của Brasil, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO đã công nhận khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long là di sản văn hóa thế giới dựa trên 3 tiêu chí: Chiều dài lịch sử văn hóa, Tính liên tục của tài sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và Các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú. Sáng ngày 1 tháng 10 năm 2010, trong buổi khai mạc Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Tổng Giám đốc UNESCO Irina Bokova đã trao bằng Di sản văn hóa thế giới khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long cho lãnh đạo Thành phố Hà Nội.\nKhu phố Pháp.\nNăm 1883, người Pháp bắt đầu lên kế hoạch xây dựng lại thành phố. Dựa trên các khu phố Hà Nội vốn có, những kiến trúc sư người Pháp vạch thêm các con đường mới, xây dựng các công trình theo hướng thích nghi với môi trường sở tại, tạo nên một phong cách ngày nay được gọi là kiến trúc thuộc địa. Khu vực đô thị do người Pháp quy hoạch và xây dựng gồm ba khu: nhượng địa, thành cũ và nam hồ Hoàn Kiếm, ngày nay mang tên chung là khu phố cũ, hay khu phố Pháp.\nKhu nhượng địa mang hình chữ nhật được giới hạn bởi các con phố Bạch Đằng, Tràng Tiền, Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Nguyễn Huy Tự hiện nay. Vốn là đồn thủy quân của Hà Nội cổ, đến năm 1875, khu vực này được nhượng lại cho quân đội Pháp xây doanh trại, dinh thự và bệnh viện. Những công trình kiến trúc ở đây có mái lợp ngói đá đen, hành lang xung quanh, nhà cuốn hình cung. Dinh thự Tổng tham mưu trưởng quân Pháp, ngày nay là Nhà khách Bộ Quốc phòng xây dựng trong khoảng thời gian 1874 đến 1877. Bệnh viện Lanessan, hiện là Quân y viện 108 và Bệnh viện Hữu Nghị, khánh thành năm 1893. Khu thành cũ gồm các phố Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Hoàng Diệu, Điện Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Chu Văn An, Trần Phú. Những con đường ở đây rộng, dài và được trồng nhiều cây xanh. Các biệt thự mang kiến trúc miền Bắc nước Pháp với trang trí cầu kỳ, tỷ mỉ. Một công trình kiến trúc tiêu biểu và quan trọng của khu thành cũ là Phủ Toàn quyền, ngày nay là Phủ Chủ tịch, được xây dựng trong khoảng 1900 đến 1902. Khu nam hồ Hoàn Kiếm cũng là một hình chữ nhật với hai cạnh dài là phố Tràng Thi – Tràng Tiền và phố Trần Hưng Đạo, hai cạnh ngang là phố Phan Bội Châu và phố Phan Chu Trinh. Khu vực này được xây dựng đồng thời với khu thành cũ song quy trình quy hoạch có chậm hơn do phải giải tỏa nhiều làng xóm. Một công trình quan trọng của thành phố là Nhà hát Lớn nằm ở đầu phố Tràng Tiền, được xây từ 1902 tới 1911, theo mẫu Opéra Garnier của Paris.\nKiến trúc Pháp thường được xem như một di sản của Hà Nội, nhưng ngày nay đã phải chịu nhiều biến đổi. Những công trình cao tầng và các ngôi nhà giả phong cách Pháp làm khu phố cũ trở nên khó nhận diện. Bên cạnh đó, nhiều thửa đất được sáp nhập để xây dựng các cao ốc khiến cảnh quan bị phá vỡ. Những hàng rào thấp dọc các con phố, những màu sắc tiêu biểu – tường vàng và cửa gỗ màu xanh – cũng bị thay đổi và che lấp bởi các biểu hiệu quảng cáo. Hiện Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội với sự giúp đỡ của vùng Île-de-France đang triển khai dự án bảo tồn và phát triển khu phố này.\nKiến trúc hiện đại.\nVào những năm 1960 và 1970, hàng loạt các khu nhà tập thể theo kiểu lắp ghép xuất hiện ở những khu phố Khương Thượng, Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Thanh Xuân Bắc... Do sử dụng các cấu kiện bê tông cốt thép sản xuất theo quy trình thủ công, với những dãy nhà 4 tầng đầu tiên ở khu Khương Thượng và sau đó là 5 tầng. Riêng khu Kim Liên xây dựng nhà hộp kiểu Trung Quốc. những công trình này hiện rơi vào tình trạng xuống cấp nghiệm trọng. Không chỉ vậy, do thiếu diện tích sinh hoạt, các cư dân những khu nhà tập thế lắp ghép còn xây dựng thêm những lồng sắt gắn ngoài trời xung quanh các căn hộ – thường được gọi là chuồng cọp – gây mất mỹ quan đô thị. Hiện những nhà tập thể này đang dần được thay thể bởi các chung cư mới.\nCuối thập niên 1990 và thập niên 2000, nhiều con đường giao thông chính của Hà Nội, như Giải Phóng, Nguyễn Văn Cừ, Láng Hạ, Ngọc Khánh, Thái Hà... được mở rộng. Các khách sạn, cao ốc văn phòng mọc lên, những khu đô thị mới như Khu đô thị mới Nam Thăng Long, Bắc Thăng Long, Du lịch Hồ Tây, Định Công, Bắc Linh Đàm... Cũng dần xuất hiện. Khoảng thời gian gần đây, khu vực Mỹ Đình được đô thị hóa nhanh chóng với hàng loạt những ngôi nhà cao tầng mọc lên. Tuy vậy, các khu đô thị mới này cũng gặp nhiều vấn đề, như công năng không hợp lý, thiếu quy hoạch đồng bộ, không đủ không gian công cộng. Trong trận mưa kỷ lục cuối năm 2008, Mỹ Đình là một trong những khu vực chịu thiệt hại nặng nề vì nước ngập.\nCùng với dự phát triển, đô thị hóa các khu vực Hà Nội mở rộng, nhiều đường phố mới đã được đặt tên: Năm 2010 là 43 và năm 2012 là 34 đường, phố mới. Khoảng thời gian 2010–2012 chứng kiến sự bùng nổ các dự án đầu tư xây dựng các khu đô thị, tòa cao ốc, chung cư bình dân và cao cấp, trung tâm thương mại với giá bán cao hơn giá thành tương đối nhiều. Tính đến giữa năm 2017, cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố Hà Nội thống kê được 994 tòa nhà cao tầng.\nCác công trình nổi bật.\nTrước khi trở thành một trung tâm chính trị – vào thế kỷ V với triều đại nhà Tiền Lý – Hà Nội đã là một trung tâm của Phật giáo với các thiền phái danh tiếng. Theo văn bia, từ giữa thế kỷ VI, chùa Trấn Quốc được xây dựng trên bãi Yên Hoa ngoài sông Hồng, tới 1615 do bãi sông bị lở, chùa mới dời về địa điểm hiện nay. Đến thế kỷ XI, với sự xuất hiện của kinh đô Thăng Long, khi Phật giáo trở thành quốc giáo, các chùa chiền, thiền viện, sư tăng mới phát triển thực sự mạnh mẽ. Trong nhiều thế kỷ, Hà Nội tiếp tục xây dựng các ngôi chùa, trong đó một số vẫn tồn tại tới ngày nay. Có thể kể tới các ngôi chùa như chùa Một Cột xây lần đầu năm 1049, chùa Láng từ thế kỷ XII, chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên xuất hiện vào thế kỷ XVII. Tuy vậy, hầu hết các ngôi chùa trong nội ô ngày nay đều được xây dựng lại vào thế kỷ XIX. Những triều đại Lý, Trần, Lê để lại rất ít dấu tích.\nVùng ngoại thành Hà Nội cũng có nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Ở xã Hương Sơn, Mỹ Đức, huyện Mỹ Đức, một quần thể văn hóa–tôn giáo gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ thần, các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp... thường được gọi chung là Chùa Hương. Từ lâu, di tích này đã trở thành một địa điểm du lịch quan trọng, đặc biệt với lễ hội Chùa Hương được tổ chức vào mỗi mùa xuân. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây, Chùa Thầy nằm trên địa phận của xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai. Ngôi chùa, thường gắn liền với tên tuổi vị thiền sư Từ Đạo Hạnh, là một di sản kiến trúc, văn hóa, lịch sử giá trị. Giống như Chùa Hương, lễ hội Chùa Thầy cũng được tổ chức vào mùa xuân, đầu tháng 3 hàng năm.\nCùng với các ngôi chùa, Hà Nội còn có không ít đền thờ Đạo Lão, Đạo Khổng hay các thần bảo hộ như Thăng Long tứ trấn, Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Đền Ngọc Sơn... Trong khu phố cổ còn nhiều ngôi đình vẫn được những người dân thường xuyên tới lui tới bày tỏ lòng thành kính. Kitô giáo theo chân những người châu Âu vào Việt Nam, giúp Hà Nội có được Nhà thờ Lớn, Nhà thờ Cửa Bắc, Nhà thờ Hàm Long... Ngoài ra có thánh đường Hồi Giáo Jamia Al Noor tại Hàng Lược, Thánh thất Cao Đài thủ đô. Các công trình tôn giáo ngày nay là một phần quan trọng của kiến trúc thành phố, nhưng không ít hiện phải nằm trong những khu dân cư đông đúc, thiếu không gian.\nThời kỳ thuộc địa đã để lại Hà Nội rất nhiều các công trình kiến trúc lớn, hiện vẫn đóng vai trò quan trọng về công năng, như Nhà hát Lớn, Phủ Chủ tịch, Bắc Bộ phủ, trụ sở Bộ Ngoại giao, Bảo tàng Lịch sử, Khách sạn Sofitel Metropole... Một số công trình bị phá bỏ để xây mới – như Tòa thị chính được thay thế bằng trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố – hoặc tu sửa nhưng không giữ được kiến trúc cũ – như ga Hàng Cỏ. Thời kỳ tiếp theo, Hà Nội cũng có thêm các công trình mới. Lăng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hội trường Ba Đình, ghi đậm dấu ấn của giai đoạn này.\nTừ những năm 2000, cùng với sự phát triển về kinh tế, rất nhiều cao ốc và khách sạn như Daewoo, Sofitel Plaza, Melia, tòa nhà Tháp Hà Nội... Mọc lên mang lại cho thành phố dáng vẻ hiện đại. Hà Nội cũng chứng kiến sự ra đời của những công trình quan trọng như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình... Để kỷ niệm lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, hiện nay rất nhiều công trình được xây dựng, có thể kể đến Keangnam Hanoi Landmark Tower, Lotte Center Hà Nội, Bảo tàng Hà Nội và Tòa nhà Quốc hội.\nKinh tế.\nTổng quan.\nNăm 2010 Hà Nội đạt được những kết quả khả quan trọng trong phát triển kinh tế. GDP tăng 11%, thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ đạt 2.000 Đô la Mỹ. Tổng thu ngân sách trên địa bàn vượt 100.000 tỷ đồng. Năm 2019, Hà Nội là đơn vị hành chính Việt Nam xếp thứ 2 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 8 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 41 về tốc độ tăng trưởng GRDP. GRDP của thành phố đạt 971.700 tỷ đồng (41,85 tỷ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 120,6 triệu đồng (5.200 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,62%. Quy mô GRDP năm 2020 theo giá hiện hành ước đạt 1.016 nghìn tỷ đồng, xếp thứ hai các tỉnh thành cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 122,7 triệu đồng (5.285 USD, xếp hạng 7), GRDP theo giá so sánh năm 2010 ước tăng 3,94%, cao gấp khoảng 1,5 lần mức tăng của cả nước (xếp hạng 26) (báo cáo của địa phương, Tổng cục Thống kê sẽ công bố số liệu đánh giá lại). Thu nhập bình quân đầu người sơ bộ năm 2019 là 6,403 triệu đồng/tháng (xếp hạng 3). \nNăm 2020, GRDP của Thành phố tăng 3,98% so với năm 2019 (quý 1 tăng 4,13%; quý II tăng 1,76%; quý III tăng 3,95%; quỷ IV tăng 3,77%), đạt mức thấp so với kế hoạch và mức tăng trưởng của năm 2019, chủ yếu do ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19. \nKhu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2020 ước tính tăng 4.2% so với năm 2019, đóng góp 0,09% vào mức tăng GRDP. Đây là khu vực ghi nhận tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung và cao hơn mức tăng của nhiều năm qua. Nguyên nhân chủ yếu do dịch tả lợn châu Phi cơ bản được kiểm soát, công tác tái đàn được quan tâm, quy mô đàn lợn hiện có 1,36 triệu con, tăng 26,2% so với cùng kỳ; chăn nuôi gia cầm và hoạt động thủy sản phát triển tốt (quy mô đàn gia cầm hiện có 39,9 triệu con, tăng 9,3%; sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng năm 2020 tăng 25,3%; sản lượng thủy sản tăng 3,5%). Bên cạnh đó, thời tiết giai đoạn lúa trỗ bông khá thuận lợi, cùng với công tác bảo vệ thực vật được chú trọng đã góp phần tăng năng suất lúa; sản lượng lúa vụ mùa 2020 toàn Thành phố ước đạt 447,2 nghìn tắn, tăng 2,4% so với vụ mùa 2019. \nKhu vực công nghiệp và xây dựng ước tính năm 2020 tăng 6,39% so với năm 2019, đóng góp 1,43% vào mức tăng GRDP. Trong đó: Ngành công nghiệp cả năm tăng 4,91%, đóng góp 0,69% vào mức tăng chung. Năm 2020, ngành công nghiệp Hà Nội đang dần chuyển dịch theo hướng phát triển các khu vực công nghiệp hiện đại có giá trị xuất khẩu lớn như: Điều khiển kỹ thuật số, tự động hóa, rô-bốt, nano, plasma, laser, công nghệ sinh học. Tuy nhiên, ngành này cũng chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19, nhất là các ngành sản xuất, xuất khẩu sản phẩm và sử dụng nhiều nguyên, vật liệu, phụ kiện nhập khẩu; Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ cũng ảnh hưởng đến ngành sản xuất đồ uống của Thành phố. Ngành xây dựng tiếp tục tăng cao 8,9% so với năm 2019, đóng góp 0,74% vào mức tăng chung, trong đó công tác giải ngân vốn đầu tư công có chuyền biến tích cực; đã khởi công một số công trình lớn và hoàn thành đưa vào sử dụng một số công trình trọng điểm, góp phần phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô. \nKhu vực dịch vụ năm 2020 tăng 3,29% so với năm trước (đóng góp 2,1% vào mức tăng GRDP), thấp hơn nhiều so với mức tăng 7,27% năm 2018 và 7,59% năm 2019 do chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại địch Covid-19, nhất là các ngành, lĩnh vực: Du lịch, khách sạn, nhà hàng, vận tải, xuất nhập khẩu, vui chơi, giải trí... Ngành bán buôn, bán lẻ là điểm sáng trong khu vực dịch vụ năm 2020 với mức tăng 8,84%, là một trong những ngành đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của Thành phố (đóng góp 0,81% vào mức tăng GRDP). Một số ngành duy trì tăng trưởng khá: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 7,21%; thông tin và truyền thông tăng 6,89%. \nNăm 2020, hoạt động y tế, giáo dục được quan tâm, chú trọng; giá trị tăng thêm ngành y tế và trợ giúp xã hội ước tăng 14,23% so với năm 2019; ngành giáo dục và đào tạo tăng 7,01%. Một số ngành dịch vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid-19 có mức tăng trưởng âm trong năm nay, trong đó: Dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 18,93% so với 2019; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ (trong đó du lịch, lữ hành chiếm 30%) giảm 16,88%; hoạt động nghệ thuật, vui chơi và giải trí giảm 6,15%; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,25%; kinh doanh bất động sản giảm 0,16%. \nQuy mô GRDP năm 2020 theo giá hiện hành ước đạt 1.016 nghìn tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đạt 122,7 triệu đồng (tương đương 5.285 USD), tăng 2,34% so với năm 2019. Cơ cấu khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 2,24% GRDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 23,67%; khu vực dịch vụ chiếm 62,79%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 11,3% (Cơ cầu tương ứng năm 2019 là: 2,02%; 22,9%; 63,73% và 1 1,35%). Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn năm 2020 ước thực hiện 280,5 nghìn tỷ đồng, đạt 100,6% dự toán HĐND Thành phố giao, tăng 3,9% so với thực hiện năm 2019, trong đó: Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước thực hiện 18,9 nghìn tỷ đồng, đạt 102,7% dự toán và bằng 99,8% so với thực hiện năm 2019; thu từ dầu thô 2,1 nghìn tỷ đồng, đạt 99,5% và bằng 63,2%; thu nội địa (không kể đầu thô) 259,5 nghìn tỷ, đạt 100,5% và tăng 4,7%.\nDu lịch.\nSo với các tỉnh, thành phố khác của Việt Nam, Hà Nội là một thành phố có tiềm năng để phát triển du lịch. Trong nội ô, cùng với các công trình kiến trúc, Hà Nội còn sở hữu một hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Thành phố cũng có nhiều lợi thế trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam với du khách nước ngoài thông qua các nhà hát sân khấu dân gian, các làng nghề truyền thống. Du lịch Hà Nội đang ngày càng trở nên hấp dẫn hơn với các du khách. Năm 2007, Hà Nội đón 1,1 triệu lượt khách du lịch ngoại quốc. Năm 2008, trong 9 triệu lượt khách của thành phố, có 1,3 triệu lượt khách nước ngoài. \nTỷ lệ du khách tới thăm các bảo tàng Hà Nội cũng không cao. Một trong các bảo tàng thu hút nhiều khách tham quan nhất là Bảo tàng dân tộc học. Hàng năm, Bảo tàng Dân tộc học, điểm đến được yêu thích trong các sách hướng dẫn du lịch, có 180.000 khách tới thăm, trong đó một nửa là người nước ngoài.\nTheo thống kê năm 2019, Hà Nội có 3.499 cơ sở lưu trú với tổng số 60.812 buồng phòng. Trong số này 561 cơ sở lưu trú du lịch đã xếp hạng với 22.749 buồng phòng bao gồm 67 khách sạn được xếp hạng từ 3–5 sao và 7 khu căn hộ du lịch cao cấp từ 4–5 sao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3–5 sao ở Hà Nội hiện dao động từ 80% đến 90%. Ngoài 11 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza, và InterContinental, Crown Plaza, Marriot, thành phố còn 6 khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao.\nDu lịch ở Hà Nội cũng còn không ít những tệ nạn, tiêu cực. Trang Lonely Planet cảnh báo tình trạng du khách nước ngoài bị taxi và xe buýt lừa đến một số khách sạn giả danh và bị đòi giá cao; ở quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm du khách đồng tính nam có thể bị mời mọc vào những quán karaoke, nơi hóa đơn thanh toán cho một vài đồ uống có thể tới 100 USD hoặc hơn.\nXã hội.\nDân cư.\nTừ rất lâu, Thăng Long đã trở thành điểm đến của những người dân tứ xứ. Vào thế kỷ XV, dân các trấn về Thăng Long quá đông khiến vua Lê Thánh Tông có ý định buộc tất cả phải về nguyên quán. Nhưng khi nhận thấy họ chính là lực lượng lao động và nguồn thuế quan trọng, triều đình đã cho phép họ ở lại. Tìm đến kinh đô Thăng Long còn có cả những cư dân ngoại quốc, phần lớn là người Hoa. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rất nhiều những người Hoa đã ở lại sinh sống thành phố này. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, vẫn có những người Hoa tới xin phép cư ngụ lại Thăng Long. Theo \"Dư địa chí\" của Nguyễn Trãi, trong số 36 phường họp thành kinh đô Thăng Long có một phường người Hoa là phường Đường Nhân, nay có thể là khu vực phố Hàng Ngang. Những thay đổi về dân cư vẫn diễn ra liên tục và kéo dài cho tới ngày nay. Cùng với đó, quá trình đổi thay liên tục của địa giới hành chính (đặc biệt là sau khi sát nhập Gia Lâm trong thời gian 1954 – 1961, phần lớn tỉnh Phúc Yên khoảng năm 1980 và toàn bộ tỉnh Hà Tây năm 2008), đã phần nào thay đổi định nghĩa \"người Hà Nội\" trong từng thời kỳ lịch sử.\nTrong thời kỳ Pháp thuộc, với vai trò là thủ phủ của Liên bang Đông Dương, Hà Nội đã thu hút một lượng đáng kể người Pháp, người Hoa và người Việt từ những vùng lân cận. Vào thập niên 1940, dân số thành phố được thống kê là 132.145 người, nhưng đến năm 1954 thì giảm xuống chỉ còn 53.000 dân trên một diện tích 152 km², điều này là do phần lớn người dân đã di tản lên những vùng Việt Minh kiểm soát sau khi thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Hà Nội năm 1946. Sau khi chính quyền Việt Minh tiếp quản Hà Nội, hầu hết người Pháp và người Hoa đã rời bỏ thành phố để vào miền Nam hoặc trở về quê hương. Ở những làng ngoại thành, ven đô cũ, nơi người dân sống chủ yếu nhờ nông nghiệp, thường không có sự thay đổi lớn. Nhiều gia đình nơi đây vẫn giữ được gia phả từ những thế kỷ XV, XVI. Trong nội thành, chỉ còn lại vài dòng họ đã định cư liên tục tại Thăng Long từ thế kỉ XV như dòng họ Nguyễn ở phường Đông Tác. Do tính chất của công việc, nhiều thương nhân và thợ thủ công ít khi trụ nhiều đời tại một điểm. Gặp khó khăn trong kinh doanh, những thời điểm sa sút, họ tìm tới vùng đất khác. Cũng có những trường hợp, một gia đình có người đỗ đạt được bổ nhiệm làm quan tỉnh khác và đem theo gia quyến, đôi khi cả họ hàng.\nCác thống kê trong lịch sử cho thấy dân số Hà Nội tăng nhanh trong nửa cuối thế kỷ XX. Vào thời điểm năm 1954, thành phố có 53.000 dân, trên một diện tích 152 km². Đến năm 1961, thành phố mở rộng diện tích lên 584 km² với dân số 91.000 người. Năm 1978, Quốc hội quyết định mở rộng thủ đô lần thứ hai với diện tích đất tự nhiên 2.136 km², dân số 2,5 triệu người. Tới năm 1991, địa giới Hà Nội tiếp tục thay đổi, chỉ còn 924 km², nhưng dân số vẫn ở mức hơn 2 triệu người. Trong suốt thập niên 1990, với việc các khu vực ngoại ô dần được đô thị hóa, dân số Hà Nội tăng đều đặn, đạt con số 2.675.166 người vào năm 1999. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố Hà Nội có hơn 6,23 triệu dân và nằm trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Theo kết quả cuộc điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009, dân số toàn Hà Nội là 6.451.909 người. Dân số trung bình của thành phố năm 2010 là 6.561.900 người. Tính đến hết năm 2015, dân số Hà Nội là 7.558.956 người. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số Hà Nội là 8.053.663 người, trong đó 49,2% dân số (tức 3,96 triệu người) sống ở thành thị, và 50,8% dân số sống ở nông thôn (tức 4,09 triệu người).\nVề cơ cấu dân số, cư dân Hà Nội chủ yếu là người Kinh, chiếm tỷ lệ khoảng 99%, theo sau là người Mường, người Tày và các dân tộc thiểu số khác. Đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống xen kẽ với người Kinh ở tất cả 30 đơn vị hành chính cấp huyện của thành phố, trong đó cư trú tập trung ở 14 xã của 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ và Mỹ Đức. Tính đến năm 2019, toàn thành phố có 278.450 người theo 9 tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Công giáo có 192.958 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 80.679 người, đạo Tin lành có 4.226 người, còn lại các tôn giáo khác như đạo Cao Đài, Hồi giáo, Baha'i giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Minh Lý đạo, Minh Sư đạo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam.\nHà Nội là đơn vị hành chính cấp tỉnh đông dân thứ hai Việt Nam với 8,05 triệu dân cư (2019), trong đó 49,2% dân cư là người thành thị. Cũng theo số liệu năm 2019, mật độ dân số của Hà Nội là 2.398 người/km², cao thứ hai trong tất cả các tỉnh, nhưng phân bố dân số không đồng đều; khoảng cách về dân số giữa quận và huyện, giữa thành thị và nông thôn còn lớn với xu hướng tiếp tục gia tăng. Mật độ dân số cao nhất là ở quận Đống Đa lên tới hơn 42.000 người/km² (2018), trong khi đó, ở những huyện ngoại thành như Ba Vì, Mỹ Đức mật độ dưới 1.000 người/km².\nNhà ở.\nMặc dù là thủ đô của một quốc gia thu nhập bình quân đầu người trung bình thấp, nhưng Hà Nội lại là một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế giới và giá bất động sản không thua kém các quốc gia giàu có. Điều này đã khiến người dân Hà Nội, đặc biệt tầng lớp có thu nhập thấp, phải sống trong điều kiện chật chội, thiếu tiện nghi. Theo số liệu năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một người. Ở những khu phố trung tâm, tình trạng còn bi đát hơn rất nhiều. Nhà nước cũng không đủ khả năng để hỗ trợ cho người dân. Chỉ khoảng 30% cán bộ, công nhân, viên chức được phân phối nhà ở. Do truyền thống văn hóa và những khó khăn về chỗ ở, hiện tượng ba, bốn thế hệ cùng sống chung trong một ngôi nhà rất phổ biến ở Hà Nội.\nHầu hết các hộ dân cư của thành phố đều có nhà ở và chủ yếu sống trong các loại nhà kiên cố và bán kiên cố. Mỗi năm, thành phố xây dựng mới hàng triệu mét vuông nhà, nhưng giá vẫn ở mức quá cao so với phần lớn người dân. Gần như 100% các gia đình trẻ ở Hà Nội chưa có nhà ở, phải sống ghép chung hoặc thuê nhà ở tạm. Với giá từ 500 triệu tới 1,5 tỷ đồng một căn hộ chung cư, một người dân có thu nhập trung bình chỉ có thể mua được sau nhiều năm tích lũy tài chính. Bên cạnh những khu chung cư mới mọc thêm ngày càng nhiều, vẫn còn những bộ phận dân cư phải sống trong những điều kiện hết sức lạc hậu. Tại các khu vực ven sông Hồng và các bãi bồi thuộc trung tâm thành phố, hàng trăm gia đình sống trong những ngôi nhà lợp mái tre, không có điện, không có trường học và không được chăm sóc về y tế.\nY tế.\nNăm 2010, thành phố Hà Nội có 650 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế thành phố, trong đó có 40 bệnh viện, 29 phòng khám khu vực và 575 trạm y tế. Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế Hà Nội là 11.536 giường, chiếm khoảng một phần hai mươi số giường bệnh toàn quốc; tính trung bình ở Hà Nội 569 người/giường bệnh so với 310 người/giường bệnh ở Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều bệnh viện 1 giường bệnh có đến 2-3 bệnh nhân nằm điều trị là thường xuyên gặp. Cũng theo thống kê năm 2010, thành phố Hà Nội có 2.974 bác sĩ, 2.584 y sĩ và 3.970 y tá.\nDo sự phát triển không đồng đều, những bệnh viện lớn của Hà Nội, cũng là của cả miền Bắc, chỉ tập trung trong khu vực nội ô thành phố. Các bệnh viện Việt Đức, Bạch Mai, Bệnh viện Nhi Trung ương và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đều trong tình trạng quá tải. Cùng với hệ thống y tế của nhà nước, Hà Nội cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển. Năm 2007, toàn thành phố có 8 bệnh viện tư nhân với khoảng 300 giường bệnh. Theo đề án đang được triển khai, đến năm 2010, Hà Nội sẽ có thêm 8 đến 10 bệnh viện tư nhân. Khi đó, tổng số giường bệnh tư nhân sẽ lên tới khoảng 2.500 giường.\nĐiều kiện chăm sóc y tế giữa nội ô và các huyện ngoại thành Hà Nội có sự chênh lệch lớn. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính năm 2008, mức chênh lệch này càng tăng, thể hiện qua các chỉ số y tế cơ bản. Nếu như tại địa phận Hà Nội cũ, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 9,7%, thì ở Hà Tây, con số lên tới 17%. Tương tự, tuổi thọ trung bình tại khu vực Hà Nội cũ khá cao, 79 tuổi, nhưng sau khi mở rộng, con số này bị giảm xuống còn 75,6 tuổi. Tại không ít khu vực thuộc các huyện ngoại thành, cư dân vẫn phải sống trong điều kiện vệ sinh yếu kém, thiếu nước sạch để sinh hoạt, phải sử dụng nước ao, nước giếng.\nGiáo dục.\nTừ nhiều thế kỷ, vị thế kinh đô đã giúp Thăng Long – Hà Nội trở thành trung tâm giáo dục của Việt Nam. Từ giữa thế kỷ XV cho tới cuối thế kỷ XIX, Hà Nội luôn là một trong những địa điểm chính để tổ chức các cuộc thi thuộc hệ thống khoa bảng, nhằm chọn những nhân vật tài năng bổ sung vào bộ máy quan lại. Tuy vậy, về số lượng trạng nguyên, Hà Nội lại thấp hơn những vùng đất truyền thống khác như Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định. Tới thời Pháp thuộc, với vị trí là thủ đô của Liên bang Đông Dương. Một thời kì trường thi Hà Nội bị nhập vào với trường Nam Định gọi là trường Hà Nam thi tại Nam Định (1884 đến 1915). Hà Nội là một trung tâm giáo dục của khu vực, nơi người Pháp đặt các trường dạy nghề và giáo dục bậc đại học, trong đó có Viện Đại học Đông Dương, Trường Y khoa Đông Dương, Trường Bách nghệ Hà Nội là các trường mà sau này trở thành nền móng của giáo dục đại học ở Việt Nam.\nNăm 2009, Hà Nội có 677 trường tiểu học, 581 trường trung học cơ sở và 186 trường trung học phổ thông (THPT) với 27.552 lớp học, 982.579 học sinh. Hệ thống trường trung học phổ thông, Hà Nội có 40 trường công lập, một vài trong số đó có chất lượng giảng dạy và truyền thống lâu đời, như trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam, trường THPT chuyên Nguyễn Huệ, trường THPT Chu Văn An, trường THPT Trần Phú. Bên cạnh các trường công lập, thành phố còn có 65 trường dân lập và 5 trường bán công. Hà Nội cũng là địa điểm của ba trường trung học đặc biệt, trực thuộc các trường đại học, là trường THPT chuyên ngoại ngữ thuộc trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, trường THPT chuyên Khoa học Tự nhiên thuộc trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và trường THPT chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội thuộc trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Cùng với các trung học danh tiếng, hệ thống giáo dục của thành phố vẫn duy trì những trường bổ túc và cả các lớp học xóa mù chữ. Sau khi Hà Tây được sáp nhập vào thành phố, Hà Nội hiện đứng đầu Việt Nam về số lượng người không biết chữ. Năm 2008, toàn thành phố có gần 235.000 người mù chữ trên tổng số 1,7 triệu người của cả quốc gia, tuy nhiên đến năm 2017, thành phố xác nhận đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ mức độ 2.\nLà một trong hai trung tâm giáo dục đại học lớn nhất quốc gia, trên địa bàn Hà Nội có trên 50 trường đại học cùng nhiều cao đẳng, đạo tạo hầu hết các ngành nghề quan trọng. Năm 2007, tại thành phố có 606.207 sinh viên, Hà Tây cũng tập trung 29.435 sinh viên. Nhiều trường đại học ở đây như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện An ninh nhân dân, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Ngoại thương, Đại học Sư phạm Hà Nội, Học viện Nông nghiệp Việt Nam là những trường đào tạo đa ngành và chuyên ngành hàng đầu của Việt Nam. Dù vậy, giáo dục đại học phải đối mặt với nhiều bất cập. Khuôn viên có tính truyền thống, phong cách sư phạm và có hồn văn hóa của những trường lập ra từ xưa nay bị xẻ thịt thành nhà ở, nhà hàng, nhà băng... Đại học Bách khoa bị cắt bởi đường phố, và còn lập ra cả phường như phường Bách Khoa quận Hai Bà Trưng. Khuôn viên cổ kính của Viện Đại học Đông Dương thì chen vào nhà hàng 23 Lê Thánh Tông phục vụ dân nhậu. Các ký túc xá cũ lẫn mới thường được tạo điều kiện để sinh viên \"không\" ở được, như cho hộ gia đình thuê trọ, mở nhà hàng.. để sinh viên tự tìm chỗ ở yên tĩnh mà học tập, từ đó chuyển đổi sử dụng ký túc. Phái thực dụng còn lên tiếng đòi các trường phải di dời đi đâu đó quang đãng mà học, nhường lại \"đất vàng\" cho các hoạt động hái ra tiền trước mắt. \nVăn hóa.\nThể thao.\nVới vai trò thủ đô, Hà Nội là nơi tập trung nhiều câu lạc bộ thể thao lớn cùng các công trình thể thao quan trọng của Việt Nam. Hiện nay thành phố có một câu lạc bộ bóng đá nam: Hà Nội FC thi đấu tại V.League 1 và hai câu lạc bộ bóng đá nữ: Câu lạc bộ bóng đá nữ Hà Nội I và Câu lạc bộ bóng đá nữ Hà Nội II. Ngoài ra, trong quá khứ, Hà Nội từng có nhiều đội bóng mạnh như Thể Công, Công an Hà Nội, Tổng cục Đường sắt, Tổng cục Bưu điện (thành lập năm 1957), Phòng không Không quân, Thanh niên Hà Nội, Quân khu Thủ đô, Công nhân Xây dựng Hà Nội. Những vận động viên của Hà Nội luôn đóng vai trò quan trọng trong đoàn thể thao Việt Nam tham dự các kỳ thi đấu quốc tế. Từ năm 2001 đến 2003, các vận động viên của thành phố đã đạt được tổng cộng 3.414 huy chương, gồm: 54 huy chương thế giới, 95 huy chương châu Á, 647 huy chương Đông Nam Á và quốc tế, cùng 2.591 huy chương tại các giải đấu quốc gia. Hà Nội dẫn đầu Việt Nam về tỷ lệ người thường xuyên tập luyện thể thao với 28,5%. Nhưng dân số quá đông, không gian đô thị ngày càng chật chội khiến những địa điểm thể thao trở nên khan hiếm và không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân. Hầu hết các trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội đều trong tình trạng thiếu sân chơi. Một vài trường có diện tích rộng, nhưng lại sử dụng một phần để xây dựng sân quần vợt với hiệu suất sử dụng không cao. Các sinh viên của thành phố thường phải chơi bóng trong những khoảng sân có diện tích nhỏ hẹp.\nSau nhiều năm sử dụng Sân vận động Hàng Đẫy, được xây dựng năm 1958, nằm trong trung tâm thành phố làm nơi thi đấu chính, từ năm 2003, Hà Nội có thêm Sân vận động Mỹ Đình nằm tại phía Nam thành phố, sức chứa 40.192 chỗ ngồi.\nSân vận động Quốc gia Mỹ Đình, nằm trong Liên hợp thể thao quốc gia, từng là địa điểm chính của Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003, nơi tổ chức lễ khai mạc, lễ bế mạc, các trận thi đấu bóng đá nam & các cuộc tranh tài trong môn điền kinh. Tại Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2008, trước bốn vạn khán giả, Mỹ Đình là nơi chứng kiến Đội tuyển quốc gia Việt Nam bước lên ngôi cao nhất của bóng đá Đông Nam Á. Một số trung tâm thể thao lớn khác của thành phố có thể kể tới như Nhà thi đấu Quần Ngựa, Trung tâm Huấn luyện thể thao Quốc gia I... Cùng hơn 20 điểm sân bãi, nhà tập khác.\nNgày 8 tháng 11 năm 2012, Hà Nội được Hội đồng Thể thao châu Á trao quyền đăng cai ASIAD 18, nhưng đến ngày 17 tháng 4 năm 2014, Việt Nam đã xin rút quyền đăng cai giải do vấn đề về kinh phí tổ chức.\nĐịa điểm văn hóa, giải trí.\nTheo con số giữa năm 2008, toàn thành phố Hà Nội có 17 rạp hát, trong đó 12 rạp thuộc hai quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng. Nhà hát Lớn của thành phố, nằm tại số 1 phố Tràng Tiền, quận Hoàn kiếm do người Pháp xây dựng và hoàn thành vào năm 1911. Ngày nay, đây là nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cổ điển như opera, nhạc thính phòng, kịch nói, cũng là trung tâm của các hội nghị, gặp gỡ. Nằm tại số 91 phố Trần Hưng Đạo, Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội cũng là một địa điểm biểu diễn quan trọng, nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thời trang, các cuộc thi hoa hậu... Cùng các hoạt động khoa học, hội thảo, hội nghị, triển lãm.Dành cho sân khấu kịch, thành phố có Nhà hát Tuổi trẻ tại số quận Hai Bà Trưng với 650 chỗ ngồi, Nhà hát Chuông Vàng tại quận Hoàn kiếm với 250 ghế ngồi, Nhà hát Kịch Việt Nam nằm trên con đường nhỏ sau lưng Nhà hát Lớn với 170 ghế. Các môn nghệ thuật truyền thống của Việt Nam cũng có sân khấu riêng. Nhà hát Hồng Hà tại Đường Thành dành cho sân khấu tuồng. Nhà hát Cải lương Trung ương nằm tại quận Hai Bà Trưng. Môn nghệ thuật chèo cũng có riêng Nhà hát Chèo Việt Nam ở khu Văn công Mai Dịch, huyện Từ Liêm, và từ năm 2007 thêm một điểm biểu diễn ở Kim Mã, Giang Văn Minh. Rạp múa rối nước Thăng Long ở phố Đinh Tiên Hoàng, bờ hồ Hoàn Kiếm, thường được nhiều khách du lịch tìm đến.[125]\nHà Nội là thành phố có hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Một phần lớn trong số đó là các bảo tàng lịch sử, như Bảo tàng Lịch sử Quân sự, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Chiến thắng B52, Bảo tàng Cách mạng... Các lĩnh vực khác có thể kể tới Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. \nTổng cộng, Hà Nội có hơn 10 bảo tàng, so với hệ thống gần 120 bảo tàng của Việt Nam. Năm 2009, tại Hà Nội có 32 thư viện do địa phương quản lý với lượng sách 565 nghìn bản. Như vậy, số thư viện địa phương của Hà Nội hiện nay lớn hơn Thành phố Hồ Chí Minh – 26 thư viện với 2.420 ngàn cuốn – nhưng lượng sách chỉ bằng khoảng một phần tư. Ngoài hệ thống thư viện địa phương, tại Hà Nội còn phải kể tới các thư viện trong trường đại học. Thư viện Quốc gia tọa lạc tại 31 phố Tràng Thi, với 800.752 đầu sách, 8.677 tựa báo, tạp chí, có thể xem như thư viện quan trọng nhất của Việt Nam.\nTrong hơn 10 rạp chiếu phim của Hà Nội, chỉ một vài rạp được trang bị hiện đại và thu hút khán giả, như hệ thống rạp CGV, Lotte Cinema, Platinum Cineplex, Galaxy Cinema, BHD Star Cineplex hay Trung tâm Chiếu phim Quốc gia. Những rạp khác như Đặng Dung, Tháng 8 thì vắng người xem hơn. \"Fansland\", rạp chiếu phim một thời với các tác phẩm điện ảnh kinh điển, đã phải đóng cửa vào giữa năm 2008 bởi không có khán giả. Các quán bar, vũ trường cũng là điểm đến của một bộ phận thanh niên Hà Nội, trong đó nổi bật là vũ trường 1900 Le Theatre nằm trong top 100 vũ trường nổi tiếng nhất thế giới năm 2019 của tạp chí DJ Mag. Nhiều vũ trường từng nổi tiếng nhưng chỉ tồn tại một thời gian rồi đóng cửa vì nhiều lý do. Vũ trường New Century trên phố Tràng Thi mở cửa từ năm 1999, từng là tụ điểm ăn chơi bậc nhất của Hà Nội, đã phải đóng cửa vào năm 2007 bởi dính líu tới mại dâm và ma túy. Trước đó, vũ trường Đêm Màu Hồng ở phố Hàng Chiếu cũng kết thúc trong một vụ cháy lớn vào năm 1999.\nNằm ở quận Tây Hồ, Công viên nước Hồ Tây là một địa điểm giải trí hấp dẫn của Hà Nội. Công viên có diện tích 35.560 m², chia thành 5 khu vui chơi được trang bị hiện đại với các đường trượt cao tốc, bể tạo sóng, bể massage. Trong nội ô thành phố cũng có một vài công viên lớn như Công viên Thống Nhất, Công viên Thủ Lệ, Công viên Tuổi Trẻ, Công viên Yên Sở. Hàng loạt các trung tâm thương mại lớn được xây dựng như: Vinhomes Royal City, Vinhomes Times City, AEON Mall Long Biên, Aeon Mall Hà Đông, Big C Thăng Long, Metro Hoàng Mai, Metro Từ Liêm, Melinh Plaza... Là nơi tập trung mua sắm của đông đảo người dân. Khu vực phố đi bộ Hồ Gươm được đưa vào hoạt động ngày 1 tháng 9 năm 2016 gồm 16 tuyến phố.\nLàng nghề truyền thống.\nThành phố Hà Nội trước kia đã có những làng nghề phong phú, thể hiện qua câu thành ngữ quen thuộc \"Hà Nội 36 phố phường\". Theo thời gian, bộ mặt đô thị của khu phố cổ đã có nhiều thay đổi, nhưng những con phố nơi đây vẫn giữ nguyên những cái tên thuở trước và không ít trong số đó vẫn là nơi buôn bán, kinh doanh những mặt hàng truyền thống cũ. Sau khi Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội, Hà Nội còn có thêm nhiều làng nghề danh tiếng khác. Theo số liệu cuối năm 2008, toàn Hà Nội có 1.264 làng nghề, là nơi tập trung làng nghề đông đúc bậc nhất Việt Nam.\nNằm trong trung tâm khu phố cổ, Hàng Bạc trước đây là nơi tập trung những người sinh sống bằng các nghề đúc bạc nén, kim hoàn và đổi tiền. Những thợ kim hoàn của Hàng Bạc có kỹ thuật tinh xảo, xuất thân từ ba làng nghề làm đồ vàng bạc của miền Bắc Việt Nam: làng Châu Khê ở tỉnh Hải Dương, làng Định Công ở quận Hoàng Mai và làng Đồng Xâm thuộc tỉnh Thái Bình. Thế kỷ XV, Lưu Xuân Tín, vị quan thượng thư bộ Lại vốn người làng Châu Khê, được triều đình nhà Lê giao cho việc lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thǎng Long. Nhờ vậy, những người thợ Châu Khê tới Hà Nội và không chỉ làm bạc nén, họ làm cả nghề trang trí vàng bạc. Khi nhà Nguyễn lấy Huế làm kinh đô, xưởng đúc bạc nén cũng chuyển tới kinh thành mới, nhưng những người thợ Châu Khê vẫn ở lại Thăng Long và lập nên con phố Hàng Bạc ngày nay. Vào thời kỳ thuộc địa, con phố Hàng Bạc còn được mang tên \"Rue changeurs\", có nghĩa \"phố Đổi Bạc\". Dân cư ở đây không chỉ sản xuất đồ kim hoàn mà còn buôn bán, đổi bạc nén lấy bạc vụn. Ngày nay, nghề buôn bán vàng bạc xuất hiện ở nhiều con phố khác, nhưng Hàng Bạc vẫn là nơi đông đúc bậc nhất.\nLàng gốm Bát Tràng nằm ở huyện Gia Lâm, phía Nam thành phố từ lâu đã có các sản phẩm gốm mang tên chính ngôi làng này. Làng xuất hiện vào thế kỷ XIV khi những người dân làm gốm từ làng Bồ Bát, Ninh Bình và làng Ninh Tràng, Thanh Hóa tụ họp về đây lập nên ngôi làng mới mang tên Bát Tràng. Những người dân Bát Tràng trước kia ít sống với nghề gốm và nông nghiệp, chủ yếu buôn bán cau khô, nước mắm. Nghề gốm ở đây chỉ thực sự phát triển sau năm 1954, khi miền Bắc Việt Nam bước vào thời kỳ hòa bình. Nhiều mẫu mã, các loại men truyền thống được những nghệ nhân của làng phục hồi, sản phẩm gốm Bát Tràng nhanh chóng đạt được danh tiếng. Bát Tràng hiện nay không chỉ là một làng nghề sản xuất thuần túy. Với nhiều công trình tín ngưỡng, văn hóa cùng sản phẩm gốm, ngôi làng trở thành một địa điểm du lịch thu hút của thành phố Hà Nội.\nMột làng nghề khác của Hà Nội ngày nay là làng lụa Vạn Phúc, vốn thuộc thành phố Hà Đông tỉnh Hà Tây trước đây, nay là quận Hà Đông. Sản phẩm lụa của làng từ rất lâu đã có tiếng với tên gọi \"lụa Hà Đông\", từng được ca ngợi trong âm nhạc, thi ca và điện ảnh. Tương truyền, bà tổ làng lụa Vạn Phúc vốn người Hàng Châu, Trung Quốc, theo chồng chinh chiến rồi tới ở lại và truyền nghề dệt cho làng. Theo một truyền thuyết khác, cách đây hơn 1200 năm, một cô gái người Cao Bằng tên là A Lã Thị Nương đã đến làm dâu và mang nghề dệt lụa tới làng. Trải qua thời gian, nghề lụa trở thành nghề truyền thống của Vạn Phúc. Ngày nay, phần lớn các gia đình ở đây vẫn sống bằng nghệ dệt. Bên cạnh các khung dệt cổ, nhiều gia đình sử dụng những khung dệt cơ khí hiện đại. Các con phố Hàng Gai, Hàng Đào của Hà Nội là nơi tập trung nhiều cửa hàng bán sản phẩm lụa Vạn Phúc.\nLễ hội truyền thống.\nThăng Long – Hà Nội là một trong ba vùng tập trung nhiều hội lễ của miền Bắc Việt Nam, cùng với vùng đất tổ Phú Thọ và xứ Kinh Bắc. Cũng như các vùng đất khác, những lễ hội truyền thống ở khu vực Hà Nội được tổ chức nhiều nhất vào mùa xuân. Phần nhiều các lễ hội tưởng nhớ những nhân vật lịch sử, truyền thuyết như Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Quang Trung, An Dương Vương... Một vài lễ hội có tổ chức những trò chơi dân gian độc đáo như hội thổi cơm thi làng Thị Cấm, hội bơi cạn và bắt chạch làng Hồ, hội chạy cờ làng Đơ Thao, lễ hội thả diều truyền thống Bá Giang.\nLễ hội Bình Đà, di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đầu tiên của thành phố Hà Nội, được tổ chức hàng năm tại làng Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai. Đây là lễ hội cổ truyền từ xa xưa, một trong những lễ hội lớn nhất trong vùng và cả nước. Lễ hội kéo dài từ ngày 24 tháng 2 đến ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch hằng năm nhằm kết hợp lễ tưởng nhớ Quốc tổ Lạc Long Quân, và Thành Hoàng Làng Linh Lang Đại Vương đã có nhiều công đức trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Với lòng thành kính, từ hàng nghìn năm nay, người dân Bình Đà đã duy trì lễ hội truyền thống với những hình thức thực hành tín ngưỡng độc đáo. Nghi thức thả bánh thánh đặc biệt và thần bí, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử – văn hóa đặc sắc, thu hút đông đảo các thế hệ dân cư trong vùng và địa phương khác về dự hội. Đây là lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa của người Việt Nam nhằm ôn lại ký ức của buổi đầu khai sinh lập địa.\nTừ ngày 9 đến 12 tháng Giêng âm lịch, lễ hội Triều Khúc được tổ chức tại ngôi làng cùng tên, thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, nơi có nghề làm nón quai thao và may các đồ thờ như lọng, tàn, trướng, y môn, tán tía. Lễ hội được mở đầu bằng lễ rước long bào từ đình Sắc về đình Lớn. Khi cuộc tế lễ trong đình bắt đầu thì ngoài sân đình các trò vui cũng được tổ chức. Một trong những trò vui được nhiều người ưa thích nhất là trò \"con đĩ đánh bồng\". Đĩ đánh bồng do hai nam thanh niên mặc trang phục nữ giới biểu diễn, nhún nhảy và đánh chiếc trống Bồng đeo trước bụng. Nhiều trò vui khác như múa lân hí cầu, đấu vật, hát Chèo Tàu sẽ được tổ chức cho tới ngày 12, hội kết thúc bằng lễ rã đám.\nMột trong những hội lễ lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ là lễ hội Thánh Gióng hay còn gọi là hội làng Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, xuất phát từ một câu chuyện truyền thuyết về Thánh Gióng, một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Vào 9 tháng 4 âm lịch hàng năm, những người dân ở khắp nơi tụ hội về đây tham dự, xem lễ hội làng. Lễ hội làng Gióng được cử hành trên một diễn trường rộng lớn dài khoảng 3 km gồm đền Thượng, đền Mẫu và chùa Kiến Sơ. Bắt đầu từ ngày 6, người dân làng tổ chức rước lễ rước cờ tới đền Mẫu, rước cơm chay lên đền Thượng và ngày chính hội tổ chức hội trận, tái hiện cảnh Thánh Gióng phá giặc Ân. Các ngày từ 10 đến 12 được tiếp nối bằng các lễ rửa khí giới, rước cờ báo tin thắng trận với trời đất và cuối cùng là lễ khao quân, đến đêm có hát chèo. Ngoài lễ hội chính tại làng Phù Đổng, một vài nơi khác cũng tổ chức hội Gióng như hội đền Sóc ở huyện Sóc Sơn, hội Gióng Xuân Tảo ở phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, hội Phù Thánh Gióng ở làng Chi Nam, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm.\nTrong nội ô thành phố, vào ngày 5 Tết Nguyên Đán, lễ hội Đống Đa được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc quận Đống Đa. Địa điểm này từng là nơi diễn ra trận đánh giữa nhà Tây Sơn và quân Thanh vào đêm 4 rạng ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu, tức 1789. Lễ hội Đống Đa được tổ chức với nhiều trò vui, trong đó tiết mục rước rồng lửa do thanh niên mặc quần áo võ sinh thời cổ rước đi quanh sân lớn, cùng một đám võ sinh múa côn quyền tái hiện hình ảnh của quá khứ.\nỞ xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, lễ hội chùa Hương tấp nập du khách từ giữa tháng 1 tới tận tháng 3 âm lịch, nhưng đông nhất vào khoảng từ ngày rằm tháng giêng đến 18 tháng 2. Với cảnh núi non, sông nước cùng quần thể di tích chùa Hương, lễ hội là điểm đến của các tăng ni, phật tử, những người hành hương và khách du lịch. Theo hành trình phổ biến, khách trẩy hội thường bắt đầu từ bến Đục, ngồi đò theo dòng suối Yến ghé lễ đền Trình. Từ đó, du khách tiếp tục đi qua cầu Hội, hang Sơn thủy hữu tình, núi Đồi Chèo, núi Con Voi, núi Mâm Xôi, núi Con Gà... Rồi cập bến vào chùa Thiên Trù. Từ đây, du khách bắt đầu hành trình đi bộ thăm chùa Tiên, chùa Giải Oan, đền Cửa Võng và đến đệ nhất động Hương Tích. Đây là một trong những lễ hội lớn và kéo dài nhất Việt Nam.\nẨm thực.\nLà trung tâm văn hóa của cả miền Bắc từ nhiều thế kỷ, tại Hà Nội có thể tìm thấy và thưởng thức những món ăn của nhiều vùng đất khác, nhưng ẩm thực Hà Nội cũng có những nét riêng biệt. Cốm làng Vòng được những người dân của ngôi làng cùng tên thuộc quận Cầu Giấy làm đặc trưng bởi mùi thơm và màu sắc. Cốm làm từ giống nếp vàng gặt khi còn non, gói trong những tàu lá sen màu ngọc thạch và được những người bán hàng rao bán ngay từ sáng sớm. Tuy phổ biến nhất là cốm tươi, nhưng món ăn này còn được chế biến thành món chả cốm. Đây cũng là một món quà được dùng trong các dịp vui.\nThanh Trì, làng vùng ngoại ô khác thuộc phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai, với món bánh cuốn Thanh Trì. Bánh được làm từ gạo gié cánh, tám thơm, tráng mỏng như tờ giấy. Những phụ nữ vùng Thanh Trì cho bánh vào thúng, đội trên đầu và đi rao khắp các ngõ phố của Hà Nội. Bánh xếp trong thúng, từng lớp gối nhau trên những tàu lá chuối. Khi ăn, bánh được bóc từng lớp rồi cuộn lại, bày trên những chiếc đĩa. Món bánh cuốn Thanh Trì được ăn cùng với loại nước mắm pha theo công thức đặc biệt của người Thanh Trì xưa kia được thêm tinh dầu từ con Cà cuống với mùi thơm đặc trưng, đậu phụ rán nóng, chả quế. Ngày nay, bánh còn được ăn với thịt ba chỉ quay giòn. \nMột món ăn khác có tiếng của Hà Nội là chả cá Lã Vọng. Vào thời Pháp thuộc, gia đình họ Đoàn phố Hàng Sơn, ngày nay là 14 phố Chả Cá, đã tạo nên một món ăn mà danh tiếng của nó làm thay đổi cả tên con phố. Chả được làm từ thịt cá lăng – hoặc cá quả, cá nheo nhưng sẽ kém ngon hơn – thái mỏng ướp với nước riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm rồi kẹp vào cặp tre nướng trên lò than ngay trên bàn ăn của thực khách. Chả cá Lã Vọng phải ăn nóng, kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ, chấm với mắm tôm.\nPhở là món ăn rất phổ biến ở Việt Nam, nhưng phở Hà Nội có những cách chế biến đặc trưng riêng. Phở Hà Nội mang vị ngọt của xương bò, thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà không dai, màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Sau khi được trần qua nước nóng, bánh phở được dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt mỏng cùng hành hoa, rau thơm. Cùng với thời gian, nhiều món phở mới xuất hiện với những cách chế biến khác nhau, như phở xào, phở rán, phở cuốn.\nLàng Lệ Mật nổi tiếng với những món ăn chế biến từ rắn. Rượu ngâm xương rắn được phục vụ miễn phí.\nỞ Hà Nội còn có nhiều món ăn đặc trưng khác như phở cuốn, bún thang, bún chả, bún nem, bún bung, bún mọc, đậu phụ Mơ, bánh tôm Hồ Tây, bún ốc, xôi Phú Thượng, bánh tẻ Phú Nhi, tào phớ An Phú, nem chua Đông Ngạc, nem Phùng, giò chả Ước Lễ.\nVăn hóa ứng xử.\nHà Nội thường được xem như nơi tập trung những tinh hoa văn hóa của miền Bắc và cả Việt Nam. Trong hàng ngàn năm, vị trí kinh đô khiến thành phố này trở thành nơi quy tụ của những nhân vật ưu tú, những thương nhân, những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề. Họ tới đây lập nghiệp, mang theo những phong tục, tập quán địa phương và \"tỉnh\" Hà Nội trở thành mảnh đất tiêu biểu cho nền văn hóa của cả Việt Nam. Những danh nhân, nhân vật của Việt Nam phần đông xuất thân từ những vùng đất khác, nhưng kinh đô Thăng Long thường là nơi họ xây dựng nên sự nghiệp. Môi trường cạnh tranh của đất kinh thành khiến những thương nhân, thợ thủ công trụ vững lại Hà Nội phải là những người xuất sắc, tài năng. Khi những người dân tứ xứ về định cư tại Thăng Long, các phong tục tập quán mà họ mang theo cũng dần thay đổi, tạo nên nét văn hóa của Hà Nội.\nThăng Long – Hà Nội, kinh đô của Việt Nam, còn là nơi giao thoa của những nền văn hóa lớn. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc đã để lại trên vùng đất Hà Nội ít nhiều những dấu ấn của nền văn minh Trung Hoa. Khi những người Pháp vào Việt Nam, nhiều người trong số họ chỉ coi Hà Nội như một tỉnh của Trung Quốc, hoặc đơn thuần là một vùng chuyển tiếp giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Qua những người Pháp, Hà Nội – trung tâm văn hóa của quốc gia – biết tới nền văn minh phương Tây để rồi xây dựng nên những cơ sở đầu tiên của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại với tân nhạc, thơ mới, hội họa, văn học hiện đại, điện ảnh, nhiếp ảnh. Nhưng Hà Nội đầu thế kỷ XX cũng là nơi những giá trị Pháp thống trị, cửa sổ mở ra thế giới mới của giới thượng lưu Việt Nam. Như lời của sử gia về Đông Nam Á Pierre-Richard Féray: \"Ngay khi một người Việt Nam đạt được giàu sang và sống tại thành phố, anh ta bắt đầu trở nên đặc trưng Pháp. Anh ta cố gắng nói đúng giọng Pháp. Anh ta ăn, sống và thở theo cách Pháp\". Những thập niên gần đây, Hà Nội cùng Việt Nam lại tiếp nhận những làn sóng văn hóa từ châu Âu và Mỹ.\nTuy là thủ đô, trung tâm văn hóa của Việt Nam, nhưng một số sự kiện văn hóa tổ chức ở Hà Nội gần đây đã xảy ra nhiều sự việc đáng chú ý, điển hình là vụ tàn phá hoa của người Hà Nội tại Lễ hội hoa anh đào diễn ra giữa thủ đô năm 2008, hay những hành động thiếu ý thức, kém văn minh tại Lễ hội phố hoa Hà Nội vào Tết Dương lịch 2009 tổ chức tại hồ Hoàn Kiếm, dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ dư luận cả nước trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặt câu hỏi lớn về \"văn hóa người Tràng An\" trong thời đại ngày nay. Có nhiều ý kiến nhận xét lối cư xử nhã nhặn, thanh lịch của người Hà Nội đang mất dần, thay vào đó là cách cư xử thiếu văn hóa nhất là ở giới trẻ Hà Nội. Hà Nội còn có \"\"bún mắng, cháo chửi\" ngày càng trở nên phổ biến đã bị nhiều báo phản ánh và phê phán tuy nhiên các quán ăn có phong cách phục vụ vô văn hóa, thô lỗ, xem thường, xúc phạm khách hàng này vẫn thu hút được nhiều người đến ăn. Sau sự kiện \"bún chửi\" Hà Nội lên sóng CNN trong mục \"món ăn đặc sắc\" tháng 9 năm 2016 thì giới chức Hà Nội \"tuyên chiến với nói tục, chửi bậy\".\nÂm nhạc.\nHà Nội là một niềm cảm hứng sáng tác của nhiều nhạc sĩ. Đã có hàng nghìn bài hát viết về Hà Nội trong nhiều đề tài. Trước hết đó là hình ảnh của một Hà Nội với khí thế hào hùng và mạnh mẽ trong vị thế thủ đô trong cuộc đấu tranh vệ quốc. Trong những năm tháng này, Văn Cao đã viết cho Hà Nội một số hành khúc như Thăng Long hành khúc ca, Gò Đống Đa, Tiến về Hà Nội. Khi những người lính thuộc Trung đoàn Thủ Đô phải rời xa Hà Nội, một trong số đó, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi đã viết ca khúc \"Người Hà Nội\", ngày nay đã trở nên quen thuộc. Hình ảnh Hà Nội trong cuộc chiến với thực dân Pháp cũng là đề tài của các tác phẩm như: \"Sẽ về Thủ đô\" của Huy Du, \"Cảm xúc tháng Mười\" của Nguyễn Thành, \"Ba Đình nắng\" của Bùi Công Kỳ. Trong những tháng năm chống Mỹ, Thủ đô anh hùng trong chiến đấu và kiến thiết được khắc họa đâm nét trong các tác phẩm như \"Bài ca Hà Nội\" của Vũ Thanh, \"Hà Nội – Điện Biên Phủ\" của Phạm Tuyên, \"Khi thành phố lên đèn\" của Thái Cơ, \"Tiếng nói Hà Nội\" của Văn An v.v... Bên cạnh đó, Hà Nội hiện lên với dáng vẻ cổ xưa, kiêu kỳ và lãng mạn, với \"ánh đèn giăng mắc\", \"có bóng trăng thơ in trên mặt hồ\", với hình ảnh người con gái \"khăn san bay lả lơi trên vai ai\", \"áo trắng Trưng Vương, Tây Sơn em tan trường về\" trong những nhạc phẩm mang nhiều tính chất hoài niệm như Hướng về Hà Nội của Hoàng Dương, Nỗi lòng người đi của Anh Bằng, Hà Nội ngày tháng cũ của Song Ngọc hay Gửi người em gái miền Nam của Đoàn Chuẩn. Vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật, con người, truyền thống lịch sử và nét thanh lịch độc đáo của Hà Nội được khắc họa đậm nét qua giai điệu của nhiều nhạc sĩ Việt Nam thuộc nhiều thế hệ khác nhau, như Hoàng Hiệp với \"Nhớ về Hà Nội\", Phan Nhân với \"Hà Nội niềm tin và hy vọng\", Hoàng Vân với \"Tình yêu Hà Nội\", Văn Ký với \"Trời Hà Nội xanh\" và \"Hà Nội mùa xuân\", Nguyễn Đức Toàn với \"Hà Nội trái tim hồng\", Trần Hoàn với \"Khúc hát người Hà Nội\", Trịnh Công Sơn với \"Nhớ mùa thu Hà Nội\", Nguyễn Cường với \"Mãi vẫn là tuổi thơ tôi Hà Nội\", Dương Thụ với \"Mong về Hà Nội\", Phú Quang với \"Em ơi, Hà Nội phố\", \"Hà Nội ngày trở về\", \"Im lặng đêm Hà Nội\", Phạm Minh Tuấn với \"Hà Nội ơi thầm hát trong tôi\", Nguyễn Tiến với \"Chiều mưa Hà Nội\", Trần Quang Lộc với \"Có phải em mùa thu Hà Nội\", Trương Quý Hải với \"Hà Nội mùa vắng những con mưa\", Lê Vinh với \"Hà Nội và tôi\", Vũ Quang Trung với \"Chiều Hà Nội\" v.v... Một số địa danh của Hà Nội cũng đi trở thành chủ đề sáng tác trong âm nhạc như \"Một thoáng Tây Hồ\" của Phó Đức Phương, \"Ngẫu hứng sông Hồng\" của Trần Tiến, \"Chiều Hồ Gươm\" của Đặng An Nguyên, \"Truyền thuyết Hồ Gươm\" của Hoàng Phúc Thắng, \"Bên lăng Bác Hồ\" của Dân Huyền v.v... Có một số tác phẩm tuy không nhắc đến địa danh Hà Nội trong tựa đề hoặc trong ca từ nhưng được lấy cảm hứng hoặc viết về chính mảnh đất này như: \"Những ánh sao đêm\" của Phan Huỳnh Điểu, \"Từ một ngã tư đường phố\" của Phạm Tuyên, \"Mùa xuân làng lúa làng hoa\" của Ngọc Khuê, \"Hoa sữa\" của Hồng Đăng, \"Thu quyến rũ\" của Đoàn Chuẩn, \"Phố nghèo\", \"Ngẫu hứng phố\" của Trần Tiến.. Một Hà Nội với ngập tràn các loài hoa đã được nhạc sĩ Giáng Son khắc họa trong \"Hà Nội 12 mùa hoa\" – Đây cũng là một vẻ đẹp rất riêng của thủ đô Hà Nội.\nVăn học.\nTrong văn học Việt Nam, Hà Nội hiện ra như một đô thị có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống và bản sắc văn hóa. Thời phong kiến, thành Thăng Long từng là đề tài của nhiều bài thơ như \"Long thành cầm giả ca\" của Nguyễn Du hay \"Thăng Long thành hoài cổ\" của Bà Huyện Thanh Quan. Ba nhà văn thường được nhắc đến khi nói về đề tài Hà Nội trong văn học là Nguyễn Tuân, Vũ Bằng và Thạch Lam. Nguyễn Tuân, người sinh ra và lớn lên trong môi trường nho giáo, thất vọng bởi cuộc sống trong xã hội \"kim khí\" xô bồ, thường tìm về những giá trị cũ. Bóng dáng Hà Nội trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là những thú chơi của các bậc tao nhân mặc khách trong \"Vang bóng một thời\" như thưởng trà, thả thơ, đánh thơ, hát ca trù... Vũ Bằng lại qua những trang viết, như \"Miếng ngon Hà Nội\" và \"Thương nhớ mười hai\", thể hiện nỗi nhớ và tình yêu Hà Nội, ca ngợi sự tinh tế của các món ăn, khung cảnh thiên nhiên, đất trời, cảnh vật, con người, văn hóa của thành phố. Thạch Lam được biết đến qua tập bút ký \"Hà Nội 36 phố phường\". Tác phẩm của Thạch Lam thể hiện sự thương xót trước những người nghèo khó, miêu tả hương vị của những món quà quê, những tiếng rao... tất cả những thứ tạo nên văn hóa Hà Nội. Nhiều nhà văn khác cũng có các tác phẩm về thành phố này như \"Phố\" của Chu Lai, \"Sống mãi với thủ đô\" của Nguyễn Huy Tưởng. Bảo Ninh trong \"Nỗi buồn chiến tranh\" cũng dành nhiều trang viết về Hà Nội. \nĐiện ảnh và truyền hình.\nHình ảnh Hà Nội xuất hiện rất nhiều trên cả màn ảnh lớn và màn ảnh nhỏ. Sau khi được giải phóng vào năm 1954, không ít những bộ phim của điện ảnh cách mạng đã nói về Hà Nội, trong đó có thể đến đến \"Giông tố\", \"Sao tháng Tám\", \"Hà Nội mùa đông năm 1946\", \"Em bé Hà Nội\", \"Phía bắc Thủ đô\", \"Tiền tuyến gọi\". \"Em bé Hà Nội\", tác phẩm của đạo diễn Hải Ninh, khắc họa cuộc sống của Hà Nội trong thời gian quân đội Hoa Kỳ ném bom miền Bắc đã giành Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1975 và giải đặc biệt của ban giám khảo LHP Liên hoan phim Moskva cùng năm đó. Sau khi Việt Nam thống nhất, một số bộ phim điện ảnh khai thác đề tài về lớp thanh niên sống ở Hà Nội thời kỳ sau chiến tranh, như \"Tuổi mười bảy\", \"Những người đã gặp\", \"Hãy tha thứ cho em\", \"Cách sống của tôi\", \"Hà Nội mùa chim làm tổ\". Dưới thời bao cấp, bộ phim tài liệu của đạo diễn Trần Văn Thủy \"Hà Nội trong mắt ai\" đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho không khí của giai đoạn nhưng cũng từng vấp phải không ít tranh cãi ở khâu kiểm duyệt. Kể từ năm 1990, trong suốt một thập niên, phim về Hà Nội dường như vắng bóng trên màn ảnh của điện ảnh Việt Nam. Năm 2000, đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng về Việt Nam sản xuất \"Mùa hè chiều thẳng đứng\", một bộ phim chính kịch, xoay quanh cuộc sống của ba chị em gái với bối cảnh Hà Nội. Để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhiều nhà làm phim Việt Nam đã sản xuất một vài bộ phim về đề tài này.\nHội họa.\nTrong hội họa, họa sĩ Bùi Xuân Phái là một trong những người thành công và gắn bó nhất với Hà Nội. Trong tranh của Bùi Xuân Phái, Hà Nội mang đầy vẻ xưa cũ với những ngôi nhà mái nâu, những con phố nhỏ. Những bức vẽ về phố cổ Hà Nội của Bùi Xuân Phái ngày nay thường được biết đến với tên gọi \"Phố Phái\". Ngoài ra, còn có một số họa phẩm của các họa sĩ khác vẽ về người Hà Nội đã đi vào lịch sử như \"Thiếu nữ bên hoa huệ\" của Tô Ngọc Vân, \"Em Thúy\" của Trần Văn Cẩn, \"Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi\" của Nguyễn Đỗ Cung.\nGiao thông.\nLà thành phố thủ đô và có vị trí ở khu vực trung tâm của miền Bắc, bên cạnh con sông Hồng, giao thông từ Hà Nội đến các tỉnh khác của Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường không, đường bộ, đường thủy và đường sắt. Giao thông đường không, ngoài sân bay quốc tế Nội Bài cách trung tâm khoảng 35 km, thành phố còn có sân bay Gia Lâm ở phía Đông, thuộc quận Long Biên, từng là sân bay chính của Hà Nội những năm 1970, hiện sân bay Gia Lâm chỉ phục vụ cho các chuyến bay dịch vụ của trực thăng, gồm cả dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó là sân bay Bạch Mai thuộc quận Thanh Xuân được xây dựng từ năm 1919 và có thời gian đóng vai trò như một sân bay quân sự. Ngoài ra, Hà Nội còn có sân bay quân sự Hòa Lạc tại huyện Thạch Thất, sân bay quân sự Miếu Môn tại huyện Chương Mỹ. Hà Nội là đầu mối giao thông của năm tuyến đường sắt trong nước và một tuyến liên vận sang Bắc Kinh, Trung Quốc, đi nhiều nước châu Âu, một tuyến quốc tế sang Côn Minh, Trung Quốc. Các bến xe Phía Nam, Gia Lâm, Nước Ngầm, Giáp Bát, Yên Nghĩa, Mỹ Đình là nơi các xe chở khách liên tỉnh tỏa đi khắp đất nước theo các Quốc lộ 1 xuyên Bắc – Nam và rẽ Quốc lộ 21 đi Nam Định, Quốc lộ 2 đến Hà Giang, Quốc lộ 3 đến Bắc Kạn, Cao Bằng, Thái Nguyên; Quốc lộ 5 đi Hải Phòng, Quốc lộ 17 đi Quảng Ninh, Quốc lộ 6 và Quốc lộ 32 đi các tỉnh Tây Bắc.\nHà Nội có nhiều tuyến đường cao tốc trên địa bàn như Đại lộ Thăng Long, Pháp Vân – Cầu Giẽ, Hà Nội – Bắc Giang, Hà Nội – Hải Phòng, Nội Bài – Lào Cai, Hà Nội – Thái Nguyên, Hà Nội – Hòa Bình, được xây dựng và hoàn thành nhằm kết nối nhanh chóng, thuận tiện thủ đô với các tỉnh. Về giao thông đường thủy, Hà Nội cũng là đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà Đen đi Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì và bến Hàm Tử Quan đi Phả Lại. \nTrong nội ô, các con phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ tầng đô thị còn thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn – đặc biệt là xe máy –, và ý thức chưa tốt của các cư dân thành phố. Lại thêm khâu xử lý vi phạm giao thông của cảnh sát giao thông hiện nay chưa nghiêm, việc quản lý nhà nước và tổ chức giao thông còn nhiều bất cập, luôn thay đổi tùy tiện. Giáo sư Seymour Papert – nhà khoa học máy tính từ Viện Công nghệ Massachusetts bị tai nạn ở Hà Nội vào cuối năm 2006 – đã miêu tả giao thông của thành phố như một ví dụ minh họa cho giả thuyết về \"hành vi hợp trội\", phương thức mà các đám đông, tuân theo các nguyên tắc đơn giản và không cần sự lãnh đạo, tạo ra các vận động và hệ thống phức tạp. Trên những đường phố Hà Nội, vỉa hè thường bị chiếm dụng khiến người đi bộ phải đi xuống lòng đường. Trong những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát triển thêm 5 tới 10 km đường mỗi năm. Nhiều trục đường của thành phố thiết kế chưa khoa học, không đồng bộ và hệ thống đèn giao thông ở một vài điểm cũng thiếu hợp lý. Thêm nữa, hiện tượng ngập úng mỗi khi mưa lớn cũng gây khó khăn cho người tham gia giao thông. Trong thập niên 2000, hệ thống xe buýt – loại hình phương tiện giao thông công cộng duy nhất – của thành phố có phát triển mạnh, nhưng phần đông người dân vẫn sử dụng các phương tiện cá nhân, chủ yếu là xe máy.\nTheo quy hoạch giao thông Hà Nội được Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt năm 2008, chi phí cho phần phát triển đường bộ lên tới 100.000 tỷ đồng. Ba tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục chính cùng nhiều tuyến phố sẽ được xây dựng mới hoặc cải tạo lại. Cho đến cuối năm 2011, Hà Nội có 7.365 km đường giao thông, trong đó 20% là trục đường chính, 7 trục hướng tâm và 3 tuyến vành đai, cũng như đang quản lý hơn 4,3 triệu phương tiện giao thông các loại, trong đó riêng xe máy chiếm gần 4 triệu.\nVinh danh.\nTên gọi của thành phố cũng được sử dụng cho nhiều loài sinh vật :\nTên Hà Nội còn được đặt cho tiểu hành tinh 7816 Hanoi phát hiện năm 1987 có đường kính gần 3 km." ]
huyn - ngikm - yn - long - tch - thuc - an - ninh - vnh - giang
1
false
Kim Dung (10 tháng 3 năm 1924 – 30 tháng 10 năm 2018), tên khai sinh là Tra Lương Dung, là một trong những nhà văn có tầm ảnh hưởng nhất đến văn học Trung Quốc hiện đại. Ông còn là người đồng sáng lập của nhật báo "Hồng Kông Minh Báo", ra đời năm 1959 và là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này. Từ năm 1955 đến năm 1972, ông đã viết tổng cộng 14 cuốn tiểu thuyết và 1 truyện ngắn. Sự nổi tiếng của những bộ truyện đó khiến ông được xem là người viết tiểu thuyết võ hiệp thành công nhất lịch sử. 300 triệu bản in (chưa tính một lượng rất lớn những bản lậu) đã đến tay độc giả của Trung Hoa đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, châu Á và đã được dịch ra các thứ tiếng Việt, Hàn, Nhật, Thái, Anh, Pháp, Indonesia. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyền hình, trò chơi điện tử. Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 10930 Jinyong (1998 CR2), là tiểu hành tinh được tìm ra trùng với ngày sinh âm lịch của ông (6 tháng 2). Tháng 2 năm 2006, ông được độc giả gọi là nhà văn được yêu thích nhất tại Trung Quốc. Ông là người sùng đạo Phật, rất yêu thiên nhiên và động vật, đặc biệt ông có nuôi một con chó Trùng Khánh. Tiểu sử. Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung (phồn thể: 查良鏞, giản thể: 查良镛, bính âm: Cha Leung Yung), sinh vào ngày 10 tháng 3 năm 1924 tại trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, Gia Hưng, Chiết Giang, Trung Quốc, trong một gia tộc khoa bảng danh giá . Ông nội là Tra Văn Thanh làm tri huyện Đan Dương ở tỉnh Giang Tô. Tra Văn Thanh về sau từ chức, đến đời con là Tra Xu Khanh bắt đầu sa sút; Tra Xu Khanh theo nghề buôn, sau sinh 9 đứa con, Kim Dung là con thứ hai. Tra Xu Khanh (查樞卿) bị chính quyền cộng sản bắt và hành quyết với tội phản cách mạng trong phong trào Thanh Trừng Phản Cách Mạng vào những năm đầu thập niên 1950. Sau này vào thập niên 1980 Tra Xu Khanh được tuyên bố vô tội. Thuở nhỏ Kim Dung thông minh, lanh lợi, nghịch nhưng không đến nỗi quậy phá. Ông yêu thiên nhiên, thích nghe kể chuyện thần thoại, truyền thuyết, nhất là về những ngọn triều trên sông Tiền Đường. Đặc biệt ông rất mê đọc sách. Dòng họ Kim Dung có một nhà để sách gọi là "Tra thị tàng thư" nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây, chứa rất nhiều sách cổ. Sáu tuổi, ông vào học tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất chăm học, lại thêm mê đọc sách nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy dạy văn cho ông lúc bé tên Trần Vị Đông, là người rất thương yêu và tin tưởng Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim Dung, nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật báo. Năm lên tám tuổi, ông lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc đến bộ truyện "Hoàng Giang nữ hiệp" của Cố Minh Đạo, cảm thấy rất say mê. Năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, Kim Dung được gửi đến học trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Tuy xa nhà nhưng cuộc sống của ông cũng không khác mấy, ngoài đi học vẫn chúi đầu đọc sách, và vẫn đứng đầu lớp. Một hôm nhân dịp về thăm nhà, ông khoe gia đình cuốn sách "Dành cho người thi vào sơ trung", một cuốn cẩm nang luyện thi, có thể coi là cuốn sách đầu tiên của ông, viết năm 15 tuổi và được nhà sách chính quy xuất bản. Đến khi lên bậc Cao trung, Kim Dung lại soạn "Hướng dẫn thi vào cao trung". Năm 16 tuổi, ông viết truyện trào phúng "Cuộc du hành của Alice" có ý châm biếm ngài chủ nhiệm ban huấn đạo, người này tức giận, liền ép hiệu trưởng phải đuổi học ông. "Cuộc du hành của Alice" tuy đem lại tai hại, nhưng đã cho thấy tài tưởng tượng, cũng như tinh thần phản kháng của Kim Dung, mà sau này thể hiện rất rõ trên các tác phẩm. Ông lại chuyển đến học trường Cù Châu. Tại trường này có những quy định rất bất công với học trò, học sinh không được quyền phê bình thầy giáo, nhưng thầy giáo có quyền lăng nhục học sinh. Năm thứ hai tại trường, ông viết bài "Một sự ngông cuồng trẻ con" đăng lên Đông Nam nhật báo. Bài báo làm chấn động dư luận trong trường, được giới học sinh tranh nhau đọc. Ban giám hiệu trường Cù Châu đành phải bãi bỏ những quy định nọ. Không những vậy, một ký giả của Đông Nam nhật báo là Trần Hướng Bình do hâm mộ tác giả bài báo, đã lặn lội tìm đến trường học để thỉnh giáo. Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di dời, ban giám hiệu quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để bớt đi gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học Luật quốc tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Tại học viện chính trị Trung ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối năm nhất ông được tặng phần thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ này, ông ngoài tham gia viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt tay vào làm cuốn Anh – Hán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng Anh, hai công trình này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại trường bắt đầu nổi lên các cuộc bạo loạn chính trị. Có lần viết thư tố cáo một vụ bê bối trong trường, Kim Dung lần thứ hai trong đời bị đuổi học, năm 19 tuổi. Sau ông xin làm việc tại Thư viện trung ương. Ở chung với sách, tri thức nâng cao lên rất nhiều. Ngoài đọc sách sử học, khoa học và những tiểu thuyết võ hiệp đương thời, ông còn đọc những cuốn như Ivanhoe của Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas (cha), những truyện này đã ảnh hưởng đến văn phong của ông. Tại đây ông bắt đầu nảy sinh ý định sáng tác truyện võ hiệp. Ông cũng sáng lập ra một tờ báo lấy tên Thái Bình Dương tạp chí, nhưng chỉ ra được một số đầu, số thứ 2 nhà xuất bản không chịu in. Năm 1944, ông đến làm việc cho một nông trường ở Tương Tây. Nơi này rất tịch mịch hẻo lánh, đến năm 1946, không chịu nổi ông xin thôi việc, người chủ nông trường không cản được, tiễn ông bằng một bữa thịnh soạn. Mùa hạ năm đó, ông về lại quê cũ ở Hải Ninh, cha mẹ nghe tin ông bị đuổi học, rất buồn. Năm 1946 từ biệt gia đình, ông về Hàng Châu làm phóng viên cho tờ "Đông Nam nhật báo" theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày xưa đã tìm đến trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú về viết báo. Năm sau, theo lời mời của tạp chí "Thời dữ triều", ông thôi việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết hay dịch thuật từ máy Radio. Chẳng bao lâu ông lại rời toà soạn "Thời dữ triều", xin vào làm phiên dịch của tờ "Đại công báo". Lúc này anh trai của Kim Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học viện Pháp lý thuộc đại học Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp về luật quốc tế. Năm 1948, tờ Đại công báo ra phụ bản tại Hồng Kông, ông được cử sang làm việc ở đó, dịch tin quốc tế. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến nhà họ Đỗ để ngỏ lời cầu hôn cô con gái 18 tuổi, được chấp nhận. Hôn lễ tổ chức trang trọng tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên Đỗ Trị Phân của ông rất xinh đẹp. Năm 1950, trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, gia đình ông bị quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, từ đó ông mất liên lạc với gia đình. Trong lúc này, vợ ông không chịu nổi cuộc sống ở Hồng Kông, trở về gia đình bên mẹ, không chịu về nhà chồng nữa. Năm 1951 họ quyết định ly hôn. Năm 1952, ông sang làm việc cho tờ "Tân văn báo", phụ trách mục "Chuyện trà buổi chiều", chuyên mục này giúp ông phát huy khả năng viết văn của mình hơn, ông rất thích, một phần vì khán giả cũng rất thích. Ông còn viết phê bình điện ảnh. Từ đó dần đi sâu vào lĩnh vực này. Từ 1953, rời "Tân Văn báo", bắt tay vào viết một số kịch bản phim như "Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân, Tam luyến…" dưới bút danh Lâm Hoan. Những kịch bản này dựng lên được các diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ như Hạ Mộng, Thạch Tuệ, Trần Tứ Tứ… diễn xuất. Từ khi mới vào làm cho "Tân Văn Báo", ông quen thân với La Phù và Lương Vũ Sinh. Đến năm 1955, được hai người ủng hộ và giúp đỡ, ông viết truyện võ hiệp đầu tay là "Thư kiếm ân cừu lục", đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân báo, bút danh Kim Dung cũng xuất hiện từ đây. Hai chữ "Kim Dung" 金庸 là chiết tự từ chữ "Dung" 鏞, tên thật của ông, nghĩa là "cái chuông lớn". "Thư kiếm ân cừu lục" ra đời, tên Kim Dung được chú ý đến, dần dần, ông cùng Lương Vũ Sinh được xem như hai người khai tông ra "Tân phái" của tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ "Bích huyết kiếm" được hoan nghênh nhiệt liệt, từ đó chuyên tâm vào viết tiểu thuyết võ hiệp và làm báo. Năm 1959, cùng với bạn học phổ thông Trầm Bảo Tân, ông lập ra "Minh Báo". Ông vừa viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xã luận. Qua những bài xã luận của ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất. Năm 1972 sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ông đă chính thức nghỉ hưu và dành những năm sau đó biên tập, chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình. Lần hoàn chỉnh đầu tiên là vào năm 1979. Lúc đó, các tiểu thuyết võ hiệp của ông đă được nhiều độc giả biết điến. Các tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm sau, ông tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo "Đạo luật cơ bản Hồng Kông". Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc. Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên. Ngày 30 tháng 10 năm 2018, nhà văn Kim Dung qua đời ở tuổi 94 tại Bệnh viện Dưỡng Hòa sau một thời gian dài chiến đấu với bệnh tật. Tôn giáo. Vào tháng 10 năm 1976, sau cái chết đột ngột của con trai trưởng của mình, Kim Dung đã quyết định tìm hiểu nhiều vào các triết lý của tôn giáo. Kết quả là ông tự mình quy y Phật giáo 2 năm sau đó. Trong 1 năm sau khi con trai qua đời, ông đã đọc rất nhiều thư tịch, tìm tòi và tra cứu sự huyền bí của “sinh và tử” (sự sống và cái chết). Thời còn học trung học, ông đã đọc hết bộ toàn thư của Cơ đốc giáo, bây giờ nhớ lại nội dung chính, trải qua nhiều lần suy ngẫm, ông thấy nội dung giáo lý của đạo Cơ đốc không phù hợp với suy nghĩ của mình. Sau quá trình tiếp tục nghiên cứu, ông đã khảo sát, suy nghĩ tìm tòi, nghi ngờ chất vấn trong thời gian dài, cuối cùng đã thành tâm thành ý tiếp nhận Phật pháp, điều này đã giải quyết những thắc mắc lớn trong lòng ông và đem lại cho ông sự bình an trong tâm hồn. Gia đình riêng. Kim Dung trải qua 3 đời vợ. Người vợ đầu là Đỗ Trị Phân (杜治芬), một thiếu nữ khuê các; người vợ thứ hai là Chu Mân (朱玫), một nữ phóng viên năng động; người vợ thứ ba là Lâm Lạc Di (林樂怡), một nữ phục vụ.  Kim Dung có bốn người con (hai trai hai gái) đều là do người vợ thứ hai Chu Mân sinh ra và không ai theo nối nghiệp văn chương của cha. Ảnh hưởng ở Việt Nam. Dịch giả đưa Kim Dung lên cơn sốt tại Việt Nam được ghi nhận là Tiền Phong Từ Khánh Phụng với bản "Cô gái Đồ Long" (dịch "Ỷ thiên Đồ long ký"), đăng trên báo Đồng Nai năm 1961. Thực ra trước đó, đã có một số bản dịch như "Bích huyết kiếm" của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), "Anh hùng xạ điêu" của Đồ Mập (báo Dân Việt), "Thần điêu đại hiệp" ("Thần điêu hiệp lữ") của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới). Tuy nhiên, truyện kiếm hiệp vẫn được xem là thứ giải trí rẻ tiền. Bản dịch "Cô gái Đồ Long" mới tạo nên cơn sốt truyện Kim Dung trong các tầng lớp độc giả từ bình dân đến trí thức. Một số nhà văn nhà báo lấy bút danh theo tên nhân vật trong truyện Kim Dung như Hư Trúc, Kiều Phong... Nhiều nhà văn nổi tiếng tham gia bình luận Kim Dung như Bùi Giáng, Bửu Ý, công phu nhất là Đỗ Long Vân với loạt bài "Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung". Dịch giả truyện Kim Dung tài hoa nhất là Hàn Giang Nhạn với các bản dịch "Tiếu ngạo giang hồ", "Lộc Đỉnh ký"... câu văn thanh thoát tự nhiên, sinh động. Sau 1975, giống như tại Trung Quốc và Đài Loan cùng thời, các tác phẩm của Kim Dung bị nhà nước Việt Nam cấm lưu hành. Tuy nhiên, các bản sách cũ vẫn được lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc. Đầu thập niên 1990, với chủ trương Đổi Mới, chính quyền Việt Nam giảm bớt sự cấm đoán gắt gao với văn hóa văn nghệ. Một số phim và sách võ hiệp cũ được phát hành lại. Để dễ xin phép xuất bản, thoạt tiên sách không ghi đúng tên tác giả mà lấy các bút danh khác như Nhất Giang, về sau mới ghi đúng tên Kim Dung, Cổ Long. Nhà xuất bản Quảng Ngãi đã tích cực phát hành lại sách võ hiệp cũ. Thêm vào đó, sự phát triển của Internet giúp các bản dịch cũ lưu truyền rộng rãi, ban đầu dưới dạng scan từng trang sách, sau đó là dạng văn bản do những người hâm mộ gõ lại. Sau 1975, nhà văn Vũ Đức Sao Biển là người đầu tiên viết khảo luận về Kim Dung, các bài của ông đăng trên tập san "Kiến thức ngày nay", sau in thành bộ "Kim Dung giữa đời tôi" (4 quyển). Công ty Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên mua bản quyền dịch tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Từ năm 1999, Phương Nam đã mua được bản quyền dịch tác phẩm của Kim Dung, thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Từ năm 2001, toàn bộ tác phẩm võ hiệp của Kim Dung lần lượt được dịch lại và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất. Các dịch giả gồm có Cao Tự Thanh, Vũ Đức Sao Biển, Lê Khánh Trường, Đông Hải, Hoàng Ngọc (Huỳnh Ngọc Chiến). Trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài, dịch giả Nguyễn Duy Chính được xem là người có các bản dịch với chất lượng dịch tốt, điển hình như các bản dịch "Thiên long bát bộ" và "Ỷ thiên Đồ long ký" (lưu truyền trên Internet). Nguyễn Duy Chính cũng viết một số khảo luận về các yếu tố văn hóa Trung Hoa trong tác phẩm của Kim Dung. Vinh dự. Ngoài các tiểu thuyết võ hiệp, ông còn viết các truyện lịch sử Trung Quốc. Ông đã được trao tặng nhiều huân chương danh dự. Kim Dung đã được trao tặng huân chương OBE của Vương Quốc Anh năm 1981, và Bắc đẩu bội tinh năm 1982, Commandeur de l'Ordre des Arts et des Lettres năm 2004 của chính phủ Pháp. Ông cũng là giáo sư danh dự của nhiều trường đại học như Bắc Kinh, Chiết Giang, Nam Khai, Hồng Kông, British Columbia cũng như là tiến sĩ danh dự của đại học Cambridge. Tháng 3 năm 2017, Bảo tàng Di sản Hong Kong đã mở cuộc triển lãm các tranh ảnh có liên quan đến các tác phẩm của Kim Dung. Tác phẩm. Kim Dung viết tổng cộng 15 truyện trong đó 1 truyện ngắn và 14 tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo. Một số tác phẩm của Kim Dung có những nhân vật và chi tiết bắc cầu với nhau, tuy nhiên đều có thể đọc độc lập. Chùm truyện có thể nói là nổi tiếng nhất, và cũng có nhiều chi tiết liên kết chặt nhất, là Xạ điêu tam bộ khúc (射鵰三部曲), gồm ba tác phẩm "Xạ điêu anh hùng truyện" (cuối đời Tống), "Thần điêu hiệp lữ" (thời Mông Cổ đánh Tống), "Ỷ thiên Đồ long ký" (thời nhà Minh nổi lên đánh Mông Cổ). "Thiên Long bát bộ" (thời Tống) lấy bối cảnh trước "Xạ điêu anh hùng truyện", nhưng nội dung câu chuyện vốn là độc lập. Sau này, Kim Dung sửa chữa lại vài chi tiết trong "Xạ điêu anh hùng truyện" để bắc cầu với "Thiên Long bát bộ". Vài nhân vật của "Bích huyết kiếm" (thời Minh mạt, Mãn Châu vào đánh) xuất hiện trong "Lộc Đỉnh ký" (đời Khang Hy). Vài nhân vật trong "Thư kiếm ân cừu lục" xuất hiện trong "Phi hồ ngoại truyện", tác phẩm này lại kể lai lịch, hành trạng của Hồ Phỉ và một số nhân vật khác của "Tuyết sơn phi hồ" (các truyện này lấy bối cảnh đời Càn Long). Các truyện khác của Kim Dung không liên quan với nhau và cũng không có bối cảnh lịch sử cụ thể, trừ "Việt nữ kiếm" xảy ra thời Xuân Thu. Tuần tự 13 bộ tiểu thuyết xếp theo bối cảnh lịch sử của nhà văn Kim Dung: "Bạch Mã Khiếu Tây Phong" và "Uyên Ương Đao" chỉ được suy đoán là vào thời nhà Thanh, nên không xếp được thứ tự. Hai câu thơ sắp thành tựa đề. Sau khi Kim Dung hoàn thành các tác phẩm của mình, một người bạn của ông là Nghê Khuông phát hiện rằng chữ đầu tiên của tựa đề 14 tiểu thuyết tạo thành hai câu thơ thất ngôn: Dịch nghĩa: Các nhân vật chính. Nhân vật Nam chính trong các truyện: Các nhân vật nam mà Kim Dung yêu thích: Lệnh Hồ Xung, Tiêu Phong, Quách Tĩnh, Dương Quá, Đoàn Dự, Trương Vô Kỵ, Phong Thanh Dương, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông. Nhân vật nữ chính trong các truyện: Các nhân vật nữ mà Kim Dung yêu thích: Hoàng Dung, Tiểu Long Nữ, Trình Linh Tố, Lạc Băng, A Cửu, Hà Thiết Thủ, Lam Phượng Hoàng. Các nhân vật nữ mà Kim Dung xem là người vợ lý tưởng: Nhậm Doanh Doanh, Triệu Mẫn, A Châu, Tăng Nhu, Chu Chỉ Nhược. Các nhân vật nữ mà Kim Dung nguyện suốt đời yêu thương và bảo vệ: Quách Tương, Tiểu Chiêu, Nghi Lâm, Song Nhi, A Bích, A Cửu, Trình Anh, Công Tôn Lục Ngạc, Cam Bảo Bảo Đề tài. Chủ nghĩa yêu nước và Văn hóa truyền thống Trung Quốc là đề tài chủ yếu trong các tác phẩm của Kim Dung. Ông nhấn mạnh đến sự độc lập tự chủ của người Hán, và nhiều tác phẩm của ông là bối cảnh khi Trung Quốc bị đe dọa bởi những người phương bắc như Khiết Đan, Nữ Chân, Mông Cổ. Nhưng dần dần chủ nghĩa yêu nước của ông cũng bao gồm các dân tộc thiểu số tạo thành nước Trung Quốc bây giờ. Kim Dung đặc biệt khâm phục các đặc điểm của người Mông Cổ, Mãn Châu. Trong Anh hùng xạ điêu, hình tượng của Thành Cát Tư Hãn và các con của ông là những vị tướng tài ba, những dũng sĩ kiêu dũng trên đại mạc đứng lên lập nên đại nghiệp, uy hiếp "nhà Tống" lụn bại. Hoặc như trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung miêu tả vua Khang Hy nhà Thanh là một người có lòng trắc ẩn và có năng lực. Trong Thiên long bát bộ, Kiều Phong mặc dù là người Khiết Đan nhưng từ nhỏ đã được người Hán nuôi dưỡng. Chính điều đó đã khiến Kiều Phong vì người Hán ngăn cản vua Liêu tiến quân. Các tác phẩm của Kim Dung có thể coi là cuốn từ điển nhỏ về phong tục, tập quán, văn hóa Trung Hoa, bao gồm các lĩnh vực y thuật dân tộc Trung Quốc, châm cứu, võ thuật, âm nhạc, thư pháp, cờ vây, trà đạo, các triết học của đạo Khổng, đạo Phật và đạo Lão, và lịch sử phong kiến Trung Hoa. Các nhân vật lịch sử hòa trộn vào các nhân vật trong truyện. Các tác phẩm của ông rõ ràng đã tỏ lòng tôn trọng và ca ngợi các giá trị truyền thống Trung Hoa, đặc biệt là các quan niệm Khổng giáo như là mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, và nhất là giữa sư phụ và đồ đệ, giữa các huynh đệ. Kim Dung cũng nhấn mạnh vào các giá trị Trung Hoa truyền thống như là danh dự con người, tinh thần tận trung báo quốc của nam nhi, tấm lòng chung thủy giữ gìn trinh tiết của phụ nữ. Cuối cùng ông biến đổi một phần các phép tắc đó trong tác phẩm cuối cùng Lộc Đỉnh ký. Là một nhân vật chính nhưng Vi Tiểu Bảo không theo mô thức của các nhân vật chính mà Kim Dung đã dàn dựng, không phải là một biểu tượng của một anh hùng hảo hán mà là một nhân vật có cả tà tâm, không theo một tiêu chuẩn đạo đức nhất định, nhưng vẫn là một kẻ sống rất nghĩa khí và rất hết lòng vì bạn bè. Phê bình. Các tác phẩm của Kim Dung đã nhận được nhiều phê bình từ độc giả và các nhà phê bình văn học. Nghê Khuông, một nhà văn nổi tiếng và là bạn của Kim Dung đã viết rất nhiều bài viết phân tích các nhân vật và thế giới võ thuật trong các tác phẩm của ông. Tuy nhiên nhiều tác phẩm của Kim Dung đã bị cấm ở nhiều nơi ngoài Hồng Kông vì những lý do chính trị. Nhiều tác phẩm bị cấm ở Trung Hoa đại lục vì bị cho là chế nhạo Mao Trạch Đông, Cách mạng Văn hóa hoặc bị cho là xuyên tạc lịch sử (ví dụ như truyện Ỷ thiên đồ long ký có nhiều chi tiết hư cấu về các nhân vật lịch sử có thật như Thường Ngộ Xuân, Minh Thái Tổ). Chính quyền Đài Loan cũng cấm vì cho rằng các tác phẩm này ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hiện giờ các tác phẩm của Kim Dung không bị cấm nữa. Một số chính trị gia như Đặng Tiểu Bình còn là người hâm mộ các tác phẩm của ông. Cuối năm 2004, nhà xuất bản giáo dục nhân dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đưa tác phẩm Thiên long bát bộ vào sách giáo khoa lớp 12. Bộ Giáo dục Singapore cũng làm như vậy đối với các trường cấp 2, 3 sử dụng tiếng Trung Quốc. Tác phẩm dựa theo Kim Dung. Có thể một phần vì muốn hoàn thiện các khe hở tình tiết trong truyện Kim Dung, phần vì muốn phát triển rộng thêm các chi tiết truyện, phần là ăn theo, rất nhiều người đã viết truyện dựa theo cốt, theo nhân vật trong truyện Kim Dung mà tạo dựng nhiều tác phẩm khác, thậm chí dựng thành phim, gọi chung là các tác phẩm dựa Kim Dung. Liên kết ngoài.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Đại Việt sử ký toàn thư (), đôi khi gọi tắt là Toàn thư, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử này được khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18, triều vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697. Đây là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn. Bộ sử bắt đầu được Ngô Sĩ Liên, một vị sử quan làm việc trong "Sử quán" dưới thời vua Lê Thánh Tông, biên soạn dựa trên sự chỉnh lý và bổ sung hai bộ quốc sử Việt Nam trước đó cùng mang tên "Đại Việt sử ký" của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên. Hoàn thành vào niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479), bộ sử mới của Ngô Sĩ Liên gồm 15 quyển, ghi lại lịch sử Việt Nam từ một thời điểm huyền thoại là năm 2879 TCN đến năm 1427 (khi nhà Hậu Lê được thành lập) và mang tên "Đại Việt sử ký toàn thư". Sau đó, dù đã hoàn thành, "Đại Việt sử ký toàn thư" lại không được khắc in để ban hành rộng rãi mà tiếp tục được nhiều đời sử quan trong Quốc sử quán sửa đổi, bổ sung và phát triển thêm. Khoảng niên hiệu Cảnh Trị (1663 - 1671) đời vua Lê Huyền Tông, chúa Trịnh Tạc hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham tụng Phạm Công Trứ, sửa chữa bộ quốc sử của Ngô Sĩ Liên, đồng thời sai biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ đến năm 1662 đời vua Lê Thần Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, gồm 23 quyển, được đem khắc in để phát hành nhưng công việc chưa xong, phải bỏ dở. Khoảng niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705) đời vua Lê Hy Tông, chúa Trịnh Căn lại hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham tụng Lê Hy, tiếp tục khảo đính bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, đồng thời biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1663 đời vua Lê Huyền Tông đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê. Bộ quốc sử này lấy tên là "Đại Việt sử ký toàn thư", theo đúng tên mà sử gia Ngô Sĩ Liên cách đó gần hai thế kỷ đã đặt cho bộ sử của ông, gồm 25 quyển, được khắc in toàn bộ và phát hành thành công vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 đời vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697. Sau khi xuất bản, "Đại Việt sử ký toàn thư" tiếp tục được tái bản bởi các hiệu in của chính quyền và tư nhân, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp thế giới, trong nhiều thế kỷ sau. Nửa cuối thế kỷ 20, ở Việt Nam xuất hiện các bản dịch "Đại Việt sử ký toàn thư" ra chữ quốc ngữ, phổ biến nhất là bản dịch dựa trên cơ sở bản in "Nội các quan bản" - hiện đang lưu giữ tại thư viện Viện Viễn Đông Bác cổ ở Paris, do "Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội" phát hành lần đầu năm 1993. "Đại Việt sử ký toàn thư" là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, là di sản vô giá của văn hóa dân tộc Việt Nam, là kho tư liệu phong phú không những cần thiết cho ngành sử học mà còn giúp ích cho nhiều ngành khoa học xã hội khác và cũng là một bộ sử có giá trị văn học. Các bộ quốc sử sau này của Việt Nam như "Đại Việt sử ký tiền biên", "Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục" đều được biên soạn dựa trên cơ sở của "Đại Việt sử ký toàn thư". Quá trình biên soạn. Ngô Sĩ Liên và "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Hồng Đức. "Đại Việt sử ký toàn thư" không phải là bộ quốc sử Việt Nam đầu tiên được biên soạn. Trước đó, một số thư tịch đã nhắc đến "Sử ký" 史記 của Đỗ Thiện thời nhà Lý, "Việt chí" 越志 của Hàn trưởng Trần Phổ (hoặc Tấn) thời nhà Trần. Bộ "Đại Việt sử ký" 大越史記 viết theo thể biên niên của Lê Văn Hưu biên soạn và hoàn thành vào năm 1272 là bộ quốc sử Việt Nam sớm nhất được ghi nhận, ghi chép lịch sử Đại Việt từ thời đại Triệu Vũ Đế năm 207 TCN đến hết năm 1225 đời Lý Chiêu Hoàng nhà Lý. Dưới đời vua Lê Nhân Tông nhà Hậu Lê, Phan Phu Tiên được giao nhiệm vụ biên soạn lịch sử từ năm 1226 đầu đời Trần Thái Tông đến năm 1427 khi thời kì Bắc thuộc lần 4 kết thúc, bộ quốc sử này cũng viết theo thể biên niên và mang tên "Đại Việt sử ký". Nhà Hậu Lê tiếp tục trải qua một giai đoạn hoàng kim dưới sự trị vì của Lê Thánh Tông, một vị vua rất quan tâm đến văn hóa và giáo dục. Trong những năm đầu trị vì, nhà vua đã nhiều lần ra lệnh tìm kiếm, tập thư tịch tài liệu lịch sử, đồng thời ông cũng bổ nhiệm các học giả Nho gia vào Sử quán triều đình để chuẩn bị cho công việc biên soạn quốc sử. Ngô Sĩ Liên là một trong số các học giả đó. Đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 đời vua Lê Thái Tông (1442), Ngô Sĩ Liên từng giữ chức Đô Ngự sử đời Lê Nghi Dân và Lê Thánh Tông rồi bị giáng xuống làm Hữu Thị lang bộ Lễ, Tư nghiệp Quốc Tử Giám kiêm chức Tu soạn ở Sử quán. Trong vị trí của một sử quan, ông được giao nhiệm vụ biên soạn quốc sử cho triều đình theo mệnh lệnh của Lê Thánh Tông vào tháng 1 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10, tức là năm 1479. Ngô Sĩ Liên đã dựa vào hai bộ sử của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên để làm công việc đó. Ông cho rằng hai bộ sách của họ Lê và họ Phan tuy ""rõ ràng, có thể xem được" (蹟彰可鑒 - chương chương khả giám) nhưng "ghi chép còn có chỗ chưa đủ, nghĩa lệ còn có chỗ chưa đáng, văn tự còn có chỗ chưa ổn, người đọc không khỏi có chỗ còn chưa vừa ý" (而記志猶有未僃義例猶有未當文字猶有未安讀者不能無憾焉 - nhi ký chí do hữu vị bị, nghĩa lệ do hữu vị thường, văn tự do hữu vị an, độc giả bất năng vô hám yên). Do vậy, ông đã sửa chữa chép lại hai bộ sách này "có việc nào sót quên thì bổ sung thêm vào, có lệ nào chưa đúng thì cải chính lại, văn có chỗ nào chưa ổn thì đổi đi, gián hoặc có việc hay dở có thể khuyên răn được thì góp thêm ý kiến quê mùa ở sau" (事有遺忘者補之例有未當者正之文有未安者改之間有善惡可以勸懲者贅鄙見於其後 - Sự hữu di vong giả bổ chi, lệ hữu vị đáng giả chính chi, văn hữu vị an giả cải chi, gian hữu thiện ác khả dĩ khuyên trừng giả, chuế bỉ kiến ư kì hậu). Ngô Sĩ Liên cũng giữ lại cho bộ sử nhiều lời bình của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên về các sự kiện lịch sử. Không chỉ sửa chữa sử cũ, Ngô Sĩ Liên còn bổ sung vào dòng chảy lịch sử Việt Nam thời đại họ Hồng Bàng, đưa nó trở thành thời đại đầu tiên trong lịch sử thay vì nhà Triệu như trong "Đại Việt sử ký" của Lê Văn Hưu. Trong quá trình biên soạn, bên cạnh các bộ chính sử trước đó và sử sách Trung Quốc, Ngô Sĩ Liên cũng đã thu thập tư liệu từ nhiều nguồn khác, bao gồm dã sử, các bản truyện chí có thể là "Việt điện u linh tập" hay "Lĩnh Nam chích quái" cùng với những lời truyền tụng. Tuy là truyền thuyết và truyện dân gian nhưng chúng vẫn được Ngô Sĩ Liên xem là nguồn sử liệu đáng tin cậy. Đây là lần đầu tiên các nguồn kiểu này được một nhà sử học Việt Nam sử dụng trong tác phẩm lịch sử. Bộ quốc sử hoàn thành vào tiết đông chí, khoảng tháng một năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (tức là ngày 13 tháng 12 năm 1479), bao quát lịch sử Việt Nam trong hơn bốn thiên niên kỷ, bắt đầu từ một thời điểm truyền thuyết 2879 TCN, dừng lại ở sự kiện quân Minh rút về Trung Quốc, kết thúc Bắc thuộc lần 4 năm 1427. Bộ sử này được tác giả đặt tên là "Đại Việt sử ký toàn thư". Tuy đã hoàn thành, nhưng công trình sử học này của ông không được khắc in để phát hành mà vẫn nằm lại trong Sử quán của triều đình dưới dạng bản thảo viết tay. "Đại Việt sử ký toàn thư" của Ngô Sĩ Liên chia thành hai phần là "Ngoại kỷ toàn thư" và "Bản kỷ toàn thư". Phần "Ngoại kỷ" bắt đầu từ họ Hồng Bàng đến hết năm 938, năm Tiền Ngô Vương đại phá quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng. Phần "Bản kỷ" bắt đầu từ năm 938, năm thành lập nhà Ngô, đến hết năm 1427, năm kết thúc sự thống trị của nhà Minh trên đất Đại Việt. Cộng tất cả gồm 15 quyển. Có thể liệt kê vai trò của Ngô Sĩ Liên trong tiến trình biên soạn "Đại Việt sử ký toàn thư" như sau: Ngoài ra, khi làm sử quan dưới triều Lê Thánh Tông, Ngô Sĩ Liên còn biên soạn "Tam triều bản kỷ" 三朝本紀, ghi chép lịch sử ba triều vua Lê Thái Tổ, Thái Tông và Nhân Tông của nhà Hậu Lê. Rất có thể đây là tài liệu quan trọng mà sau này nhóm Phạm Công Trứ dựa vào để biên soạn lịch sử triều Hậu Lê trong giai đoạn cai trị của ba vị vua này. Trong văn bản "Đại Việt sử ký toàn thư" bản in "Nội các quan bản", đầu quyển 11 phần "Bản kỷ thực lục" gồm lịch sử hai triều Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông cũng có ghi "Triều liệt Đại phu Quốc Tử Giám Tư nghiệp kiêm Sử quan Tu soạn, thần Ngô Sĩ Liên biên soạn" (朝列大夫國子監司業兼史官修撰臣吳士連編 - Triều liệt Đại phu Quốc Tử Giám Tư nghiệp kiêm Sử quan Tu soạn thần Ngô Sĩ Liên biên). Dưới triều đại của Lê Tương Dực, Vũ Quỳnh, Đô Tổng tài trong Sử quán, đã dâng lên nhà vua bộ sách "Đại Việt thông giám thông khảo" (còn được gọi là "Đại Việt thông giám" hoặc "Việt giám thông khảo"), một bộ sử viết theo thể biên niên ghi lại tiến trình lịch sử Việt Nam từ họ Hồng Bàng đến năm đầu niên hiệu Thuận Thiên của Lê Thái Tổ (1428), gồm 26 quyển vào tháng 4 năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ 3, tức là năm 1511. Không có tư liệu cho ta biết Vũ Quỳnh đã biên soạn "Đại Việt thông giám thông khảo" dựa trên những nguồn nào, bản thân bộ sử này nay cũng không còn, nhưng có thể thấy nó chịu ảnh hưởng khá lớn từ "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Hồng Đức của Ngô Sĩ Liên. "Đại Việt thông giám thông khảo" có khung thời gian và bố cục, gồm hai phần "Ngoại kỷ" và "Bản kỷ", tương tự như "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Hồng Đức. Tuy nhiên, Vũ Quỳnh chia phần "Ngoại kỷ" bắt đầu từ họ Hồng Bàng đến hết năm 967 thời Thập nhị sứ quân và phần "Bản kỷ" bắt đầu từ đời Đinh Tiên Hoàng năm 968 đến năm đầu đời Lê Thái Tổ tức là năm 1428. Trong cách phân chia các kỷ, Vũ Quỳnh cũng có quan điểm khác với Ngô Sĩ Liên, điển hình như "Kỷ thuộc Minh". Nếu Ngô Sĩ Liên coi giai đoạn từ năm 1414 đến năm 1427 là giai đoạn Minh thuộc thì Vũ Quỳnh, trong sách "Đại Việt thông giám thông khảo" lại rút lại thời kì thuộc Minh chỉ trong 4 năm, từ năm 1414 đến năm 1418, bởi lẽ năm 1418 là năm Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Nhóm Phạm Công Trứ đã tiếp thu cách chia đó của Vũ Quỳnh. Vũ Quỳnh cũng là người viết lời bình luận các sự kiện lịch sử (gồm 3 đoạn), ghi rõ "Sử thần Vũ Quỳnh bàn"" (史臣武瓊曰 - Sử thần Vũ Quỳnh viết). Ngoài ra, khi làm sử quan dưới triều Lê Tương Dực, Vũ Quỳnh còn được biết đến là người soạn sách "Tứ triều bản kỷ" 四朝本紀, ghi chép lịch sử bốn triều vua Lê Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông, Uy Mục của nhà Hậu Lê. Rất có thể đây là tài liệu quan trọng mà sau này nhóm Phạm Công Trứ dựa vào để biên soạn lịch sử triều Hậu Lê trong giai đoạn cai trị của bốn vị vua này. Khi vua Lê Tương Dực đọc "Đại Việt thông giám thông khảo", muốn tóm tắt những điều cốt yếu của bộ sách cho tiện xem, đã sai một văn thần là Lê Tung viết "Việt giám thông khảo tổng luận" 越鑑通考總論. Bài tổng luận này sau đó đã được đưa vào quyển thủ của "Đại Việt sử ký toàn thư". Nhóm Phạm Công Trứ và "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Cảnh Trị. Khoảng những năm Cảnh Trị đời vua Lê Huyền Tông, một lần nữa triều đình nhà Hậu Lê lại khởi động biên soạn quốc sử. Công việc này được chúa Trịnh Tạc giao cho một nhóm văn quan, bao gồm: Phạm Công Trứ, Dương Hạo, Hồ Sĩ Dương, Nguyễn Quốc Trinh, Đặng Công Chất, Nguyễn Công Bích, Bùi Đình Viên, Đào Công Chính, Ngô Khuê, Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Công Bật, Nguyễn Viết Thứ, Vũ Duy Đoán. Đứng đầu nhóm biên soạn này là Phạm Công Trứ. Đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi năm Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 đời vua Lê Thần Tông (1628), Phạm Công Trứ là một nhà chính trị tài năng, một công thần đầy danh vọng của triều đình lúc bấy giờ. Khi trở thành người chủ trì biên soạn quốc sử, ông đang giữ chức Thượng thư bộ Lại kiêm Đại học sĩ Đông các, tước Yên Quận công, làm Tham tụng (tương đương với Tể tướng). Ông đã tập hợp xung quanh mình nhiều vị văn thần tiếng tăm đương thời, tất cả họ đều đã từng đỗ đạt trong các kì thi Hội và giữ chức vụ trong triều đình. Dương Hạo đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi năm Canh Thìn, niên hiệu Dương Hòa thứ 6 đời vua Lê Thần Tông (1640). Hồ Sĩ Dương, Nguyễn Công Bật, Nguyễn Đình Chính đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi năm Nhâm Thìn, niên hiệu Khánh Đức thứ 4 đời vua Lê Thần Tông (1652). Nguyễn Quốc Trinh, Nguyễn Công Bích đỗ Trạng nguyên và Bảng nhãn trong khoa thi năm Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 đời vua Lê Thần Tông (1659). Hai năm sau, Đặng Công Chất, Đào Công Chính và Ngô Khuê theo thứ tự đỗ Tam khôi trong khoa thi năm Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 4 (1661). Nguyễn Viết Thứ và Vũ Duy Đoán vừa mới là hai vị tân tiến sĩ trong khoa thi năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị thứ 2 (1664). Bùi Đình Viên là một trong năm người đỗ khoa thi Đông các năm 1659, khi đó đang giữ chức Học sĩ ở Đông các. Tất cả các soạn giả đều có học vấn uyên bác, tinh thông lịch sử, rất hăng hái lập ngôn viết sách để ca ngợi công tích của triều đình vua Lê chúa Trịnh. Họ có hai nhiệm vụ phải hoàn thành trong quá trình biên soạn bộ chính sử mới của Đại Việt. Nhiệm vụ thứ nhất là khảo đính các bộ quốc sử cũ ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời họ Hồng Bàng cho đến đời vua Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê. Theo Phạm Công Trứ, các bộ sử cũ ở đây bao gồm trước tác của Ngô Sĩ Liên và Vũ Quỳnh với khung thời gian từ họ Hồng Bàng đến đời Lê Thái Tổ và "sách trước" (前書 - tiền thư) với khung thời gian từ đời Lê Thái Tông đến đời Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê. Trước tác của Ngô Sĩ Liên và Vũ Quỳnh có lẽ là "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Hồng Đức và "Đại Việt thông giám thông khảo" (tuy nhiên hai sách này dừng lại ở thời điểm năm 1428 chứ không phải đến hết đời Lê Thái Tổ năm 1433). Còn "sách trước" có lẽ là bản thảo của Quốc sử quán triều Hậu Lê, có thể là "Tam triều bản kỷ" của Ngô Sĩ Liên và "Tứ triều bản kỷ" của Vũ Quỳnh, ghi chép lịch sử từ năm 1434 đầu đời Lê Thái Tông đến hết năm 1527 cuối đời Lê Cung Hoàng và thậm chí có thể cả trong khoảng 1527 – 1533 khi nhà Lê trung hưng chưa thành lập. Giai đoạn này không được biên soạn chính thức mà chỉ tồn tại bản thảo ghi chép nên chúng bị sử gia nhiều đời theo nhau sao lục nhầm lẫn mà Phạm Công Trứ gọi là tệ ""hợi" 亥 lầm ra "thỉ" 豕, "ngư" 魚 lầm ra "lỗ" 魯" cho nên phải hiệu chỉnh lại để ""rửa bỏ được thói quen theo nhau lâu dài ấy" (洗相沿之故習 - tẩy tương duyên chi cố tập). Có thể thấy công tác khảo đính sử cũ của nhóm Phạm Công Trứ thuần túy là sửa chữa văn bản, ít thay đổi so với nguyên tác, đúng như họ đã tự nhận "gián hoặc thấy có chỗ nào sao chép sót sai, chữ nghĩa không chạy, thì suy tìm ý nghĩa mà sửa chữa một vài cho người đọc dễ hiểu, chứ không dám thêm thắt đoán chừng" (間見抄録遺舛字義蹇澁乃推尋意義之中補輯一二使讀者易曉非敢妄為附會臆説 - gian kiến sao lục di suyễn, tự nghĩa kiển sáp, nãi suy tầm ý nghĩa chi trung, bổ tập nhất nhị, sử độc giả dị hiểu, phi cảm vọng vi phụ hội ức thuyết). Nhiệm vụ thứ hai là biên soạn tiếp nối quốc sử từ năm 1533 đầu đời Lê Trang Tông đến năm 1662 cuối đời Lê Thần Tông nhằm khắc in ban hành cho cả nước. Nguồn tư liệu mà nhóm Phạm Công Trứ dựa vào để biên soạn giai đoạn lịch sử này gồm "dã sử của Đăng Bính", "sách sót lại của người đương thời dâng hiến"". Lai lịch sử gia Đăng Bính hiện nay chưa rõ ràng, trong "Đại Việt sử ký toàn thư" còn ghi rõ một lời bàn khá dài của ông ở cuối phần "Bản kỷ thực lục", trong đó ông tỏ rõ thái độ phê phán nhà Mạc và Mạc Đăng Dung, bênh vực và ngợi ca nhà Lê trung hưng, đặc biệt còn làm một bài thơ tứ tuyệt Đường luật để thể hiện quan điểm của mình. Trong sách "Hoan châu ký" của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ An, soạn giả "Nguyễn Cảnh Thị" cũng ghi lại được một bài thơ tứ tuyệt của Đăng Bính trong sách "Sử ký dã biên" 史記野編 với diện mạo khá giống, chỉ sai khác hai chữ..Rất có thể ""dã sử của Đăng Bính" chính là cuốn "Sử ký dã biên" này. Như vậy, để biên soạn lịch sử 129 năm đầu của chính triều đại mình, ghi chép của các sử quan trong Sử quán là không đủ đối với nhóm Phạm Công Trứ, họ đã phải tìm đến khá nhiều các nguồn tư liệu bên ngoài triều đình. Bộ quốc sử hoàn thành vào mùa thu năm Ất Tỵ niên hiệu Cảnh Trị thứ 3, tức là năm 1665, được dâng lên vua Lê Huyền Tông và chúa Trịnh Tạc vào ngày mồng một tháng tám cùng năm (tức là ngày 9 tháng 9 năm 1665), bao quát lịch sử Việt Nam từ thời đại Hồng Bàng đến khi vua Lê Thần Tông băng hà vào năm 1662, dài hơn 235 năm so với khung thời gian của "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Hồng Đức. "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Cảnh Trị được chia thành hai phần giống như bản Hồng Đức là "Ngoại kỷ" và "Bản kỷ". Tiếp thu cách chia của Vũ Quỳnh, phần "Ngoại kỷ" ở đây bắt đầu từ họ Hồng Bàng đến hết năm 967 khi nhà Đinh được thành lập, thống nhất đất nước. Phần "Bản kỷ" bắt đầu từ năm 968 đến hết năm 1662, lại chia thành ba phần nhỏ là: "Bản kỷ toàn thư" (từ năm 968 đời Đinh Tiên Hoàng đến hết năm 1433 kết thúc triều đại Lê Thái Tổ), "Bản kỷ thực lục" (từ năm 1434 đời Lê Thái Tông đến hết năm 1527 khi nhà Lê sơ sụp đổ, nhà Mạc thành lập và phụ chép lịch sử từ năm 1527 đến năm 1532 khi nhà Lê Trung Hưng chưa thành lập) và "Bản kỷ tục tiên" (từ năm 1533 đời Lê Trang Tông đến hết năm 1662 đời Lê Thần Tông). Cộng tất cả gồm 23 quyển. Có thể liệt kê vai trò của nhóm Phạm Công Trứ trong tiến trình biên soạn "Đại Việt sử ký toàn thư" như sau: Bộ quốc sử sau khi biên soạn xong đã được khắc in, nhưng không rõ vì sao công việc bị đình trệ, "mười phần mới được độ năm sáu phần"" (十纔五六 - thập tài ngũ lục); một lần nữa, nó lại bị cất vào Bí thư các - kho sách của triều đình. Năm 1988, quyển 20 và quyển 21 của bộ sách "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Cảnh Trị đã được tìm thấy ở tủ sách gia đình Nguyễn Văn Huyên. Có thể nói đây là một phần của bản sách in "Đại Việt sử ký toàn thư" cổ nhất được ghi nhận hiện nay. Nhóm Lê Hy và "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Chính Hòa. Năm 1676, sau khi Phạm Công Trứ mất, triều đình lại giao công việc sửa quốc sử cho Hồ Sĩ Dương. Năm 1681, Hồ Sĩ Dương mất, công việc quan trọng này được giao cho một nhóm văn thần gồm Lê Hy, Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Công Đổng, Vũ Thạnh, Hà Tông Mục, Nguyễn Hành, Nguyễn Trí Trung, Nguyễn Đương Bao, Nguyễn Mại, Nguyễn Hồ, Ngô Công Trạc, Trần Phụ Dực, Đỗ Công Bật. Đứng đầu nhóm biên soạn này là Lê Hy. Đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị thứ 2 đời vua Lê Huyền Tông (1664), Lê Hy khi làm chủ trì biên soạn quốc sử đang làm Tham tụng, giữ chức Thượng thư bộ Hình kiêm quản lý Trung thư giám, tước Lai Sơn tử, đứng đầu quan lại trong triều đình bấy giờ. Đặc biệt, tham gia nhóm biên soạn lần này còn có tất cả năm vị Bồi tụng, đó là Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Công Đổng, Vũ Thạnh, Hà Tông Mục và Nguyễn Hành. Bảy người còn lại hoặc đang giữ chức Cấp sự trung ở Hộ khoa và Lại khoa hoặc làm việc trong Hàn lâm viện và Chiêu văn quán. Lẽ dĩ nhiên, tất cả họ đều đỗ Tiến sĩ Nho học qua các khoa thi. Nguyễn Trí Trung đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi năm Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 đời vua Lê Huyền Tông (1670). Nguyễn Đương Bao đỗ ở khoa thi ba năm sau, niên hiệu Dương Đức thứ 2 năm Quý Sửu đời Lê Gia Tông (1673). Khoa thi năm Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Trị thứ 1 đời Lê Hy Tông (1676), Nguyễn Quý Đức đỗ đầu. Trần Phụ Dực đăng khoa trong niên hiệu Chính Hòa thứ 4 năm Quý Hợi đời Lê Hy Tông (1683). Vũ Thạnh, Nguyễn Công Đổng và Đỗ Công Bật là bạn đồng khoa trong khoa thi năm Ất Sửu niên hiệu Chính Hòa thứ 5 (1685). Nguyễn Hồ, Nguyễn Hành, Hà Tông Mục đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi năm Mậu Thìn niên hiệu Chính Hòa thứ 9 (1688). Nguyễn Mại và Ngô Công Trạc đỗ muộn nhất, họ đỗ trong khoa thi năm Tân Mùi niên hiệu Chính Hòa thứ 12 (1691) và khoa thi năm Giáp Tuất niên hiệu Chính Hòa thứ 15 (1694). Nhóm biên soạn lần này tập hợp được các vị soạn giả không những có học vấn uyên bác mà còn đầy quyền lực và danh vọng của triều đình vua Lê chúa Trịnh đương thời. Nhóm Lê Hy có nhiệm vụ khảo đính bộ quốc sử là thành quả của nhóm Phạm Công Trứ trước đó ba thập kỉ, đồng thời biên soạn tiếp lịch sử từ năm Cảnh Trị thứ 1 đời Lê Huyền Tông (1663) đến năm Đức Nguyên thứ 2 đời Lê Gia Tông (1675) gồm 13 năm. Đối với việc khảo đính sử cũ, Lê Hy tự nhận mình chỉ ""chỗ nào sai thì sửa lại, chỗ nào đúng thì chép lấy" (訛者正之純者録之- ngoa giả chính chi, thuần giả lục chi) còn thế thứ, phàm lệ, niên biểu đều theo đúng như sử cũ. Do vậy, nhóm Lê Hy đã sửa lại nhiều chi tiết sai lệch về lịch pháp và thiên văn trong bản Cảnh Trị của nhóm Phạm Công Trứ, đồng thời họ cũng cô gọn lời văn và cắt bỏ hoặc bổ sung nhiều sự kiện lịch sử so với bản Cảnh Trị. Còn phần biên soạn mới của nhóm Lê Hy chính là quyển 19 của phần "Bản kỷ" trong bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản", tiếp nối dòng chảy lịch sử trước đó dừng lại ở thời điểm 1662 của nhóm Phạm Công Trứ, được tạo ra dựa trên công tác "tìm kiếm chuyện cũ, tham khảo các sách dã sử loại biên" (蓃獵舊跡參諸野史 - sưu liệp cựu tích tham chư dã sử) và cũng được đặt tên là "Bản kỷ tục biên". Bộ quốc sử hoàn thành vào mùa đông năm Đinh Sửu niên hiệu Chính Hòa thứ 18, tức là năm 1697 và được tiến dâng vua Lê Hy Tông cùng chúa Trịnh Căn vào ngày mồng một tháng một cùng năm (tức là ngày 13 tháng 12 năm 1697), bao quát lịch sử Việt Nam từ thời đại họ Hồng Bàng mở đầu năm 2879 TCN đến hết năm 1675 nhà Lê trung hưng. "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Chính Hòa về cơ bản vẫn giữ nguyên cách phân chia và ranh giới giữa các phần như bản Cảnh Trị và vì biên soạn mới thêm một quyển, nên toàn bộ bộ sách cộng là 24 quyển. Tuy phần biên soạn không được bao nhiêu so với các nhóm tác giả trước nhưng nhóm Lê Hy đã kết thúc việc biên soạn quốc sử trải qua nhiều đời sử quan, do đó đã quyết định lần cuối bộ mặt của "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Chính Hòa và các bản "Đại Việt sử ký toàn thư" tái bản sau này. Ngoài ra, họ cũng là tác giả của bài "Tựa sách Đại Việt sử ký tục biên" (大越史記續編序 - Đại Việt sử ký tục biên tự) mở đầu bộ quốc sử. Và cuối cùng, sau hàng thế kỉ ngóng đợi, bộ quốc sử "Đại Việt sử ký toàn thư" đã được in toàn bộ và ban bố phát hành đầy đủ vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa thứ 18, tức là năm 1697 đời vua Lê Hy Tông. Mộc bản in sách được khắc ở hai làng Hồng Lục và Liễu Tràng, tuy nhiên sau khi nhà Hậu Lê sụp đổ vào khoảng cuối thế kỷ 18 thì hệ thống ván khắc này đã bị thất lạc. Các bản "Đại Việt sử ký toàn thư" hiện hành, gồm bản "Nội các quan bản" hay "Quốc Tử Giám tàng bản", đều có nguồn gốc từ bản in Chính Hòa. Các ấn bản hiện hành. Nội các quan bản. Năm 1904, Léopold Michel Cadière và Paul Pelliot đã giới thiệu "Đại Việt sử ký toàn thư" bản Quốc Tử Giám Huế và cho biết gần đó họ đã tìm thấy một bản in sớm hơn với ván in tốt hơn, cách chia quyển giữa các phần có khác hơn nhưng bản in này lại không được đầy đủ. Phan Huy Lê đoán định bản in Quốc Tử Giám Huế có lẽ là bản in đời Nguyễn, còn bản in sớm hơn thì không biết có phải bản Chính Hòa không vì tác giả không chứng minh. Năm 1934, trong sách "Thư mục Việt Nam" (Bibliographie annamite) nổi tiếng, nhà thư mục học Việt Nam người Pháp và thành viên Viện Viễn Đông Bác cổ, Emile Gaspardone nhân khảo cứu về sách "Đại Việt sử ký toàn thư", cho biết rằng: "Còn có một bản in cổ, rất hiếm, bằng ván in của Nội các (Nội các quan bản) do thợ Liễu Chàng khắc (tử nhân Hồng Lục, Liễu Chàng đẳng xã nhân phụng san). Nó được phân biệt với những bản khắc bởi chữ đẹp và không kiêng húy tên vua triều Nguyễn hay các triều khác"". Nhà sử học Phan Huy Lê cho rằng bản in mà Gaspardone đã nói đến chính là "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản". Khoảng năm 1979, nhà nghiên cứu Hán Nôm Tạ Trọng Hiệp tìm thấy trong thư viện riêng của nhà Đông phương học và cũng là thầy giáo của ông, Paul Demiéville, bộ sách "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản". Cùng dịp đó, nhà sử học Trần Kinh Hòa đến Paris, nói chuyện với Demiéville và được ông cho mượn bản "Nội các quan bản" ấy để sao chụp và khảo sát. Kết quả nghiên cứu của Trần Kinh Hòa được công bố trong bài viết "Đại Việt sử ký toàn thư chi soạn tu dữ truyền bản". Ông xác nhận đây là bản in "Đại Việt sử ký toàn thư" năm Chính Hòa thứ 18 tức là năm 1697 nhưng không chứng minh. Sau khi Paul Demiéville qua đời vào ngày 23 tháng 3 năm 1979, thư viện riêng của ông, trong đó có bản "Nội các quan bản", trở thành tài sản thuộc quyền sở hữu của thư viện Hội Á Châu (Société Asiatique), nhưng chưa được đưa ra phục vụ công chúng. Năm 1981, nhà sử học Phan Huy Lê, nhân dịp đi công tác sang Pháp theo lời mời của trường Đại học Paris VII, đã đề xuất nguyện vọng nghiên cứu bản "Nội các quan bản" và được Hội Á Châu chấp thuận như một trường hợp đặc biệt. Cùng xem và nghiên cứu với Phan Huy Lê lúc đó, như ông tự thuật, gồm có Hoàng Xuân Hãn, Tạ Trọng Hiệp và một số nhà sử học khác. Khi trở về Việt Nam, Phan Huy Lê mang theo bản sao chụp (photocopy) đen trắng bản "Nội các quan bản" và báo cáo lên Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam rằng đã phát hiện đã bản in xưa nhất của bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" in năm 1697, đề nghị cho tổ chức nghiên cứu, phiên dịch và xuất bản. Một Hội đồng khoa học đã được Ủy ban cử ra, với Nguyễn Khánh Toàn làm Chủ tịch và hai ủy viên là Phan Huy Lê và Phạm Hựu, giám đốc nhà xuất bản Khoa học xã hội lúc đó (sau, Phạm Hựu nghỉ hưu, người thay thế ông ở cương vị này là tân Tổng biên tập nhà xuất bản Khoa học xã hội Nguyễn Đức Diệu). Hội đồng kết luận bộ sách "Đại Việt sử ký toàn thư" bản in "Nội các quan bản" này chính là bản in lần đầu tiên của bộ quốc sử vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Đặc điểm văn bản. "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản" hiện lưu trữ ở Paris vốn đóng theo lối bìa phất cậy nhưng sau khi cho Trần Kinh Hòa mượn để nghiên cứu, Paul Demiéville đã cho phép ông Trần tháo ra, lót thêm một tờ giấy trắng mỏng vào giữa hai mặt của mỗi tờ để gia cố và bảo quản tốt hơn rồi đóng lại theo lối đục bốn lỗ xuyên dây. Giấy in sách là giấy bản, đã ngả màu, quanh rìa nhất là ở lề bên phải bị mùn nát rách sờn, mất một số chữ. Bìa sách in to tên sách "Đại Việt sử ký toàn thư", cột chữ bên phải là ""Vựng lịch triều chi sự tích" nghĩa là "góp nhặt sự tích của các triều đại đã qua". Cột chữ bên trái là "Công vạn thế chi giám hoành nghĩa" là "nêu gương chung công lao của vạn đời". Khung in là khung một đường chỉ (khung đơn), trên khung có chữ "Nội các quan bản" ở giữa hai hình tròn trang trí rồng mây. Sau này, bìa sách còn được đóng thêm dấu hình bầu dục của Paul Demiéville, dấu hình bầu dục của Hội Á Châu và ký hiệu sách PD 2310 (1). Toàn bộ sách gồm 1231 tờ với 24 quyển, được đóng lại thành 15 tập, ký hiệu từ PD 2310 (1) đến PD 2310 (15). Mỗi tờ in mộc bản khổ 17,5x27,5 cm, khung in khổ 14x20cm; mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 9 dòng, mỗi dòng khoảng 19 chữ, trừ những tờ đặc biệt như "Bài tựa Đại Việt sử ký tục biên" của Lê Hy với mỗi mặt 7 dòng, mỗi dòng 13 chữ. Có 5 tờ bị thiếu, trong đó 3 tờ bị mất (tờ 17 quyển 2 phần "Ngoại kỷ", tờ 20 quyển 8 và tờ 32 quyển 16 phần "Bản kỷ") và 2 tờ thay thế bằng tờ viết tay (tờ 5 quyển một phần "Ngoại kỷ" và tờ 47 quyển 12 phần "Bản kỷ"). Trong số 1226 tờ in hiện còn ở Paris, Trần Kinh Hòa thống kê được 69 tờ nét chữ còn sắc (chiếm tỉ lệ 5,6%), chứng tỏ chúng được in từ những ván khắc bổ sung thay thế cho những ván khắc cũ bị thất lạc hay hư hỏng và Nguyễn Tài Cẩn thống kê sơ bộ có khoảng 250 tờ bị mờ (chiếm tỉ lệ 20%), chứng tỏ chúng được dập vào lúc ván khắc bị mòn. Bộ sách tồn tại hai loại khung in, với 828 tờ khung viền hai đường chỉ (khung kép) và 398 tờ khung viền một đường chỉ (khung đơn), trong số 69 tờ khắc bổ sung cũng có 35 tờ khung kép và 34 tờ khung đơn, phân bố không nhất quán. Chẳng hạn như trong quyển thủ, chỉ có tờ bìa và bài "Tựa sách Đại Việt sử ký tục biên" mang khung đơn còn lại đều là khung kép (trừ tờ 21 có khung đơn mà theo Trần Kinh Hòa là tờ khắc bổ sung). Các quyển 1 - 4 phần "Ngoại kỷ", quyển 1, quyển 3 - 4 phần "Bản kỷ" chỉ có khung kép, còn các quyển khác có cả hai loại khung in. Xác định niên đại văn bản. Trên cơ sở báo cáo của Phan Huy Lê sau khi sang Pháp trở về năm 1981, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã thành lập một Hội đồng khoa học với ông Nguyễn Khánh Toàn làm Chủ tịch, ông Phan Huy Lê và Phạm Hựu (sau này là Nguyễn Đức Diệu) làm Ủy viên để tổ chức nghiên cứu, giám định niên đại, phiên dịch và xuất bản bộ sách. Năm 1983, tập 1 của "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản" được xuất bản bởi nhà xuất bản Khoa học xã hội và được công bố rộng rãi với tư cách là bản in lần đầu tiên của "Đại Việt sử ký toàn thư" vào năm Chính Hòa thứ 18, tức là năm 1697. Tuy nhiên, do xuất hiện sự phản đối của một số nhà sử học tiêu biểu là Lê Trọng Khánh và Bùi Thiết nhằm phủ nhận niên đại 1697 của "Nội các quan bản", ngày 16 tháng 4 năm 1988, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo để giải quyết vấn đề này. Kết luận dựa theo đa số ý kiến trong cuộc hội thảo tuyên bố rằng "Đại Việt sử ký toàn thư-Nội các quan bản (bản Paris) là bản in gần nhất từ hệ thống ván khắc (mộc bản) năm Chính Hòa 18 (1697) mà chúng ta biết đến hiện nay. Có thể nó đã được in trong khoảng thời gian từ sau 1697, khi bộ ván đã khắc xong và trước khi bộ ván khắc này bị thất lạc vào năm 1800, như sử sách đã ghi"". Các cứ liệu văn bản học và sử liệu học để dẫn tới kết luận trên được Phan Huy Lê trình bày trong bài viết "Đại Việt sử ký toàn thư: Tác giả - Văn bản - Tác phẩm", bao gồm: Giá trị. Việc phát hiện ra "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản" với tư cách là bản in đầu tiên của bộ quốc sử với niên đại Chính Hoà là một sự kiện lớn của giới sử học Việt Nam trong những năm 80 của thế kỷ 20. Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn, trong lời giới thiệu nhân lần xuất bản đầu tiên bản dịch "Nội các quan bản", dứt khoát: Giá trị của "Nội các quan bản" tiếp tục được Phan Huy Lê khẳng định trong nhiều bài khảo cứu văn bản này "Đại Việt sử ký toàn thư: Tác giả - Văn bản - Tác phẩm" rằng: Bên cạnh đó, cũng có ý kiến của Bùi Thiết và Lê Trọng Khánh phản đối niên đại Chính Hoà của "Nội các quan bản", đánh giá nó là "của giả", "vô giá trị"... Phản biện của Bùi Thiết. Trong bài viết: "Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản" không phải được khắc in từ năm 1697", tác giả Bùi Thiết cho rằng: Cuối cùng tác giả Bùi Thiết cho rằng, kết luận rằng "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản" được in năm 1697 là không thể chấp nhận được, cần xem xét lại. Việc làm sai sẽ làm những bản do Việt Nam quản lý, có giá trị đích thực sẽ chịu số phận hẩm hiu, thậm chí bị hủy hoại, còn bản hiện nay do Hội Á châu (Cộng hòa Pháp quản lý) lại được tôn lên vô giá. Phản biện của Lê Trọng Khánh. Trong bài viết "Quan hệ biến chứng về niên đại bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" – Bản in "Nội các quan bản" và vấn đề chủ quyền quốc gia về Di sản văn hóa dân tộc", Lê Trọng Khánh cho rằng: Xuất bản. "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản" được dịch, chú giải và hiệu đính bởi các dịch giả Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế Long, Hà Văn Tấn dưới sự chỉ đạo của Hội đồng khoa học đứng đầu là Nguyễn Khánh Toàn, Phan Huy Lê và Nguyễn Đức Diệu, được biên tập bởi Lê Văn Quýnh và Nguyễn Duy Chiếm. Năm 1983, nhà xuất bản Khoa học xã hội cho xuất bản, lần đầu tiên, tập một bản dịch "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản". Tập 2 được tiếp tục ra mắt hai năm sau đó, năm 1985. Do điều kiện ấn loát chưa tốt nên hai tập sách này còn có nhiều sai sót. Do vậy, năm 1993, theo quyết định của Hội đồng chỉ đạo phiên dịch và xuất bản "Nội các quan bản", nhà xuất bản Khoa học xã hội cho tái bản tập 1, tái bản có sửa chữa tập 2, đồng thời in tiếp tập 3 và tập 4. Bố cục của công trình xuất bản này bao gồm: Công trình này được tái bản trọn bộ vào các năm 1998, 2000, 2004, 2009. Nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, công ty Đông A phối hợp với nhà xuất bản Khoa học xã hội cho tái bản "Nội các quan bản", in thành một tập, khổ lớn 25 cm x3 5 cm, được dịch giả Ngô Đức Thọ chỉnh lý các thông tin mới đối với một số chú thích có các khảo chú về địa danh mà nay các đơn vị hành chính đã có nhiều thay đổi. Nguyễn Văn Huyên bản. Trong bài "Về bản Đại Việt sử ký toàn thư in ván gỗ mới được tìm thấy của Phạm Công Trứ" đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1988, nhà nghiên cứu Ngô Thế Long cho biết rằng trong khi đi tìm các dị bản của bộ sách "Đại Việt sử ký tục biên", ông đã tìm thấy ở tủ sách gia đình Nguyễn Văn Huyên một cuốn sử in ván gỗ, giấy cũ đã ngả màu và đã bị mủn nát một phần lề dưới, lan vào một số chữ... (gọi tắt là bản Nguyễn Văn Huyên). Đặc điểm văn bản. Bìa sách là bìa phất cậy, ở gáy bìa có ghi tên sách là "Việt sử tục biên" nhưng cả bìa sách và tên sách mới được làm và viết lại cách đó không lâu. Khổ giấy đã gấp 17x28cm, khung in 14x21cm; mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 9 dòng, mỗi dòng khoảng 18 - 19 chữ; dạng chữ là dạng chữ in đời Hậu Lê, phong cách Liễu Tràng. Ruột sách chia làm hai quyển, ở dòng đầu mỗi quyển đề rằng "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên quyển chi nhị thập" và "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên quyển chi nhị thập nhất" cho biết đây là quyển 20 và 21 của sách "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên". Quyển 20 có 23 tờ, quyển 21 có 26 tờ nhưng tờ số 18 của quyển 21 lại là tờ số 18 của quyển 22 đóng lộn vào. Cộng cả sách là 49 tờ. Nội dung của quyển 20 là lịch sử triều vua Lê Kính Tông từ năm 1600 đến năm 1619, còn quyển 21 là lịch sử triều vua Lê Thần Tông từ năm 1620 đến năm 1643. So với bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" của nhóm Lê Hy thì hai quyển 20 và 21 ở bản Nguyễn Văn Huyên chỉ tương ứng với nửa đầu của quyển 18 phần "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên" bản Chính Hòa. Xác định niên đại văn bản. Ngô Thế Long và các cộng sự đã giám định văn bản này, đi đến kết luận rằng đây là quyển 20 và 21 của bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" do nhóm Phạm Công Trứ biên soạn, đã khắc in ra vào năm Cảnh Trị thứ 3 (1665). Thứ nhất, xét về nội dung, bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ biên soạn trong những năm Cảnh Trị gồm 23 quyển, riêng phần biên soạn mới chép lịch sử Việt Nam từ đời Lê Trang Tông năm 1533 đến hết đời Lê Thần Tông năm 1662 được đặt tên là "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên". Trong khi đó, bản Nguyễn Văn Huyên cũng mang tên là "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên", đánh số quyển 20, 21. Nội dung ghi chép lịch sử từ đời Lê Kính Tông năm 1600 đến Lê Thần Tông năm 1656 (căn cứ theo tờ 18 quyển 22). Đoạn trước 1600 và sau 1656 thì bị mất. Đoạn sau 1656 bị mất đó, Ngô Thế Long ước chừng vừa một quyển số 23 nữa. Ông nhận xét rằng tên sách, bố cục, nội dung của bản Nguyễn Văn Huyên phù hợp với "Đại Việt sử ký toàn thư" của nhóm Phạm Công Trứ. Thứ hai, xét về hình thức, Ngô Thế Long thấy bản Nguyễn Văn Huyên có cách ghi năm can chi và niên hiệu giống với "Đại Việt sử ký toàn thư" của nhóm Lê Hy, cùng đề cao vua Lê chúa Trịnh, phê phán nhà Mạc và chúa Nguyễn. Trong bản Nguyễn Văn Huyên, miếu hiệu các chúa Trịnh được viết đài ngang với miếu hiệu các vua Lê ở ngay đầu quyển 20 và 21. Ngô Thế Long cho rằng điều này chứng tỏ bản Nguyễn Văn Huyên được khắc thời Lê trung hưng chứ không phải ở các triều đại sau đó. Mà triều đình Lê Trịnh chỉ cho khắc in có hai bản sách "Đại Việt sử ký toàn thư": một là bản Cảnh Trị của nhóm Phạm Công Trứ, được khắc in lần đầu tiên năm 1665 nhưng mới in được khoảng già nửa; hai là bản Chính Hòa của nhóm Lê Hy được khắc in toàn bộ năm 1697 và là nguồn gốc của các bản sách "Đại Việt sử ký toàn thư" phổ biến hiện nay. Tiếp tục so sánh nội dung bản Nguyễn Văn Huyên với sách "Đại Việt sử ký toàn thư" của nhóm Lê Hy, Ngô Thế Long phát hiện một số chi tiết về lịch pháp thiên văn, bản của nhóm Lê Hy đúng mà bản Nguyễn Văn Huyên sai, ví dụ bản Nguyễn Văn Huyên chép ngày rằm tháng 5 năm Quý Sửu (1613) có nhật thực, thì bản Chính Hòa chép là nguyệt thực. Do đó, ông cho rằng bản Chính Hòa đã được sửa lại và bản Nguyễn Văn Huyên chưa được sửa. Bản Nguyễn Văn Huyên dung lượng chữ và số sự kiện nhiều hơn bản Chính Hòa của nhóm Lê Hy, chứng tỏ nhóm Lê Hy đã cô gọn lời văn và cắt bỏ sự kiện. Nhóm Lê Hy đã khảo đính lại bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, mà sửa sai, cô gọn lời văn và lược bỏ sự kiện là thao tác thông thường của người chỉnh lý. Như vậy, bản Nguyễn Văn Huyên phải xuất hiện trước bản Chính Hòa nên chỉ có thể là bản Cảnh Trị. Bản Nguyễn Văn Huyên là một phần của bản sách "Đại Việt sử ký toàn thư" cổ nhất đời Cảnh Trị còn được bảo lưu đến ngày nay. Giá trị. Tuy chỉ là một phần nhỏ, nhưng bản Nguyễn Văn Huyên đã ghi được nhiều sự kiện và chi tiết lịch sử có giá trị mà nhóm Lê Hy sau đó lược bỏ mất hoặc chép sơ lược hay sai khác hoàn toàn. Đó là những trận đánh Trịnh – Nguyễn phân tranh các năm 1627, 1633, 1634, 1640, 1643; những trận đánh tàn dư nhà Mạc ở Cao Bằng các năm 1621, 1638, 1639, 1643; các mệnh lệnh bổ nhiệm, thăng thưởng ghi công quan chức; sự qua đời của vua chúa và quan lại; chế độ thuế khóa, hành chính, lễ nghi, ngoại giao của triều đình đương thời; quan hệ phức tạp giữa các thế lực chính trị ở Việt Nam thời đó; cung cấp nhiều chi tiết mới về một số sự kiện lịch sử như hai cuộc nổi loạn của Trịnh Xuân, con trai chúa Trịnh Tùng. Xuất bản. Năm 1993, trong lần xuất bản trọn bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" bản "Nội các quan bản" 4 tập (bao gồm việc tái bản tập 1 và tập 2, xuất bản tập 3 và tập 4), bản Nguyễn Văn Huyên đã được Ngô Thế Long dịch và in vào phần Phụ lục ở cuối tập 3. Sau đó, bản Nguyễn Văn Huyên còn nhiều lần được tái bản trong những lần tái bản trọn bộ bản "Nội các quan bản" vào các năm 2000, 2004, 2009, 2010. Đặc điểm hình thức và nội dung. Hình thức của "Đại Việt sử ký toàn thư" được mô phỏng theo "Tư trị thông giám" (資治通鑑) của Tư Mã Quang thời Tống, nghĩa là sự kiện lịch sử được sắp xếp theo trình tự thời gian gọi là thể biên niên. Ngô Sĩ Liên chia tác phẩm ra làm hai phần là "Ngoại kỷ" và "Bản kỷ" dựa trên thời điểm chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938. Thể biên niên khác với thể kỷ truyện truyền thống được các bộ chính sử của Trung Quốc sử dụng (phân chia theo tiểu sử của từng nhân vật lịch sử và được Tư Mã Thiên khởi xướng trong bộ "Sử ký"). Trong bản kỷ của mỗi vị vua, Ngô Sĩ Liên luôn bắt đầu bằng lời giới thiệu ngắn gọn cung cấp một cách nhìn tổng quan về vị vua đó trong thời gian trị vì. Khi liệt kê các sự kiện, nhà sử học đôi khi bổ sung thêm một số câu chuyện về các nhân vật lịch sử đã được đề cập đến trong sự kiện đó, có những câu chuyện rất phong phú và chi tiết như về Trần Quốc Tuấn và Trần Thủ Độ. Toàn văn một số văn bản chính trị quan trọng cũng được Ngô Sĩ Liên đưa vào như Hịch tướng sĩ và Bình Ngô đại cáo. Nội dung cuốn sách chép các sự kiện lớn trong lịch sử nước Việt Nam từ thời Kinh Dương Vương và các vua Hùng (kỷ họ Hồng Bàng) cho đến triều đại nhà Hậu Lê với những lời bình chú, nhận xét tương đối khách quan của Ngô Sĩ Liên cũng như của các bậc tiền nhân (Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên). Có rất nhiều sự kiện được các ông đánh giá tương đối đúng bản chất mà sau này vì nhiều lý do (như ảnh hưởng tới những nhân vật lịch sử nổi tiếng hơn, ví dụ như nhận định về Nguyễn Bặc, Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành), Dương Vân Nga trong thời kỳ triều đại của nhà Đinh) nhiều sử gia khác có ý định cắt bỏ. Tuy nhiên cũng có nhiều sự kiện vì lý do quan điểm tư tưởng phong kiến nên các ông đã có những nhận định không xác đáng (như trường hợp thái sư Lê Văn Thịnh thời nhà Lý). Cuốn sách lần đầu tiên được hoàn thành năm 1479 thời Lê Thánh Tông, sau đó được các sử gia khác chỉnh lý lại và bổ sung (từ các quyển 12 đến quyển 19). Quan điểm lịch sử. So với Lê Văn Hưu. Trong khi Lê Văn Hưu thiết lập điểm khởi đầu cho lịch sử Việt Nam là sự thành lập Vương quốc Nam Việt, Ngô Sĩ Liên đi xa hơn nữa khi xác định các nhân vật Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân trong truyền thuyết là tổ tiên của người Việt Nam. Vì thiếu nguồn tư liệu lịch sử về Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân, một số ý kiến cho rằng lời giải thích về nguồn gốc của người Việt Nam của Ngô Sĩ Liên chỉ là một cách để mở rộng niên đại của nền văn minh Việt Nam hơn là việc xác lập điểm khởi đầu của lịch sử Việt Nam. Khi bắt đầu biên soạn tác phẩm của mình, Ngô Sĩ Liên đã có quan điểm khác với các học giả thời Trần về họ Hồng Bàng, đó là trong khi các học giả thời Trần chỉ đề cập đến họ Hồng Bàng như một sự tượng trưng trong lịch sử Việt Nam, Ngô Sĩ Liên xác định họ Hồng Bàng là triều đại đầu tiên của Việt Nam và trị vì đất nước từ năm 2879 TCN đến năm 258 TCN, nghĩa là có trước nhà Hạ là triều đại đầu tiên của Trung Quốc hơn 600 năm. Tuy nhiên, tư liệu của Ngô Sĩ Liên về khoảng thời gian dài này là quá ít ỏi nên các nhà sử học hiện đại đặt nghi vấn về tính xác thực về niên đại của các vua Hùng do Ngô Sĩ Liên đặt ra và suy đoán rằng Ngô Sĩ Liên xác định niên đại này chủ yếu để phục vụ cho mục tiêu chính trị của nhà Lê nhằm để nâng cao Đại Việt ngang hàng với Trung Hoa. Cũng như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên coi Vương quốc Nam Việt là một phần của Việt Nam, quan điểm này bị Ngô Thì Sĩ, một nhà sử học Việt Nam vào thế kỷ 18, cùng các nhà sử học hiện đại phê phán vì các vua Nam Việt đều là người Hán. Trong bình luận về sự thất bại của Lý Nam Đế dưới tay Trần Bá Tiên dẫn đến thời kỳ Bắc thuộc lần 3, Lê Văn Hưu phê phán Lý Nam Đế là kém tài năng trong khi Ngô Sĩ Liên cho rằng ý trời chưa muốn cho Việt Nam độc lập. Khác. Trong khi Lê Văn Hưu dành mối quan tâm hàng đầu là nền tự chủ của đất nước trước Trung Quốc thì Ngô Sĩ Liên, theo ý kiến của nhà sử học O.W. Wolters, đã xem lịch sử Trung Quốc là tiêu chuẩn đánh giá các sự kiện lịch sử trong lịch sử Việt Nam. Khi bình luận về một sự kiện, nhà sử học thường trích dẫn một đoạn từ các tác phẩm kinh điển của Nho giáo hoặc các tác phẩm khác của Trung Quốc như "Tống thư" để làm hoa mỹ thêm lời bình luận của mình. Xuất phát từ quan điểm Nho giáo, Ngô Sĩ Liên thường đưa ra các nhận xét tiêu cực về các nhân vật lịch sử có hành vi trái ngược với quan điểm Nho giáo. Ví dụ, mặc dù là một ông vua trị vì thành công, nhưng Lê Đại Hành vẫn bị chỉ trích nặng nề trong "Đại Việt sử ký toàn thư" do việc ông kết hôn với Dương Vân Nga là thái hậu của tiền triều. Một nhà nghiên cứu suy đoán rằng do có thành kiến với vua Lê Đại Hành nên Ngô Sĩ Liên quyết định đem bài thơ nổi tiếng "Nam quốc sơn hà" sang thời Lý Thường Kiệt thay vì đặt ở thời Lê Đại Hành, trong khi một số nguồn cho rằng Lê Đại Hành mới là tác giả của "Nam quốc sơn hà". Các việc làm của các vị vua mà không theo các quan điểm về đạo đức và chính trị của Nho giáo cũng bị Ngô Sĩ Liên chỉ trích như việc Đinh Tiên Hoàng lập 5 Hoàng hậu, Lê Long Đĩnh lập 4 Hoàng hậu hay Lý Thái Tổ thiếu quan tâm đến việc học tập "Tứ thư", "Ngũ kinh". Đặc biệt trong trường hợp nhà Trần, Ngô Sĩ Liên luôn luôn có những nhận xét phê phán về việc kết hôn giữa các thành viên gần huyết thống trong gia tộc nhà Trần (hôn nhân nội tộc). Khoảng thời gian ngắn duy nhất trong thời Trần mà Ngô Sĩ Liên ca ngợi là từ khi Trần Thái Tông mất năm 1277 đến khi Trần Anh Tông mất năm 1320, trong khi đó ông vẫn lên án hành động của các vua Trần, chẳng hạn như cuộc thanh trừng tàn nhẫn của Trần Thủ Độ đối với họ Lý hay cuộc hôn nhân gây tranh cãi giữa Trần Thái Tông và Công chúa Thuận Thiên. Bên cạnh giá trị lịch sử, "Đại Việt sử ký toàn thư" cũng được coi là một tác phẩm quan trọng của văn học Việt Nam bởi vì Ngô Sĩ Liên thường cung cấp thêm thông tin về nhân vật lịch sử được đề cập bằng những câu chuyện bổ sung được viết giống như một tác phẩm văn học. Từ các lời bình luận của Ngô Sĩ Liên, có vẻ như nhà sử học cũng đã cố gắng xác lập và giảng dạy các nguyên tắc đạo đức dựa trên các khái niệm của Nho giáo. Ví dụ, Ngô Sĩ Liên đã nhiều lần đề cập khái niệm người "quân tử", theo đó "quân tử" phải có cả phẩm chất tốt và cách cư xử công bằng, Ngô Sĩ Liên cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của người quân tử bằng cách chỉ ra sự khác biệt giữa một người "quân tử" và một kẻ "tiểu nhân" hay xác định kết quả đạt được đối với một người "quân tử". Ảnh hưởng và nhận định. Ảnh hưởng. Có thể nói, bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" là một cống hiến to lớn của Ngô Sĩ Liên vào kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam. Cuốn sử này góp phần vào việc tăng sự hiểu biết lịch sử đất nước Việt Nam qua các thời kỳ đồng thời cũng là một tư liệu quý giá giúp cho công tác bảo tồn, bảo tàng và khảo cổ học.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Tiết Lập xuân là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Vì lịch của người Trung Quốc, cũng như Việt Nam cổ đại, bị nhiều người lầm tưởng là âm lịch thuần túy nên rất nhiều người cho rằng nó được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch nên nếu giải thích theo thuật ngữ của lịch hiện đại ngày nay (lịch Gregory) thì nó được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo của mình xung quanh Mặt Trời. Nếu tính điểm xuân phân là gốc (kinh độ Mặt Trời bằng 0°) thì vị trí của điểm lập xuân là kinh độ Mặt Trời bằng 315°. Do vậy ngày bắt đầu tiết Lập xuân được tính theo dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 4 hoặc 5 tháng 2 dương lịch tùy theo từng năm. Theo quy ước, tiết lập xuân là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 4 hay 5 tháng 2 khi kết thúc tiết đại hàn và kết thúc vào khoảng ngày 18 hay 19 tháng 2 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết vũ thủy bắt đầu. Ngày lập xuân được coi là ngày bắt đầu mùa xuân ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác gần khu vực xích đạo ở Bắc Bán cầu Trái Đất. Đối với các nước ở cao hơn về phía bắc thì ngày bắt đầu của mùa xuân là ngày diễn ra điểm xuân phân tính theo lịch Gregory. Thời điểm này ở Nam bán cầu Trái Đất là đầu mùa thu. Xét về mặt thời tiết, khí hậu thì từ thời điểm này trở đi ở miền bắc Việt Nam-tính từ đèo Hải Vân trở ra, do ảnh hưởng giao thời của hai luồng gió giao mùa là gió đông-bắc và gió đông-nam, bắt đầu có mưa nhỏ kéo dài còn gọi là mưa phùn làm độ ẩm của không khí và đất lên cao gây ra hiện tượng nồm (hiện tượng làm hơi nước ngưng tụ lại trên bề mặt các đồ vật tiếp giáp gần với mặt đất cũng như nhà cửa). Trong nông nghiệp thì hiện tượng này mang lại một số lợi ích do cây trồng bắt đầu có đủ lượng nước cần thiết để phát triển. Tuy nhiên trong đời sống hàng ngày thì thời tiết như vậy gây ra nhiều khó khăn như các loại bệnh tật đối với người và gia cầm, gia súc cũng như cây trồng, do các loại vi khuẩn có điều kiện thuận lợi để phát triển do độ ẩm cao và nhiệt độ môi trường thích hợp. Từ nguyên. Chữ Hán: 立春; "lập" (立) ngoài nghĩa là "đứng" còn mang nghĩa là "bắt đầu" như "thành lập", "tạo lập."
514
514_tit_maya_lch_tri
[ "tit", "maya", "lch", "tri", "baktun", "gregory", "xun", "2012", "im", "hay" ]
[ "Cốc vũ là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 19 hay 20 tháng 4 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 30° (kinh độ Mặt Trời bằng 30°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là \"Mưa rào\".\nTheo quy ước, tiết cốc vũ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 19 hay 20 tháng 4 khi kết thúc tiết thanh minh và kết thúc vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 5 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết lập hạ bắt đầu.\nLịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và cốc vũ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Cốc vũ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 30°. Ngày diễn ra hay bắt đầu tiết cốc vũ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 19 hay 20 tháng 4 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước cốc vũ là thanh minh và tiết khí kế tiếp sau là lập hạ.\nTừ nguyên.\nChữ Hán: 穀雨.", "Nông lịch, thường gọi là âm lịch, là một loại âm dương lịch hiện vẫn còn được sử dụng ở các quốc gia và khu vực chịu ảnh hưởng của nền văn minh lúa nước. Về thực chất, nó là một loại âm dương lịch tạo ra bởi sự kết hợp của âm lịch thuần túy với thời điểm xảy ra tiết khí, là những cái được tính theo dương lịch. Lịch này hiện nay chủ yếu được sử dụng để tính toán các ngày lễ hội quan trọng như Tết Nguyên Đán hay Tết Trung thu, cũng như để tính toán ngày tháng cho các công việc trọng đại như cưới xin, khởi công xây dựng nhà cửa, mồ mả, mua sắm những đồ vật có giá trị lớn v.v... Điều này không chỉ thịnh hành ở nông thôn mà còn ở các thành phố lớn. Các loại nông lịch của người Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam, Singapore về cơ bản là gần giống như lịch của người Trung Quốc. Người Nhật Bản tính theo múi giờ UTC+9 cũng như quy tắc hơi khác, người Việt Nam tính theo UTC+7 cho nên có thể có sai biệt nào đó so với nông lịch Trung Quốc về thời điểm bắt đầu và kết thúc của mỗi tháng (tức số ngày trong tháng) cũng như tháng nhuận.\nỞ Trung Quốc, và các nước nêu trên, lịch này còn gọi là Hạ lịch (夏曆), \"nông lịch\" (農曆), khác với \"công lịch\" (公曆), hay \"tây lịch\" (西曆). Ngoài ra người ta còn gọi nó là \"cựu lịch\" (舊曆) sau khi \"tân lịch\" (新曆), tức lịch Gregory được sử dụng như là lịch chính thức.\nLịch sử.\nBắt đầu.\nTruyền thuyết về sự khởi đầu của lịch Trung Quốc cho rằng lịch này có từ trước thiên niên kỷ 1 TCN. Truyền thuyết cho rằng lịch Trung Quốc do Hoàng Đế phát minh. Nhưng chỉ là truyền thuyết vì lịch được tính theo văn hóa lúa nước bắt nguồn từ Bách Việt (lúc này không biết Bách Việt nằm ở đâu nếu không có người Hoa (Hạ) gọi tên họ như vậy). Ông là người cai trị Trung Quốc khoảng năm 2698-2599 trước Công Nguyên. Vị hoàng đế huyền sử thứ tư là Đường Nghiêu đã thêm vào các tháng nhuận. Chu kỳ 60 năm, Can-Chi (干支 \"gānzhī\"), được thêm vào cho các năm từ thế kỷ 1 TCN. Cho là Hoàng Đế lên ngôi khi đã lớn, năm đầu tiên của chu kỳ đầu tiên là năm 2637 TCN theo như Herbert A. Giles, trong quyển \"A Chinese-English Dictionary\" (1912), cũng như tất cả các tác giả phương Tây khác trong thời kỳ cuối của nhà Thanh. Vì thế cho đến năm 1984 thì chu kỳ hiện tại là 78. Tuy nhiên, một số tác giả hiện đại cho rằng năm đầu tiên của chu kỳ đầu tiên là 2697 TCN khi mà Hoàng Đế còn nhỏ, và nói là hiện nay chúng ta đang ở chu kỳ 79. Hai cách tính kỷ nguyên này đã tạo ra hai cách tính toán năm liên tục, tạo ra \"năm Trung Quốc\" là 4642 hay 4702 cho đến đầu năm 2005.\nTuy nhiên, các chu kỳ 60 được đánh số liên tục và các năm dựa trên chúng là phát kiến của các nhà niên đại học phương Tây—người Trung Hoa không sử dụng chúng. Họ sử dụng các chu kỳ không đánh số, mặc dù nó có vai trò có lợi đối với năm niên hiệu, được công bố bởi các hoàng đế Trung Hoa. Thực vậy, việc \"không\" sử dụng niên hiệu của hoàng đế tương đương với sự làm phản mà hình phạt của nó là tử hình. Nhưng cuộc nổi dậy của Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900 đã làm người lãnh đạo không chính thức của Trung Quốc, Từ Hi Thái hậu, bị suy yếu và dễ tổn thương trước các thách thức từ phía những người đi theo xu hướng cộng hòa, đây là những người cố ý dùng hệ thống đếm năm liên tục nhằm bất hợp pháp hóa nhà Thanh bằng cách từ chối sử dụng niên hiệu của nó. Mặc dù báo chí cộng hòa sử dụng nhiều hơn một niên đại, cái mà Tôn Trung Sơn lựa chọn, 2698 TCN, đã được công nhận bởi phần lớn các cộng đồng Hoa kiều ngoài khu vực Đông Nam Á như phố người Hoa ở San Francisco, dẫn đến năm 4703 của họ được bắt đầu vào năm 2005. Nhiều nhà niên đại học, không biết lịch sử của nó, cho rằng 2698 TCN là sai lầm đối với kỷ nguyên 2697 TCN thu được từ các chu kỳ 60, trong khi nó thực sự là kỷ nguyên duy nhất được một số người Trung Quốc sử dụng thật sự, mặc dù chỉ là thiểu số (phần lớn người Trung Hoa không sử dụng bất kỳ một kiểu đếm số năm từ kỷ nguyên truyền thuyết).\nLịch sử sơ kỳ.\nCác chứng cứ khảo cổ học sớm nhất của lịch Trung Quốc xuất hiện trên các tấm xương bói toán vào thời kỳ cuối của thiên niên kỷ 2 TCN thời nhà Thương. Các tấm xương này chỉ ra năm âm dương lịch có 12 tháng và thỉnh thoảng có tháng thứ 13, cũng như thậm chí có tháng thứ 14. Bởi vì ngày tháng Trung Quốc là có cơ sở vững chắc bắt đầu từ năm 841 TCN, lịch của thời kỳ đầu nhà Chu được biết đến như là lịch với tháng nhuận được thêm vào một cách tùy tiện. Tháng đầu tiên của năm khi đó rất gần với đông chí và tháng nhuận của nó là sau tháng thứ 12. Lịch tứ phân (四分 \"sìfēn\") bắt đầu khoảng năm 484 TCN, là lịch đầu tiên được tính toán ở Trung Quốc. Nó được đặt tên như thế vì nó sử dụng năm Mặt Trời với 365¼ ngày, cùng với quy tắc chu kỳ 19 năm = 235 tháng, được biết đến ở phương tây là chu kỳ Meton. Đông chí khi đó nằm trong tháng đầu tiên và tháng nhuận của nó được chèn thêm vào sau tháng thứ mười hai. Bắt đầu từ năm 256 TCN của vương quốc Tần, sau này là nhà Tần, tháng nhuận là tháng phụ thứ chín vào cuối năm mà bây giờ bắt đầu bằng tháng thứ mười, và đông chí nằm trong tháng thứ mười một. Cách tính năm như thế được sử dụng cho đến nửa thời kỳ đầu của nhà Tây Hán.\nQuy tắc \"Trung khí\".\nVua Hán Vũ đế của nhà Hán đã đề ra các quy tắc cơ bản mà lịch Trung Quốc áp dụng từ đó đến nay. Lịch Thái sơ (太初, \"Tàichū\" - sự khởi đầu vĩ đại, niên hiệu của Hán Vũ đế) của ông năm 104 TCN là năm với đông chí nằm trong tháng thứ mười một và được thiết kế để tháng nhuận có thể là bất kỳ tháng nào (tháng 29 hay 30 ngày) mà trong tháng đó Mặt Trời không đi qua các điểm \"Trung khí\" (tức là Mặt Trời chỉ nằm trong một cung hoàng đạo). Vì chuyển động trung bình của Mặt Trời (biểu kiến) được sử dụng để tính toán tiết khí cho đến tận năm 1645, tháng nhuận như thế có thể xuất hiện sau bất kỳ tháng nào của năm với cùng một xác suất. Tuy nhiên, sự giao hội của Mặt Trời và Mặt Trăng (hay sóc) sử dụng chuyển động trung bình của cả hai thiên thể này chỉ cho đến năm 619, năm thứ hai của nhà Đường, khi cả hai chuyển động bắt đầu được sử dụng mô hình chuyển động thật với hai parabôn quan trắc ngược nhau (với những thành phần nhỏ tuyến tính và lập phương). Tuy nhiên, các parabôn không phù hợp với chuyển động trung bình, mà phù hợp với những điểm gián đoạn hay bước nhảy.\nChuyển động thực của Mặt Trời và Mặt Trăng.\nSau khi thiên văn học của châu Âu được giới thiệu vào Trung Hoa bởi các giáo sĩ dòng Tên, chuyển động của cả Mặt Trời và Mặt Trăng bắt đầu được tính toán bằng các hàm lượng giác trong lịch Thời Hiến (時憲 \"Shíxiàn\") năm 1645 của nhà Thanh, lịch này được lập bởi giáo sĩ Adam Schall, tên Trung Hoa là Thang Nhược Vọng. Chuyển động thật của Mặt Trời (biểu kiến) bấy giờ được sử dụng để tính tiết khí. Tháng nhuận thông thường hay xảy ra sau tháng thứ hai cho đến tháng thứ chín và ít khi xảy ra sau tháng thứ mười nếu tính từ tháng đầu tiên. Rất ít thời gian trong mùa thu-đông có một hay hai tháng mà Mặt Trời đi qua hai cung hoàng đạo, lẫn với hai hay ba tháng mà Mặt Trời chỉ nằm trong một cung hoàng đạo.\nCải cách lịch Gregory và thay đổi thời gian năm 1929.\nLịch Gregory được công nhận bởi Trung Hoa Dân Quốc, lúc đó mới ra đời, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1912 cho các hoạt động chính thức, nhưng dân chúng vẫn tiếp tục sử dụng lịch truyền thống của nhà Thanh. Tình trạng của lịch Gregory trong khoảng 1916 đến 1921, khi Trung Quốc bị kiểm soát bởi các đốc quân, không được rõ. Từ khoảng 1921 đến 1928 các đốc quân vẫn tiếp tục kiểm soát phía bắc Trung Quốc, nhưng Quốc dân đảng đã kiểm soát miền nam Trung Quốc và có lẽ họ đã sử dụng lịch Gregory. Sau khi Quốc dân đảng công bố cải tổ lại Trung Hoa Dân Quốc 10 tháng 10 năm 1928, họ ra sắc lệnh bắt buộc sử dụng lịch Gregory có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1929. Họ cũng ra sắc lệnh có hiệu lực từ ngày này mọi người dân phải sử dụng múi thời gian bờ biển đã được dùng trong tất cả các cảng hiệp ước, cho các cảng dọc theo bờ biển phía đông Trung Quốc, ký với châu Âu (theo Hiệp ước Nam Kinh 1842) từ năm 1904. Điều này đã thay đổi thời điểm bắt đầu mỗi ngày đối với cả lịch truyền thống và lịch Gregory một lượng +14,3 phút từ nửa đêm Bắc Kinh tới nửa đêm tại kinh độ 120° đông tính từ Greenwich.\nĐiều này đã sinh ra một số sai biệt, chẳng hạn như đối với Tết Trung Thu năm 1978. Điểm sóc khi đó là ngày 3 tháng 9 năm 1978, hồi 00:07, Giờ chuẩn Trung Quốc. Sử dụng lịch cũ theo múi giờ Bắc Kinh, sóc xảy ra lúc 23:53 ngày 2, vì thế tháng Tám (âm lịch) bắt đầu trong các ngày khác nhau tùy theo từng loại lịch. Người Hồng Kông (sử dụng lịch truyền thống) ăn Tết này vào ngày 16 tháng 9, nhưng những người Trung Quốc khác ăn Tết này vào ngày 17 tháng 9.\nQuốc dân đảng có thể đã bắt đầu đánh số năm của nền cộng hòa của họ vào năm 1929, bắt đầu từ năm 1912 như là năm 1. Khi những người cộng sản giành được quyền kiểm soát đối với Trung Hoa đại lục 1 tháng 10 năm 1949, họ chỉ đơn giản là tiếp tục sử dụng lịch Gregory, nhưng bắt đầu từ đây đánh số năm theo kiểu phương tây, bắt đầu với 1949. Ở cả Trung Hoa đại lục và Đài Loan, các tháng của lịch Gregory được đánh số từ 1 đến 12 giống như các tháng của lịch truyền thống.\nQuy tắc.\nCác quy tắc sau có hiệu lực từ năm 104 TCN, mặc dù một số chi tiết đã từng là không cần thiết trước năm 1645. Cũng lưu ý là các quy tắc này không chỉ rõ các tính toán chi tiết dựa trên cơ sở của chuyện động thật hay trung bình của Mặt Trời, Mặt Trăng, điều này phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử.\nCung Hoàng Đạo mà Mặt Trời đi qua trong tháng và kinh độ của đường hoàng đạo của các điểm đi vào các cung thông thường dùng để xác định tháng thông thường. Tháng 1, chánh nguyệt (\"zhēngyuè\"), tiếng Việt gọi là tháng giêng (tiếng Hoa là tháng khởi đầu - \"tháng nguyên\" có nghĩa đầu tiên. Từ đây phát sinh tên gọi \"tết + Nguyên Đán\" tức là buổi sáng sớm đầu tiên, \"tết + Nguyên Tiêu\" tức là buổi đêm đầu tiên v.v.).\nMười hai tháng âm lịch là khá gần với các sự kiện trong sự phát triển của thực vật và trong nông nghiệp, vì thế chúng còn có tên gọi khác theo các loài cây:\nMột số người tin rằng các quy tắc trên đây luôn luôn đúng, nhưng thực tế có một số ngoại lệ ngăn không cho Tết Nguyên Đán luôn luôn là sóc thứ hai sau Đông chí, hay có nghĩa là nó làm cho ngày lễ này diễn ra sau tiết \"Vũ Thủy\". Ngoại lệ này diễn ra vào các giai đoạn từ năm 2033 đến năm 2034, và từ năm 2128 đến năm 2129, khi Đông chí là tiết khí chính thứ hai trong tháng Một (11) âm lịch. Tháng tiếp theo không có tiết khí chính và do vậy nó là nhuận, và tháng Chạp (12) tiếp theo sau đó sẽ chứa cả Bảo Bình (\"Aquarius\") và Song Ngư (\"Pisces\") và hai tiết khí chính (\"Đại Hàn\" và \"Vũ Thủy\"). Năm Dần vì thế bắt đầu vào sóc thứ ba sau Đông chí, và nó diễn ra sau tiết Vũ Thủy - Song Ngư (\"Pisces\"), vào ngày 19 tháng 2.\nMột trường hợp khác là năm 1984-1985, khi Mặt Trời nằm trong cung Ma Kết (\"Capricorn\") ở 270° và Bảo Bình (\"Aquarius\") ở 300° trong tháng 11, và sau đó đi vào cung Song Ngư (\"Pisces\") ở 330° trong tháng kế tiếp, mà lẽ ra khi đó phải là trong tháng giêng (tháng 1). Mặt Trời đã không đi vào cung nào trong tháng kế tiếp. Để đảm bảo giữ cho Đông chí nằm trong tháng 11, tháng lẽ ra phải là tháng 1 (Dần) trở thành tháng 12, và tháng sau đó là tháng 1, làm cho Tết Nguyên Đán diễn ra vào 20 tháng 2 năm 1985 sau khi Mặt Trời đã vượt qua Pisces ở 330° trong tháng trước đó, hơn là nằm trong tháng bắt đầu trong ngày này.\nTrong các trường hợp khi tháng có 2 tiết khí chính diễn ra, nó luôn luôn xảy ra ở một khoảng thời gian nào đó giữa hai tháng không có tiết khí chính. Nó thông thường diễn ra đơn lẻ và nằm ở một trong hai bên hoặc gần với Đông chí, vì thế việc đặt Đông chí trong tháng 11 (quy tắc 4) sẽ dẫn đến phải chọn lựa tháng nào trong hai tháng không có tiết khí làm tháng nhuận. Năm 1984-1985, tháng ngay trước tháng 11 có hai tiết khí chính là tháng không có tiết khí chính và nó được tính là tháng 10 nhuận. Mọi tháng từ tháng có hai tiết khí chính tới tháng không có tiết khí chính mà không tính là nhuận được đánh số nối tiếp nhau theo quy tắc 2 tính như là các tháng thường. Phát biểu của quy tắc 5, lựa chọn tháng đầu tiên trong hai tháng không có tiết khí chính giữa tháng 11, là không bị bắt buộc kể từ lần cải cách lịch cuối cùng và cũng sẽ không cần thiết cho đến tận trường hợp của năm 2033-2034 và năm 2128-2129, khi các tháng có hai tiết khí chính sẽ nằm cạnh ba tháng không có tiết khí chính, hai trong số chúng sẽ nằm ở một bên của tháng 11. Tháng 11 nhuận rất ít khi xảy ra. Xem \nCác ngoại lệ như trên đây là rất hiếm. Tới 96,6% các tháng chỉ chứa một tiết khí chính (điểm vào trong một cung hoàng đạo), nó phù hợp với quy tắc đánh số của bảng tiết khí, và 3,0% các tháng là nhuận (luôn luôn là tháng không có tiết khí chính). Chỉ có 0,4% các tháng hoặc là có hai tiết khí chính hoặc là các tháng kế tiếp được đánh số lại.\nĐiều này chỉ xảy ra sau cải cách lịch năm 1645. Khi đó người ta cần thiết phải cố định một tháng luôn luôn chứa tiết khí chính của nó và cho phép các tháng còn lại đôi khi không chứa tiết khí chính của nó. Tháng 11 đã được chọn, vì tiết khí chính của nó (Đông chí) tạo ra sự khởi đầu của năm Mặt Trời trong lịch Trung Quốc.\nLịch Trung Quốc và lịch Gregory thông thường sẽ đồng bộ trở lại sau 19 năm (chu kỳ Meton). Tuy nhiên, chu kỳ 19 năm với các bộ tháng nhuận định sẵn chỉ là tương đối, vì thế các mô hình xác định tháng nhuận trong các chu kỳ kế tiếp nhau cuối cùng sẽ thay đổi sau vài lần chu kỳ 19 năm thành chu kỳ 19 năm hoàn toàn khác.\nHoàng đạo Trung Hoa (xem các phần Danh pháp và Địa Chi) chỉ sử dụng để đặt tên năm - nó thực sự không được sử dụng để tính lịch. Trên thực tế, người Trung Quốc có hệ thống chòm sao hoàn toàn khác.\nDanh pháp.\nCác năm được đặt tên theo chu kỳ của 10 Thiên Can và chu kỳ của 12 Địa Chi. Mỗi năm được đặt tên theo cặp của một can và một chi gọi là Can Chi (干支 \"gānzhī\"). Thiên Can phối hợp với Âm Dương và Ngũ hành. Chu kỳ 10 năm của Can bắt đầu từ can Giáp những năm tận cùng bằng 4 như 1984, 1994, 2004 v.v., còn đối với năm trước công nguyên là 7. Địa Chi liên kết với 12 con vật tượng trưng. Chu kỳ 12 năm bắt đầu bằng chi Tý (Tí) với những năm chia cho 12 còn dư 4 như 1984, 1996 v.v. hay trong phép chia cho 12 còn dư 9 nếu là năm trước Công nguyên như 9 TCN (Nhâm Tý), 21 TCN (Canh Tý), v.v. (lưu ý là không có năm 0, sau ngày 31 tháng 12 năm 1 TCN (năm Canh Thân) là ngày 1 tháng 1 năm 1 (năm Tân Dậu)).\nChu kỳ 60 năm tạo thành bởi tổ hợp của hai chu kỳ được biết như là \"chu kỳ Giáp Tý\" (甲子 \"jiǎzǐ\"). Nó không phải là 120 vì hai chu kỳ này quay vòng tuần hoàn độc lập với nhau. Do vậy không thể có những tổ hợp như Giáp Sửu chẳng hạn. Gọi là chu kỳ Giáp Tý vì năm đầu tiên của chu kỳ 60 năm là năm Giáp Tý.\nChu kỳ 60 năm là không đủ cho các tham chiếu lịch sử. Trong thời kỳ phong kiến, niên hiệu (tên kỷ nguyên của một ông vua) được đặt trước tên của năm để phân biệt. Ví dụ: Khang Hi Nhâm Dần (康熙壬寅), hay năm 1662, là năm Nhâm Dần (壬寅) đầu tiên trong thời gian trị vì của hoàng đế Khang Hi (康熙). Khang Hi cũng là trường hợp duy nhất trong lịch sử Trung Quốc trị vì trên 60 năm, cho nên năm Khang Hi Nhâm Dần vừa là năm 1662 khi Khang Hi lên ngôi, vừa là năm 1722 khi ông băng hà. Sử dụng niên hiệu của vua là tiềm ẩn sự thừa nhận tính hợp pháp của vị vua đó, là rất quan trọng về chính trị trong trường hợp kế vị đầy tranh cãi hay nổi loạn. Tuy nhiên, nó cũng gây ra khó khăn cho các nhà sử học Trung Quốc trong việc cho rằng triều đại nào là hợp pháp hơn khi nói về các thời kỳ sớm hơn, khi mà Trung Quốc bị chia sẻ.\nCác tháng, ngày và giờ cũng có thể được biểu thị bằng Can Chi, mặc dù chúng nói chung được biểu diễn chủ yếu theo các số đếm Trung Hoa. Cùng với nó, bốn cặp Can-Chi tạo ra bát tự (八字 \"bāzì\") được sử dụng trong chiêm tinh học Trung Quốc.\nCó sự phân biệt giữa năm tính theo Mặt Trời và năm tính theo Mặt Trăng trong lịch Trung Quốc do nó là một loại âm dương lịch. Năm dựa theo Mặt Trăng (年 \"nián\" = niên) là từ một Tết Nguyên Đán đến Tết Nguyên Đán tiếp theo. Năm dựa theo Mặt Trời (歲 \"suì\" = tuế) có thể là chu kỳ giữa một Lập xuân và Lập xuân tiếp theo hay chu kỳ giữa hai Đông chí (xem phần tiết khí). Năm dựa theo Mặt Trăng được sử dụng để tính ngày, trong khi năm dựa theo Mặt Trời (đặc biệt là năm giữa hai Đông chí) để tính tháng.\nMười hai chi.\nMười hai con vật đại diện cho mười hai địa chi theo trật tự là chuột, bò (Việt Nam: trâu), hổ, thỏ (Việt Nam: mèo), rồng, rắn, ngựa, cừu (hay dê), khỉ, gà, chó và lợn (bắc Việt Nam: heo là cách gọi lợn của miền nam).\nTruyền thuyết giải thích trật tự được phân chia cho các con vật. Cả 12 con vật đánh lẫn nhau để tranh giành quyền đứng trước trong chu kỳ các năm của lịch, vì thế Ngọc Hoàng phải tổ chức một cuộc thi để xác định trật tự. Mọi con vật xếp hàng ngang trên bờ sông và phải tìm cách sang bờ sông bên kia. Trật tự trong lịch của chúng sẽ là trật tự khi chúng sang đến bên kia bờ sông. Mèo thì tự hỏi bằng cách nào có thể sang bờ sông bên kia khi mà nó rất sợ nước. Cũng trong thời gian ấy, bò tự hỏi bằng cách nào nó có thể sang đến bờ bên kia với thị lực kém. Con chuột láu lỉnh đề nghị là nó và mèo sẽ ngồi trên lưng bò và hướng dẫn cho nó qua sông. Bò đồng ý và làm việc cật lực mà không để ý đến những sự kiện trên lưng nó. Trong khi ấy, chuột lẻn ra đằng sau mèo và đẩy nó xuống nước. Khi bò đến gần bờ, chuột nhảy lên phía trước và kết thúc cuộc dua ở vị trí thứ nhất. Con lợn lười biếng sang đến bờ bên kia ở vị trí thứ mười hai. Vì thế chuột được đặt tên cho năm đầu tiên, bò ở vị trí thứ hai và lợn ở vị trí thứ 12 trong chu kỳ. Mèo vào đến bờ quá muộn, không còn chỗ cho nó trong lịch và nó thề rằng sẽ là kẻ thù truyền kiếp của chuột.\nTiết khí.\nCác tháng trong lịch Trung Quốc tuân theo các chu kỳ của Mặt Trăng. Lịch nông nghiệp dựa theo Mặt Trời với 24 điểm gọi là tiết khí (節氣). Chúng là các điểm đánh dấu các thay đổi bốn mùa để hỗ trợ nông dân quyết định khi nào trồng trọt hay thu hoạch mùa màng, trong khi âm lịch vì nguyên nhân trên là không đáng tin cậy để theo dõi. Thuật ngữ \"tiết khí\" thông thường được gọi là các \"điểm thời tiết\". Vì việc tính toán dựa theo Mặt Trời, các tiết khí rơi vào xấp xỉ cùng một ngày trong mọi năm dương lịch chẳng hạn như lịch Gregory, nhưng nó không tạo ra quy luật rõ ràng trong lịch Trung Quốc do quy tắc tính tháng nhuận của nó. Tiết khí được công bố hàng năm trong niên lịch cho nông dân. Tết Nguyên Đán thông thường là ngày sóc gần với Lập xuân. Cụ thể về tiết khí xem bài Tiết khí.\nGhi chú:\nLễ hội.\nMỗi năm theo lịch Trung Quốc có 9 lễ hội chính, 7 trong số đó xác định theo âm-dương lịch, 2 lễ hội còn lại có nguồn gốc từ lịch nông nghiệp (nông lịch) dựa theo Mặt Trời. (Lưu ý rằng nông dân thực tế sử dụng lịch Mặt Trời (dương lịch), và nó có 24 tiết khí để xác định khi nào thì cần gieo trồng ngũ cốc vì các đặc điểm thời tiết, khí hậu khi tính theo âm dương lịch truyền thống không chính xác. Tuy nhiên, lịch truyền thống cũng được biết đến như là nông lịch.)\nHai lễ hội đặc biệt đó là Tết Thanh Minh và lễ hội Đông chí, trùng với hai tiết khí tương ứng là Thanh minh và Đông chí, lễ hội đầu tiên diễn ra khi kinh độ của Trái Đất trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời là 15 độ, lễ hội sau ở vị trí 270 độ. Để tính toán âm lịch thì múi giờ được sử dụng là UTC+ 8.\nBảng dưới đây thể hiện 9 lễ hội này. Tuy nhiên, bảng này còn bỏ sót một số tết khác như Tết Hàn Thực (3 tháng 3 âm lịch) hay Tết Trùng Thập (10 tháng 10 âm lịch), đôi khi còn được tổ chức trang trọng hơn các lễ hội như Đông chí hay Thất tịch.\nLịch Triều Tiên.\nLịch truyền thống Triều Tiên có nguồn gốc từ lịch Trung Quốc. Đầu thế kỷ 19 Triều Tiên dựa vào quan hệ ngoại giao gần gũi với Trung Quốc trong khi không có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác. Để công nhận mối quan hệ này, các vị vua Triều Tiên tổ chức việc tiếp nhận lịch Trung Quốc từ hoàng đế Trung Hoa mỗi năm với một sự phô trương lớn. Lịch này có:\nLịch truyền thống Triều Tiên thông thường tính bắt đầu từ năm 2333 TCN, là thời gian thành lập ra Triều Tiên bởi Dangun theo huyền thoại.\nLịch truyền thống này hiện nay ít được sử dụng, ngoại trừ để tính toán các lễ hội truyền thống (xem thêm Lễ hội Triều Tiên theo âm lịch) và để đánh dấu ngày tháng sinh bởi những người cao tuổi.", "Hiện tượng 2012 bao gồm hàng loạt những người tin về thuyết mạt thế cho rằng vào ngày 21 tháng 12 năm 2012 là ngày tận thế hoặc sẽ xảy ra những sự kiện biến đổi lớn. Ngày này được coi là ngày kết thúc của một chu kỳ dài 5.125 năm trong lịch mà tiếng Anh gọi là \"Long Count\" (\"Lịch Đếm Ngày Dài\") của người Maya. Đã có những đề xuất về sự liên quan giữa ngày này với sự thẳng hàng của các sao trong thiên văn và những công thức thần số học.\nTín đồ Tân Kỷ nguyên giải thích ngày này đánh dấu một thời điểm bắt đầu một thời kỳ mà Trái Đất và cư dân sống trên đó có thể sẽ trải qua một sự biến đổi về thể chất hoặc tinh thần, và cho rằng năm 2012 có thể là cột mốc khởi đầu của một kỷ nguyên mới. Những người khác thì cho rằng năm 2012 sẽ đánh dấu sự kết thúc của thế giới hoặc là một thảm họa nhỏ hơn. Cả hai ý kiến này đều phổ biến trong sách và phim tư liệu, và được lan truyền rộng rãi trên các trang web và qua các nhóm thảo luận. Thảm cảnh được đưa ra cho ngày tận thế gồm có: Mặt trời sẽ đạt mức năng lượng cực đại hoặc sự va chạm của Trái Đất với một lỗ đen hay với hành tinh \"Nibiru\".\nCác học giả từ nhiều ngành khác nhau đã bác bỏ ý tưởng về những sự kiện tận thế sẽ xảy ra vào năm 2012. Những nhà nghiên cứu chính thống về người Maya cho thấy không tìm được trong bất kỳ tài liệu cổ thư nào còn sót lại của người Maya dự đoán về ngày tận thế sắp xảy ra, và cho rằng ý tưởng về lịch \"Long Count\" sẽ \"kết thúc\" trong năm 2012 là bóp méo lịch sử của người Maya. Hiện nay, những người Maya hiện đại phần lớn không tin về sự kiện 2012, còn nguồn tư liệu cổ của người Maya về vấn đề này rất hiếm và nhiều mâu thuẫn. Các nhà thiên văn học và những nhà khoa học khác đã phủ nhận và cho rằng những dự đoán về ngày tận thế là giả khoa học, họ tuyên bố những sự kiện tiên đoán ​​là trái ngược với các quan sát thiên văn đơn giản.\nLịch của người Maya.\nTháng 12 năm 2012 đánh dấu sự kết thúc của một \"b'ak'tun\"; tức là một khoảng thời gian trong lịch của người Maya (tiếng Anh: \"Mesoamerican Long Count calendar\", Lịch đếm ngày dài của Trung Bộ châu Mỹ cổ đại) được sử dụng ở Trung Mỹ trước khi người Châu Âu đặt chân đến. Mặc dù lịch này rất có thể là phát minh của người Olmec, nhưng nó lại trở nên gắn liền với nền văn minh Maya có thời kỳ phát triển kéo dài từ 900-250 TCN. Những hệ thống chữ viết cổ của người Maya đã được giải mã đáng kể, có nghĩa là các văn bản và vật liệu khắc chữ của họ vẫn còn tồn tại từ trước sự xâm chiếm của người châu Âu.\nKhông giống như Lịch vòng tròn có chu kỳ 52 năm vẫn được người Maya hiện đang sử dụng, lịch \"Long Count\" là dạng đường thẳng, và các đơn vị khoảng thời gian được tính theo hệ số 20: 20 ngày làm thành một \"uinal\", 18 \"uinal\" (tức 360 ngày) là một \"tun\", 20 \"tun\" là một \"k'atun\", và 20 \"k'atun\" (tức 144.000 ngày) tạo thành một \"b'ak'tun\". Vì vậy, một ngày của người Maya ký hiệu là \"8.3.2.10.15\" tương ứng với: 8 \"b'ak'tun\", 3 \"k'atun\", 2 \"tun\", 10 \"uinal\" và 15 ngày.\nNgày tận thế.\nVăn học dân gian của người Maya cho rằng có sự tồn tại của những \"chu kỳ thế giới\", tuy nhiên ghi chép này đã không còn nguyên vẹn nên đã để lại một đáp án mở với nhiều khả năng. Theo tập sử thi Popol Vuh, một cuốn sách tổng hợp chi tiết các tính toán của sự tạo thành thế giới do người K'iche' ở vùng cao nguyên (một trong những nhóm dân tộc Maya) để lại, thì chúng ta đang sống trong thế giới thứ tư. Sách \"Popol Vuh\" miêu tả, đầu tiên các vị thần sáng tạo ra ba thế giới nhưng bị thất bại, đến lần thứ tư mới thành công và cũng chính là nơi mà loài người đang sinh sống hiện giờ. Trong lịch của người Maya, thế giới trước đã kết thúc sau 13 \"b'ak'tun\", tức là khoảng 5.125 năm. \"Ngày 0\" của lịch đã được thiết lập lại trong quá khứ để đánh dấu sự kết thúc của thế giới thứ ba và bắt đầu thế giới hiện tại, thời điểm này tương ứng vào ngày 11 tháng 8 năm 3114 TCN theo lịch Gregorius đón trước. Điều này có nghĩa là thế giới thứ tư cũng sẽ đi đến thời điểm tận cùng của nó vào \"b'ak'tun\" thứ 13, hay theo cách ghi ngày của người Maya là 13.0.0.0.0, tức là ngày 21 tháng 12 năm 2012.\nNăm 1957, nhà thiên văn học và Maya học Maud Worcester Makemson đã viết rằng: \"sự hoàn tất một Chu Kỳ Lớn của 13 \"b'ak'tun\" mang một ý nghĩa vô cùng trọng đại đối với người Maya\". Năm 1966, Michael D. Coe khẳng định trong cuốn \"The Maya\" \"có một gợi ý... là sự hủy diệt sẽ giáng xuống bất chợt cho những con người trụy lạc của thế giới này vào ngày cuối cùng của \"b'ak'tun\" thứ 13. Như vậy hiện tại... vũ trụ của chúng ta sẽ bị tiêu diệt trong tháng 12 năm 2012 khi chu kỳ lớn của lịch Maya hoàn tất.\"\nKết luận.\nNiềm tin vào thảm họa sẽ đến trong khoảng thời gian ngày 21 tháng 12 năm 2012 được phần lớn các học giả nghiên cứu về người Maya cổ đại cho là một dự đoán sai, nhưng hiện tượng này vẫn thường được trích dẫn phổ biến trên các phương tiện truyền thông và văn hóa như một vấn đề của năm 2012. Nhiều nhà khoa học cho rằng hiện tượng vào năm 2012 sẽ lần nữa giống như vụ sự cố năm 2000 hoặc giống như bao lời tiên tri khác về ngày tận thế nhưng không thành sự thật.\nLời giải thích về ngày tận thế của Coe đã được nhiều học giả khác nhắc lại trong suốt những năm đầu của thập niên 1990. Tuy nhiên sau đó nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng ngày cuối cùng kết thúc \"b'ak'tun\" thứ 13 rất có thể là lý do cho một lễ kỷ niệm, chứ không phải là đánh dấu hết lịch. Học giả về người Maya, Mark Van Stone đã nói: \"không có bất kỳ điều gì trong lời tiên tri của người Maya, Aztec hay người Trung Mỹ cổ xưa cho rằng có một sự thay đổi bất ngờ hoặc trọng đại nào xảy ra trong năm 2012. Khái niệm về một 'Đại Chu Kỳ' sắp kết thúc hoàn toàn là phát minh của người hiện đại\". Năm 1990, hai nhà học giả về Maya là Linda Schele và David Freidel đã rút ra kết luận là người Maya \"chưa từng thai nghén bất kỳ ý nghĩ nào về ngày tận thế như nhiều người đã giả thuyết.\" Susan Milbrath, phụ trách bảo tàng nghệ thuật châu Mỹ Latinh và khảo cổ học tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Florida, nói rằng \"chúng tôi không có những ghi chép hoặc tin tức gì cho rằng [người Maya] đã từng nghĩ về một ngày chấm dứt thế giới vào năm 2012\". Sandra Noble, giám đốc điều hành của \"Foundation for the Advancement of Mesoamerican Studies\" ở Crystal River (Florida) nói rằng, đối với người Maya đó sẽ là một ngày lễ rất lớn để kỷ niệm ngày cuối cùng của một chu kỳ bình an vô sự. Về việc ngày 21 tháng 12 năm 2012 bị xem như là một sự kiện hoặc thời điểm của tận thế, Sandra cho rằng \"đó là một sự bịa đặt hoàn toàn, và là một cơ hội để nhiều người kiếm chác\". Còn ông E. Wyllys V Andrews, giám đốc Đại học Tulane viện nghiên cứu Trung Mỹ (MARI) cho rằng: \"sẽ có một chu kỳ tiếp theo. Chúng ta biết rằng người Maya đã nghĩ là có một chu kỳ trước chu kỳ này, và điều đó có nghĩa là họ hoàn toàn yên tâm với một chu kỳ tiếp theo sau chu kỳ này\".\nMối liên hệ của người Maya với b'ak'tun 13.\nCộng đồng người Maya hiện nay không chú trọng nhiều đến \"b'ak'tun\" 13. Mặc dù, Lịch chu kỳ vẫn được vài nhóm người Maya trên cao nguyên Guatemala sử dụng, nhưng cách tính lịch \"Long Count\" này đã được xem như là một sử dụng độc nhất bởi người Maya cổ đại mà các nhà khảo cổ vừa chỉ mới khám phá gần đây. Một bô lão người Maya là Apolinario Chile Pixtun và nhà khảo cổ học người México là ông Guillermo Bernal đều nhấn mạnh rằng \"ngày tận thế\" là một khái niệm của phương Tây, nó có rất ít hoặc chẳng có ảnh hưởng gì với đức tin của người Maya. Bernal nghĩ rằng ý tưởng đó đã được người phương Tây gán ghép cho người Maya bởi vì những chuyện hoang đường của họ đang dần \"cạn kiệt\". Nhà khảo cổ học người Maya, Jose Huchm nói: \"nếu giả sử tôi đi đến những cộng đồng nói tiếng Maya và hỏi họ những gì sẽ xảy ra trong năm 2012, họ sẽ chẳng có bất kỳ một ý kiến nào. Thế giới sẽ chấm hết? Họ sẽ chẳng thèm tin bạn đâu. Chúng tôi có nhiều mối bận tâm thực sự ở hiện tại, như là mưa chẳng hạn\".\nChẳng có gì là chắc chắn chứng minh người Maya cổ đại đã quan trọng hóa \"b'ak'tun\" 13. Hầu hết các sử liệu chính xác từ các bảng khắc ghi chép của người Maya cổ đại để lại không có tuyên bố nào hàm ý dự đoán hay tiên tri. Tuy vậy, có 2 chỗ trong sử liệu của người Maya có thể có đề cập đến sự kết thúc của \"b'ak'tun\" thứ 13, đó là: \"Đài tưởng niệm Tortuguero 6\" và \"the Chilam Balam\".\nTortuguero.\nKhu di tích khảo cổ Tortuguero nằm ở cực Nam Tabasco-México có từ thế kỷ thứ VII, bao gồm hàng loạt các chữ khắc trên bia chủ yếu là để vinh danh vị vua đương thời là \"Bahlam Ajaw\". Một dòng chữ trên đài tưởng niệm Tortuguero 6 có liên quan đến \"b'ak'tun\" 13. Nó đã bị xóa đi một phần, Sven Gronemeyer và Barbara MacLeod đã đưa ra bản dịch hoàn chỉnh nhất:\nRất ít điều được biết về thần Bolon Yokte. Theo một bài viết của nhà Maya học Markus Eberl và Christian Prager trong Báo cáo nhân chủng học, tên của ông bao gồm các yếu tố: \"số chín\", 'te-OK '(vẫn có giải nghĩa của chữ này), và \"thần \". Sự rắc rối của những chữ khắc quá xưa này cho thấy đây là một vị thần rất cổ và những chữ này không giống với những tài liệu sao chép hiện có. \"B'olon-Yokte\" cũng xuất hiện trong các bảng khắc khác được tìm thấy tại Palenque, Usumacinta; và La Mar và được miêu tả như là một vị thần của xung đột, chiến tranh và địa ngục. Trong một tấm bia, thần \"B'olon-Yokte\" được trang trí với một sợi dây quanh cổ, và trong một tấm bia khác thì với túi hương, cả hai vật này đều là vật cúng tế trong các dịp tất niên.\nDựa trên những quan sát các nghi thức hiện đại của người Maya, Gronemeyer và MacLeod đã xác nhận là tấm bia đề cập đến một lễ kỷ niệm, trong đó một người đóng vai 'K'uh Bolon Yokte' sẽ mặc lễ phục và diễu hành quanh một khu vực. Gronemeyer và MacLeod nhấn mạnh sự liên hệ giữa Bolon Yokte 'K'uh với \"b'ak'tun\" thứ 13 trong tấm bia này dường như là rất quan trọng. Lễ kỉ niệm này sẽ khác những buổi lễ thông thường, chẳng hạn như dựng nhiều tấm bia, đốt hương trầm v,v. Gronemeyer và MacLeod cũng khẳng định sự kiện này được lên kế hoạch dành cho năm 2012 chứ không phải cho thế kỷ XVII.\nNhững ngày sau b'ak'tun thứ 13.\nNhững bản thảo của người Maya đôi khi cũng đề cập đến việc dự đoán các sự kiện xảy ra trong tương lai hoặc đánh dấu những lễ kỷ niệm ở những ngày sau b'ak'tun thứ 13. Trên tấm khắc phía tây của đền \"Temple of Inscriptions\" () ở Palenque, một phần của văn bản này đề cập đến tương lai ở chu kỳ thứ 80 của vòng lịch 52 năm tính từ lễ lên ngôi của vua \"K'inich Janaab' Pakal\". Lễ lên ngôi của vua Pakal xảy ra vào ngày 9.9.2.4.8, tương đương với ngày 27 tháng 7 năm công nguyên 615 theo lịch Gregorius đón trước. Dòng chữ bắt đầu với ngày sinh của Pakal 9.8.9.13.0 (ngày 24 tháng 3, năm công nguyên 603) và sau đó cộng thêm vào ngày này các số 10.11.10.5.8, tương đương với ngày 21 tháng 10, năm công nguyên 4772, tức 4.000 năm sau thời đại của vua Pakal.\nMột ví dụ khác là trên bia số 1 tại Coba, một ngày , tức 20 lần đơn vị b'ak'tun, tương đương 4,134105 × 1028 (41x1027) năm trong tương lai, hay cũng có thể là trong quá khứ. Ngày này gấp 3x1018 lần tuổi của vũ trụ đã được xác định bởi các nhà vũ trụ học.\nĐức tin của phong trào New Age.\nNhiều sự quả quyết về năm 2012 đều là một hình thức của những người theo thuyết Maya thần bí, một sự góp nhặt chưa được hệ thống hóa những đức tin của phong trào New Age về sự thông thái và yếu tố tâm linh của người Maya xưa. Nhà nghiên cứu thiên văn học cổ đại, Anthony Aveni nói rằng trong văn học của người Maya cổ luôn đề cao sự cân bằng của vũ trụ cho nên người Maya không thể vẽ ra hiện tượng năm 2012 được vì điều đó là mâu thuẫn với tư tưởng truyền thống của họ. Thay vào đó, hiện tượng này gắn liền với các quan niệm của người Mỹ, chẳng hạn như phong trào New Age, thuyết thời đại hoàng kim, hoặc tin vào sự tồn tại của những kiến thức bí mật có từ cổ xưa hay từ những nơi xa xôi nào đó. Các chủ đề văn học khai thác về hiện tượng 2012 bao gồm 'sự nghi ngờ đối với nền văn hóa chính thống phương Tây', ý tưởng về một sự phát triển của tâm linh, và khả năng dẫn đắt thế giới vào phong trào New Age bằng những ví dụ cá nhân hoặc những kiến thức đã được hợp nhất vào. Mục đích của nền văn học này không phải là để cảnh báo mọi người về cái chết cận kề, mà để thúc đẩy những sự đồng cảm phản văn hóa, tính cho cùng là thúc đẩy chính trị xã hội và chủ nghĩa tâm linh tích cực. Aveni, một nhà nghiên cứu về phong trào New Age và các cộng đồng những người tìm kiếm sự thông minh ngoài Trái Đất (SETI) đã cho rằng những chuyện kể về năm 2012 là sản phẩm của một xã hội 'bị cách ly': \"Khi chúng ta không thể tự tìm câu trả lời thuộc về tâm linh cho những thắc mắc lớn về cuộc đời, chúng ta sẽ quay sang những thực thể tưởng tượng ở bên ngoài, nằm ở một không thời gian nào đó rất xa - chỉ các thực thể này mới có thể sở hữu được những kiến thức cao cấp\".\nNăm 1975, sự việc kết thúc b'ak'tun đã trở thành chủ đề nghiên cứu của một số tác giả New Age, những người tin rằng điều này sẽ tương ứng với một \"sự thay đổi ý thức\" toàn cầu. Trong cuốn sách \"Mexico Mystique: The Coming Sixth Age of Consciousness\", Frank Waters liên kết ngày 24 tháng 12 năm 2011 của Coe, với thuật chiêm tinh và những lời tiên tri của thổ dân Hopi, trong khi đó thì cả Argüelles José (trong cuốn \"The Transformative Vision\") và Terence McKenna (trong \"The Invisible Landscape\") đều bàn luận về tầm quan trọng của năm 2012, nhưng không đưa ra một ngày cụ thể. Năm 1987, Argüelles sau khi nắm bắt được sự kiện \"Harmonic Convergence\" () đã định ra ngày 21 tháng 12 trong cuốn \"The Mayan Factor: Path Beyond Technology\", ông tuyên bố vào ngày đó Trái Đất sẽ đi qua một \"chùm ánh sáng\" rất lớn từ trung tâm của Ngân hà, và cho rằng người Maya đã liên kết lịch của họ với một dự đoán về sự kiện đó. Aveni bác bỏ tất cả các tác giả này.\nSự thẳng hàng trong Ngân hà.\nKhông có sự kiện thiên văn đáng chú ý nào vào ngày bắt đầu của lịch Long Count. Tuy nhiên,từ giữa những năm 1990, tác giả chuyên viết về chủ nghĩa bí truyền John Major Jenkins đã khẳng định người Maya cổ đại cố tình ràng buộc ngày cuối cùng trong lịch của họ với ngày Đông chí năm 2012, tức là ngày 21 tháng 12. Ngày này phù hợp với một ý tưởng của ông về sự \"thẳng hàng trong Ngân hà\".\nTuế sai.\nTrong hệ Mặt trời, các hành tinh và Mặt Trời nằm trên cùng một mặt phẳng, được gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Theo quan sát của chúng ta từ Trái Đất, hoàng đạo là đường đi của Mặt Trời vẽ trên bầu trời trong một năm. Mười hai chòm sao cùng nằm trên hoàng đạo được gọi là mười hai cung hoàng đạo, hằng năm mặt trời lần lượt đi qua tất cả mười hai chòm sao này, theo thời gian, chu kỳ của mặt trời sẽ chậm lại 1 độ vào mỗi 72 năm, hay chậm hẳn 1 cung hoàng đạo mỗi 2160 năm. Sự thay đổi này gọi là \"tuế sai\", nguyên nhân là do trục Trái Đất bị lắc nhẹ khi quay, xảy ra giống hiện tượng tiến động của con quay. Sau khoảng 26000 năm thì đỉnh cực Bắc của trục Trái Đất vẽ đủ 1 vòng tròn, hay mặt trời di chuyển trên đường hoàng đạo sẽ bị chậm lại đúng 1 vòng 360 độ. Trong chiêm tinh học truyền thống phương Tây, tiến động được đo từ ngày xuân phân ở Bắc bán cầu, hoặc tại thời điểm mà tại đó Mặt Trời nằm chính xác ở khoảng giữa điểm thấp nhất và cao nhất trên bầu trời. Hiện nay, vị trí của mặt trời ở điểm xuân phân đang ở trong chòm sao Song Ngư và đang chuyển động ngược lại đến chòm sao Bảo Bình. Điều này báo hiệu sự kết thúc của một thời kỳ chiêm tinh (thời kỳ của Song Ngư) và bắt đầu vào một thời kỳ khác (thời kỳ của Bảo Bình).\nTương tự như vậy, vị trí thấp nhất của mặt trời (đông chí), hiện đang trong chòm sao Nhân Mã, một trong hai chòm sao trong đó các cung hoàng đạo giao cắt với dải Ngân hà. Hàng năm, vào ngày đông chí, Mặt Trời và dải Ngân hà (quan sát từ mặt đất) xếp thẳng hàng, và cứ mỗi năm, tuế sai gây ra một sự dịch chuyển nhỏ vị trí biểu kiến ​​của Mặt Trời trong dải Ngân Hà.\nChủ nghĩa thần bí.\nJenkins cho rằng lịch của người Maya dựa trên quan sát của họ về Great Rift, là một nhóm các đám mây bụi tối chia dọc theo dải sáng của Ngân hà, mà người Maya gọi nó là \"Xibalba be\" hay \"đường tối\" Jenkins cho rằng người Maya đã nhận biết được nơi giao nhau của đường hoàng đạo với Great Rift và đánh dấu vị trí này trên bầu trời như một điểm rất quan trọng trong thiên văn học. Theo giả thiết này, do tuế sai, Mặt trời sẽ thẳng hàng một cách chính xác với đường xích đạo của Ngân hà vào ngày đông chí năm 2012. Jenkins cho rằng người Maya cổ đại đã dự đoán trước được hiện tượng này và xem nó như là một điềm báo về một sự chuyển đổi hoàn toàn tâm linh nhân loại. Những người thuộc phong trào New Age đề xuất ra giả thiết này còn lý luận rằng người Maya vẽ lịch của họ với mục đích chuẩn bị cho những sự kiện quan trọng sẽ xảy ra cho thế giới cũng giống như các nhà chiêm tinh học sử dụng vị trí của các ngôi sao và các hành tinh để đưa ra những tuyên bố về các sự kiện tương lai. Jenkins còn dẫn chứng về sự hiểu biết của các pháp sư Maya cổ đại về trung tâm Ngân hà bằng các luận điểm như họ đã biết sử dụng nấm psilocybin (một loại nấm thần bí có thể đem lại cảm giác về tâm linh), những con cóc có chứa chất tác động lên trí tuệ và hành vi, và các chất ma túy khác. Jenkins còn liên kết \"Xibalba be\" với \"cây thế giới\", dựa trên các nghiên cứu về vũ trụ học hiện đại (không phải cổ đại) của người Maya.\nNhững chỉ trích.\nCác nhà thiên văn như David Morrison cho rằng xích đạo của Ngân hà là một đường hoàn toàn không cố định, và không bao giờ có thể vẽ ra một cách chính xác được bởi vì không thể xác định ranh giới chính xác của dải Ngân hà, mà tùy thuộc vào độ sáng rõ khi quan sát. Jenkins cho biết ông đã thu được kết quả về vị trí của đường xích đạo Ngân hà từ những quan sát thực hiện ở độ cao , là độ cao có thể cung cấp một hình ảnh rõ nét hơn về dải Ngân hà so với điều kiện quan sát của người Maya. Hơn nữa, khi Mặt Trời lùi nửa độ trên cung hoàng đạo, nó cần phải thêm 36 năm nữa để tiến động đến một điểm mới. Jenkins nhấn mạnh rằng ngay cả khi vị trí của đường xích đạo Ngân hà được xác định chắc chắn thì đường này phải đi qua tâm của Mặt Trời một cách chính xác nhất vào năm 1998.\nKhông có bằng chứng rõ ràng rằng người Maya cổ đại đã nhận thức được tiến động. Một số học giả Maya, như Barbara MacLeod, Michael Grofe, Eva Hunt, Gordon Brotherston, và Anthony Aveni, đã cho rằng một số ngày thánh của người Maya tính thời gian theo chu kỳ tuế sai, nhưng quan điểm học thuật về đề tài này vẫn còn chưa thống nhất. Ngoài ra có ít bằng chứng về khảo cổ hay lịch sử chứng minh rằng Maya xem trọng về các điểm chí hay điểm phân. Cũng có thể là chỉ có người Trung Mỹ thời kỳ đầu cổ đại mới quan sát thấy các điểm chí, nhưng điều này cũng là một vấn đề tranh cãi giữa các nhà Maya học. Ngoài ra không có bằng chứng nào cho thấy người Maya cổ đại quan trọng hóa dải Ngân hà, không có bất kỳ hình tượng trong hệ thống chữ viết của họ để đại diện cho Ngân hà, cũng không có bảng thiên văn hoặc bảng niên đại nào gắn liền với nó.\nSóng thời gian không và Kinh Dịch.\n\"Sóng thời gian không\" là một công thức thần số học dùng để tính toán sự lên xuống của \"tính mới\", được định nghĩa là lượng tăng lên theo thời gian trong liên kết của vũ trụ, hoặc là sự phức tạp có tổ chức. Theo Terence McKenna, vũ trụ có một điểm hút định hướng tại thời điểm kết thúc của thời gian có thể làm tăng sự liên kết, cuối cùng đạt đến một điểm kỳ dị vô cùng phức tạp trong năm 2012, lúc đó thì bất cứ điều gì có thể tưởng tượng được sẽ xuất hiện đồng thời. Ông hình thành ý tưởng này trong những năm từ đầu đến giữa thập niên 1970 sau khi sử dụng nấm psilocybin và DMT (Dimethyltryptamine).\nMcKenna biểu diễn \"tính mới\" bằng một chương trình máy tính để hiển thị một dạng sóng gọi là \"sóng thời gian không\" (Timewave zero) hoặc \"sóng thời gian\". Dựa trên những giải thích của McKenna về 64 quẻ của Kinh Dịch, các biểu đồ hiển thị các giai đoạn lớn của \"tính mới\" tương ứng với những thay đổi lớn trong sự tiến hóa sinh học và văn hóa xã hội của nhân loại. Ông tin rằng các sự kiện ở một thời điểm nhất định nào đó đều có mối quan hệ đệ quy đến sự kiện tại thời điểm khác, và ông chọn vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima là cơ sở để tính toán ngày tận thế của ông vào tháng 11 năm 2012. Sau đó, khi ông phát hiện ra ngày này gần với việc kết thúc b'ak'tun thứ 13 của lịch Maya, nên ông đã sửa lại giả thiết của mình để cả hai ngày đó khớp với nhau.\nCác khái niệm khác.\nTại Ấn Độ, guru Kalki Bhagavan đã cho rằng năm 2012 như là một \"hạn chót\" cho sự khai ngộ của loài người đã bắt đầu ít nhất là từ năm 1998. Hơn 15 triệu người coi Bhagavan như là hóa thân của thần Vishnu và cho rằng năm 2012 đánh dấu sự kết thúc của chu kỳ Kali Yuga, hoặc thời đại suy đồi.\nTrong năm 2006, tác giả Daniel Pinchbeck đã phổ biến quan niệm của New Age về ngày này trong cuốn \"2012: The Return of Quetzalcoatl\", trong đó ông đã liên kết giữa \"b'ak'tun 13\" với những đức tin về vòng tròn trên cánh đồng, về những vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh, và những khám phá cá nhân của ông sau khi sử dụng entheogen và thể nghiệm giao tiếp với linh hồn (mediumship). Pinchbeck cho là mình thấy rõ được \"một hiện thực đang ngày càng gia tăng là chủ nghĩa duy vật kèm theo cái thế giới quan dựa trên lý trí và chủ nghĩa kinh nghiệm của nó đã đến hồi kết thúc... chúng ta đang ở trên ranh giới của thời kỳ quá độ đến một giáo hệ của ý thức, một giáo hệ trực giác hơn, huyền bí hơn và có niềm tin cũng như giao tiếp với thế giới tâm linh nhiều hơn (shamanic)\".\nCuốn sách \"Atlantis và 2012: Khoa học về các Nền văn minh bị lãng quên và những lời tiên tri của người Maya\", của Frank Joseph được xuất bản vào năm 2010, đã đưa ra mối liên hệ giữa những lời tiên tri của người Maya về ngày 21 tháng 12 năm 2012 với huyền thoại về các lục địa đã mất Atlantis và Lemuria; tác giả cho rằng những kiến thức về một trận đại hồng thủy xảy ra trong quá khứ đã được chính người Maya cổ đại và Ai Cập cổ đại truyền lại. Joseph kết nối các kiến thức này với câu chuyện về chiếc \"rương đựng thánh tích\" (Ark of the Covenant), ông cho rằng chiếc rương này đã bị Moses đánh cắp từ kim tự tháp Kheops, sau đó được các hiệp sĩ dòng Đền mang từ Jerusalem đến Mỹ, và bây giờ nó được giấu trong một hang động ở Illinois, chờ đợi người ta phát hiện ra nó để mở ra một thời đại mới vào năm 2012.\nBắt đầu từ năm 2000, một số tín hữu theo thuyết huyền bí đã hành hương đến ngôi làng nhỏ ở Bugarach của Pháp với dân số chỉ 189 người, họ kết luận rằng núi \"Pic de Bugarach\" của vùng này là vị trí lý tưởng để các sự kiện biến đổi về thời tiết sẽ xảy ra vào năm 2012. Năm 2011, thị trưởng Jean-Pierre Delord đã bắt đầu bày tỏ những lo ngại với báo chí quốc tế vì thị trấn nhỏ này sẽ bị tràn ngập bởi hàng ngàn du khách tràn về trong năm 2012, thậm chí ông còn có ý gọi đến quân đội.\nCác giả thuyết về ngày tận thế.\nQuan điểm về ngày tận thế vào năm 2012, đã truyền sang nhiều phương tiện truyền thông, miêu tả sự kết thúc của thế giới hoặc sự kết thúc nền văn minh nhân loại vào ngày đó. Quan điểm này được phát tán bởi các trang tin vịt trên internet, đặc biệt là trên Youtube. Kênh History Channel đã phát sóng một vài tập của loạt phim đặc biệt về ngày tận thế bao gồm luôn cả những phân tích các giả thuyết về năm 2012, như những phim \"Decoding the Past\" (Giải mã quá khứ) (2005–2007), \"2012, End of Days\" (2012, ngày tận thế) (2006), \"Last Days on Earth\" (Những ngày cuối cùng trên địa cầu) (2006), \"Seven Signs of the Apocalypse\" (7 dấu hiệu của tận thế) (2007), và \"Nostradamus 2012\" (2008). Kênh Discovery Channel cũng chiếu bộ phim \"2012 Apocalypse\" (2012 ngày tận thế) trong năm 2009, đưa ra các giả thuyết về một cơn bão từ lớn, đảo cực địa từ, động đất, siêu núi lửa, và các sự kiện tự nhiên mạnh mẽ khác có thể xảy ra vào năm 2012. Trong cuốn \"Fingerprints of the Gods\" (Dấu vân tay của các vị thần), tác giả Graham Hancock đã giải thích những nhận xét của Coe trong cuốn \"Breaking the Maya Code\" (giải mã bí ẩn Maya) như là bằng chứng cho lời tiên tri của một trận đại hồng thủy toàn cầu.\nNhững sắp xếp thẳng hàng khác.\nMột số người đã giải thích thuyết mạt thế của Jenkins, và họ đã tuyên bố rằng khi sự thẳng hàng trong Ngân hà xảy ra, bằng cách nào đó sẽ tạo nên một sự liên kết giữa Mặt trời và các siêu hố đen ở trung tâm Ngân hà của chúng ta (được gọi là \"Sagittarius A*\"), do đó tạo ra sự tàn phá trên Trái Đất. Trên thực tế, sự sắp xếp trong Ngân hà theo dự đoán của Jenkins đã xảy ra vào năm 1998, đường di chuyển của Mặt trời qua các cung hoàng đạo như được quan sát từ Trái Đất không đưa nó tới trung tâm Ngân hà thực sự, mà chếch lên phía trên nhiều độ. Ngay cả khi điều này không chính xác, Sagittarius A* cách Trái Đất 30,000 năm ánh sáng, và nó cần phải gần hơn 6 triệu lần nữa để có thể gây ra bất cứ sự phá vỡ trọng trường nào lên Trái Đất thuộc Thái Dương hệ. Những giả thuyết này của Jenkins đã được đưa vào bộ phim tài liệu \"Giải mã quá khứ\" của kênh truyền hình History Channel. Tuy nhiên, Jenkins cũng phàn nàn về trường hợp một tiểu thuyết gia chuyên về đề tài khoa học viễn tưởng - đồng tác giả của \"Giải mã quá khứ\" đã mô tả bộ phim này như là \"45 phút cường điệu trơ trẽn về ngày tận thế và thuyết duy cảm ngu xuẩn\".\nMột số người tin tưởng vào ngày tận thế năm 2012 đã sử dụng thuật ngữ \"sự thẳng hàng trong Ngân hà\" để mô tả một hiện tượng rất khác biệt đã được đề xuất bởi một số nhà khoa học nhằm giải thích một kiểu tuyệt chủng hàng loạt được tìm thấy trong các hóa thạch. Theo giả thuyết này thì hiện tượng tuyệt chủng hàng loạt không phải ngẫu nhiên mà theo chu kỳ mỗi 26 triệu năm. Để giải thích cho điều này, người ta đưa ra giả thuyết cho rằng do sự dao động theo phương thẳng đứng của Mặt trời khi quay quanh tâm ngân hà gây ra, bởi vì trong quỹ đạo này nó sẽ đi xuyên qua mặt phẳng Ngân hà. Khi Mặt trời nằm ngoài mặt phẳng Ngân hà, thì ảnh hưởng do lực thủy triều của Ngân hà tác động lên nó yếu hơn. Tuy nhiên, theo chu kỳ mỗi 20-25 triệu năm, khi Mặt trời sẽ trở lại đĩa Ngân hà, nó sẽ nhận những tác động thủy triều của Ngân hà mạnh hơn, và theo những mô hình toán học, sự kiện này sẽ làm tăng số lượng các sao chổi của đám mây Oort bay vào Thái Dương hệ lên gấp 4 lần, dẫn đến sự gia tăng khả năng tàn phá của sao chổi. Tuy nhiên, sự \"thẳng hàng\" này diễn ra trong hàng chục triệu năm và không thể xác định được thời điểm chính xác. Bằng chứng cho thấy rằng Mặt trời mới giao cắt với đĩa Ngân hà tại 3 triệu năm trước và bây giờ nó đang di chuyển ra xa hơn.\nMột sự thẳng hàng thứ 3 được đề nghị là một số loại giao hội của các hành tinh sẽ xảy ra vào ngày 21 tháng 12 năm 2012. Tuy nhiên, sẽ không có sự thẳng nào vào ngày đó. Nhiều hành tinh đã nằm thẳng hàng xảy ra trong cả hai năm 2000 và 2010, và cả hai đều chẳng gây kết quả xấu nào đối với Trái Đất. Sao Mộc là hành tinh lớn nhất trong hệ mặt trời..; lớn hơn tất cả các hành tinh khác cộng lại. Khi Sao Mộc đến gần vị trí xung đối, thì Trái Đất sẽ chịu lực hấp dẫn từ Mặt Trăng ít hơn 1% so với thường ngày.\nTrên tờ báo Ý \"La Stampa\" ngày 13 tháng 10 năm 2009, nhà báo Paolo Manzo nêu ra một biểu đồ về sự thẳng hàng \"của Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Thổ, một cảnh tượng thiên văn vô tiền khoáng hậu\" vào ngày định mệnh. Bài viết không đề cập hay tham khảo bất kỳ nguồn tài liệu khoa học chính xác và đáng tin cậy nào, trong khi không một nhà thiên văn học hay chương trình lịch thiên văn trực tuyến nào cho thấy sẽ xuất hiện sự giao hội, và thực tế, họ dự đoán rằng 3 hành tinh trên sẽ nằm ở 3 vị trí dễ dàng nhận thấy khi quan sát từ Trái Đất, như có thể suy ra từ bảng dưới đây, biểu thị các tọa độ thiên văn của Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ trong hệ thống tham chiếu xích đạo địa tâm.\nTrong tháng 5 năm 2000 cũng đã xảy ra một sự liên kết các hành tinh như vậy và đã gây nên một cảm giác lo lắng trong công chúng về sự kiện này, khiến cho các cơ quan khoa học đầu não Hoa Kỳ phải thông cáo báo chí rộng rãi để khẳng định không có bất cứ sự nguy hiểm nào.\nĐịa từ đảo ngược.\nMột quan niệm khác gắn với hiện tượng năm 2012 liên quan đến sự đảo cực của địa từ (những người ủng hộ thuyết này thường lầm là sự đảo ngược địa cực địa lý), có thể được kích hoạt bởi một khối tai lửa mặt trời (\"solar flare\") rất lớn sẽ tạo ra một năng lượng bằng tới 100 tỷ quả bom nguyên tử có kích thước bằng với quả bom thả xuống Hiroshima. Niềm tin này được củng cố bằng những quan sát về sự suy yếu từ trường của Trái Đất, có thể dẫn đến một sự đảo ngược của cực từ Bắc Nam.\nTuy nhiên nhiều nhà phê bình cho rằng sự đảo ngược địa từ phải mất đến 7.000 năm mới hoàn thành, và không biết cụ thể sẽ bắt đầu vào ngày nào. Hơn nữa, Hoa Kỳ và Cơ quan Hải dương và Khí quyển Hoa Kỳ (NOAA) dự đoán năng lượng mặt trời sẽ đạt cao điểm vào tháng 5 năm 2013 chứ không phải là năm 2012, và nó sẽ tương đối yếu dưới mức năng lượng trung bình của những vết đen Mặt Trời. Trong mọi trường hợp, không có bằng chứng khoa học nào đưa ra sự liên quan giữa một khối năng lượng mặt trời cực đại với sự đảo ngược của địa từ, mà nó được hình thành hoàn toàn bởi chính những tác động nội hàm bên trong Trái Đất. Thay vào đó, năng lượng mặt trời chủ yếu gây ảnh hưởng đối với các vệ tinh nhân tạo và mạng truyền thông di động. David Morrison đã quy việc bùng nổ các ý tưởng về một cơn bão mặt trời là do nhà vật lý học, nhà phổ cập khoa học Michio Kaku vì đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn với Fox News rằng một mức đỉnh điểm năng lượng mặt trời vào năm 2012 có thể gây tai hại đối với các quỹ đạo của vệ tinh.\nHành tinh Nibiru.\nMột số những người ủng hộ thuyết tận thế vào năm 2012 cho rằng một hành tinh được gọi là Hành tinh X hay Nibiru sẽ va chạm hoặc đi ngang qua Trái Đất trong năm đó. Quan điểm này đã xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau từ năm 1995, sự kiện này ban đầu được dự kiến sẽ xảy ra vào năm 2003, nhưng đã bị bỏ đi vì chẳng có sự cố nào xảy ra vào ngày đó cả. Ý tưởng bắt nguồn từ những tuyên bố về sự hiệp thông với sự sống ngoài hành tinh, nhưng đã bị cười nhạo. Tính toán của các nhà thiên văn cho thấy vật thể này sẽ tiến rất gần đến Trái Đất mà mắt thường có thể nhìn thấy được trên bầu trời đêm.\nNhững thảm họa khác.\nNhững suy đoán khác về ngày tận thế 2012 có cả những tiên đoán của Dự án Web Bot - một chương trình máy tính dự đoán tương lai bằng phần mềm chat qua Internet. Tuy nhiên, những bình luận viên đã bác bỏ tuyên bố của những lập trình viên cho rằng họ đã dự đoán thảm họa thiên nhiên thành công - điều mà những chương trình chat không thể nào dự báo được, trái với những thảm họa do con người gây ra như sự sụp đổ thị trường chứng khoán. Ngoài ra hiện tượng 2012 còn bị gắn kết một cách thiếu cơ sở với 1 khái niệm đã tồn tại khá lâu là vành đai Photon, dự báo một hình thức tương tác giữa Trái Đất và sao Alcyone, ngôi sao lớn nhất của chòm Tua Rua. Các nhà phê bình cho rằng photon không thể hình thành vành đai, hơn nữa, chòm Tua Rua nằm cách Trái Đất tới hơn 400 năm ánh sáng, không thể gây ảnh hưởng gì tới Trái Đất, và Thái Dương hệ thay vì lại gần chòm sao này, trên thực tế lại di chuyển ra xa hơn. \nMột số phương tiện truyền thông đã gắn kết khả năng siêu sao đỏ khổng lồ Betelgeuse có thể sẽ biến đổi thành một siêu tân tinh trong tương lai với hiện tượng 2012. Tuy nhiên, trong khi Betelgeuse chắc chắn đang trải qua hồi kết của cuộc đời, và sẽ chết như một siêu tân tinh, nhưng không có cách nào dự đoán thời điểm xảy ra sự kiện này trong vòng 100 000 năm. Một siêu tân tinh cần phải nằm cách Thái Dương hệ trong khoảng 25 năm ánh sáng mới có thể đe dọa Trái Đất. Betelgeuse cách khoảng 600 năm ánh sáng, vì thế siêu tân tinh của nó không ảnh hưởng gì tới Trái Đất.\nMột quan điểm khác viện dẫn tới sự xâm lăng của người ngoài hành tinh. Tháng 12 năm 2010, một bài báo được xuất bản lần đầu tại examiner.com và sau đó được tham chiếu trong phiên bản tiếng Anh của Pravda đã đăng tải bức ảnh \"Second Digitalized Sky Survey\" làm bằng chứng khẳng định rằng SETI đã phát hiện ba tàu vũ trụ lớn sẽ đến Trái Đất vào năm 2012. Nhà thiên văn học và người theo chủ nghĩa hoài nghi Phil Plait lưu ý rằng bằng cách sử dụng các công thức góc nhỏ, người ta có thể xác định rằng nếu vật thể trong bức ảnh này to như thế, thì nó sẽ phải ở gần Trái Đất hơn cả Mặt Trăng, điều này có nghĩa là có thể nó đã đến đây rồi.\nẢnh hưởng.\nTheo tính toán của người Maya thì ngày 21 tháng 12 năm 2012 là ngày lịch của họ kết thúc. Đó là khi mặt trời cũng sẽ nằm chính giữa trung tâm Ngân Hà trong Thái Dương Hệ cứ mỗi 26,000 năm, và ngày này cũng trùng vào ngày Đông chí. Chính vì những hiện tượng trùng hợp này người ta cho rằng nguồn năng lượng chiếu vào Trái Đất sẽ bị cản trở, và khoảng giữa của Trái Đất sẽ bị kéo phình ra do lực kéo từ bên ngoài Trái Đất gây ra. Mặt đất lúc đó cũng sẽ bị thay đổi vị trí, những vùng đất liền của các đại lục sẽ bị lôi kéo về phía những miền khác do ảnh hưởng của lực hút từ ngoài Trái Đất của Ngân hà. Khi đó sẽ xảy ra vô số nạn núi lửa, các trận sóng thần lúc đó sẽ nổi lên vô số, và nạn động đất cũng thế.\nMột số mặt của quan điểm này cũng phần nào được xác nhận bởi cơ quan NASA khi họ tuyên bố về hiện tượng những tia lửa và đốm đen từ mặt trời toả ra nhất loạt sẽ gây ra thảm cảnh cúp điện liên tục và các hệ thống vệ tinh nhân tạo sẽ bị cản trở vào năm 2012. Trong bản tường trình của NASA vào năm 2002 cho thấy Trái Đất bị đã phình ra ở khúc giữa từ 1998, với hình ảnh chứng minh do hệ thống vệ tinh chụp được.\nPhản ứng.\nHiện tượng này đã làm sản sinh ra hàng trăm cuốn sách và hàng ngàn website. \"Hãy hỏi nhà sinh vật học thiên thể\" - một website công cộng của NASA đã nhận được hơn 5000 câu hỏi của công chúng về chủ đề này từ 2007, một số hỏi rằng liệu họ có nên giết chính mình, con cái và thú nuôi của họ. Nhiều tài liệu tham khảo hư cấu hiện đại cho rằng ngày 21 tháng 12 là ngày của một sự kiện thảm họa, bao gồm cả cuốn sách bán chạy nhất 2009, \"Biểu tượng thất truyền\" của Dan Brown. Ann Martin, người chủ của trang web về thuật chiêm tinh ở Hoa Kỳ đã nhận được vô số email của rất nhiều người trên thế giới lo ngại về vấn đề này và những cậu bé nhỏ viết than phiền rằng các cậu quá trẻ để phải chết. Về phía Giáo hội Công giáo, trong một buổi tiếp kiến chung tại Quảng trường Thánh Phêrô hôm 18 tháng 11 năm 2012, Giáo hoàng Biển Đức XVI đã bác bỏ về tin đồn này, ông cho rằng Chúa Giêsu muốn khuyên các môn đệ ở mọi thời đại hãy thôi tò mò về ngày tháng và các dự báo nhưng muốn ban cho họ chìa khóa mở ra con đường đúng đắn để sống trong hôm nay và ngày mai nhằm bước vào sự sống vĩnh hằng. Ngay cả linh mục José Gabriel Funes (Dòng Tên) là giám đốc Đài quan sát thiên văn của Vatican cũng nói rằng không cần phải thảo luận về nền tảng khoa học của những lời khẳng định này vì rõ ràng đó là sai lạc. Cho đến nay, chưa có ghi nhận nào cho thấy người Công giáo sẽ \"đối phó\" trước sự kiện 21 tháng 12 năm nay, họ vẫn chỉ chuẩn bị đón Lễ Giáng Sinh như mọi năm. Tại Việt Nam, dù cho nhiều nhà khoa học và tổ chức nổi tiếng như NASA đều phủ nhận là không có ngày tận thế nhưng rất nhiều người vẫn sợ hãi và hoang mang. Ông Nguyễn Đức Phường, Hội thiên văn vũ trụ Việt Nam nếu ra một lý thuyết giải thích lý do tại sao vụ tận thế này lại có rất nhiều người quan tâm so với những vụ tận thế đã bị \"hụt\" khác. Ông nghĩ rằng bởi vì do tốc độ phát triển của thế giới hiện nay quá nhanh và các thông tin được truyền tải một cách rất nhanh và rộng do đó nhiều người đã quá nhạy cảm với những thông tin nhận được đặc biệt những thông tin sốc gây tò mò lại được quan tâm đặc biệt hơn nữa. Ông cũng đề nghị rằng chỉ nên tin tưởng những thông tin được phát ngôn từ những tổ chức hay nhà khoa học uy tín.\nVăn hóa.\nNổi bật nhất là bộ phim \"2012\" được ra mắt vào tháng 11 năm 2009, do đạo diễn Roland Emmerich chỉ đạo thực hiện. Bộ phim này được lấy cảm hứng từ hiện tượng 2012, và được quảng cáo trước khi phát hành bằng một chiến dịch \"Marketing tin đồn\" thông qua TV và những trang mang từ tổ chức hư cấu \"Vì sự tồn vong của loài người\" kêu gọi mọi người chuẩn bị cho đoạn kết của thế giới. Vì quảng cáo không hề đề cập gì tới bộ phim, nhiều người xem đã tin điều đó là thật và liên lạc với những nhà thiên văn học trong hoảng loạn. Dù chiến dịch quảng cáo trên bị chỉ trích nặng nề, song bộ phim đã trở thành một trong những phim thành công nhất năm đó, đem lại lợi nhuận khoảng 770 triệu USD trên toàn cầu.\nBộ phim được đề cử Oscar năm 2011 - Melancholia của Lars von Trier có nội dung nói về một hành tinh xuất hiện từ phía sau Mặt Trời chuẩn bị đâm vào Trái Đất. Người đứng đầu hãng Magnolia Pictures - đơn vị đã mua bộ phim cho biết trong một thông cáo báo chí, \"Thảm họa 2012 đang tới rất gần, giờ là lúc chuẩn bị cho bữa tối cuối cùng đậm chất điện ảnh\", nhắc đến hiện tượng này. Nó cũng là niềm cảm hứng cho một số bài hát khá thành công như \"2012 (It Ain't the End)\" (2010) của Jay Sean và \"Till the World Ends\" (2011) của Britney Spears." ]
tit - maya - lch - tri - baktun - gregory - xun - 2012 - im - hay
1
false
Tiết khí (Hán văn phồn thể: 節氣; Hán văn giản thể: 节气; bính âm: "Jiéqì") là 24 điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, mỗi điểm cách nhau 15°. Nó được sử dụng trong công tác lập lịch của các nền văn minh phương đông cổ đại như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên để đồng bộ hóa các mùa. Ở Việt Nam có một số học giả phân biệt tiết và khí. Họ cho rằng cứ một tiết lại đến một khí. Tuy nhiên để dễ hiểu, nhiều người vẫn gọi chung là "tiết khí" hoặc đơn giản chỉ là "tiết". Có hai yếu tố ảnh hưởng đến khoảng cách giữa hai tiết khí gần nhau, đó là: Nên khoảng cách giữa hai tiết khí kề nhau sẽ ở trong khoảng 14-16 ngày. Lấy ví dụ trong kỷ nguyên J2000 khoảng thời gian từ điểm thu phân đến điểm xuân phân ở Bắc Bán cầu là 179 ngày ngắn hơn khoảng thời gian từ điểm xuân phân đến điểm thu phân. Đó là do quỹ đạo hình elip của Trái Đất; vào tháng 1, Trái Đất ở gần Mặt Trời nhất (điểm cận nhật vào khoảng ngày 3 tháng 1) nên theo định luật Kepler nó phải chuyển động nhanh hơn thời kỳ ở xa Mặt Trời (điểm viễn nhật khoảng ngày 4 tháng 7). Chính vì thế nên nửa hoàng đạo từ điểm xuân phân đến điểm thu phân, Trái Đất đi hết 186 ngày. Nửa còn lại, từ điểm thu phân đến điểm xuân phân, chỉ cần 179 đến 180 ngày. Hai mươi tư tiết khí. Bảng dưới đây liệt kê hai mươi tư tiết khí trong lịch các nước phương Đông: Ghi chú: Người Trung Quốc có bài "Nhị thập tứ tiết khí" để ghi nhớ: Trong khoảng thời gian giữa các tiết khí như Đại tuyết, Tiểu tuyết trên thực tế ở miền bắc Việt Nam không có tuyết rơi. (Trừ một số đỉnh núi cao như Fansipan, Mẫu Sơn có thể có, tuy vậy tần số xuất hiện rất thấp và lại rơi vào khoảng thời gian của Tiểu hàn-Đại hàn). Các điểm diễn ra hay bắt đầu các tiết xuân phân, hạ chí, thu phân, đông chí trùng với các điểm "vernal equinox" (điểm xuân phân), "summer solstice" (điểm hạ chí), "autumnal equinox" (điểm thu phân), "winter solstice" (điểm đông chí) trong tiếng Anh đối với Bắc Bán cầu. Ý nghĩa. Phân tích các tiết khí theo bảng trên đây, có thể nhận thấy chúng có liên quan đến các yếu tố khí hậu và thời tiết rất đặc trưng cho vùng đồng bằng sông Hoàng Hà của Trung Quốc. Trong quá khứ nó đã từng được áp dụng để tính toán các thời điểm gieo trồng ngũ cốc sao cho phù hợp với các điều kiện thời tiết và khả năng sinh trưởng của chúng. Tuy vậy nó cũng có thể áp dụng được cho các vùng lân cận như khu vực phía bắc Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên v.v. Chính vì thế lịch Trung Quốc xưa còn có tên gọi là nông lịch tức lịch nông nghiệp. Phân định mùa. Theo tiết khí trong lịch Trung Quốc, các mùa bắt đầu bằng tiết khí có chữ "lập" trước tên mùa. Ví dụ: mùa xuân bắt đầu bằng tiết khí lập xuân. Tuy nhiên phân định này chỉ đúng cho thời tiết các nước ở Bắc Bán cầu Trái Đất xung quanh vùng Trung Hoa cổ đại. Tại các nước phương Tây, các mùa được phân định bằng các thời điểm như điểm xuân phân, điểm hạ chí, điểm thu phân và điểm đông chí. Trong thiên văn học, mùa trên các hành tinh nói chung cũng phân theo kiểu phương Tây. Ví dụ, mùa xuân trên Sao Hỏa bắt đầu vào điểm xuân phân (kinh độ Mặt Trời bằng 0) và kết thúc vào điểm hạ chí (kinh độ Mặt Trời bằng 90°). Tiểu tuyết, Đại tuyết tại Việt Nam. Mặc dù lịch Việt Nam cũng xem trọng 24 tiết khí giống như các nước Đông Á khác, trong đó có cả hiện tượng tuyết rơi vào mùa đông tuy nhiên trên thực tế gần như toàn bộ lãnh thổ Việt Nam lại không có tuyết rơi vào mùa đông ngoại trừ một vài nơi thuộc vùng núi cao phía bắc. Khoảng thời gian giữa hai tiết khí "tiểu tuyết" - "đại tuyết" (từ 21/11 đến 22/12) ngoại trừ một số đỉnh núi cao ở miền bắc Việt Nam như Fansipan, Mẫu Sơn có thể có tuyết rơi, tuy vậy khả năng tần xuất tuyết xuất hiện trong thời gian này lại rất thấp và nó lại rơi nhiều vào khoảng thời gian các tiết tiểu hàn-đại hàn tức là những tiết cuối của mùa đông. Điểm phân, chí. Thời điểm bắt đầu các phân, chí như xuân phân, hạ chí, thu phân, đông chí trùng với các điểm như sau ở Bắc bán cầu: Sử dụng tại Nam bán cầu. Do sự nghiêng trục tự quay của Trái Đất nên sự di chuyển của Trái Đất trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời tạo ra các mùa tại Nam bán cầu lệch 6 tháng với các mùa tại Bắc bán cầu. Các cặp mùa tại hai bán cầu tương ứng như sau: Vì thế, nếu một người nào đó muốn sử dụng khái niệm 24 tiết khí tại Nam bán cầu thì đơn giản xác định giá trị bằng kinh độ Mặt Trời - 180° (với các kinh độ Mặt Trời từ 180° trở lên) hoặc bằng kinh độ Mặt Trời + 180° (với các kinh độ Mặt Trời nhỏ hơn 180°) để tìm tiết khí tương ứng tại Nam bán cầu. Ví dụ, với kinh độ Mặt Trời là 135° (bắt đầu tiết lập thu tại Bắc bán cầu) thì giá trị cần tìm là 135° + 180° = 315°. Tra bảng trên sẽ thấy đó là bắt đầu tiết lập xuân tại Nam bán cầu. Tương tự, với kinh độ Mặt Trời là 210° (bắt đầu tiết sương giáng tại Bắc bán cầu) thì giá trị cần tìm là 210° - 180° = 30°. Tra bảng trên sẽ thấy đó là bắt đầu tiết cốc vũ tại Nam bán cầu.
514
514_tit_maya_lch_tri
[ "tit", "maya", "lch", "tri", "baktun", "gregory", "xun", "2012", "im", "hay" ]
[ "Cốc vũ là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 19 hay 20 tháng 4 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 30° (kinh độ Mặt Trời bằng 30°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là \"Mưa rào\".\nTheo quy ước, tiết cốc vũ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 19 hay 20 tháng 4 khi kết thúc tiết thanh minh và kết thúc vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 5 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết lập hạ bắt đầu.\nLịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và cốc vũ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Cốc vũ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 30°. Ngày diễn ra hay bắt đầu tiết cốc vũ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 19 hay 20 tháng 4 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước cốc vũ là thanh minh và tiết khí kế tiếp sau là lập hạ.\nTừ nguyên.\nChữ Hán: 穀雨.", "Nông lịch, thường gọi là âm lịch, là một loại âm dương lịch hiện vẫn còn được sử dụng ở các quốc gia và khu vực chịu ảnh hưởng của nền văn minh lúa nước. Về thực chất, nó là một loại âm dương lịch tạo ra bởi sự kết hợp của âm lịch thuần túy với thời điểm xảy ra tiết khí, là những cái được tính theo dương lịch. Lịch này hiện nay chủ yếu được sử dụng để tính toán các ngày lễ hội quan trọng như Tết Nguyên Đán hay Tết Trung thu, cũng như để tính toán ngày tháng cho các công việc trọng đại như cưới xin, khởi công xây dựng nhà cửa, mồ mả, mua sắm những đồ vật có giá trị lớn v.v... Điều này không chỉ thịnh hành ở nông thôn mà còn ở các thành phố lớn. Các loại nông lịch của người Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam, Singapore về cơ bản là gần giống như lịch của người Trung Quốc. Người Nhật Bản tính theo múi giờ UTC+9 cũng như quy tắc hơi khác, người Việt Nam tính theo UTC+7 cho nên có thể có sai biệt nào đó so với nông lịch Trung Quốc về thời điểm bắt đầu và kết thúc của mỗi tháng (tức số ngày trong tháng) cũng như tháng nhuận.\nỞ Trung Quốc, và các nước nêu trên, lịch này còn gọi là Hạ lịch (夏曆), \"nông lịch\" (農曆), khác với \"công lịch\" (公曆), hay \"tây lịch\" (西曆). Ngoài ra người ta còn gọi nó là \"cựu lịch\" (舊曆) sau khi \"tân lịch\" (新曆), tức lịch Gregory được sử dụng như là lịch chính thức.\nLịch sử.\nBắt đầu.\nTruyền thuyết về sự khởi đầu của lịch Trung Quốc cho rằng lịch này có từ trước thiên niên kỷ 1 TCN. Truyền thuyết cho rằng lịch Trung Quốc do Hoàng Đế phát minh. Nhưng chỉ là truyền thuyết vì lịch được tính theo văn hóa lúa nước bắt nguồn từ Bách Việt (lúc này không biết Bách Việt nằm ở đâu nếu không có người Hoa (Hạ) gọi tên họ như vậy). Ông là người cai trị Trung Quốc khoảng năm 2698-2599 trước Công Nguyên. Vị hoàng đế huyền sử thứ tư là Đường Nghiêu đã thêm vào các tháng nhuận. Chu kỳ 60 năm, Can-Chi (干支 \"gānzhī\"), được thêm vào cho các năm từ thế kỷ 1 TCN. Cho là Hoàng Đế lên ngôi khi đã lớn, năm đầu tiên của chu kỳ đầu tiên là năm 2637 TCN theo như Herbert A. Giles, trong quyển \"A Chinese-English Dictionary\" (1912), cũng như tất cả các tác giả phương Tây khác trong thời kỳ cuối của nhà Thanh. Vì thế cho đến năm 1984 thì chu kỳ hiện tại là 78. Tuy nhiên, một số tác giả hiện đại cho rằng năm đầu tiên của chu kỳ đầu tiên là 2697 TCN khi mà Hoàng Đế còn nhỏ, và nói là hiện nay chúng ta đang ở chu kỳ 79. Hai cách tính kỷ nguyên này đã tạo ra hai cách tính toán năm liên tục, tạo ra \"năm Trung Quốc\" là 4642 hay 4702 cho đến đầu năm 2005.\nTuy nhiên, các chu kỳ 60 được đánh số liên tục và các năm dựa trên chúng là phát kiến của các nhà niên đại học phương Tây—người Trung Hoa không sử dụng chúng. Họ sử dụng các chu kỳ không đánh số, mặc dù nó có vai trò có lợi đối với năm niên hiệu, được công bố bởi các hoàng đế Trung Hoa. Thực vậy, việc \"không\" sử dụng niên hiệu của hoàng đế tương đương với sự làm phản mà hình phạt của nó là tử hình. Nhưng cuộc nổi dậy của Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900 đã làm người lãnh đạo không chính thức của Trung Quốc, Từ Hi Thái hậu, bị suy yếu và dễ tổn thương trước các thách thức từ phía những người đi theo xu hướng cộng hòa, đây là những người cố ý dùng hệ thống đếm năm liên tục nhằm bất hợp pháp hóa nhà Thanh bằng cách từ chối sử dụng niên hiệu của nó. Mặc dù báo chí cộng hòa sử dụng nhiều hơn một niên đại, cái mà Tôn Trung Sơn lựa chọn, 2698 TCN, đã được công nhận bởi phần lớn các cộng đồng Hoa kiều ngoài khu vực Đông Nam Á như phố người Hoa ở San Francisco, dẫn đến năm 4703 của họ được bắt đầu vào năm 2005. Nhiều nhà niên đại học, không biết lịch sử của nó, cho rằng 2698 TCN là sai lầm đối với kỷ nguyên 2697 TCN thu được từ các chu kỳ 60, trong khi nó thực sự là kỷ nguyên duy nhất được một số người Trung Quốc sử dụng thật sự, mặc dù chỉ là thiểu số (phần lớn người Trung Hoa không sử dụng bất kỳ một kiểu đếm số năm từ kỷ nguyên truyền thuyết).\nLịch sử sơ kỳ.\nCác chứng cứ khảo cổ học sớm nhất của lịch Trung Quốc xuất hiện trên các tấm xương bói toán vào thời kỳ cuối của thiên niên kỷ 2 TCN thời nhà Thương. Các tấm xương này chỉ ra năm âm dương lịch có 12 tháng và thỉnh thoảng có tháng thứ 13, cũng như thậm chí có tháng thứ 14. Bởi vì ngày tháng Trung Quốc là có cơ sở vững chắc bắt đầu từ năm 841 TCN, lịch của thời kỳ đầu nhà Chu được biết đến như là lịch với tháng nhuận được thêm vào một cách tùy tiện. Tháng đầu tiên của năm khi đó rất gần với đông chí và tháng nhuận của nó là sau tháng thứ 12. Lịch tứ phân (四分 \"sìfēn\") bắt đầu khoảng năm 484 TCN, là lịch đầu tiên được tính toán ở Trung Quốc. Nó được đặt tên như thế vì nó sử dụng năm Mặt Trời với 365¼ ngày, cùng với quy tắc chu kỳ 19 năm = 235 tháng, được biết đến ở phương tây là chu kỳ Meton. Đông chí khi đó nằm trong tháng đầu tiên và tháng nhuận của nó được chèn thêm vào sau tháng thứ mười hai. Bắt đầu từ năm 256 TCN của vương quốc Tần, sau này là nhà Tần, tháng nhuận là tháng phụ thứ chín vào cuối năm mà bây giờ bắt đầu bằng tháng thứ mười, và đông chí nằm trong tháng thứ mười một. Cách tính năm như thế được sử dụng cho đến nửa thời kỳ đầu của nhà Tây Hán.\nQuy tắc \"Trung khí\".\nVua Hán Vũ đế của nhà Hán đã đề ra các quy tắc cơ bản mà lịch Trung Quốc áp dụng từ đó đến nay. Lịch Thái sơ (太初, \"Tàichū\" - sự khởi đầu vĩ đại, niên hiệu của Hán Vũ đế) của ông năm 104 TCN là năm với đông chí nằm trong tháng thứ mười một và được thiết kế để tháng nhuận có thể là bất kỳ tháng nào (tháng 29 hay 30 ngày) mà trong tháng đó Mặt Trời không đi qua các điểm \"Trung khí\" (tức là Mặt Trời chỉ nằm trong một cung hoàng đạo). Vì chuyển động trung bình của Mặt Trời (biểu kiến) được sử dụng để tính toán tiết khí cho đến tận năm 1645, tháng nhuận như thế có thể xuất hiện sau bất kỳ tháng nào của năm với cùng một xác suất. Tuy nhiên, sự giao hội của Mặt Trời và Mặt Trăng (hay sóc) sử dụng chuyển động trung bình của cả hai thiên thể này chỉ cho đến năm 619, năm thứ hai của nhà Đường, khi cả hai chuyển động bắt đầu được sử dụng mô hình chuyển động thật với hai parabôn quan trắc ngược nhau (với những thành phần nhỏ tuyến tính và lập phương). Tuy nhiên, các parabôn không phù hợp với chuyển động trung bình, mà phù hợp với những điểm gián đoạn hay bước nhảy.\nChuyển động thực của Mặt Trời và Mặt Trăng.\nSau khi thiên văn học của châu Âu được giới thiệu vào Trung Hoa bởi các giáo sĩ dòng Tên, chuyển động của cả Mặt Trời và Mặt Trăng bắt đầu được tính toán bằng các hàm lượng giác trong lịch Thời Hiến (時憲 \"Shíxiàn\") năm 1645 của nhà Thanh, lịch này được lập bởi giáo sĩ Adam Schall, tên Trung Hoa là Thang Nhược Vọng. Chuyển động thật của Mặt Trời (biểu kiến) bấy giờ được sử dụng để tính tiết khí. Tháng nhuận thông thường hay xảy ra sau tháng thứ hai cho đến tháng thứ chín và ít khi xảy ra sau tháng thứ mười nếu tính từ tháng đầu tiên. Rất ít thời gian trong mùa thu-đông có một hay hai tháng mà Mặt Trời đi qua hai cung hoàng đạo, lẫn với hai hay ba tháng mà Mặt Trời chỉ nằm trong một cung hoàng đạo.\nCải cách lịch Gregory và thay đổi thời gian năm 1929.\nLịch Gregory được công nhận bởi Trung Hoa Dân Quốc, lúc đó mới ra đời, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1912 cho các hoạt động chính thức, nhưng dân chúng vẫn tiếp tục sử dụng lịch truyền thống của nhà Thanh. Tình trạng của lịch Gregory trong khoảng 1916 đến 1921, khi Trung Quốc bị kiểm soát bởi các đốc quân, không được rõ. Từ khoảng 1921 đến 1928 các đốc quân vẫn tiếp tục kiểm soát phía bắc Trung Quốc, nhưng Quốc dân đảng đã kiểm soát miền nam Trung Quốc và có lẽ họ đã sử dụng lịch Gregory. Sau khi Quốc dân đảng công bố cải tổ lại Trung Hoa Dân Quốc 10 tháng 10 năm 1928, họ ra sắc lệnh bắt buộc sử dụng lịch Gregory có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1929. Họ cũng ra sắc lệnh có hiệu lực từ ngày này mọi người dân phải sử dụng múi thời gian bờ biển đã được dùng trong tất cả các cảng hiệp ước, cho các cảng dọc theo bờ biển phía đông Trung Quốc, ký với châu Âu (theo Hiệp ước Nam Kinh 1842) từ năm 1904. Điều này đã thay đổi thời điểm bắt đầu mỗi ngày đối với cả lịch truyền thống và lịch Gregory một lượng +14,3 phút từ nửa đêm Bắc Kinh tới nửa đêm tại kinh độ 120° đông tính từ Greenwich.\nĐiều này đã sinh ra một số sai biệt, chẳng hạn như đối với Tết Trung Thu năm 1978. Điểm sóc khi đó là ngày 3 tháng 9 năm 1978, hồi 00:07, Giờ chuẩn Trung Quốc. Sử dụng lịch cũ theo múi giờ Bắc Kinh, sóc xảy ra lúc 23:53 ngày 2, vì thế tháng Tám (âm lịch) bắt đầu trong các ngày khác nhau tùy theo từng loại lịch. Người Hồng Kông (sử dụng lịch truyền thống) ăn Tết này vào ngày 16 tháng 9, nhưng những người Trung Quốc khác ăn Tết này vào ngày 17 tháng 9.\nQuốc dân đảng có thể đã bắt đầu đánh số năm của nền cộng hòa của họ vào năm 1929, bắt đầu từ năm 1912 như là năm 1. Khi những người cộng sản giành được quyền kiểm soát đối với Trung Hoa đại lục 1 tháng 10 năm 1949, họ chỉ đơn giản là tiếp tục sử dụng lịch Gregory, nhưng bắt đầu từ đây đánh số năm theo kiểu phương tây, bắt đầu với 1949. Ở cả Trung Hoa đại lục và Đài Loan, các tháng của lịch Gregory được đánh số từ 1 đến 12 giống như các tháng của lịch truyền thống.\nQuy tắc.\nCác quy tắc sau có hiệu lực từ năm 104 TCN, mặc dù một số chi tiết đã từng là không cần thiết trước năm 1645. Cũng lưu ý là các quy tắc này không chỉ rõ các tính toán chi tiết dựa trên cơ sở của chuyện động thật hay trung bình của Mặt Trời, Mặt Trăng, điều này phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử.\nCung Hoàng Đạo mà Mặt Trời đi qua trong tháng và kinh độ của đường hoàng đạo của các điểm đi vào các cung thông thường dùng để xác định tháng thông thường. Tháng 1, chánh nguyệt (\"zhēngyuè\"), tiếng Việt gọi là tháng giêng (tiếng Hoa là tháng khởi đầu - \"tháng nguyên\" có nghĩa đầu tiên. Từ đây phát sinh tên gọi \"tết + Nguyên Đán\" tức là buổi sáng sớm đầu tiên, \"tết + Nguyên Tiêu\" tức là buổi đêm đầu tiên v.v.).\nMười hai tháng âm lịch là khá gần với các sự kiện trong sự phát triển của thực vật và trong nông nghiệp, vì thế chúng còn có tên gọi khác theo các loài cây:\nMột số người tin rằng các quy tắc trên đây luôn luôn đúng, nhưng thực tế có một số ngoại lệ ngăn không cho Tết Nguyên Đán luôn luôn là sóc thứ hai sau Đông chí, hay có nghĩa là nó làm cho ngày lễ này diễn ra sau tiết \"Vũ Thủy\". Ngoại lệ này diễn ra vào các giai đoạn từ năm 2033 đến năm 2034, và từ năm 2128 đến năm 2129, khi Đông chí là tiết khí chính thứ hai trong tháng Một (11) âm lịch. Tháng tiếp theo không có tiết khí chính và do vậy nó là nhuận, và tháng Chạp (12) tiếp theo sau đó sẽ chứa cả Bảo Bình (\"Aquarius\") và Song Ngư (\"Pisces\") và hai tiết khí chính (\"Đại Hàn\" và \"Vũ Thủy\"). Năm Dần vì thế bắt đầu vào sóc thứ ba sau Đông chí, và nó diễn ra sau tiết Vũ Thủy - Song Ngư (\"Pisces\"), vào ngày 19 tháng 2.\nMột trường hợp khác là năm 1984-1985, khi Mặt Trời nằm trong cung Ma Kết (\"Capricorn\") ở 270° và Bảo Bình (\"Aquarius\") ở 300° trong tháng 11, và sau đó đi vào cung Song Ngư (\"Pisces\") ở 330° trong tháng kế tiếp, mà lẽ ra khi đó phải là trong tháng giêng (tháng 1). Mặt Trời đã không đi vào cung nào trong tháng kế tiếp. Để đảm bảo giữ cho Đông chí nằm trong tháng 11, tháng lẽ ra phải là tháng 1 (Dần) trở thành tháng 12, và tháng sau đó là tháng 1, làm cho Tết Nguyên Đán diễn ra vào 20 tháng 2 năm 1985 sau khi Mặt Trời đã vượt qua Pisces ở 330° trong tháng trước đó, hơn là nằm trong tháng bắt đầu trong ngày này.\nTrong các trường hợp khi tháng có 2 tiết khí chính diễn ra, nó luôn luôn xảy ra ở một khoảng thời gian nào đó giữa hai tháng không có tiết khí chính. Nó thông thường diễn ra đơn lẻ và nằm ở một trong hai bên hoặc gần với Đông chí, vì thế việc đặt Đông chí trong tháng 11 (quy tắc 4) sẽ dẫn đến phải chọn lựa tháng nào trong hai tháng không có tiết khí làm tháng nhuận. Năm 1984-1985, tháng ngay trước tháng 11 có hai tiết khí chính là tháng không có tiết khí chính và nó được tính là tháng 10 nhuận. Mọi tháng từ tháng có hai tiết khí chính tới tháng không có tiết khí chính mà không tính là nhuận được đánh số nối tiếp nhau theo quy tắc 2 tính như là các tháng thường. Phát biểu của quy tắc 5, lựa chọn tháng đầu tiên trong hai tháng không có tiết khí chính giữa tháng 11, là không bị bắt buộc kể từ lần cải cách lịch cuối cùng và cũng sẽ không cần thiết cho đến tận trường hợp của năm 2033-2034 và năm 2128-2129, khi các tháng có hai tiết khí chính sẽ nằm cạnh ba tháng không có tiết khí chính, hai trong số chúng sẽ nằm ở một bên của tháng 11. Tháng 11 nhuận rất ít khi xảy ra. Xem \nCác ngoại lệ như trên đây là rất hiếm. Tới 96,6% các tháng chỉ chứa một tiết khí chính (điểm vào trong một cung hoàng đạo), nó phù hợp với quy tắc đánh số của bảng tiết khí, và 3,0% các tháng là nhuận (luôn luôn là tháng không có tiết khí chính). Chỉ có 0,4% các tháng hoặc là có hai tiết khí chính hoặc là các tháng kế tiếp được đánh số lại.\nĐiều này chỉ xảy ra sau cải cách lịch năm 1645. Khi đó người ta cần thiết phải cố định một tháng luôn luôn chứa tiết khí chính của nó và cho phép các tháng còn lại đôi khi không chứa tiết khí chính của nó. Tháng 11 đã được chọn, vì tiết khí chính của nó (Đông chí) tạo ra sự khởi đầu của năm Mặt Trời trong lịch Trung Quốc.\nLịch Trung Quốc và lịch Gregory thông thường sẽ đồng bộ trở lại sau 19 năm (chu kỳ Meton). Tuy nhiên, chu kỳ 19 năm với các bộ tháng nhuận định sẵn chỉ là tương đối, vì thế các mô hình xác định tháng nhuận trong các chu kỳ kế tiếp nhau cuối cùng sẽ thay đổi sau vài lần chu kỳ 19 năm thành chu kỳ 19 năm hoàn toàn khác.\nHoàng đạo Trung Hoa (xem các phần Danh pháp và Địa Chi) chỉ sử dụng để đặt tên năm - nó thực sự không được sử dụng để tính lịch. Trên thực tế, người Trung Quốc có hệ thống chòm sao hoàn toàn khác.\nDanh pháp.\nCác năm được đặt tên theo chu kỳ của 10 Thiên Can và chu kỳ của 12 Địa Chi. Mỗi năm được đặt tên theo cặp của một can và một chi gọi là Can Chi (干支 \"gānzhī\"). Thiên Can phối hợp với Âm Dương và Ngũ hành. Chu kỳ 10 năm của Can bắt đầu từ can Giáp những năm tận cùng bằng 4 như 1984, 1994, 2004 v.v., còn đối với năm trước công nguyên là 7. Địa Chi liên kết với 12 con vật tượng trưng. Chu kỳ 12 năm bắt đầu bằng chi Tý (Tí) với những năm chia cho 12 còn dư 4 như 1984, 1996 v.v. hay trong phép chia cho 12 còn dư 9 nếu là năm trước Công nguyên như 9 TCN (Nhâm Tý), 21 TCN (Canh Tý), v.v. (lưu ý là không có năm 0, sau ngày 31 tháng 12 năm 1 TCN (năm Canh Thân) là ngày 1 tháng 1 năm 1 (năm Tân Dậu)).\nChu kỳ 60 năm tạo thành bởi tổ hợp của hai chu kỳ được biết như là \"chu kỳ Giáp Tý\" (甲子 \"jiǎzǐ\"). Nó không phải là 120 vì hai chu kỳ này quay vòng tuần hoàn độc lập với nhau. Do vậy không thể có những tổ hợp như Giáp Sửu chẳng hạn. Gọi là chu kỳ Giáp Tý vì năm đầu tiên của chu kỳ 60 năm là năm Giáp Tý.\nChu kỳ 60 năm là không đủ cho các tham chiếu lịch sử. Trong thời kỳ phong kiến, niên hiệu (tên kỷ nguyên của một ông vua) được đặt trước tên của năm để phân biệt. Ví dụ: Khang Hi Nhâm Dần (康熙壬寅), hay năm 1662, là năm Nhâm Dần (壬寅) đầu tiên trong thời gian trị vì của hoàng đế Khang Hi (康熙). Khang Hi cũng là trường hợp duy nhất trong lịch sử Trung Quốc trị vì trên 60 năm, cho nên năm Khang Hi Nhâm Dần vừa là năm 1662 khi Khang Hi lên ngôi, vừa là năm 1722 khi ông băng hà. Sử dụng niên hiệu của vua là tiềm ẩn sự thừa nhận tính hợp pháp của vị vua đó, là rất quan trọng về chính trị trong trường hợp kế vị đầy tranh cãi hay nổi loạn. Tuy nhiên, nó cũng gây ra khó khăn cho các nhà sử học Trung Quốc trong việc cho rằng triều đại nào là hợp pháp hơn khi nói về các thời kỳ sớm hơn, khi mà Trung Quốc bị chia sẻ.\nCác tháng, ngày và giờ cũng có thể được biểu thị bằng Can Chi, mặc dù chúng nói chung được biểu diễn chủ yếu theo các số đếm Trung Hoa. Cùng với nó, bốn cặp Can-Chi tạo ra bát tự (八字 \"bāzì\") được sử dụng trong chiêm tinh học Trung Quốc.\nCó sự phân biệt giữa năm tính theo Mặt Trời và năm tính theo Mặt Trăng trong lịch Trung Quốc do nó là một loại âm dương lịch. Năm dựa theo Mặt Trăng (年 \"nián\" = niên) là từ một Tết Nguyên Đán đến Tết Nguyên Đán tiếp theo. Năm dựa theo Mặt Trời (歲 \"suì\" = tuế) có thể là chu kỳ giữa một Lập xuân và Lập xuân tiếp theo hay chu kỳ giữa hai Đông chí (xem phần tiết khí). Năm dựa theo Mặt Trăng được sử dụng để tính ngày, trong khi năm dựa theo Mặt Trời (đặc biệt là năm giữa hai Đông chí) để tính tháng.\nMười hai chi.\nMười hai con vật đại diện cho mười hai địa chi theo trật tự là chuột, bò (Việt Nam: trâu), hổ, thỏ (Việt Nam: mèo), rồng, rắn, ngựa, cừu (hay dê), khỉ, gà, chó và lợn (bắc Việt Nam: heo là cách gọi lợn của miền nam).\nTruyền thuyết giải thích trật tự được phân chia cho các con vật. Cả 12 con vật đánh lẫn nhau để tranh giành quyền đứng trước trong chu kỳ các năm của lịch, vì thế Ngọc Hoàng phải tổ chức một cuộc thi để xác định trật tự. Mọi con vật xếp hàng ngang trên bờ sông và phải tìm cách sang bờ sông bên kia. Trật tự trong lịch của chúng sẽ là trật tự khi chúng sang đến bên kia bờ sông. Mèo thì tự hỏi bằng cách nào có thể sang bờ sông bên kia khi mà nó rất sợ nước. Cũng trong thời gian ấy, bò tự hỏi bằng cách nào nó có thể sang đến bờ bên kia với thị lực kém. Con chuột láu lỉnh đề nghị là nó và mèo sẽ ngồi trên lưng bò và hướng dẫn cho nó qua sông. Bò đồng ý và làm việc cật lực mà không để ý đến những sự kiện trên lưng nó. Trong khi ấy, chuột lẻn ra đằng sau mèo và đẩy nó xuống nước. Khi bò đến gần bờ, chuột nhảy lên phía trước và kết thúc cuộc dua ở vị trí thứ nhất. Con lợn lười biếng sang đến bờ bên kia ở vị trí thứ mười hai. Vì thế chuột được đặt tên cho năm đầu tiên, bò ở vị trí thứ hai và lợn ở vị trí thứ 12 trong chu kỳ. Mèo vào đến bờ quá muộn, không còn chỗ cho nó trong lịch và nó thề rằng sẽ là kẻ thù truyền kiếp của chuột.\nTiết khí.\nCác tháng trong lịch Trung Quốc tuân theo các chu kỳ của Mặt Trăng. Lịch nông nghiệp dựa theo Mặt Trời với 24 điểm gọi là tiết khí (節氣). Chúng là các điểm đánh dấu các thay đổi bốn mùa để hỗ trợ nông dân quyết định khi nào trồng trọt hay thu hoạch mùa màng, trong khi âm lịch vì nguyên nhân trên là không đáng tin cậy để theo dõi. Thuật ngữ \"tiết khí\" thông thường được gọi là các \"điểm thời tiết\". Vì việc tính toán dựa theo Mặt Trời, các tiết khí rơi vào xấp xỉ cùng một ngày trong mọi năm dương lịch chẳng hạn như lịch Gregory, nhưng nó không tạo ra quy luật rõ ràng trong lịch Trung Quốc do quy tắc tính tháng nhuận của nó. Tiết khí được công bố hàng năm trong niên lịch cho nông dân. Tết Nguyên Đán thông thường là ngày sóc gần với Lập xuân. Cụ thể về tiết khí xem bài Tiết khí.\nGhi chú:\nLễ hội.\nMỗi năm theo lịch Trung Quốc có 9 lễ hội chính, 7 trong số đó xác định theo âm-dương lịch, 2 lễ hội còn lại có nguồn gốc từ lịch nông nghiệp (nông lịch) dựa theo Mặt Trời. (Lưu ý rằng nông dân thực tế sử dụng lịch Mặt Trời (dương lịch), và nó có 24 tiết khí để xác định khi nào thì cần gieo trồng ngũ cốc vì các đặc điểm thời tiết, khí hậu khi tính theo âm dương lịch truyền thống không chính xác. Tuy nhiên, lịch truyền thống cũng được biết đến như là nông lịch.)\nHai lễ hội đặc biệt đó là Tết Thanh Minh và lễ hội Đông chí, trùng với hai tiết khí tương ứng là Thanh minh và Đông chí, lễ hội đầu tiên diễn ra khi kinh độ của Trái Đất trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời là 15 độ, lễ hội sau ở vị trí 270 độ. Để tính toán âm lịch thì múi giờ được sử dụng là UTC+ 8.\nBảng dưới đây thể hiện 9 lễ hội này. Tuy nhiên, bảng này còn bỏ sót một số tết khác như Tết Hàn Thực (3 tháng 3 âm lịch) hay Tết Trùng Thập (10 tháng 10 âm lịch), đôi khi còn được tổ chức trang trọng hơn các lễ hội như Đông chí hay Thất tịch.\nLịch Triều Tiên.\nLịch truyền thống Triều Tiên có nguồn gốc từ lịch Trung Quốc. Đầu thế kỷ 19 Triều Tiên dựa vào quan hệ ngoại giao gần gũi với Trung Quốc trong khi không có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác. Để công nhận mối quan hệ này, các vị vua Triều Tiên tổ chức việc tiếp nhận lịch Trung Quốc từ hoàng đế Trung Hoa mỗi năm với một sự phô trương lớn. Lịch này có:\nLịch truyền thống Triều Tiên thông thường tính bắt đầu từ năm 2333 TCN, là thời gian thành lập ra Triều Tiên bởi Dangun theo huyền thoại.\nLịch truyền thống này hiện nay ít được sử dụng, ngoại trừ để tính toán các lễ hội truyền thống (xem thêm Lễ hội Triều Tiên theo âm lịch) và để đánh dấu ngày tháng sinh bởi những người cao tuổi.", "Hiện tượng 2012 bao gồm hàng loạt những người tin về thuyết mạt thế cho rằng vào ngày 21 tháng 12 năm 2012 là ngày tận thế hoặc sẽ xảy ra những sự kiện biến đổi lớn. Ngày này được coi là ngày kết thúc của một chu kỳ dài 5.125 năm trong lịch mà tiếng Anh gọi là \"Long Count\" (\"Lịch Đếm Ngày Dài\") của người Maya. Đã có những đề xuất về sự liên quan giữa ngày này với sự thẳng hàng của các sao trong thiên văn và những công thức thần số học.\nTín đồ Tân Kỷ nguyên giải thích ngày này đánh dấu một thời điểm bắt đầu một thời kỳ mà Trái Đất và cư dân sống trên đó có thể sẽ trải qua một sự biến đổi về thể chất hoặc tinh thần, và cho rằng năm 2012 có thể là cột mốc khởi đầu của một kỷ nguyên mới. Những người khác thì cho rằng năm 2012 sẽ đánh dấu sự kết thúc của thế giới hoặc là một thảm họa nhỏ hơn. Cả hai ý kiến này đều phổ biến trong sách và phim tư liệu, và được lan truyền rộng rãi trên các trang web và qua các nhóm thảo luận. Thảm cảnh được đưa ra cho ngày tận thế gồm có: Mặt trời sẽ đạt mức năng lượng cực đại hoặc sự va chạm của Trái Đất với một lỗ đen hay với hành tinh \"Nibiru\".\nCác học giả từ nhiều ngành khác nhau đã bác bỏ ý tưởng về những sự kiện tận thế sẽ xảy ra vào năm 2012. Những nhà nghiên cứu chính thống về người Maya cho thấy không tìm được trong bất kỳ tài liệu cổ thư nào còn sót lại của người Maya dự đoán về ngày tận thế sắp xảy ra, và cho rằng ý tưởng về lịch \"Long Count\" sẽ \"kết thúc\" trong năm 2012 là bóp méo lịch sử của người Maya. Hiện nay, những người Maya hiện đại phần lớn không tin về sự kiện 2012, còn nguồn tư liệu cổ của người Maya về vấn đề này rất hiếm và nhiều mâu thuẫn. Các nhà thiên văn học và những nhà khoa học khác đã phủ nhận và cho rằng những dự đoán về ngày tận thế là giả khoa học, họ tuyên bố những sự kiện tiên đoán ​​là trái ngược với các quan sát thiên văn đơn giản.\nLịch của người Maya.\nTháng 12 năm 2012 đánh dấu sự kết thúc của một \"b'ak'tun\"; tức là một khoảng thời gian trong lịch của người Maya (tiếng Anh: \"Mesoamerican Long Count calendar\", Lịch đếm ngày dài của Trung Bộ châu Mỹ cổ đại) được sử dụng ở Trung Mỹ trước khi người Châu Âu đặt chân đến. Mặc dù lịch này rất có thể là phát minh của người Olmec, nhưng nó lại trở nên gắn liền với nền văn minh Maya có thời kỳ phát triển kéo dài từ 900-250 TCN. Những hệ thống chữ viết cổ của người Maya đã được giải mã đáng kể, có nghĩa là các văn bản và vật liệu khắc chữ của họ vẫn còn tồn tại từ trước sự xâm chiếm của người châu Âu.\nKhông giống như Lịch vòng tròn có chu kỳ 52 năm vẫn được người Maya hiện đang sử dụng, lịch \"Long Count\" là dạng đường thẳng, và các đơn vị khoảng thời gian được tính theo hệ số 20: 20 ngày làm thành một \"uinal\", 18 \"uinal\" (tức 360 ngày) là một \"tun\", 20 \"tun\" là một \"k'atun\", và 20 \"k'atun\" (tức 144.000 ngày) tạo thành một \"b'ak'tun\". Vì vậy, một ngày của người Maya ký hiệu là \"8.3.2.10.15\" tương ứng với: 8 \"b'ak'tun\", 3 \"k'atun\", 2 \"tun\", 10 \"uinal\" và 15 ngày.\nNgày tận thế.\nVăn học dân gian của người Maya cho rằng có sự tồn tại của những \"chu kỳ thế giới\", tuy nhiên ghi chép này đã không còn nguyên vẹn nên đã để lại một đáp án mở với nhiều khả năng. Theo tập sử thi Popol Vuh, một cuốn sách tổng hợp chi tiết các tính toán của sự tạo thành thế giới do người K'iche' ở vùng cao nguyên (một trong những nhóm dân tộc Maya) để lại, thì chúng ta đang sống trong thế giới thứ tư. Sách \"Popol Vuh\" miêu tả, đầu tiên các vị thần sáng tạo ra ba thế giới nhưng bị thất bại, đến lần thứ tư mới thành công và cũng chính là nơi mà loài người đang sinh sống hiện giờ. Trong lịch của người Maya, thế giới trước đã kết thúc sau 13 \"b'ak'tun\", tức là khoảng 5.125 năm. \"Ngày 0\" của lịch đã được thiết lập lại trong quá khứ để đánh dấu sự kết thúc của thế giới thứ ba và bắt đầu thế giới hiện tại, thời điểm này tương ứng vào ngày 11 tháng 8 năm 3114 TCN theo lịch Gregorius đón trước. Điều này có nghĩa là thế giới thứ tư cũng sẽ đi đến thời điểm tận cùng của nó vào \"b'ak'tun\" thứ 13, hay theo cách ghi ngày của người Maya là 13.0.0.0.0, tức là ngày 21 tháng 12 năm 2012.\nNăm 1957, nhà thiên văn học và Maya học Maud Worcester Makemson đã viết rằng: \"sự hoàn tất một Chu Kỳ Lớn của 13 \"b'ak'tun\" mang một ý nghĩa vô cùng trọng đại đối với người Maya\". Năm 1966, Michael D. Coe khẳng định trong cuốn \"The Maya\" \"có một gợi ý... là sự hủy diệt sẽ giáng xuống bất chợt cho những con người trụy lạc của thế giới này vào ngày cuối cùng của \"b'ak'tun\" thứ 13. Như vậy hiện tại... vũ trụ của chúng ta sẽ bị tiêu diệt trong tháng 12 năm 2012 khi chu kỳ lớn của lịch Maya hoàn tất.\"\nKết luận.\nNiềm tin vào thảm họa sẽ đến trong khoảng thời gian ngày 21 tháng 12 năm 2012 được phần lớn các học giả nghiên cứu về người Maya cổ đại cho là một dự đoán sai, nhưng hiện tượng này vẫn thường được trích dẫn phổ biến trên các phương tiện truyền thông và văn hóa như một vấn đề của năm 2012. Nhiều nhà khoa học cho rằng hiện tượng vào năm 2012 sẽ lần nữa giống như vụ sự cố năm 2000 hoặc giống như bao lời tiên tri khác về ngày tận thế nhưng không thành sự thật.\nLời giải thích về ngày tận thế của Coe đã được nhiều học giả khác nhắc lại trong suốt những năm đầu của thập niên 1990. Tuy nhiên sau đó nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng ngày cuối cùng kết thúc \"b'ak'tun\" thứ 13 rất có thể là lý do cho một lễ kỷ niệm, chứ không phải là đánh dấu hết lịch. Học giả về người Maya, Mark Van Stone đã nói: \"không có bất kỳ điều gì trong lời tiên tri của người Maya, Aztec hay người Trung Mỹ cổ xưa cho rằng có một sự thay đổi bất ngờ hoặc trọng đại nào xảy ra trong năm 2012. Khái niệm về một 'Đại Chu Kỳ' sắp kết thúc hoàn toàn là phát minh của người hiện đại\". Năm 1990, hai nhà học giả về Maya là Linda Schele và David Freidel đã rút ra kết luận là người Maya \"chưa từng thai nghén bất kỳ ý nghĩ nào về ngày tận thế như nhiều người đã giả thuyết.\" Susan Milbrath, phụ trách bảo tàng nghệ thuật châu Mỹ Latinh và khảo cổ học tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Florida, nói rằng \"chúng tôi không có những ghi chép hoặc tin tức gì cho rằng [người Maya] đã từng nghĩ về một ngày chấm dứt thế giới vào năm 2012\". Sandra Noble, giám đốc điều hành của \"Foundation for the Advancement of Mesoamerican Studies\" ở Crystal River (Florida) nói rằng, đối với người Maya đó sẽ là một ngày lễ rất lớn để kỷ niệm ngày cuối cùng của một chu kỳ bình an vô sự. Về việc ngày 21 tháng 12 năm 2012 bị xem như là một sự kiện hoặc thời điểm của tận thế, Sandra cho rằng \"đó là một sự bịa đặt hoàn toàn, và là một cơ hội để nhiều người kiếm chác\". Còn ông E. Wyllys V Andrews, giám đốc Đại học Tulane viện nghiên cứu Trung Mỹ (MARI) cho rằng: \"sẽ có một chu kỳ tiếp theo. Chúng ta biết rằng người Maya đã nghĩ là có một chu kỳ trước chu kỳ này, và điều đó có nghĩa là họ hoàn toàn yên tâm với một chu kỳ tiếp theo sau chu kỳ này\".\nMối liên hệ của người Maya với b'ak'tun 13.\nCộng đồng người Maya hiện nay không chú trọng nhiều đến \"b'ak'tun\" 13. Mặc dù, Lịch chu kỳ vẫn được vài nhóm người Maya trên cao nguyên Guatemala sử dụng, nhưng cách tính lịch \"Long Count\" này đã được xem như là một sử dụng độc nhất bởi người Maya cổ đại mà các nhà khảo cổ vừa chỉ mới khám phá gần đây. Một bô lão người Maya là Apolinario Chile Pixtun và nhà khảo cổ học người México là ông Guillermo Bernal đều nhấn mạnh rằng \"ngày tận thế\" là một khái niệm của phương Tây, nó có rất ít hoặc chẳng có ảnh hưởng gì với đức tin của người Maya. Bernal nghĩ rằng ý tưởng đó đã được người phương Tây gán ghép cho người Maya bởi vì những chuyện hoang đường của họ đang dần \"cạn kiệt\". Nhà khảo cổ học người Maya, Jose Huchm nói: \"nếu giả sử tôi đi đến những cộng đồng nói tiếng Maya và hỏi họ những gì sẽ xảy ra trong năm 2012, họ sẽ chẳng có bất kỳ một ý kiến nào. Thế giới sẽ chấm hết? Họ sẽ chẳng thèm tin bạn đâu. Chúng tôi có nhiều mối bận tâm thực sự ở hiện tại, như là mưa chẳng hạn\".\nChẳng có gì là chắc chắn chứng minh người Maya cổ đại đã quan trọng hóa \"b'ak'tun\" 13. Hầu hết các sử liệu chính xác từ các bảng khắc ghi chép của người Maya cổ đại để lại không có tuyên bố nào hàm ý dự đoán hay tiên tri. Tuy vậy, có 2 chỗ trong sử liệu của người Maya có thể có đề cập đến sự kết thúc của \"b'ak'tun\" thứ 13, đó là: \"Đài tưởng niệm Tortuguero 6\" và \"the Chilam Balam\".\nTortuguero.\nKhu di tích khảo cổ Tortuguero nằm ở cực Nam Tabasco-México có từ thế kỷ thứ VII, bao gồm hàng loạt các chữ khắc trên bia chủ yếu là để vinh danh vị vua đương thời là \"Bahlam Ajaw\". Một dòng chữ trên đài tưởng niệm Tortuguero 6 có liên quan đến \"b'ak'tun\" 13. Nó đã bị xóa đi một phần, Sven Gronemeyer và Barbara MacLeod đã đưa ra bản dịch hoàn chỉnh nhất:\nRất ít điều được biết về thần Bolon Yokte. Theo một bài viết của nhà Maya học Markus Eberl và Christian Prager trong Báo cáo nhân chủng học, tên của ông bao gồm các yếu tố: \"số chín\", 'te-OK '(vẫn có giải nghĩa của chữ này), và \"thần \". Sự rắc rối của những chữ khắc quá xưa này cho thấy đây là một vị thần rất cổ và những chữ này không giống với những tài liệu sao chép hiện có. \"B'olon-Yokte\" cũng xuất hiện trong các bảng khắc khác được tìm thấy tại Palenque, Usumacinta; và La Mar và được miêu tả như là một vị thần của xung đột, chiến tranh và địa ngục. Trong một tấm bia, thần \"B'olon-Yokte\" được trang trí với một sợi dây quanh cổ, và trong một tấm bia khác thì với túi hương, cả hai vật này đều là vật cúng tế trong các dịp tất niên.\nDựa trên những quan sát các nghi thức hiện đại của người Maya, Gronemeyer và MacLeod đã xác nhận là tấm bia đề cập đến một lễ kỷ niệm, trong đó một người đóng vai 'K'uh Bolon Yokte' sẽ mặc lễ phục và diễu hành quanh một khu vực. Gronemeyer và MacLeod nhấn mạnh sự liên hệ giữa Bolon Yokte 'K'uh với \"b'ak'tun\" thứ 13 trong tấm bia này dường như là rất quan trọng. Lễ kỉ niệm này sẽ khác những buổi lễ thông thường, chẳng hạn như dựng nhiều tấm bia, đốt hương trầm v,v. Gronemeyer và MacLeod cũng khẳng định sự kiện này được lên kế hoạch dành cho năm 2012 chứ không phải cho thế kỷ XVII.\nNhững ngày sau b'ak'tun thứ 13.\nNhững bản thảo của người Maya đôi khi cũng đề cập đến việc dự đoán các sự kiện xảy ra trong tương lai hoặc đánh dấu những lễ kỷ niệm ở những ngày sau b'ak'tun thứ 13. Trên tấm khắc phía tây của đền \"Temple of Inscriptions\" () ở Palenque, một phần của văn bản này đề cập đến tương lai ở chu kỳ thứ 80 của vòng lịch 52 năm tính từ lễ lên ngôi của vua \"K'inich Janaab' Pakal\". Lễ lên ngôi của vua Pakal xảy ra vào ngày 9.9.2.4.8, tương đương với ngày 27 tháng 7 năm công nguyên 615 theo lịch Gregorius đón trước. Dòng chữ bắt đầu với ngày sinh của Pakal 9.8.9.13.0 (ngày 24 tháng 3, năm công nguyên 603) và sau đó cộng thêm vào ngày này các số 10.11.10.5.8, tương đương với ngày 21 tháng 10, năm công nguyên 4772, tức 4.000 năm sau thời đại của vua Pakal.\nMột ví dụ khác là trên bia số 1 tại Coba, một ngày , tức 20 lần đơn vị b'ak'tun, tương đương 4,134105 × 1028 (41x1027) năm trong tương lai, hay cũng có thể là trong quá khứ. Ngày này gấp 3x1018 lần tuổi của vũ trụ đã được xác định bởi các nhà vũ trụ học.\nĐức tin của phong trào New Age.\nNhiều sự quả quyết về năm 2012 đều là một hình thức của những người theo thuyết Maya thần bí, một sự góp nhặt chưa được hệ thống hóa những đức tin của phong trào New Age về sự thông thái và yếu tố tâm linh của người Maya xưa. Nhà nghiên cứu thiên văn học cổ đại, Anthony Aveni nói rằng trong văn học của người Maya cổ luôn đề cao sự cân bằng của vũ trụ cho nên người Maya không thể vẽ ra hiện tượng năm 2012 được vì điều đó là mâu thuẫn với tư tưởng truyền thống của họ. Thay vào đó, hiện tượng này gắn liền với các quan niệm của người Mỹ, chẳng hạn như phong trào New Age, thuyết thời đại hoàng kim, hoặc tin vào sự tồn tại của những kiến thức bí mật có từ cổ xưa hay từ những nơi xa xôi nào đó. Các chủ đề văn học khai thác về hiện tượng 2012 bao gồm 'sự nghi ngờ đối với nền văn hóa chính thống phương Tây', ý tưởng về một sự phát triển của tâm linh, và khả năng dẫn đắt thế giới vào phong trào New Age bằng những ví dụ cá nhân hoặc những kiến thức đã được hợp nhất vào. Mục đích của nền văn học này không phải là để cảnh báo mọi người về cái chết cận kề, mà để thúc đẩy những sự đồng cảm phản văn hóa, tính cho cùng là thúc đẩy chính trị xã hội và chủ nghĩa tâm linh tích cực. Aveni, một nhà nghiên cứu về phong trào New Age và các cộng đồng những người tìm kiếm sự thông minh ngoài Trái Đất (SETI) đã cho rằng những chuyện kể về năm 2012 là sản phẩm của một xã hội 'bị cách ly': \"Khi chúng ta không thể tự tìm câu trả lời thuộc về tâm linh cho những thắc mắc lớn về cuộc đời, chúng ta sẽ quay sang những thực thể tưởng tượng ở bên ngoài, nằm ở một không thời gian nào đó rất xa - chỉ các thực thể này mới có thể sở hữu được những kiến thức cao cấp\".\nNăm 1975, sự việc kết thúc b'ak'tun đã trở thành chủ đề nghiên cứu của một số tác giả New Age, những người tin rằng điều này sẽ tương ứng với một \"sự thay đổi ý thức\" toàn cầu. Trong cuốn sách \"Mexico Mystique: The Coming Sixth Age of Consciousness\", Frank Waters liên kết ngày 24 tháng 12 năm 2011 của Coe, với thuật chiêm tinh và những lời tiên tri của thổ dân Hopi, trong khi đó thì cả Argüelles José (trong cuốn \"The Transformative Vision\") và Terence McKenna (trong \"The Invisible Landscape\") đều bàn luận về tầm quan trọng của năm 2012, nhưng không đưa ra một ngày cụ thể. Năm 1987, Argüelles sau khi nắm bắt được sự kiện \"Harmonic Convergence\" () đã định ra ngày 21 tháng 12 trong cuốn \"The Mayan Factor: Path Beyond Technology\", ông tuyên bố vào ngày đó Trái Đất sẽ đi qua một \"chùm ánh sáng\" rất lớn từ trung tâm của Ngân hà, và cho rằng người Maya đã liên kết lịch của họ với một dự đoán về sự kiện đó. Aveni bác bỏ tất cả các tác giả này.\nSự thẳng hàng trong Ngân hà.\nKhông có sự kiện thiên văn đáng chú ý nào vào ngày bắt đầu của lịch Long Count. Tuy nhiên,từ giữa những năm 1990, tác giả chuyên viết về chủ nghĩa bí truyền John Major Jenkins đã khẳng định người Maya cổ đại cố tình ràng buộc ngày cuối cùng trong lịch của họ với ngày Đông chí năm 2012, tức là ngày 21 tháng 12. Ngày này phù hợp với một ý tưởng của ông về sự \"thẳng hàng trong Ngân hà\".\nTuế sai.\nTrong hệ Mặt trời, các hành tinh và Mặt Trời nằm trên cùng một mặt phẳng, được gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Theo quan sát của chúng ta từ Trái Đất, hoàng đạo là đường đi của Mặt Trời vẽ trên bầu trời trong một năm. Mười hai chòm sao cùng nằm trên hoàng đạo được gọi là mười hai cung hoàng đạo, hằng năm mặt trời lần lượt đi qua tất cả mười hai chòm sao này, theo thời gian, chu kỳ của mặt trời sẽ chậm lại 1 độ vào mỗi 72 năm, hay chậm hẳn 1 cung hoàng đạo mỗi 2160 năm. Sự thay đổi này gọi là \"tuế sai\", nguyên nhân là do trục Trái Đất bị lắc nhẹ khi quay, xảy ra giống hiện tượng tiến động của con quay. Sau khoảng 26000 năm thì đỉnh cực Bắc của trục Trái Đất vẽ đủ 1 vòng tròn, hay mặt trời di chuyển trên đường hoàng đạo sẽ bị chậm lại đúng 1 vòng 360 độ. Trong chiêm tinh học truyền thống phương Tây, tiến động được đo từ ngày xuân phân ở Bắc bán cầu, hoặc tại thời điểm mà tại đó Mặt Trời nằm chính xác ở khoảng giữa điểm thấp nhất và cao nhất trên bầu trời. Hiện nay, vị trí của mặt trời ở điểm xuân phân đang ở trong chòm sao Song Ngư và đang chuyển động ngược lại đến chòm sao Bảo Bình. Điều này báo hiệu sự kết thúc của một thời kỳ chiêm tinh (thời kỳ của Song Ngư) và bắt đầu vào một thời kỳ khác (thời kỳ của Bảo Bình).\nTương tự như vậy, vị trí thấp nhất của mặt trời (đông chí), hiện đang trong chòm sao Nhân Mã, một trong hai chòm sao trong đó các cung hoàng đạo giao cắt với dải Ngân hà. Hàng năm, vào ngày đông chí, Mặt Trời và dải Ngân hà (quan sát từ mặt đất) xếp thẳng hàng, và cứ mỗi năm, tuế sai gây ra một sự dịch chuyển nhỏ vị trí biểu kiến ​​của Mặt Trời trong dải Ngân Hà.\nChủ nghĩa thần bí.\nJenkins cho rằng lịch của người Maya dựa trên quan sát của họ về Great Rift, là một nhóm các đám mây bụi tối chia dọc theo dải sáng của Ngân hà, mà người Maya gọi nó là \"Xibalba be\" hay \"đường tối\" Jenkins cho rằng người Maya đã nhận biết được nơi giao nhau của đường hoàng đạo với Great Rift và đánh dấu vị trí này trên bầu trời như một điểm rất quan trọng trong thiên văn học. Theo giả thiết này, do tuế sai, Mặt trời sẽ thẳng hàng một cách chính xác với đường xích đạo của Ngân hà vào ngày đông chí năm 2012. Jenkins cho rằng người Maya cổ đại đã dự đoán trước được hiện tượng này và xem nó như là một điềm báo về một sự chuyển đổi hoàn toàn tâm linh nhân loại. Những người thuộc phong trào New Age đề xuất ra giả thiết này còn lý luận rằng người Maya vẽ lịch của họ với mục đích chuẩn bị cho những sự kiện quan trọng sẽ xảy ra cho thế giới cũng giống như các nhà chiêm tinh học sử dụng vị trí của các ngôi sao và các hành tinh để đưa ra những tuyên bố về các sự kiện tương lai. Jenkins còn dẫn chứng về sự hiểu biết của các pháp sư Maya cổ đại về trung tâm Ngân hà bằng các luận điểm như họ đã biết sử dụng nấm psilocybin (một loại nấm thần bí có thể đem lại cảm giác về tâm linh), những con cóc có chứa chất tác động lên trí tuệ và hành vi, và các chất ma túy khác. Jenkins còn liên kết \"Xibalba be\" với \"cây thế giới\", dựa trên các nghiên cứu về vũ trụ học hiện đại (không phải cổ đại) của người Maya.\nNhững chỉ trích.\nCác nhà thiên văn như David Morrison cho rằng xích đạo của Ngân hà là một đường hoàn toàn không cố định, và không bao giờ có thể vẽ ra một cách chính xác được bởi vì không thể xác định ranh giới chính xác của dải Ngân hà, mà tùy thuộc vào độ sáng rõ khi quan sát. Jenkins cho biết ông đã thu được kết quả về vị trí của đường xích đạo Ngân hà từ những quan sát thực hiện ở độ cao , là độ cao có thể cung cấp một hình ảnh rõ nét hơn về dải Ngân hà so với điều kiện quan sát của người Maya. Hơn nữa, khi Mặt Trời lùi nửa độ trên cung hoàng đạo, nó cần phải thêm 36 năm nữa để tiến động đến một điểm mới. Jenkins nhấn mạnh rằng ngay cả khi vị trí của đường xích đạo Ngân hà được xác định chắc chắn thì đường này phải đi qua tâm của Mặt Trời một cách chính xác nhất vào năm 1998.\nKhông có bằng chứng rõ ràng rằng người Maya cổ đại đã nhận thức được tiến động. Một số học giả Maya, như Barbara MacLeod, Michael Grofe, Eva Hunt, Gordon Brotherston, và Anthony Aveni, đã cho rằng một số ngày thánh của người Maya tính thời gian theo chu kỳ tuế sai, nhưng quan điểm học thuật về đề tài này vẫn còn chưa thống nhất. Ngoài ra có ít bằng chứng về khảo cổ hay lịch sử chứng minh rằng Maya xem trọng về các điểm chí hay điểm phân. Cũng có thể là chỉ có người Trung Mỹ thời kỳ đầu cổ đại mới quan sát thấy các điểm chí, nhưng điều này cũng là một vấn đề tranh cãi giữa các nhà Maya học. Ngoài ra không có bằng chứng nào cho thấy người Maya cổ đại quan trọng hóa dải Ngân hà, không có bất kỳ hình tượng trong hệ thống chữ viết của họ để đại diện cho Ngân hà, cũng không có bảng thiên văn hoặc bảng niên đại nào gắn liền với nó.\nSóng thời gian không và Kinh Dịch.\n\"Sóng thời gian không\" là một công thức thần số học dùng để tính toán sự lên xuống của \"tính mới\", được định nghĩa là lượng tăng lên theo thời gian trong liên kết của vũ trụ, hoặc là sự phức tạp có tổ chức. Theo Terence McKenna, vũ trụ có một điểm hút định hướng tại thời điểm kết thúc của thời gian có thể làm tăng sự liên kết, cuối cùng đạt đến một điểm kỳ dị vô cùng phức tạp trong năm 2012, lúc đó thì bất cứ điều gì có thể tưởng tượng được sẽ xuất hiện đồng thời. Ông hình thành ý tưởng này trong những năm từ đầu đến giữa thập niên 1970 sau khi sử dụng nấm psilocybin và DMT (Dimethyltryptamine).\nMcKenna biểu diễn \"tính mới\" bằng một chương trình máy tính để hiển thị một dạng sóng gọi là \"sóng thời gian không\" (Timewave zero) hoặc \"sóng thời gian\". Dựa trên những giải thích của McKenna về 64 quẻ của Kinh Dịch, các biểu đồ hiển thị các giai đoạn lớn của \"tính mới\" tương ứng với những thay đổi lớn trong sự tiến hóa sinh học và văn hóa xã hội của nhân loại. Ông tin rằng các sự kiện ở một thời điểm nhất định nào đó đều có mối quan hệ đệ quy đến sự kiện tại thời điểm khác, và ông chọn vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima là cơ sở để tính toán ngày tận thế của ông vào tháng 11 năm 2012. Sau đó, khi ông phát hiện ra ngày này gần với việc kết thúc b'ak'tun thứ 13 của lịch Maya, nên ông đã sửa lại giả thiết của mình để cả hai ngày đó khớp với nhau.\nCác khái niệm khác.\nTại Ấn Độ, guru Kalki Bhagavan đã cho rằng năm 2012 như là một \"hạn chót\" cho sự khai ngộ của loài người đã bắt đầu ít nhất là từ năm 1998. Hơn 15 triệu người coi Bhagavan như là hóa thân của thần Vishnu và cho rằng năm 2012 đánh dấu sự kết thúc của chu kỳ Kali Yuga, hoặc thời đại suy đồi.\nTrong năm 2006, tác giả Daniel Pinchbeck đã phổ biến quan niệm của New Age về ngày này trong cuốn \"2012: The Return of Quetzalcoatl\", trong đó ông đã liên kết giữa \"b'ak'tun 13\" với những đức tin về vòng tròn trên cánh đồng, về những vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh, và những khám phá cá nhân của ông sau khi sử dụng entheogen và thể nghiệm giao tiếp với linh hồn (mediumship). Pinchbeck cho là mình thấy rõ được \"một hiện thực đang ngày càng gia tăng là chủ nghĩa duy vật kèm theo cái thế giới quan dựa trên lý trí và chủ nghĩa kinh nghiệm của nó đã đến hồi kết thúc... chúng ta đang ở trên ranh giới của thời kỳ quá độ đến một giáo hệ của ý thức, một giáo hệ trực giác hơn, huyền bí hơn và có niềm tin cũng như giao tiếp với thế giới tâm linh nhiều hơn (shamanic)\".\nCuốn sách \"Atlantis và 2012: Khoa học về các Nền văn minh bị lãng quên và những lời tiên tri của người Maya\", của Frank Joseph được xuất bản vào năm 2010, đã đưa ra mối liên hệ giữa những lời tiên tri của người Maya về ngày 21 tháng 12 năm 2012 với huyền thoại về các lục địa đã mất Atlantis và Lemuria; tác giả cho rằng những kiến thức về một trận đại hồng thủy xảy ra trong quá khứ đã được chính người Maya cổ đại và Ai Cập cổ đại truyền lại. Joseph kết nối các kiến thức này với câu chuyện về chiếc \"rương đựng thánh tích\" (Ark of the Covenant), ông cho rằng chiếc rương này đã bị Moses đánh cắp từ kim tự tháp Kheops, sau đó được các hiệp sĩ dòng Đền mang từ Jerusalem đến Mỹ, và bây giờ nó được giấu trong một hang động ở Illinois, chờ đợi người ta phát hiện ra nó để mở ra một thời đại mới vào năm 2012.\nBắt đầu từ năm 2000, một số tín hữu theo thuyết huyền bí đã hành hương đến ngôi làng nhỏ ở Bugarach của Pháp với dân số chỉ 189 người, họ kết luận rằng núi \"Pic de Bugarach\" của vùng này là vị trí lý tưởng để các sự kiện biến đổi về thời tiết sẽ xảy ra vào năm 2012. Năm 2011, thị trưởng Jean-Pierre Delord đã bắt đầu bày tỏ những lo ngại với báo chí quốc tế vì thị trấn nhỏ này sẽ bị tràn ngập bởi hàng ngàn du khách tràn về trong năm 2012, thậm chí ông còn có ý gọi đến quân đội.\nCác giả thuyết về ngày tận thế.\nQuan điểm về ngày tận thế vào năm 2012, đã truyền sang nhiều phương tiện truyền thông, miêu tả sự kết thúc của thế giới hoặc sự kết thúc nền văn minh nhân loại vào ngày đó. Quan điểm này được phát tán bởi các trang tin vịt trên internet, đặc biệt là trên Youtube. Kênh History Channel đã phát sóng một vài tập của loạt phim đặc biệt về ngày tận thế bao gồm luôn cả những phân tích các giả thuyết về năm 2012, như những phim \"Decoding the Past\" (Giải mã quá khứ) (2005–2007), \"2012, End of Days\" (2012, ngày tận thế) (2006), \"Last Days on Earth\" (Những ngày cuối cùng trên địa cầu) (2006), \"Seven Signs of the Apocalypse\" (7 dấu hiệu của tận thế) (2007), và \"Nostradamus 2012\" (2008). Kênh Discovery Channel cũng chiếu bộ phim \"2012 Apocalypse\" (2012 ngày tận thế) trong năm 2009, đưa ra các giả thuyết về một cơn bão từ lớn, đảo cực địa từ, động đất, siêu núi lửa, và các sự kiện tự nhiên mạnh mẽ khác có thể xảy ra vào năm 2012. Trong cuốn \"Fingerprints of the Gods\" (Dấu vân tay của các vị thần), tác giả Graham Hancock đã giải thích những nhận xét của Coe trong cuốn \"Breaking the Maya Code\" (giải mã bí ẩn Maya) như là bằng chứng cho lời tiên tri của một trận đại hồng thủy toàn cầu.\nNhững sắp xếp thẳng hàng khác.\nMột số người đã giải thích thuyết mạt thế của Jenkins, và họ đã tuyên bố rằng khi sự thẳng hàng trong Ngân hà xảy ra, bằng cách nào đó sẽ tạo nên một sự liên kết giữa Mặt trời và các siêu hố đen ở trung tâm Ngân hà của chúng ta (được gọi là \"Sagittarius A*\"), do đó tạo ra sự tàn phá trên Trái Đất. Trên thực tế, sự sắp xếp trong Ngân hà theo dự đoán của Jenkins đã xảy ra vào năm 1998, đường di chuyển của Mặt trời qua các cung hoàng đạo như được quan sát từ Trái Đất không đưa nó tới trung tâm Ngân hà thực sự, mà chếch lên phía trên nhiều độ. Ngay cả khi điều này không chính xác, Sagittarius A* cách Trái Đất 30,000 năm ánh sáng, và nó cần phải gần hơn 6 triệu lần nữa để có thể gây ra bất cứ sự phá vỡ trọng trường nào lên Trái Đất thuộc Thái Dương hệ. Những giả thuyết này của Jenkins đã được đưa vào bộ phim tài liệu \"Giải mã quá khứ\" của kênh truyền hình History Channel. Tuy nhiên, Jenkins cũng phàn nàn về trường hợp một tiểu thuyết gia chuyên về đề tài khoa học viễn tưởng - đồng tác giả của \"Giải mã quá khứ\" đã mô tả bộ phim này như là \"45 phút cường điệu trơ trẽn về ngày tận thế và thuyết duy cảm ngu xuẩn\".\nMột số người tin tưởng vào ngày tận thế năm 2012 đã sử dụng thuật ngữ \"sự thẳng hàng trong Ngân hà\" để mô tả một hiện tượng rất khác biệt đã được đề xuất bởi một số nhà khoa học nhằm giải thích một kiểu tuyệt chủng hàng loạt được tìm thấy trong các hóa thạch. Theo giả thuyết này thì hiện tượng tuyệt chủng hàng loạt không phải ngẫu nhiên mà theo chu kỳ mỗi 26 triệu năm. Để giải thích cho điều này, người ta đưa ra giả thuyết cho rằng do sự dao động theo phương thẳng đứng của Mặt trời khi quay quanh tâm ngân hà gây ra, bởi vì trong quỹ đạo này nó sẽ đi xuyên qua mặt phẳng Ngân hà. Khi Mặt trời nằm ngoài mặt phẳng Ngân hà, thì ảnh hưởng do lực thủy triều của Ngân hà tác động lên nó yếu hơn. Tuy nhiên, theo chu kỳ mỗi 20-25 triệu năm, khi Mặt trời sẽ trở lại đĩa Ngân hà, nó sẽ nhận những tác động thủy triều của Ngân hà mạnh hơn, và theo những mô hình toán học, sự kiện này sẽ làm tăng số lượng các sao chổi của đám mây Oort bay vào Thái Dương hệ lên gấp 4 lần, dẫn đến sự gia tăng khả năng tàn phá của sao chổi. Tuy nhiên, sự \"thẳng hàng\" này diễn ra trong hàng chục triệu năm và không thể xác định được thời điểm chính xác. Bằng chứng cho thấy rằng Mặt trời mới giao cắt với đĩa Ngân hà tại 3 triệu năm trước và bây giờ nó đang di chuyển ra xa hơn.\nMột sự thẳng hàng thứ 3 được đề nghị là một số loại giao hội của các hành tinh sẽ xảy ra vào ngày 21 tháng 12 năm 2012. Tuy nhiên, sẽ không có sự thẳng nào vào ngày đó. Nhiều hành tinh đã nằm thẳng hàng xảy ra trong cả hai năm 2000 và 2010, và cả hai đều chẳng gây kết quả xấu nào đối với Trái Đất. Sao Mộc là hành tinh lớn nhất trong hệ mặt trời..; lớn hơn tất cả các hành tinh khác cộng lại. Khi Sao Mộc đến gần vị trí xung đối, thì Trái Đất sẽ chịu lực hấp dẫn từ Mặt Trăng ít hơn 1% so với thường ngày.\nTrên tờ báo Ý \"La Stampa\" ngày 13 tháng 10 năm 2009, nhà báo Paolo Manzo nêu ra một biểu đồ về sự thẳng hàng \"của Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Thổ, một cảnh tượng thiên văn vô tiền khoáng hậu\" vào ngày định mệnh. Bài viết không đề cập hay tham khảo bất kỳ nguồn tài liệu khoa học chính xác và đáng tin cậy nào, trong khi không một nhà thiên văn học hay chương trình lịch thiên văn trực tuyến nào cho thấy sẽ xuất hiện sự giao hội, và thực tế, họ dự đoán rằng 3 hành tinh trên sẽ nằm ở 3 vị trí dễ dàng nhận thấy khi quan sát từ Trái Đất, như có thể suy ra từ bảng dưới đây, biểu thị các tọa độ thiên văn của Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ trong hệ thống tham chiếu xích đạo địa tâm.\nTrong tháng 5 năm 2000 cũng đã xảy ra một sự liên kết các hành tinh như vậy và đã gây nên một cảm giác lo lắng trong công chúng về sự kiện này, khiến cho các cơ quan khoa học đầu não Hoa Kỳ phải thông cáo báo chí rộng rãi để khẳng định không có bất cứ sự nguy hiểm nào.\nĐịa từ đảo ngược.\nMột quan niệm khác gắn với hiện tượng năm 2012 liên quan đến sự đảo cực của địa từ (những người ủng hộ thuyết này thường lầm là sự đảo ngược địa cực địa lý), có thể được kích hoạt bởi một khối tai lửa mặt trời (\"solar flare\") rất lớn sẽ tạo ra một năng lượng bằng tới 100 tỷ quả bom nguyên tử có kích thước bằng với quả bom thả xuống Hiroshima. Niềm tin này được củng cố bằng những quan sát về sự suy yếu từ trường của Trái Đất, có thể dẫn đến một sự đảo ngược của cực từ Bắc Nam.\nTuy nhiên nhiều nhà phê bình cho rằng sự đảo ngược địa từ phải mất đến 7.000 năm mới hoàn thành, và không biết cụ thể sẽ bắt đầu vào ngày nào. Hơn nữa, Hoa Kỳ và Cơ quan Hải dương và Khí quyển Hoa Kỳ (NOAA) dự đoán năng lượng mặt trời sẽ đạt cao điểm vào tháng 5 năm 2013 chứ không phải là năm 2012, và nó sẽ tương đối yếu dưới mức năng lượng trung bình của những vết đen Mặt Trời. Trong mọi trường hợp, không có bằng chứng khoa học nào đưa ra sự liên quan giữa một khối năng lượng mặt trời cực đại với sự đảo ngược của địa từ, mà nó được hình thành hoàn toàn bởi chính những tác động nội hàm bên trong Trái Đất. Thay vào đó, năng lượng mặt trời chủ yếu gây ảnh hưởng đối với các vệ tinh nhân tạo và mạng truyền thông di động. David Morrison đã quy việc bùng nổ các ý tưởng về một cơn bão mặt trời là do nhà vật lý học, nhà phổ cập khoa học Michio Kaku vì đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn với Fox News rằng một mức đỉnh điểm năng lượng mặt trời vào năm 2012 có thể gây tai hại đối với các quỹ đạo của vệ tinh.\nHành tinh Nibiru.\nMột số những người ủng hộ thuyết tận thế vào năm 2012 cho rằng một hành tinh được gọi là Hành tinh X hay Nibiru sẽ va chạm hoặc đi ngang qua Trái Đất trong năm đó. Quan điểm này đã xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau từ năm 1995, sự kiện này ban đầu được dự kiến sẽ xảy ra vào năm 2003, nhưng đã bị bỏ đi vì chẳng có sự cố nào xảy ra vào ngày đó cả. Ý tưởng bắt nguồn từ những tuyên bố về sự hiệp thông với sự sống ngoài hành tinh, nhưng đã bị cười nhạo. Tính toán của các nhà thiên văn cho thấy vật thể này sẽ tiến rất gần đến Trái Đất mà mắt thường có thể nhìn thấy được trên bầu trời đêm.\nNhững thảm họa khác.\nNhững suy đoán khác về ngày tận thế 2012 có cả những tiên đoán của Dự án Web Bot - một chương trình máy tính dự đoán tương lai bằng phần mềm chat qua Internet. Tuy nhiên, những bình luận viên đã bác bỏ tuyên bố của những lập trình viên cho rằng họ đã dự đoán thảm họa thiên nhiên thành công - điều mà những chương trình chat không thể nào dự báo được, trái với những thảm họa do con người gây ra như sự sụp đổ thị trường chứng khoán. Ngoài ra hiện tượng 2012 còn bị gắn kết một cách thiếu cơ sở với 1 khái niệm đã tồn tại khá lâu là vành đai Photon, dự báo một hình thức tương tác giữa Trái Đất và sao Alcyone, ngôi sao lớn nhất của chòm Tua Rua. Các nhà phê bình cho rằng photon không thể hình thành vành đai, hơn nữa, chòm Tua Rua nằm cách Trái Đất tới hơn 400 năm ánh sáng, không thể gây ảnh hưởng gì tới Trái Đất, và Thái Dương hệ thay vì lại gần chòm sao này, trên thực tế lại di chuyển ra xa hơn. \nMột số phương tiện truyền thông đã gắn kết khả năng siêu sao đỏ khổng lồ Betelgeuse có thể sẽ biến đổi thành một siêu tân tinh trong tương lai với hiện tượng 2012. Tuy nhiên, trong khi Betelgeuse chắc chắn đang trải qua hồi kết của cuộc đời, và sẽ chết như một siêu tân tinh, nhưng không có cách nào dự đoán thời điểm xảy ra sự kiện này trong vòng 100 000 năm. Một siêu tân tinh cần phải nằm cách Thái Dương hệ trong khoảng 25 năm ánh sáng mới có thể đe dọa Trái Đất. Betelgeuse cách khoảng 600 năm ánh sáng, vì thế siêu tân tinh của nó không ảnh hưởng gì tới Trái Đất.\nMột quan điểm khác viện dẫn tới sự xâm lăng của người ngoài hành tinh. Tháng 12 năm 2010, một bài báo được xuất bản lần đầu tại examiner.com và sau đó được tham chiếu trong phiên bản tiếng Anh của Pravda đã đăng tải bức ảnh \"Second Digitalized Sky Survey\" làm bằng chứng khẳng định rằng SETI đã phát hiện ba tàu vũ trụ lớn sẽ đến Trái Đất vào năm 2012. Nhà thiên văn học và người theo chủ nghĩa hoài nghi Phil Plait lưu ý rằng bằng cách sử dụng các công thức góc nhỏ, người ta có thể xác định rằng nếu vật thể trong bức ảnh này to như thế, thì nó sẽ phải ở gần Trái Đất hơn cả Mặt Trăng, điều này có nghĩa là có thể nó đã đến đây rồi.\nẢnh hưởng.\nTheo tính toán của người Maya thì ngày 21 tháng 12 năm 2012 là ngày lịch của họ kết thúc. Đó là khi mặt trời cũng sẽ nằm chính giữa trung tâm Ngân Hà trong Thái Dương Hệ cứ mỗi 26,000 năm, và ngày này cũng trùng vào ngày Đông chí. Chính vì những hiện tượng trùng hợp này người ta cho rằng nguồn năng lượng chiếu vào Trái Đất sẽ bị cản trở, và khoảng giữa của Trái Đất sẽ bị kéo phình ra do lực kéo từ bên ngoài Trái Đất gây ra. Mặt đất lúc đó cũng sẽ bị thay đổi vị trí, những vùng đất liền của các đại lục sẽ bị lôi kéo về phía những miền khác do ảnh hưởng của lực hút từ ngoài Trái Đất của Ngân hà. Khi đó sẽ xảy ra vô số nạn núi lửa, các trận sóng thần lúc đó sẽ nổi lên vô số, và nạn động đất cũng thế.\nMột số mặt của quan điểm này cũng phần nào được xác nhận bởi cơ quan NASA khi họ tuyên bố về hiện tượng những tia lửa và đốm đen từ mặt trời toả ra nhất loạt sẽ gây ra thảm cảnh cúp điện liên tục và các hệ thống vệ tinh nhân tạo sẽ bị cản trở vào năm 2012. Trong bản tường trình của NASA vào năm 2002 cho thấy Trái Đất bị đã phình ra ở khúc giữa từ 1998, với hình ảnh chứng minh do hệ thống vệ tinh chụp được.\nPhản ứng.\nHiện tượng này đã làm sản sinh ra hàng trăm cuốn sách và hàng ngàn website. \"Hãy hỏi nhà sinh vật học thiên thể\" - một website công cộng của NASA đã nhận được hơn 5000 câu hỏi của công chúng về chủ đề này từ 2007, một số hỏi rằng liệu họ có nên giết chính mình, con cái và thú nuôi của họ. Nhiều tài liệu tham khảo hư cấu hiện đại cho rằng ngày 21 tháng 12 là ngày của một sự kiện thảm họa, bao gồm cả cuốn sách bán chạy nhất 2009, \"Biểu tượng thất truyền\" của Dan Brown. Ann Martin, người chủ của trang web về thuật chiêm tinh ở Hoa Kỳ đã nhận được vô số email của rất nhiều người trên thế giới lo ngại về vấn đề này và những cậu bé nhỏ viết than phiền rằng các cậu quá trẻ để phải chết. Về phía Giáo hội Công giáo, trong một buổi tiếp kiến chung tại Quảng trường Thánh Phêrô hôm 18 tháng 11 năm 2012, Giáo hoàng Biển Đức XVI đã bác bỏ về tin đồn này, ông cho rằng Chúa Giêsu muốn khuyên các môn đệ ở mọi thời đại hãy thôi tò mò về ngày tháng và các dự báo nhưng muốn ban cho họ chìa khóa mở ra con đường đúng đắn để sống trong hôm nay và ngày mai nhằm bước vào sự sống vĩnh hằng. Ngay cả linh mục José Gabriel Funes (Dòng Tên) là giám đốc Đài quan sát thiên văn của Vatican cũng nói rằng không cần phải thảo luận về nền tảng khoa học của những lời khẳng định này vì rõ ràng đó là sai lạc. Cho đến nay, chưa có ghi nhận nào cho thấy người Công giáo sẽ \"đối phó\" trước sự kiện 21 tháng 12 năm nay, họ vẫn chỉ chuẩn bị đón Lễ Giáng Sinh như mọi năm. Tại Việt Nam, dù cho nhiều nhà khoa học và tổ chức nổi tiếng như NASA đều phủ nhận là không có ngày tận thế nhưng rất nhiều người vẫn sợ hãi và hoang mang. Ông Nguyễn Đức Phường, Hội thiên văn vũ trụ Việt Nam nếu ra một lý thuyết giải thích lý do tại sao vụ tận thế này lại có rất nhiều người quan tâm so với những vụ tận thế đã bị \"hụt\" khác. Ông nghĩ rằng bởi vì do tốc độ phát triển của thế giới hiện nay quá nhanh và các thông tin được truyền tải một cách rất nhanh và rộng do đó nhiều người đã quá nhạy cảm với những thông tin nhận được đặc biệt những thông tin sốc gây tò mò lại được quan tâm đặc biệt hơn nữa. Ông cũng đề nghị rằng chỉ nên tin tưởng những thông tin được phát ngôn từ những tổ chức hay nhà khoa học uy tín.\nVăn hóa.\nNổi bật nhất là bộ phim \"2012\" được ra mắt vào tháng 11 năm 2009, do đạo diễn Roland Emmerich chỉ đạo thực hiện. Bộ phim này được lấy cảm hứng từ hiện tượng 2012, và được quảng cáo trước khi phát hành bằng một chiến dịch \"Marketing tin đồn\" thông qua TV và những trang mang từ tổ chức hư cấu \"Vì sự tồn vong của loài người\" kêu gọi mọi người chuẩn bị cho đoạn kết của thế giới. Vì quảng cáo không hề đề cập gì tới bộ phim, nhiều người xem đã tin điều đó là thật và liên lạc với những nhà thiên văn học trong hoảng loạn. Dù chiến dịch quảng cáo trên bị chỉ trích nặng nề, song bộ phim đã trở thành một trong những phim thành công nhất năm đó, đem lại lợi nhuận khoảng 770 triệu USD trên toàn cầu.\nBộ phim được đề cử Oscar năm 2011 - Melancholia của Lars von Trier có nội dung nói về một hành tinh xuất hiện từ phía sau Mặt Trời chuẩn bị đâm vào Trái Đất. Người đứng đầu hãng Magnolia Pictures - đơn vị đã mua bộ phim cho biết trong một thông cáo báo chí, \"Thảm họa 2012 đang tới rất gần, giờ là lúc chuẩn bị cho bữa tối cuối cùng đậm chất điện ảnh\", nhắc đến hiện tượng này. Nó cũng là niềm cảm hứng cho một số bài hát khá thành công như \"2012 (It Ain't the End)\" (2010) của Jay Sean và \"Till the World Ends\" (2011) của Britney Spears." ]
tit - maya - lch - tri - baktun - gregory - xun - 2012 - im - hay
0.946713
false
Phương trình là một biểu thức toán học có chứa các biến số và các phép toán, trong đó các giá trị của các biến được tìm kiếm để làm cho cả biểu thức trở thành một phép tính đúng. Phương trình thường chứa dấu bằng (=), biểu thị sự bằng nhau giữa hai biểu thức. Mục tiêu của việc giải phương trình là tìm ra các giá trị của các biến để biểu thức trở thành đúng và có nghĩa. Có nhiều loại phương trình khác nhau, bao gồm phương trình đại số, phương trình vi phân, phương trình vi phân phân tử và nhiều hơn nữa. Phương trình được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như toán học, khoa học, kỹ thuật và kinh tế. Trong toán học, phương trình là một từ biểu thị sự bằng nhau giữa hai biểu thức có chứa biến (mối quan hệ giữa các biến số). Phương trình trong các ngôn ngữ khác nhau có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau; ví dụ, trong tiếng Pháp, từ "équation" có nghĩa là đẳng thức chứa một hoặc nhiều biến; còn trong tiếng Anh, từ "equation" có nghĩa là bất kỳ đẳng thức nào. Giải một phương trình chứa biến là việc xác định giá trị của các biến làm cho đẳng thức trở nên đúng. Biến còn được gọi là ẩn số, các giá trị của ẩn số thỏa mãn được gọi là nghiệm của phương trình. Có hai loại phương trình là đồng nhất thức và phương trình có điều kiện. Một đồng nhất thức đúng với tất cả các giá trị của biến còn phương trình có điều kiện chỉ đúng với các giá trị nhất định của các biến số, hoặc không đúng với giá trị nào (còn gọi là phương trình vô nghiệm). Một phương trình được viết dưới dạng hai biểu thức, nối với nhau bằng dấu bằng (=). Biểu thức nằm phía bên trái dấu bằng còn được gọi là "vế trái", còn biểu thức nằm phía bên phải dấu bằng còn được gọi là "vế phải". Loại phương trình phổ biến nhất là phương trình đại số, trong đó hai vế là các biểu thức đại số. Mỗi bên của một phương trình đại số chứa một hoặc nhiều số hạng. Ví dụ, phương trình formula_1 có vế trái là với ba số hạng, và vế phải là chỉ có một số hạng. Các ẩn số là và , còn A, B, C là các tham số. Để biến đổi một phương trình mà không làm thay đổi tập nghiệm của nó, các phép toán cộng, trừ, nhân, chia giống nhau phải được thực hiện trên cả hai vế của một phương trình. Trong hình học, phương trình được sử dụng để mô tả các hình dạng khác nhau. Các phương trình chẳng hạn như phương trình ẩn hoặc phương trình tham số có vô số nghiệm và thay vì xác định cụ thể các nghiệm hoặc liệt kê chúng, người ta sử dụng phương trình để nghiên cứu tính chất của những hình dạng. Đây là ý tưởng khởi đầu của hình học đại số, một lĩnh vực quan trọng của toán học. Đại số nghiên cứu hai loại phương trình chính là phương trình đa thức và phương trình tuyến tính. Khi chỉ có một biến, phương trình đa thức có dạng , trong đó là một đa thức; còn phương trình tuyến tính có dạng , trong đó và là các tham số. Để giải các phương trình dạng này, người ta sử dụng các kỹ thuật hình học hoặc thuật toán bắt nguồn từ giải tích hoặc đại số tuyến tính. Đại số cũng nghiên cứu phương trình Diophantos trong đó các hệ số và nghiệm là các số nguyên. Có nhiều kỹ thuật khác nhau được sử dụng, chủ yếu đến từ lý thuyết số. Phương trình vi phân là phương trình liên quan đến một hoặc nhiều hàm và đạo hàm của chúng. Chúng được "giải" khi ta tìm được một biểu thức cho hàm không phụ thuộc vào đạo hàm của nó. Phương trình vi phân được sử dụng để mô hình hóa các quá trình liên quan đến tốc độ thay đổi của biến số và được sử dụng trong các lĩnh vực như vật lý, hóa học, sinh học và kinh tế. Ký hiệu "=" xuất hiện trong mọi phương trình, được phát minh vào năm 1557 bởi Robert Recorde, người cho rằng không gì bằng nhau hơn hai đường thẳng song song có cùng độ dài. Giới thiệu. Minh họa. Giả sử một phương trình tương tự như cái cân, cân bằng hoặc chênh lệch. Mỗi vế của phương trình tương ứng với một vế của sự cân bằng. Các đại lượng khác nhau có thể được đặt ở mỗi bên: nếu khối lượng ở hai bên bằng nhau thì cái cân sẽ cân bằng và tương tự như vậy thì cân bằng biểu thị số dư cũng là cân bằng (nếu không, thì cân bằng tương ứng với một bất đẳng thức được biểu thị bằng một bất phương trình). Trong hình minh họa, "x", "y," "z" là tất cả các đại lượng khác nhau (trong trường hợp này là số thực) được biểu diễn dưới dạng khối lượng các hạt tròn và mỗi đại lượng "x", "y," "z" được biểu diễn bởi mỗi hạt có khối lượng khác nhau. Phép cộng tương ứng với việc thêm khối lượng, trong khi phép trừ tương ứng với việc loại bỏ khối lượng. Nếu đẳng thức đúng, tổng khối lượng của mỗi bên sẽ như nhau. Tham số và ẩn số. Tham số là một giá trị cố định trong một phương trình hoặc hệ phương trình. Nó được coi là một hằng số và không thay đổi trong quá trình giải phương trình. Tham số thường được ký hiệu bằng các chữ cái hoa (ví dụ: a, b, c) và thường mang ý nghĩa đại diện cho một thông số hoặc một đặc điểm cụ thể trong bài toán. Ẩn số là một biến số mà chúng ta cần tìm giá trị của nó trong quá trình giải phương trình hoặc hệ phương trình. Ẩn số thường được ký hiệu bằng các chữ cái thường (ví dụ: x, y, z) và biểu thị một giá trị không xác định mà chúng ta muốn tìm ra. Khi giải phương trình, mục tiêu của chúng ta là tìm giá trị cụ thể cho ẩn số sao cho phương trình trở thành một phép tính đúng. Để phân biệt giữa tham số và ẩn số trong một phương trình, chúng ta thường gán giá trị cụ thể cho tham số trước khi giải phương trình. Khi đó, chúng ta có thể xem phương trình là một phép tính với ẩn số mà chúng ta muốn tìm ra giá trị. Phương trình thường chứa các số hạng khác với ẩn số. Các thuật ngữ khác này, được giả định là đã "biết", thường được gọi là "hằng số", "hệ số" hoặc "tham số". Một ví dụ về phương trình với ẩn số x, y và tham số "R" là formula_2 Khi "R" được chọn có giá trị là 2 ("R" = 2), phương trình này khi được phác thảo trong hệ tọa độ Descartes, là phương trình cho một đường tròn có bán kính là 2. Do đó, phương trình với "R" không xác định là phương trình tổng quát của đường tròn có bán kính R. Thông thường, các ẩn số được ký hiệu bằng các chữ cái ở cuối bảng chữ cái: "x", "y", "z", "w"..., trong khi các hệ số (tham số) được ký hiệu bằng các chữ cái ở đầu bảng: "a", "b", "c", "d"... Ví dụ, phương trình bậc hai tổng quát thường được viết "ax"2 + "bx" + "c" = 0. Quá trình tìm nghiệm, hoặc trong trường hợp tham số, biểu diễn ẩn số dưới dạng tham số được gọi là giải phương trình. Biểu thức của nghiệm như vậy diễn đạt bằng các thông số còn được gọi là nghiệm số"." Hệ phương trình là một tập hợp các "phương trình", thường có một số ẩn số, mà các nghiệm chung được tìm kiếm. Do đó, một nghiệm "của hệ phương trình" là một tập hợp các giá trị cho mỗi ẩn số, chúng cùng nhau tạo thành một nghiệm cho mỗi phương trình trong hệ thống. Ví dụ, hệ phương trình: formula_3 có nghiệm duy nhất ("x";"y)" = (−1;1). Phương trình vô số nghiệm. Phương trình vô số nghiệm là một phương trình đúng với tất cả các giá trị có thể có của (các) biến mà nó chứa. Trong quá trình giải một phương trình, một phương trình vô số nghiệm thường được sử dụng để đơn giản hóa một phương trình làm cho nó dễ giải hơn. Trong đại số, một ví dụ về phương trình vô số nghiệm là hiệu của hai bình phương: formula_4 Phương trình này đúng với mọi "x" và "y". Lượng giác là một lĩnh vực tồn tại nhiều đồng nhất thức; chúng rất hữu ích trong việc vận dụng hoặc giải các phương trình lượng giác. Hai trong số nhiều đồng nhất thức liên quan đến hàm sin và côsin là: formula_5 và formula_6 luôn đúng với mọi "θ." Ví dụ, để tìm giá trị của "θ" thỏa mãn phương trình: formula_7 trong đó "θ" được biết là giới hạn trong khoảng từ 0 đến 45 độ, chúng ta có thể sử dụng đồng nhất thức cho tích ở trên để tạo ra: formula_8 cho kết quả formula_9 Vì hàm sin là một hàm tuần hoàn nên có vô số nghiệm nếu "θ" không có điều kiện. Trong ví dụ này, "θ" nằm trong khoảng từ 0 đến 45 độ nên phương trình chỉ có một nghiệm duy nhất. Phương trình tương đương và phương trình hệ quả. Khái niệm. Phương trình tương đương là các phương trình mà khi giải cùng một cách, sẽ cho ra các nghiệm giống nhau. Điều này có nghĩa là nếu ta thay các giá trị của biến vào một phương trình tương đương, kết quả sẽ là như nhau. Để chuyển đổi một phương trình thành phương trình tương đương, ta có thể áp dụng các phép biến đổi hợp lệ trên cả hai vế của phương trình mà không làm thay đổi giá trị nghiệm của nó. Các phép biến đổi phổ biến bao gồm cộng hoặc trừ cùng một số vào cả hai vế, nhân hoặc chia cả hai vế bởi cùng một số, sử dụng các quy tắc đổi dấu và bỏ qua các mục không cần thiết. Ví dụ, hai phương trình sau đây là tương đương: Bằng cách trừ 3 từ cả hai vế của Phương trình 1, ta nhận được Phương trình 2. Do đó, cả hai phương trình đều có cùng một nghiệm là x = 2. Phương trình tương đương thường được sử dụng để đơn giản hóa hoặc thay đổi dạng của một phương trình mà không làm thay đổi nghiệm của nó, từ đó giúp trong việc giải phương trình hoặc phân tích bài toán liên quan. Cho phương trình (1) formula_10 có tập nghiệm là formula_11 và phương trình (2) formula_12 có tập nghiệm là formula_13. Ví dụ, phương trình formula_18 có nghiệm formula_19 Nâng cả hai vế lên số mũ của 2 (có nghĩa là áp dụng hàm formula_20 về cả hai vế của phương trình) thay đổi phương trình thành formula_21, không chỉ có nghiệm trước đó mà còn tạo ra nghiệm ngoại lai là formula_22 Hơn nữa, nếu hàm không xác định tại một số giá trị (chẳng hạn như 1/"x", không được xác định khi "x" = 0), các nghiệm tồn tại các giá trị đó có thể bị mất. Vì vậy, cần phải thận trọng khi áp dụng một phép biến đổi như vậy cho một phương trình. Các phép biến đổi tương đương. Các phép toán sau đây biến một phương trình thành một phương trình tương đương - với điều kiện là các phép toán đó có ý nghĩa đối với các biểu thức mà chúng được áp dụng: Các phép biến đổi trên là cơ sở của hầu hết các phương pháp cơ bản để giải phương trình cũng như một số phương pháp ít cơ bản hơn, như phương pháp khử Gauss. Đại số. Phương trình đa thức. Phương trình đa thức là một phương trình trong đó có ít nhất một biến và các hạng tử đa thức. Một đa thức là một biểu thức đại số có chứa các biến và các hệ số, và các phép toán như cộng, trừ, nhân và luỹ thừa. Phương trình đa thức thường được biểu diễn dưới dạng đa thức bằng việc đặt biểu thức đa thức bằng 0. Mục tiêu khi giải phương trình đa thức là tìm các giá trị của biến mà khi thay vào phương trình, biểu thức trở thành phép tính đúng. Ví dụ, phương trình đa thức sau đây là một phương trình đa thức bậc hai: formula_23 Trong phương trình trên, x là biến, và các hệ số là 1, -5 và 6. Mục tiêu là tìm giá trị của x sao cho phương trình trở thành một phép tính đúng. Trong trường hợp này, các giá trị của x là 2 và 3, vì khi thay x = 2 hoặc x = 3 vào phương trình, ta có được phép tính đúng 0 = 0. Phương trình đa thức được sử dụng rộng rãi trong toán học và các lĩnh vực liên quan như vật lý, kỹ thuật và kinh tế để mô hình hóa các tình huống phức tạp và giải quyết các vấn đề thực tế. Nói chung, một "phương trình đại số" hoặc phương trình đa thức là một phương trình có dạng formula_24 hoặc formula_25 Trong đó "P(x)" và "Q(x)" là các đa thức với hệ số trong một tập hợp số nào đó (số thực, số phức, v.v...), và thường là tập hợp các số hữu tỉ. Một phương trình đại số là "đơn biến" nếu nó chỉ chứa một biến. Mặt khác, một phương trình đa thức có thể bao gồm một số biến, trong trường hợp đó nó được gọi là "đa biến" (nhiều biến, x, y, z...). Thuật ngữ "phương trình đa thức" thường được ưu tiên hơn "phương trình đại số". Ví dụ, formula_26 là một phương trình đại số (đa thức) đơn biến với các hệ số nguyên và formula_27 là một phương trình đa thức nhiều biến trên trường các số hữu tỉ. Không phải tất cả các phương trình đa thức với hệ số hữu tỉ đều có nghiệm là biểu thức đại số với một số hữu hạn các phép toán chỉ liên quan đến các hệ số đó (nghĩa là nó có thể được giải bằng đại số).Phương pháp giải bằng đại số có thể được thực hiện cho tất cả các phương trình bậc một, hai, ba hoặc bốn; nhưng đối với bậc năm trở lên, nó có thể được giải cho một số phương trình, nhưng như định lý Abel-Ruffini chứng minh, không phải cho tất cả. Một lượng lớn nghiên cứu đã được dành để tính toán các giá trị gần đúng chính xác hiệu quả của các nghiệm thực hoặc nghiệm phức của một phương trình đại số đơn biến (xem phần Tìm nghiệm nguyên của đa thức) và các nghiệm chung của một số phương trình đa thức nhiều biến (xem Hệ phương trình đa thức). Hệ phương trình tuyến tính. Hệ phương trình tuyến tính (hay "hệ tuyến tính") là một tập hợp các phương trình tuyến tính liên quan đến cùng một tập các biến. Ví dụ: formula_28 Là một hệ ba phương trình theo ba biến . Một nghiệm số cho một hệ thống tuyến tính là một phép gán các số cho các biến sao cho tất cả các phương trình được thỏa mãn đồng thời. Một nghiệm số cho hệ phương trình trên là formula_29 vì nó làm cho cả ba phương trình cùng đúng. Từ "hệ" chỉ ra rằng các phương trình được xem xét chung, thay vì riêng lẻ. Trong toán học, lý thuyết về hệ tuyến tính là cơ sở và là một phần cơ bản của đại số tuyến tính, một chủ đề được sử dụng trong hầu hết các phần của toán học hiện đại. Các thuật toán tính toán để tìm ra lời giải là một phần quan trọng của đại số tuyến tính và đóng một vai trò nổi bật trong vật lý, kỹ thuật, hóa học, khoa học máy tính và kinh tế. Một hệ phương trình tuyến tính thường có thể xấp xỉ bằng một hệ thống tuyến tính (xem tuyến tính hóa), một kỹ thuật hữu ích khi tạo mô hình toán học hoặc mô phỏng máy tính của một hệ thống tương đối phức tạp. Hình học. Hình học giải tích. Trong hình học Euclide, có thể liên kết một tập hợp các tọa độ với mỗi điểm trong không gian, ví dụ bằng một lưới trực giao. Phương pháp này cho phép người ta mô tả các hình hình học bằng các phương trình. Một mặt phẳng trong không gian ba chiều có thể được biểu diễn dưới dạng tập nghiệm của một phương trình có dạng formula_30. Ở đây formula_31 là các hệ số thực và formula_32 là các ẩn số tương ứng với tọa độ của một điểm trong hệ được cho bởi lưới trực giao. Giá trị formula_33 là tọa độ của một vectơ vuông góc với mặt phẳng được xác định bởi phương trình. Một đường được biểu thị là giao của hai mặt phẳng, đó là tập nghiệm của một phương trình tuyến tính duy nhất với các giá trị trong formula_34 hoặc dưới dạng tập nghiệm của hai phương trình tuyến tính với các giá trị trong formula_35 Đường conic là tập hợp các giao điểm của một mặt nón có phương trình formula_36 và một mặt phẳng. Nói cách khác, trong không gian, mọi hình nón được định nghĩa là tập nghiệm của phương trình mặt phẳng và phương trình của hình nón vừa cho. Chủ nghĩa hình thức này cho phép người ta xác định vị trí và thuộc tính của trọng tâm trong một đường conic. Việc sử dụng các phương trình cho phép người ta sử dụng một lĩnh vực toán học rộng lớn để giải các câu hỏi hình học. Hệ tọa độ Descartes biến một bài toán hình học thành một bài toán phân tích, một khi các hình được biến đổi thành phương trình; do đó tên hình học giải tích. Quan điểm này do Descartes nêu ra đã làm phong phú và sửa đổi loại hình học được các nhà toán học Hy Lạp cổ đại hình thành. Hiện nay, hình học giải tích chỉ định một nhánh hoạt động của toán học. Mặc dù nó vẫn sử dụng các phương trình để mô tả các số liệu, nó cũng sử dụng các kỹ thuật phức tạp khác như giải tích hàm và đại số tuyến tính. Phương trình Descartes. Một hệ tọa độ Descartes là một hệ tọa độ mà quy định cụ thể từng điểm duy nhất trong một mặt phẳng bởi một cặp số tọa độ, đó là những khoảng cách có dấu từ điểm đến hai trục cố định vuông góc với nhau, được đánh dấu bằng cách sử dụng cùng một vector đơn vị chiều dài. Người ta có thể sử dụng cùng một nguyên tắc để xác định vị trí của bất kỳ điểm nào trong không gian ba chiều bằng cách sử dụng ba tọa độ Descartes, là những khoảng cách có dấu đến ba mặt phẳng vuông góc với nhau (hoặc tương đương, bằng phép chiếu vuông góc của nó lên ba đường vuông góc với nhau). Việc phát minh ra hệ tọa độ vào thế kỷ XVII do René Descartes (tên Latinh: "Cartesius") đã cách mạng hóa toán học bằng cách cung cấp mối liên hệ có hệ thống đầu tiên giữa hình học Euclid và đại số. Sử dụng hệ tọa độ Descartes, các hình dạng hình học (chẳng hạn như đường cong) có thể được mô tả bằng phương trình Descartes: phương trình đại số liên quan đến tọa độ của các điểm nằm trên hình dạng. Ví dụ, một đường tròn bán kính 2 trong một mặt phẳng, có tâm tại một điểm cụ thể được gọi là điểm gốc, có thể được mô tả là tập hợp tất cả các điểm có tọa độ "x" và "y" thỏa mãn phương trình . Phương trình tham số. Phương trình tham số cho đường cong biểu thị tọa độ của các điểm trên đường cong dưới dạng hàm của một biến số, được gọi là tham số. Ví dụ, formula_37 Là phương trình tham số của đường tròn đơn vị, trong đó "t" là tham số. Cùng với nhau, những phương trình này được gọi là biểu diễn tham số của đường cong. Khái niệm về "phương trình tham số" đã được tổng quát hóa cho các bề mặt, đa tạp và các dạng đại số có số chiều cao hơn, với số lượng tham số bằng thứ nguyên của đa tạp hoặc đa dạng, và số phương trình bằng thứ nguyên của không gian trong đó đa tạp hoặc đa dạng được xem xét (đối với đường cong, kích thước là "một" và "một" tham số được sử dụng, đối với bề mặt có kích thước "hai" và "hai" tham số, v.v...). Lý thuyết số. Phương trình Đi-ô-phăng. Phương trình Đi-ô-phăng là một phương trình đa thức trong hai hay nhiều ẩn số mà chỉ cần quan tâm đến các nghiệm là các số nguyên (một nghiệm số nguyên là một nghiệm mà tất cả các ẩn số là các số nguyên). Phương trình Đi-ô-phăng tuyến tính là một phương trình giữa hai tổng đơn thức bậc không hoặc bậc nhất. Một ví dụ về phương trình Đi-ô-phăng tuyến tính là , trong đó "a", "b" và "c" là các hằng số. Phương trình Diophantine hàm mũ là một phương trình mà số mũ của các số hạng của phương trình có thể là ẩn số. Các bài toán Đi-ô-phăng có ít phương trình hơn các biến chưa biết và liên quan đến việc tìm số nguyên cho kết quả chính xác cho tất cả các phương trình. Trong ngôn ngữ kỹ thuật hơn, các nghiệm này xác định một đường cong đại số, bề mặt đại số hoặc đối tượng tổng quát hơn, và hỏi về các điểm lưới trên đó. Từ "Đi-ô-phăng" dùng để chỉ nhà toán học Hy Lạp ở thế kỷ thứ III, Diophantus ở Alexandria, người đã nghiên cứu các phương trình như vậy và là một trong những nhà toán học đầu tiên đưa chủ nghĩa ký hiệu vào đại số. Nghiên cứu toán học về các vấn đề Đi-ô-phăng mà Đi-ô-phăng khởi xướng hiện nay được gọi là giải tích Đi-ô-phăng. Số đại số và số siêu việt. Số đại số là một số mà là nghiệm của một phương trình đa thức khác 0 một biến với các hệ số hữu tỉ (hoặc tương đương - bằng cách xóa các mẫu số - với các hệ số nguyên). Các số như pi không phải là đại số mà được gọi là số siêu việt. Hầu hết tất cả các số thực và số phức đều là các số siêu việt. Hình học đại số. Hình học đại số là một nhánh của toán học, nghiên cứu một cách cổ điển các nghiệm của phương trình đa thức. Hình học đại số hiện đại dựa trên các kỹ thuật trừu tượng hơn của đại số trừu tượng, đặc biệt là đại số giao hoán, với ngôn ngữ và các vấn đề của hình học. Đối tượng nghiên cứu cơ bản của hình học đại số là các dạng đại số, là các biểu hiện hình học của các nghiệm của hệ phương trình đa thức. Ví dụ về các lớp đa dạng đại số được nghiên cứu nhiều nhất là: đường cong đại số phẳng, bao gồm đường thẳng, đường tròn, parabol, hình elip, hypebol, đường cong hình khối như đường cong elliptic và đường cong tứ phương như hình chanh, và hình bầu dục Cassini. Một điểm của mặt phẳng thuộc một đường cong đại số nếu tọa độ của nó thỏa mãn một phương trình đa thức đã cho. Các câu hỏi cơ bản liên quan đến việc nghiên cứu các điểm quan tâm đặc biệt như điểm kỳ dị, điểm uốn và điểm ở vô cùng. Các câu hỏi nâng cao hơn liên quan đến cấu trúc liên kết của đường cong và quan hệ giữa các đường cong được cho bởi các phương trình khác nhau. Phương trình vi phân. Phương trình vi phân là một phương trình toán học liên hệ một số hàm với các đạo hàm của nó. Trong các ứng dụng, các hàm thường đại diện cho các đại lượng vật lý, các đạo hàm đại diện cho tốc độ thay đổi của chúng và phương trình xác định mối quan hệ giữa hai hàm. Bởi vì các mối quan hệ như vậy là rất phổ biến, phương trình vi phân đóng một vai trò quan trọng trong nhiều ngành bao gồm vật lý, kỹ thuật, kinh tế và sinh học. Trong toán học thuần túy, phương trình vi phân được nghiên cứu từ nhiều khía cạnh khác nhau, chủ yếu quan tâm đến nghiệm của chúng - tập các hàm thỏa mãn phương trình. Chỉ những phương trình vi phân đơn giản nhất mới có thể giải được bằng công thức tường minh; tuy nhiên, một số tính chất của nghiệm của một phương trình vi phân đã cho có thể được xác định mà không cần tìm dạng chính xác của chúng. Nếu không có công thức riêng cho giải pháp, thì lời giải có thể được tính gần đúng về mặt số học bằng máy tính. Lý thuyết hệ động lực tập trung vào phân tích định tính các hệ được mô tả bằng phương trình vi phân, trong khi nhiều phương pháp số đã được phát triển để xác định các nghiệm với một mức độ chính xác nhất định. Phương trình vi phân thường. Một phương trình vi phân thông thường hoặc ODE là một phương trình chứa một hàm của một biến độc lập và các đạo hàm của nó. Thuật ngữ " "thông thường" " được sử dụng trái ngược với thuật ngữ phương trình vi phân riêng phần, có thể liên quan đến "nhiều hơn" một biến độc lập. Phương trình vi phân tuyến tính, có các nghiệm có thể được thêm và nhân với hệ số, được xác định và hiểu rõ, đồng thời thu được các nghiệm dạng đóng chính xác. Ngược lại, các ODE thiếu các giải pháp cộng là phi tuyến tính và việc giải chúng phức tạp hơn nhiều, vì người ta hiếm khi có thể biểu diễn chúng bằng các hàm cơ bản ở dạng đóng: Thay vào đó, các giải pháp chính xác và giải tích của ODE ở dạng chuỗi hoặc tích phân. Các phương pháp đồ thị và số, được áp dụng bằng tay hoặc bằng máy tính, có thể ước tính các giải pháp của ODE và có thể mang lại thông tin hữu ích, thường chỉ đủ trong trường hợp không có các nghiệm số tích phân chính xác. Phương trình vi phân riêng phần. Phương trình đạo hàm riêng hoặc PDE là một phương trình vi phân có chứa các hàm nhiều biến chưa biết và các đạo hàm riêng của chúng. (Điều này trái ngược với các phương trình vi phân thông thường, xử lý các hàm của một biến duy nhất và các đạo hàm của chúng). PDE được sử dụng để xây dựng các vấn đề liên quan đến các hàm của một số biến và được giải quyết bằng tay hoặc được sử dụng để tạo ra một mô hình máy tính có liên quan. PDE có thể được sử dụng để mô tả một loạt các hiện tượng như âm thanh, nhiệt, tĩnh điện, điện động lực học, dòng chất lỏng, độ đàn hồi, hoặc cơ học lượng tử. Các hiện tượng vật lý có vẻ khác biệt này có thể được hình thức hóa tương tự về mặt PDE. Cũng giống như phương trình vi phân thông thường thường mô hình hệ động lực một chiều, phương trình đạo hàm riêng thường mô hình hệ thống nhiều chiều. PDE tìm thấy tổng quát của chúng trong các phương trình vi phân riêng ngẫu nhiên. Các loại phương trình. Các phương trình có thể được phân loại theo các loại hoạt động và số lượng liên quan. Các loại quan trọng bao gồm:
21
21_vect_ton_hm_gic
[ "vect", "ton", "hm", "gic", "logarit", "tam", "nu", "formula1", "xc", "tp" ]
[ " \nTam giác hay hình tam giác là một loại hình cơ bản trong hình học: hình hai chiều phẳng có ba đỉnh là ba điểm không thẳng hàng và ba cạnh là ba đoạn thẳng nối các đỉnh với nhau. Tam giác là đa giác có số cạnh ít nhất (3 cạnh). Tam giác luôn luôn là một đa giác đơn và luôn là một đa giác lồi (các góc trong luôn nhỏ hơn 180°). Một tam giác có các cạnh AB, BC và AC được ký hiệu là formula_1.\nTừ nguyên.\nChữ Hán: 三角; nghĩa: \"ba góc\".\nCác yếu tố trong một tam giác.\nCác góc trong một tam giác được gọi là góc trong. Các góc kề bù với góc trong được gọi là góc ngoài. Góc ngoài thì bằng tổng các góc trong không kề bù với nó. Mỗi tam giác chỉ có 3 góc trong và 6 góc ngoài.\nCác đường đồng quy của tam giác.\nĐường cao là một đoạn thẳng đi qua một đỉnh và vuông góc với cạnh đối diện của đỉnh đó. Mỗi tam giác chỉ có ba đường cao. Ba đường cao của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm này được gọi là trực tâm của tam giác. Đường cao đi qua đỉnh góc vuông của một tam giác vuông thì sẽ chia tam giác ấy thành 2 tam giác đồng dạng với và cùng đồng dạng với tam giác đã cho.\nĐường trung tuyến là một đoạn thẳng nối từ đỉnh đến trung điểm của cạnh đối diện. Một tam giác chỉ có ba đường trung tuyến. Ba đường trung tuyến của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm này được gọi là trọng tâm của tam giác. Khoảng cách từ trọng tâm đến mỗi đỉnh bằng formula_2 đường trung tuyến tương ứng với đỉnh đó và suy ra, khoảng cách từ trọng tâm đến mỗi trung điểm bằng formula_3 đường trung tuyến tương ứng với điểm đó. Trên một mặt phẳng, đường thẳng đi qua bất kỳ một đỉnh và trọng tâm của \"tam giác đều\" thì chia tam giác đó thành hai tam giác có diện tích bằng nhau. Trong một tam giác, ba trung tuyến chia tam giác đó thành 6 tam giác có diện tích bằng nhau.\nĐường trung trực của một tam giác là đường vuông góc với một cạnh của tam giác đó tại trung điểm. Mỗi tam giác chỉ có ba đường trung trực. Ba đường trung trực của một tam giác đồng quy tại một điểm, điểm đó có tên gọi là tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác. Tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác cách đều ba đỉnh của tam giác đó.\nĐường phân giác là đoạn thẳng nối từ đỉnh đến cạnh đối diện và chia góc ở đỉnh làm 2 phần có số đo góc bằng nhau. Mỗi tam giác chỉ có ba đường phân giác. Ba đường này đồng quy tại một điểm. Điểm đó có tên gọi là tâm của đường tròn nội tiếp tam giác. Khoảng cách từ tâm của đường tròn nội tiếp tam giác tới các cạnh là bằng nhau. Đường phân giác đi qua một góc của một đinh tam giác thì chia cạnh đối diện của góc đó những đoạn tỉ lệ với hai cạnh còn lại của tam giác.\nTheo định lý Euler: \"Trong một tam giác:\" \"trực tâm, trọng tâm, tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác cùng thuộc một đường thẳng, trọng tâm sẽ nằm giữa trực tâm và tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác, từ trực tâm đến tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác sẽ bằng 3 lần từ trọng tâm đến tâm của đường tròn ngoại tiếp tam giác. Đường thẳng chứa ba điểm đó được gọi là đường thẳng Euler.\"\nSự bằng nhau giữa các tam giác.\nHai tam giác được gọi là bằng nhau khi chúng có thể đặt trùng khít lên nhau sau một số phép tịnh tiến, quay và đối xứng. Nói cách khác hai tam giác được gọi là bằng nhau nếu chúng có các cạnh tương ứng bằng nhau và các góc tương ứng bằng nhau. Hai tam giác bằng nhau khi và chỉ khi thỏa mãn một trong bảy điều kiện sau đây:\nSự đồng dạng giữa các tam giác.\nHai tam giác được gọi là đồng dạng nếu một trong chúng bằng với một tam giác nhận được từ tam giác kia sau một phép vị tự. Các điều kiện cần và đủ để hai tam giác đồng dạng:\nCác tính chất của tam giác đồng dạng:\nTỉ số đồng dạng của hai tam giác là tỷ số giữa hai cạnh tương ứng bất của hai tam giác đó khi chúng đồng dạng\nPhân loại tam giác.\nTrong hình học Euclid, thuật ngữ \"tam giác\" thường được hiểu là tam giác nằm trên một mặt phẳng. Ngoài ra còn có tam giác cầu trong hình học cầu, tam giác hyperbol trong hình học hyperbol. Tam giác phẳng có một số dạng đặc biệt, được xét theo tính chất các cạnh và các góc của nó:\nMột số tính chất của tam giác (trong hình học Euclid).\nTrong hình học phi Euclid thì một tam giác có thể có tổng ba góc phụ thuộc vào kích thước của tam giác, khi kích thước tam giác gia tăng thì tổng đó tiến tới giá trị là 0 và có diện tích là vô hạn.\nCác công thức tính diện tích tam giác.\nTính diện tích tam giác là một bài toán cơ bản thường được gặp trong hình học sơ cấp.\nBằng cách sử dụng hình học.\nDiện tích \"S\" bằng \"½bh\", trong đó \"b\" là độ dài của một cạnh bất kỳ của tam giác (thường gọi là \"đáy\") và \"h\" là độ dài đường cao hạ từ đỉnh đối diện xuống cạnh ấy.\nCó thể giải thích công thức này bằng cách dùng diện tích hình chữ nhật như sau:\nTừ một tam giác (màu xanh lục), ta sẽ sao một tam giác bằng nó,(màu xanh lam), quay góc 180°, và ghép chúng thành hình bình hành. Cắt một phần của hình bình hành, ghép lại thành hình chữ nhật. Vì diện tích hình chữ nhật là \"bh\", nên diện tích tam giác là ½\"bh\".\nNói cách khác, diện tích tam giác bằng độ dài cạnh đáy nhân với chiều cao chia 2:\nBằng phương pháp dùng tọa độ.\nNếu đỉnh A đặt ở gốc tọa độ (0, 0) của hệ tọa độ Descartes và tọa độ của hai đỉnh kia là B = (\"x\"B, \"y\"B) và C = (\"x\"C, \"y\"C), thì diện tích \"S\" của tam giác ABC bằng một nửa của giá trị tuyệt đối của định thức\nTrong trường hợp tổng quát, ta có:\nTrong không gian ba chiều, diện tích của tam giác cho bởi {A = (\"x\"A, \"y\"A, \"z\"A), B = (\"x\"B, \"y\"B, \"z\"B) và C = (\"x\"C, \"y\"C, \"z\"C)} là tổng 'Pythagor' của các diện tích các hình chiếu của chúng trên các mặt phẳng tọa độ (nghĩa là \"x\"=0, \"y\"=0 and \"z\"=0):\nÁp dụng công thức Heron.\nCũng có thể tính diện tích tam giác \"S\" theo Công thức Heron: formula_9\ntrong đó formula_10 là nửa chu vi của tam giác.\nNhững nguyên tắc cơ bản.\nEuclid đã trình bày các nguyên tắc cơ bản về tam giác trong tập 1 đến tập 4 tác phẩm Cơ sở (\"Elements\") của ông, viết khoảng năm 300 TCN.\nTam giác là một đa giác và đơn hình bậc 2 (\"xem đa diện\").\nHai tam giác là đồng dạng nếu có thể khai triển (co hay giãn) tam giác này theo cùng một tỷ lệ để có tam giác kia. Trường hợp này, độ dài của những bên đồng vị có tỷ lệ bằng nhau. Tức là hai tam giác đồng dạng với nhau, nếu cạnh lớn nhất của tam giác này gấp bao nhiêu lần cạnh lớn nhất của tam giác kia, thì cạnh bé nhất của tam giác này cũng gấp bấy nhiêu lần cạnh bé nhất của tam giác kia và tương tự với cạnh còn lại.\nHơn nữa, tỷ lệ cạnh dài trên cạnh ngắn của một tam giác sẽ phải bằng tỷ lệ cạnh dài trên cạnh ngắn của tam giác kia. Điều quan trọng là những góc đồng vị phải bằng nhau để hai tam giác được đồng dạng nhau. Việc này cũng xảy ra nếu một tam giác có một cạnh chung với tam giác kia, và những cạnh đối với nó thì bằng nhau.\nHàm lượng giác sin và cosin có thể hiểu được khi dùng tam giác vuông và khái niệm đồng dạng. Đó là hai hàm của góc được nghiên cứu bởi lượng giác học.\nNhững định lý nổi tiếng được áp dụng trong tam giác.\nMột số định lý nổi tiếng có liên quan đến tam giác là:\nCác công trình kiến trúc sử dụng hình tam giác.\nHiện nay, hình chữ nhật là một dạng hình học phổ biến và phổ biến nhất cho các công trình vì hình dạng dễ xếp chồng và sắp xếp, thật dễ dàng để thiết kế đồ nội thất và đồ đạc để phù hợp với bên trong các tòa nhà hình chữ nhật. Hình tam giác, trong khi khó sử dụng hơn về mặt khái niệm nhưng nó cung cấp rất nhiều sức mạnh cho chúng ta. Khi công nghệ máy tính giúp các kiến ​​trúc sư thiết kế các tòa nhà mới sáng tạo, hình dạng tam giác ngày càng trở nên phổ biến như là một phần của các công trình và là hình dạng chính cho một số loại nhà cao tầng cũng như các vật liệu xây dựng, đồ dùng nội thất. Năm 1989 tại Tokyo, Nhật Bản, các kiến ​​trúc sư đã tự hỏi liệu có thể xây dựng một tòa tháp với hơn 500 tầng để cung cấp không gian văn phòng giá cả phải chăng cho thành phố đông đúc như thế này hay không. Nhưng sự nguy hiểm đối với các tòa nhà từ trận động đất, các kiến ​​trúc sư cho rằng hình dạng tam giác sẽ là cần thiết, và như vậy một tòa nhà hình tam giác đã được xây dựng.\nTại thành phố New York, khi đi qua các đại lộ lớn, ta có thể nhìn thấy nhiều các công trình lớn xây dựng theo hình lăng trụ đứng có đáy là tam giác. Ví dụ điển hình như vậy là Tòa nhà Flatiron hình tam giác mà mọi người thừa nhận có một \"không gian thật không dễ để chứa đồ nội thất văn phòng hiện đại\" nhưng điều đó không ngăn cản công trình trở thành một biểu tượng mang tính bước ngoặt. Các nhà thiết kế đã làm nhà ở Na Uy bằng cách sử dụng các chủ đề hình tam giác. Hình dạng tam giác cũng đã xuất hiện trong nhà thờ cũng như các tòa nhà công cộng bao gồm các trường đại học cũng như hỗ trợ cho các mẫu thiết kế nhà sáng tạo hơn nữa.\nCấu trúc của một hình tam giác rất chắc chắn, trong khi đó cấu trúc của một hình chữ nhật có thể bị bẻ nghiêng thành hình bình hành từ áp suất đến những điểm trong nó, hình tam giác có sức mạnh tự nhiên hỗ trợ các cấu trúc chống lại các áp lực bên. Một hình tam giác sẽ không bao giờ thay đổi hình dạng trừ khi các cạnh của nó bị uốn cong, mở rộng hoặc gãy hoặc nếu các khớp của nó bị gãy. Về bản chất, mỗi một cạnh trong tam giác đều hỗ trợ cho hai cạnh còn lại. Một hình chữ nhật, ngược lại, phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh của các khớp theo nghĩa cấu trúc. Một số nhà thiết kế sáng tạo đã đề xuất làm cho gạch không chỉ có hình dạng chữ nhật, và với hình dạng tam giác có thể được kết hợp theo ba chiều. Rất có khả năng các hình tam giác sẽ được sử dụng ngày càng nhiều theo những cách mới khi kiến ​​trúc tăng độ phức tạp. Điều quan trọng cần nhớ là hình tam giác rất mạnh về độ cứng, nhưng trong khi được sắp xếp theo hình tam giác sắp xếp không mạnh như hình lục giác khi bị (do đó sự phổ biến của các hình lục giác trong tự nhiên).", "Trong toán học, một phép biến đổi tuyến tính (còn được gọi là toán tử tuyến tính hoặc là ánh xạ tuyến tính) là một ánh xạ formula_1 giữa hai mô đun (cụ thể, hai không gian vectơ) mà bảo toàn được các thao tác cộng và nhân vô hướng vectơ. Nói một cách khác, nó bảo toàn tổ hợp tuyến tính. Nếu ánh xạ tuyến tính là một song ánh thì nó được gọi là đẳng cấu tuyến tính.\nMột trường hợp quan trọng là khi formula_2, khi đó ánh xạ tuyến tính được gọi là một tự đồng cấu (tuyến tính) trong formula_3. Đôi khi thuật ngữ toán tử tuyến tính chỉ ánh xạ trong trường hợp này, nhưng nó có thể mang ý nghĩa khác tùy theo các quy ước: ví dụ, thuật ngữ này có thể được dùng để nhấn mạnh rằng formula_3 và formula_5 là các không gian vectơ thực (không nhất thiết là formula_2), hay để nhấn mạnh rằng formula_3 là một không gian hàm (đây là một quy ước thông thường trong giải tích hàm). Đôi khi thuật ngữ \"hàm tuyến tính\" cũng mang nghĩa là \"ánh xạ tuyến tính\", nhưng không phải trong hình học giải tích.\nMột biến đổi tuyến tính từ \"V\" vào \"W\" luôn ánh xạ gốc tọa độ của \"V\" tới gốc tọa độ của \"W\". Hơn nữa, nó luôn là ánh xạ từ một không gian con (tuyến tính) vào một không gian con (có thể với số chiều khác nhau); ví dụ, ánh xạ từ một mặt phẳng qua gốc tọa độ trong \"V\" vào một mặt phẳng qua gốc tọa độ trong \"W\", hoặc tới một đường thẳng đi qua gốc tọa độ trong \"W,\" hoặc chỉ tới điểm gốc tọa độ của \"W\". Ánh xạ tuyến tính có thể được biểu diễn bởi các ma trận, các ví dụ đơn giản là các ma trận của các phép biến đổi tuyến tính quay và phản xạ.\nTrong ngôn ngữ của đại số trừu tượng, một phép biến đổi tuyến tính là một đồng cấu giữa các mô đun. Trong ngôn ngữ của lý thuyết phạm trù, nó là một cấu xạ trong phạm trù các mô đun trên một vành đã cho.\nĐịnh nghĩa và các hệ quả đầu tiên.\nMột cách chính thức, nếu \"formula_3\" và \"formula_5\" là các không gian vectơ trên cùng một trường \"formula_10\", chúng ta nói rằng ánh xạ formula_11 là một (phép) biến đổi tuyến tính nếu cho bất kỳ hai vectơ formula_12 và bất kỳ vô hướng formula_13, chúng ta có\nĐiều này có ý nghĩa tương đương với khẳng định formula_14 \"bảo toàn tổ hợp tuyến tính\", có nghĩa là không quan trọng là ánh xạ được áp dụng trước (vế phải ở các đẳng thức trên) hay sau (vế trái) khi thực hiện các phép toán cộng và nhân vô hướng.\nCho bất kỳ các vectơ formula_15 và các vô hướng formula_16 bởi tính kết hợp của phép cộng chúng ta có\nKý hiệu các phần tử không của các không gian vectơ formula_3 và formula_5 tương ứng là formula_20 và formula_21, ta suy ra formula_22\nCho formula_23 và formula_24 trong phương trình của tính thuần nhất bậc 1:\nThông thường, formula_3 và formula_5 có thể xem như là các không gian vectơ trên các trường khác nhau, và khi đó điều quan trọng là xác định trường nào được dùng cho định nghĩa \"tuyến tính\". Nếu formula_3 và formula_5 là các không gian trên trường formula_10 như xác định ở trên, chúng ta nói về formula_10-ánh xạ tuyến tính. Ví dụ, phép lấy liên hợp của một số phức là một formula_32-ánh xạ tuyến tính formula_33, nhưng nó không phải là formula_34-tuyến tính, trong đó các trường formula_32 và formula_34 tương ứng là các trường số thực và số phức.\nMột ánh xạ tuyến tính formula_37 với trường formula_10 được xem như là một không gian vectơ 1 chiều trên chính nó được gọi là một phiếm hàm tuyến tính.\nCác mệnh đề trên đây có thể được tổng quát hóa đối với một mô đun trái bất kỳ formula_39 trên một vành formula_40 mà không cần sửa lại, và đối với một mô đun phải bất kỳ nhưng phải đổi thứ tự của phép nhân vô hướng.\nMa trận.\nNếu \"formula_3\" và \"formula_5\" là các không gian vectơ hữu hạn chiều và một cơ sở được xác định cho mỗi không gian vectơ, thì mọi ánh xạ tuyến tính từ \"formula_3\" vào \"formula_5\" có thể được biểu diễn bởi một ma trận. Điều này hữu ích vì nó cho phép tính toán các ánh xạ một cách cụ thể. Các ma trận chính là các ví dụ của ánh xạ tuyến tính: Nếu \"formula_48\" là ma trận thực formula_49, thì formula_78 mô tả một ánh xạ tuyến tính formula_79 (xem không gian Euclid).\nCho \"formula_80\" là một cơ sở của . Vậy thì mỗi vectơ \"formula_81\" được xác định duy nhất bởi các hệ số (tọa độ) \"formula_82\"trong trường formula_51:\nNếu formula_55 là một ánh xạ tuyến tính thì ta có\ntừ điều này suy ra rằng hàm \"formula_57\" hoàn toàn được xác định bởi các vectơ \"formula_88\". Ta có \"formula_89\" là một cơ sở của \"formula_5\". Vậy thì ta có thể biểu diễn từng vectơ \"formula_91\" dưới dạng\nVì vậy, biến đổi \"formula_57\" hoàn toàn được xác định bởi các giá trị \"formula_94\". Nếu ta đặt các giá trị này vào một ma trận \"formula_95\" với kích thước formula_49, thì ta có thể sử dụng để tính toán một cách thuận tiện vectơ đầu ra của \"formula_57\" cho một vectơ bất kỳ trong \"formula_3\". Để xây dựng \"formula_95\", mỗi cột \"formula_100\" của \"formula_95\" là một vectơ\ntương ứng với \"formula_91\" được định nghĩa như trên. Để định nghĩa một cách rõ ràng hơn, đối với một cột \"formula_100\" tương ứng với ánh xạ \"formula_91\"thì\ntrong đó formula_95 là ma trận của biến đổi \"formula_57\". Nói cách khác, ở mỗi cột \"formula_109\" có một vectơ tương ứng \"formula_91\"với tọa độ formula_111 là các phần tử của cột \"formula_100\". Một ánh xạ tuyến tính có thể được biểu diễn bởi nhiều ma trận. Điều này là bởi các giá trị của các phần tử trong một ma trận phụ thuộc vào cơ sở được chọn.\nVí dụ của ma trận biến đổi tuyến tính.\nTrong không gian hai chiều R2 các ánh xạ tuyến tính được biểu diễn bởi các ma trận thực 2 × 2. Dưới đây là một số ví dụ:\nKhông gian các ánh xạ tuyến tính.\nÁnh xạ hợp của các ánh xạ tuyến tính cũng là ánh xạ tuyến tính: nếu các ánh xạ và là tuyến tính, thì ánh xạ hợp formula_122 cũng vậy. Từ đây suy ra rằng lớp các không gian vectơ trên một trường cho trước \"K\", cùng với các \"K\"-ánh xạ tuyến tính là các cấu xạ, tạo thành một phạm trù.\nÁnh xạ ngược của một ánh xạ tuyến tính nếu tồn tại cũng là tuyến tính.\nNếu formula_123 và formula_124 là tuyến tính, thì hàm tổng của chúng formula_125 cũng tuyến tính, được định nghĩa là formula_126.\nNếu formula_55 là tuyến tính và \"formula_128\" là một phần tử của trường bên dưới \"formula_129\", thì ánh xạ \"formula_130\", định nghĩa bởi \"formula_131\" cũng là tuyến tính.\nVì thế tập hợp \"formula_132\" gồm các ánh xạ tuyến tính từ \"formula_133\" vào \"formula_134\" cũng là một không gian vectơ trên trường \"formula_129\", đôi khi ký hiệu là \"formula_136\". Hơn nữa, trong trường hợp \"formula_137\" thì không gian này, ký hiệu \"formula_138\", là một đại số kết hợp dưới phép hợp ánh xạ, vì hợp của hai ánh xạ tuyến tính cũng là một ánh xạ tuyến tính, và phép hợp ánh xạ có tính kết hợp. Trường hợp này được nói cụ thể hơn ở dưới.\nTrong trường hợp hữu hạn chiều, nếu các cơ sở đã được chọn trước thì phép hợp các ánh xạ tuyến tính tương ứng với phép nhân ma trận, phép cộng các ánh xạ tuyến tính tương ứng với phép cộng ma trận, và phép nhân vô hướng các ánh xạ tuyến tính tương ứng với phép nhân ma trận với vô hướng.\nTự đồng cấu, tự đẳng cấu.\nMột biến đổi tuyến tính formula_139 là một tự đồng cấu trên \"formula_133\"; tập hợp các tự đồng cấu \"formula_138\" cùng với phép cộng, phép hợp và phép nhân vô hướng được định nghĩa như trên tạo thành một đại số kết hợp có đơn vị trên trường \"formula_129\" (và cụ thể hơn là một vành). Phần tử đơn vị phép nhân của đại số này là ánh xạ đồng nhất formula_143.\nMột tự đồng cấu trên \"formula_133\" mà đồng thời cũng là một đẳng cấu được gọi là một tự đẳng cấu trên \"formula_133\". Hợp của hai tự đẳng cấu cũng là một tự đẳng cấu, và tập hợp các tự đẳng cấu trên \"formula_133\" tạo thành một nhóm gọi là nhóm các tự đẳng cấu trên \"formula_133\" và được ký hiệu là \"formula_148\" hay \"formula_149\". Vì các tự đẳng cấu cũng chính là các tự đồng cấu có ánh xạ ngược dưới phép hợp ánh xạ nên \"formula_148\" là nhóm các đơn vị trên vành \"formula_138\".\nNếu \"formula_133\" có số chiều hữu hạn \"formula_153\", thì \"formula_138\" đẳng cấu với đại số kết hợp gồm các ma trận vuông \"formula_155\" với các phần tử trong \"formula_129\". Nhóm các tự đẳng cấu trên \"formula_133\" đẳng cấu với nhóm tuyến tính tổng quát \"formula_158\" gồm các ma trận khả nghịch \"formula_155\" với các phần tử trong \"formula_129\".\nHạt nhân, ảnh và định lý về hạng.\n Nếu biến đổi formula_161 là tuyến tính, ta định nghĩa hạt nhân của \"formula_57\" ký hiệu formula_163, ảnh của \"formula_57\" và hạng của \"formula_57\" như sau:\nformula_163 là một không gian con của formula_3 và formula_170 là không gian con của formula_5. Công thức sau đây được xem là định lý về số chiều:\nSố formula_173 cũng được gọi là \"hạng của \"formula_57 ký hiệu là formula_175, hoặc formula_176; còn số formula_177 được gọi là \"số vô hiệu (nullity) của \"formula_57 và ký hiệu là formula_179 hay formula_180. Nếu formula_3 và formula_5 là hữu hạn chiều, và \"formula_57\" được biểu diễn bởi ma trận formula_48, thì hạng và số vô hiệu của \"formula_57\" tương ứng bằng hạng và số vô hiệu của ma trận formula_48.\nPhân loại đại số của các biến đổi tuyến tính.\nKhông có cách phân loại các biến đổi tuyến tính nào là triệt để. Sau đây là một số phân loại đặc biệt mà không xét bất kỳ cấu trúc bổ sung nào trên không gian vectơ.\nCho formula_3 và formula_5 là các không gian vectơ trên một trường formula_189 và cho formula_190 là một ánh xạ tuyến tính.\nĐịnh nghĩa: formula_191 được gọi là \"biến đổi đơn ánh\" hay là một \"đơn cấu\" không gian vectơ nếu một trong số các điều kiện tương đương sau đây được thỏa mãn:\nĐịnh nghĩa: formula_191 được gọi là \"biến đổi toàn ánh\" hay một \"toàn cấu\" không gian vectơ nếu một trong các điều kiện tương đương sau đây được thỏa mãn:\nĐịnh nghĩa: formula_191 được gọi là một \"đẳng cấu\" nếu nó đồng thời là khả nghịch trái và là khả nghịch phải. Điều này là tương đương với formula_191 đồng thời là đơn ánh và là toàn ánh (tức là một song ánh) hay formula_191 đồng thời là một đơn cấu và là một toàn cấu.\nCho formula_221 gọi là một tự đồng cấu, ta có:\nChuyển cơ sở.\nCho một ánh xạ tuyến tính và là một tự đồng cấu có biểu diễn ma trận là \"A\", đối với cùng một cơ sở \"B\" của không gian, \"A\" biến đổi tọa độ vectơ [u] thành [v] = \"A\"[u]. Khi chuyển từ một cơ sở khác sang \"B\" ta thực hiện biến đổi [v] = \"B\"[v'].\nThay vào biểu thức thứ nhất ta được\nsuy ra\nVì vậy, ma trận của biến đổi ấy trong cơ sở kia là \"A′\" = \"B\"−1\"AB\", trong đó \"B\" là ma trận của cơ sở đã cho. Hai ma trận \"A\" và \"A\"' được gọi là hai ma trận đồng dạng.\nỨng dụng.\nMột ứng dụng cụ thể của ánh xạ tuyến tính là cho các biến đổi hình học, ví dụ như trong đồ họa máy tính, khi các phép di chuyển tịnh tiến, quay và phóng tỉ lệ một đối tượng 2D hoặc 3D được thực hiện nhờ sử dụng một ma trận biến đổi. Các ánh xạ tuyến tính cũng được sử dụng như một cơ chế để mô tả sự thay đổi: như trong giải tích ứng với đạo hàm; hay trong thuyết tương đối, được dùng như một phương tiện để theo dõi các biến đổi cục bộ trong các hệ quy chiếu.\nMột ứng dụng khác của các biến đổi tuyến tính là trong việc tối ưu hóa trình biên dịch đối với các đoạn mã lồng nhau, và trong việc song song hóa kỹ thuật biên dịch.", "Số nguyên tố là số tự nhiên lớn hơn 1 không phải là tích của hai số tự nhiên nhỏ hơn. Nói cách khác, số nguyên tố là những số chỉ có đúng hai ước số là 1 và chính nó. Các số tự nhiên lớn hơn 1 không phải là số nguyên tố được gọi là hợp số. Chẳng hạn, 5 là số nguyên tố bởi vì cách duy nhất để viết nó dưới dạng một tích, hoặc , có một thừa số là chính số 5. Tuy nhiên, 6 là hợp số vì nó là tích của hai số () mà cả hai số đều nhỏ hơn 6. Số nguyên tố là nội dung trọng tâm trong lý thuyết số theo định lý cơ bản của số học: mọi số tự nhiên lớn hơn 1 hoặc là số nguyên tố hoặc có thể được phân tích ra thừa số nguyên tố một cách duy nhất xê xích một phép hoán vị.\nTính chất nguyên tố của một số được gọi là tính nguyên tố. Một phương pháp đơn giản để kiểm tra tính nguyên tố của một số formula_1, được gọi là giải thuật chia thử, kiểm tra xem formula_1 có phải là bội số của bất kỳ số nguyên nào giữa 2 và formula_3 hay không. Một số thuật toán khác bao gồm phép kiểm tra Miller–Rabin, tuy nhanh nhưng có xác suất nhỏ cho kết quả sai và phép kiểm tra tính nguyên tố AKS, vốn luôn cho lời giải đúng trong khoảng thời gian đa thức nhưng quá chậm để áp dụng trong thực tế. Ngoài ra, còn có một số thuật toán nhanh dành cho các số có dạng đặc biệt, chẳng hạn như số nguyên tố Mersenne. Đến nay, số nguyên tố lớn nhất đã biết là một số nguyên tố Mersenne có 24.862.048 chữ số, được khám phá vào tháng 12 năm 2018.\nCó vô số số nguyên tố, như đã được Euclid chứng minh vào khoảng năm 300 TCN. Hầu như không có công thức đơn giản nào để phân biệt số nguyên tố và hợp số. Tuy nhiên, sự phân phối các số nguyên tố trong tập hợp các số tự nhiên có trong một khoảng giá trị lớn có thể được mô hình hóa theo thống kê. Kết quả đầu tiên theo hướng đó là định lý số nguyên tố, được chứng minh vào cuối thế kỷ 19, cho rằng xác suất để một số bất kỳ là số nguyên tố tỉ lệ nghịch với số chữ số của nó, nghĩa là với logarit của nó.\nMột số bài toán lịch sử liên quan đến số nguyên tố vẫn chưa có lời giải. Chúng bao gồm giả thuyết Goldbach, cho rằng mọi số nguyên chẵn lớn hơn 2 có thể được biểu diễn thành tổng của hai số nguyên tố, và phỏng đoán về số nguyên tố sinh đôi, cho rằng có vô số cặp số nguyên tố chỉ có một số chẵn giữa chúng. Những bài toán như thế đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều nhánh trong lý thuyết số tập trung vào khía cạnh đại số và giải tích của các số. Số nguyên tố cũng có ứng dụng trong một số lĩnh vực của công nghệ thông tin, chẳng hạn như mật mã hóa khóa công khai, dựa vào sự phức tạp trong việc phân tích các số nguyên lớn ra thừa số nguyên tố. Trong đại số trừu tượng, còn có một số đối tượng khác có đặc điểm và tính chất giống với số nguyên tố, trong đó gồm phần tử nguyên tố và i-đê-an nguyên tố.\nĐịnh nghĩa và ví dụ.\nMột số tự nhiên (1, 2, 3, 4, 5, 6...) được gọi là \"số nguyên tố\" nếu nó lớn hơn 1 và không thể được biểu diễn thành tích của hai số tự nhiên nhỏ hơn khác 1. Các số lớn hơn 1 không phải là số nguyên tố được gọi là hợp số. Nói cách khác, formula_1 là số nguyên tố nếu formula_1 vật không thể chia đều thành nhiều nhóm nhỏ gồm nhiều hơn một vật, hoặc formula_1 dấu chấm không thể được sắp xếp thành một hình chữ nhật có chiều dài và chiều rộng nhiều hơn một dấu chấm. Chẳng hạn, trong các số từ 1 đến 6, số 2, 3 và 5 là số nguyên tố vì không có số nào khác có thể chia hết được chúng (số dư bằng 0). 1 không phải là số nguyên tố vì nó đã được loại trừ ra khỏi định nghĩa. và đều là hợp số.\nƯớc số của một số tự nhiên formula_1 là các số tự nhiên có thể chia hết được formula_1. Mọi số tự nhiên đều có ít nhất hai ước số là 1 và chính nó. Nếu nó còn có thêm một ước số khác thì nó không thể là số nguyên tố. Từ ý tưởng đó mà ta có một định nghĩa khác về số nguyên tố: đó là những số chỉ có đúng hai ước số dương là 1 và chính nó. Ngoài ra, còn có một cách diễn đạt khác nữa: formula_1 là số nguyên tố nếu nó lớn hơn 1 và không có số nào trong các số formula_10 có thể chia hết được nó.\n25 số nguyên tố đầu tiên (tất cả các số nguyên tố nhỏ hơn 100) là:\nKhông có số chẵn formula_1 lớn hơn 2 nào là số nguyên tố vì một số chẵn bất kỳ có thể được biểu diễn thành formula_12. Do đó, số 2 là \"số nguyên tố chẵn\" duy nhất; tất cả số nguyên tố ngoài số 2 là số lẻ và được gọi là \"số nguyên tố lẻ\". Tương tự, khi được viết trong hệ thập phân, tất cả số nguyên tố lớn hơn 5 đều có tận cùng là 1, 3, 7 hoặc 9. Các số có tận cùng là chữ số khác đều là hợp số: số có tận cùng là 0, 2, 4, 6 hoặc 8 là số chẵn, và số có tận cùng là 0 hoặc 5 thì chia hết cho 5.\nTập hợp các số nguyên tố được ký hiệu là formula_13 (chữ \"P\" viết hoa, in đậm) hoặc formula_14 (chữ \"P\" viết hoa, in đậm bảng đen).\nLịch sử.\nCuộn giấy Rhind (từ khoảng năm 1550 trước Công nguyên) có chứa các khai triển phân số Ai Cập theo nhiều dạng khác nhau cho số nguyên tố và hợp số. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu cụ thể về số nguyên tố được lưu lại sớm nhất đến từ toán học Hy Lạp cổ đại. Bộ \"Cơ sở\" của Euclid (khoảng 300 TCN) có phần chứng minh sự tồn tại vô số số nguyên tố và định lý cơ bản của số học, đồng thời nêu cách tạo ra một số hoàn thiện từ số nguyên tố Mersenne. Một phát minh khác từ Hy Lạp là sàng Eratosthenes vẫn còn được dùng để lập danh sách các số nguyên tố.\nKhoảng năm 1000, nhà toán học Hồi giáo Ibn al-Haytham (Alhazen) tìm ra định lý Wilson, xác định số nguyên tố là các số formula_1 chia hết formula_16. Ông cũng phỏng đoán rằng tất cả số hoàn thiện chẵn đều có thể được tạo ra từ số Mersenne theo cách xây dựng của Euclid, nhưng không chứng minh được. Một nhà toán học Hồi giáo khác, Ibn al-Banna' al-Marrakushi tìm ra rằng sàng Eratosthenes có thể được đẩy nhanh khi chỉ kiểm tra các ước số lớn đến căn bậc hai của số lớn nhất được kiểm tra. Fibonacci sau đó đã mang những ý tưởng mới này từ toán học Hồi giáo về châu Âu. Cuốn \"Liber Abaci\" (1202) của ông là cuốn sách đầu tiên mô tả phép chia thử để kiểm tra tính nguyên tố chỉ bằng việc kiểm tra các ước số lớn đến căn bậc hai của số cần kiểm tra.\nNăm 1640, Pierre de Fermat phát biểu định lý nhỏ Fermat (về sau được Leibniz và Euler chứng minh). Fermat cũng đã nghiên cứu và kiểm tra tính nguyên tố của số Fermat formula_17, và Marin Mersenne nghiên cứu số nguyên tố Mersenne, số nguyên tố có dạng formula_18 với formula_19 cũng là số nguyên tố. Trong thư gửi Euler năm 1742, Christian Goldbach đã phát biểu giả thuyết Goldbach cho rằng mọi số chẵn đều là tổng của hai số nguyên tố. Euler chứng minh được giả thuyết của Alhazen (về sau gọi là định lý Euclid–Euler) rằng mọi số hoàn thiện chẵn có thể được tạo ra từ số nguyên tố Mersenne. Ông cũng giới thiệu các phương pháp được ứng dụng từ giải tích toán học trong lĩnh vực này khi chứng minh sự tồn tại vô số số nguyên tố và tính phân kỳ của tổng nghịch đảo các số nguyên tố formula_20. Đầu thế kỷ 19, Legendre và Gauss đưa ra phỏng đoán rằng khi formula_21 tiến về vô hạn thì số lượng số nguyên tố nhỏ hơn hoặc bằng formula_21 tiệm cận về formula_23 với formula_24 là logarit tự nhiên của formula_21. Một hệ quả yếu hơn từ kết quả về mật độ số nguyên tố nói trên là định đề Bertrand rằng với một số nguyên formula_26 bất kỳ thì tồn tại một số nguyên tố nằm giữa formula_1 và formula_28, được Pafnuty Chebyshev chứng minh vào năm 1852. Ý tưởng của Bernhard Riemann trong bài báo năm 1859 về hàm zeta của mình đã góp phần vạch ra hướng đi để chứng minh phỏng đoán đó. Mặc dù một phỏng đoán liên quan là giả thuyết Riemann vẫn chưa có lời giải, đại cương của Riemann đã được hoàn thành vào năm 1896 bởi Hadamard và de la Vallée Poussin và kết quả này hiện được biết đến với tên gọi định lý số nguyên tố. Một thành tựu quan trọng khác trong thế kỷ 19 là định lý Dirichlet về cấp số cộng cho rằng một cấp số cộng nhất định chứa vô số số nguyên tố.\nNhiều nhà toán học đã nghiên cứu các thuật toán kiểm tra tính nguyên tố với các số lớn hơn so với các số mà giải thuật chia thử có thể áp dụng được. Các thuật toán giới hạn về một dạng số cụ thể bao gồm kiểm tra Pépin cho số Fermat (1877), định lý Proth (khoảng 1878), kiểm tra Lucas–Lehmer (1856) và dạng tổng quát của nó, kiểm tra Lucas.\nTừ năm 1951, tất cả các số nguyên tố lớn nhất đã biết đều được tìm ra thông qua các thuật toán trên máy tính. Công cuộc tìm ra số nguyên tố lớn hơn thế đã gây chú ý ngoài phạm vi toán học với dự án Great Internet Mersenne Prime Search và nhiều dự án điện toán phân tán khác. Quan niệm rằng số nguyên tố ít được ứng dụng ngoài toán học thuần túy đã bị xóa bỏ vào những năm 1970 khi mật mã hóa khóa công khai và mã hóa RSA được phát minh dựa trên số nguyên tố.\nTầm quan trọng ngày càng lớn của việc kiểm tra tính nguyên tố và phân tích số nguyên tố trên máy tính dẫn đến sự phát triển của nhiều thuật toán khác có thể thực hiện được với các số rất lớn không thuộc bất kỳ dạng đặc biệt nào. Lý thuyết toán học về số nguyên tố cũng tiếp tục phát triển trong thời kỳ hiện đại với định lý Green–Tao (2004) phát biểu rằng tồn tại các cấp số cộng dài bất kỳ chỉ chứa số nguyên tố, và chứng minh của Yitang Zhang năm 2013 rằng tồn tại vô số khoảng cách số nguyên tố với kích thước giới hạn.\nTính nguyên tố của số 1.\nĐa số nhà toán học Hy Lạp cổ không cho rằng 1 là một số nên họ không thể xét được tính nguyên tố của nó. Một số nhà toán học thời điểm đó cũng cho rằng số nguyên tố có được từ sự chia nhỏ các số lẻ nên họ không xem số 2 là số nguyên tố. Tuy nhiên, Euclid và đa số nhà toán học Hy Lạp cổ xem 2 là số nguyên tố. Các nhà toán học Hồi giáo cũng nối tiếp theo Hy Lạp, không công nhận 1 là một số. Đến thời Trung Cổ và Phục Hưng, các nhà toán học bắt đầu thừa nhận 1 là một số, và một vài trong số đó cho rằng số 1 là số nguyên tố đầu tiên. Giữa thế kỷ 18, Christian Goldbach công nhận số 1 là số nguyên tố trong thư gửi Leonhard Euler, nhưng Euler lại không thừa nhận như thế. Nhiều nhà toán học thế kỷ 19 vẫn cho rằng 1 là số nguyên tố, và danh sách số nguyên tố có chứa số 1 vẫn tiếp tục được xuất bản cho đến năm 1956.\nNếu định nghĩa số nguyên tố bị thay đổi để công nhận 1 là số nguyên tố, nhiều định lý liên quan đến nó sẽ phải được diễn đạt lại một cách rắc rối. Chẳng hạn, định lý cơ bản của số học khi đó sẽ bị sửa lại về mặt phân tích thành các số nguyên tố lớn hơn 1, vì mọi số đều có vô số cách phân tích mà trong đó số 1 xuất hiện với số lần bất kỳ. Tương tự, sàng Eratosthenes cũng sẽ không hoạt động đúng cách, vì khi đó nó loại bỏ tất cả các bội của 1 (tức là tất cả các số khác) và cho đầu ra chỉ có duy nhất số 1. Một số tính chất của số nguyên tố cũng không đúng đối với số 1: ví dụ, công thức của hàm phi Euler hoặc hàm tổng các ước số khác nhau với số nguyên tố so với số 1. Đến đầu thế kỷ 20, các nhà toán học bắt đầu thừa nhận rằng số 1 không nên nằm trong danh sách số nguyên tố, mà thay vào đó cần nằm ở một thể loại đặc biệt: \"đơn vị\" trong lý thuyết vành.\nTính chất cơ bản.\nSự phân tích duy nhất.\nViết một số thành tích của các số nguyên tố được gọi là \"phân tích nguyên tố\" của số đó. Chẳng hạn: \nCác thừa số trong tích được gọi là \"thừa số nguyên tố\". Một thừa số nguyên tố có thể xuất hiện nhiều lần, khi đó có thể dùng lũy thừa để gộp nhiều thừa số giống nhau đó lại thành một. Trong ví dụ trên, số 3 xuất hiện hai lần và formula_30 là bình phương hay lũy thừa bậc hai của 3.\nTầm quan trọng thiết yếu của số nguyên tố trong lý thuyết số và toán học nói chung có được từ \"định lý cơ bản của số học\". Định lý này phát biểu rằng bất kỳ số nguyên nào lớn hơn 1 đều có thể được viết thành tích của một hoặc nhiều số nguyên tố. Hơn nữa, tích đó là duy nhất, vì dễ thấy trong hai phân tích nguyên tố của cùng một số, các thừa số nguyên tố luôn xuất hiện với số lần bằng nhau dù thứ tự của chúng có thể khác nhau. Do đó, mặc dù có nhiều cách khác nhau để tìm cách phân tích một số thông qua thuật toán phân tích số nguyên nhưng chúng đều phải cho cùng một kết quả. Số nguyên tố vì vậy còn được gọi là \"khối gạch cơ bản\" của số tự nhiên.\nMột số chứng minh về tính duy nhất của phân tích nguyên tố được dựa trên bổ đề Euclid: Nếu formula_19 là số nguyên tố và formula_19 chia hết một tích formula_33 với formula_34 và formula_35 là số nguyên thì formula_19 cũng chia hết formula_34 hoặc formula_35 (hoặc cả hai). Ngược lại, nếu một số formula_19 có tính chất khi chia hết một tích thì nó cũng chia hết ít nhất một thừa số trong tích, thì formula_19 phải là số nguyên tố.\nSự tồn tại vô số số nguyên tố.\nCó vô số số nguyên tố. Nói cách khác, dãy các số nguyên tố\nkhông bao giờ kết thúc. Phát biểu trên còn được gọi là \"định lý Euclid\" theo tên của nhà toán học Hy Lạp cổ đại Euclid vì ông là người đầu tiên chứng minh được phát biểu này. Một số cách chứng minh khác về sự tồn tại vô số số nguyên tố bao gồm một chứng minh bằng giải tích của Euler, chứng minh của Goldbach dựa trên số Fermat, chứng minh từ tô pô học của Furstenberg, hay cách chứng minh đơn giản của Kummer.\nChứng minh của Euclid cho thấy rằng một tập hợp hữu hạn các số nguyên tố bất kỳ là chưa hoàn thành. Thật vậy, xét một tập hợp hữu hạn gồm các số nguyên tố formula_41. Khi nhân các số đó với nhau và cộng thêm 1 thì ta được\nTheo định lý cơ bản của số học thì formula_43 có một phân tích nguyên tố\nvới một hoặc nhiều thừa số nguyên tố. formula_43 có thể được chia hết bởi bất kỳ thừa số nào trong tích trên, nhưng lại có phần dư bằng 1 khi được chia bởi bất kỳ số nguyên tố nào trong tập hợp đã cho, nên không có thừa số nguyên tố nào của formula_43 có trong tập hợp đó. Vì không tồn tại một tập hợp hữu hạn nào chứa tất cả các số nguyên tố nên phải có vô số số nguyên tố.\nCác số được tạo ra khi cộng thêm 1 vào tích của các số nguyên tố nhỏ nhất được gọi là số Euclid. Năm số Euclid đầu tiên là số nguyên tố, nhưng số Euclid thứ sáu,\nlà hợp số.\nCông thức số nguyên tố.\nKhông có công thức số nguyên tố hiệu quả nào được biết đến. Chẳng hạn, không có đa thức khác hằng số nào, kể cả đa thức đa biến, chỉ cho duy nhất các giá trị nguyên tố. Tuy nhiên, có một số biểu thức có thể tạo ra các giá trị nguyên tố, nhưng hiệu quả hoạt động khá thấp. Một công thức như thế được dựa trên định lý Wilson và có thể cho giá trị 2 nhiều lần, các giá trị nguyên tố khác đúng một lần. Một hệ phương trình Diophantine gồm 9 biến và một tham số cũng tồn tại với tính chất: tham số đó là số nguyên tố khi và chỉ khi hệ phương trình thu được có một nghiệm trên tập hợp số tự nhiên. Tính chất đó có thể được dùng để suy ra một công thức với tính chất là tất cả các giá trị dương của nó đều là số nguyên tố.\nHai công thức số nguyên tố khác đến từ định lý Mills và một định lý của Wright, cho rằng tồn tại hằng số thực formula_48 và formula_49 sao cho giá trị của\nlà số nguyên tố với mọi số tự nhiên formula_1 bất kỳ ở công thức thứ nhất và bất kỳ số lũy thừa nào trong công thức thứ hai. Ở đây formula_52 là hàm sàn, số lớn nhất nhỏ hơn hoặc bằng với số được xét. Tuy nhiên, các công thức này không hữu ích vì cần phải tạo ra các số nguyên tố trước tiên để tính formula_53 hoặc formula_49.\nCác bài toán mở.\nĐã có nhiều giả thuyết được đặt ra liên quan đến số nguyên tố, và đa số giả thuyết như vậy không được chứng minh trong nhiều thập kỷ: cả bốn bài toán của Landau từ năm 1912 vẫn chưa có lời giải. Một trong số đó là giả thuyết Goldbach cho rằng mọi số nguyên chẵn formula_1 lớn hơn 2 có thể được viết thành tổng của hai số nguyên tố. Tính đến năm 2014, giả thuyết này đã được xác nhận là đúng với các số lớn đến formula_56. Một số giả thuyết tương tự như vậy đã được chúng minh, chẳng hạn, định lý Vinogradov cho rằng một số nguyên lẻ đủ lớn có thể được viết thành tổng của ba số nguyên tố. Còn theo định lý Chen, một số nguyên chẵn đủ lớn có thể được biểu diễn thành tổng của một số nguyên tố và một số nửa nguyên tố (tích của hai số nguyên tố). Đồng thời, một số nguyên chẵn lớn hơn 10 có thể được viết thành tổng của 6 số nguyên tố. Nhánh của lý thuyết số nghiên cứu những bài toán như thế được gọi là lý thuyết cộng tính số.\nMột dạng bài toán khác có liên quan đến khoảng cách số nguyên tố, tức là chênh lệch giữa hai số nguyên tố liên tiếp. Có thể thấy được sự tồn tại của các khoảng cách số nguyên tố lớn tùy ý bằng cách chú ý rằng dãy số formula_57 chứa formula_58 hợp số với formula_1 là số tự nhiên. Tuy nhiên, khoảng cách số nguyên tố lớn này bắt đầu xuất hiện sớm hơn so với thời điểm mà lập luận này đã cho. Chẳng hạn, khoảng cách số nguyên tố đầu tiên với độ dài bằng 8 nằm giữa hai số nguyên tố 89 và 97, nhỏ hơn nhiều so với formula_60. Có giả thuyết cho rằng có vô số cặp số nguyên tố sinh đôi, tức là cặp số nguyên tố với chênh lệch bằng 2; đó chính là giả thuyết số nguyên tố sinh đôi. Giả thuyết Polignac phát biểu tổng quát hơn rằng với một số nguyên dương formula_61 bất kỳ, tồn tại vô số các cặp số nguyên tố liên tiếp sai khác nhau formula_62. Giả thuyết Andrica, giả thuyết Brocard, giả thuyết Legendre và giả thuyết Oppermann đều cho rằng khoảng cách lớn nhất giữa các số nguyên tố từ 1 đến formula_1 phải là xấp xỉ formula_3, một kết quả được cho là suy ra từ giả thuyết Riemann, trong khi giả thuyết Cramér đặt khoảng cách lớn nhất bằng formula_65. Khoảng cách số nguyên tố có thể được khái quát hóa thành bộ formula_61 số nguyên tố, thể hiện những dãy lặp lại khoảng cách giữa nhiều hơn hai số nguyên tố. Tính vô hạn và mật độ của chúng là vấn đề chính trong giả thuyết Hardy–Littlewood đầu tiên, vốn có thể được suy ra từ thuật giải heuristic rằng dãy số nguyên tố hành xử tương tự như một dãy số ngẫu nhiên với mật độ được cho bởi định lý số nguyên tố.\nTính chất trong giải tích.\nLý thuyết số giải tích nghiên cứu lý thuyết số qua các khái niệm hàm số liên tục, giới hạn, chuỗi vô hạn và các khái niệm liên quan đến vô hạn và số nhỏ vô hạn.\nLeonhard Euler là người đầu tiên khởi xướng ra ngành nghiên cứu này với thành tựu quan trọng đầu tiên là lời giải cho bài toán Basel. Bài toán yêu cầu tìm giá trị của tổng vô hạn formula_67 mà ngày nay được công nhận là giá trị formula_68 của hàm zeta Riemann. Hàm này có liên hệ mật thiết với số nguyên tố và giả thuyết Riemann, một trong những bài toán chưa được giải có ý nghĩa quan trọng nhất trong toán học. Euler chứng minh được rằng formula_69. Nghịch đảo của số đó, formula_70, là giới hạn của xác suất để hai số được chọn ngẫu nhiên từ một khoảng giá trị lớn là hai số nguyên tố cùng nhau (không có thừa số chung nào).\nSự phân phối các số nguyên tố trong khoảng giá trị lớn đó, chẳng hạn như có bao nhiêu số nguyên tố nhỏ hơn một số lớn cho trước, được mô tả bởi định lý số nguyên tố, nhưng không có công thức cho số nguyên tố thứ formula_1 được biết đến. Ở dạng cơ bản nhất, định lý Dirichlet về cấp số cộng phát biểu rằng đa thức tuyến tính\nvới formula_34 và formula_35 nguyên tố cùng nhau cho vô số các giá trị nguyên tố. Dạng chặt chẽ hơn của định lý phát biểu rằng tổng của nghịch đảo các giá trị nguyên tố đó phân kỳ, và các đa thức tuyến tính khác nhau với formula_35 bằng nhau có tỉ lệ số nguyên tố gần như nhau. Mặc dù đã có nhiều giả thuyết được đặt ra về tỉ lệ số nguyên tố trong các đa thức bậc cao nhưng chúng vẫn chưa được chứng minh, và không rõ có tồn tại một đa thức bậc hai nào có thể luôn cho các giá trị nguyên tố một cách thường xuyên hơn hay không.\nChứng minh định lý Euclid bằng giải tích.\nChứng minh của Euler về sự tồn tại vô số số nguyên tố xét tổng nghịch đảo các số nguyên tố\nEuler chứng minh được rằng với một số thực formula_21 bất kỳ, tồn tại một số nguyên tố formula_19 sao cho tổng trên lớn hơn formula_21. Nếu chỉ có một số hữu hạn các số nguyên tố thì tổng này phải đạt giá trị lớn nhất tại số nguyên tố lớn nhất thay vì tăng dần qua các giá trị của formula_21, do đó có vô số số nguyên tố. Tốc độ gia tăng giá trị của tổng này được mô tả rõ hơn trong định lý thứ hai của Mertens. Để so sánh, tổng\nkhông tăng đến vô hạn khi formula_1 tiến đến vô hạn (xem bài toán Basel). Trong trường hợp này, số nguyên tố xuất hiện thường xuyên hơn so với bình phương các số tự nhiên, mặc dù cả hai tập hợp đều là vô hạn. Định lý Brun phát biểu rằng tổng nghịch đảo các số nguyên tố sinh đôi\nlà hữu hạn. Do định lý này nên không thể áp dụng cách của Euler để chứng minh giả thuyết số nguyên tố sinh đôi rằng có vô số cặp số nguyên tố sinh đôi.\nSố lượng số nguyên tố nằm dưới một số cho trước.\nHàm đếm số nguyên tố formula_84 được định nghĩa là số lượng số nguyên tố không lớn hơn formula_1. Ví dụ, formula_86, nghĩa là có 5 số nguyên tố nhỏ hơn hoặc bằng 11. Có một số phương pháp để tính giá trị chính xác của formula_84 nhanh hơn so với khi liệt kê tất cả các số nguyên tố lớn đến formula_1, chẳng hạn như thuật toán Meissel–Lehmer. Định lý số nguyên tố phát biểu rằng formula_84 tiệm cận với formula_90 hay \nnghĩa là tỉ số giữa formula_84 và phân số ở vế phải tiến về 1 khi formula_1 tăng đến vô hạn. Kéo theo đó, xác suất để một số nhỏ hơn formula_1 được chọn ngẫu nhiên là số nguyên tố tỉ lệ nghịch với số chữ số của formula_1. Đồng thời, số nguyên tố thứ formula_1 tỉ lệ thuận với formula_97 và độ dài trung bình của khoảng cách nguyên tố tỉ lệ thuận với formula_98. Một xấp xỉ chính xác hơn của formula_84 được cho bởi tích phân logarit bù\nCấp số cộng.\nCấp số cộng là một dãy số hữu hạn hoặc vô hạn sao cho các số liên tiếp trong dãy đều có chênh lệch bằng nhau. Chênh lệch đó được gọi là mô đun (công sai) của cấp số cộng. Ví dụ,\nlà cấp số cộng vô hạn với mô đun 9. Trong một cấp số cộng, phép chia của tất cả các số cho mô đun đều cho số dư bằng nhau; trong ví dụ trên, số dư đó bằng 3. Vì cả mô đun 9 và số dư 3 đều là bội của 3 nên các phần tử khác trong dãy cũng vậy. Do đó, cấp số cộng đã cho chỉ chứa một số nguyên tố duy nhất, đó chính là số 3. Tổng quát, cấp số cộng vô hạn\ncó thể chứa nhiều hơn một số nguyên tố chỉ khi số dư formula_34 và mô đun formula_103 nguyên tố cùng nhau. Khi đó, theo định lý Dirichlet về cấp số cộng, cấp số cộng đó chứa vô số số nguyên tố.\nĐịnh lý Green–Tao cho thấy tồn tại các cấp số cộng hữu hạn dài tùy ý chỉ chứa các số nguyên tố.\nGiá trị nguyên tố của đa thức bậc hai.\nEuler nhận thấy rằng hàm\ncho giá trị là số nguyên tố với formula_105, mặc dù các giá trị hợp số bắt đầu xuất hiện khi formula_1 lớn hơn 40. Việc tìm ra giải thích cho hiện tượng này chính là tiền đề của lý thuyết số đại số với số Heegner và bài toán lớp số. Giả thuyết F của Hardy–Littlewood dự đoán mật độ số nguyên tố trong các giá trị của đa thức bậc hai với hệ số nguyên về mặt tích phân logarit và hệ số của đa thức. Không có đa thức bậc hai nào được chứng minh là chỉ cho các giá trị nguyên tố.\nXoắn Ulam sắp xếp các số tự nhiên thành một mặt phẳng hai chiều, xoắn ở các hình vuông đồng tâm quanh điểm gốc với số nguyên tố được đánh dấu. Dễ thấy trong ví dụ này, các số nguyên tố chỉ tập trung ở một số đường chéo nhất định, ngụ ý rằng có một số đa thức bậc hai cho giá trị nguyên tố thường xuyên hơn các đa thức khác.\nHàm zeta và giả thuyết Riemann.\nGiả thuyết Riemann (1859) là một trong những bài toán chưa được giải nổi tiếng nhất toán học và một là trong bảy bài toán thiên niên kỷ, yêu cầu tìm các nghiệm số của hàm zeta Riemann formula_107. Hàm này là một hàm giải tích trên tập số phức. Với số phức formula_108 có phần thực lớn hơn 1, nó bằng một tổng vô hạn trên tất cả số nguyên và một tích vô hạn trên tất cả số nguyên tố:\nSự bằng nhau này giữa một tổng và một tích (do Euler tìm ra) được gọi là tích Euler. Tích Euler có thể được suy ra từ định lý cơ bản của số học và cho thấy sự liên hệ giữa hàm zeta và số nguyên tố. Nó dẫn đến một cách chứng minh khác về sự tồn tại vô số số nguyên tố: nếu chỉ có một số hữu hạn số nguyên tố thì dấu bằng giữa tổng và tích cũng xảy ra tại formula_110 nhưng tổng có tính phân kỳ (đó chính là chuỗi điều hòa formula_111) trong khi tích có tính hội tụ (mang giá trị hữu hạn), mâu thuẫn.\nGiả thuyết Riemann phát biểu rằng nghiệm số của hàm zeta là tất cả các số âm chẵn hoặc các số phức với phần thực bằng 1/2. Chứng minh ban đầu của định lý số nguyên tố được dựa trên dạng không chặt chẽ của giả thuyết này cho rằng không có nghiệm số nào có phần thực bằng 1, mặc dù còn có thêm một số cách chứng minh cơ bản khác. Hàm đếm số nguyên tố có thể được biểu diễn bởi công thức tường minh của Riemann thành một tổng mà trong đó, mỗi số hạng đến từ một nghiệm số của hàm zeta: số hạng chính của tổng là tích phân logarit và các số hạng còn lại làm cho giá trị của tổng dao động quanh số hạng chính đó. Trong trường hợp này, các nghiệm số làm ảnh hưởng đến sự phân phối các số nguyên tố. Nếu giả thuyết Riemann là đúng, độ dao động đó sẽ nhỏ lại và sự phân phối tiệm cận các số nguyên tố được cho bởi định lý số nguyên tố cũng đúng trên các khoảng nhỏ hơn rất nhiều (có độ dài gần bằng căn bậc hai của formula_21 đối với khoảng nằm gần một số formula_21).\nĐại số trừu tượng.\nSố học mô đun và trường hữu hạn.\nSố học mô đun là một dạng khác của số học thông thường chỉ dùng các số formula_114 với một số tự nhiên formula_1 được gọi là mô đun. Bất kỳ số tự nhiên nào khác đều có thể được ánh xạ vào hệ thống này bằng cách thay nó bằng số dư của nó khi được chia bởi formula_1. Mô đun tổng, hiệu và tích được tính bằng cách thực hiện phép thế bằng số dư trong phép chia của tổng, hiệu hoặc tích các số nguyên thông thường. Sự bằng nhau giữa các số nguyên có liên quan đến khái niệm \"đồng dư\" trong số học mô đun: formula_21 và formula_118 đồng dư (ký hiệu formula_119) khi phép chia của chúng bởi formula_1 cho số dư bằng nhau. Tuy nhiên, trong hệ thống số đó, chỉ có thể xảy ra phép chia cho một số khác 0 khi và chỉ khi mô đun là số nguyên tố. Chẳng hạn, với mô đun 7, có thể tồn tại phép chia cho 3: formula_121, vì khi nhân cả hai vế cho 3 thì ta được biểu thức đúng formula_122. Nhưng với mô đun 6 (là một hợp số), không thể tồn tại phép chia cho 3: phương trình formula_123 vô nghiệm vì khi nhân cả hai vế cho 3 thì vế trái trở thành số 2 còn vế phải trở thành số 0 hoặc số 3. Trong đại số trừu tượng, khả năng thực hiện phép chia có nghĩa rằng mô đun một số nguyên tố tạo thành một trường được gọi là trường hữu hạn, trong khi các mô đun khác chỉ tạo ra vành.\nBằng số học mô đun, có thể suy ra được một số định lý về số nguyên tố. Ví dụ, định lý nhỏ Fermat phát biểu rằng nếu formula_124 (mod formula_19) thì formula_126 (mod formula_19). Lấy tổng trên tất cả giá trị của formula_34, ta được phương trình\nđúng khi formula_19 là số nguyên tố. Giả thuyết Giuga cho rằng phương trình này là điều kiện đủ để formula_19 là số nguyên tố. Theo định lý Wilson, một số nguyên formula_132 là số nguyên tố khi và chỉ khi giai thừa formula_133 đồng dư với –1 mod formula_19. Với một hợp sốformula_135thì định lý này không đúng, vì khi đó có một trong hai thừa số chia hết cả và formula_136 nên không thể có formula_137.\nSố \"p\"-adic.\nCấp formula_19-adic formula_139 của một số nguyên formula_1 là số lần xuất hiện của formula_19 trong phân tích nguyên tố của formula_1. Khái niệm này có thể được mở rộng cho số hữu tỉ: cấp formula_19-adic của một phân số formula_144 được xác định là formula_145. Khi đó, giá trị tuyệt đối formula_19-adic formula_147 của một số hữu tỉ formula_103 là formula_149. Khi nhân một số nguyên với giá trị tuyệt đối formula_19-adic của nó thì các thừa số formula_19 trong phân tích nguyên tố của số nguyên đó bị khử và chỉ còn lại các thừa số nguyên tố khác. Giống như khi đo khoảng cách giữa hai số thực bằng giá trị tuyệt đối thông thường, khoảng cách giữa hai số hữu tỉ có thể được đo bằng độ dài formula_19-adic, tức là giá trị tuyệt đối formula_19-adic của hiệu hai số đó. Theo định nghĩa khoảng cách đó, hai số được gọi là gần nhau (có khoảng cách nhỏ) khi hiệu giữa chúng có thể chia hết bởi một lũy thừa bậc cao của formula_19. Bằng cùng một cách mà số thực được tạo thành từ số hữu tỉ và khoảng cách giữa chúng cùng một số giá trị giới hạn được thêm vào để hợp lại thành một trường đầy đủ, các số hữu tỉ với khoảng cách formula_19 có thể được mở rộng sang một trường đầy đủ khác được gọi là số formula_19-adic.\nCác khái niệm về cấp, giá trị tuyệt đối và trường đầy đủ suy ra từ chúng có thể được khái quát hóa cho trường số đại số cùng với định chuẩn (ánh xạ nhất định từ nhóm nhân của trường đó sang một nhóm cộng được sắp toàn phần), giá trị tuyệt đối (ánh xạ nhân nhất định từ một trường sang số thực), và vị trí (sự mở rộng sang trường đầy đủ mà trong đó tập cho trước là một tập trù mật) của chúng. Chẳng hạn, sự mở rộng từ tập số hữu tỉ sang tập số thực là một vị trí mà tại đó khoảng cách giữa hai số là giá trị tuyệt đối thông thường của hiệu hai số đó. Ánh xạ tương ứng sang một nhóm cộng là logarit của giá trị tuyệt đối đó, mặc dù nó không thỏa mãn tất cả yêu cầu của một định chuẩn. Theo định lý Ostrowski, trước khái niệm tự nhiên về tương đương, số thực và số formula_19-adic cùng cấp và giá trị tuyệt đối của chúng là định chuẩn, giá trị tuyệt đối và vị trí duy nhất trên tập số hữu tỉ. Nguyên lý Hasse cho phép giải nhiều bài toán trên số hữu tỉ bằng cách hợp các nghiệm từ các vị trí của chúng lại với nhau, một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của số nguyên tố trong lý thuyết số.\nPhần tử nguyên tố trong vành.\nVành giao hoán là một cấu trúc đại số có định nghĩa phép cộng, phép trừ và phép nhân. Tập số nguyên là một vành và số nguyên tố trong tập đó đã được khái quát hóa sang lý thuyết vành với thuật ngữ \"phần tử nguyên tố\" và \"phần tử tối giản\". Một phần tử formula_19 của vành formula_159 được gọi là phần tử nguyên tố nếu nó khác 0, không có nghịch đảo (không phải phần tử đơn vị) và thỏa mãn điều kiện: khi formula_19 chia hết tích formula_161 gồm hai phần tử trong formula_159 thì nó cũng chia hết ít nhất một trong hai phần tử formula_21 và formula_118. Một phần tử được gọi là phần tử tối giản nếu nó không phải phần tử đơn vị, cũng không phải là tích của hai phần tử khác phần tử đơn vị. Trong vành số nguyên, các phần tử nguyên tố và tối giản tạo thành cùng một tập hợp\nTrong một vành bất kỳ, mọi phần tử nguyên tố đều là phần tử tối giản. Phát biểu ngược lại của nó chỉ đúng trong miền phân tích nhân tử duy nhất.\nĐịnh lý cơ bản của số học là đúng (theo định nghĩa) trong miền phân tích nhân tử duy nhất. Ví dụ về một miền như thế là vành số nguyên Gauss formula_166, vành các số phức dạng formula_167 với formula_168 là đơn vị ảo và formula_34 và formula_35 là số nguyên bất kỳ. Các phần tử nguyên tố của vành đó được gọi là số nguyên tố Gauss. Một số nguyên tố trong vành số nguyên có thể không phải là số nguyên tố trong vành số nguyên Gauss; chẳng hạn, số 2 có thể được viết thành tích của hai số nguyên tố Gauss formula_171 và formula_172. Số nguyên tố hữu tỉ (phần tử nguyên tố trong vành số nguyên) đồng dư với 3 mod 4 là số nguyên tố Gauss, nhưng số nguyên tố hữu tỉ đồng dư với 1 mod 4 không phải vậy. Đó là một hệ quả của định lý Fermat về tổng của hai số chính phương, phát biểu rằng một số nguyên tố lẻ formula_19 có thể được biểu diễn thành tổng của hai số chính phương, formula_174, và do đó có thể được phân tích thành formula_175, chỉ khi formula_19 đồng dư với 1 mod 4.\nI-đê-an nguyên tố.\nKhông phải mọi vành đều là miền phân tích nhân tử duy nhất. Chẳng hạn, trong vành các số formula_177 (với formula_34 và formula_35 là số nguyên), số 21 có hai cách phân tích: formula_180, trong đó cả bốn thừa số đều là tối giản, nên nó không có một phân tích nhân tử duy nhất. Để mở rộng khái niệm phân tích nhân tử duy nhất sang các lớp vành khác lớn hơn, có thể thay thế thuật ngữ về số bằng thuật ngữ về i-đê-an, một tập hợp con của các phần tử trong một vành chứa tổng của mỗi cặp phần tử của nó và tích của mỗi phần tử của nó với một phần tử trong vành. \"I-đê-an nguyên tố\", vốn khái quát hóa phần tử nguyên tố trong trường hợp i-đê-an chính tạo ra bởi một phần tử nguyên tố là một i-đê-an nguyên tố, là một công cụ quan trọng và chủ đề nghiên cứu chính trong đại số giao hoán, lý thuyết số đại số và hình học đại số. Các i-đê-an nguyên tố trong vành số nguyên là (0), (2), (3), (5), (7), (11)... Định lý cơ bản của số học được khái quát hóa thành định lý Lasker–Noether biểu diễn một i-đê-an bất kỳ trong một vành giao hoán Noether thành giao của các i-đê-an sơ cấp, một dạng khái quát hóa thích hợp của lũy thừa nguyên tố.\nPhổ của một vành là một không gian hình học mà các điểm trong đó là các i-đê-an nguyên tố của vành đó. Thuật ngữ này giúp ích nhiều cho hình học đại số và nhiều khái niệm liên quan khác cũng xuất hiện trong hình học và lý thuyết số. Chẳng hạn, sự phân tích hoặc phân chia i-đê-an nguyên tố khi áp dụng trong một trường mở rộng, một bài toán cơ bản của lý thuyết số đại số, thì có tương đồng với sự phân chia trong hình học. Các khái niệm này thậm chí còn có thể hỗ trợ giải một số bài toán đặc biệt liên quan đến số nguyên trong lý thuyết số. Ví dụ, có thể dùng i-đê-an nguyên tố trong vành số nguyên của trường số bậc hai để chứng minh luật tương hỗ bậc hai, một phát biểu về sự tồn tại của biểu thức căn bậc hai mô đun một số nguyên tố nguyên. Những cố gắng ban đầu để chứng minh định lý cuối của Fermat đã dẫn đến sự ra đời khái niệm số nguyên tố chính quy, những số nguyên tố nguyên liên quan đến sự không tồn tại phân tích nhân tử duy nhất trong trường số nguyên chia đường tròn. Bài toán có bao nhiêu số nguyên tố nguyên có thể được phân tích thành một tích gồm nhiều i-đê-an nguyên tố trong một trường số đại số được giải quyết bằng định lý mật độ Chebotarev mà khi được áp dụng cho số nguyên chia đường tròn thì có trường hợp đặc biệt là định lý Dirichlet về số nguyên tố trong cấp số cộng.\nLý thuyết nhóm.\nTrong lý thuyết nhóm hữu hạn, định lý Sylow phát biểu rằng nếu lũy thừa của một số nguyên tố formula_181 chia hết cấp của một nhóm thì nó có một nhóm con với cấp formula_181. Theo định lý Lagrange, một nhóm với cấp nguyên tố là nhóm cyclic, và theo định lý Burnside thì một nhóm có cấp chia hết được bởi đúng hai số nguyên tố là nhóm giải được.\nPhương pháp tính.\nTrong một thời gian dài, lý thuyết số nói chung và ngành nghiên cứu số nguyên tố nói riêng từng được xem là ví dụ kinh điển về toán học thuần túy khi không có ứng dụng nào ngoài phạm vi toán học, ngoại trừ việc dùng các bánh răng với số răng là số nguyên tố để hạn chế mài mòn. Thậm chí, một số nhà lý thuyết số như nhà toán học người Anh G. H. Hardy còn tự hào về chính họ khi làm những công trình nghiên cứu hoàn toàn không có ý nghĩa quân sự gì.\nGóc nhìn này đã bị xóa bỏ vào những năm 1970, khi số nguyên tố đã có thể được dùng làm cơ sở để tạo ra các thuật toán mật mã hóa khóa công khai. Những ứng dụng này đã góp phần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thuật toán thực hiện phép tính trên số nguyên tố và các phương pháp kiểm tra tính nguyên tố của một số. Thuật toán kiểm tra tính nguyên tố cơ bản nhất, giải thuật chia thử, quá chậm đối với số rất lớn. Một nhóm thuật toán hiện đại có thể áp dụng được cho một số bất kỳ, trong khi còn có các thuật toán hiệu quả hơn dành cho các nhóm số đặc biệt. Đa số thuật toán kiểm tra tính nguyên tố chỉ cho biết đầu vào của chúng có phải là số nguyên tố hay không. Một số đoạn chương trình khác còn xuất ra một (hoặc tất cả) thừa số nguyên tố từ đầu vào là hợp số và được gọi là thuật toán phân tích số nguyên. Số nguyên tố cũng có ứng dụng trong điện toán như giá trị tổng kiểm, bảng băm và bộ sinh số giả ngẫu nhiên.\nGiải thuật chia thử.\nPhương pháp cơ bản nhất để kiểm tra tính nguyên tố của một số nguyên formula_1 cho trước được gọi là \"chia thử\". Thuật toán này chia formula_1 cho tất cả số nguyên từ 2 đến căn bậc hai của formula_1. Khi có bất kỳ số nguyên nào chia hết formula_1 thì formula_1 là hợp số, ngược lại thì nó là số nguyên tố. Các số lớn hơn căn bậc hai đó không cần được kiểm tra, vì khi formula_188 thì một trong hai thừa số formula_34 và formula_35 nhỏ hơn hoặc bằng căn bậc hai của formula_1. Một dạng tối ưu khác là chỉ kiểm tra các thừa số nguyên tố trong khoảng đó. Chẳng hạn, để kiểm tra xem 37 có phải là số nguyên tố hay không, thuật toán này chia nó cho các số nguyên tố trong khoảng từ 2 đến , đó là số 2, 3 và 5. Cả ba phép chia đều có số dư khác 0 nên 37 chính là số nguyên tố.\nPhương pháp này có thể được mô tả một cách đơn giản, nhưng không thực tế khi kiểm tra tính nguyên tố của các số nguyên lớn, vì số phép chia nó thực hiện tăng dần theo cấp số nhân khi số chữ số của số nguyên đó càng nhiều. Tuy nhiên, giải thuật chia thử vẫn được sử dụng để tìm nhanh hợp số với thừa số nhỏ trước khi áp dụng những phương pháp phức tạp hơn đối với các số vượt qua được giải thuật đó.\nSàng.\nTrước khi máy tính ra đời, nhiều bảng số liệt kê tất cả số nguyên tố hoặc phân tích nguyên tố đến một giới hạn cho trước đã được phát hành rộng rãi. Phương pháp cổ xưa nhất để lập danh sách số nguyên tố được gọi là sàng Eratosthenes. Hình minh họa bên phải cho thấy một dạng tối ưu của phương pháp này. Một sàng khác hiệu quả hơn để giải quyết bài toán đó là sàng Atkin. Trong toán học nâng cao, lý thuyết sàng áp dụng các phương pháp tương tự vào nhiều bài toán khác.\nKiểm tra tính nguyên tố và chứng minh tính nguyên tố.\nMột số thuật toán hiện đại nhanh nhất để giải quyết bài toán về tính nguyên tố của một số formula_1 bất kỳ cho trước là các thuật toán xác suất (Monte Carlo), nghĩa là nó có một khả năng nhỏ ngẫu nhiên cho câu trả lời sai. Chẳng hạn, kiểm tra Solovay–Strassen với một số cho trước formula_19 chọn ngẫu nhiên một số formula_34 trong khoảng từ 2 đến formula_195 và sử dụng lũy thừa mô đun để kiểm tra xem formula_196 có chia hết được bởi formula_19 hay không. Nếu đúng là như vậy thì nó trả lời \"có\" và ngược lại thì nó trả lời \"không\". Nếu formula_19 đúng là số nguyên tố thì nó luôn trả lời \"có\", nhưng nếu formula_19 là hợp số thì nó trả lời \"có\" với xác suất lớn nhất là 1/2 và \"không\" với xác suất nhỏ nhất là 1/2. Nếu thuật toán này được lặp lại formula_1 lần trong cùng một số, xác suất lớn nhất để một hợp số vượt qua được thuật toán mọi lần là formula_201. Vì xác suất đó giảm dần theo cấp số nhân khi số lần thực hiện kiểm tra tăng dần nên nó dẫn đến khả năng cao (nhưng không chắc chắn) rằng một số vượt qua được thuật toán lặp lại đó là số nguyên tố. Mặt khác, nếu một số không vượt qua được kiểm tra thì nó chắc chắn là hợp số. Một hợp số vượt qua được một kiểm tra như thế được gọi là số giả nguyên tố.\nNgược lại, một số thuật toán khác đảm bảo rằng câu trả lời luôn luôn đúng: số nguyên tố sẽ luôn luôn được xác định là số nguyên tố và hợp số sẽ luôn luôn được xác định là hợp số. Chẳng hạn, phát biểu này là đúng đối với giải thuật chia thử. Những thuật toán với đầu ra đảm bảo chính xác bao gồm thuật toán tất định như phép kiểm tra tính nguyên tố AKS, và các thuật toán Las Vegas ngẫu nhiên mà trong đó những lựa chọn ngẫu nhiên của thuật toán không ảnh hưởng gì đến kết quả cuối cùng, chẳng hạn như một số dạng của phép chứng minh tính nguyên tố bằng đường cong elliptic. Khi phương pháp đường cong elliptic kết luận rằng một số là số nguyên tố, nó cũng xuất ra một chứng nhận tính nguyên tố có thể được xác nhận nhanh chóng. Kỹ thuật đường cong elliptic là nhanh nhất trong số các thuật toán với độ chính xác tuyệt đối, nhưng thời gian thực thi chỉ được đo dựa trên thực nghiệm thay vì lập luận chứng minh. Kiểm tra AKS có độ phức tạp tính toán được chứng minh bằng lập luận toán học nhưng hoạt động chậm hơn so với kỹ thuật đường cong elliptic. Các phương pháp này có thể được dùng để tạo ra các số nguyên tố lớn bằng cách tạo và kiểm tra các số ngẫu nhiên đến khi tìm được một số nguyên tố; khi đó, một thuật toán kiểm tra xác suất có thể nhanh chóng loại đi phần lớn hợp số trước khi một thuật toán \"chắc chắn đúng\" được dùng để xác thực lại rằng các số còn lại là số nguyên tố.\nBảng dưới đây liệt kê một số thuật toán như vậy. Thời gian hoạt động được cho theo số được kiểm tra formula_1 và số vòng lặp formula_61 (đối với thuật toán xác suất). Đồng thời, formula_204 là một số dương nhỏ bất kỳ và formula_205 là logarit cơ số không xác định. Ký hiệu O lớn nghĩa là mỗi khoảng thời gian phải được nhân lên bởi một hằng số tỉ lệ để chuyển nó từ một đại lượng vô hướng sang đơn vị thời gian; hằng số này phụ thuộc vào thông số kỹ thuật chẳng hạn như loại máy tính được dùng để thực hiện thuật toán, nhưng không phụ thuộc vào tham số đầu vào formula_1 và formula_61.\nCác thuật toán đặc biệt và số nguyên tố lớn nhất đã biết.\nCùng với các thuật toán nói trên áp dụng được cho bất kỳ số tự nhiên nào, một vài số với dạng đặc biệt còn có thể được kiểm tra tính nguyên tố nhanh hơn. Ví dụ, kiểm tra Lucas–Lehmer có thể xác định được một số Mersenne (lũy thừa của 2 trừ 1) có phải là số nguyên tố hay không một cách tất định với thời gian bằng với một vòng lặp của kiểm tra Miller–Rabin. Đó là lý do kể từ năm 1992 (tính đến tháng 12 năm 2018) số nguyên tố lớn nhất đã biết luôn là một số nguyên tố Mersenne. Có giả thuyết cho rằng có vô số số nguyên tố Mersenne.\nBảng dưới đây liệt kê các số nguyên tố lớn nhất đã biết theo nhiều dạng khác nhau. Một vài trong số đó được tìm thấy qua điện toán phân tán. Năm 2009, dự án Great Internet Mersenne Prime Search đã được trao giải thưởng 100.000 USD cho số nguyên tố đầu tiên có ít nhất 10 triệu chữ số thập phân. Tổ chức Biên giới Điện tử cũng có giải thưởng lần lượt là 150.000 và 250.000 USD dành cho số nguyên tố có ít nhất 100 triệu và 1 tỷ chữ số.\nPhân tích số nguyên.\nCho một hợp số formula_1, công việc xuất ra một (hoặc tất cả) thừa số nguyên tố được gọi là \"phân tích\" của formula_1. Công việc này khó hơn đáng kể so với kiểm tra tính nguyên tố, và mặc dù tồn tại nhiều thuật toán phân tích nhưng chúng đều chậm hơn so với các phương pháp nhanh nhất để kiểm tra tính nguyên tố. Giải thuật chia thử và thuật toán RHO có thể được dùng để tìm các nhân tử rất nhỏ của formula_1, và thuật toán phân tích bằng đường cong elliptic có thể hiệu quả khi formula_1 có các nhân tử lớn vừa phải. Một số phương pháp phù hợp đối với số lớn bất kỳ không phụ thuộc vào độ lớn của nhân tử bao gồm sàng cấp hai và sàng trường số thông thường. Giống như kiểm tra tính nguyên tố, có một số thuật toán phân tích yêu cầu đầu vào có dạng đặc biệt, trong đó có sàng trường số đặc biệt. Tính đến tháng 2 năm 2020 số lớn nhất được phân tích bằng một thuật toán thông thường là RSA-250, một số có 250 chữ số (829 bit) và là tích của hai số nguyên tố lớn.\nThuật toán Shor cho phép phân tích bất kỳ số nguyên nào với số bước đa thức trong một máy tính lượng tử. Tuy nhiên, với công nghệ hiện nay thì thuật toán này chỉ hoạt động được với các số rất nhỏ. Tính đến tháng 10 năm 2012 số lớn nhất được phân tích bằng thuật toán Shor trong một máy tính lượng tử là 21.\nỨng dụng khác trong điện toán.\nMột số thuật toán mật mã hóa khóa công khai, chẳng hạn như RSA và trao đổi khóa Diffie−Hellman được dựa trên số nguyên tố lớn (phổ biến nhất là số nguyên tố 2048 bit). RSA dựa vào giả thiết rằng thực hiện phép nhân hai số lớn formula_21 và formula_118 dễ hơn nhiều so với khi tính formula_21 và formula_118 (giả sử là hai số nguyên tố cùng nhau) nếu chỉ biết một tích formula_161. Trao đổi khóa Diffie−Hellman dựa vào thực tế rằng có một số thuật toán hiệu quả đối với lũy thừa mô đun (tính formula_217), trong khi phép tính ngược lại (logarit rời rạc) được cho là một bài toán khó.\nSố nguyên tố được sử dụng thường xuyên trong bảng băm. Chẳng hạn phương pháp ban đầu của Carter và Wegman đối với băm phổ quát được dựa vào việc tính hàm băm bằng cách chọn ngẫu nhiên hàm tuyến tính mô đun số nguyên tố lớn. Carter và Wegman đã khái quát hóa phương pháp này cho băm formula_61-độc lập bằng cách sử dụng đa thức bậc cao mô đun số nguyên tố lớn. Cũng như trong hàm băm, số nguyên tố được dùng trong kích thước của bảng băm dựa trên dò cấp hai để đảm bảo rằng chuỗi dò bao phủ hết bảng đó.\nMột số phương pháp giá trị tổng kiểm được dựa trên kiến thức toán học về số nguyên tố. Chẳng hạn giá trị tổng kiểm dùng trong ISBN được xác định bằng cách lấy tổng của tất cả các chữ số (ngoài chữ số cuối cùng) mô đun 11. Vì 11 là số nguyên tố nên phương pháp này có thể phát hiện các chữ số bị sai và chuyển vị của các chữ số liền kề nhau. Adler-32, một công cụ kiểm tra tổng kiểm khác, sử dụng số học mô đun 65521, số nguyên tố lớn nhất nhỏ hơn formula_219. Số nguyên tố cũng được dùng trong bộ sinh số giả ngẫu nhiên, trong đó có bộ sinh số đồng dư tuyến tính và Mersenne Twister.\nCác ứng dụng khác.\nSố nguyên tố là chủ đề trọng tâm của lý thuyết số và có nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực khác của toán học, trong đó có đại số trừu tượng và hình học cơ bản. Ví dụ, có thể đặt một số lượng số nguyên tố các điểm trên mặt phẳng hai chiều sao cho không có ba điểm nào thẳng hàng, hoặc sao cho một tam giác bất kỳ với ba đỉnh là ba trong số các điểm đó có kích thước lớn. Một ví dụ khác là tiêu chuẩn Eisenstein, dùng để kiểm tra xem một đa thức có tối giản hay không dựa vào tính chia hết của các hệ số cho một số nguyên tố và bình phương của nó.\nKhái niệm số nguyên tố quan trọng đến mức nó đã được khái quát hóa sang các nhánh khác của toán học. Thông thường, \"nguyên tố\" có nghĩa là \"tối thiểu\" hoặc \"không khai triển, phân tích được\" trong trường hợp thích hợp. Ví dụ, trường nguyên tố của một trường cho trước là trường con nhỏ nhất của trường đã cho có chứa cả 0 và 1. Nó có thể là trường số hữu tỉ hoặc một trường hữu hạn có số lượng phần tử là số nguyên tố. Một nghĩa thứ hai ám chỉ rằng bất kỳ đối tượng nào cũng đều có một cách phân tích duy nhất thành các thành phần nguyên tố. Chẳng hạn, trong lý thuyết nút thắt, nút thắt nguyên tố là một nút thắt không phân tích được, nghĩa là nó không thể được viết thành tổng liên kết của hai nút thắt không tầm thường. Mỗi nút thắt bất kỳ có một cách biểu diễn duy nhất thành tổng liên kết của các nút thắt nguyên tố. Phân tích nguyên tố của 3-đa tạp là ví dụ khác của dạng này.\nCùng với toán học và điện toán, số nguyên tố có mối liên hệ với cơ học lượng tử và là hình ảnh ẩn dụ trong nghệ thuật và văn học. Chúng cũng có ứng dụng trong sinh học tiến hóa để giải thích vòng đời của liên họ Ve sầu.\nĐa giác vẽ được và phân chia đa giác.\nSố Fermat là những số có dạng\nvới formula_61 là số nguyên không âm. Chúng được đặt tên theo Pierre de Fermat, người đã dự đoán rằng tất cả các số dạng này đều là số nguyên tố. Năm số Fermat đầu tiên – 3, 5, 17, 257 và 65.537 – đều là số nguyên tố, nhưng formula_222 là hợp số và tương tự với tất cả các số Fermat khác (tính đến năm 2017). Một formula_1-giác đều có thể vẽ được bằng thước thẳng và compa khi và chỉ khi tập hợp các thừa số nguyên tố lẻ của formula_1 (nếu có) chỉ gồm các số nguyên tố Fermat. Tương tự, một formula_1-giác đều có thể vẽ được bằng thước, compa và thước góc phần ba khi và chỉ khi tập hợp các thừa số nguyên tố của formula_1 có chứa số 2 hoặc số 3 cùng một tập hợp (có thể rỗng) các số nguyên tố Pierpont, số nguyên tố có dạng formula_227.\nCó thể chia một đa giác lồi bất kỳ thành formula_1 đa giác lồi nhỏ hơn với diện tích và chu vi bằng nhau khi formula_1 là lũy thừa của một số nguyên tố, nhưng chưa rõ tính chất này ra sao với các giá trị khác của formula_1.\nCơ học lượng tử.\nBắt đầu từ công trình của Hugh Montgomery và Freeman Dyson vào những năm 1970, nhiều nhà toán học và vật lý suy đoán rằng nghiệm số của hàm zeta Riemann có liên hệ với mức năng lượng của hệ thống lượng tử. Số nguyên tố cũng có ý nghĩa quan trọng trong khoa học thông tin lượng tử nhờ vào các cấu trúc toán học như cơ sở không lệch qua lại và SIC-POVM (độ đo giá trị toán tử dương đối xứng đầy đủ thông tin).\nSinh học.\nChu kỳ tiến hóa của liên họ ve sầu chi \"Magicicada\" ở Bắc Mỹ có liên quan đến số nguyên tố. Các côn trùng này sống phần lớn cuộc đời dưới dạng ấu trùng dưới lòng đất. Chúng chỉ phát triển dần và chui lên mặt đất sau 7, 13 hoặc 17 năm, từ đó chúng bay, sinh sản và chết sau nhiều nhất vài tuần. Các nhà sinh học giả thiết rằng tính nguyên tố của chu kỳ sinh sản là để tránh đồng bộ với chu kỳ của động vật ăn thịt. Ngược lại, chu kỳ ra hoa nhiều năm của tre được cho là số nhẵn, chỉ có các thừa số nguyên tố nhỏ trong phân tích của nó.\nNghệ thuật và văn học.\nSố nguyên tố đã làm ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ và nhà văn. Nhà soạn nhạc người Pháp Olivier Messiaen sử dụng số nguyên tố để sáng tác nhạc qua \"hiện tượng tự nhiên\". Trong một số sáng tác như \"La Nativité du Seigneur\" (1935) và \"Quatre études de rythme\" (1949–1950), ông đồng thời áp dụng nhạc tố với độ dài cho bởi các số nguyên tố khác nhau để tạo những nhịp điệu đặc biệt: số 41, 43, 47 và 53 xuất hiện trong khúc luyện thứ ba \"Neumes rythmiques\". Theo Messiaen, phong cách sáng tác này \"lấy cảm hứng từ vận động tự nhiên, vận động theo hướng tự do và khác biệt\".\nTrong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng \"Contact\" (1985), nhà khoa học Carl Sagan gợi ý rằng phân tích nguyên tố có thể được dùng để tạo mặt phẳng ảnh hai chiều khi liên lạc với người ngoài hành tinh, một ý tưởng mà ông cùng nhà thiên văn người Hoa Kỳ Frank Drake phát triển từ năm 1975. Trong tiểu thuyết \"The Curious Incident of the Dog in the Night-Time\" (\"Bí ẩn về con chó lúc nửa đêm\") của Mark Haddon, tác giả đánh số các mục của câu chuyện bằng các số nguyên tố liên tiếp để truyền đạt trạng thái tinh thần của nhân vật chính, một cậu bé có năng khiếu toán học mắc hội chứng Asperger. Số nguyên tố là hình ảnh ẩn dụ cho sự cô đơn trong tiểu thuyết \"La Solitudine dei Numeri Primi\" (\"Nỗi cô đơn của các số nguyên tố\") của Paolo Giordano, ở đó chúng được mô tả là \"người ngoài cuộc\" trong các số nguyên." ]
vect - ton - hm - gic - logarit - tam - nu - formula1 - xc - tp
1
false
Nghiệm số (còn gọi tắt là nghiệm) của một phương trình: là các giá trị của "x"1, "x"2... mà ở đó giá trị của hàm số "f" bằng 0. Có những phương trình mà nghiệm số thực không tồn tại. Việc tìm ra các nghiệm số của phương trình gọi là giải phương trình. Nghiệm số, nếu tồn tại, có thể tìm thấy bằng biến đổi toán học và biểu diễn bằng các hàm toán học cơ bản hoặc tìm thấy dưới dạng số bằng phương pháp số, ngay cả khi không thể biểu diễn bằng hàm toán học cơ bản. Ngày nay máy tính có thể giúp tìm ra khá hiệu quả nghiệm số dưới dạng số bằng các phương pháp số tối ưu hoá cho máy tính hay dưới dạng biểu diễn toán học bằng biến đổi toán học tự động trên hệ thống đại số máy tính. Số nghiệm của 1 đa thức (khác đa thức không) không vượt quá bậc của nó. Khi nghiệm của đa thức f(x) là a, ta có: f(a)=0
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Mét (tiếng Pháp: "mètre", tiếng Anh: "metre" (Anh) hoặc "meter" (Mỹ)) là đơn vị đo khoảng cách, một trong 7 đơn vị cơ bản trong hệ đo lường quốc tế (SI), viết tắt là m. Định nghĩa gần đây nhất của mét Văn phòng Cân đo Quốc tế ("Bureau International des Poids et Mesures") vào năm 1983 là: "Metre (mét) là khoảng cách ánh sáng đi được trong chân không trong khoảng thời gian 1 ⁄ 299,792,458 giây". Mét được định nghĩa là chiều dài của con đường đi du lịch bằng ánh sáng trong chân không trong của một giây. Đồng hồ ban đầu được xác định vào năm 1793 là một phần mười triệu khoảng cách từ xích đạo đến Bắc Cực dọc theo một vòng tròn lớn, do đó chu vi của Trái Đất là khoảng 40000 km. Năm 1799, mét được xác định lại theo nghĩa của thanh đo nguyên mẫu (thanh thực tế được sử dụng đã được thay đổi vào năm 1889). Năm 1960, mét được xác định lại theo một số bước sóng nhất định của một đường phát xạ nhất định của krypton-86. Định nghĩa hiện tại đã được thông qua vào năm 1983 và được cập nhật một chút vào năm 2019. Trong cách hành văn hàng ngày, nhiều khi một mét còn được gọi là một thước hay thước tây. Từ nguyên. Nguồn gốc của đơn vị đo này có thể được bắt nguồn từ động từ Hy Lạp μετρέω (metreo) (để đo, đếm hoặc so sánh) và danh từ μέτρον (metron) (đo lường), được sử dụng để đo lường vật lý, đo lượng thơ và mở rộng để kiểm duyệt. Lịch sử. Năm 1671, Jean Picard đã đo chiều dài của một "con lắc giây" (một con lắc có chu kỳ hai giây) tại đài thiên văn Paris. Ông đã tìm thấy giá trị của 440,5 dòng Toise of Châtelet gần đây đã được làm mới. Ông đã đề xuất một toise phổ quát (tiếng Pháp: "Toiseiverseelle") có chiều dài gấp đôi con lắc giây. Tuy nhiên, người ta đã sớm phát hiện ra rằng chiều dài của một con lắc giây thay đổi từ nơi này sang nơi khác: nhà thiên văn học người Pháp Jean Richer đã đo được chênh lệch 0,3% về chiều dài giữa Cayenne (ở Guiana thuộc Pháp) và Paris. Jean Richer và Giovanni Domenico Cassini đã đo thị sai của Sao Hỏa giữa Paris và Cayenne ở Guiana thuộc Pháp khi Sao Hỏa ở gần Trái Đất nhất vào năm 1672. Họ đã tìm ra một con số cho thị sai mặt trời là 9,5 cung giây, tương đương với khoảng cách Mặt trời Trái Đất vào khoảng bán kính Trái Đất. Họ cũng là những nhà thiên văn học đầu tiên có quyền truy cập vào một giá trị chính xác và đáng tin cậy cho bán kính Trái Đất, được đo bởi đồng nghiệp Jean Picard vào năm 1669 là 3269 nghìn toise. Các quan sát trắc địa của Picard đã bị giới hạn trong việc xác định độ lớn của Trái Đất được coi là một hình cầu, nhưng khám phá của Jean Richer đã khiến sự chú ý của các nhà toán học đến sự sai lệch của nó so với dạng hình cầu. Ngoài tầm quan trọng của nó đối với bản đồ học, việc xác định Hình dạng Trái Đất trở thành một vấn đề có tầm quan trọng cao nhất trong thiên văn học, bởi vì đường kính của Trái Đất là đơn vị mà tất cả các khoảng cách thiên thể phụ thuộc vào nó. Định nghĩa kinh tuyến. Do hậu quả của Cách mạng Pháp, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp đã yêu cầu một ủy ban xác định một thang đo duy nhất cho tất cả các đo lường. Vào ngày 7 tháng 10 năm 1790, ủy ban đó đã tư vấn cho việc áp dụng hệ thống thập phân và vào ngày 19 tháng 3 năm 1791 đã khuyên nên áp dụng thuật ngữ "mètre" ("biện pháp"), một đơn vị chiều dài cơ bản, được xác định bằng một phần mười triệu khoảng cách giữa Bắc Cực và Xích đạo dọc theo kinh tuyến qua Paris. Năm 1793, Công ước Quốc gia Pháp đã thông qua đề xuất này. Viện Hàn lâm Khoa học Pháp đã ủy thác một cuộc thám hiểm do Jean Baptiste Joseph Delambre và Pierre Méchain dẫn đầu, kéo dài từ năm 1792 đến 1799, trong đó cố gắng đo chính xác khoảng cách giữa một tòa nhà ở lâu đài Dunkerque và Montjuïc ở Barcelona ở kinh độ của Paris Panthéon. Cuộc thám hiểm đã được hư cấu ở Denis Guedj, "Le Mètre du Monde". Ken Alder đã viết thực tế về cuộc thám hiểm trong "Đo lường tất cả mọi thứ: cuộc phiêu lưu bảy năm và lỗi tiềm ẩn đã thay đổi thế giới". Phần này của kinh tuyến Paris, là cơ sở cho chiều dài của một nửa kinh tuyến nối Bắc Cực với Xích đạo. Từ năm 1801 đến 1812, Pháp đã sử dụng định nghĩa đồng hồ này là đơn vị đo chiều dài chính thức dựa trên kết quả của cuộc thám hiểm này kết hợp với nhiệm vụ của Phái bộ trắc địa đến Peru. Phần sau có liên quan đến Larrie D. Ferreiro trong "Đo đạc Trái Đất: Cuộc thám hiểm khai sáng đã định hình lại thế giới của chúng ta". Một xác định chính xác hơn về Hình dạng của Trái Đất sẽ sớm có kết quả từ phép đo Vòng cung trắc đạc Struve (1816-1855) và sẽ đưa ra một giá trị khác cho định nghĩa về độ dài này. Điều này không làm mất hiệu lực của máy đo nhưng nhấn mạnh rằng những tiến bộ trong khoa học sẽ cho phép đo kích thước và hình dạng Trái Đất tốt hơn. Sau Cách mạng tháng 7 năm 1830, đồng hồ trở thành tiêu chuẩn dứt khoát của Pháp từ năm 1840. Vào thời điểm đó, nó đã được Ferdinand Rudolph Hassler áp dụng cho Khảo sát Bờ biển Hoa Kỳ. "Đơn vị độ dài mà tất cả các khoảng cách đo được trong Khảo sát bờ biển được gọi là metre của Pháp, một bản sao xác thực được lưu giữ trong kho lưu trữ của Văn phòng Khảo sát Bờ biển. Đó là tài sản của Hiệp hội triết học Hoa Kỳ, người được ông Hassler tặng, người đã nhận nó từ Tralles, một thành viên của Ủy ban Pháp bị buộc tội xây dựng metre tiêu chuẩn bằng cách so sánh với cây toise, đã phục vụ là đơn vị đo chiều dài trong phép đo các cung tròn ở Pháp và Peru. Nó sở hữu tất cả tính xác thực của bất kỳ metre đo gốc nào, không chỉ mang dấu ấn của Ủy ban mà còn là dấu hiệu ban đầu mà nó bị phân biệt từ các thanh khác trong quá trình vận hành tiêu chuẩn. Nó luôn được chỉ định là metre của ủy ban "(tiếng Pháp: "Mètre des Archives"). Năm 1830, Tổng thống Andrew Jackson đã yêu cầu Ferdinand Rudolf Hassler xây dựng các tiêu chuẩn mới cho tất cả các tiểu bang Hoa Kỳ. Theo quyết định của Quốc hội Hoa Kỳ, Tiêu chuẩn Parlementary của Anh từ năm 1758 được giới thiệu là đơn vị độ dài. Một geodesist với kỹ năng đo lường đã đóng một vai trò then chốt trong quá trình quốc tế hóa trọng lượng và các phép đo, Carlos Ibáñez e Ibáñez de Ibero người sẽ trở thành tổng thống đầu tiên của cả Hiệp hội trắc địa quốc tế và Ủy ban Quốc tế về Cân đo. Thanh mẫu mét quốc tế. Năm 1867 tại hội nghị chung thứ hai của Hiệp hội đo đạc quốc tế tổ chức tại Berlin, câu hỏi về đơn vị độ dài tiêu chuẩn quốc tế đã được thảo luận để kết hợp các phép đo được thực hiện ở các quốc gia khác nhau để xác định kích thước và hình dạng của Trái Đất. Hội nghị đề nghị áp dụng mét thay thế cho toise và thành lập ủy ban mét quốc tế, theo đề xuất của Johann Jacob Baeyer, Adolphe Hirsch và Carlos Ibáñez e Ibáñez de Ibero, người đã nghĩ ra hai tiêu chuẩn trắc địa được hiệu chỉnh trên mét cho bản đồ của Tây Ban Nha. Việc truy xuất nguồn gốc đo lường giữa toise và mét được đảm bảo bằng cách so sánh tiêu chuẩn Tây Ban Nha với tiêu chuẩn do Borda và Lavoisier nghĩ ra để khảo sát vòng cung kinh tuyến nối Dunkirk với Barcelona. Thành viên của Ủy ban trù bị từ năm 1870 và đại diện Tây Ban Nha tại Hội nghị Paris năm 1875, Carlos Ibáñez e Ibáñez de Ibero đã can thiệp với Viện hàn lâm Khoa học Pháp để tập hợp Pháp vào dự án để tạo ra một Văn phòng đo lường quốc tế được trang bị các thiết bị khoa học cần thiết để xác định lại các đơn vị của hệ mét theo tiến trình của khoa học. Trong những năm 1870 và với sự chính xác hiện đại, một loạt các hội nghị quốc tế đã được tổ chức để đưa ra các tiêu chuẩn số liệu mới. Công ước mét ("Công ước du Mètre") năm 1875 đã bắt buộc thành lập một Cục đo lường và đo lường quốc tế vĩnh viễn (BIPM: ') được đặt tại Sèvres, Pháp. Tổ chức mới này là để xây dựng và bảo quản một thanh mét nguyên mẫu, phân phối các nguyên mẫu số liệu quốc gia và duy trì sự so sánh giữa chúng và các tiêu chuẩn đo lường phi số liệu. Tổ chức này đã phân phối các thanh như vậy vào năm 1889 tại Hội nghị chung về Trọng lượng và Đo lường đầu tiên (CGPM: '), thiết lập "Mẫu mét quốc tế" như khoảng cách giữa hai dòng trên thanh tiêu chuẩn bao gồm một hợp kim 90% bạch kim và 10% iridium, được đo tại điểm nóng chảy của băng. Việc so sánh các nguyên mẫu mới của máy đo với nhau và với mẫu mét của Ủy ban (tiếng Pháp: "Mètre des Archives") liên quan đến việc phát triển thiết bị đo đặc biệt và định nghĩa thang đo nhiệt độ có thể tái tạo. Công trình đo nhiệt của BIPM đã dẫn đến việc phát hiện ra các hợp kim đặc biệt của sắt-niken, đặc biệt là invar, mà giám đốc của nó, nhà vật lý người Thụy Sĩ Charles-Edouard Guillaume, đã được trao giải thưởng Nobel về vật lý năm 1920. Như Carlos Ibáñez e Ibáñez de Ibero đã nói, sự tiến bộ của đo lường kết hợp với những phép đo trọng lực thông qua việc cải tiến con lắc của Kater đã dẫn đến một kỷ nguyên mới của trắc địa. Nếu đo lường chính xác cần sự trợ giúp của đo đạc, thì sau này không thể tiếp tục phát triển nếu không có sự trợ giúp của đo lường. Thật vậy, làm thế nào để diễn tả tất cả các phép đo của vòng cung trên mặt đất như là một hàm của một đơn vị, và tất cả các phép xác định lực hấp dẫn với con lắc, nếu phép đo không tạo ra một đơn vị chung, được tất cả các quốc gia văn minh chấp nhận và tôn trọng, và ngoài ra, người ta không so sánh, với độ chính xác cao, với cùng một đơn vị tất cả các tiêu chuẩn để đo các cơ sở trắc địa, và tất cả các thanh con lắc đã được sử dụng hoặc sẽ được sử dụng trong tương lai? Chỉ khi loạt so sánh đo lường này kết thúc với sai số có thể xảy ra là một phần nghìn milimét thì mới có thể liên kết các công trình của các quốc gia khác nhau với nhau, và sau đó công bố kết quả của phép đo cuối cùng của Quả cầu. Do hình dạng của Trái Đất có thể được suy ra từ các biến thể của chiều dài con lắc giây với vĩ độ, Khảo sát Bờ biển Hoa Kỳ đã chỉ thị Charles Sanders Peirce vào mùa xuân năm 1875 để tiến tới châu Âu với mục đích thực hiện các thí nghiệm con lắc cho các trạm ban đầu để vận hành thuộc loại này, để đưa các quyết định của các lực hấp dẫn ở Mỹ vào giao tiếp với các khu vực khác trên thế giới; và cũng với mục đích thực hiện một nghiên cứu cẩn thận về các phương pháp theo đuổi các nghiên cứu này ở các quốc gia khác nhau của châu Âu. Năm 1886, hiệp hội trắc địa đổi tên cho Hiệp hội trắc địa quốc tế, mà Carlos Ibáñez e Ibáñez de Ibero đã chủ trì cho đến khi ông qua đời vào năm 1891. Trong giai đoạn này, Hiệp hội trắc địa quốc tế (tiếng Đức: "Quốc tế Erdmessung") đã đạt được tầm quan trọng trên toàn thế giới với sự gia nhập của Hoa Kỳ, México, Chile, Argentina và Nhật Bản. Những nỗ lực để bổ sung cho các hệ thống khảo sát quốc gia khác nhau, bắt đầu từ thế kỷ 19 với nền tảng của "Mitteleuropäische Gradmessung", dẫn đến một loạt các elipsoids toàn cầu của Trái Đất (ví dụ, Helmert 1906, Hayford 1910/1924) sau này sẽ phát triển Hệ thống trắc địa thế giới. Ngày nay, việc đo mẫu mét thực tế có thể thực hiện ở mọi nơi nhờ các đồng hồ nguyên tử được nhúng trong các vệ tinh GPS. Định nghĩa bằng bước sóng. Năm 1873, James Clerk Maxwell đề xuất rằng ánh sáng phát ra từ một nguyên tố được sử dụng làm tiêu chuẩn cho cả mét và giây. Hai đại lượng này sau đó có thể được sử dụng để xác định đơn vị khối lượng. Năm 1893, máy đo tiêu chuẩn lần đầu tiên được đo bằng giao thoa kế của Albert A. Michelson, người phát minh ra thiết bị và là người ủng hộ sử dụng một số bước sóng ánh sáng cụ thể làm tiêu chuẩn về chiều dài. Đến năm 1925, giao thoa kế được sử dụng thường xuyên tại BIPM. Tuy nhiên, Máy đo nguyên mẫu quốc tế vẫn là tiêu chuẩn cho đến năm 1960, khi CGPM thứ mười một xác định máy đo trong Hệ thống đơn vị quốc tế (SI) mới bằng bước sóng của vạch phát xạ màu đỏ cam trong phổ điện từ của nguyên tử krypton-86 trong chân không. Định nghĩa bằng tốc độ ánh sáng. Để giảm thêm sự không chắc chắn, CGPM thứ 17 vào năm 1983 đã thay thế định nghĩa của mét bằng định nghĩa hiện tại của nó, do đó cố định độ dài của mét tính theo giây và tốc độ ánh sáng: Mét là chiều dài của con đường ánh sáng đi được trong chân không trong khoảng thời gian giây. Định nghĩa này đã cố định tốc độ ánh sáng trong chân không ở chính xác mét mỗi giây (≈ ). Một sản phẩm phụ dự định của định nghĩa CGPM thứ 17 là nó cho phép các nhà khoa học so sánh chính xác tần số sử dụng laser, dẫn đến bước sóng với một phần năm độ không đảm bảo liên quan đến so sánh trực tiếp bước sóng, vì các lỗi giao thoa kế đã được loại bỏ. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khả năng tái tạo từ phòng thí nghiệm đến phòng thí nghiệm, CGPM lần thứ 17 cũng đã chế tạo laser neon helium bằng ổn định iod "một bức xạ được khuyến nghị" để thực hiện máy đo. Với mục đích phân định máy đo, BIPM hiện đang xem xét bước sóng laser HeNe, , là với độ không đảm bảo chuẩn tương đối ước tính ("U") là . Sự không chắc chắn này hiện là một yếu tố hạn chế trong việc thực hiện máy đo trong phòng thí nghiệm, và nó có độ lớn kém hơn so với thứ hai, dựa trên đồng hồ nguyên tử đài phun nước Caesium (). Do đó, ngày nay, việc xác định đơn vị mét thường được phác họa (không xác định) trong các phòng thí nghiệm là bước sóng của ánh sáng laser helium-neon trong chân không, lỗi chỉ nói là xác định tần số. Ký hiệu khung này biểu thị lỗi được giải thích trong bài viết về độ không đảm bảo đo. Phép đo thực tế của mét là không chắc chắn trong việc mô tả môi trường, với các độ không đảm bảo khác nhau của giao thoa kế, và không chắc chắn trong việc đo tần số của nguồn. Một phương tiện thường được sử dụng là không khí và Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia (NIST) đã thiết lập một máy tính trực tuyến để chuyển đổi bước sóng trong chân không thành bước sóng trong không khí. Theo mô tả của NIST, trong không khí, sự không chắc chắn trong việc mô tả môi trường bị chi phối bởi các lỗi trong việc đo nhiệt độ và áp suất. Lỗi trong các công thức lý thuyết được sử dụng là thứ cấp. Bằng cách thực hiện hiệu chỉnh chiết suất như thế này, ví dụ, việc thực hiện gần đúng máy đo có thể được thực hiện trong không khí, bằng cách sử dụng công thức của máy đo là bước sóng của ánh sáng laser helium. và chuyển đổi các bước sóng trong chân không thành các bước sóng trong không khí. Không khí chỉ là một phương tiện có thể sử dụng để đo đơn vị mét, và có thể sử dụng bất kỳ khoảng chân không nào, hoặc một số khí quyển trơ như khí heli, cung cấp các hiệu chỉnh thích hợp cho chỉ số khúc xạ được thực hiện. Mét được định nghĩa là chiều dài đường đi của ánh sáng trong một thời gian nhất định và các phép đo chiều dài phòng thí nghiệm thực tế tính bằng mét được xác định bằng cách đếm số bước sóng ánh sáng laser của một trong những loại tiêu chuẩn phù hợp với chiều dài, và chuyển đổi đơn vị bước sóng đã chọn thành mét. Ba yếu tố chính giới hạn độ chính xác đạt được với giao thoa kế laser để đo chiều dài: Trong số này, cái cuối cùng là đặc thù của chính giao thoa kế. Việc chuyển đổi độ dài của bước sóng thành chiều dài tính bằng mét dựa trên mối quan hệ formula_1 mà chuyển đổi các đơn vị bước sóng "λ" thành mét sử dụng "c," vận tốc ánh sáng trong chân không với đơn vị m/s. Ở đây "n" là chỉ số khúc xạ của môi trường trong đó phép đo được thực hiện và "f" là tần số đo của nguồn. Mặc dù chuyển đổi từ bước sóng sang mét gây ra một lỗi bổ sung về chiều dài tổng thể do lỗi đo trong việc xác định chiết suất và tần số, đo tần số là một trong những phép đo chính xác nhất hiện có.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Thời gian là một khái niệm để diễn tả trình tự xảy ra của các sự kiện nhất định, biến cố và thời gian kéo dài của chúng. Thời gian được xác định bằng số lượng các chuyển động của các đối tượng có tính lặp lại và thường có một thời điểm làm mốc gắn với một sự kiện nào đó. Từ "thời gian" có trong tất cả các ngôn ngữ của loài người. Khái niệm thời gian có thể có cả ở động vật. Định nghĩa về thời gian là định nghĩa khó hiểu nếu phải đi đến chính xác. Đa số chúng ta ai cũng phải dùng từ đó và nói đến nó, ví dụ "thời gian trôi"... và do đó dứt khoát phải có một cách hiểu chung dễ hiểu hơn. Thời gian là thuộc tính của vận động và phải được gắn với vật chất, vật thể. Các nhà triết học đúc kết rằng "thế giới" luôn luôn vận động. Giả sử rằng nếu mọi vật trong vũ trụ đứng im, khái niệm thời gian trở nên vô nghĩa. Các sự vật luôn vận động song hành cùng nhau. Có những chuyển động có tính lặp lại, trong khi đó có những chuyển động khó xác định. Vì thế để xác định thời gian người ta so sánh một quá trình vận động với một quá trình khác có tính lặp lại nhiều lần hơn, ổn định hơn và dễ tưởng tượng hơn. Ví dụ chuyển động của con lắc (giây), sự tự quay của Trái Đất hay sự biến đổi của Mặt Trời trên bầu trời (ngày), sự thay đổi hình dạng của Mặt Trăng (tháng âm lịch)... hay đôi khi được xác định bằng quãng đường mà một vật nào đó đi được, sự biến đổi trạng thái lặp đi lặp lại của một "vật". Thời gian chỉ có một chiều duy nhất (cho đến nay được biết đến) đó là từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Do sự vận động không ngừng của thế giới vật chất từ vi mô đến vĩ mô (và kể cả trong ý thức, nhận thức) mà trạng thái và vị trí (xét theo quan điểm động lực học) của các vật không ngừng thay đổi, biến đổi. Chúng luôn có những quan hệ tương hỗ với nhau và vì thế "vị trí và trật tự" của chúng luôn biến đổi, không thể trở về với trạng thái hay vị trí trước đó được. Đó chính là trình tự của thời gian. Theo vật lý động lực học, thời gian có liên quan đến entropi (trạng thái động lực học) vĩ mô. Hay nói cách khác thời gian là một đại lượng mang tính vĩ mô. Nó luôn luôn gắn với mọi mọi vật, không trừ 1 sinh vật hay toàn bộ vật nào hết. Thời gian gắn với từng vật là thời gian riêng, và thời gian riêng thì có thể khác nhau tuỳ thuộc vào bản chất của vật đó và hệ quy chiếu gắn với nó, ví dụ với mỗi hệ chuyển động có vận tốc khác nhau thời gian có thể trôi đi khác nhau. Thời gian của vật này có thể ảnh hưởng đến vật khác.Tuy nhiên,thời gian nếu là sự hoạt động và tương tác vật chất thì nó phải được xác định các sự kiện là hệ quả của nhau.Nếu như các sự kiện mà con người đo đạc chỉ là các sự kiện ngẫu nhiên,hoặc không thể xác định sự liền mạch khi tái chuẩn hoá hoặc lượng tử hoá qua hằng số planck, thời gian có vẻ không tồn tại.Như vậy, "thời điểm" là một trạng thái vật lý cụ thể (có thể xác định được) của một hệ và "thời gian" là diễn biến của các trạng thái vật lý của một hệ là hệ quả của nhau trong lý thuyết hỗn độn (xem hệ vật lý kín). Đo đạc. Thời gian được tính bằng năm, tháng, tuần, ngày, giờ, phút, giây, Đêm. Trong đó, đơn vị cơ sở là "ngày", một ngày được chia làm 24 giờ (12 canh giờ - cách tính thường sử dụng thời xưa), 1 giờ chia thành 60 phút, 1 tuần gồm 7 ngày, 1 tháng bao gồm 28 đến 31 ngày tuỳ thuộc vào tháng trong năm... Theo quy ước hiện đại trong vật lý 1 giây được định nghĩa như sau: Các đơn vị thời gian thông dụng khác được định nghĩa dựa trên khái niệm giây như sau: Trong lý thuyết tương đối của Albert Einstein, đại lượng "ct", với "c" là vận tốc ánh sáng và "t" là thời gian, được coi như là một chiều đặc biệt thêm vào cho không gian ba chiều để tạo thành không-thời gian. Việc cho thêm chiều thời gian giúp việc định vị các sự kiện được dễ dàng khi hệ quy chiếu thay đổi, tương tự như định vị các điểm trong không gian ba chiều cổ điển. Vật lý cũng như nhiều ngành khoa học khác xem "thời gian" là một trong số những đại lượng cơ bản ít ỏi. Nó được dùng định nghĩa nhiều đại lượng khác như vận tốc nhưng nếu dùng những đại lượng như vậy mà định nghĩa trở lại "thời gian" sẽ tạo ra lối định nghĩa lòng vòng (tiếng Anh: circular definition). Một dạng định nghĩa operational về thời gian được diễn tả như sau: quan sát số lần lập cụ thể của một sự kiện có tính chu kì (như chuyển động của con lắc tự do) nảy sinh một loại đơn vị tiêu chuẩn như giây. Thời Cổ đại người Trung Quốc thường tính thời gian theo Can Chi tức là chia thời gian theo các Canh theo thứ tự 12 con Giáp để tính thời gian trong ngày. Trên thế giới còn rất nhiều dân tộc như Do Thái, Thổ dân Châu Mỹ, Người Khơ Me... dùng nhiều Lịch khác nhau để tính thời gian khác nhau. Các định nghĩa và tiêu chuẩn. Trong hệ đo lường SI cơ bản, đơn vị của thời gian là giây. Từ đó các đơn vị lớn hơn như phút, giờ, và ngày được tính dựa theo đó, các đơn vị thứ cấp này gọi là đơn vị không SI do chúng không được sử dụng trong hệ thống thập phân. Tuy nhiên, chúng cũng được chấp nhận chính thức cùng với SI. Không có tỉ số cố định giữa giây và tháng hay năm, trong khi tháng và năm có những thay đổi đáng kể trong năm về độ dài. Định nghĩa về giây chính thức trong SI như sau: Trong một hội nghị về thời gian năm 1997, CIPM thông báo rằng định nghĩa này đề cập đến một nguyên tử caesium trong trạng thái cơ bản ở 0 K. Trước đó vào năm 1967, giây đã được định nghĩa là: Định nghĩa giây hiện tại, kết hợp với định nghĩa hiện tại về mét, được dựa trên thuyết tương đối hẹp, để khẳng định rằng không-thời gian của chúng ta là một không gian Minkowski. Thời gian quốc tế. Điều cơ bản trong khoa học thời gian là việc tính liên tục đơn vị giây dựa trên đồng hồ nguyên tử trên toàn thế giới, hay gọi là thời gian Nguyên tử Quốc tế. Giờ phối hợp quốc tế (UTC) là giờ chuẩn hiện đang được sử dụng trên khắp thế giới. Giờ GMT là một giờ chuẩn cũ, tính từ ngành đường sắt Anh năm 1847. Sử dụng kính thiên văn thay vì đồng hồ nguyên tử, GMT được hiệu chỉnh theo thời gian Mặt Trời trung bình tại Đài thiên văn Greenwich ở Vương quốc Anh. Giờ vũ trụ (UT) là một thuật ngữ hiện đại được dùng trong hệ thống quốc tế dựa trên quan sát bằng kính thiên văn, được chấp nhận để thay thế cho Giờ trung bình Greenwich ("Greenwich Mean Time") năm 1928 bởi Hiệp hội Thiên văn Quốc tế. Những quan sát tại đài thiên văn Greenwich đã chấm dứt năm 1954, mặc dù vị trí này vẫn còn được sử dụng làm mốc cho hệ thống tọa độ. Do chu kỳ quay của Trái Đất không phải lúc hoàn toàn cố định, khoảng thời gian giây có thể thay đổi nếu được hiệu chỉnh theo tiêu chuẩn dựa trên kính thiên văn như GMT hay UT - trong đó giây được xác định là một tỷ lệ của ngày hay năm. Hệ thống định vị toàn cầu (GPS) cũng phát đi các tín hiệu thời gian rất chính xác trên toàn cầu, với những chỉ dẫn về cách chuyển đổi giữa giờ GPS và UTC. Trái Đất được chia thành các múi giờ. Hầu hết mỗi múi giờ cách nhau một giờ, và tính toán giờ địa phương khi cộng thêm vào giờ UTC hay GMT. Ở một số nơi việc cộng thêm giờ thay đổi theo năm do những quy ước về giờ tiết kiệm ánh sáng ngày.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Giây là đơn vị đo lường thời gian hoặc góc. Trong hệ đo lường quốc tế. Trong khoa đo lường, giây (viết tắt là s theo chuẩn quốc tế hoặc là gi trong tiếng Việt, còn có ký hiệu là ″) là đơn vị đo thời gian, một trong 7 đơn vị cơ bản trong hệ đo lường quốc tế (SI). Định nghĩa quen thuộc của giây vốn là khoảng thời gian bằng 1/60 của phút, hay 1/3600 của giờ. Định nghĩa chính xác gần đây nhất của Văn phòng Cân đo Quốc tế ("Bureau International des Poids et Mesures") vào năm 1998 là: Trong vật lý người ta còn sử dụng các đơn vị nhỏ hơn như mili giây (một phần nghìn giây), micrô giây (một phần triệu giây), hay nano giây (một phần tỉ giây) Trong toán học. Trong toán học, giây còn là đơn vị đo góc, bằng 1/60 của phút, hay 1/3600 của độ.
17
17_electron_in_nhit_lng
[ "electron", "in", "nhit", "lng", "neutron", "thuyt", "ht", "einstein", "proton", "quark" ]
[ "Trong vật lý hạt nhân, năng lượng tách là năng lượng cần thiết để loại bỏ một hạt nhân (hoặc một hạt hoặc nhiều hạt được chỉ định khác) khỏi hạt nhân nguyên tử.\nNăng lượng tách khác nhau đối với mỗi hạt nhân và các hạt được loại bỏ. Các giá trị được liệt kê có thể là \"năng lượng tách neutron\", \"năng lượng tách hai neutron\", \"năng lượng tách proton\", \"năng lượng tách deuteron\", \"năng lượng tách alpha\", v.v.\nNăng lượng tách thấp nhất trong số các hạt nhân ổn định là 1,67 MeV, để loại bỏ một neutron ra khỏi beryllium-9.\nNăng lượng có thể được thêm vào hạt nhân bằng cách chiếu vào một tia gamma năng lượng cao. Nếu năng lượng của photon đạt đến mức vượt quá năng lượng tách, sựphân hủy quang có thể xảy ra. Năng lượng vượt quá giá trị ngưỡng trở thành động năng của hạt bị đẩy ra.\nNgược lại, năng lượng liên kết hạt nhân là năng lượng cần thiết để tháo rời hoàn toàn hạt nhân, hoặc năng lượng được giải phóng khi hạt nhân được lắp ráp từ các hạt nhân. Nó là tổng của nhiều năng lượng tách, nên được cộng vào cùng một tổng số bất kể thứ tự lắp ráp hay tháo gỡ.\nVật lý và hóa học.\nNăng lượng tách electron hoặc năng lượng liên kết electron là năng lượng cần thiết để loại bỏ một electron ra khỏi nguyên tử trung tính hoặc phân tử (hoặc cation) được gọi là năng lượng ion hóa. Phản ứng dẫn đến quang hóa, quang dẫn, hiệu ứng quang điện, quang điện, v.v.\nNăng lượng phân ly liên kết là năng lượng cần thiết để phá vỡ một liên kết của phân tử hoặc một ion, thường tách một nguyên tử hoặc nhiều nguyên tử.", "Bắt giữ electron kép là một phương thức phân rã của hạt nhân nguyên tử. Đối với một đồng vị phóng xạ (\"A\", \"Z\") có số hạt nhân \"A\" và số nguyên tử \"Z\", chỉ có thể bắt được electron kép nếu khối lượng của đồng vị phóng xạ của (\"A\", \"Z\"-2) thấp hơn.\nTrong phương thức phân rã này, hai trong số các electron quỹ đạo bị bắt bởi hai proton trong hạt nhân, tạo thành hai neutron. Hai neutrino được phát ra trong quá trình này. Vì các proton được thay đổi thành neutron, số lượng neutron tăng thêm 2, số lượng proton \"Z\" giảm đi 2 và số khối nguyên tử \"A\" không đổi. Bằng cách thay đổi số lượng proton, sự bắt electron kép sẽ biến đổi các hạt nhân thành một nguyên tố mới.\nVí dụ:\nĐộ hiếm.\nTrong hầu hết các trường hợp, phương thức phân rã này sẽ xảy ra ít hơn bởi có nhiều phương thức có thể xảy ra hơn (bắt giữ electron đơn...), nhưng khi tất cả các phương thức này bị “cấm” (bị triệt tiêu mạnh), bắt giữ electron kép sẽ trở thành phương thức phân rã chính.\nCó 34 đồng vị xuất hiện tự nhiên có thể trải qua quá trình bắt electron kép. Tuy nhiên, chỉ có ba quan sát được xác nhận về quá trình này: , , and .\nMột lý do là xác suất xảy ra bắt giữ electron kép là rất nhỏ (dự đoán lý thuyết về chu kỳ bán rã cho phương thức này là trên 10 năm). Lý do thứ hai là các hạt duy nhất có thể phát hiện được tạo ra trong quá trình này là các tia X và electron Auger được phát ra từ lớp vỏ nguyên tử bị kích thích. Trong phạm vi năng lượng của chúng (~1-10 keV), nền thường cao. Do đó, việc phát hiện và thử nghiệm bắt giữ electron kép khó khăn hơn so với phân rã beta kép. Việc bắt electron kép có thể đi kèm với sự kích thích của hạt nhân con. Lần lượt, sự khử kích thích của nó đi kèm với sự phát xạ của các photon có năng lượng lên đến hàng trăm keV.\nCác phương thức phát xạ positron.\nNếu sự chênh lệch khối lượng giữa các nguyên tử mẹ và con lớn hơn hai lần khối lượng của một electron (1,022 MeV), năng lượng được giải phóng trong quá trình này đủ để cho phép một phương thức phân rã khác được gọi là bắt electron bằng phát xạ positron. Nó xảy ra cùng với việc bắt electron kép, tỷ lệ phân nhánh của chúng tùy thuộc vào tính chất hạt nhân. Khi chênh lệch khối lượng lớn hơn bốn lần khối lượng electron (2,044 MeV), phương thức thứ ba, được gọi là phân rã positron kép, được cho phép. Chỉ có 6 đồng vị phóng xạ tự nhiên có thể phân rã thông qua ba phương thức này cùng một lúc.\nBắt giữ electron kép phi neutrino.\nQuá trình được mô tả ở trên với việc bắt giữ hai electron và phát xạ hai neutrino (bắt electron kép neutrino) được cho phép theo Mô hình Chuẩn của vật lý hạt: không vi phạm luật bảo tồn (bao gồm bảo toàn số lepton). Tuy nhiên, nếu số lepton không được bảo toàn hoặc neutrino là phản hạt của chính nó, thì một loại quá trình khác có thể xảy ra, được gọi là bắt giữ electron kép phi neutrino. Trong trường hợp này, hai electron bị hạt nhân bắt giữ, nhưng neutrino không được phát ra. Năng lượng được giải phóng trong quá trình này được mang đi bởi một lượng tử gamma bremsstrahlung.\nVí dụ:\nPhương thức phân rã này chưa bao giờ được quan sát bằng thực nghiệm và sẽ mâu thuẫn với Mô hình Chuẩn nếu nó được quan sát.", "Electron hay điện tử, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ nhất trong họ các hạt lepton, và nói chung được coi là những hạt cơ bản bởi vì chúng không có các thành phần nhỏ hay cấu trúc con. Electron có khối lượng xấp xỉ bằng 1/1836 so với của proton. Các tính chất cơ học lượng tử của electron bao gồm giá trị mômen động lượng (spin) bằng một nửa đơn vị, biểu diễn theo đơn vị của hằng số Planck thu gọn, \"ħ\". Vì là một fermion, trong hệ cô lập không có hai electron nào có thể ở cùng một trạng thái lượng tử, như nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli. Giống như tất cả các hạt cơ bản khác, electron thể hiện cả các tính chất của sóng và hạt: chúng có thể va chạm với các hạt khác và bị nhiễu xạ như ánh sáng. Các tính chất sóng của electron dễ dàng được quan sát thấy ở các thí nghiệm hơn so với những hạt khác ví dụ như neutron và proton bởi vì electron có khối lượng nhỏ hơn và do vậy có bước sóng de Broglie dài hơn ở cùng một mức năng lượng.\nElectron có vai trò cơ bản ở nhiều hiện tượng vật lý, như điện, từ học, hóa học và độ dẫn nhiệt. Ngoài ra nó cũng tham gia vào tương tác hấp dẫn, điện từ và yếu. Vì một electron mang điện tích, bao xung quanh nó là điện trường, và nếu electron chuyển động tương đối với một người quan sát, nó sẽ cảm ứng một từ trường. Trường điện từ tạo ra bởi những nguồn khác sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của hạt electron tuân theo định luật lực Lorentz. Electron phát ra hay hấp thụ năng lượng dưới dạng các photon khi chúng chuyển động gia tốc. Các thiết bị ở phòng thí nghiệm có khả năng bẫy từng electron đơn lẻ cũng như các electron plasma bằng sử dụng điện từ trường. Những kính thiên văn đặc biệt có thể phát hiện electron plasma trong không gian vũ trụ. Electron tham dự vào nhiều ứng dụng thực tiễn như điện tử học, hàn tia điện tử, ống tia âm cực, kính hiển vi điện tử, trị liệu bức xạ, laser electron tự do, máy dò khí ion hóa và máy gia tốc hạt.\nCác tương tác có sự tham gia của những electron với các hạt khác là một trong những chủ đề nghiên cứu của hóa học và vật lý hạt nhân. Tương tác lực Coulomb giữa các proton mang điện dương bên trong hạt nhân nguyên tử và các electron mang điện âm ở orbital cấu thành lên nguyên tử. Sự ion hóa hay sự chênh lệch giữa số electron mang điện âm và hạt nhân mang điện dương làm thay đổi năng lượng liên kết của một hệ nguyên tử. Sự trao đổi hay chia sẻ các electron giữa hai hay nhiều nguyên tử là nguyên nhân chủ yếu tạo ra liên kết hóa học. Năm 1838, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming lần đầu tiên đã đặt ra khái niệm về một đại lượng điện tích không thể chia nhỏ hơn nhằm giải thích các tính chất hóa học của các nguyên tử. Nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney sau đó đặt tên đại lượng điện tích này là 'electron' vào năm 1891, và sau đó J. J. Thomson cùng các cộng sự người Anh cuối cùng đã phát hiện ra electron có biểu hiện của một hạt cơ bản vào năm 1897. Electron cũng tham gia vào các phản ứng hạt nhân, như quá trình tổng hợp lên các hạt nhân nặng hơn trong các sao, mà chúng thường được gọi là các hạt beta. Electron cũng có thể được tạo ra trong phân rã beta từ các đồng vị phóng xạ và trong các va chạm năng lượng cao, như ở sự kiện các tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển. Phản hạt của electron được gọi là positron; nó có tính chất đồng nhất với electron ngoại trừ các tích như điện tích mang dấu ngược lại. Khi một electron va chạm với một positron, cả hai hạt bị hủy, tạo ra hai photon tia gamma năng lượng cao.\nLịch sử.\nKhám phá ra hiệu ứng của lực điện.\nNgười Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy rằng khi dùng bộ lông thú chà xát vào hổ phách thì nó có khả năng hút được những vật nhỏ. Cùng với sét, đây là một trong những hiện tượng về điện được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử loài người. Trong luận thuyết \"De Magnete\" viết năm 1600, nhà khoa học người Anh William Gilbert đưa ra thuật ngữ trong tiếng Latin mới là , để kể đến những chất có tính chất tương tự như hổ phách với khả năng có thể hút được những vật nhỏ khi chà xát với lông thú. Cả hai thuật ngữ \"electric\" và \"electricity\" đều có nguồn gốc từ tiếng Latin ' (cũng là từ nguyên của hợp kim có cùng tên); ' có từ nguyên bắt nguồn từ chữ hổ phách trong tiếng Hy Lạp, (\"\").\nKhám phá hai loại điện tích.\nĐầu những năm 1700, nhà hóa học người Pháp Charles François du Fay phát hiện thấy nếu một lá vàng tích điện bị đẩy bởi một que thủy tinh khi chà nó với lụa, thì cùng lá vàng tích điện này lại bị hút bởi hổ phách khi chà vào bông sợi. Từ quan sát này cùng những kết quả thí nghiệm tương tự, du Fay kết luận rằng điện phải chứa hai loại chất lỏng mang điện, chất lỏng \"vitreous\" từ đũa thủy tinh khi chà xát vào lụa và chất lỏng \"resinous\" từ hổ phách khi chà vào bông sợi. Hai chất lỏng này có thể trung hòa lẫn nhau khi được kết hợp lại. Nhà khoa học người Mỹ Ebenezer Kinnersley sau đó cũng độc lập đi đến kết luận tương tự của du Fay. Một thập kỷ sau, Benjamin Franklin đề xuất rằng điện không cấu tạo từ những loại chất lỏng điện khác nhau, mà là một chất lỏng điện có biểu hiện dư thừa (+) hay thiếu hụt (−) điện tích. Ông đưa ra thuật ngữ hiện đại tương ứng với chúng là điện tích dương và điện tích âm. Franklin từng nghĩ về chất mang điện sẽ có điện tích dương, nhưng ông đã không miêu tả đúng tình huống khi nào chất sẽ dư thừa điện tích, và khi nào bị thiếu hụt điện tích.\nGiữa các năm 1838 và 1851, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming phát triển ý tưởng cho rằng một nguyên tử là tổ hợp bao gồm một lõi vật chất được bao quanh bởi những hạt nhỏ hơn nguyên tử mà có điện tích bằng số lần điện tích đơn vị. Đầu năm 1846, nhà vật lý người Đức William Weber đưa ra lý thuyết miêu tả điện là chất tổng hợp bởi các chất lỏng tích điện dương và âm, và tương tác giữa chúng bị chi phối bởi luật nghịch đảo bình phương. Sau khi nghiên cứu hiện tượng điện phân vào năm 1874, nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney gợi ý có tồn tại một \"đại lượng xác định duy nhất cho điện\", điện tích của một ion hóa trị một. Ông đã có thể ước lượng giá trị của điện tích cơ bản \"e\" này bằng cách áp dụng định luật điện phân Faraday. Tuy nhiên, Stoney lại tin rằng những điện tích này lại gắn chặt vĩnh cửu vào nguyên tử và không thể bị tách rời. Năm 1881, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz cho rằng cả điện tích dương và điện tích âm có thể chia ra thành những thành phần cơ bản, mỗi một chúng \"hành xử như những nguyên tử của điện\".\nStoney ban đầu đưa ra thuật ngữ \"electrolion\" vào năm 1881. Mười năm sau, ông chuyển sang sử dụng \"electron\" để miêu tả những điện tích cơ bản này, khi ông viết vào năm 1894: \"... một ước lượng được thực hiện để tính toán số lượng thực tế của đơn vị điện cơ bản điển hình nhất này, mà tôi đã từng dám gợi ý đặt tên là \"electron\"\". Đã có một đề xuất vào năm 1906 nhằm đổi sang tên gọi \"electrion\" nhưng đã thất bại bởi vì Hendrik Lorentz vẫn thích tên gọi \"electron\" hơn. Từ \"electron\" là tổ hợp của các từ \"electric\" và \"ion\". Hậu tố -\"on\" mà hiện nay được sử dụng để đặt tên cho các hạt cơ bản khác, như proton hoặc neutron, có nguồn gốc bắt nguồn từ cách đặt tên cho electron.\nKhám phá ra các electron tự do bên ngoài vật chất.\nKhi nghiên cứu hiện tượng dẫn điện trong khí loãng vào năm 1859, nhà vật lý người Đức Julius Plücker quan sát thấy ánh sáng lân quang, vốn được tạo thành bởi bức xạ phát ra từ cathode, xuất hiện tại thành ống gần cathode, và vùng ánh sáng lân quang đó có thể di chuyển bằng việc ứng dụng từ trường. Năm 1869, Johann Wilhelm Hittorf, một học trò của Plücker, phát hiện rằng một vật rắn đặt giữa cathode và vùng lân quang tạo ra một vùng tối trên vùng lân quang của ống. Hittorf kết luận rằng có những tia truyền thẳng phát ra từ cathode và vùng lân quang đó được tạo ra bởi các tia chiếu qua thành ống. Năm 1876, nhà vật lý người Đức Eugen Goldstein chỉ ra rằng các tia này được phát ra theo phương vuông góc với mặt cathode, mặt phân cách giữa các tia phát ra từ cathode và ánh sáng sợi đốt. Goldstein đặt tên cho những tia này là tia âm cực. Công cuộc nghiên cứu về tia âm cực kéo dài hàng thập kỷ cả về lý thuyết và thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình khám phá ra electron của J. J. Thomson.\nTrong thập niên 1870, nhà hóa lý người Anh Sir William Crookes đã phát triển ống tia âm cực đầu tiên với môi trường chân không cao bên trong. Sau đó ông chứng tỏ rằng các tia phát quang xuất hiện bên trong ống có mang năng lượng và chuyển động từ phía cathode sang anode. Hơn nữa, khi đặt vào một từ trường, ông đã làm lệch đường đi của chùm tia, do đó chứng tỏ thêm chùm tia hành xử như nó chứa điện tích âm. Năm 1879, ông đề xuất rằng những tính chất này có thể được giải thích bằng cách coi rằng các tia âm cực bao gồm các phân tử khí mang điện tích âm trong trạng thái thứ tư của vật chất mà trong đó quãng đường tự do của các phân tử lớn đến mức có thể bỏ qua va chạm.\nNhà vật lý người Anh sinh ở Đức Arthur Schuster tiến hành mở rộng các thí nghiệm của Crookes khi đặt những tấm kim loại song song với chùm tia cathode và áp dụng vào một điện thế giữa các tấm này. Điện trường đã làm lệch chùm tia về phía tấm kim loại tích điện dương, chứng cứ đã củng cố thêm cho kết luận chùm tia mang điện tích âm. Bằng cách đo độ lệch của chùm tia tương ứng với từng lần điều chỉnh dòng điện giữa hai tấm kim loại, năm 1890 Schuster đã ước lượng được tỷ số khối lượng−điện tích của các thành phần trong chùm tia. Tuy vậy, giá trị ông thu được lớn hơn 1000 lần so với giá trị được dự đoán, do đó ít người đã để ý đến kết quả tính toán của ông vào thời điểm đó.\nNăm 1892, Hendrik Lorentz gợi ý rằng khối lượng của những hạt này (electron) có thể là hệ quả của lượng điện tích mà chúng mang theo.\nKhi đang nghiên cứu các khoáng chất huỳnh quang tự nhiên vào năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá thấy chúng phát ra các bức xạ mà không cần phải chiếu thêm một nguồn năng lượng từ bên ngoài. Những vật liệu phóng xạ này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học, bao gồm nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, ông đã phát hiện vật liệu phóng xạ có phát ra các hạt. Ông gọi những hạt này là các hạt alpha và hạt beta, dựa trên khả năng đâm xuyên của chúng qua vật chất. Năm 1900, Becquerel đã chứng tỏ chùm tia beta phát ra từ hạt nhân radium có thể bị làm lệch hướng trong một điện trường, và tỷ số khối lượng trên điện tích của chúng bằng với tỷ số này của chùm tia cathode. Chứng cứ này đã củng cố thêm quan điểm cho rằng electron tồn tại như là một trong các thành phần của nguyên tử.\nNăm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson, cùng với các đồng nghiệp John S. Townsend và H. A. Wilson, đã thực hiện các thí nghiệm chỉ ra chùm tia cathode thực sự chứa các hạt, hơn là một loại sóng, những hạt nguyên tử hoặc phân tử như nhiều nhà khoa học từng tin như vậy trước đó. Thomson đã có kết quả ước lượng khá tốt về điện tích \"e\" và khối lượng \"m\" của hạt tia cathode, mà ông gọi là \"corpuscles\", nó có khối lượng bằng một phần nghìn khối lượng của ion nhẹ nhất: ion hydro. Ông cũng đã chứng minh tỷ số điện tích−khối lượng, \"e\"/\"m\", có giá trị độc lập với vật liệu của bản cực cathode. Ông tiếp tục chứng tỏ thêm các vật liệu phóng xa, vật liệu nung nóng và vật liệu bị chiếu xạ có phát ra các hạt mang điện tích âm. Tên gọi electron về sau được cộng đồng khoa học chấp nhận sử dụng rộng rãi, chủ yếu do đề xuất của G. F. FitzGerald, J. Larmor và H. A. Lorentz.\nĐiện tích của electron đã được đo một cách chính xác hơn bởi các nhà vật lý Mỹ Robert Millikan và Harvey Fletcher trong thí nghiệm giọt dầu vào năm 1909, và kết quả được công bố vào 1911. Thí nghiệm sử dụng một điện trường để hãm các giọt dầu mang điện tích rơi trong không khí dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Thiết bị của họ có thể đo điện tích của 1–150 ion với sai số là 0,3%. Trước đó nhóm của Thomson cũng thực hiện thí nghiệm tương tự, sử dụng đám mây chứa các giọt nước tích điện tạo ra bởi sự điện phân,và thí nghiệm thực hiện bởi Abram Ioffe năm 1911, ông đã thu được kết quả tương tự một cách độc lập với nhóm Millikan khi sử dụng các vi hạt kim loại tích điện, và kết quả được công bố vào năm 1913. Tuy nhiên, các giọt dầu có tính ổn định hơn giọt nước bởi vì chúng có tốc độ bốc hơi chậm hơn, và do đó phù hợp hơn với thí nghiệm chính xác đòi hỏi thực hiện trong thời gian dài hơn.\nVào thời điểm bắt đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng dưới những điều kiện nhất định một hạt tích điện chuyển động nhanh trong buồng bọt có thể gây ra sự ngưng tụ của hơi nước siêu bão hòa trên quỹ đạo chuyển động của hạt. Năm 1911, Charles Wilson đã áp dụng nguyên lý này cho thiết bị buồng mây của mình, cho phép ông có thể chụp ảnh được quỹ đạo của các hạt tích điện, ví dụ như các electron chuyển động nhanh.\nLý thuyết nguyên tử.\nCho đến năm 1914, các thí nghiệm thực hiện bởi Ernest Rutherford, Henry Moseley, James Franck và Gustav Hertz hầu như đã khẳng định được cấu trúc nguyên tử bao gồm một hạt nhân cô đặc mang điện dương bao xung quanh bởi các electron có khối lượng rất nhỏ. Năm 1913, nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr giả thuyết các electron nằm trong các trạng thái có mức năng lượng bị lượng tử hóa, mức năng lượng của chúng được xác định bởi mômen động lượng của quỹ đạo electron quanh hạt nhân. Các electron có thể chuyển động trên những quỹ đạo này, bằng cách phát ra hay hấp thụ photon với tần số xác định. Với cơ sở là những quỹ đạo bị lượng tử hóa này, Bohr có thể giải thích một cách chính xác các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Tuy nhiên, mô hình của Bohr chưa thể giải thích được cường độ tương đối của các vạch này cũng như mô hình chưa thể giải thích quang phổ của những nguyên tử phức tạp hơn.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử được Gilbert Newton Lewis giải thích, khi vào năm 1916 ông đề xuất rằng liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử được duy trì bởi cặp electron chia sẻ giữa chúng. Sau đó, vào năm 1927, Walter Heitler và Fritz London đưa ra lý thuyết giải thích đầy đủ cho sự hình thành cặp electron và liên kết hóa học trong khuôn khổ của cơ học lượng tử. Năm 1919, nhà hóa học người Mỹ Irving Langmuir đưa ra mô hình tĩnh về nguyên tử và gợi ý rằng mọi electron được phân bố tuần tự theo \"những vỏ (gần) hình cầu đồng tâm, tất cả đều có độ dày bằng nhau\". Tiếp đó, ông chia những vỏ này ra thành một số ô, mà mỗi ô chứa một cặp electron. Với mô hình này, Langmuir có thể giải thích một cách định tính các tính chất hóa học của các nguyên tố trong bảng tuần hoàn, mà nhiều tính chất được lặp lại tuân theo định luật tuần hoàn trong bảng.\nNăm 1924, nhà vật lý người Áo Wolfgang Pauli nhận xét thấy cấu trúc tựa vỏ của nguyên tử có thể được giải thích bằng một tập hợp chứa bốn tham số xác định lên mỗi trạng thái năng lượng lượng tử, và mỗi trạng thái này không thể chiếm bởi nhiều hơn một electron. Việc không có nhiều hơn một electron chiếm chỗ ở cùng một trạng thái năng lượng lượng tử được phát biểu trong nguyên lý loại trừ Pauli. Cơ chế vật lý để giải thích cho tham số thứ tư, mà nó có hai giá trị phân biệt, được các nhà vật lý người Hà Lan Samuel Goudsmit và George Uhlenbeck đề xuất. Năm 1925, họ cho rằng một electron, cùng với mômen động lượng của quỹ đạo, còn sở hữu thêm mômen góc động lượng nội tại và mômen lưỡng cực từ. Điều này tương tự như sự tự quay của Trái Đất cũng như nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Mômen góc động lượng nội tại này được gọi là spin, và đưa ra cách giải thích cho sự tách vạch bí ẩn như được quan sát thấy ở các vạch quang phổ bằng phổ kế có độ phân giải cao; hiện tượng này được biết đến như là sự tách cấu trúc tinh tế.\nCơ học lượng tử.\nTrong luận án \"\" (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử) viết năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie giả thuyết rằng mọi vật chất có thể được biểu diễn bằng sóng de Broglie tương tự như sóng ánh sáng. Điều đó có nghĩa là dưới những điều kiện phù hợp, các electron và những hạt vật chất khác sẽ thể hiện những tính chất của sóng hoặc của hạt. Lý thuyết hạt ánh sáng được chứng tỏ khi nó thể hiện có vị trí định xứ trong không gian dọc theo quỹ đạo chùm sáng ở bất kỳ thời điểm nào. Bản chất sóng ánh sáng được hiện, ví dụ, khi một chùm sáng chiếu qua những khe hẹp song song nó sẽ tạo thành những vân giao thoa. Năm 1927 George Paget Thomson khám phá ra hiệu ứng giao thoa xuất hiện khi cho một chùm electron truyền qua những lá kim loại mỏng và kiểu thí nghiệm tương tự được các nhà vật lý người Mỹ Clinton Davisson và Lester Germer thực hiện khi cho chùm electron phản xạ từ tinh thể nikel và quan sát thấy hiệu ứng giao thoa. Các hiệu ứng này còn được gọi là hiện tượng nhiễu xạ electron.\nDự đoán của de Broglie về bản chất sóng của electron đưa Erwin Schrödinger thiết lập lên phương trình sóng miêu tả electron chuyển động dưới ảnh hưởng của hạt nhân trong nguyên tử. Năm 1926, với phương trình của mình, phương trình Schrödinger, ông đã miêu tả thành công sóng electron trong hệ nguyên tử. Hơn là chỉ việc tìm ra nghiệm xác định vị trí của một electron theo thời gian, phương trình sóng này cũng được áp dụng để dự đoán xác suất tìm thấy electron quanh vị trí cụ thể, đặc biệt vị trí gần nơi electron bị chặn trong không gian, mà tại đây phương trình sóng electron không thay đổi theo thời gian. Cách tiếp cận này đã đem đến một lý thuyết miêu tả cơ học lượng tử thứ hai (lý thuyết đầu tiên miêu tả bằng cơ học ma trận do Heisenberg phát triển năm 1925), và nghiệm của phương trình Schrödinger, giống như của Heisenberg, cho phép dẫn ra các trạng thái năng lượng của một electron trong nguyên tử hydro mà tương đương với các kết quả thu được bởi Bohr vào năm 1913, và miêu tả chính xác quang phổ nguyên tử hydro. Khi kể đến spin và tương tác giữa nhiều electron, cơ học lượng tử đưa ra những dự đoán chính xác về cấu hình electron trong những hệ nguyên tử phức tạp hơn hydro.\nNăm 1928, dựa trên các nghiên cứu của Wolfgang Pauli, Paul Dirac thiết lập nên một mô hình về electron – phương trình Dirac, nhất quán với thuyết tương đối hẹp, bằng cách áp dụng các điều kiện đối xứng và tương đối tính trong hình thức luận hamiltonian của cơ học lượng tử cho trường điện từ. Để có thể giải một số vấn đề trong phương trình tương đối tính của mình, năm 1930 Dirac nêu ra một mô hình chân không như là một biển chứa vô hạn các hạt có năng lượng âm, sau này gọi là biển Dirac. Mô hình này đã đưa ông đi đến dự đoán tồn tại positron, một hạt phản vật chất của electron. Hạt này sau đó được phát hiện vào năm 1932 bởi Carl Anderson, và ông đề xuất gọi các electron thường gặp là \"negatron\" và sử dụng thuật ngữ \"electron\" nhằm miêu tả những biến thể mang điện tích dương hoặc âm.\nNăm 1947 Willis Lamb, khi đang thực hiện nghiên cứu cùng với sinh viên Robert Retherford, đã tìm thấy có những trạng thái lượng tử riêng biệt của hydro, đáng ra phải có cùng mức năng lượng, lại được dịch chuyển tương đối với nhau; sự sai lệch này sau đó được gọi là dịch chuyển Lamb. Trong cùng thời gian, Polykarp Kusch, cùng với Henry M. Foley, đã khám phá bằng thí nghiệm mômen từ của electron có giá trị hơi lớn hơn so với dự đoán của lý thuyết Dirac. Giá trị chênh lệch nhỏ này sau đó được gọi là mômen lưỡng cực từ dị thường của electron. Sự chênh lệch này sau đó được giải thích trong lý thuyết điện động lực học lượng tử, phát triển bởi các nhà vật lý Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và\nRichard Feynman vào cuối thập niên 1940.\nMáy gia tốc hạt.\nVới sự phát triển của các loại máy gia tốc hạt trong nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn vào các tính chất của các hạt hạ nguyên tử. Thành công đầu tiên trong nỗ lực gia tốc electron sử dụng cảm ứng điện từ được thực hiện vào năm 1942 bởi Donald Kerst. Máy betatron ban đầu của ông đạt đến mức năng lượng 2,3 MeV, và những máy betatron về sau đạt đến mức 300 MeV. Năm 1947, bức xạ đồng bộ (synchrotron radiation) được phát hiện tại máy gia tốc synchrotron, đưa electron đạt mức năng lượng 70 MeV, tại cơ sở nghiên cứu của General Electric. Bức xạ này là do các electron chuyển động gia tốc đi qua một từ trường ở vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng.\nMáy gia tốc va chạm hạt ADONE là máy đầu tiên đạt mức năng lượng của chùm tia cỡ 1,5 GeV, bắt đầu hoạt động vào năm 1968. Trong thiết bị này, các hạt electron và positron được gia tốc theo hai hướng ngược chiều nhau, như vậy gần như làm tăng gấp đôi năng lượng va chạm so với máy gia tốc chùm tia electron bắn vào một bia cố định. Máy va chạm lớn Electron–Positron (Large Electron–Positron Collider; LEP) ở CERN, hoạt động từ 1989 đến 2000, đạt tới mức năng lượng va chạm 209 GeV và có những đo lường quan trọng cho Mô hình Chuẩn của vật lý hạt.\nGiam giữ từng electron.\nHiện nay từng electron đơn lẻ có thể dễ dàng bị giam hãm trong những transistor CMOS siêu nhỏ (, ) hoạt động ở ngưỡng nhiệt độ lạnh sâu từ −269 °C (4 K) cho đến khoảng −258 °C (15 K). Hàm sóng electron lan truyền trong một dàn chất bán dẫn và khi bỏ qua tương tác của nó với các electron trong dải hóa trị, thì có thể coi như là hàm của electron đơn lẻ, bằng cách thay thế khối lượng của nó bằng tenxơ khối lượng hiệu dụng.\nCác đặc tính.\nPhân loại.\nTrong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt, electron thuộc về nhóm các hạt hạ nguyên tử gọi là lepton, mà được cho là những hạt cơ bản. Electron có khối lượng nhỏ nhất trong nhóm lepton (cũng như trong nhóm các hạt mang điện) và thuộc về thế hệ thứ nhất của hạt cơ bản. Thế hệ thứ hai và thứ ba bao gồm các lepton mang điện, hạt muon và tau, chúng có giá trị điện tích, spin và tham gia tương tác giống với của electron, nhưng có khối lượng lớn hơn. Lepton khác so với những thành phần cơ bản khác của vật chất, hạt quark, khi lepton không tham gia vào tương tác mạnh. Tất cả các thành viên trong nhóm lepton đều là fermion, bởi vì chúng đều có spin bán nguyên; electron có spin .\nCác tính chất cơ bản.\nKhối lượng bất biến (khối lượng nghỉ) của electron xấp xỉ bằng  kilogram, hay  đơn vị khối lượng nguyên tử. Trên cơ sở của nguyên lý sự tương đương khối lượng−năng lượng của Einstein, khối lượng này tương ứng với mức năng lượng nghỉ 0,511 MeV. Tỷ số giữa khối lượng của một proton so với của electron bằng khoảng 1836. Các đo đạc thiên văn cho thấy tỷ số khối lượng proton trên khối lượng electron vẫn giữ nguyên không đổi, như được dự đoán bởi Mô hình Chuẩn, trong thời gian ít nhất bằng một nửa tuổi của vũ trụ.\nElectron có điện tích bằng coulomb, một giá trị đã được sử dụng làm đơn vị điện tích chuẩn cho các hạt hạ nguyên tử, và cũng được gọi là điện tích cơ bản. Trong khoảng giới hạn sai số thí nghiệm, giá trị điện tích của electron bằng giá trị của proton nhưng mang dấu ngược lại. Vì ký hiệu \"e\" được sử dụng cho điện tích cơ bản, electron thường được ký hiệu là , với dấu trừ thể hiện cho điện tích âm. Positron được ký hiệu bởi vì nó có cùng các tính chất với electron nhưng mang điện tích dương.\nElectron có mômen động lượng nội tại hay spin . Do tính chất này mà electron thường được coi các hạt có spin-. Những hạt như vậy có độ lớn spin bằng  \"ħ\", trong khi kết quả đo từ hình chiếu của spin lên một trục bất kỳ chỉ có thể bằng ±. Ngoài spin, electron còn có mômen từ hướng dọc theo trục spin của nó. Giá trị mômen từ electron xấp xỉ bằng một Bohr magneton,=\\frac{e\\hbar}{2m_{\\mathrm{e}}}.</math>|group=gc}} là hằng số vật lý bằng joule trên tesla. Hướng của spin so với hướng của mômen động lượng electron xác định lên tính chất của các hạt cơ bản được biết đến là tính xoắn (\"helicity\").\nElectron không có cấu trúc con đã biết, nên nó thường được coi là một hạt điểm, hay cụ thể là một điện tích điểm không có không gian trong. Quan sát electron đơn lẻ trong bẫy Penning gợi ý rằng giới hạn trên của bán kính của nó bằng 10−22 mét. Giá trị giới hạn trên của bán kính electron bằng 10−18 mét có thể dẫn ra từ nguyên lý bất định kết hợp với năng lượng. Ngoài ra, còn có một hằng số vật lý gọi là \"bán kính electron cổ điển\", với giá trị là , lớn hơn rất nhiều bán kính của proton. Tuy nhiên, giá trị này được tìm từ những phép tính đơn giản mà bỏ qua các hiệu ứng của cơ học lượng tử; trong thực tế, giá trị bán kính electron cổ điển không có nhiều ý nghĩa khi đề cập đến cấu trúc cơ bản bên trong của electron.\nCó những hạt cơ bản khác tự động phân rã thành những hạt khối lượng nhẹ hơn. Ví dụ cho muon, nó có thời gian sống trung bình  giây, và phân rã thành một electron, một neutrino muon và một phản neutrino electron. Hạt electron, mặt khác, theo lý thuyết được cho là hạt bền: electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất với điện tích khác 0, do đó sự phân rã của nó sẽ vi phạm định luật bảo toàn điện tích. Thực nghiệm xác định giới hạn dưới của thời gian sống của electron là năm, ở mức 90% độ tin cậy.\nCác tính chất lượng tử.\nNhư mọi hạt khác, các electron có hành xử như những sóng. Đặc điểm này được gọi là lưỡng tính sóng–hạt và được chứng minh bằng thí nghiệm giao thoa hai khe.\nBản chất sóng của electron cho phép nó đi qua hai khe song song một cách đồng thời, hơn là chỉ một khe ở một thời điểm như đối với trường hợp của hạt. Trong cơ học lượng tử, tính chất sóng của một hạt được miêu tả bằng toán học dưới dạng hàm giá trị phức, hay hàm sóng, thường được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp psi (\"ψ\"). Khi tính bình phương giá trị tuyệt đối của hàm này, sẽ cho xác suất quan sát được một hạt ở một vị trí cho trước—hay chính là mật độ xác suất.\nElectron là những hạt đồng nhất bởi vì không thể phân biệt được chúng dựa trên những tính chất vật lý nội tại của hạt. Trong cơ học lượng tử, điều này có nghĩa là một cặp electron tương tác có thể đổi chỗ cho nhau mà không làm thay đổi trạng thái quan sát được của hệ. Hàm sóng của các fermion, bao gồm electron, là hàm phản xứng, có nghĩa rằng nó thay đổi dấu khi hai electron trao đổi vị trí cho nhau; hay, , với các biến \"r\"1 và \"r\"2 tương ứng với electron thứ nhất và thứ hai. Vì giá trị tuyệt đối không thay đổi khi hai hạt đổi chỗ cho nhau, điều này tương ứng với xác suất của hai sự kiện là bằng nhau. Ngược lại, hạt boson, như photon, lại có hàm sóng đối xứng.\nTrong trường hợp phản xứng, các nghiệm của phương trình sóng cho các electron tương tác sẽ cho xác suất bằng 0 đối với mỗi cặp chiếm cùng một vị trí hoặc trạng thái. Kết quả này tương ứng với nguyên lý loại trừ Pauli, phát biểu rằng không thể có hai electron chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Nguyên lý này giải thích cho nhiều tính chất của các electron hóa học. Ví dụ, nó làm cho nhóm các electron liên kết chiếm những orbital khác nhau trong một nguyên tử, hơn là đan xen lẫn nhau trong cùng một orbital.\nHạt ảo.\nTrong một bức tranh đơn giản, mỗi photon đôi lúc được coi như là tổ hợp của một hạt electron ảo với phản hạt ảo của nó, positron ảo, mà chúng nhanh chóng hủy lẫn nhau khi vừa mới sinh ra trong một thời gian rất ngắn. Sự kết hợp của biến thiên năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt này, và khoảng thời gian trong đó chúng tồn tại, phải nằm trong ngưỡng chấp nhận được tuân theo nguyên lý bất định Heisenberg, Δ\"E\" · Δ\"t\" ≥ \"ħ\". Để thỏa mãn nguyên lý này, năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt ảo này, Δ\"E\", có thể được \"mượn\" từ chân không trong một khoảng thời gian, Δ\"t\", sao cho tích của chúng không được lớn hơn hằng số Planck thu gọn, . Do vậy, đối với một electron ảo, Δ\"t\" lớn nhất bằng . (nghĩa là nếu cặp electron ảo−positron ảo mượn năng lượng Δ\"E\" từ chân không lượng tử thì phải trả lại năng lượng này cho chân không sau tối đa một khoảng thời gian Δ\"t\" sao cho Δ\"E\" · Δ\"t\" ≤ \"ħ\")\nKhi một cặp electron–positron ảo đang tồn tại, lực tĩnh điện Coulomb từ điện trường tức thời xung quanh hạt electron sẽ làm hút hạt positron về phía electron gốc ban đầu, trong khi electron được sinh ra chịu một lực đẩy. Hiệu ứng này chính là sự phân cực chân không. Về mặt hiệu ứng, chân không hành xử như một môi trường có dielectric permittivity lớn hơn 1 đơn vị. Do vậy điện tích hữu hiệu của một electron thực sự nhỏ hơn giá trị thực của nó, và điện tích giảm dần khi khoảng cách tăng dần tính từ electron. Sự phân cực này đã được xác nhận bằng thực nghiệm vào năm 1997 tại máy gia tốc hạt TRISTAN ở Nhật Bản. Các hạt ảo cũng tạo ra hiệu ứng lá chắn đáng kể cho khối lượng của electron.\nTương tác với các hạt ảo cũng giải thích sự sai lệch nhỏ (khoảng 0,1%) về giá trị của mômen từ nội tại của electron so với magneton Bohr (sai lệch này được gọi là mômen từ dị thường của electron). Sự khớp chính xác tuyệt vời giữa giá trị tính toán trên lý thuyết và giá trị đo được bằng thực nghiệm của mômen từ dị thường electron được coi là một trong những thành tựu quan trọng nhất của điện động lực học lượng tử.\nNghịch lý trong vật lý cổ điển về hạt điểm electron lại có mômen góc spin và mômen từ nội tại có thể được giải quyết bởi sự hình thành của các cặp hạt photon ảo trong điện trường sinh bởi electron. Các photon ảo này (đến lượt lại sinh ra các cặp electron−positron ảo khác) làm cho electron luôn dịch chuyển xung quanh vị trí của nó (còn gọi là zitterbewegung), mà tổng hợp lại thành một chuyển động tròn với hiệu ứng tiến động. Chuyển động này tạo ra cả spin và mômen từ của electron. Trong nguyên tử, sự sinh các cặp hạt photon ảo giúp giải thích hiệu ứng dịch chuyển Lamb như đã quan sát thấy ở các vạch quang phổ.\nTương tác.\nElectron sinh ra từ trường tạo ra lực hút lên hạt mang điện dương, như proton, và lực đẩy lên hạt mang điện âm. Cường độ của lực này trong điện động lực học cổ điện được xác định bằng định luật nghịch đảo bình phương Coulomb. Khi một electron đang trong chuyển động, nó tạo ra một từ trường bao quanh. Định luật Ampère-Maxwell cho biết mối liên hệ giữa từ trường và chuyển động của dòng các electron (dòng điện) tương ứng với người quan sát. Tính chất cảm ứng này cung cấp một từ trường dẫn động làm quay động cơ điện. Trường điện từ của một hạt mang điện bất kỳ đang trong chuyển động được miêu tả bằng thế Liénard–Wiechert, thế này đúng cho cả trường hợp hạt chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (hay vận tốc tương đối tính).\nKhi một electron chuyển động trong từ trường, nó chịu tác dụng của lực Lorentz tác động theo phương vuông góc với mặt phẳng xác định bởi vectơ từ trường và vectơ vận tốc của electron. Lực hướng tâm làm cho electron chuyển động trên một quỹ đạo xoắn ốc trong từ trường với bán kính Larmor. Sự gia tốc từ chuyển động theo đường cong ghềnh này làm cảm ứng electron phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ đồng bộ. Năng lượng bức xạ này làm hãm electron, hay còn gọi là lực Abraham–Lorentz–Dirac, tạo ra ma sát làm chậm chuyển động của electron. Lực này cũng gây ra tác động ngược (back-reaction) lên điện từ trường của chính electron.\nTrong điện động lực học lượng tử photon là hạt truyền tải tương tác điện từ giữa các hạt. Một electron đơn lẻ chuyển động với vận tốc đều không thể phát ra hay hấp thụ một photon thực; do sẽ vi phạm định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Mặt khác, các photon ảo có thể truyền động lượng giữa hai hạt mang điện tích. Sự trao đổi này của các photon ảo, ví dụ, làm tạo ra lực Coulomb. Bức xạ năng lượng xuất hiện khi một electron chuyển động bị làm lệch quỹ đạo gây bởi điện trường của một hạt mang điện khác, như proton. Sự gia tốc của electron làm phát ra bức xạ Bremsstrahlung.\nMột photon (ánh sáng) va chạm phi đàn hồi với một electron (tự do) được gọi là tán xạ Compton. Kết quả của va chạm này là động lượng và năng lượng được truyền qua giữa các hạt, làm thay đổi bước sóng của photon bằng một lượng được gọi là dịch chuyển Compton. Độ dịch chuyển lớn nhất của bước sóng bằng \"h\"/\"m\"e\"c\", hay còn gọi là bước sóng Compton. Đối với một electron, nó có giá trị bằng . Khi bước sóng của ánh sáng là dài (ví dụ bước sóng của ánh sáng khả kiến bằng 0,4–0,7 μm) sự dịch chuyển bước sóng có thể bỏ qua được. Trong trường hợp này, tương tác giữa ánh sáng và electron tự do được gọi là tán xạ Thomson hay tán xạ Thomson tuyến tính.\nĐộ mạnh tương đối của tương tác điện từ giữa hai hạt điện tích, chẳng hạn giữa một electron và một proton, được xác định bởi hằng số cấu trúc tế vi. Đây là đại lượng không thứ nguyên hình thành dựa trên tỉ số của hai dạng năng lượng: năng lượng tĩnh điện của lực hút (hoặc đẩy) ở khoảng cách bằng một lần bước sóng Compton, và năng lượng nghỉ của các hạt mang điện tích. Nó có giá trị bằng \"α\" ≈ , hay xấp xỉ bằng .\nKhi electron và positron va chạm, chúng hủy lẫn nhau, làm phát ra hai hoặc ba photon tia gamma. Nếu electron và positron có động lượng bỏ qua được, va chạm có thể hình lên nguyên tử positronium trước khi hai hạt hủy lẫn nhau để hình ra các photon có tổng năng lượng 1,022 MeV. Mặt khác, một photon năng lượng cao có thể biến đổi thành cặp electron và positron bởi quá trình sinh cặp (pair production), nhưng chỉ trong sự có mặt của một hạt điện tích gần nó, như một hạt nhân chẳng hạn.\nTrong lý thuyết tương tác điện yếu, thành phần hàm sóng hướng bên trái (chiral) của electron tạo thành bộ đôi isospin yếu với neutrio electron. Điều này có nghĩa rằng trong tương tác yếu, neutrino electron hành xử như các electron. Mỗi loại hạt của bộ đôi này (doublet) có thể tham gia vào tương tác dòng tích (charged current) bằng cách phát ra hoặc hấp thụ một boson và biến đổi sang thành hạt kia. Điện tích được bảo toàn trong quá trình này bởi vì boson W cũng mang điện tích, làm cho tổng điện tích của quá trình biến đổi là không thay đổi. Các tương tác dòng tích chịu trách nhiệm cho hiện tượng phân rã beta trong một nguyên tử phóng xạ. Cả electron và neutrino electron có thể tham gia vào tương tác dòng trung hòa (neutral current interaction) thông qua sự trao đổi một boson , và chịu trách nhiệm cho tán xạ đàn hồi neutrino−electron.\nNguyên tử và phân tử.\nMột electron có thể \"liên kết\" với hạt nhân của một nguyên tử bởi lực hút Coulomb. Một hệ có một hoặc nhiều electron liên kết với một hạt nhân được gọi là một nguyên tử. Nếu số electron khác với số điện tích của hạt nhân, nguyên tử đó được gọi là một ion. Hành xử dạng sóng của một electron liên kết được miêu tả bằng một hàm sóng gọi là orbital nguyên tử. Mỗi orbital đặc trưng bởi các số lượng tử như mức năng lượng, mômen động lượng và hình chiếu của mômen góc, và chỉ có các orbital rời rạc tồn tại xung quanh hạt nhân. Theo nguyên lý loại trừ Pauli mỗi orbital có thể chiếm giữ bởi tối đa hai electron, và chúng phải có số lượng tử spin khác nhau.\nElectron có thể nhảy sang các orbital khác nhau thông qua sự hấp thụ hoặc phát ra photon có năng lượng bằng hiệu giữa hai mức năng lượng đó. Các phương pháp khác làm electron chuyển sang orbital khác bao gồm sự va chạm của nó với hạt khác, như các electron, và nhờ hiệu ứng Auger. Để thoát ra khỏi nguyên tử, năng lượng của electron phải tăng và lớn hơn năng lượng liên kết với nguyên tử. Điều này xảy ra, ví dụ, như ở hiệu ứng quang điện, khi một photon tới va chạm có năng lượng lớn hơn năng lượng ion hóa nguyên tử và bị electron hấp thụ.\nMômen góc orbital của electron bị lượng tử hóa. Bởi electron mang điện, nó có một mômen từ orbital tỷ lệ với mômen góc. Tổng mômen từ của một nguyên tử bằng tổng vec tơ của mô men từ spin và mômen từ orbital của tất cả các electron và hạt nhân. Mômen từ của hạt nhân là nhỏ so với của các electron. Mômen từ của các electron chiếm giữ cùng một orbital (còn gọi là cặp electron) triệt tiêu lẫn nhau.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử chính là tương tác điện từ giữa chúng, như miêu tả bởi các định luật của cơ học lượng tử. Liên kết mạnh nhất hình thành bởi chia sẻ hoặc cho/nhận các electron giữa các nguyên tử, dẫn đến hình thành lên các phân tử. Bên trong một phân tử, các electron chuyển động dưới ảnh hưởng của một vài hạt nhân, và chiếm giữ các orbital phân tử; giống như chúng chiếm giữ các orbital trong một nguyên tử cô lập. Một yếu tố cơ bản trong các cấu trúc phân tử đó là sự tồn tại các cặp electron. Đây là các electron có spin ngược nhau, cho phép chúng có thể chiếm giữ cùng một orbital phân tử mà không vi phạm nguyên lý loại trừ Pauli (tương tự như ở nguyên tử). Các orbital phân tử khác nhau có phân bố mật độ electron theo không gian khác nhau. Ví dụ, ở các cặp electron liên kết (nghĩa là các cặp thực sự liên kết các nguyên tử với nhau) có thể được tìm thấy với xác suất cực đại nằm ở vùng thể tích tương đối nhỏ giữa các hạt nhân. Ngược lại, ở các cặp electron không liên kết chúng phân bố trong thể tích lớn hơn bao quanh hạt nhân.\nDẫn điện.\nNếu một vật thể có nhiều hoặc ít hơn lượng electron cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân nguyên tử, thì tổng thể vật đó có mang điện tích. Khi có nhiều hơn electron, vật đó mang điện âm. Khi có ít electron hơn số lượng proton trong hạt nhân nguyên tử, vật mang điện dương. Khi số electron và proton bằng nhau, điện tích của chúng hủy lẫn nhau và vật thể ở trạng thái cân bằng điện (hay trung hòa). Nhờ tác động chà xát có thể làm vật thể vĩ mô mang điện thông qua hiệu ứng điện ma sát (triboelectric effect).\nCác electron độc lập chuyển động trong chân không được gọi là các electron \"tự do\". Các electron trong kim loại cũng hành xử như chúng chuyển động tự do. Thực sự thì các hạt được gọi là các electron trong kim loại và những thể rắn khác là những giả-electron—giả hạt, mà có cùng điện tích, spin, và mômen từ như các electron thực thụ nhưng có khối lượng khác với nó. Khi các electron tự do—trong chân không lẫn kim loại—chuyển động, chúng tạo ra một dòng mạng lưới điện tích được gọi là dòng điện, từ đó tạo ra một từ trường. Giống như một dòng điện có thể được sinh ra từ sự thay đổi của một từ trường. Những tương tác và mối quan hệ này được miêu tả bởi phương trình Maxwell.\nỞ mỗi nhiệt độ nhất định, từng vật liệu có một độ dẫn điện ảnh hưởng đến giá trị của dòng điện khi áp vào một điện thế. Những vật dẫn điện tốt bao gồm kim loại như đồng và vàng, trong khi thủy tinh và Teflon lại dẫn điện kém. Ở bất kỳ vật liệu cách điện nào, các electron vẫn bám vào các nguyên tử và vật liệu có tính chất như là một chất cách điện. Hầu hết các chất bán dẫn có mức độ dẫn điện biến đổi từ phạm vi dẫn điện cực tốt cho đến cách điện hoàn toàn. Mặt khác, các kim loại có cấu trúc dải điện tử chứa các vùng năng lượng được lấp đầy một phần bởi electron. Sự có mặt của những vùng năng lượng này cho phép các electron trong kim loại hành xử như chúng được tự do hoặc gọi là các electron phi định xứ (delocalized electrons). Những electron không liên kết với một nguyên tử nhất định, do vậy khi áp dụng một điện trường, chúng chuyển động tự do như một chất khí (được gọi là khí Fermi) đi qua vật liệu giống như các electron tự do.\nBởi vì có sự va chạm giữa các electron với các nguyên tử, vận tốc trôi của các electron trong một vật dẫn có độ lớn cỡ vài milimét trên một giây. Tuy nhiên, trường hợp có sự thay đổi dòng điện từ một điểm trong vật liệu gây ra sự thay đổi dòng điện ở điểm khác trong vật liệu, thì tốc độ lan truyền của hiệu ứng này, điển hình bằng khoảng 75% tốc độ ánh sáng. Điều này xảy ra bởi vì tín hiệu điện lan truyền như một sóng, với vận tốc phụ thuộc vào hằng số điện môi của vật liệu.\nĐa số kim loại có độ dẫn nhiệt tương đối tốt, chủ yếu bởi vì các electron phi định xứ vận chuyển năng lượng nhiệt tự do giữa các nguyên tử. Tuy nhiên, không giống như sự dẫn điện, sự dẫn nhiệt của một kim loại gần như độc lập với nhiệt độ của vật liệu. Điều này đã được phát biểu bằng định luật Wiedemann–Franz, nói rằng tỉ số độ dẫn nhiệt trên độ dẫn điện tỷ lệ thuận với nhiệt độ của vật liệu. Sự mất trật tự bởi nhiệt trong dàn tinh thể nguyên tử kim loại làm tăng điện trở của vật liệu, tạo ra sự phụ thuộc vào nhiệt độ đối với dòng điện.\nKhi làm lạnh vật liệu xuống dưới một mức gọi là nhiệt độ tới hạn, vật liệu trải qua sự chuyển pha trong đó nó mất hoàn toàn tính kháng điện (điện trở) đối với dòng điện, hay chính là hiệu ứng siêu dẫn. Trong lý thuyết BCS, các cặp electron được gọi là cặp Cooper trong chuyển động của chúng bắt cặp với nguyên tử gần đấy thông qua những dao động dàn nguyên tử gọi là phonon, do đó cặp Cooper tránh được va chạm với các nguyên tử mà thường tạo ra điện trở. (Các cặp Cooper có bán kính xấp xỉ bằng 100 nm, do đó nếu coi chúng như sóng vật chất thì chúng có thể chồng chập lẫn nhau.) Tuy nhiên, cơ chế cho hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu vẫn chưa có lý thuyết giải thích thỏa đáng.\nCác electron bên trong vật dẫn, mà chính chúng cũng là những giả hạt, khi đặt trong nhiệt độ rất gần với độ không tuyệt đối, có thể được phân ra thành ba loại giả hạt: spinon, orbiton và holon. Hạt đầu tiên mang spin và mômen từ, hạt tiếp theo mang vị trí orbital của nó trong khi hạt còn lại mang điện tích.\nChuyển động và năng lượng.\nTheo thuyết tương đối hẹp của Einstein, khi tốc độ của một electron tiệm cận tới tốc độ ánh sáng, người quan sát từ một hệ quy chiếu quán tính sẽ đo được khối lượng tương đối tính của hạt tăng lên, do đó khiến cho nó càng khó để có thể gia tốc nó từ bên trong hệ quy chiếu của người quan sát. Tốc độ của một electron có thể tiếp cận đến, nhưng không bao giờ bằng, tốc độ của ánh sáng trong chân không, \"c\". Tuy nhiên, khi các electron tương đối tính—là những electron chuyển động với tốc độ gần bằng \"c\"—chuyển động trong môi trường điện môi như nước, nơi vận tốc ánh sáng trong nó nhỏ hơn nhiều so với \"c\", các electron trong môi trường này có thể chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Khi chúng tương tác va chạm với môi trường, chúng tạo ra một ánh sáng nhạt được gọi là bức xạ Cherenkov.\nCác hiệu ứng trong thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên một đại lượng gọi là hệ số Lorentz, được xác định bằng formula_1 với \"v\" là tốc độ của hạt. Động năng \"K\"e của một electron chuyển động với vận tốc \"v\" bằng:\nvới \"m\"e là khối lượng của electron. Ví dụ, ở máy gia tốc thẳng Stanford có thể gia tốc một electron tới động năng gần bằng 51 GeV. Vì một electron hành xử như dạng sóng, ở một vận tốc bất kỳ nó có một bước sóng de Broglie đặc trưng. Bước sóng này được cho bởi \"λ\"e = \"h\"/\"p\" với \"h\" là hằng số Planck và \"p\" là động lượng. Đối với electron có động năng 51 GeV ở trên, bước sóng de Broglie bằng , đủ nhỏ để khám phá các cấu trúc có kích thước nhỏ hơn kích cỡ của một hạt nhân nguyên tử.\nSự hình thành.\nLý thuyết Vụ Nổ Lớn là lý thuyết khoa học được chấp nhận rộng rãi hiện nay miêu tả những giai đoạn ban đầu của sự tiến hóa của Vũ trụ. Ở những miligiây đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ trên 10 tỷ kelvin và các photon có năng lượng trung bình trên một triệu electronvolt. Các photon này có đủ năng lượng mà khi tương tác với nhau có thể dẫn tới sự hình thành cặp electron và positron. Ngược lại, những cặp positron−electron hủy lẫn nhau và phát ra các photon năng lượng cao:\nTrạng thái cân bằng giữa các electron, positron và photon được duy trì trong suốt giai đoạn này của sự tiến hóa Vũ trụ. Khi 15 giây trôi qua, tuy nhiên, nhiệt độ của Vũ trụ lúc này giảm xuống dưới ngưỡng cho phép hình thành cặp hạt electron−positron. Phần lớn các electron và positron tồn tại hủy lẫn nhau, giải phóng bức xạ gamma làm Vũ trụ nóng lên trong một thời gian ngắn.\nVì một lý do nào đó chưa được biết chắc chắn, trong suốt quá trình hủy cặp có sót lại một số lượng hạt nhiều hơn phản hạt vật chất. Cụ thể là có dư ra 1 electron tồn tại trong mỗi 1 tỷ cặp hạt electron−positron. Số lượng dư sót lại này bằng với số lượng proton còn dư từ quá trình hủy cặp hạt tương tự proton và phản proton, trong một điều kiện được gọi là bất đối xứng baryon, điều này mang đến tổng điện tích của toàn bộ Vũ trụ gần như bằng zero. Những proton và neutron còn dư lại bắt đầu tham gia vào các phản ứng với nhau—quá trình gọi là tổng hợp hạt nhân, tạo ra các đồng vị của hydro và heli, và một ít hạt nhân lithi. Các phản ứng này đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian ở sau năm phút. Bất kỳ neutron còn lại nào sẽ trải qua phản ứng phân rã beta âm với nửa thời gian sống bằng khoảng một nghìn giây, giải phóng ra một proton và một electron,\nTrong khoảng 300.000–400.000 năm tiếp theo, lượng các hạt electron còn lại có năng lượng quá lớn để có thể liên kết vào các hạt nhân nguyên tử. Giai đoạn tiếp theo là sự tái kếp hợp electron vào hạt nhân, khi ấy các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự giãn nở của vũ trụ làm cho vật chất trở lên trong suốt với bức xạ.\nGần một triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, thế hệ các ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành. Trong lòng một ngôi sao, dây chuyền phản ứng tổng hợp hạt nhân sao cho ra các sản phẩm trong đó có positron. Những hạt phản vật chất này ngay lập tức hủy với các electron, giải phóng tia gamma. Gộp chung lại số lượng hạt electron bị giảm dần, và tương ứng số lượng hạt neutron tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa sao cũng hình thành các sản phẩm là những đồng vị phóng xạ. Các đồng vị này có thể sau đó trải qua phân rã beta trừ, phát ra một electron và một phản neutrino từ hạt nhân. Một ví dụ là đồng vị cobalt-60 (60Co), mà phân rã thành nickel-60 (60Ni).\nCuối chu trình tiến hóa của chúng, một ngôi sao có khối lượng lớn hơn 20 lần khối lượng Mặt Trời đi đến kết cục suy sụp hấp dẫn để tạo thành một lỗ đen. Theo vật lý cổ điển, bên trong những ngôi sao khối lượng lớn này xuất hiện lực hút hấp dẫn đủ mạnh để ngăn bất kỳ thứ gì, kể cả bức xạ điện từ, thoát ra khỏi bán kính Schwarzschild. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử cho phép có khả năng tồn tại bức xạ Hawking ở phạm vi khoảng cách này. Các electron (và positron) được cho là tạo ra ở chân trời sự kiện của những tàn dư sao.\nKhi một cặp hạt ảo (như gồm một electron và một positron) được tạo ra tại biên giới của chân trời sự kiện, sự phân bố ngẫu nhiên trong vị trí của hạt có thể làm cho một trong hai hạt nằm ở bên trong chân trời sự kiện; mà quá trình này được gọi là sự xuyên hầm lượng tử. Thế năng hấp dẫn của lỗ đen có thể cấp năng lượng để biến một hạt ảo nằm bên ngoài chân trời sự kiện trở thành một hạt thực, cho phép nó bật phóng ra vào không gian. Đổi lại, hạt còn lại của cặp mang năng lượng âm và rơi về vùng kì dị lỗ đen, dẫn đến tổng cộng khối lượng−năng lượng của lỗ đen bị giảm đi. Tốc độ bức xạ Hawking tăng tiến khi khối lượng lỗ đen giảm dần, làm cho lỗ đen bốc hơi và cuối cùng là phát nổ.\nTia vũ trụ là những hạt chuyển động trong không gian với năng lượng cao. Các sự kiện năng lượng cao đến cỡ đã được ghi nhận. Khi những hạt này va chạm với các nucleon trong khí quyển Trái Đất, một trận mưa các hạt được tạo ra, bao gồm các pion. Hơn một nửa bức xạ vũ trụ được quan sát trên bề mặt Trái Đất có chứa các muon. Muon là một hạt loại lepton hình thành tại thượng tầng khí quyển sau quá trình phân rã của một pion.\nĐến lượt muon, nó có thể phân rã thành electron hoặc positron.\nQuan sát.\nQuan sát electron từ xa đòi hỏi việc đo được năng lượng bức xạ của chúng. Ví dụ, trong môi trường năng lượng cao như ở vành nhật hoa của một ngôi sao, các electron tự do tạo thành trạng thái plasma phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ Bremsstrahlung. Khí electron có thể biểu hiện dao động plasma, đó là những sóng gây bởi những biến đổi đồng bộ trong mật độ electron, và những sóng này tạo ra phát xạ năng lượng có thể phát hiện được nhờ quan sát qua kính thiên văn vô tuyến.\nTần số của một photon tỷ lệ với năng lượng của nó. Khi một electron liên kết trong nguyên tử chuyển trạng thái giữa các mức năng lượng khác nhau, nó hấp thụ hoặc phát ra photon ở những tần số đặc trưng. Ví dụ, khi chiếu nguồn bức xạ phổ liên tục vào các nguyên tử sẽ xuất hiện các vạch phổ hấp thụ đặc trưng trong quang phổ của bức xạ phản xạ. Mỗi nguyên tố hoặc phân tử thể hiện một lớp đặc trưng các vạch quang phổ, như các vạch quang phổ hydro. Những phép đo lường quang phổ về cường độ và bề rộng của các vạch này cho phép xác định được thành phần và tính chất vật lý của một chất cần xác định.\nTrong điều kiện của phòng thí nghiệm, có thể quan sát tương tác của từng electron đơn lẻ nhờ các máy gia tốc hạt nhân, mà cho phép đo những tính chất cụ thể như năng lượng, spin và điện tích. Nhờ sự phát triển của các kỹ thuật bẫy ion như bẫy Paul và bẫy Penning cho phép giam giữ các hạt mang điện trong một thể tích đủ nhỏ với thời gian dài. Điều này đã cho phép đo lường các tính chất cũng như thao tác lên những hạt này. Ví dụ, bẫy Penning từng được ứng dụng để chứa một electron đơn lẻ trong thời gian 10 tháng. Mômen từ của electron đã được đo với độ chính xác đến 11 chữ số thập phân mà vào năm 1980, độ chính xác này còn lớn hơn độ chính xác đo được của bất kỳ các hằng số vật lý khác.\nBộ phim chụp ảnh đầu tiên về sự phân bố năng lượng của electron đã được thực hiện bởi một đội các nhà vật lý tại Đại học Lund ở Thụy Điển vào tháng 2 năm 2008. Họ đã sử dụng một xung nhịp ánh sáng cực ngắn, hay gọi là các xung atto giây, cho phép lần đầu tiên chụp ảnh được chuyển động của một electron.\nSự phân bố của các electron trong chất rắn có thể được biểu hiện nhờ kỹ thuật chụp quang phổ bức xạ phân giải góc (angle-resolved photoemission spectroscopy, ARPES). Kỹ thuật này ứng dụng hiệu ứng quang điện để đo hàm phân bố không gian giàn tinh thể—một hàm toán học biểu diễn đặc tính cấu trúc tuần hoàn được áp dụng để suy đoán ra cấu trúc ban đầu của tinh thể. ARPES được ứng dụng để xác định hướng, tốc độ và sự tán xạ của các electron bên trong vật liệu.\nCác ứng dụng plasma.\nChùm hạt.\nTrong công nghệ và kỹ thuật, các chùm tia electron đã được ứng dụng để thực hiện hàn bằng chùm electron giữa hai loại vật liệu. Chúng cho phép mật độ năng lượng của chùm tia hàn lên tới 107 W·cm−2 được tập trung trong một hình nón tròn đường kính cỡ mà thường không cần đòi hỏi phải có lớp vật liệu đệm thứ 3. Kỹ thuật hàn này phải được thực hiện trong chân không để tránh các electron va chạm với một trường khí xung quanh trước khi chúng đến được vật liệu cần hàn, và nó có thể được sử dụng để nối các loại vật liệu dẫn điện mà những biện pháp hàn khác không phù hợp để áp dụng.\nQuang khắc chùm điện tử (EBL) là phương pháp tạo các chi tiết bán dẫn ở mức phân giải nhỏ hơn 1 µm. Kỹ thuật này có hạn chế là giá thành cao, tốc độ sản xuất chậm, cần phải vận hành chùm điện tử trong môi trường chân không cao và các electron có xu hướng tán xạ trên bề mặt vật liệu. Độ phân giải tối đa của phương pháp này vào khoảng 10 nm. Vì lý do này, EBL được ứng dụng chủ yếu cho sản xuất một số nhỏ các vi mạch chuyên biệt.\nPhương pháp xử lý chùm điện tử (electron-beam processing, hoặc electron irradiation EBI) được ứng dụng để làm thay đổi các đặc tính của vật liệu hoặc khử trùng trong y học và thực phẩm bằng cách chiếu chùm điện tử vào sản phẩm. Chùm electron hóa lỏng hoặc làm tan chảy thủy tinh mà không gây tăng nhiều nhiệt độ khi thực hiện chiếu với cường độ cao: ví dụ bức xạ electron mạnh gây ra sự giảm độ nhớt ở nhiều bậc độ lớn và làm giảm từng bước năng lượng hoạt hóa của nó.\nCác máy gia tốc quỹ đạo thẳng (linear particle accelerator) tạo ra những chùm electron cho chùm sáng dùng để điều trị các khối u trên bề mặt trong trị liệu bức xạ. Trị liệu điện tử (electron therapy) có thể điều trị các thương tổn ở da như ung thư tế bào đáy bởi vì một chùm electron chỉ có thể thâm nhập xuống một độ sâu nhất định trước khi bị hấp thụ, thường là đến 5 cm đối với electron có năng lượng trong phạm vi 5–20 MeV. Một chùm electron có thể được sử dụng phối hợp với chiếu xạ tia X trong điều trị bệnh.\nCác máy gia tốc hạt sử dụng điện trường để đẩy các electron và phản hạt của chúng lên mức năng lượng cao. Những hạt này phát ra bức xạ đồng bộ khi chúng bay qua từ trường. Cường độ của bức xạ đồng bộ phụ thuộc vào phân cực spin của chùm electron—quá trình được gọi là hiệu ứng Sokolov–Ternov. Các chùm electron phân cực được ứng dụng trong nhiều thí nghiệm khác nhau. Bức xạ synchrotron có thể dùng làm mát chùm electron với mục đích làm giảm sự phân tán động lượng của chùm hạt. Các chùm electron và positron được cho va chạm với nhau trong máy gia tốc khi chúng đạt đến mức năng lượng yêu cầu; các máy dò hạt (particle detector) quan sát năng lượng của bức xạ phát ra, ghi lại những thông tin và tính chất cần nghiên cứu trong vật lý hạt.\nChụp ảnh.\nNhiễu xạ electron năng lượng thấp (Low-energy electron diffraction, LEED) là một phương pháp bắn vào vật liệu có cấu trúc tinh thể bằng một chùm electron chuẩn trực sau đó quan sát hình ảnh nhiễu xạ giúp xác định lên cấu trúc của vật liệu. Năng lượng đòi hỏi của các electron ở những chùm này trong khoảng 20–200 eV. Kỹ thuật phản xạ nhiễu xạ electron năng lượng cao (reflection high-energy electron diffraction, RHEED) sử dụng sự phản xạ của một chùm electron bắn đến với nhiều góc hẹp khác nhau để nghiên cứu đặc trưng bề mặt của vật liệu có cấu trúc tinh thể. Chùm năng lượng thường nằm trong khoảng 8–20 keV và góc bắn electron thường bằng 1–4°.\nKính hiển vi điển tử hoạt động dựa trên nguyên lý tập trung chùm electron vào một mẫu vật. Một số electron sau khi va chạm vào mẫu vật thì bị thay đổi đặc tính, như hướng chuyển động, góc phản xạ và pha tương đối cũng như năng lượng bị giảm đi. Các nhà hiển vi học ghi lại những thay đổi này từ chùm electron để tái tạo ra những bức ảnh về mẫu vật. Trong ánh sáng xanh lam, các kín hiển vi quang học thông thường có giới hạn nhiễu xạ phân giải ở kích thước 200 nm. So sánh với kính hiển vi điện tử, loại này bị giới hạn bởi bước sóng de Broglie của electron. Ví dụ, bước sóng này bằng 0,0037 nm đối với những electron được gia tốc trong điện trường cỡ 100.000 volt. Kính hiển vi truyền điện tử hiệu chỉnh quang sai (Transmission Electron Aberration-Corrected Microscope) có độ phân giải dưới 0,05 nm, đủ để phân biệt được từng nguyên tử. Khả năng này mang lại những lợi thế cho sử dụng kính hiển vi điện tử trong phòng thí nghiệm để chụp các bức ảnh có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử là những thiết bị đắt tiền và tốn nhiều chi phí hoạt động và bảo trì.\nCó hai loại kính hiển vi điện tử: Loại truyền qua và loại quét bề mặt. Kính hiển vi điện tử truyền qua hoạt động giống như một máy chiếu, với một chùm electron được cho chiếu qua một lát vật liệu sau đó nó được hội tụ trên phim âm bản hoặc cảm biến CCD. Kính hiển vi điện tử quét bề mặt dùng chùm electron quét lên bề mặt mẫu vật, giống như hiển thị trên ti vi màn hình ống, để thu được bức ảnh về nó. Độ phóng đại của hai loại kính này vào cỡ 100× đến 1.000.000. Kính hiển vi quét xuyên hầm sử dụng hiệu ứng chui hầm lượng tử của electron từ mũi nhọn của một đầu dò kim loại để nghiên cứu vật liệu và tạo ra bức ảnh bề mặt vật liệu có độ phân giải cao.\nCác ứng dụng khác.\nTrong laser electron tự do (FEL), một chùm electron tương đối tính đi qua dãy các nam châm lưỡng cực (undulator) bị đổi hướng luân phiên do hướng của từ trường tạo bởi dãy các nam châm này. Vì đổi hướng luân phiên như vậy nên các electron phát ra bức xạ synchrotron một cách nhịp nhàng và đều đặn, bức xạ được khuếch đại ở tần số cộng hưởng. FEL có thể phát ra bức xạ điện từ với độ rọi cao trong dải tần số rộng, từ sóng vi ba cho đến tia X mềm. Những thiết bị này được sử dụng trong sản xuất, viễn thông, và trong các ứng dụng y tế, như phẫu thuật các mô mềm.\nỐng tia âm cực chứa electron, mà đã từng được sử dụng thường xuyên cho các màn hình hiển thị tại nhiều thiết bị thí nghiệm, màn hình máy tính và máy truyền hình. Trong một đèn nhân quang điện, mỗi photon va chạm đến âm cực quang khởi tạo ra một luồng các electron để hình thành một xung dòng điện mà bộ dò phát hiện được. Ống điện tử chân không sử dụng luồng các electron để thao tác lên tín hiệu điện, và chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công nghệ điện tử. Tuy nhiên, ngày nay chúng đã bị thay thế bởi các thiết bị bán dẫn như transistor." ]
electron - in - nhit - lng - neutron - thuyt - ht - einstein - proton - quark
1
false
Giờ (tiếng Anh: hour; viết tắt là h) là một khoảng thời gian bằng 60 phút, hoặc bằng 3600 giây. Trong hệ đo lường quốc tế, giờ là đơn vị đo được suy ra từ đơn vị cơ bản giây theo định nghĩa trên. Trong cách hành văn hàng ngày một giờ còn nhiều khi được gọi là một tiếng đồng hồ hoặc một tiếng. Giờ ban đầu được thành lập vào Cận Đông cổ đại như một biện pháp đo lường của đêm hay ban ngày. Các giờ theo mùa, giờ theo thời gian hoặc giờ không bằng nhau thay đổi theo mùa và vĩ độ. Giờ bằng nhau hoặc giờ đường phân điểm được thực hiện như là thời gian trong ngày được đo từ trưa ngày này đến trưa ngày hôm sau; những thay đổi theo mùa nhỏ của đơn vị này cuối cùng đã được làm nhẵn bằng cách cho nó giá trị của ngày mặt trời trung bình. Vì đơn vị này không cố định do sự biến đổi lâu dài trong chuyển động quay của Trái Đất, giờ cuối cùng được tách ra khỏi chuyển động quay của Trái Đất và được định nghĩa theo nguyên tử hoặc giây vật lý. Trong hệ mét hiện đại, giờ là một đơn vị thời gian được chấp nhận được định nghĩa là 3.600 giây nguyên tử. Tuy nhiên, trong những trường hợp hiếm hoi, một giờ có thể kết hợp một giây nhuận dương hoặc âm, làm cho nó kéo dài 3.599 hoặc 3.601 giây, để giữ nó trong vòng 0,9 giây so với UT1, dựa trên các phép đo của ngày mặt trời trung bình. Lịch sử. Cổ đại. Người Hy Lạp và La Mã cổ đại ban đầu chia ngày thành 12 giờ và ban đêm thành 3 hoặc 4 canh đêm. Nhà thiên văn học Hy Lạp Andronicus ở Cyrrhus đã giám sát việc xây dựng một horologion gọi là Tháp Gió ở Athens trong thế kỷ 1 TCN. Cấu trúc này theo dõi một ngày 24 giờ bằng cách sử dụng cả đồng hồ mặt trời và chỉ số giờ cơ học. Ban đêm sau đó cũng được chia thành 12 giờ. Khái niệm giờ kinh điển đã được đưa vào Cơ đốc giáo ban đầu từ Do Thái giáo Đền thờ thứ hai. Đến năm 60 sau Công nguyên, Didache khuyến nghị các môn đồ cầu nguyện Kinh Lạy Cha ba lần một ngày; thực hành này cũng được tìm thấy trong các giờ kinh điển. Vào thế kỷ thứ hai và thứ ba, các Giáo phụ như Clement ở Alexandria, Origen, và Tertullian đã viết về việc thực hành Kinh Sáng và Tối, và những lời cầu nguyện vào các giờ thứ ba, thứ sáu và thứ chín. Trong nhà thờ đầu tiên, trong đêm trước mỗi lễ, một lễ canh thức được giữ. Từ "Canh thức", lúc đầu được áp dụng cho Văn phòng Ban đêm, xuất phát từ một nguồn tiếng Latinh, cụ thể là "Vigiliae" hoặc đồng hồ ban đêm hoặc canh gác của binh lính. Đêm từ sáu giờ tối đến sáu giờ sáng được chia thành bốn canh hoặc canh ba giờ, canh một, canh hai, canh ba và canh tư. "Horae" ban đầu là hiện thân của các khía cạnh theo mùa của tự nhiên, không phải thời gian trong ngày. Danh sách mười hai "Horae" đại diện cho mười hai giờ trong ngày chỉ được ghi lại trong Late Antiquity, bởi Nonnus. Horae thứ nhất và thứ mười hai đã được thêm vào bộ mười canh giờ ban đầu: Lưỡng Hà. Giờ của Sumer và Babylonia chia ngày và đêm thành 24 giờ bằng nhau, đếm từ lúc mặt trời mọc. Ai Cập. Người Ai Cập cổ đại bắt đầu chia buổi tối thành "" một thời gian nào đó trước khi biên soạn Văn bản Kim tự tháp Vương triều V in the 24thcentury. Vào năm 2150 (Vương triều IX), sơ đồ sao trong nắp quan tài Ai Cập—còn được biết đến là "lịch đường chéo" hoặc "đồng hồ sao"—có chính xác 12 ngôi sao. Clagett viết rằng "chắc chắn" bộ phân chia buổi đêm này theo sau việc thông qua lịch dân sự Ai Cập, thường đặt năm 2800 làm cơ sở phân tích chu kỳ Sothic, nhưng âm lịch có lẽ bắt đầu từ trước đó rất lâu và cũng có 12 tháng tháng trong mỗi năm của nó. Sơ đồ quan tài cho thấy rằng người Ai Cập ghi chép về sự mọc cùng Mặt Trời của 36 ngôi sao hoặc chòm sao (bây giờ được biết đến là "decan"), một cho mỗi "tuần" mười-ngày của lịch dân sự của họ. (12 bộ của "tam giác decan" thay thế đã được sử dụng cho 5 ngày nhuận giữa các năm.) mỗi tối, việc mọc của 11 decan được ghi chép, chia buổi tối thành 12 phần mỗi phần dài 40phút. (bảy ngôi sao khác cũng được ghi chép lại bởi người Ai Cập trong lúc hoàng hôn và trước rạng đông, nhưng chúng không quan trọng cho việc phân chia thời gian.) Những decan nguyên bản từng được sử dụng bởi Ai Cập đã thay đổi đáng kể khỏi vị trí của chúng trong khoảng thời gian vài thế kỷ. Vào thời điểm (1350), các linh mục ở Karnak từng sử dụng đồng hồ nước để xác định giờ. Đồng hồ nước được lấp đầy đến đỉnh điểm lúc hoàng hôn và giờ được xác định bằng cách so sánh mực nước với mười hai mức đo của nó, mỗi mức cho một tháng trong năm. Trong khoảng thời gian Tân Vương quốc Ai Cập, một hệ decan khác được sử dụng, được làm từ 24 trong vòng 1 năm và 12 ngôi sao mỗi đêm. Đông Nam Á. Ở Thái Lan, Lào, và Campuchia, hệ tính giờ truyền thống là đồng hồ sáu-giờ. 7 giờ sáng là giờ đầu tiên của nửa đầu tiên của ban ngày; 1 giờ chiều là giờ đầu tiên của nửa sau của ban ngày; 7 giờ tối là giờ đầu tiên của nửa đầu tiên của ban đêm; và 1 giờ sáng là giờ đầu tiên của nửa sau của ban đêm. Hệ thống này tồn tại ở Vương quốc Ayutthaya, tạo ra áp dụng thực tế bằng cách thông báo công cộng giờ ban ngày với chiêng và giờ ban đêm với trống. Nó được loại bỏ ở Lào và Campuchia trong thời kỳ Pháp thuộc và hiện giờ không còn phổ biến. Hệ thống của Thái Lan vẫn còn được sử dụng không chính thức theo điều lệ của Chulalongkorn đại đế năm 1901.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Trong khoa đo lường, một phút (viết tắt là m theo chuẩn quốc tế hoặc là ph trong tiếng Việt, còn có ký hiệu là ') là một khoảng thời gian bằng 60 giây, hoặc bằng 1/60 giờ. Trong hệ đo lường quốc tế, phút là đơn vị đo được suy ra từ đơn vị cơ bản giây theo định nghĩa trên. Trong toán học, phút còn là đơn vị đo góc, bằng 1/60 của độ và 60 lần giây.
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Tốc độ ánh sáng trong chân không, ký hiệu là , là một hằng số vật lý cơ bản quan trọng trong nhiều lĩnh vực vật lý. Nó có giá trị chính xác bằng 299 792 458m/s. Theo thuyết tương đối hẹp, "c" là tốc độ cực đại mà mọi năng lượng, vật chất, và thông tin trong vũ trụ có thể đạt được. Nó là tốc độ cho mọi hạt phi khối lượng liên kết với các trường vật lý (bao gồm bức xạ điện từ như photon ánh sáng) lan truyền trong chân không. Nó cũng là tốc độ truyền của hấp dẫn (như sóng hấp dẫn) được tiên đoán bởi các lý thuyết hiện tại. Những hạt và sóng truyền với vận tốc "c" không kể chuyển động của nguồn hay của hệ quy chiếu quán tính của người quan sát. Trong thuyết tương đối, "c" có liên hệ với không gian và thời gian, và do vậy nó xuất hiện trong phương trình nổi tiếng sự tương đương khối lượng-năng lượng . Vận tốc của ánh sáng khi nó lan truyền qua vật liệu trong suốt, như thủy tinh hoặc không khí, nhỏ hơn "c". Tỉ số giữa "c" và vận tốc "v" của ánh sáng truyền qua vận liệu gọi là chỉ số chiết suất "n" của vật liệu ("n" = "c" / "v"). Ví dụ, đối với ánh sáng khả kiến chiết suất của thủy tinh có giá trị khoảng 1,5, có nghĩa là ánh sáng truyền qua thủy tinh với vận tốc ; chiết suất của không khí cho ánh sáng khả kiến bằng 1,0003, do vậy tốc độ trong không khí của ánh sáng chậm hơn so với "c". Trong thực hành hàng ngày, ánh sáng có thể coi là lan truyền "tức thì", nhưng đối với khoảng cách lớn và phép đo rất nhạy sự hữu hạn của tốc độ ánh sáng có thể nhận biết được. Ví dụ, trong các video về những cơn bão có tia sét trong khí quyển Trái Đất chụp từ Trạm vũ trụ Quốc tế ISS, hình ảnh tia sáng chạy dài từ ánh chớp có thể nhận thấy được, và cho phép các nhà khoa học ước lượng tốc độ ánh sáng bằng cách phân tích các khung hình về vị trí của đầu sóng tia sáng. Điều này không hề ngạc nhiên, do thời gian ánh sáng đi một vòng quanh chu vi Trái Đất vào cỡ 140 ms. Hiện tượng thời gian trễ này cũng chính là nguyên nhân trong cộng hưởng Schumann. Trong liên lạc truyền tín hiệu thông tin đến các tàu không gian, thời gian mất khoảng từ vài phút đến hàng giờ cho tín hiệu đến được Trái Đất và ngược lại. Ánh sáng phát ra từ những ngôi sao đến được chúng ta mất thời gian nhiều năm, cho phép các nhà thiên văn nghiên cứu được lịch sử của vũ trụ bằng cách quan sát những thiên thể ở rất xa. Tốc độ hữu hạn của ánh sáng cũng đặt ra giới hạn lý thuyết cho tốc độ tính toán của máy tính, do thông tin dưới dạng bit truyền bằng tín hiệu điện trong máy tính giữa các bộ vi xử lý. Cuối cùng, tốc độ ánh sáng có thể được kết hợp với thời gian chuyến bay nhằm đo lường các khoảng cách lớn với độ chính xác cao. Ole Rømer là người đầu tiên chứng tỏ ánh sáng truyền với tốc độ hữu hạn vào năm 1676 (trái ngược với suy nghĩ tốc độ tức thì vào thời đó) khi ông nghiên cứu chuyển động biểu kiến của vệ tinh Io của Sao Mộc. Năm 1865, James Clerk Maxwell dựa trên lý thuyết điện từ của mình chứng tỏ được ánh sáng là một dạng sóng điện từ, do hằng số "c" xuất hiện trong các phương trình truyền sóng của ông. Năm 1905, Albert Einstein nêu ra tiên đề rằng tốc độ ánh sáng trong chân không đối với mọi hệ quy chiếu quán tính là không đổi và độc lập với chuyển động của nguồn sáng, và cùng với một tiên đề và các định luật khác ông đã xây dựng lên thuyết tương đối hẹp và chứng minh rằng hằng số "c" còn có liên hệ bản chất sâu xa ngoài khái niệm tốc độ ánh sáng và sóng điện từ. Sau nhiều thập kỷ đo lường chính xác, năm 1975 tốc độ ánh sáng trong chân không được định nghĩa lại bằng với sai số là 4 phần tỷ. Năm 1983, đơn vị đo mét được định nghĩa lại trong hệ SI bằng khoảng cách ánh sáng truyền trong chân không trong thời gian bằng 1/299.792.458 của một giây. Kết quả là, giá trị số của "c" trong đơn vị mét trên giây được định nghĩa cố định và chính xác. Giá trị số, ký hiệu, và đơn vị. Tốc độ ánh sáng trong chân không ký hiệu là c. Ký hiệu "c" bắt nguồn từ chữ ""c"onstant" (hằng số) trong hệ thống đơn vị đo vật lý, và "c" cũng bắt nguồn từ chữ Latin "celeritas", có nghĩa là "nhanh nhẹn" hay "tốc độ". (Chữ C hoa trong đơn vị SI ký hiệu cho đơn vị coulomb của điện tích.) Ban đầu, ký hiệu "V" được dùng cho tốc độ ánh sáng, do James Clerk Maxwell sử dụng năm 1865. Năm 1856, Wilhelm Eduard Weber và Rudolf Kohlrausch đã sử dụng "c" cho một hằng số khác mà sau này được chỉ ra nó bằng lần tốc độ ánh sáng trong chân không. Năm 1894, Paul Drude định nghĩa lại "c" theo cách sử dụng hiện đại. Einstein ban đầu cũng sử dụng "V" trong bài báo về thuyết tương đối hẹp năm 1905, nhưng vào năm 1907 ông chuyển sang sử dụng "c", và bắt đầu từ đó nó trở thành một ký hiệu tiêu chuẩn cho tốc độ ánh sáng. Đôi khi "c" được sử dụng cho tốc độ sóng trong môi trường vật liệu bất kỳ, và "c"0 là ký hiệu cho tốc độ ánh sáng trong chân không. Ký hiệu với chỉ số dưới, như được sử dụng trong các văn bản chính của hệ SI, có cùng dạng như đối với các hằng số liên hệ với nó: bao gồm "μ"0 cho hằng số từ môi hoặc hằng số từ, "ε"0 cho hằng số điện môi hoặc hằng số điện, và "Z"0 cho trở kháng chân không. Bài viết này sử dụng "c" cho cả tốc độ ánh sáng trong chân không. Trong hệ SI, mét được định nghĩa là khoảng cách ánh sáng lan truyền trong chân không với thời gian bằng 1/ của một giây. Định nghĩa này cố định giá trị của tốc độ ánh sáng trong chân không chính xác bằng . Là một hằng số vật lý có thứ nguyên, giá trị số của "c" có thể khác nhau trong một vài hệ đơn vị. Trong những ngành của vật lý mà "c" xuất hiện, như trong thuyết tương đối, các nhà vật lý thường sử dụng hệ đo đơn vị tự nhiên hoặc hệ đơn vị hình học mà . Và khi sử dụng những hệ đo này, "c" không còn xuất hiện trong các phương trình vật lý nữa do giá trị của nó bằng 1 không ảnh hưởng đến kết quả các đại lượng khác. Vai trò cơ sở trong vật lý. Tốc độ ánh sáng lan truyền trong chân không độc lập với cả chuyển động của nguồn sáng cũng như đối với hệ quy chiếu quán tính của người quan sát. Tính bất biến của tốc độ ánh sáng do Einstein nêu thành tiên đề trong bài báo về thuyết tương đối hẹp năm 1905, sau khi thôi thúc bởi lý thuyết điện từ cổ điển Maxwell và không có chứng cứ thực nghiệm nào cho ête siêu sáng tồn tại; và sự bất biến này đã được nhiều thí nghiệm xác nhận. Các nhà vật lý hiện nay chỉ có thể xác nhận bằng thực nghiệm về tốc độ của ánh sáng theo phương pháp trên hai đường truyền (two-way speed of light) (ví dụ, từ nguồn đến gương phản xạ và quay trở lại) là độc lập với hệ quy chiếu, bởi vì không thể đo được tốc độ ánh sáng trên một đường truyền (one-way speed of light) (ví dụ, từ một nguồn ở rất xa) mà bỏ qua một số quy ước về tính đồng bộ hóa giữa đồng hồ ở nguồn phát và đồng hồ ở máy thu. Tuy nhiên, bằng cách chấp nhận phương pháp đồng bộ hóa Einstein cho các đồng hồ, tốc độ ánh sáng truyền trong thí nghiệm một đường được các nhà vật lý đặt bằng tốc độ ánh sáng truyền trong thí nghiệm hai đường. Thuyết tương đối hẹp khám phá ra những hệ quả kỳ lạ dựa trên tiên đề bất biến của "c" và tiên đề về các định luật vật lý là như nhau trong mọi hệ quy chiếu quán tính. Một hệ quả "c" là tốc độ của mọi hạt phi khối lượng và sóng bao gồm ánh sáng chuyển động trong chân không. Thuyết tương đối hẹp có nhiều hệ quả phản trực giác và những kết quả này đã được xác nhận bằng thực nghiệm. Bao gồm nguyên lý tương đương khối lượng - năng lượng , sự co độ dài (các vật chuyển động nhìn ngắn đi), và sự giãn thời gian (các đồng hồ chuyển động chạy chậm hơn). Thừa số "γ" đặc trưng cho độ dài co bao nhiêu và thời gian giãn bao nhiêu gọi là hệ số Lorentz và cho bởi công thức , trong đó "v" vận tốc của vật. Sự khác nhau giữa "γ" và 1 bỏ qua được khi tốc độ của vật nhỏ hơn "c" rất nhiều, như các vận tốc trong đời sống hàng ngày—hay trong thuyết tương đối hẹp nó được xấp xỉ thành nguyên lý tương đối Galileo— nhưng hệ số sẽ tăng lên khi tốc độ tương đối tính và tiến tới giá trị vô hạn khi "v" tiếp cận đến "c". Những kết quả này trong thuyết tương đối hẹp có thể tổng hợp lại khi coi không gian và thời gian thành một cấu trúc thống nhất gọi là không thời gian (với "c" liên hệ giữa các đơn vị không gian và thời gian), và đòi hỏi các lý thuyết vật lý phải thỏa mãn một đối xứng đặc biệt gọi là bất biến Lorentz, mà trong các công thức của những lý thuyết này chứa hằng số "c". Bất biến Lorentz là một giả thuyết phổ quát trong các lý thuyết vật lý hiện đại, như điện động lực học lượng tử, sắc động lực học lượng tử, Mô hình chuẩn của vật lý hạt, thuyết tương đối tổng quát cũng như mô hình Vụ Nổ Lớn. Như thế tham số "c" là phổ biến trong vật lý hiện đại, xuất hiện trong nhiều phương trình không liên quan đến ánh sáng. Ví dụ, trong thuyết tương đối rộng tiên đoán "c" cũng là vận tốc lan truyền của trường hấp dẫn hay sóng hấp dẫn. Trong những hệ quy chiếu phi quán tính (không thời gian cong trong thuyết tương đối tổng quát và trong hệ quy chiếu chuyển động gia tốc), tốc độ "cục bộ" của ánh sáng là hằng số và bằng "c", nhưng tốc độ ánh sáng dọc một quỹ đạo có độ dài hữu hạn có thể khác "c", phụ thuộc vào khoảng cách và thời gian được định nghĩa như thế nào. Nói chung các nhà vật lý thường giả sử những hằng số cơ bản như "c" có cùng một giá trị trong nhiều vùng không thời gian, có nghĩa là chúng không phụ thuộc vào vị trí cũng như không biến đổi theo thời gian. Tuy nhiên, có một số tác giả đã đề xuất lý thuyết rằng tốc độ ánh sáng có thể thay đổi theo thời gian. Chưa có bằng chứng thực nghiệm được chấp thuận rộng rãi cho sự biến đổi của các hằng số, nhưng nó vẫn là một chủ đề được tiếp tục nghiên cứu. Các nhà vật lý cũng đồng thuận giả sử tốc độ của ánh sáng là đẳng hướng, có nghĩa nó có cùng một giá trị trong những hướng mà nó được đo. Quan sát bức xạ từ các mức năng lượng hạt nhân như là hàm của hạt nhân phát xạ theo hướng riêng trong từ trường (như thí nghiệm Hughes–Drever), và các máy cộng hưởng quang học (như bộ cộng hưởng trong các thí nghiệm kiểu thí nghiệm Michelson-Morley) đã đặt ra giới hạn chặt cho khả năng phi đẳng hướng trên thí nghiệm hai đường truyền. Giới hạn trên của tốc độ. Theo thuyết tương đối hẹp, năng lượng của một vật với có khối lượng nghỉ "m" và vận tốc "v" tính theo công thức "E" = , với "γ" là hệ số Lorentz xác định ở trên. Khi "v" bằng 0, "γ" bằng 1, và xuất hiện công thức nổi tiếng cho sự tương đương khối lượng - năng lượng. Thừa số "γ" tiếp cận giá trị vô hạn khi "v" gần bằng "c", và do đó cần một năng lượng vô hạn để gia tốc một vật có khối lượng đến vận tốc của ánh sáng. Tốc độ ánh sáng là giới hạn trên cho tốc độ của mọi vật có khối lượng nghỉ dương. Điều này đã được xác nhận bằng thực nghiệm trong nhiều thí nghiệm về năng lượng và động lượng tương đối tính. Tổng quát hơn, thông tin hay năng lượng không thể truyền nhanh hơn ánh sáng. Một ví dụ cho hệ quả phản trực giác này trong thuyết tương đối hẹp đó là tính tương đối của sự đồng thời. Nếu khoảng không gian giữa hai sự kiện A và B lớn hơn thời gian giữa chúng nhân với tốc độ ánh sáng "c" thì có những hệ quy chiếu trong đó A xảy ra trước B, trong hệ khác thì B xảy ra trước A, và có những hệ thì chúng xảy ra đồng thời. Hệ quả là, nếu có thứ chuyển động nhanh hơn "c" trong một hệ quy chiếu quán tính, nó có thể chuyển động quay ngược thời gian đối với một hệ quy chiếu quán tính khác, và tính nhân quả sẽ bị vi phạm. Trong hệ quy chiếu này, một "hiệu ứng" có thể được quan sát trước cả "nguyên nhân" của nó. Sự vi phạm nguyên lý nhân quả chưa bao giờ được quan sát, và có thể dẫn đến những nghịch lý như phản điện thoại tachyon (tachyonic antitelephone). Quan sát và thí nghiệm về chuyển động nhanh hơn ánh sáng. Có những tình huống dường như vật chất, năng lượng, hoặc thông tin truyền với vận tốc nhanh hơn tốc độ ánh sáng "c", nhưng thực chất không phải vậy. Ví dụ, như được thảo luận trong phần sự lan truyền của ánh sáng trong môi trường ở dưới, nhiều vận tốc sóng có thể vượt "c". Cụ thể, vận tốc pha của tia X truyền qua hầu hết thủy tinh có thể vượt "c", nhưng sóng này không chứa một thông tin vật lý gì. Nếu một chùm laser quét nhanh qua một vật ở xa, điểm sáng có thể chạy nhanh hơn "c", mặc dù chuyển động ban đầu của điểm bị trễ bởi vì thời gian ánh sáng truyền đến vật ở xa này luôn bằng "c" (trong chân không). Tuy nhiên, chỉ có thực thể vật lý đang chuyển động là tia laser và nó phát ra ánh sáng truyền với vận tốc "c" từ laser đến nhiều vị trí của điểm. Tương tự, bóng của hình chiếu lên một thể ở xa có thể nghĩ là chuyển động nhanh hơn ánh sáng, sau một thời gian trễ. Trong tất cả các trường hợp bao gồm vật chất, năng lượng, hoặc thông tin không có cái nào chuyển động nhanh hơn ánh sáng. Tốc độ thay đổi khoảng cách giữa hai vật trong cùng một hệ quy chiếu mà chúng đang chuyển động có giá trị có thể vượt "c". Tuy nhiên, tốc độ này không thể hiện tốc độ của từng vật đo bởi một hệ quy chiếu quán tính. Những hiệu ứng lượng tử mà thông tin hiện lên dường như truyền tức thì nhanh hơn "c", như nghịch lý EPR. Trong thí nghiệm tưởng tượng này bao gồm trạng thái lượng tử của hai hạt bị vướng víu với nhau. Cho tận đến khi các hạt được quan sát (hay đo), cả hai tồn tại trong trạng thái chồng chập của hai trạng thái lượng tử. Nếu hai hạt này nằm cách xa nhau và khi một trạng thái lượng tử của một hạt được quan sát, trạng thái lượng tử của hạt kia ngay lập tức được xác định (hay là thông tin có thể truyền từ hạt này sang hạt kia nhanh hơn tốc độ ánh sáng). Tuy nhiên, chúng ta không thể kiểm soát (hay biết trước được) hạt thứ nhất có trạng thái lượng tử nào trước khi đo nó, và do vậy thông tin không thể được truyền đi theo nghĩa thông thường này. Một hiệu ứng lượng tử khác tiên đoán sự xuất hiện nhanh hơn tốc độ ánh sáng gọi là hiệu ứng Hartman; dưới những điều kiện xác định thời gian cần thiết cho một hạt ảo thực hiện chui hầm đi qua một hàng rào là hằng số, không kể chiều dày của hàng rào là bao nhiêu. Điều này dẫn tới một hạt ảo có thể băng qua một khoảng cách lớn với tốc độ nhanh hơn ánh sáng. Tuy nhiên, không một thông tin nào có thể gửi nhờ sử dụng hiệu ứng này. Có những chuyển động siêu sáng khi quan sát các thiên thể trên bầu trời, như các tia tương đối tính phát ra từ các thiên hà vô tuyến hoặc từ quasar. Tuy nhiên, những tia này không chuyển động với vận tốc vượt tốc độ ánh sáng: đây chỉ là hiệu ứng hình chiếu của chuyển động siêu sáng do một vật (hạt) chuyển động với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng và tới Trái Đất hợp với góc nhỏ của hướng nhìn: do ánh sáng phát ra lúc chùm tia (hạt) ở vị trí xa hơn sẽ mất thời gian lâu hơn để đến được Trái Đất, khoảng thời gian giữa hai lần quan sát kế tiếp sẽ tương ứng với một khoảng thời gian lớn hơn giữa các khoảnh khắc tia sáng phát ra. Trong mô hình về vũ trụ đang giãn nở, thiên hà càng ở xa thì có vận tốc lùi ra xa càng lớn. Sự lùi xa này không phải là do chuyển động của thiên hà trong không gian, mà thực chất là sự giãn nở của chính không gian. Ví dụ, thiên hà xa Trái Đất chuyển động lùi ra xa với vận tốc tỷ lệ với khoảng cách của nó. Vượt ra ngoài biên giới gọi là mặt cầu Hubble, vận tốc của các thiên hà sẽ vượt tốc độ ánh sáng khi khoảng cách của chúng đến Trái Đất rất lớn. Tháng 9 năm 2011, các nhà vật lý làm việc tại thí nghiệm OPERA công bố kết quả cho thấy chùm hạt neutrino chuyển động từ CERN (ở Genève, Thụy Sĩ) đến phòng thí nghiệm Gran Sasso (LNGS, Italia) với vận tốc nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Kết quả của họ, được một số người coi là "dị thường neutrino chuyển động siêu sáng", sau đó được chính phát ngôn viên thí nghiệm OPERA xác nhận là đã có những sai số trong thí nghiệm, với một số sợi quang học bị hỏng làm ảnh hưởng đến kết quả đo. Sự lan truyền của ánh sáng. Vật lý cổ điển miêu tả ánh sáng là một loại bức xạ điện từ. Những tính chất cổ điển của trường điện từ được miêu tả bởi phương trình Maxwell, tiên đoán tốc độ truyền sóng điện từ "c" (như ánh sáng) trong chân không có liên hệ với hằng số điện môi "ε"0 và hằng số từ môi "μ"0 bằng phương trình . Trong cơ học lượng tử, trường điện từ được miêu tả bằng lý thuyết điện động lực học lượng tử (QED). Theo lý thuyết này, ánh sáng được miêu tả là trạng thái kích thích cơ bản (hay lượng tử) của trường điện từ, gọi là photon. Photon là những hạt phi khối lượng và do vậy theo thuyết tương đối hẹp, chúng chuyển động với vận tốc ánh sáng trong chân không. Một số lý thuyết mở rộng QED trong đó photon có khối lượng cũng đã được xem xét. Trong lý thuyết này, vận tốc của nó phụ thuộc vào tần số của nó, và bất biến tốc độ "c" của thuyết tương đối hẹp có thể là giới hạn trên của tốc độ ánh sáng trong chân không. Chưa một hiệu ứng biến đổi của tốc độ ánh sáng phụ thuộc tần số được xác nhận trong những thí nghiệm phức tạp, đặt ra giới hạn chặt chẽ cho khối lượng của photon. Giới hạn này phụ thuộc vào từng mô hình lý thuyết: nếu một photon có khối lượng như miêu tả trong thuyết của Proca, giới hạn trên về thực nghiệm cho khối lượng của photon là 10−57 gram; còn nếu khối lượng của photon có được từ cơ chế Higgs, giới hạn khối lượng của nó nhỏ hơn,   (gần bằng 2 × 10−47 g). Một lý do khác cho tốc độ ánh sáng thay đổi theo tần số có thể là sự mất hiệu lực của thuyết tương đối hẹp khi áp dụng cho những hệ vật lý vi mô, như được tiên đoán bởi một số lý thuyết về hấp dẫn lượng tử. Năm 2009, khi quan sát phổ từ chớp tia gamma GRB 090510, các nhà thiên văn đã không tìm thấy một sự khác biệt nào giữa tốc độ của các photon có năng lượng khác nhau, và xác nhận bất biến Lorentz đúng ít nhất đến cấp độ dài Planck ("l"P =  ≈ ) chia cho 1,2. Trong môi trường. Trong môi trường, ánh sáng thường không lan truyền với tốc độ bằng "c"; hơn nữa những ánh sáng có bước sóng khác nhau sẽ lan truyền với tốc độ khác nhau. Đối với sóng phẳng (sóng lấp đầy trong không gian, chỉ với một tần số), vận tốc dịch chuyển của điểm có pha dao động không đổi trong không gian theo hướng cho trước gọi là vận tốc pha "v"p. Một tín hiệu vật lý thực với độ mở hữu hạn (xung ánh sáng) có các phần truyền với vận tốc khác nhau. Phần lớn nhất của xung (biên độ sóng) lan truyền với vận tốc nhóm "v"g, và phần sớm nhất lan truyền với vận tốc đầu sóng  "v"f. Vận tốc pha có vai trò quan trọng trong cách xác định sóng ánh sáng lan truyền qua vật liệu hoặc từ môi trường này sang môi trường khác. Nó thường được ký hiệu bằng "chiết suất". Chiết suất của vật liệu được định nghĩa bằng tỷ số giữa "c" với vận tốc pha "v"p trong vật liệu: chỉ số có giá trị lớn hơn tương ứng với vận tốc ánh sáng trong vật liệu đó nhỏ hơn. Chiết suất của vật liệu hay môi trường phụ thuộc vào tần số ánh sáng, cường độ, sự phân cực, hoặc hướng truyền sóng; mặc dù trong nhiều trường hợp, tốc độ ánh sáng có thể coi như là một hằng số phụ thuộc vật liệu hay môi trường mà nó truyền qua. Chiết suất của không khí có giá trị xấp xỉ 1,0003. Môi trường đặc hơn, như nước, thủy tinh, và kim cương, có chiết suất tương ứng 1,3; 1,5 và 2,4 đối với ánh sáng khả kiến. Trong vật liệu khác như ngưng tụ Bose–Einstein gần độ không tuyệt đối, tốc độ hữu hiệu của ánh sáng chỉ là vài mét trên giây. Tuy nhiên, điều này là do ánh sáng (photon) bị trễ do hấp thụ và tái phát xạ bởi nguyên tử, và chúng thể hiện ra có vận tốc nhỏ hơn c trong môi trường. Như vậy, ánh sáng "bị chạy chậm" trong lòng vật chất, và hai đội vật lý độc lập tuyên bố họ đã làm cho ánh sáng trở lên hoàn toàn "đứng yên" khi truyền qua ngưng tụ Bose–Einstein của nguyên tố rubidi, một đội tại Đại học Harvard và tại Viện Khoa học Rowland ở Cambridge, Massachusetts, và đội kia ở Trung tâm thiên văn vật lý Harvard–Smithsonian, cũng ở Cambridge. Tuy nhiên, cách mô tả phổ biến về ánh sáng bị "đứng yên" trong những thí nghiệm này coi ánh sáng chỉ được lưu trữ trong trạng thái kích thích của nguyên tử trong ngưng tụ Bose-Einstein, và sau đó nguyên tử lại tái phát ra photon ở thời điểm bất kỳ sau đó, khi bị kích thích bởi xung laser. Trong thời gian mà các nhà vật lý gọi nó "bị đứng yên", nó không còn là ánh sáng nữa. Tính chất vi mô này nói chung đúng trong mọi môi trường trong suốt làm chậm ánh sáng khi nó truyền qua. Trong vật liệu trong suốt, hệ số chiết suất nói chung lớn hơn 1, có nghĩa là vận tốc pha của sóng phải nhỏ hơn "c". Trong những vật liệu khác, không thể có chiết suất nhỏ hơn 1 đối với một số tần số; nhưng trong một số vật liệu nhân tạo thậm chí có chiết suất âm. Nguyên lý nhân quả không hề bị vi phạm hàm ý rằng các phần thực và phần ảo của hằng số điện môi đối với vật liệu bất kỳ, tương ứng với chiết suất và hệ số giảm yếu (attenuation coefficient), được diễn tả trong liên hệ Kramers–Kronig. Trong phạm vi thực hành, điều này có nghĩa là trong những vật liệu có chiết suất nhỏ hơn 1, sự hấp thụ sóng diễn ra rất nhanh khiến cho không tín hiệu nào có thể gửi nhanh hơn ánh sáng. Một xung với vận tốc nhóm và vận tốc pha khác nhau (xuất hiện nếu vận tốc pha không như nhau đối với mọi tần số của xung) thì sẽ triệt tiêu dần theo thời gian, một quá trình gọi là tán sắc quang học. Có những vật liệu có giá trị vận tốc nhóm cực thấp (hoặc thậm chí bằng 0) đối với sóng ánh sáng truyền qua, hiện tượng gọi là ánh sáng chậm (slow light), và đã được xác nhận qua nhiều thí nghiệm. Ngược lại, các nhà vật lý cũng chỉ ra có những vật liệu cho phép vận tốc nhóm của sóng vượt "c" trong các thí nghiệm. Nhưng vận tốc nhóm không thể có giá trị vô hạn hoặc âm, tương ứng với hệ quả xung sẽ lan truyền tức thời hoặc đi ngược thời gian. Tuy nhiên, không một trường hợp nào ở trên cho phép thông tin vật lý truyền nhanh hơn tốc độ ánh sáng "c". Các nhà vật lý cũng chỉ ra chúng ta không thể truyền thông tin bằng một xung ánh sáng có vận tốc nhanh hơn tốc độ của điểm dẫn đầu xung (vận tốc đầu sóng-front velocity). Người ta cũng chỉ ra rằng (dưới những giả sử xác định) vận tốc đầu sóng luôn luôn bằng "c". Một hạt có khối lượng đi qua môi trường có thể có vận tốc lớn hơn vận tốc pha của xung ánh sáng trong môi trường đó (và vẫn có vận tốc nhỏ hơn "c"). Khi một hạt điện tích đi xuyên qua môi trường vật liệu lưỡng cực điện, thì hạt đó sẽ phát ra một dạng sóng xung kích trong miền sóng điện từ, gọi là bức xạ Cherenkov. Ảnh hưởng của tốc độ hữu hạn trong thực hành. Tốc độ ánh sáng có liên quan đến khả năng truyền tin: Thời gian trễ trọn vòng và hành trình trên một tuyến (one-way) lớn hơn 0. Độ trễ này áp dụng cho những khoảng cách nhỏ đến thang khoảng cách thiên văn. Mặt khác, một số kĩ thuật phụ thuộc vào tốc độ hữu hạn của ánh sáng, ví dụ trong đo lường khoảng cách. Khoảng cách nhỏ. Trong những siêu máy tính, tốc độ ánh sáng đặt ra giới hạn dữ liệu có thể gửi nhanh bao nhiêu giữa các bộ vi xử lý. Nếu một vi xử lý hoạt động tại mức 1 gigahertz, thì tín hiệu điện chỉ có thể truyền với khoảng cách cực đại trong một chu kỳ. Do đó các vi xử lý phải được đặt ở gần nhau nhằm cực tiểu hóa độ trễ truyền tín hiệu; nhưng khi đặt gần quá lại làm cho vấn đề tản nhiệt ở các bộ vi xử lý trở lên khó khăn. Nếu tần số các đồng hồ tiếp tục tăng, tốc độ ánh sáng sẽ trở thành yếu tố giới hạn trong vấn đề thiết kế kiến trúc mạch từng con chip. Khoảng cách lớn trên Trái Đất. Chu vi Trái Đất vào khoảng và "c" vào khoảng , do vậy khoảng thời gian ngắn nhất cho một mẩu tin truyền qua một nửa địa cầu vào khoảng 67 milli giây. Khi ánh sáng truyền qua sợi quang học, thì thời gian thực sẽ lớn hơn một phần vì ánh sáng truyền chậm hơn khoảng 35% tốc độ ánh sáng trong sợi quang, và phụ thuộc vào chiết suất vật liệu "n". Hơn nữa, ít khi có những tuyến cáp viễn thông thẳng tắp, và do đó độ trễ còn xuất hiện khi tín hiệu truyền qua các bộ chuyển cổng điện tử hay các bộ bù suy giảm tín hiệu. Chuyến bay không gian và thiên văn học. Quá trình truyền thông tin liên lạc giữa Trái Đất và các tàu không gian không phải là tức thời. Có một độ trễ từ nguồn phát đến bộ thu. Độ trễ này ảnh hưởng quan trọng đến liên lạc giữa Trung tâm điều khiển phi vụ và Apollo 8 khi nó là con tàu đầu tiên bay quanh Mặt Trăng: đối với mỗi câu hỏi, người chỉ huy ở mặt đất phải đợi ít nhất 3 giây để nhận lại được câu trả lời từ phi hành gia. Độ trễ thông tin giữa Trái Đất và Sao Hỏa có thể thay đổi từ 5 đến 20 phút phụ thuộc vào vị trí tương đối giữa hai hành tinh. Hệ quả là nếu có một robot hoạt động trên bề mặt Sao Hỏa gặp phải một chướng ngại vật, người chỉ huy sẽ không biết điều này ít nhất 5 phút sau, hoặc thậm chí 20 phút sau hoặc lâu hơn; và sẽ cần thêm ít nhất 5 tới 20 phút để truyền lại mệnh lệnh từ Trái Đất đến Sao Hỏa. Do đó các kĩ sư đã lập trình cho robot tự hành và tự phát hiện ra chướng ngại vật trên đường đi... Cơ quan NASA phải đợi ít nhất vài giờ để nhận được thông tin từ các tàu thăm dò Sao Mộc và Sao Thổ, và nếu họ cần hiệu chỉnh quỹ đạo con tàu, tín hiệu nó nhận được cũng phải mất một khoảng thời gian tương ứng, và vấn đề này tạo ra rủi ro cho điều khiển các con tàu trong không gian sâu thẳm. Ánh sáng và sóng điện từ nhận được từ các nguồn thiên thể ở xa phải mất một khoảng thời gian lớn mới đến được Trái Đất. Ví dụ, ánh sáng mất 12 tỷ (12) năm để từ những thiên hà xa nhất đến Trái Đất trong bức ảnh chụp Vùng Sâu Hubble. Những bức ảnh này, chụp bởi kính thiên văn không gian Hubble ghi lại hình ảnh các thiên hà từ 12 tỷ năm trước, khi Vũ trụ mới hơn 1 tỷ năm tuổi. Nhờ vào sự thực các vật thể càng ở xa thì hiện lên càng trẻ, do sự hữu hạn của tốc độ ánh sáng, cho phép các nhà thiên văn học nghiên cứu tiến hóa sao, thiên hà, và chính vũ trụ. Khoảng cách thiên văn học thường được biểu diễn bằng năm ánh sáng, như trong các ấn bản đại chúng hay phương tiện truyền thông. Một năm ánh sáng là quãng đường ánh sáng đi được trong một năm, bằng khoảng 9461 tỷ kilômét, hay 0,3066 parsec. Khi làm tròn, một năm ánh sáng bằng 10 nghìn tỷ kilômét. Proxima Centauri, sao lùn đỏ nằm gần Trái Đất nhất sau Mặt Trời, cách xa khoảng 4,2 năm ánh sáng. Đo khoảng cách. Sử dụng hệ thống radar người ta có thể đo khoảng cách đến vật mục tiêu bằng tính thời gian xung vô tuyến trở lại ăng ten radar sau khi phản xạ từ vật cần đo: khoảng cách đến mục tiêu bằng một nửa thời gian đo được nhân với tốc độ ánh sáng. Máy thu của hệ thống định vị toàn cầu (GPS) đo khoảng cách từ nó đến các vệ tinh GPS dựa trên thời gian tín hiệu vô tuyến từ nó đến được từng vệ tinh, và từ những khoảng cách này bộ thu sẽ tự động tính ra tọa độ địa lý nó đang đặt tại đây. Bởi vì tốc độ ánh sáng bằng khoảng 300.000 kilômét một giây, đo lường về thời gian và độ trễ giữa vệ tinh và máy thu cần phải rất chính xác. Thí nghiệm định tầm laser Mặt Trăng, thiên văn vô tuyến và Mạng lưới không gian sâu thẳm (Deep Space Network) có thể dùng để xác định khoảng cách tương ứng đến Mặt Trăng, hành tinh và các tàu không gian, bằng cách đo thời gian truyền tín hiệu trọn vòng. Đo tốc độ ánh sáng. Có một số cách xác định giá trị của "c". Một là đo tốc độ thực của ánh sáng lan truyền, dựa trên nhiều thiên thể thiên văn học cũng như trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, cũng có thể xác định gián tiếp giá trị của "c" từ những định luật vật lý mà hằng số này xuất hiện, ví dụ, bằng cách đo hằng số điện môi "ε"0 và hằng số từ môi "μ"0 và sử dụng liên hệ giữa chúng nhằm xác định "c". Về mặt lịch sử, những kết quả chính xác nhất nhận được từ phép đo riêng rẽ tần số và bước sóng của chùm sáng đơn sắc, và tích của chúng cho giá trị "c". Năm 1983 đơn vị mét được định nghĩa lại là "độ dài ánh sáng truyền qua chân không trong khoảng thời gian 1⁄299.792.458 của một giây", và định nghĩa tốc độ ánh sáng được giữ giá trị cố định chính xác , như miêu tả ở dưới. Hệ quả là những phép đo chính xác về tốc độ ánh sáng thực chất mang lại kết quả đo chính xác hơn là giá trị "c". Trong thiên văn học. Không gian vũ trụ là một phòng thí nghiệm tự nhiên cho phép đo tốc độ ánh sáng bởi vì nó là một không gian rộng lớn và là chân không gần như hoàn hảo. Điển hình như các nhà thiên văn đo thời gian cần thiết cho ánh sáng truyền qua một số khoảng cách tham chiếu trong Hệ Mặt Trời, như bán kính trung bình của quỹ đạo Trái Đất. Về mặt lịch sử, một số phép đo về bán kính quỹ đạo đã cho kết quả khá chính xác, dựa trên những đơn vị độ dài cơ sở được định nghĩa trong lịch sử. Thường thường kết quả được biểu diễn bằng đơn vị thiên văn (AU) trên ngày. Một đơn vị thiên văn là khoảng cách trung bình xấp xỉ từ Trái Đất đến Mặt Trời; nó không là đơn vị cơ bản trong hệ SI. Bởi vì đơn vị AU xác định bởi khoảng cách thực tế, nó không là cơ sở cho kỹ thuật thời gian bay giống như trong hệ SI, những phép đo hiện đại về tốc độ ánh sáng theo đơn vị thiên văn trên ngày có thể so với định nghĩa về giá trị của "c" trong hệ SI. Ole Christensen Rømer là người đầu tiên dựa trên quan sát thiên văn học nhằm ước lượng tốc độ ánh sáng. Khi đo từ Trái Đất, chu kỳ quỹ đạo của các vệ tinh tự nhiên quay quanh một hành tinh ở xa đo được sẽ ngắn hơn khi khoảng cách từ Trái Đất đến hành tinh đó gần hơn và chu kỳ sẽ lớn hơn khi hành tinh ở xa Trái Đất hơn. Khoảng cách ánh sáng lan truyền từ hành tinh (hoặc mặt trăng của nó) đến Trái Đất sẽ ngắn nhất khi Trái Đất ở vị trí quỹ đạo gần với hành tinh nhất và khi Trái Đất ở vị trí quỹ đạo xa nhất so với hành tinh, khoảng cách ánh sáng phải truyền cũng là xa nhất, hiệu hai khoảng cách cực trị này bằng đường kính quỹ đạo Trái Đất quanh Mặt Trời. Quan sát sự thay đổi trong chu kỳ quỹ đạo của vệ tinh tự nhiên thực chất là hiệu thời gian ánh sáng phải lan truyền giữa khoảng cách ngắn và khoảng cách dài hơn. Rømer đã phát hiện ra hiệu ứng này đối với vệ tinh phía trong Io của Sao Mộc và ông kết luận ánh sáng mất 22 phút để đi qua đường kính của quỹ đạo Trái Đất (giá trị ngày nay đo được là hơn 16 phút). Một phương pháp khác được sử dụng đó là hiện tượng quang sai, do nhà thiên văn James Bradley khám phá ra và giải thích vào thế kỷ XVIII. Kết quả này có từ phép cộng vectơ vận tốc tia sáng phát ra từ nguồn ở xa (như ngôi sao) với vận tốc của thiết bị quan sát (hình bên phải). Một thiết bị quan sát chuyển động sẽ nhìn thấy ánh sáng phát ra từ hướng khác và vị trí của nguồn bị dịch chuyển khỏi vị trí ban đầu. Do hướng của vectơ vận tốc Trái Đất thay đổi liên tục do nó tự quay cũng như quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời, hiệu ứng này là nguyên nhân làm cho vị trí biểu kiến của các ngôi sao di chuyển tròn. Từ góc lệch lớn nhất của vị trí những ngôi sao trên bầu trời (vào khoảng 20,5 giây cung) chúng ta có thể tính được tốc độ ánh sáng theo vận tốc của Trái Đất trên quỹ đạo quanh Mặt Trời, mà độ dài một năm đã biết có thể dễ dàng tính ra thời gian cần thiết để ánh sáng truyền từ Mặt Trời đến Trái Đất. Năm 1729, Bradley sử dụng phương pháp này đề tính ra ánh sáng di chuyển nhanh hơn Trái Đất trên quỹ đạo 10.210 lần (tính toán hiện đại bằng 10.066 lần nhanh hơn) hay tương đương, ánh sáng mất 8 phút 12 giây để truyền từ Mặt Trời đến Trái Đất. Ngày nay, "thời gian ánh sáng cho đơn vị khoảng cách"—giá trị nghịch đảo của "c", biểu diễn bằng giây trên đơn vị thiên văn— đo bằng cách so sánh thời gian cho tín hiệu vô tuyến đến những tàu không gian khác nhau trong hệ Mặt Trời, mà vị trí của chúng có thể tính từ hiệu ứng hấp dẫn do ảnh hưởng của Mặt Trời và các hành tinh khác nhau. Bằng cách kết hợp những quan sát này, ta sẽ thu được giá trị phù hợp nhất cho thời gian ánh sáng trên đơn vị khoảng cách. , giá trị phù hợp nhất, được công nhận bởi Hiệp hội thiên văn quốc tế (IAU), là: Sai số trong những phép đo là 0,02 phần tỷ (2), tương đương với những sai số đo khoảng cách bằng các giao thoa kế trên mặt đất. Từ khi mét được định nghĩa là độ dài ánh sáng truyền qua chân không trong một khoảng thời gian nhất định, phép đo về độ lớn thời gian ánh sáng cho đơn vị khoảng cách cũng có thể chuyển đổi sang độ lớn của 1 AU bằng mét. Kỹ thuật thời gian bay. Một phương pháp đo tốc độ ánh sáng khác là đo thời gian cần thiết cho ánh sáng đi tới gương ở một khoảng cách đã biết và phản xạ trở lại. Nguyên lý đo này được Hippolyte Fizeau và Léon Foucault phát triển với thiết bị gọi là dụng cụ Fizeau–Foucault. Fizeau bố trí thí nghiệm bằng cách cho chùm sáng chiếu đến một gương phản xạ cách xa . Trên quãng đường từ nguồn đến gương, chùm sáng vượt qua một bánh xe có răng. Với một tốc độ quay xác định, chùm sáng vượt qua khe răng cưa trên đường tới gương và phản xạ lại vượt qua một khe răng cưa khác, nhưng nếu bánh xe hơi quay nhanh hơn hoặc chậm hơn tốc độ quay này thì chùm sáng sẽ bị cản bởi răng và không vượt qua được bánh xe. Khoảng cách đến bánh xe và gương là cho xác định trước; số răng trên bánh xe, tốc độ quay bánh xe và tốc độ ánh sáng có thể tính ra được. Phương pháp của Foucault đó là thay thế bánh xe răng cưa bằng một gương quay. Bởi vì gương quay liên tục khi có ánh sáng truyền từ nguồn đến gương phản xạ ở xa và quay ngược trở lại, ánh sáng bị phản xạ tại gương quay với góc của tia tới khác góc của tia phản xạ. Từ hiệu độ lớn góc này, vận tốc quay đã biết và khoảng cách đến gương phản xạ ở xa ông tính ra được tốc độ ánh sáng. Ngày nay bằng sử dụng dao động ký với độ phân giải nhỏ hơn một nanô giây, tốc độ ánh sáng có thể đo được trực bằng đo độ trễ thời gian của chùm sáng hay laser từ một laser hoặc đèn LED phản xạ từ gương. Phương pháp này ít chính xác hơn (với sai số cỡ 1%) các phương pháp hiện đại khác, nhưng thường được sử dụng trong các phòng thí nghiệm cho sinh viên đại học. Hằng số điện từ. Một cách gián tiếp để tính giá trị của "c" mà không liên quan đến phép đo lan truyền của sóng điện từ đó là sử dụng phương trình liên hệ "c" với hằng số điện môi "ε"0 và hằng số từ môi "μ"0 trong lý thuyết Maxwell: "c"2 = 1/("ε"0"μ"0). Hằng số điện môi đo theo điện dung của một tụ điện với kích thước hình học đã biết, trong khi hằng số từ môi có giá trị cố định chính xác bằng thông qua định nghĩa của đơn vị cường độ dòng điện Ampe. Rosa và Dorsey sử dụng phương pháp này vào năm 1907 và thu được giá trị . Sự cộng hưởng trong hốc. Một cách khác để tính tốc độ ánh sáng đó là đo độc lập riêng rẽ tần số "f" và bước sóng "λ" của một sóng điện từ trong chân không. Từ đó giá trị của "c" dễ dàng tìm được theo công thức "c" = "fλ". Một lựa chọn đó là đo tần số cộng hưởng sử dụng một bộ cộng hưởng hốc (cavity resonator). Một khi biết được kích thước của hốc cộng hưởng, chúng ta có thể sử dụng nó để đo bước sóng. Năm 1946, Louis Essen và A.C. Gordon-Smith đo được tần số cho nhiều mode chính tắc (normal mode) của sóng vi ba trong một hốc vi ba đã biết chính xác kích thước. Kích thước của nó được đo chính xác cỡ ±0,9μm sử dụng chuẩn độ của giao thoa kế. Khi bước sóng của những mode đã biết từ kích thước hình học của hốc và từ lý thuyết điện từ, kết hợp với giá trị đo tần số hai ông đã tính ra được tốc độ ánh sáng. Kết quả của Essen–Gordon-Smith là , chính xác hơn kỹ thuật của họ khi sử dụng kĩ thuật quang học. Cho đến 1950, những thí nghiệm lặp lại bởi Essen cho giá trị . Kỹ thuật này có thể được thực hiện trong gia đình bằng sử dụng một lò vi sóng với đồ ăn như kẹo dẻo hoặc bơ thực vật: nếu đĩa xoay được nhấc ra khiến cho đồ ăn không thể di chuyển được, nó sẽ bị nung nóng nhanh nhất tại bụng sóng (điểm tại đó sóng có biên độ lớn nhất), và đồ ăn bắt đầu bị tan chảy. Khoảng cách giữa hai điểm như vậy bằng một nửa bước sóng của sóng vi ba; bằng cách đo khoảng cách này và nhân bước sóng với tần số sử dụng trong lò (thường được ghi tại nhãn mặt sau của lò, giá trị điển hình là 2450 MHz), thì giá trị của "c" sẽ tính được "thường với sai số nhỏ hơn 5%". Giao thoa kế. Giao thoa kế là một dụng cụ cho phép đo được bước sóng của bức xạ điện từ và xác định được tốc độ ánh sáng. Một chùm sáng kết hợp (như laser), mà đã biết tần số ("f"), bị tách thành hai tia sau đó được kết hợp với nhau. Bằng điều chỉnh quãng đường truyền tia sáng trong khi quan sát ảnh giao thoa và cẩn thận đo quãng đường điều chỉnh, chúng ta có thể xác định được bước sóng ("λ"). Tốc độ ánh sáng khi đó bằng "c" = "λf". Trước khi có công nghệ laser, những nguồn vô tuyến kết hợp đã được sử dụng trong các phép đo giao thoa về tốc độ ánh sáng. Tuy nhiên phương pháp xác định bước sóng bằng giao thoa kế đối với sóng vô tuyến trở lên ít chính xác và bị giới hạn với bước sóng dài (~0,4 cm). Độ chính xác có thể tăng lên bằng sử dụng ánh sáng có bước sóng ngắn hơn, nhưng lúc đó lại khó khăn khi đo trực tiếp tần số ánh sáng. Một cách để vượt qua khó khăn này là bắt đầu bằng sử dụng tín hiệu có tần số thấp mà tần số này đã xác định được, sau đó sử dụng các tín hiệu với tần số tăng dần mà những tần số này có liên hệ hoặc bằng bội số lần tần số đầu tiên. Tia laser có thể dùng với tần số cố định và bước sóng của nó có thể đo được. Kĩ thuật này đã được một nhóm ở Viện tiêu chuẩn quốc gia (NBS) (Hoa Kỳ) (sau đổi tên thành Viện tiêu chuẩn và công nghệ quốc gia "National Institute of Standards and Technology" - NIST) thực hiện năm 1972 nhằm đo tốc độ ánh sáng trong chân không với sai số bằng . Lịch sử. Cho đến tận thời kỳ cận đại, người ta vẫn chưa biết liệu ánh sáng di chuyển tức thời hay với vận tốc hữu hạn. Ghi nhận đầu tiên về tranh luận này xuất hiện từ Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, Hồi giáo và châu Âu trung cổ đã tranh cãi kinh niên về vấn đề tốc độ ánh sáng cho đến khi Rømer đưa ra tính toán và quan sát đầu tiên về tốc độ ánh sáng. Thuyết tương đối hẹp của Einstein coi tiên đề về hắng số tốc độ ánh sáng trong mọi hệ quy chiếu quán tính. Từ đó đến nay các nhà khoa học đã có nhiều đo đạc kiểm chứng tốc độ ánh sáng. Lịch sử sơ khai. Nhà triết học Empedocles là người đầu tiên bàn đến vấn đề tốc độ ánh sáng là hữu hạn. Ông cho rằng ánh sáng là một thứ gì đó có chuyển động do vậy nó cần thời gian để đi một quãng đường. Aristotle lập luận ngược lại, rằng "ánh sáng là một thứ gì đó nhưng nó không di chuyển". Euclid và Ptolemy nêu ra lý thuyết về sự nhìn của mắt người, trong đó ánh sáng phát ra từ mắt và cho phép con người cảm nhận được hình ảnh. Dựa trên lý thuyết này, Heron ở Alexandria lập luận rằng tốc độ ánh sáng phải là vô hạn bởi vì những vật ở xa như các ngôi sao hiện lên dường như ngay tức thì khi mắt mở ra. Các nhà triết học Hồi giáo cổ đại ban đầu ủng hộ quan điểm của Aristote về ánh sáng không có tốc độ chuyển động. Năm 1021, Alhazen (Ibn al-Haytham) viết một cuốn sách về quang học, và ông đưa một loạt các lập luận về sự nhìn cũng như kết luận rằng ánh sáng phải phát ra từ vật truyền đến mắt người. Do đó Alhazen cho rằng ánh sáng phải di chuyển với vận tốc hữu hạn, và tốc độ ánh sáng cũng biến đổi, giảm đi trong những vật liệu đặc hơn. Ông cũng nghĩ rằng ánh sáng là một loại chất, lan truyền trên quãng đường đòi hỏi thời gian, ngay cả khi chúng ta không cảm nhận được. Cũng ở thế kỷ XI, Abū Rayhān al-Bīrūnī đồng ý với thuyết tốc độ ánh sáng là hữu hạn, và ông nhận ra ánh sáng phải có vận tốc lớn hơn vận tốc âm thanh. Trong thế kỷ XIII, Roger Bacon cho rằng ánh sáng trong không khí không có tốc độ vô hạn, khi ông sử dụng những lập luận triết học của Alhazen và Aristotle. Trong thập niên 1270, Witelo xem xét khả năng ánh sáng truyền với tốc độ lớn vô hạn trong chân không, nhưng có tốc độ chậm dần trong những môi trường khác. Đầu thế kỷ XVII, nhà thiên văn học Johannes Kepler tin rằng tốc độ ánh sáng là vô hạn do ông nghĩ trong chân không không có thứ gì cản trở nó. René Descartes lập luận nếu tốc độ ánh sáng là hữu hạn, thì Mặt Trời, Trái Đất, và Mặt Trăng có thể nhận ra không còn sắp hàng trong quá trình nhật thực. Do những sự lệch hàng này không quan sát được, Descartes kết luận tốc độ ánh sáng là vô hạn. Descartes từng nói nếu tốc độ ánh sáng được xác nhận là hữu hạn, toàn bộ tư tưởng triết học của ông sẽ sụp đổ. Những nỗ lực đo đầu tiên. Năm 1629, Isaac Beeckman nêu ra một thí nghiệm trong đó một người quan sát tia sáng phát ra từ nòng pháo phản xạ lại từ một cái gương cách xa một dặm (1,6 km) nhưng không nhận ra sự chậm trễ nào. Năm 1638, Galileo Galilei đề xuất một thí nghiệm mà có lẽ đã được yêu cầu thực hiện từ những năm trước đó, để đo tốc độ của ánh sáng bằng quan sát độ trễ khi mở và đóng khe chắn sáng từ một khoảng cách xa. Ông đã không phân biệt được ánh sáng truyền đi tức thì hay không, nhưng kết luận rằng, tốc độ ánh sáng nếu hữu hạn thì nó phải cực nhanh. Thí nghiệm của Galileo thực hiện ở Accademia del Cimento tại Florence, Italia năm 1667 với đèn dầu nằm cách xa một dặm và ông không nhận ra độ trễ nào. Độ trễ thực của thí nghiệm vào khoảng 11 micro giây và không thể nhận ra bằng mắt thường. Ước lượng giá trị tốc độ ánh sáng lần đầu tiên do Rømer tính ra vào năm 1676. Bằng quan sát chu kỳ của vệ tinh vòng trong Io của Sao Mộc ông thấy chu kỳ của nó nhỏ hơn khi Trái Đất ở gần Sao Mộc so với khi Trái Đất lùi ra Sao Mộc, và ông kết luận rằng ánh sáng có tốc độ hữu hạn, và tính ra ánh sáng phải mất 22 phút để vượt qua đường kính quỹ đạo của Trái Đất. Nhà thiên văn Christiaan Huygens kết hợp phương pháp này và phương pháp tính quỹ đạo Trái Đất để tìm ra tốc độ ánh sáng bằng , thấp hơn 26% so với giá trị thực. Trong cuốn sách in năm 1704, "Opticks", nhà bác học Isaac Newton có viết về các tính toán của Rømer cho tốc độ hữu hạn của ánh sáng và tự ông tìm ra được thời gian cho ánh sáng đi từ Mặt Trời đến Trái Đất mất khoảng "7 hoặc 8 phút" (giá trị hiện đại là 8 phút 19 giây). Newton cũng đặt thêm nghi vấn là liệu quan sát hiện tượng che khuất của Rømer có liên quan đến màu sắc; và khi biết rằng tính toán của ông ta không liên quan đến màu sắc, Newton kết luận là tốc độ ánh sáng với màu khác nhau có cùng một giá trị. Năm 1729, James Bradley khám phá ra hiện tượng quang sai. Từ hiệu ứng này ông xác định được ánh sáng phải đi nhanh hơn 10.210 lần so với vận tốc của Trái Đất trên quỹ đạo (giá trị hiện đại bằng 10.066) hay tương đương, ánh sáng mất 8 phút 12 giây để truyền từ Mặt Trời đến Trái Đất. Liên hệ với thuyết điện từ. Trong thế kỷ XIX, Hippolyte Fizeau nghĩ ra một phương pháp nhằm xác định tốc độ ánh sáng dựa trên phép đo thời gian bay trên mặt đất và công bố giá trị . Phương pháp của ông được Léon Foucault cải tiến và thu được vào năm 1862. Trong năm 1856, Wilhelm Eduard Weber và Rudolf Kohlrausch đã đo tỉ số của đơn vị điện môi và đơn vị từ môi, 1/√"ε"0"μ"0, bằng sử dụng chai Leyden, và họ thấy giá trị số này gần bằng với giá trị tốc độ ánh sáng do Fizeau công bố. Những năm sau Gustav Kirchhoff tính toán tín hiệu điện truyền qua một dây lý tưởng không có điện trở và nhận thấy nó truyền với tốc độ ánh sáng. Đầu những năm 1860, Maxwell chứng minh rằng theo lý thuyết điện từ mà ông đang nghiên cứu, sóng điện từ lan truyền trong chân không với vận tốc bằng với giá trị mà Weber/Kohrausch đã tìm ra ở trên, và chú ý tới giá trị xấp xỉ của nó với tốc độ ánh sáng mà Fizeau đã đo được, ông đề xuất ra là thực chất ánh sáng phải là một sóng điện từ. "Ête siêu sáng". Trong thế kỷ XIX các nhà khoa học đã từng nghĩ rằng chân không bị choán đầy bởi một môi trường nền gọi là ête siêu sáng mà ánh sáng truyền qua. Một số nhà vật lý nghĩ rằng ête này có vai trò như một hệ quy chiếu ưu tiên cho ánh sáng truyền qua và vì vậy có thể đo được chuyển động của Trái Đất so với môi trường nền này, bằng cách đo tính đẳng hướng của tốc độ ánh sáng. Khởi đầu những năm 1880 một vài người đã cố gắng thiết kế các thí nghiệm nhằm xác định được chuyển động của Trái Đất so với ête, và thí nghiệm nổi tiếng nhất đó là thí nghiệm thực hiện bởi Albert Michelson và Edward Morley vào năm 1887. Chuyển động được xác định luôn luôn nhỏ hơn sai số thực nghiệm. Một số thí nghiệm hiện đại hàm ý giới hạn trên của chuyển động này - trong phương pháp hai đường truyền ánh sáng (two-way) về tính đẳng hướng của tốc độ ánh sáng (tốc độ có giá trị như nhau trong mọi hướng) - phải nhỏ hơn 6 nanô mét trên giây. Hendrik Lorentz dựa trên kết quả thí nghiệm của Michelson đề xuất ra cách giải thích đó là chuyển động của dụng cụ thí nghiệm trong môi trường ête làm cho dụng cụ bị co độ dài dọc theo hướng chuyển động, và ông còn giả sử xa hơn, đó là tốc độ thời gian trôi ("thời gian cục bộ") biến đổi đối với những hệ chuyển động tuân theo công thức mà ông tìm ra, gọi là phép biến đổi Lorentz. Dựa trên lý thuyết ête của Lorentz, Henri Poincaré (1900) chứng minh rằng thời gian cục bộ (đối với số hạng bậc nhất v/c) ám chỉ đo bởi đồng hồ chuyển động trong ête, và chúng được đồng bộ bởi tính hằng số của tốc độ ánh sáng. Năm 1904, ông đoán rằng tốc độ ánh sáng có thể giới hạn vận tốc của những hệ động lực, và mang lại những giả thuyết trong lý thuyết Lorentz được xác nhận. Năm 1905, Poincaré đưa lý thuyết ête của Lorentz thành lý thuyết phù hợp hoàn toàn với nguyên lý tương đối. Thuyết tương đối hẹp. Năm 1905 Einstein giả thuyết ngay từ đầu rằng tốc độ ánh sáng trong chân không, đo bởi quan sát viên chuyền động không gia tốc, là độc lập với chuyển động của nguồn sáng hay quan sát viên. Sử dụng tiên đề này và nguyên lý tương đối như một cơ sở ông đã thiết lập lên thuyết tương đối hẹp, trong đó tốc độ ánh sáng trong chân không "c" được coi là một hằng số cơ bản, và cũng xuất hiện trong những phương trình không có sự tham gia của ánh sáng. Lý thuyết này làm cho khái niệm về môi trường ête tĩnh tại (trong lý thuyết Lorentz và phát triển bởi Poincaré) không còn giá trị và làm cách mạng hóa sự hiểu biết của các nhà khoa học về không gian và thời gian. Tăng độ chính xác của "c" và định nghĩa lại mét. Trong nửa cuối thế kỷ XX sự tiến triển của vật lý học và công nghệ đã giúp cho giá trị tốc độ ánh sáng ngày càng trở lên chính xác hơn, đầu tiên là kỹ thuật đo bằng hốc cộng hưởng và sau đó bằng kỹ thuật giao thoa kế laser. Năm 1972, dựa trên phương pháp sau và việc định nghĩa lại đơn vị đo độ dài mét từ năm 1960 theo vạch phổ của nguyên tử krypton-86, một nhóm các nhà vật lý ở Viện tiêu chuẩn và công nghệ quốc gia NIST ở Boulder, Colorado xác định được tốc độ ánh sáng trong chân không "c" = . Giá trị này có sai số nhỏ hơn 100 lần sai số của những giá trị trước đó. Sai số trong phép đo của họ chủ yếu xuất hiện trong độ bất định của định nghĩa đơn vị đo độ dài mét. Từ những thí nghiệm tương tự tìm được giá trị chính xác cao cho "c", hội nghị Conférence Générale des Poids et Mesures (CGPM) lần thứ 15 năm 1975 đề nghị sử dụng giá trị cho tốc độ ánh sáng. Năm 1983 hội nghị CGPM lần thứ 17 định nghĩa lại đơn vị đo mét, "Mét là độ dài của quãng đường ánh sáng truyền trong chân không với thời gian bằng 1/299 792 458 của một giây." Theo định nghĩa này, giá trị của tốc độ ánh sáng trong chân không chính xác bằng và trở thành hằng số được định nghĩa trong hệ đơn vị SI. Những thí nghiệm nâng cao độ chính xác không ảnh hưởng đến giá trị của tốc độ ánh sáng trong hệ SI, thay vì thế nó cho phép đo chính xác hơn đơn vị mét.
17
17_electron_in_nhit_lng
[ "electron", "in", "nhit", "lng", "neutron", "thuyt", "ht", "einstein", "proton", "quark" ]
[ "Trong vật lý hạt nhân, năng lượng tách là năng lượng cần thiết để loại bỏ một hạt nhân (hoặc một hạt hoặc nhiều hạt được chỉ định khác) khỏi hạt nhân nguyên tử.\nNăng lượng tách khác nhau đối với mỗi hạt nhân và các hạt được loại bỏ. Các giá trị được liệt kê có thể là \"năng lượng tách neutron\", \"năng lượng tách hai neutron\", \"năng lượng tách proton\", \"năng lượng tách deuteron\", \"năng lượng tách alpha\", v.v.\nNăng lượng tách thấp nhất trong số các hạt nhân ổn định là 1,67 MeV, để loại bỏ một neutron ra khỏi beryllium-9.\nNăng lượng có thể được thêm vào hạt nhân bằng cách chiếu vào một tia gamma năng lượng cao. Nếu năng lượng của photon đạt đến mức vượt quá năng lượng tách, sựphân hủy quang có thể xảy ra. Năng lượng vượt quá giá trị ngưỡng trở thành động năng của hạt bị đẩy ra.\nNgược lại, năng lượng liên kết hạt nhân là năng lượng cần thiết để tháo rời hoàn toàn hạt nhân, hoặc năng lượng được giải phóng khi hạt nhân được lắp ráp từ các hạt nhân. Nó là tổng của nhiều năng lượng tách, nên được cộng vào cùng một tổng số bất kể thứ tự lắp ráp hay tháo gỡ.\nVật lý và hóa học.\nNăng lượng tách electron hoặc năng lượng liên kết electron là năng lượng cần thiết để loại bỏ một electron ra khỏi nguyên tử trung tính hoặc phân tử (hoặc cation) được gọi là năng lượng ion hóa. Phản ứng dẫn đến quang hóa, quang dẫn, hiệu ứng quang điện, quang điện, v.v.\nNăng lượng phân ly liên kết là năng lượng cần thiết để phá vỡ một liên kết của phân tử hoặc một ion, thường tách một nguyên tử hoặc nhiều nguyên tử.", "Bắt giữ electron kép là một phương thức phân rã của hạt nhân nguyên tử. Đối với một đồng vị phóng xạ (\"A\", \"Z\") có số hạt nhân \"A\" và số nguyên tử \"Z\", chỉ có thể bắt được electron kép nếu khối lượng của đồng vị phóng xạ của (\"A\", \"Z\"-2) thấp hơn.\nTrong phương thức phân rã này, hai trong số các electron quỹ đạo bị bắt bởi hai proton trong hạt nhân, tạo thành hai neutron. Hai neutrino được phát ra trong quá trình này. Vì các proton được thay đổi thành neutron, số lượng neutron tăng thêm 2, số lượng proton \"Z\" giảm đi 2 và số khối nguyên tử \"A\" không đổi. Bằng cách thay đổi số lượng proton, sự bắt electron kép sẽ biến đổi các hạt nhân thành một nguyên tố mới.\nVí dụ:\nĐộ hiếm.\nTrong hầu hết các trường hợp, phương thức phân rã này sẽ xảy ra ít hơn bởi có nhiều phương thức có thể xảy ra hơn (bắt giữ electron đơn...), nhưng khi tất cả các phương thức này bị “cấm” (bị triệt tiêu mạnh), bắt giữ electron kép sẽ trở thành phương thức phân rã chính.\nCó 34 đồng vị xuất hiện tự nhiên có thể trải qua quá trình bắt electron kép. Tuy nhiên, chỉ có ba quan sát được xác nhận về quá trình này: , , and .\nMột lý do là xác suất xảy ra bắt giữ electron kép là rất nhỏ (dự đoán lý thuyết về chu kỳ bán rã cho phương thức này là trên 10 năm). Lý do thứ hai là các hạt duy nhất có thể phát hiện được tạo ra trong quá trình này là các tia X và electron Auger được phát ra từ lớp vỏ nguyên tử bị kích thích. Trong phạm vi năng lượng của chúng (~1-10 keV), nền thường cao. Do đó, việc phát hiện và thử nghiệm bắt giữ electron kép khó khăn hơn so với phân rã beta kép. Việc bắt electron kép có thể đi kèm với sự kích thích của hạt nhân con. Lần lượt, sự khử kích thích của nó đi kèm với sự phát xạ của các photon có năng lượng lên đến hàng trăm keV.\nCác phương thức phát xạ positron.\nNếu sự chênh lệch khối lượng giữa các nguyên tử mẹ và con lớn hơn hai lần khối lượng của một electron (1,022 MeV), năng lượng được giải phóng trong quá trình này đủ để cho phép một phương thức phân rã khác được gọi là bắt electron bằng phát xạ positron. Nó xảy ra cùng với việc bắt electron kép, tỷ lệ phân nhánh của chúng tùy thuộc vào tính chất hạt nhân. Khi chênh lệch khối lượng lớn hơn bốn lần khối lượng electron (2,044 MeV), phương thức thứ ba, được gọi là phân rã positron kép, được cho phép. Chỉ có 6 đồng vị phóng xạ tự nhiên có thể phân rã thông qua ba phương thức này cùng một lúc.\nBắt giữ electron kép phi neutrino.\nQuá trình được mô tả ở trên với việc bắt giữ hai electron và phát xạ hai neutrino (bắt electron kép neutrino) được cho phép theo Mô hình Chuẩn của vật lý hạt: không vi phạm luật bảo tồn (bao gồm bảo toàn số lepton). Tuy nhiên, nếu số lepton không được bảo toàn hoặc neutrino là phản hạt của chính nó, thì một loại quá trình khác có thể xảy ra, được gọi là bắt giữ electron kép phi neutrino. Trong trường hợp này, hai electron bị hạt nhân bắt giữ, nhưng neutrino không được phát ra. Năng lượng được giải phóng trong quá trình này được mang đi bởi một lượng tử gamma bremsstrahlung.\nVí dụ:\nPhương thức phân rã này chưa bao giờ được quan sát bằng thực nghiệm và sẽ mâu thuẫn với Mô hình Chuẩn nếu nó được quan sát.", "Electron hay điện tử, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ nhất trong họ các hạt lepton, và nói chung được coi là những hạt cơ bản bởi vì chúng không có các thành phần nhỏ hay cấu trúc con. Electron có khối lượng xấp xỉ bằng 1/1836 so với của proton. Các tính chất cơ học lượng tử của electron bao gồm giá trị mômen động lượng (spin) bằng một nửa đơn vị, biểu diễn theo đơn vị của hằng số Planck thu gọn, \"ħ\". Vì là một fermion, trong hệ cô lập không có hai electron nào có thể ở cùng một trạng thái lượng tử, như nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli. Giống như tất cả các hạt cơ bản khác, electron thể hiện cả các tính chất của sóng và hạt: chúng có thể va chạm với các hạt khác và bị nhiễu xạ như ánh sáng. Các tính chất sóng của electron dễ dàng được quan sát thấy ở các thí nghiệm hơn so với những hạt khác ví dụ như neutron và proton bởi vì electron có khối lượng nhỏ hơn và do vậy có bước sóng de Broglie dài hơn ở cùng một mức năng lượng.\nElectron có vai trò cơ bản ở nhiều hiện tượng vật lý, như điện, từ học, hóa học và độ dẫn nhiệt. Ngoài ra nó cũng tham gia vào tương tác hấp dẫn, điện từ và yếu. Vì một electron mang điện tích, bao xung quanh nó là điện trường, và nếu electron chuyển động tương đối với một người quan sát, nó sẽ cảm ứng một từ trường. Trường điện từ tạo ra bởi những nguồn khác sẽ ảnh hưởng đến chuyển động của hạt electron tuân theo định luật lực Lorentz. Electron phát ra hay hấp thụ năng lượng dưới dạng các photon khi chúng chuyển động gia tốc. Các thiết bị ở phòng thí nghiệm có khả năng bẫy từng electron đơn lẻ cũng như các electron plasma bằng sử dụng điện từ trường. Những kính thiên văn đặc biệt có thể phát hiện electron plasma trong không gian vũ trụ. Electron tham dự vào nhiều ứng dụng thực tiễn như điện tử học, hàn tia điện tử, ống tia âm cực, kính hiển vi điện tử, trị liệu bức xạ, laser electron tự do, máy dò khí ion hóa và máy gia tốc hạt.\nCác tương tác có sự tham gia của những electron với các hạt khác là một trong những chủ đề nghiên cứu của hóa học và vật lý hạt nhân. Tương tác lực Coulomb giữa các proton mang điện dương bên trong hạt nhân nguyên tử và các electron mang điện âm ở orbital cấu thành lên nguyên tử. Sự ion hóa hay sự chênh lệch giữa số electron mang điện âm và hạt nhân mang điện dương làm thay đổi năng lượng liên kết của một hệ nguyên tử. Sự trao đổi hay chia sẻ các electron giữa hai hay nhiều nguyên tử là nguyên nhân chủ yếu tạo ra liên kết hóa học. Năm 1838, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming lần đầu tiên đã đặt ra khái niệm về một đại lượng điện tích không thể chia nhỏ hơn nhằm giải thích các tính chất hóa học của các nguyên tử. Nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney sau đó đặt tên đại lượng điện tích này là 'electron' vào năm 1891, và sau đó J. J. Thomson cùng các cộng sự người Anh cuối cùng đã phát hiện ra electron có biểu hiện của một hạt cơ bản vào năm 1897. Electron cũng tham gia vào các phản ứng hạt nhân, như quá trình tổng hợp lên các hạt nhân nặng hơn trong các sao, mà chúng thường được gọi là các hạt beta. Electron cũng có thể được tạo ra trong phân rã beta từ các đồng vị phóng xạ và trong các va chạm năng lượng cao, như ở sự kiện các tia vũ trụ bắn phá bầu khí quyển. Phản hạt của electron được gọi là positron; nó có tính chất đồng nhất với electron ngoại trừ các tích như điện tích mang dấu ngược lại. Khi một electron va chạm với một positron, cả hai hạt bị hủy, tạo ra hai photon tia gamma năng lượng cao.\nLịch sử.\nKhám phá ra hiệu ứng của lực điện.\nNgười Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy rằng khi dùng bộ lông thú chà xát vào hổ phách thì nó có khả năng hút được những vật nhỏ. Cùng với sét, đây là một trong những hiện tượng về điện được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử loài người. Trong luận thuyết \"De Magnete\" viết năm 1600, nhà khoa học người Anh William Gilbert đưa ra thuật ngữ trong tiếng Latin mới là , để kể đến những chất có tính chất tương tự như hổ phách với khả năng có thể hút được những vật nhỏ khi chà xát với lông thú. Cả hai thuật ngữ \"electric\" và \"electricity\" đều có nguồn gốc từ tiếng Latin ' (cũng là từ nguyên của hợp kim có cùng tên); ' có từ nguyên bắt nguồn từ chữ hổ phách trong tiếng Hy Lạp, (\"\").\nKhám phá hai loại điện tích.\nĐầu những năm 1700, nhà hóa học người Pháp Charles François du Fay phát hiện thấy nếu một lá vàng tích điện bị đẩy bởi một que thủy tinh khi chà nó với lụa, thì cùng lá vàng tích điện này lại bị hút bởi hổ phách khi chà vào bông sợi. Từ quan sát này cùng những kết quả thí nghiệm tương tự, du Fay kết luận rằng điện phải chứa hai loại chất lỏng mang điện, chất lỏng \"vitreous\" từ đũa thủy tinh khi chà xát vào lụa và chất lỏng \"resinous\" từ hổ phách khi chà vào bông sợi. Hai chất lỏng này có thể trung hòa lẫn nhau khi được kết hợp lại. Nhà khoa học người Mỹ Ebenezer Kinnersley sau đó cũng độc lập đi đến kết luận tương tự của du Fay. Một thập kỷ sau, Benjamin Franklin đề xuất rằng điện không cấu tạo từ những loại chất lỏng điện khác nhau, mà là một chất lỏng điện có biểu hiện dư thừa (+) hay thiếu hụt (−) điện tích. Ông đưa ra thuật ngữ hiện đại tương ứng với chúng là điện tích dương và điện tích âm. Franklin từng nghĩ về chất mang điện sẽ có điện tích dương, nhưng ông đã không miêu tả đúng tình huống khi nào chất sẽ dư thừa điện tích, và khi nào bị thiếu hụt điện tích.\nGiữa các năm 1838 và 1851, nhà triết học tự nhiên người Anh Richard Laming phát triển ý tưởng cho rằng một nguyên tử là tổ hợp bao gồm một lõi vật chất được bao quanh bởi những hạt nhỏ hơn nguyên tử mà có điện tích bằng số lần điện tích đơn vị. Đầu năm 1846, nhà vật lý người Đức William Weber đưa ra lý thuyết miêu tả điện là chất tổng hợp bởi các chất lỏng tích điện dương và âm, và tương tác giữa chúng bị chi phối bởi luật nghịch đảo bình phương. Sau khi nghiên cứu hiện tượng điện phân vào năm 1874, nhà vật lý người Ireland George Johnstone Stoney gợi ý có tồn tại một \"đại lượng xác định duy nhất cho điện\", điện tích của một ion hóa trị một. Ông đã có thể ước lượng giá trị của điện tích cơ bản \"e\" này bằng cách áp dụng định luật điện phân Faraday. Tuy nhiên, Stoney lại tin rằng những điện tích này lại gắn chặt vĩnh cửu vào nguyên tử và không thể bị tách rời. Năm 1881, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz cho rằng cả điện tích dương và điện tích âm có thể chia ra thành những thành phần cơ bản, mỗi một chúng \"hành xử như những nguyên tử của điện\".\nStoney ban đầu đưa ra thuật ngữ \"electrolion\" vào năm 1881. Mười năm sau, ông chuyển sang sử dụng \"electron\" để miêu tả những điện tích cơ bản này, khi ông viết vào năm 1894: \"... một ước lượng được thực hiện để tính toán số lượng thực tế của đơn vị điện cơ bản điển hình nhất này, mà tôi đã từng dám gợi ý đặt tên là \"electron\"\". Đã có một đề xuất vào năm 1906 nhằm đổi sang tên gọi \"electrion\" nhưng đã thất bại bởi vì Hendrik Lorentz vẫn thích tên gọi \"electron\" hơn. Từ \"electron\" là tổ hợp của các từ \"electric\" và \"ion\". Hậu tố -\"on\" mà hiện nay được sử dụng để đặt tên cho các hạt cơ bản khác, như proton hoặc neutron, có nguồn gốc bắt nguồn từ cách đặt tên cho electron.\nKhám phá ra các electron tự do bên ngoài vật chất.\nKhi nghiên cứu hiện tượng dẫn điện trong khí loãng vào năm 1859, nhà vật lý người Đức Julius Plücker quan sát thấy ánh sáng lân quang, vốn được tạo thành bởi bức xạ phát ra từ cathode, xuất hiện tại thành ống gần cathode, và vùng ánh sáng lân quang đó có thể di chuyển bằng việc ứng dụng từ trường. Năm 1869, Johann Wilhelm Hittorf, một học trò của Plücker, phát hiện rằng một vật rắn đặt giữa cathode và vùng lân quang tạo ra một vùng tối trên vùng lân quang của ống. Hittorf kết luận rằng có những tia truyền thẳng phát ra từ cathode và vùng lân quang đó được tạo ra bởi các tia chiếu qua thành ống. Năm 1876, nhà vật lý người Đức Eugen Goldstein chỉ ra rằng các tia này được phát ra theo phương vuông góc với mặt cathode, mặt phân cách giữa các tia phát ra từ cathode và ánh sáng sợi đốt. Goldstein đặt tên cho những tia này là tia âm cực. Công cuộc nghiên cứu về tia âm cực kéo dài hàng thập kỷ cả về lý thuyết và thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình khám phá ra electron của J. J. Thomson.\nTrong thập niên 1870, nhà hóa lý người Anh Sir William Crookes đã phát triển ống tia âm cực đầu tiên với môi trường chân không cao bên trong. Sau đó ông chứng tỏ rằng các tia phát quang xuất hiện bên trong ống có mang năng lượng và chuyển động từ phía cathode sang anode. Hơn nữa, khi đặt vào một từ trường, ông đã làm lệch đường đi của chùm tia, do đó chứng tỏ thêm chùm tia hành xử như nó chứa điện tích âm. Năm 1879, ông đề xuất rằng những tính chất này có thể được giải thích bằng cách coi rằng các tia âm cực bao gồm các phân tử khí mang điện tích âm trong trạng thái thứ tư của vật chất mà trong đó quãng đường tự do của các phân tử lớn đến mức có thể bỏ qua va chạm.\nNhà vật lý người Anh sinh ở Đức Arthur Schuster tiến hành mở rộng các thí nghiệm của Crookes khi đặt những tấm kim loại song song với chùm tia cathode và áp dụng vào một điện thế giữa các tấm này. Điện trường đã làm lệch chùm tia về phía tấm kim loại tích điện dương, chứng cứ đã củng cố thêm cho kết luận chùm tia mang điện tích âm. Bằng cách đo độ lệch của chùm tia tương ứng với từng lần điều chỉnh dòng điện giữa hai tấm kim loại, năm 1890 Schuster đã ước lượng được tỷ số khối lượng−điện tích của các thành phần trong chùm tia. Tuy vậy, giá trị ông thu được lớn hơn 1000 lần so với giá trị được dự đoán, do đó ít người đã để ý đến kết quả tính toán của ông vào thời điểm đó.\nNăm 1892, Hendrik Lorentz gợi ý rằng khối lượng của những hạt này (electron) có thể là hệ quả của lượng điện tích mà chúng mang theo.\nKhi đang nghiên cứu các khoáng chất huỳnh quang tự nhiên vào năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá thấy chúng phát ra các bức xạ mà không cần phải chiếu thêm một nguồn năng lượng từ bên ngoài. Những vật liệu phóng xạ này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học, bao gồm nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, ông đã phát hiện vật liệu phóng xạ có phát ra các hạt. Ông gọi những hạt này là các hạt alpha và hạt beta, dựa trên khả năng đâm xuyên của chúng qua vật chất. Năm 1900, Becquerel đã chứng tỏ chùm tia beta phát ra từ hạt nhân radium có thể bị làm lệch hướng trong một điện trường, và tỷ số khối lượng trên điện tích của chúng bằng với tỷ số này của chùm tia cathode. Chứng cứ này đã củng cố thêm quan điểm cho rằng electron tồn tại như là một trong các thành phần của nguyên tử.\nNăm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson, cùng với các đồng nghiệp John S. Townsend và H. A. Wilson, đã thực hiện các thí nghiệm chỉ ra chùm tia cathode thực sự chứa các hạt, hơn là một loại sóng, những hạt nguyên tử hoặc phân tử như nhiều nhà khoa học từng tin như vậy trước đó. Thomson đã có kết quả ước lượng khá tốt về điện tích \"e\" và khối lượng \"m\" của hạt tia cathode, mà ông gọi là \"corpuscles\", nó có khối lượng bằng một phần nghìn khối lượng của ion nhẹ nhất: ion hydro. Ông cũng đã chứng minh tỷ số điện tích−khối lượng, \"e\"/\"m\", có giá trị độc lập với vật liệu của bản cực cathode. Ông tiếp tục chứng tỏ thêm các vật liệu phóng xa, vật liệu nung nóng và vật liệu bị chiếu xạ có phát ra các hạt mang điện tích âm. Tên gọi electron về sau được cộng đồng khoa học chấp nhận sử dụng rộng rãi, chủ yếu do đề xuất của G. F. FitzGerald, J. Larmor và H. A. Lorentz.\nĐiện tích của electron đã được đo một cách chính xác hơn bởi các nhà vật lý Mỹ Robert Millikan và Harvey Fletcher trong thí nghiệm giọt dầu vào năm 1909, và kết quả được công bố vào 1911. Thí nghiệm sử dụng một điện trường để hãm các giọt dầu mang điện tích rơi trong không khí dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Thiết bị của họ có thể đo điện tích của 1–150 ion với sai số là 0,3%. Trước đó nhóm của Thomson cũng thực hiện thí nghiệm tương tự, sử dụng đám mây chứa các giọt nước tích điện tạo ra bởi sự điện phân,và thí nghiệm thực hiện bởi Abram Ioffe năm 1911, ông đã thu được kết quả tương tự một cách độc lập với nhóm Millikan khi sử dụng các vi hạt kim loại tích điện, và kết quả được công bố vào năm 1913. Tuy nhiên, các giọt dầu có tính ổn định hơn giọt nước bởi vì chúng có tốc độ bốc hơi chậm hơn, và do đó phù hợp hơn với thí nghiệm chính xác đòi hỏi thực hiện trong thời gian dài hơn.\nVào thời điểm bắt đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học phát hiện rằng dưới những điều kiện nhất định một hạt tích điện chuyển động nhanh trong buồng bọt có thể gây ra sự ngưng tụ của hơi nước siêu bão hòa trên quỹ đạo chuyển động của hạt. Năm 1911, Charles Wilson đã áp dụng nguyên lý này cho thiết bị buồng mây của mình, cho phép ông có thể chụp ảnh được quỹ đạo của các hạt tích điện, ví dụ như các electron chuyển động nhanh.\nLý thuyết nguyên tử.\nCho đến năm 1914, các thí nghiệm thực hiện bởi Ernest Rutherford, Henry Moseley, James Franck và Gustav Hertz hầu như đã khẳng định được cấu trúc nguyên tử bao gồm một hạt nhân cô đặc mang điện dương bao xung quanh bởi các electron có khối lượng rất nhỏ. Năm 1913, nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr giả thuyết các electron nằm trong các trạng thái có mức năng lượng bị lượng tử hóa, mức năng lượng của chúng được xác định bởi mômen động lượng của quỹ đạo electron quanh hạt nhân. Các electron có thể chuyển động trên những quỹ đạo này, bằng cách phát ra hay hấp thụ photon với tần số xác định. Với cơ sở là những quỹ đạo bị lượng tử hóa này, Bohr có thể giải thích một cách chính xác các vạch quang phổ của nguyên tử hydro. Tuy nhiên, mô hình của Bohr chưa thể giải thích được cường độ tương đối của các vạch này cũng như mô hình chưa thể giải thích quang phổ của những nguyên tử phức tạp hơn.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử được Gilbert Newton Lewis giải thích, khi vào năm 1916 ông đề xuất rằng liên kết cộng hóa trị giữa hai nguyên tử được duy trì bởi cặp electron chia sẻ giữa chúng. Sau đó, vào năm 1927, Walter Heitler và Fritz London đưa ra lý thuyết giải thích đầy đủ cho sự hình thành cặp electron và liên kết hóa học trong khuôn khổ của cơ học lượng tử. Năm 1919, nhà hóa học người Mỹ Irving Langmuir đưa ra mô hình tĩnh về nguyên tử và gợi ý rằng mọi electron được phân bố tuần tự theo \"những vỏ (gần) hình cầu đồng tâm, tất cả đều có độ dày bằng nhau\". Tiếp đó, ông chia những vỏ này ra thành một số ô, mà mỗi ô chứa một cặp electron. Với mô hình này, Langmuir có thể giải thích một cách định tính các tính chất hóa học của các nguyên tố trong bảng tuần hoàn, mà nhiều tính chất được lặp lại tuân theo định luật tuần hoàn trong bảng.\nNăm 1924, nhà vật lý người Áo Wolfgang Pauli nhận xét thấy cấu trúc tựa vỏ của nguyên tử có thể được giải thích bằng một tập hợp chứa bốn tham số xác định lên mỗi trạng thái năng lượng lượng tử, và mỗi trạng thái này không thể chiếm bởi nhiều hơn một electron. Việc không có nhiều hơn một electron chiếm chỗ ở cùng một trạng thái năng lượng lượng tử được phát biểu trong nguyên lý loại trừ Pauli. Cơ chế vật lý để giải thích cho tham số thứ tư, mà nó có hai giá trị phân biệt, được các nhà vật lý người Hà Lan Samuel Goudsmit và George Uhlenbeck đề xuất. Năm 1925, họ cho rằng một electron, cùng với mômen động lượng của quỹ đạo, còn sở hữu thêm mômen góc động lượng nội tại và mômen lưỡng cực từ. Điều này tương tự như sự tự quay của Trái Đất cũng như nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Mômen góc động lượng nội tại này được gọi là spin, và đưa ra cách giải thích cho sự tách vạch bí ẩn như được quan sát thấy ở các vạch quang phổ bằng phổ kế có độ phân giải cao; hiện tượng này được biết đến như là sự tách cấu trúc tinh tế.\nCơ học lượng tử.\nTrong luận án \"\" (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử) viết năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie giả thuyết rằng mọi vật chất có thể được biểu diễn bằng sóng de Broglie tương tự như sóng ánh sáng. Điều đó có nghĩa là dưới những điều kiện phù hợp, các electron và những hạt vật chất khác sẽ thể hiện những tính chất của sóng hoặc của hạt. Lý thuyết hạt ánh sáng được chứng tỏ khi nó thể hiện có vị trí định xứ trong không gian dọc theo quỹ đạo chùm sáng ở bất kỳ thời điểm nào. Bản chất sóng ánh sáng được hiện, ví dụ, khi một chùm sáng chiếu qua những khe hẹp song song nó sẽ tạo thành những vân giao thoa. Năm 1927 George Paget Thomson khám phá ra hiệu ứng giao thoa xuất hiện khi cho một chùm electron truyền qua những lá kim loại mỏng và kiểu thí nghiệm tương tự được các nhà vật lý người Mỹ Clinton Davisson và Lester Germer thực hiện khi cho chùm electron phản xạ từ tinh thể nikel và quan sát thấy hiệu ứng giao thoa. Các hiệu ứng này còn được gọi là hiện tượng nhiễu xạ electron.\nDự đoán của de Broglie về bản chất sóng của electron đưa Erwin Schrödinger thiết lập lên phương trình sóng miêu tả electron chuyển động dưới ảnh hưởng của hạt nhân trong nguyên tử. Năm 1926, với phương trình của mình, phương trình Schrödinger, ông đã miêu tả thành công sóng electron trong hệ nguyên tử. Hơn là chỉ việc tìm ra nghiệm xác định vị trí của một electron theo thời gian, phương trình sóng này cũng được áp dụng để dự đoán xác suất tìm thấy electron quanh vị trí cụ thể, đặc biệt vị trí gần nơi electron bị chặn trong không gian, mà tại đây phương trình sóng electron không thay đổi theo thời gian. Cách tiếp cận này đã đem đến một lý thuyết miêu tả cơ học lượng tử thứ hai (lý thuyết đầu tiên miêu tả bằng cơ học ma trận do Heisenberg phát triển năm 1925), và nghiệm của phương trình Schrödinger, giống như của Heisenberg, cho phép dẫn ra các trạng thái năng lượng của một electron trong nguyên tử hydro mà tương đương với các kết quả thu được bởi Bohr vào năm 1913, và miêu tả chính xác quang phổ nguyên tử hydro. Khi kể đến spin và tương tác giữa nhiều electron, cơ học lượng tử đưa ra những dự đoán chính xác về cấu hình electron trong những hệ nguyên tử phức tạp hơn hydro.\nNăm 1928, dựa trên các nghiên cứu của Wolfgang Pauli, Paul Dirac thiết lập nên một mô hình về electron – phương trình Dirac, nhất quán với thuyết tương đối hẹp, bằng cách áp dụng các điều kiện đối xứng và tương đối tính trong hình thức luận hamiltonian của cơ học lượng tử cho trường điện từ. Để có thể giải một số vấn đề trong phương trình tương đối tính của mình, năm 1930 Dirac nêu ra một mô hình chân không như là một biển chứa vô hạn các hạt có năng lượng âm, sau này gọi là biển Dirac. Mô hình này đã đưa ông đi đến dự đoán tồn tại positron, một hạt phản vật chất của electron. Hạt này sau đó được phát hiện vào năm 1932 bởi Carl Anderson, và ông đề xuất gọi các electron thường gặp là \"negatron\" và sử dụng thuật ngữ \"electron\" nhằm miêu tả những biến thể mang điện tích dương hoặc âm.\nNăm 1947 Willis Lamb, khi đang thực hiện nghiên cứu cùng với sinh viên Robert Retherford, đã tìm thấy có những trạng thái lượng tử riêng biệt của hydro, đáng ra phải có cùng mức năng lượng, lại được dịch chuyển tương đối với nhau; sự sai lệch này sau đó được gọi là dịch chuyển Lamb. Trong cùng thời gian, Polykarp Kusch, cùng với Henry M. Foley, đã khám phá bằng thí nghiệm mômen từ của electron có giá trị hơi lớn hơn so với dự đoán của lý thuyết Dirac. Giá trị chênh lệch nhỏ này sau đó được gọi là mômen lưỡng cực từ dị thường của electron. Sự chênh lệch này sau đó được giải thích trong lý thuyết điện động lực học lượng tử, phát triển bởi các nhà vật lý Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và\nRichard Feynman vào cuối thập niên 1940.\nMáy gia tốc hạt.\nVới sự phát triển của các loại máy gia tốc hạt trong nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn vào các tính chất của các hạt hạ nguyên tử. Thành công đầu tiên trong nỗ lực gia tốc electron sử dụng cảm ứng điện từ được thực hiện vào năm 1942 bởi Donald Kerst. Máy betatron ban đầu của ông đạt đến mức năng lượng 2,3 MeV, và những máy betatron về sau đạt đến mức 300 MeV. Năm 1947, bức xạ đồng bộ (synchrotron radiation) được phát hiện tại máy gia tốc synchrotron, đưa electron đạt mức năng lượng 70 MeV, tại cơ sở nghiên cứu của General Electric. Bức xạ này là do các electron chuyển động gia tốc đi qua một từ trường ở vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng.\nMáy gia tốc va chạm hạt ADONE là máy đầu tiên đạt mức năng lượng của chùm tia cỡ 1,5 GeV, bắt đầu hoạt động vào năm 1968. Trong thiết bị này, các hạt electron và positron được gia tốc theo hai hướng ngược chiều nhau, như vậy gần như làm tăng gấp đôi năng lượng va chạm so với máy gia tốc chùm tia electron bắn vào một bia cố định. Máy va chạm lớn Electron–Positron (Large Electron–Positron Collider; LEP) ở CERN, hoạt động từ 1989 đến 2000, đạt tới mức năng lượng va chạm 209 GeV và có những đo lường quan trọng cho Mô hình Chuẩn của vật lý hạt.\nGiam giữ từng electron.\nHiện nay từng electron đơn lẻ có thể dễ dàng bị giam hãm trong những transistor CMOS siêu nhỏ (, ) hoạt động ở ngưỡng nhiệt độ lạnh sâu từ −269 °C (4 K) cho đến khoảng −258 °C (15 K). Hàm sóng electron lan truyền trong một dàn chất bán dẫn và khi bỏ qua tương tác của nó với các electron trong dải hóa trị, thì có thể coi như là hàm của electron đơn lẻ, bằng cách thay thế khối lượng của nó bằng tenxơ khối lượng hiệu dụng.\nCác đặc tính.\nPhân loại.\nTrong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt, electron thuộc về nhóm các hạt hạ nguyên tử gọi là lepton, mà được cho là những hạt cơ bản. Electron có khối lượng nhỏ nhất trong nhóm lepton (cũng như trong nhóm các hạt mang điện) và thuộc về thế hệ thứ nhất của hạt cơ bản. Thế hệ thứ hai và thứ ba bao gồm các lepton mang điện, hạt muon và tau, chúng có giá trị điện tích, spin và tham gia tương tác giống với của electron, nhưng có khối lượng lớn hơn. Lepton khác so với những thành phần cơ bản khác của vật chất, hạt quark, khi lepton không tham gia vào tương tác mạnh. Tất cả các thành viên trong nhóm lepton đều là fermion, bởi vì chúng đều có spin bán nguyên; electron có spin .\nCác tính chất cơ bản.\nKhối lượng bất biến (khối lượng nghỉ) của electron xấp xỉ bằng  kilogram, hay  đơn vị khối lượng nguyên tử. Trên cơ sở của nguyên lý sự tương đương khối lượng−năng lượng của Einstein, khối lượng này tương ứng với mức năng lượng nghỉ 0,511 MeV. Tỷ số giữa khối lượng của một proton so với của electron bằng khoảng 1836. Các đo đạc thiên văn cho thấy tỷ số khối lượng proton trên khối lượng electron vẫn giữ nguyên không đổi, như được dự đoán bởi Mô hình Chuẩn, trong thời gian ít nhất bằng một nửa tuổi của vũ trụ.\nElectron có điện tích bằng coulomb, một giá trị đã được sử dụng làm đơn vị điện tích chuẩn cho các hạt hạ nguyên tử, và cũng được gọi là điện tích cơ bản. Trong khoảng giới hạn sai số thí nghiệm, giá trị điện tích của electron bằng giá trị của proton nhưng mang dấu ngược lại. Vì ký hiệu \"e\" được sử dụng cho điện tích cơ bản, electron thường được ký hiệu là , với dấu trừ thể hiện cho điện tích âm. Positron được ký hiệu bởi vì nó có cùng các tính chất với electron nhưng mang điện tích dương.\nElectron có mômen động lượng nội tại hay spin . Do tính chất này mà electron thường được coi các hạt có spin-. Những hạt như vậy có độ lớn spin bằng  \"ħ\", trong khi kết quả đo từ hình chiếu của spin lên một trục bất kỳ chỉ có thể bằng ±. Ngoài spin, electron còn có mômen từ hướng dọc theo trục spin của nó. Giá trị mômen từ electron xấp xỉ bằng một Bohr magneton,=\\frac{e\\hbar}{2m_{\\mathrm{e}}}.</math>|group=gc}} là hằng số vật lý bằng joule trên tesla. Hướng của spin so với hướng của mômen động lượng electron xác định lên tính chất của các hạt cơ bản được biết đến là tính xoắn (\"helicity\").\nElectron không có cấu trúc con đã biết, nên nó thường được coi là một hạt điểm, hay cụ thể là một điện tích điểm không có không gian trong. Quan sát electron đơn lẻ trong bẫy Penning gợi ý rằng giới hạn trên của bán kính của nó bằng 10−22 mét. Giá trị giới hạn trên của bán kính electron bằng 10−18 mét có thể dẫn ra từ nguyên lý bất định kết hợp với năng lượng. Ngoài ra, còn có một hằng số vật lý gọi là \"bán kính electron cổ điển\", với giá trị là , lớn hơn rất nhiều bán kính của proton. Tuy nhiên, giá trị này được tìm từ những phép tính đơn giản mà bỏ qua các hiệu ứng của cơ học lượng tử; trong thực tế, giá trị bán kính electron cổ điển không có nhiều ý nghĩa khi đề cập đến cấu trúc cơ bản bên trong của electron.\nCó những hạt cơ bản khác tự động phân rã thành những hạt khối lượng nhẹ hơn. Ví dụ cho muon, nó có thời gian sống trung bình  giây, và phân rã thành một electron, một neutrino muon và một phản neutrino electron. Hạt electron, mặt khác, theo lý thuyết được cho là hạt bền: electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất với điện tích khác 0, do đó sự phân rã của nó sẽ vi phạm định luật bảo toàn điện tích. Thực nghiệm xác định giới hạn dưới của thời gian sống của electron là năm, ở mức 90% độ tin cậy.\nCác tính chất lượng tử.\nNhư mọi hạt khác, các electron có hành xử như những sóng. Đặc điểm này được gọi là lưỡng tính sóng–hạt và được chứng minh bằng thí nghiệm giao thoa hai khe.\nBản chất sóng của electron cho phép nó đi qua hai khe song song một cách đồng thời, hơn là chỉ một khe ở một thời điểm như đối với trường hợp của hạt. Trong cơ học lượng tử, tính chất sóng của một hạt được miêu tả bằng toán học dưới dạng hàm giá trị phức, hay hàm sóng, thường được ký hiệu bằng chữ cái Hy Lạp psi (\"ψ\"). Khi tính bình phương giá trị tuyệt đối của hàm này, sẽ cho xác suất quan sát được một hạt ở một vị trí cho trước—hay chính là mật độ xác suất.\nElectron là những hạt đồng nhất bởi vì không thể phân biệt được chúng dựa trên những tính chất vật lý nội tại của hạt. Trong cơ học lượng tử, điều này có nghĩa là một cặp electron tương tác có thể đổi chỗ cho nhau mà không làm thay đổi trạng thái quan sát được của hệ. Hàm sóng của các fermion, bao gồm electron, là hàm phản xứng, có nghĩa rằng nó thay đổi dấu khi hai electron trao đổi vị trí cho nhau; hay, , với các biến \"r\"1 và \"r\"2 tương ứng với electron thứ nhất và thứ hai. Vì giá trị tuyệt đối không thay đổi khi hai hạt đổi chỗ cho nhau, điều này tương ứng với xác suất của hai sự kiện là bằng nhau. Ngược lại, hạt boson, như photon, lại có hàm sóng đối xứng.\nTrong trường hợp phản xứng, các nghiệm của phương trình sóng cho các electron tương tác sẽ cho xác suất bằng 0 đối với mỗi cặp chiếm cùng một vị trí hoặc trạng thái. Kết quả này tương ứng với nguyên lý loại trừ Pauli, phát biểu rằng không thể có hai electron chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Nguyên lý này giải thích cho nhiều tính chất của các electron hóa học. Ví dụ, nó làm cho nhóm các electron liên kết chiếm những orbital khác nhau trong một nguyên tử, hơn là đan xen lẫn nhau trong cùng một orbital.\nHạt ảo.\nTrong một bức tranh đơn giản, mỗi photon đôi lúc được coi như là tổ hợp của một hạt electron ảo với phản hạt ảo của nó, positron ảo, mà chúng nhanh chóng hủy lẫn nhau khi vừa mới sinh ra trong một thời gian rất ngắn. Sự kết hợp của biến thiên năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt này, và khoảng thời gian trong đó chúng tồn tại, phải nằm trong ngưỡng chấp nhận được tuân theo nguyên lý bất định Heisenberg, Δ\"E\" · Δ\"t\" ≥ \"ħ\". Để thỏa mãn nguyên lý này, năng lượng cần thiết để sinh ra những hạt ảo này, Δ\"E\", có thể được \"mượn\" từ chân không trong một khoảng thời gian, Δ\"t\", sao cho tích của chúng không được lớn hơn hằng số Planck thu gọn, . Do vậy, đối với một electron ảo, Δ\"t\" lớn nhất bằng . (nghĩa là nếu cặp electron ảo−positron ảo mượn năng lượng Δ\"E\" từ chân không lượng tử thì phải trả lại năng lượng này cho chân không sau tối đa một khoảng thời gian Δ\"t\" sao cho Δ\"E\" · Δ\"t\" ≤ \"ħ\")\nKhi một cặp electron–positron ảo đang tồn tại, lực tĩnh điện Coulomb từ điện trường tức thời xung quanh hạt electron sẽ làm hút hạt positron về phía electron gốc ban đầu, trong khi electron được sinh ra chịu một lực đẩy. Hiệu ứng này chính là sự phân cực chân không. Về mặt hiệu ứng, chân không hành xử như một môi trường có dielectric permittivity lớn hơn 1 đơn vị. Do vậy điện tích hữu hiệu của một electron thực sự nhỏ hơn giá trị thực của nó, và điện tích giảm dần khi khoảng cách tăng dần tính từ electron. Sự phân cực này đã được xác nhận bằng thực nghiệm vào năm 1997 tại máy gia tốc hạt TRISTAN ở Nhật Bản. Các hạt ảo cũng tạo ra hiệu ứng lá chắn đáng kể cho khối lượng của electron.\nTương tác với các hạt ảo cũng giải thích sự sai lệch nhỏ (khoảng 0,1%) về giá trị của mômen từ nội tại của electron so với magneton Bohr (sai lệch này được gọi là mômen từ dị thường của electron). Sự khớp chính xác tuyệt vời giữa giá trị tính toán trên lý thuyết và giá trị đo được bằng thực nghiệm của mômen từ dị thường electron được coi là một trong những thành tựu quan trọng nhất của điện động lực học lượng tử.\nNghịch lý trong vật lý cổ điển về hạt điểm electron lại có mômen góc spin và mômen từ nội tại có thể được giải quyết bởi sự hình thành của các cặp hạt photon ảo trong điện trường sinh bởi electron. Các photon ảo này (đến lượt lại sinh ra các cặp electron−positron ảo khác) làm cho electron luôn dịch chuyển xung quanh vị trí của nó (còn gọi là zitterbewegung), mà tổng hợp lại thành một chuyển động tròn với hiệu ứng tiến động. Chuyển động này tạo ra cả spin và mômen từ của electron. Trong nguyên tử, sự sinh các cặp hạt photon ảo giúp giải thích hiệu ứng dịch chuyển Lamb như đã quan sát thấy ở các vạch quang phổ.\nTương tác.\nElectron sinh ra từ trường tạo ra lực hút lên hạt mang điện dương, như proton, và lực đẩy lên hạt mang điện âm. Cường độ của lực này trong điện động lực học cổ điện được xác định bằng định luật nghịch đảo bình phương Coulomb. Khi một electron đang trong chuyển động, nó tạo ra một từ trường bao quanh. Định luật Ampère-Maxwell cho biết mối liên hệ giữa từ trường và chuyển động của dòng các electron (dòng điện) tương ứng với người quan sát. Tính chất cảm ứng này cung cấp một từ trường dẫn động làm quay động cơ điện. Trường điện từ của một hạt mang điện bất kỳ đang trong chuyển động được miêu tả bằng thế Liénard–Wiechert, thế này đúng cho cả trường hợp hạt chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (hay vận tốc tương đối tính).\nKhi một electron chuyển động trong từ trường, nó chịu tác dụng của lực Lorentz tác động theo phương vuông góc với mặt phẳng xác định bởi vectơ từ trường và vectơ vận tốc của electron. Lực hướng tâm làm cho electron chuyển động trên một quỹ đạo xoắn ốc trong từ trường với bán kính Larmor. Sự gia tốc từ chuyển động theo đường cong ghềnh này làm cảm ứng electron phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ đồng bộ. Năng lượng bức xạ này làm hãm electron, hay còn gọi là lực Abraham–Lorentz–Dirac, tạo ra ma sát làm chậm chuyển động của electron. Lực này cũng gây ra tác động ngược (back-reaction) lên điện từ trường của chính electron.\nTrong điện động lực học lượng tử photon là hạt truyền tải tương tác điện từ giữa các hạt. Một electron đơn lẻ chuyển động với vận tốc đều không thể phát ra hay hấp thụ một photon thực; do sẽ vi phạm định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Mặt khác, các photon ảo có thể truyền động lượng giữa hai hạt mang điện tích. Sự trao đổi này của các photon ảo, ví dụ, làm tạo ra lực Coulomb. Bức xạ năng lượng xuất hiện khi một electron chuyển động bị làm lệch quỹ đạo gây bởi điện trường của một hạt mang điện khác, như proton. Sự gia tốc của electron làm phát ra bức xạ Bremsstrahlung.\nMột photon (ánh sáng) va chạm phi đàn hồi với một electron (tự do) được gọi là tán xạ Compton. Kết quả của va chạm này là động lượng và năng lượng được truyền qua giữa các hạt, làm thay đổi bước sóng của photon bằng một lượng được gọi là dịch chuyển Compton. Độ dịch chuyển lớn nhất của bước sóng bằng \"h\"/\"m\"e\"c\", hay còn gọi là bước sóng Compton. Đối với một electron, nó có giá trị bằng . Khi bước sóng của ánh sáng là dài (ví dụ bước sóng của ánh sáng khả kiến bằng 0,4–0,7 μm) sự dịch chuyển bước sóng có thể bỏ qua được. Trong trường hợp này, tương tác giữa ánh sáng và electron tự do được gọi là tán xạ Thomson hay tán xạ Thomson tuyến tính.\nĐộ mạnh tương đối của tương tác điện từ giữa hai hạt điện tích, chẳng hạn giữa một electron và một proton, được xác định bởi hằng số cấu trúc tế vi. Đây là đại lượng không thứ nguyên hình thành dựa trên tỉ số của hai dạng năng lượng: năng lượng tĩnh điện của lực hút (hoặc đẩy) ở khoảng cách bằng một lần bước sóng Compton, và năng lượng nghỉ của các hạt mang điện tích. Nó có giá trị bằng \"α\" ≈ , hay xấp xỉ bằng .\nKhi electron và positron va chạm, chúng hủy lẫn nhau, làm phát ra hai hoặc ba photon tia gamma. Nếu electron và positron có động lượng bỏ qua được, va chạm có thể hình lên nguyên tử positronium trước khi hai hạt hủy lẫn nhau để hình ra các photon có tổng năng lượng 1,022 MeV. Mặt khác, một photon năng lượng cao có thể biến đổi thành cặp electron và positron bởi quá trình sinh cặp (pair production), nhưng chỉ trong sự có mặt của một hạt điện tích gần nó, như một hạt nhân chẳng hạn.\nTrong lý thuyết tương tác điện yếu, thành phần hàm sóng hướng bên trái (chiral) của electron tạo thành bộ đôi isospin yếu với neutrio electron. Điều này có nghĩa rằng trong tương tác yếu, neutrino electron hành xử như các electron. Mỗi loại hạt của bộ đôi này (doublet) có thể tham gia vào tương tác dòng tích (charged current) bằng cách phát ra hoặc hấp thụ một boson và biến đổi sang thành hạt kia. Điện tích được bảo toàn trong quá trình này bởi vì boson W cũng mang điện tích, làm cho tổng điện tích của quá trình biến đổi là không thay đổi. Các tương tác dòng tích chịu trách nhiệm cho hiện tượng phân rã beta trong một nguyên tử phóng xạ. Cả electron và neutrino electron có thể tham gia vào tương tác dòng trung hòa (neutral current interaction) thông qua sự trao đổi một boson , và chịu trách nhiệm cho tán xạ đàn hồi neutrino−electron.\nNguyên tử và phân tử.\nMột electron có thể \"liên kết\" với hạt nhân của một nguyên tử bởi lực hút Coulomb. Một hệ có một hoặc nhiều electron liên kết với một hạt nhân được gọi là một nguyên tử. Nếu số electron khác với số điện tích của hạt nhân, nguyên tử đó được gọi là một ion. Hành xử dạng sóng của một electron liên kết được miêu tả bằng một hàm sóng gọi là orbital nguyên tử. Mỗi orbital đặc trưng bởi các số lượng tử như mức năng lượng, mômen động lượng và hình chiếu của mômen góc, và chỉ có các orbital rời rạc tồn tại xung quanh hạt nhân. Theo nguyên lý loại trừ Pauli mỗi orbital có thể chiếm giữ bởi tối đa hai electron, và chúng phải có số lượng tử spin khác nhau.\nElectron có thể nhảy sang các orbital khác nhau thông qua sự hấp thụ hoặc phát ra photon có năng lượng bằng hiệu giữa hai mức năng lượng đó. Các phương pháp khác làm electron chuyển sang orbital khác bao gồm sự va chạm của nó với hạt khác, như các electron, và nhờ hiệu ứng Auger. Để thoát ra khỏi nguyên tử, năng lượng của electron phải tăng và lớn hơn năng lượng liên kết với nguyên tử. Điều này xảy ra, ví dụ, như ở hiệu ứng quang điện, khi một photon tới va chạm có năng lượng lớn hơn năng lượng ion hóa nguyên tử và bị electron hấp thụ.\nMômen góc orbital của electron bị lượng tử hóa. Bởi electron mang điện, nó có một mômen từ orbital tỷ lệ với mômen góc. Tổng mômen từ của một nguyên tử bằng tổng vec tơ của mô men từ spin và mômen từ orbital của tất cả các electron và hạt nhân. Mômen từ của hạt nhân là nhỏ so với của các electron. Mômen từ của các electron chiếm giữ cùng một orbital (còn gọi là cặp electron) triệt tiêu lẫn nhau.\nLiên kết hóa học giữa các nguyên tử chính là tương tác điện từ giữa chúng, như miêu tả bởi các định luật của cơ học lượng tử. Liên kết mạnh nhất hình thành bởi chia sẻ hoặc cho/nhận các electron giữa các nguyên tử, dẫn đến hình thành lên các phân tử. Bên trong một phân tử, các electron chuyển động dưới ảnh hưởng của một vài hạt nhân, và chiếm giữ các orbital phân tử; giống như chúng chiếm giữ các orbital trong một nguyên tử cô lập. Một yếu tố cơ bản trong các cấu trúc phân tử đó là sự tồn tại các cặp electron. Đây là các electron có spin ngược nhau, cho phép chúng có thể chiếm giữ cùng một orbital phân tử mà không vi phạm nguyên lý loại trừ Pauli (tương tự như ở nguyên tử). Các orbital phân tử khác nhau có phân bố mật độ electron theo không gian khác nhau. Ví dụ, ở các cặp electron liên kết (nghĩa là các cặp thực sự liên kết các nguyên tử với nhau) có thể được tìm thấy với xác suất cực đại nằm ở vùng thể tích tương đối nhỏ giữa các hạt nhân. Ngược lại, ở các cặp electron không liên kết chúng phân bố trong thể tích lớn hơn bao quanh hạt nhân.\nDẫn điện.\nNếu một vật thể có nhiều hoặc ít hơn lượng electron cần thiết để cân bằng với điện tích dương của hạt nhân nguyên tử, thì tổng thể vật đó có mang điện tích. Khi có nhiều hơn electron, vật đó mang điện âm. Khi có ít electron hơn số lượng proton trong hạt nhân nguyên tử, vật mang điện dương. Khi số electron và proton bằng nhau, điện tích của chúng hủy lẫn nhau và vật thể ở trạng thái cân bằng điện (hay trung hòa). Nhờ tác động chà xát có thể làm vật thể vĩ mô mang điện thông qua hiệu ứng điện ma sát (triboelectric effect).\nCác electron độc lập chuyển động trong chân không được gọi là các electron \"tự do\". Các electron trong kim loại cũng hành xử như chúng chuyển động tự do. Thực sự thì các hạt được gọi là các electron trong kim loại và những thể rắn khác là những giả-electron—giả hạt, mà có cùng điện tích, spin, và mômen từ như các electron thực thụ nhưng có khối lượng khác với nó. Khi các electron tự do—trong chân không lẫn kim loại—chuyển động, chúng tạo ra một dòng mạng lưới điện tích được gọi là dòng điện, từ đó tạo ra một từ trường. Giống như một dòng điện có thể được sinh ra từ sự thay đổi của một từ trường. Những tương tác và mối quan hệ này được miêu tả bởi phương trình Maxwell.\nỞ mỗi nhiệt độ nhất định, từng vật liệu có một độ dẫn điện ảnh hưởng đến giá trị của dòng điện khi áp vào một điện thế. Những vật dẫn điện tốt bao gồm kim loại như đồng và vàng, trong khi thủy tinh và Teflon lại dẫn điện kém. Ở bất kỳ vật liệu cách điện nào, các electron vẫn bám vào các nguyên tử và vật liệu có tính chất như là một chất cách điện. Hầu hết các chất bán dẫn có mức độ dẫn điện biến đổi từ phạm vi dẫn điện cực tốt cho đến cách điện hoàn toàn. Mặt khác, các kim loại có cấu trúc dải điện tử chứa các vùng năng lượng được lấp đầy một phần bởi electron. Sự có mặt của những vùng năng lượng này cho phép các electron trong kim loại hành xử như chúng được tự do hoặc gọi là các electron phi định xứ (delocalized electrons). Những electron không liên kết với một nguyên tử nhất định, do vậy khi áp dụng một điện trường, chúng chuyển động tự do như một chất khí (được gọi là khí Fermi) đi qua vật liệu giống như các electron tự do.\nBởi vì có sự va chạm giữa các electron với các nguyên tử, vận tốc trôi của các electron trong một vật dẫn có độ lớn cỡ vài milimét trên một giây. Tuy nhiên, trường hợp có sự thay đổi dòng điện từ một điểm trong vật liệu gây ra sự thay đổi dòng điện ở điểm khác trong vật liệu, thì tốc độ lan truyền của hiệu ứng này, điển hình bằng khoảng 75% tốc độ ánh sáng. Điều này xảy ra bởi vì tín hiệu điện lan truyền như một sóng, với vận tốc phụ thuộc vào hằng số điện môi của vật liệu.\nĐa số kim loại có độ dẫn nhiệt tương đối tốt, chủ yếu bởi vì các electron phi định xứ vận chuyển năng lượng nhiệt tự do giữa các nguyên tử. Tuy nhiên, không giống như sự dẫn điện, sự dẫn nhiệt của một kim loại gần như độc lập với nhiệt độ của vật liệu. Điều này đã được phát biểu bằng định luật Wiedemann–Franz, nói rằng tỉ số độ dẫn nhiệt trên độ dẫn điện tỷ lệ thuận với nhiệt độ của vật liệu. Sự mất trật tự bởi nhiệt trong dàn tinh thể nguyên tử kim loại làm tăng điện trở của vật liệu, tạo ra sự phụ thuộc vào nhiệt độ đối với dòng điện.\nKhi làm lạnh vật liệu xuống dưới một mức gọi là nhiệt độ tới hạn, vật liệu trải qua sự chuyển pha trong đó nó mất hoàn toàn tính kháng điện (điện trở) đối với dòng điện, hay chính là hiệu ứng siêu dẫn. Trong lý thuyết BCS, các cặp electron được gọi là cặp Cooper trong chuyển động của chúng bắt cặp với nguyên tử gần đấy thông qua những dao động dàn nguyên tử gọi là phonon, do đó cặp Cooper tránh được va chạm với các nguyên tử mà thường tạo ra điện trở. (Các cặp Cooper có bán kính xấp xỉ bằng 100 nm, do đó nếu coi chúng như sóng vật chất thì chúng có thể chồng chập lẫn nhau.) Tuy nhiên, cơ chế cho hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu vẫn chưa có lý thuyết giải thích thỏa đáng.\nCác electron bên trong vật dẫn, mà chính chúng cũng là những giả hạt, khi đặt trong nhiệt độ rất gần với độ không tuyệt đối, có thể được phân ra thành ba loại giả hạt: spinon, orbiton và holon. Hạt đầu tiên mang spin và mômen từ, hạt tiếp theo mang vị trí orbital của nó trong khi hạt còn lại mang điện tích.\nChuyển động và năng lượng.\nTheo thuyết tương đối hẹp của Einstein, khi tốc độ của một electron tiệm cận tới tốc độ ánh sáng, người quan sát từ một hệ quy chiếu quán tính sẽ đo được khối lượng tương đối tính của hạt tăng lên, do đó khiến cho nó càng khó để có thể gia tốc nó từ bên trong hệ quy chiếu của người quan sát. Tốc độ của một electron có thể tiếp cận đến, nhưng không bao giờ bằng, tốc độ của ánh sáng trong chân không, \"c\". Tuy nhiên, khi các electron tương đối tính—là những electron chuyển động với tốc độ gần bằng \"c\"—chuyển động trong môi trường điện môi như nước, nơi vận tốc ánh sáng trong nó nhỏ hơn nhiều so với \"c\", các electron trong môi trường này có thể chuyển động nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Khi chúng tương tác va chạm với môi trường, chúng tạo ra một ánh sáng nhạt được gọi là bức xạ Cherenkov.\nCác hiệu ứng trong thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên một đại lượng gọi là hệ số Lorentz, được xác định bằng formula_1 với \"v\" là tốc độ của hạt. Động năng \"K\"e của một electron chuyển động với vận tốc \"v\" bằng:\nvới \"m\"e là khối lượng của electron. Ví dụ, ở máy gia tốc thẳng Stanford có thể gia tốc một electron tới động năng gần bằng 51 GeV. Vì một electron hành xử như dạng sóng, ở một vận tốc bất kỳ nó có một bước sóng de Broglie đặc trưng. Bước sóng này được cho bởi \"λ\"e = \"h\"/\"p\" với \"h\" là hằng số Planck và \"p\" là động lượng. Đối với electron có động năng 51 GeV ở trên, bước sóng de Broglie bằng , đủ nhỏ để khám phá các cấu trúc có kích thước nhỏ hơn kích cỡ của một hạt nhân nguyên tử.\nSự hình thành.\nLý thuyết Vụ Nổ Lớn là lý thuyết khoa học được chấp nhận rộng rãi hiện nay miêu tả những giai đoạn ban đầu của sự tiến hóa của Vũ trụ. Ở những miligiây đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, nhiệt độ trên 10 tỷ kelvin và các photon có năng lượng trung bình trên một triệu electronvolt. Các photon này có đủ năng lượng mà khi tương tác với nhau có thể dẫn tới sự hình thành cặp electron và positron. Ngược lại, những cặp positron−electron hủy lẫn nhau và phát ra các photon năng lượng cao:\nTrạng thái cân bằng giữa các electron, positron và photon được duy trì trong suốt giai đoạn này của sự tiến hóa Vũ trụ. Khi 15 giây trôi qua, tuy nhiên, nhiệt độ của Vũ trụ lúc này giảm xuống dưới ngưỡng cho phép hình thành cặp hạt electron−positron. Phần lớn các electron và positron tồn tại hủy lẫn nhau, giải phóng bức xạ gamma làm Vũ trụ nóng lên trong một thời gian ngắn.\nVì một lý do nào đó chưa được biết chắc chắn, trong suốt quá trình hủy cặp có sót lại một số lượng hạt nhiều hơn phản hạt vật chất. Cụ thể là có dư ra 1 electron tồn tại trong mỗi 1 tỷ cặp hạt electron−positron. Số lượng dư sót lại này bằng với số lượng proton còn dư từ quá trình hủy cặp hạt tương tự proton và phản proton, trong một điều kiện được gọi là bất đối xứng baryon, điều này mang đến tổng điện tích của toàn bộ Vũ trụ gần như bằng zero. Những proton và neutron còn dư lại bắt đầu tham gia vào các phản ứng với nhau—quá trình gọi là tổng hợp hạt nhân, tạo ra các đồng vị của hydro và heli, và một ít hạt nhân lithi. Các phản ứng này đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian ở sau năm phút. Bất kỳ neutron còn lại nào sẽ trải qua phản ứng phân rã beta âm với nửa thời gian sống bằng khoảng một nghìn giây, giải phóng ra một proton và một electron,\nTrong khoảng 300.000–400.000 năm tiếp theo, lượng các hạt electron còn lại có năng lượng quá lớn để có thể liên kết vào các hạt nhân nguyên tử. Giai đoạn tiếp theo là sự tái kếp hợp electron vào hạt nhân, khi ấy các nguyên tử trung hòa được hình thành và sự giãn nở của vũ trụ làm cho vật chất trở lên trong suốt với bức xạ.\nGần một triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, thế hệ các ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành. Trong lòng một ngôi sao, dây chuyền phản ứng tổng hợp hạt nhân sao cho ra các sản phẩm trong đó có positron. Những hạt phản vật chất này ngay lập tức hủy với các electron, giải phóng tia gamma. Gộp chung lại số lượng hạt electron bị giảm dần, và tương ứng số lượng hạt neutron tăng lên. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa sao cũng hình thành các sản phẩm là những đồng vị phóng xạ. Các đồng vị này có thể sau đó trải qua phân rã beta trừ, phát ra một electron và một phản neutrino từ hạt nhân. Một ví dụ là đồng vị cobalt-60 (60Co), mà phân rã thành nickel-60 (60Ni).\nCuối chu trình tiến hóa của chúng, một ngôi sao có khối lượng lớn hơn 20 lần khối lượng Mặt Trời đi đến kết cục suy sụp hấp dẫn để tạo thành một lỗ đen. Theo vật lý cổ điển, bên trong những ngôi sao khối lượng lớn này xuất hiện lực hút hấp dẫn đủ mạnh để ngăn bất kỳ thứ gì, kể cả bức xạ điện từ, thoát ra khỏi bán kính Schwarzschild. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử cho phép có khả năng tồn tại bức xạ Hawking ở phạm vi khoảng cách này. Các electron (và positron) được cho là tạo ra ở chân trời sự kiện của những tàn dư sao.\nKhi một cặp hạt ảo (như gồm một electron và một positron) được tạo ra tại biên giới của chân trời sự kiện, sự phân bố ngẫu nhiên trong vị trí của hạt có thể làm cho một trong hai hạt nằm ở bên trong chân trời sự kiện; mà quá trình này được gọi là sự xuyên hầm lượng tử. Thế năng hấp dẫn của lỗ đen có thể cấp năng lượng để biến một hạt ảo nằm bên ngoài chân trời sự kiện trở thành một hạt thực, cho phép nó bật phóng ra vào không gian. Đổi lại, hạt còn lại của cặp mang năng lượng âm và rơi về vùng kì dị lỗ đen, dẫn đến tổng cộng khối lượng−năng lượng của lỗ đen bị giảm đi. Tốc độ bức xạ Hawking tăng tiến khi khối lượng lỗ đen giảm dần, làm cho lỗ đen bốc hơi và cuối cùng là phát nổ.\nTia vũ trụ là những hạt chuyển động trong không gian với năng lượng cao. Các sự kiện năng lượng cao đến cỡ đã được ghi nhận. Khi những hạt này va chạm với các nucleon trong khí quyển Trái Đất, một trận mưa các hạt được tạo ra, bao gồm các pion. Hơn một nửa bức xạ vũ trụ được quan sát trên bề mặt Trái Đất có chứa các muon. Muon là một hạt loại lepton hình thành tại thượng tầng khí quyển sau quá trình phân rã của một pion.\nĐến lượt muon, nó có thể phân rã thành electron hoặc positron.\nQuan sát.\nQuan sát electron từ xa đòi hỏi việc đo được năng lượng bức xạ của chúng. Ví dụ, trong môi trường năng lượng cao như ở vành nhật hoa của một ngôi sao, các electron tự do tạo thành trạng thái plasma phát ra năng lượng dưới dạng bức xạ Bremsstrahlung. Khí electron có thể biểu hiện dao động plasma, đó là những sóng gây bởi những biến đổi đồng bộ trong mật độ electron, và những sóng này tạo ra phát xạ năng lượng có thể phát hiện được nhờ quan sát qua kính thiên văn vô tuyến.\nTần số của một photon tỷ lệ với năng lượng của nó. Khi một electron liên kết trong nguyên tử chuyển trạng thái giữa các mức năng lượng khác nhau, nó hấp thụ hoặc phát ra photon ở những tần số đặc trưng. Ví dụ, khi chiếu nguồn bức xạ phổ liên tục vào các nguyên tử sẽ xuất hiện các vạch phổ hấp thụ đặc trưng trong quang phổ của bức xạ phản xạ. Mỗi nguyên tố hoặc phân tử thể hiện một lớp đặc trưng các vạch quang phổ, như các vạch quang phổ hydro. Những phép đo lường quang phổ về cường độ và bề rộng của các vạch này cho phép xác định được thành phần và tính chất vật lý của một chất cần xác định.\nTrong điều kiện của phòng thí nghiệm, có thể quan sát tương tác của từng electron đơn lẻ nhờ các máy gia tốc hạt nhân, mà cho phép đo những tính chất cụ thể như năng lượng, spin và điện tích. Nhờ sự phát triển của các kỹ thuật bẫy ion như bẫy Paul và bẫy Penning cho phép giam giữ các hạt mang điện trong một thể tích đủ nhỏ với thời gian dài. Điều này đã cho phép đo lường các tính chất cũng như thao tác lên những hạt này. Ví dụ, bẫy Penning từng được ứng dụng để chứa một electron đơn lẻ trong thời gian 10 tháng. Mômen từ của electron đã được đo với độ chính xác đến 11 chữ số thập phân mà vào năm 1980, độ chính xác này còn lớn hơn độ chính xác đo được của bất kỳ các hằng số vật lý khác.\nBộ phim chụp ảnh đầu tiên về sự phân bố năng lượng của electron đã được thực hiện bởi một đội các nhà vật lý tại Đại học Lund ở Thụy Điển vào tháng 2 năm 2008. Họ đã sử dụng một xung nhịp ánh sáng cực ngắn, hay gọi là các xung atto giây, cho phép lần đầu tiên chụp ảnh được chuyển động của một electron.\nSự phân bố của các electron trong chất rắn có thể được biểu hiện nhờ kỹ thuật chụp quang phổ bức xạ phân giải góc (angle-resolved photoemission spectroscopy, ARPES). Kỹ thuật này ứng dụng hiệu ứng quang điện để đo hàm phân bố không gian giàn tinh thể—một hàm toán học biểu diễn đặc tính cấu trúc tuần hoàn được áp dụng để suy đoán ra cấu trúc ban đầu của tinh thể. ARPES được ứng dụng để xác định hướng, tốc độ và sự tán xạ của các electron bên trong vật liệu.\nCác ứng dụng plasma.\nChùm hạt.\nTrong công nghệ và kỹ thuật, các chùm tia electron đã được ứng dụng để thực hiện hàn bằng chùm electron giữa hai loại vật liệu. Chúng cho phép mật độ năng lượng của chùm tia hàn lên tới 107 W·cm−2 được tập trung trong một hình nón tròn đường kính cỡ mà thường không cần đòi hỏi phải có lớp vật liệu đệm thứ 3. Kỹ thuật hàn này phải được thực hiện trong chân không để tránh các electron va chạm với một trường khí xung quanh trước khi chúng đến được vật liệu cần hàn, và nó có thể được sử dụng để nối các loại vật liệu dẫn điện mà những biện pháp hàn khác không phù hợp để áp dụng.\nQuang khắc chùm điện tử (EBL) là phương pháp tạo các chi tiết bán dẫn ở mức phân giải nhỏ hơn 1 µm. Kỹ thuật này có hạn chế là giá thành cao, tốc độ sản xuất chậm, cần phải vận hành chùm điện tử trong môi trường chân không cao và các electron có xu hướng tán xạ trên bề mặt vật liệu. Độ phân giải tối đa của phương pháp này vào khoảng 10 nm. Vì lý do này, EBL được ứng dụng chủ yếu cho sản xuất một số nhỏ các vi mạch chuyên biệt.\nPhương pháp xử lý chùm điện tử (electron-beam processing, hoặc electron irradiation EBI) được ứng dụng để làm thay đổi các đặc tính của vật liệu hoặc khử trùng trong y học và thực phẩm bằng cách chiếu chùm điện tử vào sản phẩm. Chùm electron hóa lỏng hoặc làm tan chảy thủy tinh mà không gây tăng nhiều nhiệt độ khi thực hiện chiếu với cường độ cao: ví dụ bức xạ electron mạnh gây ra sự giảm độ nhớt ở nhiều bậc độ lớn và làm giảm từng bước năng lượng hoạt hóa của nó.\nCác máy gia tốc quỹ đạo thẳng (linear particle accelerator) tạo ra những chùm electron cho chùm sáng dùng để điều trị các khối u trên bề mặt trong trị liệu bức xạ. Trị liệu điện tử (electron therapy) có thể điều trị các thương tổn ở da như ung thư tế bào đáy bởi vì một chùm electron chỉ có thể thâm nhập xuống một độ sâu nhất định trước khi bị hấp thụ, thường là đến 5 cm đối với electron có năng lượng trong phạm vi 5–20 MeV. Một chùm electron có thể được sử dụng phối hợp với chiếu xạ tia X trong điều trị bệnh.\nCác máy gia tốc hạt sử dụng điện trường để đẩy các electron và phản hạt của chúng lên mức năng lượng cao. Những hạt này phát ra bức xạ đồng bộ khi chúng bay qua từ trường. Cường độ của bức xạ đồng bộ phụ thuộc vào phân cực spin của chùm electron—quá trình được gọi là hiệu ứng Sokolov–Ternov. Các chùm electron phân cực được ứng dụng trong nhiều thí nghiệm khác nhau. Bức xạ synchrotron có thể dùng làm mát chùm electron với mục đích làm giảm sự phân tán động lượng của chùm hạt. Các chùm electron và positron được cho va chạm với nhau trong máy gia tốc khi chúng đạt đến mức năng lượng yêu cầu; các máy dò hạt (particle detector) quan sát năng lượng của bức xạ phát ra, ghi lại những thông tin và tính chất cần nghiên cứu trong vật lý hạt.\nChụp ảnh.\nNhiễu xạ electron năng lượng thấp (Low-energy electron diffraction, LEED) là một phương pháp bắn vào vật liệu có cấu trúc tinh thể bằng một chùm electron chuẩn trực sau đó quan sát hình ảnh nhiễu xạ giúp xác định lên cấu trúc của vật liệu. Năng lượng đòi hỏi của các electron ở những chùm này trong khoảng 20–200 eV. Kỹ thuật phản xạ nhiễu xạ electron năng lượng cao (reflection high-energy electron diffraction, RHEED) sử dụng sự phản xạ của một chùm electron bắn đến với nhiều góc hẹp khác nhau để nghiên cứu đặc trưng bề mặt của vật liệu có cấu trúc tinh thể. Chùm năng lượng thường nằm trong khoảng 8–20 keV và góc bắn electron thường bằng 1–4°.\nKính hiển vi điển tử hoạt động dựa trên nguyên lý tập trung chùm electron vào một mẫu vật. Một số electron sau khi va chạm vào mẫu vật thì bị thay đổi đặc tính, như hướng chuyển động, góc phản xạ và pha tương đối cũng như năng lượng bị giảm đi. Các nhà hiển vi học ghi lại những thay đổi này từ chùm electron để tái tạo ra những bức ảnh về mẫu vật. Trong ánh sáng xanh lam, các kín hiển vi quang học thông thường có giới hạn nhiễu xạ phân giải ở kích thước 200 nm. So sánh với kính hiển vi điện tử, loại này bị giới hạn bởi bước sóng de Broglie của electron. Ví dụ, bước sóng này bằng 0,0037 nm đối với những electron được gia tốc trong điện trường cỡ 100.000 volt. Kính hiển vi truyền điện tử hiệu chỉnh quang sai (Transmission Electron Aberration-Corrected Microscope) có độ phân giải dưới 0,05 nm, đủ để phân biệt được từng nguyên tử. Khả năng này mang lại những lợi thế cho sử dụng kính hiển vi điện tử trong phòng thí nghiệm để chụp các bức ảnh có độ phân giải cao. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử là những thiết bị đắt tiền và tốn nhiều chi phí hoạt động và bảo trì.\nCó hai loại kính hiển vi điện tử: Loại truyền qua và loại quét bề mặt. Kính hiển vi điện tử truyền qua hoạt động giống như một máy chiếu, với một chùm electron được cho chiếu qua một lát vật liệu sau đó nó được hội tụ trên phim âm bản hoặc cảm biến CCD. Kính hiển vi điện tử quét bề mặt dùng chùm electron quét lên bề mặt mẫu vật, giống như hiển thị trên ti vi màn hình ống, để thu được bức ảnh về nó. Độ phóng đại của hai loại kính này vào cỡ 100× đến 1.000.000. Kính hiển vi quét xuyên hầm sử dụng hiệu ứng chui hầm lượng tử của electron từ mũi nhọn của một đầu dò kim loại để nghiên cứu vật liệu và tạo ra bức ảnh bề mặt vật liệu có độ phân giải cao.\nCác ứng dụng khác.\nTrong laser electron tự do (FEL), một chùm electron tương đối tính đi qua dãy các nam châm lưỡng cực (undulator) bị đổi hướng luân phiên do hướng của từ trường tạo bởi dãy các nam châm này. Vì đổi hướng luân phiên như vậy nên các electron phát ra bức xạ synchrotron một cách nhịp nhàng và đều đặn, bức xạ được khuếch đại ở tần số cộng hưởng. FEL có thể phát ra bức xạ điện từ với độ rọi cao trong dải tần số rộng, từ sóng vi ba cho đến tia X mềm. Những thiết bị này được sử dụng trong sản xuất, viễn thông, và trong các ứng dụng y tế, như phẫu thuật các mô mềm.\nỐng tia âm cực chứa electron, mà đã từng được sử dụng thường xuyên cho các màn hình hiển thị tại nhiều thiết bị thí nghiệm, màn hình máy tính và máy truyền hình. Trong một đèn nhân quang điện, mỗi photon va chạm đến âm cực quang khởi tạo ra một luồng các electron để hình thành một xung dòng điện mà bộ dò phát hiện được. Ống điện tử chân không sử dụng luồng các electron để thao tác lên tín hiệu điện, và chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công nghệ điện tử. Tuy nhiên, ngày nay chúng đã bị thay thế bởi các thiết bị bán dẫn như transistor." ]
electron - in - nhit - lng - neutron - thuyt - ht - einstein - proton - quark
1
false
Xuân phân theo lịch Trung Quốc cổ đại, là điểm giữa của mùa xuân, nó là một trong hai mươi tư tiết khí trong nông lịch và tiết khí này bắt đầu từ điểm giữa mùa xuân. Theo định nghĩa này, thời điểm bắt đầu của nó trùng với khái niệm điểm xuân phân (tiếng Anh: "Vernal equinox") tại Bắc Bán cầu theo quan điểm của khoa học phương Tây. Tuy nhiên, theo khoa học phương Tây thì điểm xuân phân lại là thời điểm bắt đầu mùa xuân tại Bắc Bán cầu, thời điểm mà Mặt Trời xuất hiện trên "thiên xích đạo" (Mặt Trời ở gần xích đạo nhất) và đi lên hướng Bắc. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để chỉ một điểm trên bầu trời là điểm đầu tiên của cung Bạch Dương trong Hoàng đạo. Về mặt thời gian, xuân phân diễn ra vào khoảng 19 tháng 3 đến 21 tháng 3, thời gian chính xác của nó là khoảng 5 h 49 m muộn hơn so với năm trước trong những năm thường và khoảng 17 h 26 m sớm hơn trong những năm nhuận. (Xem thêm chu kỳ 400 năm của năm nhuận để biết thêm về sai số trong lịch Gregory.). Theo quy ước, tiết Xuân phân là khoảng thời gian bắt đầu từ 21 tháng 3 và kết thúc vào khoảng ngày 4 hay 5 tháng 4 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết Thanh minh bắt đầu. Ở Nam bán cầu thì thời điểm đó lại là điểm thu phân. Tại một số quốc gia, như Hoa Kỳ và châu Âu (Ở Bắc Bán cầu), xem ngày này là bắt đầu Mùa Xuân theo thiên văn. Từ nguyên. Chữ Hán: 春分. Thiên văn. Theo khoa học thiên văn phương Tây, điểm mà Mặt Trời vượt qua xích đạo bầu trời đi lên Bắc thiên cầu gọi là điểm xuân phân. Các nhà thiên văn và chiêm tinh cổ (vào thiên niên kỷ I TCN) đã chọn điểm xuân phân là điểm đầu tiên của cung Bạch Dương. Tuy nhiên, do chuyển động tuế sai của trục Trái Đất, mỗi năm điểm xuân phân di chuyển trên hoàng đạo một cung khoảng 50,29 giây. Hiện nay, điểm này không còn ở trong cung Bạch Dương nữa mà đang ở trong cung Song Ngư. Đến khoảng năm 2600 nó sẽ ở trong cung Bảo Bình (do dó có thuật ngữ "kỷ nguyên Bảo Bình"). Đối với Nam bán cầu, điểm xuân phân lại là điểm bắt đầu của mùa thu. Chuyển động của Mặt Trời. Tại điểm xuân phân, người quan sát sẽ thấy Mặt Trời khi đó mọc "chính xác" ở phía Đông và lặn "chính xác" ở phía Tây. Có thể nói nôm na là Xuân phân là thời điểm mà trước và sau đó khoảng ba tháng Mặt Trời có xu hướng mỗi ngày mọc và lặn nhích dần về phía bắc. Lễ hội. Đối với Việt Nam thì ngày này không có gì đặc biệt lắm. Tuy nhiên đối với một số quốc gia trên thế giới thì đây là một ngày hội. Theo lịch Trung Hoa thì ngày Xuân phân đánh dấu giữa mùa xuân, nhưng theo lịch thiên văn của Hoa Kỳ và một số quốc gia châu Âu, thì ngày này là bắt đầu mùa xuân. Lễ hội Norouz (lễ hội năm mới hay lễ hội đầu xuân) của Iran được tổ chức vào ngày này, tôn giáo Baha'i gọi lễ này là "Naw-Rúz"; ngoài ra còn có lễ hội Ostara của đạo Wicca, một trong tám lễ hội Sabbat của những người theo đạo đa thần giáo kiểu mới ("neopagan") này. Lễ hội Chol Chnam Thmay mừng năm mới của người Khmer bắt đầu vào khoảng giữa tháng 4 dương lịch và các ngày Tết Lào, Tết Thái Lan, Tết Miến Điện cũng bắt đầu vào giữa tháng 4. Giữa tháng 3 cũng bắt đầu tháng Nisan, tháng đầu tiên theo lịch tôn giáo của người Do Thái. Năm mới Tamil được tổ chức sau ngày Xuân phân, được tổ chức tại bang miền nam Ấn Độ (Tamil Nadu). Tại Nhật Bản ngày Xuân phân (春分の日) là ngày lễ chính thức của quốc gia để mọi người đi tảo mộ và đoàn tụ gia đình. Lễ Phục sinh ở các quốc gia theo Cơ đốc giáo được tổ chức vào ngày chủ nhật đầu tiên ngay sau khi trăng tròn kể từ ngày Xuân phân (Xem thêm cách tính). Ngày Trái Đất được kỷ niệm vào ngày Xuân phân hàng năm kể từ ngày đầu tiên là 21 tháng 3 năm 1970. Giờ Trái Đất được kỷ niệm vào thứ bảy cuối cùng của tháng 3.
514
514_tit_maya_lch_tri
[ "tit", "maya", "lch", "tri", "baktun", "gregory", "xun", "2012", "im", "hay" ]
[ "Cốc vũ là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 19 hay 20 tháng 4 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 30° (kinh độ Mặt Trời bằng 30°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là \"Mưa rào\".\nTheo quy ước, tiết cốc vũ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 19 hay 20 tháng 4 khi kết thúc tiết thanh minh và kết thúc vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 5 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết lập hạ bắt đầu.\nLịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và cốc vũ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Cốc vũ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 30°. Ngày diễn ra hay bắt đầu tiết cốc vũ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 19 hay 20 tháng 4 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước cốc vũ là thanh minh và tiết khí kế tiếp sau là lập hạ.\nTừ nguyên.\nChữ Hán: 穀雨.", "Nông lịch, thường gọi là âm lịch, là một loại âm dương lịch hiện vẫn còn được sử dụng ở các quốc gia và khu vực chịu ảnh hưởng của nền văn minh lúa nước. Về thực chất, nó là một loại âm dương lịch tạo ra bởi sự kết hợp của âm lịch thuần túy với thời điểm xảy ra tiết khí, là những cái được tính theo dương lịch. Lịch này hiện nay chủ yếu được sử dụng để tính toán các ngày lễ hội quan trọng như Tết Nguyên Đán hay Tết Trung thu, cũng như để tính toán ngày tháng cho các công việc trọng đại như cưới xin, khởi công xây dựng nhà cửa, mồ mả, mua sắm những đồ vật có giá trị lớn v.v... Điều này không chỉ thịnh hành ở nông thôn mà còn ở các thành phố lớn. Các loại nông lịch của người Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam, Singapore về cơ bản là gần giống như lịch của người Trung Quốc. Người Nhật Bản tính theo múi giờ UTC+9 cũng như quy tắc hơi khác, người Việt Nam tính theo UTC+7 cho nên có thể có sai biệt nào đó so với nông lịch Trung Quốc về thời điểm bắt đầu và kết thúc của mỗi tháng (tức số ngày trong tháng) cũng như tháng nhuận.\nỞ Trung Quốc, và các nước nêu trên, lịch này còn gọi là Hạ lịch (夏曆), \"nông lịch\" (農曆), khác với \"công lịch\" (公曆), hay \"tây lịch\" (西曆). Ngoài ra người ta còn gọi nó là \"cựu lịch\" (舊曆) sau khi \"tân lịch\" (新曆), tức lịch Gregory được sử dụng như là lịch chính thức.\nLịch sử.\nBắt đầu.\nTruyền thuyết về sự khởi đầu của lịch Trung Quốc cho rằng lịch này có từ trước thiên niên kỷ 1 TCN. Truyền thuyết cho rằng lịch Trung Quốc do Hoàng Đế phát minh. Nhưng chỉ là truyền thuyết vì lịch được tính theo văn hóa lúa nước bắt nguồn từ Bách Việt (lúc này không biết Bách Việt nằm ở đâu nếu không có người Hoa (Hạ) gọi tên họ như vậy). Ông là người cai trị Trung Quốc khoảng năm 2698-2599 trước Công Nguyên. Vị hoàng đế huyền sử thứ tư là Đường Nghiêu đã thêm vào các tháng nhuận. Chu kỳ 60 năm, Can-Chi (干支 \"gānzhī\"), được thêm vào cho các năm từ thế kỷ 1 TCN. Cho là Hoàng Đế lên ngôi khi đã lớn, năm đầu tiên của chu kỳ đầu tiên là năm 2637 TCN theo như Herbert A. Giles, trong quyển \"A Chinese-English Dictionary\" (1912), cũng như tất cả các tác giả phương Tây khác trong thời kỳ cuối của nhà Thanh. Vì thế cho đến năm 1984 thì chu kỳ hiện tại là 78. Tuy nhiên, một số tác giả hiện đại cho rằng năm đầu tiên của chu kỳ đầu tiên là 2697 TCN khi mà Hoàng Đế còn nhỏ, và nói là hiện nay chúng ta đang ở chu kỳ 79. Hai cách tính kỷ nguyên này đã tạo ra hai cách tính toán năm liên tục, tạo ra \"năm Trung Quốc\" là 4642 hay 4702 cho đến đầu năm 2005.\nTuy nhiên, các chu kỳ 60 được đánh số liên tục và các năm dựa trên chúng là phát kiến của các nhà niên đại học phương Tây—người Trung Hoa không sử dụng chúng. Họ sử dụng các chu kỳ không đánh số, mặc dù nó có vai trò có lợi đối với năm niên hiệu, được công bố bởi các hoàng đế Trung Hoa. Thực vậy, việc \"không\" sử dụng niên hiệu của hoàng đế tương đương với sự làm phản mà hình phạt của nó là tử hình. Nhưng cuộc nổi dậy của Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900 đã làm người lãnh đạo không chính thức của Trung Quốc, Từ Hi Thái hậu, bị suy yếu và dễ tổn thương trước các thách thức từ phía những người đi theo xu hướng cộng hòa, đây là những người cố ý dùng hệ thống đếm năm liên tục nhằm bất hợp pháp hóa nhà Thanh bằng cách từ chối sử dụng niên hiệu của nó. Mặc dù báo chí cộng hòa sử dụng nhiều hơn một niên đại, cái mà Tôn Trung Sơn lựa chọn, 2698 TCN, đã được công nhận bởi phần lớn các cộng đồng Hoa kiều ngoài khu vực Đông Nam Á như phố người Hoa ở San Francisco, dẫn đến năm 4703 của họ được bắt đầu vào năm 2005. Nhiều nhà niên đại học, không biết lịch sử của nó, cho rằng 2698 TCN là sai lầm đối với kỷ nguyên 2697 TCN thu được từ các chu kỳ 60, trong khi nó thực sự là kỷ nguyên duy nhất được một số người Trung Quốc sử dụng thật sự, mặc dù chỉ là thiểu số (phần lớn người Trung Hoa không sử dụng bất kỳ một kiểu đếm số năm từ kỷ nguyên truyền thuyết).\nLịch sử sơ kỳ.\nCác chứng cứ khảo cổ học sớm nhất của lịch Trung Quốc xuất hiện trên các tấm xương bói toán vào thời kỳ cuối của thiên niên kỷ 2 TCN thời nhà Thương. Các tấm xương này chỉ ra năm âm dương lịch có 12 tháng và thỉnh thoảng có tháng thứ 13, cũng như thậm chí có tháng thứ 14. Bởi vì ngày tháng Trung Quốc là có cơ sở vững chắc bắt đầu từ năm 841 TCN, lịch của thời kỳ đầu nhà Chu được biết đến như là lịch với tháng nhuận được thêm vào một cách tùy tiện. Tháng đầu tiên của năm khi đó rất gần với đông chí và tháng nhuận của nó là sau tháng thứ 12. Lịch tứ phân (四分 \"sìfēn\") bắt đầu khoảng năm 484 TCN, là lịch đầu tiên được tính toán ở Trung Quốc. Nó được đặt tên như thế vì nó sử dụng năm Mặt Trời với 365¼ ngày, cùng với quy tắc chu kỳ 19 năm = 235 tháng, được biết đến ở phương tây là chu kỳ Meton. Đông chí khi đó nằm trong tháng đầu tiên và tháng nhuận của nó được chèn thêm vào sau tháng thứ mười hai. Bắt đầu từ năm 256 TCN của vương quốc Tần, sau này là nhà Tần, tháng nhuận là tháng phụ thứ chín vào cuối năm mà bây giờ bắt đầu bằng tháng thứ mười, và đông chí nằm trong tháng thứ mười một. Cách tính năm như thế được sử dụng cho đến nửa thời kỳ đầu của nhà Tây Hán.\nQuy tắc \"Trung khí\".\nVua Hán Vũ đế của nhà Hán đã đề ra các quy tắc cơ bản mà lịch Trung Quốc áp dụng từ đó đến nay. Lịch Thái sơ (太初, \"Tàichū\" - sự khởi đầu vĩ đại, niên hiệu của Hán Vũ đế) của ông năm 104 TCN là năm với đông chí nằm trong tháng thứ mười một và được thiết kế để tháng nhuận có thể là bất kỳ tháng nào (tháng 29 hay 30 ngày) mà trong tháng đó Mặt Trời không đi qua các điểm \"Trung khí\" (tức là Mặt Trời chỉ nằm trong một cung hoàng đạo). Vì chuyển động trung bình của Mặt Trời (biểu kiến) được sử dụng để tính toán tiết khí cho đến tận năm 1645, tháng nhuận như thế có thể xuất hiện sau bất kỳ tháng nào của năm với cùng một xác suất. Tuy nhiên, sự giao hội của Mặt Trời và Mặt Trăng (hay sóc) sử dụng chuyển động trung bình của cả hai thiên thể này chỉ cho đến năm 619, năm thứ hai của nhà Đường, khi cả hai chuyển động bắt đầu được sử dụng mô hình chuyển động thật với hai parabôn quan trắc ngược nhau (với những thành phần nhỏ tuyến tính và lập phương). Tuy nhiên, các parabôn không phù hợp với chuyển động trung bình, mà phù hợp với những điểm gián đoạn hay bước nhảy.\nChuyển động thực của Mặt Trời và Mặt Trăng.\nSau khi thiên văn học của châu Âu được giới thiệu vào Trung Hoa bởi các giáo sĩ dòng Tên, chuyển động của cả Mặt Trời và Mặt Trăng bắt đầu được tính toán bằng các hàm lượng giác trong lịch Thời Hiến (時憲 \"Shíxiàn\") năm 1645 của nhà Thanh, lịch này được lập bởi giáo sĩ Adam Schall, tên Trung Hoa là Thang Nhược Vọng. Chuyển động thật của Mặt Trời (biểu kiến) bấy giờ được sử dụng để tính tiết khí. Tháng nhuận thông thường hay xảy ra sau tháng thứ hai cho đến tháng thứ chín và ít khi xảy ra sau tháng thứ mười nếu tính từ tháng đầu tiên. Rất ít thời gian trong mùa thu-đông có một hay hai tháng mà Mặt Trời đi qua hai cung hoàng đạo, lẫn với hai hay ba tháng mà Mặt Trời chỉ nằm trong một cung hoàng đạo.\nCải cách lịch Gregory và thay đổi thời gian năm 1929.\nLịch Gregory được công nhận bởi Trung Hoa Dân Quốc, lúc đó mới ra đời, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1912 cho các hoạt động chính thức, nhưng dân chúng vẫn tiếp tục sử dụng lịch truyền thống của nhà Thanh. Tình trạng của lịch Gregory trong khoảng 1916 đến 1921, khi Trung Quốc bị kiểm soát bởi các đốc quân, không được rõ. Từ khoảng 1921 đến 1928 các đốc quân vẫn tiếp tục kiểm soát phía bắc Trung Quốc, nhưng Quốc dân đảng đã kiểm soát miền nam Trung Quốc và có lẽ họ đã sử dụng lịch Gregory. Sau khi Quốc dân đảng công bố cải tổ lại Trung Hoa Dân Quốc 10 tháng 10 năm 1928, họ ra sắc lệnh bắt buộc sử dụng lịch Gregory có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1929. Họ cũng ra sắc lệnh có hiệu lực từ ngày này mọi người dân phải sử dụng múi thời gian bờ biển đã được dùng trong tất cả các cảng hiệp ước, cho các cảng dọc theo bờ biển phía đông Trung Quốc, ký với châu Âu (theo Hiệp ước Nam Kinh 1842) từ năm 1904. Điều này đã thay đổi thời điểm bắt đầu mỗi ngày đối với cả lịch truyền thống và lịch Gregory một lượng +14,3 phút từ nửa đêm Bắc Kinh tới nửa đêm tại kinh độ 120° đông tính từ Greenwich.\nĐiều này đã sinh ra một số sai biệt, chẳng hạn như đối với Tết Trung Thu năm 1978. Điểm sóc khi đó là ngày 3 tháng 9 năm 1978, hồi 00:07, Giờ chuẩn Trung Quốc. Sử dụng lịch cũ theo múi giờ Bắc Kinh, sóc xảy ra lúc 23:53 ngày 2, vì thế tháng Tám (âm lịch) bắt đầu trong các ngày khác nhau tùy theo từng loại lịch. Người Hồng Kông (sử dụng lịch truyền thống) ăn Tết này vào ngày 16 tháng 9, nhưng những người Trung Quốc khác ăn Tết này vào ngày 17 tháng 9.\nQuốc dân đảng có thể đã bắt đầu đánh số năm của nền cộng hòa của họ vào năm 1929, bắt đầu từ năm 1912 như là năm 1. Khi những người cộng sản giành được quyền kiểm soát đối với Trung Hoa đại lục 1 tháng 10 năm 1949, họ chỉ đơn giản là tiếp tục sử dụng lịch Gregory, nhưng bắt đầu từ đây đánh số năm theo kiểu phương tây, bắt đầu với 1949. Ở cả Trung Hoa đại lục và Đài Loan, các tháng của lịch Gregory được đánh số từ 1 đến 12 giống như các tháng của lịch truyền thống.\nQuy tắc.\nCác quy tắc sau có hiệu lực từ năm 104 TCN, mặc dù một số chi tiết đã từng là không cần thiết trước năm 1645. Cũng lưu ý là các quy tắc này không chỉ rõ các tính toán chi tiết dựa trên cơ sở của chuyện động thật hay trung bình của Mặt Trời, Mặt Trăng, điều này phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử.\nCung Hoàng Đạo mà Mặt Trời đi qua trong tháng và kinh độ của đường hoàng đạo của các điểm đi vào các cung thông thường dùng để xác định tháng thông thường. Tháng 1, chánh nguyệt (\"zhēngyuè\"), tiếng Việt gọi là tháng giêng (tiếng Hoa là tháng khởi đầu - \"tháng nguyên\" có nghĩa đầu tiên. Từ đây phát sinh tên gọi \"tết + Nguyên Đán\" tức là buổi sáng sớm đầu tiên, \"tết + Nguyên Tiêu\" tức là buổi đêm đầu tiên v.v.).\nMười hai tháng âm lịch là khá gần với các sự kiện trong sự phát triển của thực vật và trong nông nghiệp, vì thế chúng còn có tên gọi khác theo các loài cây:\nMột số người tin rằng các quy tắc trên đây luôn luôn đúng, nhưng thực tế có một số ngoại lệ ngăn không cho Tết Nguyên Đán luôn luôn là sóc thứ hai sau Đông chí, hay có nghĩa là nó làm cho ngày lễ này diễn ra sau tiết \"Vũ Thủy\". Ngoại lệ này diễn ra vào các giai đoạn từ năm 2033 đến năm 2034, và từ năm 2128 đến năm 2129, khi Đông chí là tiết khí chính thứ hai trong tháng Một (11) âm lịch. Tháng tiếp theo không có tiết khí chính và do vậy nó là nhuận, và tháng Chạp (12) tiếp theo sau đó sẽ chứa cả Bảo Bình (\"Aquarius\") và Song Ngư (\"Pisces\") và hai tiết khí chính (\"Đại Hàn\" và \"Vũ Thủy\"). Năm Dần vì thế bắt đầu vào sóc thứ ba sau Đông chí, và nó diễn ra sau tiết Vũ Thủy - Song Ngư (\"Pisces\"), vào ngày 19 tháng 2.\nMột trường hợp khác là năm 1984-1985, khi Mặt Trời nằm trong cung Ma Kết (\"Capricorn\") ở 270° và Bảo Bình (\"Aquarius\") ở 300° trong tháng 11, và sau đó đi vào cung Song Ngư (\"Pisces\") ở 330° trong tháng kế tiếp, mà lẽ ra khi đó phải là trong tháng giêng (tháng 1). Mặt Trời đã không đi vào cung nào trong tháng kế tiếp. Để đảm bảo giữ cho Đông chí nằm trong tháng 11, tháng lẽ ra phải là tháng 1 (Dần) trở thành tháng 12, và tháng sau đó là tháng 1, làm cho Tết Nguyên Đán diễn ra vào 20 tháng 2 năm 1985 sau khi Mặt Trời đã vượt qua Pisces ở 330° trong tháng trước đó, hơn là nằm trong tháng bắt đầu trong ngày này.\nTrong các trường hợp khi tháng có 2 tiết khí chính diễn ra, nó luôn luôn xảy ra ở một khoảng thời gian nào đó giữa hai tháng không có tiết khí chính. Nó thông thường diễn ra đơn lẻ và nằm ở một trong hai bên hoặc gần với Đông chí, vì thế việc đặt Đông chí trong tháng 11 (quy tắc 4) sẽ dẫn đến phải chọn lựa tháng nào trong hai tháng không có tiết khí làm tháng nhuận. Năm 1984-1985, tháng ngay trước tháng 11 có hai tiết khí chính là tháng không có tiết khí chính và nó được tính là tháng 10 nhuận. Mọi tháng từ tháng có hai tiết khí chính tới tháng không có tiết khí chính mà không tính là nhuận được đánh số nối tiếp nhau theo quy tắc 2 tính như là các tháng thường. Phát biểu của quy tắc 5, lựa chọn tháng đầu tiên trong hai tháng không có tiết khí chính giữa tháng 11, là không bị bắt buộc kể từ lần cải cách lịch cuối cùng và cũng sẽ không cần thiết cho đến tận trường hợp của năm 2033-2034 và năm 2128-2129, khi các tháng có hai tiết khí chính sẽ nằm cạnh ba tháng không có tiết khí chính, hai trong số chúng sẽ nằm ở một bên của tháng 11. Tháng 11 nhuận rất ít khi xảy ra. Xem \nCác ngoại lệ như trên đây là rất hiếm. Tới 96,6% các tháng chỉ chứa một tiết khí chính (điểm vào trong một cung hoàng đạo), nó phù hợp với quy tắc đánh số của bảng tiết khí, và 3,0% các tháng là nhuận (luôn luôn là tháng không có tiết khí chính). Chỉ có 0,4% các tháng hoặc là có hai tiết khí chính hoặc là các tháng kế tiếp được đánh số lại.\nĐiều này chỉ xảy ra sau cải cách lịch năm 1645. Khi đó người ta cần thiết phải cố định một tháng luôn luôn chứa tiết khí chính của nó và cho phép các tháng còn lại đôi khi không chứa tiết khí chính của nó. Tháng 11 đã được chọn, vì tiết khí chính của nó (Đông chí) tạo ra sự khởi đầu của năm Mặt Trời trong lịch Trung Quốc.\nLịch Trung Quốc và lịch Gregory thông thường sẽ đồng bộ trở lại sau 19 năm (chu kỳ Meton). Tuy nhiên, chu kỳ 19 năm với các bộ tháng nhuận định sẵn chỉ là tương đối, vì thế các mô hình xác định tháng nhuận trong các chu kỳ kế tiếp nhau cuối cùng sẽ thay đổi sau vài lần chu kỳ 19 năm thành chu kỳ 19 năm hoàn toàn khác.\nHoàng đạo Trung Hoa (xem các phần Danh pháp và Địa Chi) chỉ sử dụng để đặt tên năm - nó thực sự không được sử dụng để tính lịch. Trên thực tế, người Trung Quốc có hệ thống chòm sao hoàn toàn khác.\nDanh pháp.\nCác năm được đặt tên theo chu kỳ của 10 Thiên Can và chu kỳ của 12 Địa Chi. Mỗi năm được đặt tên theo cặp của một can và một chi gọi là Can Chi (干支 \"gānzhī\"). Thiên Can phối hợp với Âm Dương và Ngũ hành. Chu kỳ 10 năm của Can bắt đầu từ can Giáp những năm tận cùng bằng 4 như 1984, 1994, 2004 v.v., còn đối với năm trước công nguyên là 7. Địa Chi liên kết với 12 con vật tượng trưng. Chu kỳ 12 năm bắt đầu bằng chi Tý (Tí) với những năm chia cho 12 còn dư 4 như 1984, 1996 v.v. hay trong phép chia cho 12 còn dư 9 nếu là năm trước Công nguyên như 9 TCN (Nhâm Tý), 21 TCN (Canh Tý), v.v. (lưu ý là không có năm 0, sau ngày 31 tháng 12 năm 1 TCN (năm Canh Thân) là ngày 1 tháng 1 năm 1 (năm Tân Dậu)).\nChu kỳ 60 năm tạo thành bởi tổ hợp của hai chu kỳ được biết như là \"chu kỳ Giáp Tý\" (甲子 \"jiǎzǐ\"). Nó không phải là 120 vì hai chu kỳ này quay vòng tuần hoàn độc lập với nhau. Do vậy không thể có những tổ hợp như Giáp Sửu chẳng hạn. Gọi là chu kỳ Giáp Tý vì năm đầu tiên của chu kỳ 60 năm là năm Giáp Tý.\nChu kỳ 60 năm là không đủ cho các tham chiếu lịch sử. Trong thời kỳ phong kiến, niên hiệu (tên kỷ nguyên của một ông vua) được đặt trước tên của năm để phân biệt. Ví dụ: Khang Hi Nhâm Dần (康熙壬寅), hay năm 1662, là năm Nhâm Dần (壬寅) đầu tiên trong thời gian trị vì của hoàng đế Khang Hi (康熙). Khang Hi cũng là trường hợp duy nhất trong lịch sử Trung Quốc trị vì trên 60 năm, cho nên năm Khang Hi Nhâm Dần vừa là năm 1662 khi Khang Hi lên ngôi, vừa là năm 1722 khi ông băng hà. Sử dụng niên hiệu của vua là tiềm ẩn sự thừa nhận tính hợp pháp của vị vua đó, là rất quan trọng về chính trị trong trường hợp kế vị đầy tranh cãi hay nổi loạn. Tuy nhiên, nó cũng gây ra khó khăn cho các nhà sử học Trung Quốc trong việc cho rằng triều đại nào là hợp pháp hơn khi nói về các thời kỳ sớm hơn, khi mà Trung Quốc bị chia sẻ.\nCác tháng, ngày và giờ cũng có thể được biểu thị bằng Can Chi, mặc dù chúng nói chung được biểu diễn chủ yếu theo các số đếm Trung Hoa. Cùng với nó, bốn cặp Can-Chi tạo ra bát tự (八字 \"bāzì\") được sử dụng trong chiêm tinh học Trung Quốc.\nCó sự phân biệt giữa năm tính theo Mặt Trời và năm tính theo Mặt Trăng trong lịch Trung Quốc do nó là một loại âm dương lịch. Năm dựa theo Mặt Trăng (年 \"nián\" = niên) là từ một Tết Nguyên Đán đến Tết Nguyên Đán tiếp theo. Năm dựa theo Mặt Trời (歲 \"suì\" = tuế) có thể là chu kỳ giữa một Lập xuân và Lập xuân tiếp theo hay chu kỳ giữa hai Đông chí (xem phần tiết khí). Năm dựa theo Mặt Trăng được sử dụng để tính ngày, trong khi năm dựa theo Mặt Trời (đặc biệt là năm giữa hai Đông chí) để tính tháng.\nMười hai chi.\nMười hai con vật đại diện cho mười hai địa chi theo trật tự là chuột, bò (Việt Nam: trâu), hổ, thỏ (Việt Nam: mèo), rồng, rắn, ngựa, cừu (hay dê), khỉ, gà, chó và lợn (bắc Việt Nam: heo là cách gọi lợn của miền nam).\nTruyền thuyết giải thích trật tự được phân chia cho các con vật. Cả 12 con vật đánh lẫn nhau để tranh giành quyền đứng trước trong chu kỳ các năm của lịch, vì thế Ngọc Hoàng phải tổ chức một cuộc thi để xác định trật tự. Mọi con vật xếp hàng ngang trên bờ sông và phải tìm cách sang bờ sông bên kia. Trật tự trong lịch của chúng sẽ là trật tự khi chúng sang đến bên kia bờ sông. Mèo thì tự hỏi bằng cách nào có thể sang bờ sông bên kia khi mà nó rất sợ nước. Cũng trong thời gian ấy, bò tự hỏi bằng cách nào nó có thể sang đến bờ bên kia với thị lực kém. Con chuột láu lỉnh đề nghị là nó và mèo sẽ ngồi trên lưng bò và hướng dẫn cho nó qua sông. Bò đồng ý và làm việc cật lực mà không để ý đến những sự kiện trên lưng nó. Trong khi ấy, chuột lẻn ra đằng sau mèo và đẩy nó xuống nước. Khi bò đến gần bờ, chuột nhảy lên phía trước và kết thúc cuộc dua ở vị trí thứ nhất. Con lợn lười biếng sang đến bờ bên kia ở vị trí thứ mười hai. Vì thế chuột được đặt tên cho năm đầu tiên, bò ở vị trí thứ hai và lợn ở vị trí thứ 12 trong chu kỳ. Mèo vào đến bờ quá muộn, không còn chỗ cho nó trong lịch và nó thề rằng sẽ là kẻ thù truyền kiếp của chuột.\nTiết khí.\nCác tháng trong lịch Trung Quốc tuân theo các chu kỳ của Mặt Trăng. Lịch nông nghiệp dựa theo Mặt Trời với 24 điểm gọi là tiết khí (節氣). Chúng là các điểm đánh dấu các thay đổi bốn mùa để hỗ trợ nông dân quyết định khi nào trồng trọt hay thu hoạch mùa màng, trong khi âm lịch vì nguyên nhân trên là không đáng tin cậy để theo dõi. Thuật ngữ \"tiết khí\" thông thường được gọi là các \"điểm thời tiết\". Vì việc tính toán dựa theo Mặt Trời, các tiết khí rơi vào xấp xỉ cùng một ngày trong mọi năm dương lịch chẳng hạn như lịch Gregory, nhưng nó không tạo ra quy luật rõ ràng trong lịch Trung Quốc do quy tắc tính tháng nhuận của nó. Tiết khí được công bố hàng năm trong niên lịch cho nông dân. Tết Nguyên Đán thông thường là ngày sóc gần với Lập xuân. Cụ thể về tiết khí xem bài Tiết khí.\nGhi chú:\nLễ hội.\nMỗi năm theo lịch Trung Quốc có 9 lễ hội chính, 7 trong số đó xác định theo âm-dương lịch, 2 lễ hội còn lại có nguồn gốc từ lịch nông nghiệp (nông lịch) dựa theo Mặt Trời. (Lưu ý rằng nông dân thực tế sử dụng lịch Mặt Trời (dương lịch), và nó có 24 tiết khí để xác định khi nào thì cần gieo trồng ngũ cốc vì các đặc điểm thời tiết, khí hậu khi tính theo âm dương lịch truyền thống không chính xác. Tuy nhiên, lịch truyền thống cũng được biết đến như là nông lịch.)\nHai lễ hội đặc biệt đó là Tết Thanh Minh và lễ hội Đông chí, trùng với hai tiết khí tương ứng là Thanh minh và Đông chí, lễ hội đầu tiên diễn ra khi kinh độ của Trái Đất trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời là 15 độ, lễ hội sau ở vị trí 270 độ. Để tính toán âm lịch thì múi giờ được sử dụng là UTC+ 8.\nBảng dưới đây thể hiện 9 lễ hội này. Tuy nhiên, bảng này còn bỏ sót một số tết khác như Tết Hàn Thực (3 tháng 3 âm lịch) hay Tết Trùng Thập (10 tháng 10 âm lịch), đôi khi còn được tổ chức trang trọng hơn các lễ hội như Đông chí hay Thất tịch.\nLịch Triều Tiên.\nLịch truyền thống Triều Tiên có nguồn gốc từ lịch Trung Quốc. Đầu thế kỷ 19 Triều Tiên dựa vào quan hệ ngoại giao gần gũi với Trung Quốc trong khi không có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác. Để công nhận mối quan hệ này, các vị vua Triều Tiên tổ chức việc tiếp nhận lịch Trung Quốc từ hoàng đế Trung Hoa mỗi năm với một sự phô trương lớn. Lịch này có:\nLịch truyền thống Triều Tiên thông thường tính bắt đầu từ năm 2333 TCN, là thời gian thành lập ra Triều Tiên bởi Dangun theo huyền thoại.\nLịch truyền thống này hiện nay ít được sử dụng, ngoại trừ để tính toán các lễ hội truyền thống (xem thêm Lễ hội Triều Tiên theo âm lịch) và để đánh dấu ngày tháng sinh bởi những người cao tuổi.", "Hiện tượng 2012 bao gồm hàng loạt những người tin về thuyết mạt thế cho rằng vào ngày 21 tháng 12 năm 2012 là ngày tận thế hoặc sẽ xảy ra những sự kiện biến đổi lớn. Ngày này được coi là ngày kết thúc của một chu kỳ dài 5.125 năm trong lịch mà tiếng Anh gọi là \"Long Count\" (\"Lịch Đếm Ngày Dài\") của người Maya. Đã có những đề xuất về sự liên quan giữa ngày này với sự thẳng hàng của các sao trong thiên văn và những công thức thần số học.\nTín đồ Tân Kỷ nguyên giải thích ngày này đánh dấu một thời điểm bắt đầu một thời kỳ mà Trái Đất và cư dân sống trên đó có thể sẽ trải qua một sự biến đổi về thể chất hoặc tinh thần, và cho rằng năm 2012 có thể là cột mốc khởi đầu của một kỷ nguyên mới. Những người khác thì cho rằng năm 2012 sẽ đánh dấu sự kết thúc của thế giới hoặc là một thảm họa nhỏ hơn. Cả hai ý kiến này đều phổ biến trong sách và phim tư liệu, và được lan truyền rộng rãi trên các trang web và qua các nhóm thảo luận. Thảm cảnh được đưa ra cho ngày tận thế gồm có: Mặt trời sẽ đạt mức năng lượng cực đại hoặc sự va chạm của Trái Đất với một lỗ đen hay với hành tinh \"Nibiru\".\nCác học giả từ nhiều ngành khác nhau đã bác bỏ ý tưởng về những sự kiện tận thế sẽ xảy ra vào năm 2012. Những nhà nghiên cứu chính thống về người Maya cho thấy không tìm được trong bất kỳ tài liệu cổ thư nào còn sót lại của người Maya dự đoán về ngày tận thế sắp xảy ra, và cho rằng ý tưởng về lịch \"Long Count\" sẽ \"kết thúc\" trong năm 2012 là bóp méo lịch sử của người Maya. Hiện nay, những người Maya hiện đại phần lớn không tin về sự kiện 2012, còn nguồn tư liệu cổ của người Maya về vấn đề này rất hiếm và nhiều mâu thuẫn. Các nhà thiên văn học và những nhà khoa học khác đã phủ nhận và cho rằng những dự đoán về ngày tận thế là giả khoa học, họ tuyên bố những sự kiện tiên đoán ​​là trái ngược với các quan sát thiên văn đơn giản.\nLịch của người Maya.\nTháng 12 năm 2012 đánh dấu sự kết thúc của một \"b'ak'tun\"; tức là một khoảng thời gian trong lịch của người Maya (tiếng Anh: \"Mesoamerican Long Count calendar\", Lịch đếm ngày dài của Trung Bộ châu Mỹ cổ đại) được sử dụng ở Trung Mỹ trước khi người Châu Âu đặt chân đến. Mặc dù lịch này rất có thể là phát minh của người Olmec, nhưng nó lại trở nên gắn liền với nền văn minh Maya có thời kỳ phát triển kéo dài từ 900-250 TCN. Những hệ thống chữ viết cổ của người Maya đã được giải mã đáng kể, có nghĩa là các văn bản và vật liệu khắc chữ của họ vẫn còn tồn tại từ trước sự xâm chiếm của người châu Âu.\nKhông giống như Lịch vòng tròn có chu kỳ 52 năm vẫn được người Maya hiện đang sử dụng, lịch \"Long Count\" là dạng đường thẳng, và các đơn vị khoảng thời gian được tính theo hệ số 20: 20 ngày làm thành một \"uinal\", 18 \"uinal\" (tức 360 ngày) là một \"tun\", 20 \"tun\" là một \"k'atun\", và 20 \"k'atun\" (tức 144.000 ngày) tạo thành một \"b'ak'tun\". Vì vậy, một ngày của người Maya ký hiệu là \"8.3.2.10.15\" tương ứng với: 8 \"b'ak'tun\", 3 \"k'atun\", 2 \"tun\", 10 \"uinal\" và 15 ngày.\nNgày tận thế.\nVăn học dân gian của người Maya cho rằng có sự tồn tại của những \"chu kỳ thế giới\", tuy nhiên ghi chép này đã không còn nguyên vẹn nên đã để lại một đáp án mở với nhiều khả năng. Theo tập sử thi Popol Vuh, một cuốn sách tổng hợp chi tiết các tính toán của sự tạo thành thế giới do người K'iche' ở vùng cao nguyên (một trong những nhóm dân tộc Maya) để lại, thì chúng ta đang sống trong thế giới thứ tư. Sách \"Popol Vuh\" miêu tả, đầu tiên các vị thần sáng tạo ra ba thế giới nhưng bị thất bại, đến lần thứ tư mới thành công và cũng chính là nơi mà loài người đang sinh sống hiện giờ. Trong lịch của người Maya, thế giới trước đã kết thúc sau 13 \"b'ak'tun\", tức là khoảng 5.125 năm. \"Ngày 0\" của lịch đã được thiết lập lại trong quá khứ để đánh dấu sự kết thúc của thế giới thứ ba và bắt đầu thế giới hiện tại, thời điểm này tương ứng vào ngày 11 tháng 8 năm 3114 TCN theo lịch Gregorius đón trước. Điều này có nghĩa là thế giới thứ tư cũng sẽ đi đến thời điểm tận cùng của nó vào \"b'ak'tun\" thứ 13, hay theo cách ghi ngày của người Maya là 13.0.0.0.0, tức là ngày 21 tháng 12 năm 2012.\nNăm 1957, nhà thiên văn học và Maya học Maud Worcester Makemson đã viết rằng: \"sự hoàn tất một Chu Kỳ Lớn của 13 \"b'ak'tun\" mang một ý nghĩa vô cùng trọng đại đối với người Maya\". Năm 1966, Michael D. Coe khẳng định trong cuốn \"The Maya\" \"có một gợi ý... là sự hủy diệt sẽ giáng xuống bất chợt cho những con người trụy lạc của thế giới này vào ngày cuối cùng của \"b'ak'tun\" thứ 13. Như vậy hiện tại... vũ trụ của chúng ta sẽ bị tiêu diệt trong tháng 12 năm 2012 khi chu kỳ lớn của lịch Maya hoàn tất.\"\nKết luận.\nNiềm tin vào thảm họa sẽ đến trong khoảng thời gian ngày 21 tháng 12 năm 2012 được phần lớn các học giả nghiên cứu về người Maya cổ đại cho là một dự đoán sai, nhưng hiện tượng này vẫn thường được trích dẫn phổ biến trên các phương tiện truyền thông và văn hóa như một vấn đề của năm 2012. Nhiều nhà khoa học cho rằng hiện tượng vào năm 2012 sẽ lần nữa giống như vụ sự cố năm 2000 hoặc giống như bao lời tiên tri khác về ngày tận thế nhưng không thành sự thật.\nLời giải thích về ngày tận thế của Coe đã được nhiều học giả khác nhắc lại trong suốt những năm đầu của thập niên 1990. Tuy nhiên sau đó nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng ngày cuối cùng kết thúc \"b'ak'tun\" thứ 13 rất có thể là lý do cho một lễ kỷ niệm, chứ không phải là đánh dấu hết lịch. Học giả về người Maya, Mark Van Stone đã nói: \"không có bất kỳ điều gì trong lời tiên tri của người Maya, Aztec hay người Trung Mỹ cổ xưa cho rằng có một sự thay đổi bất ngờ hoặc trọng đại nào xảy ra trong năm 2012. Khái niệm về một 'Đại Chu Kỳ' sắp kết thúc hoàn toàn là phát minh của người hiện đại\". Năm 1990, hai nhà học giả về Maya là Linda Schele và David Freidel đã rút ra kết luận là người Maya \"chưa từng thai nghén bất kỳ ý nghĩ nào về ngày tận thế như nhiều người đã giả thuyết.\" Susan Milbrath, phụ trách bảo tàng nghệ thuật châu Mỹ Latinh và khảo cổ học tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Florida, nói rằng \"chúng tôi không có những ghi chép hoặc tin tức gì cho rằng [người Maya] đã từng nghĩ về một ngày chấm dứt thế giới vào năm 2012\". Sandra Noble, giám đốc điều hành của \"Foundation for the Advancement of Mesoamerican Studies\" ở Crystal River (Florida) nói rằng, đối với người Maya đó sẽ là một ngày lễ rất lớn để kỷ niệm ngày cuối cùng của một chu kỳ bình an vô sự. Về việc ngày 21 tháng 12 năm 2012 bị xem như là một sự kiện hoặc thời điểm của tận thế, Sandra cho rằng \"đó là một sự bịa đặt hoàn toàn, và là một cơ hội để nhiều người kiếm chác\". Còn ông E. Wyllys V Andrews, giám đốc Đại học Tulane viện nghiên cứu Trung Mỹ (MARI) cho rằng: \"sẽ có một chu kỳ tiếp theo. Chúng ta biết rằng người Maya đã nghĩ là có một chu kỳ trước chu kỳ này, và điều đó có nghĩa là họ hoàn toàn yên tâm với một chu kỳ tiếp theo sau chu kỳ này\".\nMối liên hệ của người Maya với b'ak'tun 13.\nCộng đồng người Maya hiện nay không chú trọng nhiều đến \"b'ak'tun\" 13. Mặc dù, Lịch chu kỳ vẫn được vài nhóm người Maya trên cao nguyên Guatemala sử dụng, nhưng cách tính lịch \"Long Count\" này đã được xem như là một sử dụng độc nhất bởi người Maya cổ đại mà các nhà khảo cổ vừa chỉ mới khám phá gần đây. Một bô lão người Maya là Apolinario Chile Pixtun và nhà khảo cổ học người México là ông Guillermo Bernal đều nhấn mạnh rằng \"ngày tận thế\" là một khái niệm của phương Tây, nó có rất ít hoặc chẳng có ảnh hưởng gì với đức tin của người Maya. Bernal nghĩ rằng ý tưởng đó đã được người phương Tây gán ghép cho người Maya bởi vì những chuyện hoang đường của họ đang dần \"cạn kiệt\". Nhà khảo cổ học người Maya, Jose Huchm nói: \"nếu giả sử tôi đi đến những cộng đồng nói tiếng Maya và hỏi họ những gì sẽ xảy ra trong năm 2012, họ sẽ chẳng có bất kỳ một ý kiến nào. Thế giới sẽ chấm hết? Họ sẽ chẳng thèm tin bạn đâu. Chúng tôi có nhiều mối bận tâm thực sự ở hiện tại, như là mưa chẳng hạn\".\nChẳng có gì là chắc chắn chứng minh người Maya cổ đại đã quan trọng hóa \"b'ak'tun\" 13. Hầu hết các sử liệu chính xác từ các bảng khắc ghi chép của người Maya cổ đại để lại không có tuyên bố nào hàm ý dự đoán hay tiên tri. Tuy vậy, có 2 chỗ trong sử liệu của người Maya có thể có đề cập đến sự kết thúc của \"b'ak'tun\" thứ 13, đó là: \"Đài tưởng niệm Tortuguero 6\" và \"the Chilam Balam\".\nTortuguero.\nKhu di tích khảo cổ Tortuguero nằm ở cực Nam Tabasco-México có từ thế kỷ thứ VII, bao gồm hàng loạt các chữ khắc trên bia chủ yếu là để vinh danh vị vua đương thời là \"Bahlam Ajaw\". Một dòng chữ trên đài tưởng niệm Tortuguero 6 có liên quan đến \"b'ak'tun\" 13. Nó đã bị xóa đi một phần, Sven Gronemeyer và Barbara MacLeod đã đưa ra bản dịch hoàn chỉnh nhất:\nRất ít điều được biết về thần Bolon Yokte. Theo một bài viết của nhà Maya học Markus Eberl và Christian Prager trong Báo cáo nhân chủng học, tên của ông bao gồm các yếu tố: \"số chín\", 'te-OK '(vẫn có giải nghĩa của chữ này), và \"thần \". Sự rắc rối của những chữ khắc quá xưa này cho thấy đây là một vị thần rất cổ và những chữ này không giống với những tài liệu sao chép hiện có. \"B'olon-Yokte\" cũng xuất hiện trong các bảng khắc khác được tìm thấy tại Palenque, Usumacinta; và La Mar và được miêu tả như là một vị thần của xung đột, chiến tranh và địa ngục. Trong một tấm bia, thần \"B'olon-Yokte\" được trang trí với một sợi dây quanh cổ, và trong một tấm bia khác thì với túi hương, cả hai vật này đều là vật cúng tế trong các dịp tất niên.\nDựa trên những quan sát các nghi thức hiện đại của người Maya, Gronemeyer và MacLeod đã xác nhận là tấm bia đề cập đến một lễ kỷ niệm, trong đó một người đóng vai 'K'uh Bolon Yokte' sẽ mặc lễ phục và diễu hành quanh một khu vực. Gronemeyer và MacLeod nhấn mạnh sự liên hệ giữa Bolon Yokte 'K'uh với \"b'ak'tun\" thứ 13 trong tấm bia này dường như là rất quan trọng. Lễ kỉ niệm này sẽ khác những buổi lễ thông thường, chẳng hạn như dựng nhiều tấm bia, đốt hương trầm v,v. Gronemeyer và MacLeod cũng khẳng định sự kiện này được lên kế hoạch dành cho năm 2012 chứ không phải cho thế kỷ XVII.\nNhững ngày sau b'ak'tun thứ 13.\nNhững bản thảo của người Maya đôi khi cũng đề cập đến việc dự đoán các sự kiện xảy ra trong tương lai hoặc đánh dấu những lễ kỷ niệm ở những ngày sau b'ak'tun thứ 13. Trên tấm khắc phía tây của đền \"Temple of Inscriptions\" () ở Palenque, một phần của văn bản này đề cập đến tương lai ở chu kỳ thứ 80 của vòng lịch 52 năm tính từ lễ lên ngôi của vua \"K'inich Janaab' Pakal\". Lễ lên ngôi của vua Pakal xảy ra vào ngày 9.9.2.4.8, tương đương với ngày 27 tháng 7 năm công nguyên 615 theo lịch Gregorius đón trước. Dòng chữ bắt đầu với ngày sinh của Pakal 9.8.9.13.0 (ngày 24 tháng 3, năm công nguyên 603) và sau đó cộng thêm vào ngày này các số 10.11.10.5.8, tương đương với ngày 21 tháng 10, năm công nguyên 4772, tức 4.000 năm sau thời đại của vua Pakal.\nMột ví dụ khác là trên bia số 1 tại Coba, một ngày , tức 20 lần đơn vị b'ak'tun, tương đương 4,134105 × 1028 (41x1027) năm trong tương lai, hay cũng có thể là trong quá khứ. Ngày này gấp 3x1018 lần tuổi của vũ trụ đã được xác định bởi các nhà vũ trụ học.\nĐức tin của phong trào New Age.\nNhiều sự quả quyết về năm 2012 đều là một hình thức của những người theo thuyết Maya thần bí, một sự góp nhặt chưa được hệ thống hóa những đức tin của phong trào New Age về sự thông thái và yếu tố tâm linh của người Maya xưa. Nhà nghiên cứu thiên văn học cổ đại, Anthony Aveni nói rằng trong văn học của người Maya cổ luôn đề cao sự cân bằng của vũ trụ cho nên người Maya không thể vẽ ra hiện tượng năm 2012 được vì điều đó là mâu thuẫn với tư tưởng truyền thống của họ. Thay vào đó, hiện tượng này gắn liền với các quan niệm của người Mỹ, chẳng hạn như phong trào New Age, thuyết thời đại hoàng kim, hoặc tin vào sự tồn tại của những kiến thức bí mật có từ cổ xưa hay từ những nơi xa xôi nào đó. Các chủ đề văn học khai thác về hiện tượng 2012 bao gồm 'sự nghi ngờ đối với nền văn hóa chính thống phương Tây', ý tưởng về một sự phát triển của tâm linh, và khả năng dẫn đắt thế giới vào phong trào New Age bằng những ví dụ cá nhân hoặc những kiến thức đã được hợp nhất vào. Mục đích của nền văn học này không phải là để cảnh báo mọi người về cái chết cận kề, mà để thúc đẩy những sự đồng cảm phản văn hóa, tính cho cùng là thúc đẩy chính trị xã hội và chủ nghĩa tâm linh tích cực. Aveni, một nhà nghiên cứu về phong trào New Age và các cộng đồng những người tìm kiếm sự thông minh ngoài Trái Đất (SETI) đã cho rằng những chuyện kể về năm 2012 là sản phẩm của một xã hội 'bị cách ly': \"Khi chúng ta không thể tự tìm câu trả lời thuộc về tâm linh cho những thắc mắc lớn về cuộc đời, chúng ta sẽ quay sang những thực thể tưởng tượng ở bên ngoài, nằm ở một không thời gian nào đó rất xa - chỉ các thực thể này mới có thể sở hữu được những kiến thức cao cấp\".\nNăm 1975, sự việc kết thúc b'ak'tun đã trở thành chủ đề nghiên cứu của một số tác giả New Age, những người tin rằng điều này sẽ tương ứng với một \"sự thay đổi ý thức\" toàn cầu. Trong cuốn sách \"Mexico Mystique: The Coming Sixth Age of Consciousness\", Frank Waters liên kết ngày 24 tháng 12 năm 2011 của Coe, với thuật chiêm tinh và những lời tiên tri của thổ dân Hopi, trong khi đó thì cả Argüelles José (trong cuốn \"The Transformative Vision\") và Terence McKenna (trong \"The Invisible Landscape\") đều bàn luận về tầm quan trọng của năm 2012, nhưng không đưa ra một ngày cụ thể. Năm 1987, Argüelles sau khi nắm bắt được sự kiện \"Harmonic Convergence\" () đã định ra ngày 21 tháng 12 trong cuốn \"The Mayan Factor: Path Beyond Technology\", ông tuyên bố vào ngày đó Trái Đất sẽ đi qua một \"chùm ánh sáng\" rất lớn từ trung tâm của Ngân hà, và cho rằng người Maya đã liên kết lịch của họ với một dự đoán về sự kiện đó. Aveni bác bỏ tất cả các tác giả này.\nSự thẳng hàng trong Ngân hà.\nKhông có sự kiện thiên văn đáng chú ý nào vào ngày bắt đầu của lịch Long Count. Tuy nhiên,từ giữa những năm 1990, tác giả chuyên viết về chủ nghĩa bí truyền John Major Jenkins đã khẳng định người Maya cổ đại cố tình ràng buộc ngày cuối cùng trong lịch của họ với ngày Đông chí năm 2012, tức là ngày 21 tháng 12. Ngày này phù hợp với một ý tưởng của ông về sự \"thẳng hàng trong Ngân hà\".\nTuế sai.\nTrong hệ Mặt trời, các hành tinh và Mặt Trời nằm trên cùng một mặt phẳng, được gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Theo quan sát của chúng ta từ Trái Đất, hoàng đạo là đường đi của Mặt Trời vẽ trên bầu trời trong một năm. Mười hai chòm sao cùng nằm trên hoàng đạo được gọi là mười hai cung hoàng đạo, hằng năm mặt trời lần lượt đi qua tất cả mười hai chòm sao này, theo thời gian, chu kỳ của mặt trời sẽ chậm lại 1 độ vào mỗi 72 năm, hay chậm hẳn 1 cung hoàng đạo mỗi 2160 năm. Sự thay đổi này gọi là \"tuế sai\", nguyên nhân là do trục Trái Đất bị lắc nhẹ khi quay, xảy ra giống hiện tượng tiến động của con quay. Sau khoảng 26000 năm thì đỉnh cực Bắc của trục Trái Đất vẽ đủ 1 vòng tròn, hay mặt trời di chuyển trên đường hoàng đạo sẽ bị chậm lại đúng 1 vòng 360 độ. Trong chiêm tinh học truyền thống phương Tây, tiến động được đo từ ngày xuân phân ở Bắc bán cầu, hoặc tại thời điểm mà tại đó Mặt Trời nằm chính xác ở khoảng giữa điểm thấp nhất và cao nhất trên bầu trời. Hiện nay, vị trí của mặt trời ở điểm xuân phân đang ở trong chòm sao Song Ngư và đang chuyển động ngược lại đến chòm sao Bảo Bình. Điều này báo hiệu sự kết thúc của một thời kỳ chiêm tinh (thời kỳ của Song Ngư) và bắt đầu vào một thời kỳ khác (thời kỳ của Bảo Bình).\nTương tự như vậy, vị trí thấp nhất của mặt trời (đông chí), hiện đang trong chòm sao Nhân Mã, một trong hai chòm sao trong đó các cung hoàng đạo giao cắt với dải Ngân hà. Hàng năm, vào ngày đông chí, Mặt Trời và dải Ngân hà (quan sát từ mặt đất) xếp thẳng hàng, và cứ mỗi năm, tuế sai gây ra một sự dịch chuyển nhỏ vị trí biểu kiến ​​của Mặt Trời trong dải Ngân Hà.\nChủ nghĩa thần bí.\nJenkins cho rằng lịch của người Maya dựa trên quan sát của họ về Great Rift, là một nhóm các đám mây bụi tối chia dọc theo dải sáng của Ngân hà, mà người Maya gọi nó là \"Xibalba be\" hay \"đường tối\" Jenkins cho rằng người Maya đã nhận biết được nơi giao nhau của đường hoàng đạo với Great Rift và đánh dấu vị trí này trên bầu trời như một điểm rất quan trọng trong thiên văn học. Theo giả thiết này, do tuế sai, Mặt trời sẽ thẳng hàng một cách chính xác với đường xích đạo của Ngân hà vào ngày đông chí năm 2012. Jenkins cho rằng người Maya cổ đại đã dự đoán trước được hiện tượng này và xem nó như là một điềm báo về một sự chuyển đổi hoàn toàn tâm linh nhân loại. Những người thuộc phong trào New Age đề xuất ra giả thiết này còn lý luận rằng người Maya vẽ lịch của họ với mục đích chuẩn bị cho những sự kiện quan trọng sẽ xảy ra cho thế giới cũng giống như các nhà chiêm tinh học sử dụng vị trí của các ngôi sao và các hành tinh để đưa ra những tuyên bố về các sự kiện tương lai. Jenkins còn dẫn chứng về sự hiểu biết của các pháp sư Maya cổ đại về trung tâm Ngân hà bằng các luận điểm như họ đã biết sử dụng nấm psilocybin (một loại nấm thần bí có thể đem lại cảm giác về tâm linh), những con cóc có chứa chất tác động lên trí tuệ và hành vi, và các chất ma túy khác. Jenkins còn liên kết \"Xibalba be\" với \"cây thế giới\", dựa trên các nghiên cứu về vũ trụ học hiện đại (không phải cổ đại) của người Maya.\nNhững chỉ trích.\nCác nhà thiên văn như David Morrison cho rằng xích đạo của Ngân hà là một đường hoàn toàn không cố định, và không bao giờ có thể vẽ ra một cách chính xác được bởi vì không thể xác định ranh giới chính xác của dải Ngân hà, mà tùy thuộc vào độ sáng rõ khi quan sát. Jenkins cho biết ông đã thu được kết quả về vị trí của đường xích đạo Ngân hà từ những quan sát thực hiện ở độ cao , là độ cao có thể cung cấp một hình ảnh rõ nét hơn về dải Ngân hà so với điều kiện quan sát của người Maya. Hơn nữa, khi Mặt Trời lùi nửa độ trên cung hoàng đạo, nó cần phải thêm 36 năm nữa để tiến động đến một điểm mới. Jenkins nhấn mạnh rằng ngay cả khi vị trí của đường xích đạo Ngân hà được xác định chắc chắn thì đường này phải đi qua tâm của Mặt Trời một cách chính xác nhất vào năm 1998.\nKhông có bằng chứng rõ ràng rằng người Maya cổ đại đã nhận thức được tiến động. Một số học giả Maya, như Barbara MacLeod, Michael Grofe, Eva Hunt, Gordon Brotherston, và Anthony Aveni, đã cho rằng một số ngày thánh của người Maya tính thời gian theo chu kỳ tuế sai, nhưng quan điểm học thuật về đề tài này vẫn còn chưa thống nhất. Ngoài ra có ít bằng chứng về khảo cổ hay lịch sử chứng minh rằng Maya xem trọng về các điểm chí hay điểm phân. Cũng có thể là chỉ có người Trung Mỹ thời kỳ đầu cổ đại mới quan sát thấy các điểm chí, nhưng điều này cũng là một vấn đề tranh cãi giữa các nhà Maya học. Ngoài ra không có bằng chứng nào cho thấy người Maya cổ đại quan trọng hóa dải Ngân hà, không có bất kỳ hình tượng trong hệ thống chữ viết của họ để đại diện cho Ngân hà, cũng không có bảng thiên văn hoặc bảng niên đại nào gắn liền với nó.\nSóng thời gian không và Kinh Dịch.\n\"Sóng thời gian không\" là một công thức thần số học dùng để tính toán sự lên xuống của \"tính mới\", được định nghĩa là lượng tăng lên theo thời gian trong liên kết của vũ trụ, hoặc là sự phức tạp có tổ chức. Theo Terence McKenna, vũ trụ có một điểm hút định hướng tại thời điểm kết thúc của thời gian có thể làm tăng sự liên kết, cuối cùng đạt đến một điểm kỳ dị vô cùng phức tạp trong năm 2012, lúc đó thì bất cứ điều gì có thể tưởng tượng được sẽ xuất hiện đồng thời. Ông hình thành ý tưởng này trong những năm từ đầu đến giữa thập niên 1970 sau khi sử dụng nấm psilocybin và DMT (Dimethyltryptamine).\nMcKenna biểu diễn \"tính mới\" bằng một chương trình máy tính để hiển thị một dạng sóng gọi là \"sóng thời gian không\" (Timewave zero) hoặc \"sóng thời gian\". Dựa trên những giải thích của McKenna về 64 quẻ của Kinh Dịch, các biểu đồ hiển thị các giai đoạn lớn của \"tính mới\" tương ứng với những thay đổi lớn trong sự tiến hóa sinh học và văn hóa xã hội của nhân loại. Ông tin rằng các sự kiện ở một thời điểm nhất định nào đó đều có mối quan hệ đệ quy đến sự kiện tại thời điểm khác, và ông chọn vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima là cơ sở để tính toán ngày tận thế của ông vào tháng 11 năm 2012. Sau đó, khi ông phát hiện ra ngày này gần với việc kết thúc b'ak'tun thứ 13 của lịch Maya, nên ông đã sửa lại giả thiết của mình để cả hai ngày đó khớp với nhau.\nCác khái niệm khác.\nTại Ấn Độ, guru Kalki Bhagavan đã cho rằng năm 2012 như là một \"hạn chót\" cho sự khai ngộ của loài người đã bắt đầu ít nhất là từ năm 1998. Hơn 15 triệu người coi Bhagavan như là hóa thân của thần Vishnu và cho rằng năm 2012 đánh dấu sự kết thúc của chu kỳ Kali Yuga, hoặc thời đại suy đồi.\nTrong năm 2006, tác giả Daniel Pinchbeck đã phổ biến quan niệm của New Age về ngày này trong cuốn \"2012: The Return of Quetzalcoatl\", trong đó ông đã liên kết giữa \"b'ak'tun 13\" với những đức tin về vòng tròn trên cánh đồng, về những vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh, và những khám phá cá nhân của ông sau khi sử dụng entheogen và thể nghiệm giao tiếp với linh hồn (mediumship). Pinchbeck cho là mình thấy rõ được \"một hiện thực đang ngày càng gia tăng là chủ nghĩa duy vật kèm theo cái thế giới quan dựa trên lý trí và chủ nghĩa kinh nghiệm của nó đã đến hồi kết thúc... chúng ta đang ở trên ranh giới của thời kỳ quá độ đến một giáo hệ của ý thức, một giáo hệ trực giác hơn, huyền bí hơn và có niềm tin cũng như giao tiếp với thế giới tâm linh nhiều hơn (shamanic)\".\nCuốn sách \"Atlantis và 2012: Khoa học về các Nền văn minh bị lãng quên và những lời tiên tri của người Maya\", của Frank Joseph được xuất bản vào năm 2010, đã đưa ra mối liên hệ giữa những lời tiên tri của người Maya về ngày 21 tháng 12 năm 2012 với huyền thoại về các lục địa đã mất Atlantis và Lemuria; tác giả cho rằng những kiến thức về một trận đại hồng thủy xảy ra trong quá khứ đã được chính người Maya cổ đại và Ai Cập cổ đại truyền lại. Joseph kết nối các kiến thức này với câu chuyện về chiếc \"rương đựng thánh tích\" (Ark of the Covenant), ông cho rằng chiếc rương này đã bị Moses đánh cắp từ kim tự tháp Kheops, sau đó được các hiệp sĩ dòng Đền mang từ Jerusalem đến Mỹ, và bây giờ nó được giấu trong một hang động ở Illinois, chờ đợi người ta phát hiện ra nó để mở ra một thời đại mới vào năm 2012.\nBắt đầu từ năm 2000, một số tín hữu theo thuyết huyền bí đã hành hương đến ngôi làng nhỏ ở Bugarach của Pháp với dân số chỉ 189 người, họ kết luận rằng núi \"Pic de Bugarach\" của vùng này là vị trí lý tưởng để các sự kiện biến đổi về thời tiết sẽ xảy ra vào năm 2012. Năm 2011, thị trưởng Jean-Pierre Delord đã bắt đầu bày tỏ những lo ngại với báo chí quốc tế vì thị trấn nhỏ này sẽ bị tràn ngập bởi hàng ngàn du khách tràn về trong năm 2012, thậm chí ông còn có ý gọi đến quân đội.\nCác giả thuyết về ngày tận thế.\nQuan điểm về ngày tận thế vào năm 2012, đã truyền sang nhiều phương tiện truyền thông, miêu tả sự kết thúc của thế giới hoặc sự kết thúc nền văn minh nhân loại vào ngày đó. Quan điểm này được phát tán bởi các trang tin vịt trên internet, đặc biệt là trên Youtube. Kênh History Channel đã phát sóng một vài tập của loạt phim đặc biệt về ngày tận thế bao gồm luôn cả những phân tích các giả thuyết về năm 2012, như những phim \"Decoding the Past\" (Giải mã quá khứ) (2005–2007), \"2012, End of Days\" (2012, ngày tận thế) (2006), \"Last Days on Earth\" (Những ngày cuối cùng trên địa cầu) (2006), \"Seven Signs of the Apocalypse\" (7 dấu hiệu của tận thế) (2007), và \"Nostradamus 2012\" (2008). Kênh Discovery Channel cũng chiếu bộ phim \"2012 Apocalypse\" (2012 ngày tận thế) trong năm 2009, đưa ra các giả thuyết về một cơn bão từ lớn, đảo cực địa từ, động đất, siêu núi lửa, và các sự kiện tự nhiên mạnh mẽ khác có thể xảy ra vào năm 2012. Trong cuốn \"Fingerprints of the Gods\" (Dấu vân tay của các vị thần), tác giả Graham Hancock đã giải thích những nhận xét của Coe trong cuốn \"Breaking the Maya Code\" (giải mã bí ẩn Maya) như là bằng chứng cho lời tiên tri của một trận đại hồng thủy toàn cầu.\nNhững sắp xếp thẳng hàng khác.\nMột số người đã giải thích thuyết mạt thế của Jenkins, và họ đã tuyên bố rằng khi sự thẳng hàng trong Ngân hà xảy ra, bằng cách nào đó sẽ tạo nên một sự liên kết giữa Mặt trời và các siêu hố đen ở trung tâm Ngân hà của chúng ta (được gọi là \"Sagittarius A*\"), do đó tạo ra sự tàn phá trên Trái Đất. Trên thực tế, sự sắp xếp trong Ngân hà theo dự đoán của Jenkins đã xảy ra vào năm 1998, đường di chuyển của Mặt trời qua các cung hoàng đạo như được quan sát từ Trái Đất không đưa nó tới trung tâm Ngân hà thực sự, mà chếch lên phía trên nhiều độ. Ngay cả khi điều này không chính xác, Sagittarius A* cách Trái Đất 30,000 năm ánh sáng, và nó cần phải gần hơn 6 triệu lần nữa để có thể gây ra bất cứ sự phá vỡ trọng trường nào lên Trái Đất thuộc Thái Dương hệ. Những giả thuyết này của Jenkins đã được đưa vào bộ phim tài liệu \"Giải mã quá khứ\" của kênh truyền hình History Channel. Tuy nhiên, Jenkins cũng phàn nàn về trường hợp một tiểu thuyết gia chuyên về đề tài khoa học viễn tưởng - đồng tác giả của \"Giải mã quá khứ\" đã mô tả bộ phim này như là \"45 phút cường điệu trơ trẽn về ngày tận thế và thuyết duy cảm ngu xuẩn\".\nMột số người tin tưởng vào ngày tận thế năm 2012 đã sử dụng thuật ngữ \"sự thẳng hàng trong Ngân hà\" để mô tả một hiện tượng rất khác biệt đã được đề xuất bởi một số nhà khoa học nhằm giải thích một kiểu tuyệt chủng hàng loạt được tìm thấy trong các hóa thạch. Theo giả thuyết này thì hiện tượng tuyệt chủng hàng loạt không phải ngẫu nhiên mà theo chu kỳ mỗi 26 triệu năm. Để giải thích cho điều này, người ta đưa ra giả thuyết cho rằng do sự dao động theo phương thẳng đứng của Mặt trời khi quay quanh tâm ngân hà gây ra, bởi vì trong quỹ đạo này nó sẽ đi xuyên qua mặt phẳng Ngân hà. Khi Mặt trời nằm ngoài mặt phẳng Ngân hà, thì ảnh hưởng do lực thủy triều của Ngân hà tác động lên nó yếu hơn. Tuy nhiên, theo chu kỳ mỗi 20-25 triệu năm, khi Mặt trời sẽ trở lại đĩa Ngân hà, nó sẽ nhận những tác động thủy triều của Ngân hà mạnh hơn, và theo những mô hình toán học, sự kiện này sẽ làm tăng số lượng các sao chổi của đám mây Oort bay vào Thái Dương hệ lên gấp 4 lần, dẫn đến sự gia tăng khả năng tàn phá của sao chổi. Tuy nhiên, sự \"thẳng hàng\" này diễn ra trong hàng chục triệu năm và không thể xác định được thời điểm chính xác. Bằng chứng cho thấy rằng Mặt trời mới giao cắt với đĩa Ngân hà tại 3 triệu năm trước và bây giờ nó đang di chuyển ra xa hơn.\nMột sự thẳng hàng thứ 3 được đề nghị là một số loại giao hội của các hành tinh sẽ xảy ra vào ngày 21 tháng 12 năm 2012. Tuy nhiên, sẽ không có sự thẳng nào vào ngày đó. Nhiều hành tinh đã nằm thẳng hàng xảy ra trong cả hai năm 2000 và 2010, và cả hai đều chẳng gây kết quả xấu nào đối với Trái Đất. Sao Mộc là hành tinh lớn nhất trong hệ mặt trời..; lớn hơn tất cả các hành tinh khác cộng lại. Khi Sao Mộc đến gần vị trí xung đối, thì Trái Đất sẽ chịu lực hấp dẫn từ Mặt Trăng ít hơn 1% so với thường ngày.\nTrên tờ báo Ý \"La Stampa\" ngày 13 tháng 10 năm 2009, nhà báo Paolo Manzo nêu ra một biểu đồ về sự thẳng hàng \"của Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Thổ, một cảnh tượng thiên văn vô tiền khoáng hậu\" vào ngày định mệnh. Bài viết không đề cập hay tham khảo bất kỳ nguồn tài liệu khoa học chính xác và đáng tin cậy nào, trong khi không một nhà thiên văn học hay chương trình lịch thiên văn trực tuyến nào cho thấy sẽ xuất hiện sự giao hội, và thực tế, họ dự đoán rằng 3 hành tinh trên sẽ nằm ở 3 vị trí dễ dàng nhận thấy khi quan sát từ Trái Đất, như có thể suy ra từ bảng dưới đây, biểu thị các tọa độ thiên văn của Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ trong hệ thống tham chiếu xích đạo địa tâm.\nTrong tháng 5 năm 2000 cũng đã xảy ra một sự liên kết các hành tinh như vậy và đã gây nên một cảm giác lo lắng trong công chúng về sự kiện này, khiến cho các cơ quan khoa học đầu não Hoa Kỳ phải thông cáo báo chí rộng rãi để khẳng định không có bất cứ sự nguy hiểm nào.\nĐịa từ đảo ngược.\nMột quan niệm khác gắn với hiện tượng năm 2012 liên quan đến sự đảo cực của địa từ (những người ủng hộ thuyết này thường lầm là sự đảo ngược địa cực địa lý), có thể được kích hoạt bởi một khối tai lửa mặt trời (\"solar flare\") rất lớn sẽ tạo ra một năng lượng bằng tới 100 tỷ quả bom nguyên tử có kích thước bằng với quả bom thả xuống Hiroshima. Niềm tin này được củng cố bằng những quan sát về sự suy yếu từ trường của Trái Đất, có thể dẫn đến một sự đảo ngược của cực từ Bắc Nam.\nTuy nhiên nhiều nhà phê bình cho rằng sự đảo ngược địa từ phải mất đến 7.000 năm mới hoàn thành, và không biết cụ thể sẽ bắt đầu vào ngày nào. Hơn nữa, Hoa Kỳ và Cơ quan Hải dương và Khí quyển Hoa Kỳ (NOAA) dự đoán năng lượng mặt trời sẽ đạt cao điểm vào tháng 5 năm 2013 chứ không phải là năm 2012, và nó sẽ tương đối yếu dưới mức năng lượng trung bình của những vết đen Mặt Trời. Trong mọi trường hợp, không có bằng chứng khoa học nào đưa ra sự liên quan giữa một khối năng lượng mặt trời cực đại với sự đảo ngược của địa từ, mà nó được hình thành hoàn toàn bởi chính những tác động nội hàm bên trong Trái Đất. Thay vào đó, năng lượng mặt trời chủ yếu gây ảnh hưởng đối với các vệ tinh nhân tạo và mạng truyền thông di động. David Morrison đã quy việc bùng nổ các ý tưởng về một cơn bão mặt trời là do nhà vật lý học, nhà phổ cập khoa học Michio Kaku vì đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn với Fox News rằng một mức đỉnh điểm năng lượng mặt trời vào năm 2012 có thể gây tai hại đối với các quỹ đạo của vệ tinh.\nHành tinh Nibiru.\nMột số những người ủng hộ thuyết tận thế vào năm 2012 cho rằng một hành tinh được gọi là Hành tinh X hay Nibiru sẽ va chạm hoặc đi ngang qua Trái Đất trong năm đó. Quan điểm này đã xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau từ năm 1995, sự kiện này ban đầu được dự kiến sẽ xảy ra vào năm 2003, nhưng đã bị bỏ đi vì chẳng có sự cố nào xảy ra vào ngày đó cả. Ý tưởng bắt nguồn từ những tuyên bố về sự hiệp thông với sự sống ngoài hành tinh, nhưng đã bị cười nhạo. Tính toán của các nhà thiên văn cho thấy vật thể này sẽ tiến rất gần đến Trái Đất mà mắt thường có thể nhìn thấy được trên bầu trời đêm.\nNhững thảm họa khác.\nNhững suy đoán khác về ngày tận thế 2012 có cả những tiên đoán của Dự án Web Bot - một chương trình máy tính dự đoán tương lai bằng phần mềm chat qua Internet. Tuy nhiên, những bình luận viên đã bác bỏ tuyên bố của những lập trình viên cho rằng họ đã dự đoán thảm họa thiên nhiên thành công - điều mà những chương trình chat không thể nào dự báo được, trái với những thảm họa do con người gây ra như sự sụp đổ thị trường chứng khoán. Ngoài ra hiện tượng 2012 còn bị gắn kết một cách thiếu cơ sở với 1 khái niệm đã tồn tại khá lâu là vành đai Photon, dự báo một hình thức tương tác giữa Trái Đất và sao Alcyone, ngôi sao lớn nhất của chòm Tua Rua. Các nhà phê bình cho rằng photon không thể hình thành vành đai, hơn nữa, chòm Tua Rua nằm cách Trái Đất tới hơn 400 năm ánh sáng, không thể gây ảnh hưởng gì tới Trái Đất, và Thái Dương hệ thay vì lại gần chòm sao này, trên thực tế lại di chuyển ra xa hơn. \nMột số phương tiện truyền thông đã gắn kết khả năng siêu sao đỏ khổng lồ Betelgeuse có thể sẽ biến đổi thành một siêu tân tinh trong tương lai với hiện tượng 2012. Tuy nhiên, trong khi Betelgeuse chắc chắn đang trải qua hồi kết của cuộc đời, và sẽ chết như một siêu tân tinh, nhưng không có cách nào dự đoán thời điểm xảy ra sự kiện này trong vòng 100 000 năm. Một siêu tân tinh cần phải nằm cách Thái Dương hệ trong khoảng 25 năm ánh sáng mới có thể đe dọa Trái Đất. Betelgeuse cách khoảng 600 năm ánh sáng, vì thế siêu tân tinh của nó không ảnh hưởng gì tới Trái Đất.\nMột quan điểm khác viện dẫn tới sự xâm lăng của người ngoài hành tinh. Tháng 12 năm 2010, một bài báo được xuất bản lần đầu tại examiner.com và sau đó được tham chiếu trong phiên bản tiếng Anh của Pravda đã đăng tải bức ảnh \"Second Digitalized Sky Survey\" làm bằng chứng khẳng định rằng SETI đã phát hiện ba tàu vũ trụ lớn sẽ đến Trái Đất vào năm 2012. Nhà thiên văn học và người theo chủ nghĩa hoài nghi Phil Plait lưu ý rằng bằng cách sử dụng các công thức góc nhỏ, người ta có thể xác định rằng nếu vật thể trong bức ảnh này to như thế, thì nó sẽ phải ở gần Trái Đất hơn cả Mặt Trăng, điều này có nghĩa là có thể nó đã đến đây rồi.\nẢnh hưởng.\nTheo tính toán của người Maya thì ngày 21 tháng 12 năm 2012 là ngày lịch của họ kết thúc. Đó là khi mặt trời cũng sẽ nằm chính giữa trung tâm Ngân Hà trong Thái Dương Hệ cứ mỗi 26,000 năm, và ngày này cũng trùng vào ngày Đông chí. Chính vì những hiện tượng trùng hợp này người ta cho rằng nguồn năng lượng chiếu vào Trái Đất sẽ bị cản trở, và khoảng giữa của Trái Đất sẽ bị kéo phình ra do lực kéo từ bên ngoài Trái Đất gây ra. Mặt đất lúc đó cũng sẽ bị thay đổi vị trí, những vùng đất liền của các đại lục sẽ bị lôi kéo về phía những miền khác do ảnh hưởng của lực hút từ ngoài Trái Đất của Ngân hà. Khi đó sẽ xảy ra vô số nạn núi lửa, các trận sóng thần lúc đó sẽ nổi lên vô số, và nạn động đất cũng thế.\nMột số mặt của quan điểm này cũng phần nào được xác nhận bởi cơ quan NASA khi họ tuyên bố về hiện tượng những tia lửa và đốm đen từ mặt trời toả ra nhất loạt sẽ gây ra thảm cảnh cúp điện liên tục và các hệ thống vệ tinh nhân tạo sẽ bị cản trở vào năm 2012. Trong bản tường trình của NASA vào năm 2002 cho thấy Trái Đất bị đã phình ra ở khúc giữa từ 1998, với hình ảnh chứng minh do hệ thống vệ tinh chụp được.\nPhản ứng.\nHiện tượng này đã làm sản sinh ra hàng trăm cuốn sách và hàng ngàn website. \"Hãy hỏi nhà sinh vật học thiên thể\" - một website công cộng của NASA đã nhận được hơn 5000 câu hỏi của công chúng về chủ đề này từ 2007, một số hỏi rằng liệu họ có nên giết chính mình, con cái và thú nuôi của họ. Nhiều tài liệu tham khảo hư cấu hiện đại cho rằng ngày 21 tháng 12 là ngày của một sự kiện thảm họa, bao gồm cả cuốn sách bán chạy nhất 2009, \"Biểu tượng thất truyền\" của Dan Brown. Ann Martin, người chủ của trang web về thuật chiêm tinh ở Hoa Kỳ đã nhận được vô số email của rất nhiều người trên thế giới lo ngại về vấn đề này và những cậu bé nhỏ viết than phiền rằng các cậu quá trẻ để phải chết. Về phía Giáo hội Công giáo, trong một buổi tiếp kiến chung tại Quảng trường Thánh Phêrô hôm 18 tháng 11 năm 2012, Giáo hoàng Biển Đức XVI đã bác bỏ về tin đồn này, ông cho rằng Chúa Giêsu muốn khuyên các môn đệ ở mọi thời đại hãy thôi tò mò về ngày tháng và các dự báo nhưng muốn ban cho họ chìa khóa mở ra con đường đúng đắn để sống trong hôm nay và ngày mai nhằm bước vào sự sống vĩnh hằng. Ngay cả linh mục José Gabriel Funes (Dòng Tên) là giám đốc Đài quan sát thiên văn của Vatican cũng nói rằng không cần phải thảo luận về nền tảng khoa học của những lời khẳng định này vì rõ ràng đó là sai lạc. Cho đến nay, chưa có ghi nhận nào cho thấy người Công giáo sẽ \"đối phó\" trước sự kiện 21 tháng 12 năm nay, họ vẫn chỉ chuẩn bị đón Lễ Giáng Sinh như mọi năm. Tại Việt Nam, dù cho nhiều nhà khoa học và tổ chức nổi tiếng như NASA đều phủ nhận là không có ngày tận thế nhưng rất nhiều người vẫn sợ hãi và hoang mang. Ông Nguyễn Đức Phường, Hội thiên văn vũ trụ Việt Nam nếu ra một lý thuyết giải thích lý do tại sao vụ tận thế này lại có rất nhiều người quan tâm so với những vụ tận thế đã bị \"hụt\" khác. Ông nghĩ rằng bởi vì do tốc độ phát triển của thế giới hiện nay quá nhanh và các thông tin được truyền tải một cách rất nhanh và rộng do đó nhiều người đã quá nhạy cảm với những thông tin nhận được đặc biệt những thông tin sốc gây tò mò lại được quan tâm đặc biệt hơn nữa. Ông cũng đề nghị rằng chỉ nên tin tưởng những thông tin được phát ngôn từ những tổ chức hay nhà khoa học uy tín.\nVăn hóa.\nNổi bật nhất là bộ phim \"2012\" được ra mắt vào tháng 11 năm 2009, do đạo diễn Roland Emmerich chỉ đạo thực hiện. Bộ phim này được lấy cảm hứng từ hiện tượng 2012, và được quảng cáo trước khi phát hành bằng một chiến dịch \"Marketing tin đồn\" thông qua TV và những trang mang từ tổ chức hư cấu \"Vì sự tồn vong của loài người\" kêu gọi mọi người chuẩn bị cho đoạn kết của thế giới. Vì quảng cáo không hề đề cập gì tới bộ phim, nhiều người xem đã tin điều đó là thật và liên lạc với những nhà thiên văn học trong hoảng loạn. Dù chiến dịch quảng cáo trên bị chỉ trích nặng nề, song bộ phim đã trở thành một trong những phim thành công nhất năm đó, đem lại lợi nhuận khoảng 770 triệu USD trên toàn cầu.\nBộ phim được đề cử Oscar năm 2011 - Melancholia của Lars von Trier có nội dung nói về một hành tinh xuất hiện từ phía sau Mặt Trời chuẩn bị đâm vào Trái Đất. Người đứng đầu hãng Magnolia Pictures - đơn vị đã mua bộ phim cho biết trong một thông cáo báo chí, \"Thảm họa 2012 đang tới rất gần, giờ là lúc chuẩn bị cho bữa tối cuối cùng đậm chất điện ảnh\", nhắc đến hiện tượng này. Nó cũng là niềm cảm hứng cho một số bài hát khá thành công như \"2012 (It Ain't the End)\" (2010) của Jay Sean và \"Till the World Ends\" (2011) của Britney Spears." ]
tit - maya - lch - tri - baktun - gregory - xun - 2012 - im - hay
1
false
Moskva (; phiên âm: "Mát-xcơ-va", đôi khi viết theo tiếng Anh thành "Moscow", là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Nga. Thành phố nằm bên sông Moskva, ở trong Vùng liên bang Trung tâm và Vùng kinh tế Trung tâm của Nga, với dân số ước tính khoảng 12,6 triệu cư dân trong phạm vi thành phố, trong khi có hơn 17 triệu cư dân trong khu vực đô thị, và hơn 20 triệu cư dân trong toàn Khu vực Thủ đô Moskva. Thành phố có diện tích đạt , trong khi khu vực đô thị bao gồm , và khu vực đô thị bao gồm . Moskva nằm trong danh sách các thành phố lớn nhất thế giới, là thành phố đông dân nhất hoàn toàn trong Châu Âu đại lục khu vực đô thị đông dân nhất ở Châu Âu, và cũng là thành phố lớn nhất tính theo diện tích trên lục địa Châu Âu. Ban đầu được thành lập vào năm 1147 với tư cách là một pháo đài nhỏ, Moskva đã phát triển trở thành một thành phố thịnh vượng và hùng mạnh, từng là thủ đô của Đại công quốc Moskva. Khi Đại công quốc Moskva phát triển thành Sa quốc Nga, Moskva vẫn là trung tâm kinh tế và chính trị trong phần lớn lịch sử của nước Nga. Khi Sa quốc Nga được cải tổ thành Đế quốc Nga, thủ đô được chuyển từ Moskva đến Sankt-Peterburg, làm giảm ảnh hưởng của thành phố. Thủ đô sau đó được chuyển trở lại Moskva sau Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 và thành phố được đưa trở lại làm trung tâm chính trị của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga và Liên Xô. Sau khi Liên Xô tan rã, Moskva vẫn là thủ đô của Liên bang Nga đương thời và mới được thành lập. Là siêu đô thị cực bắc và lạnh nhất trên thế giới, và với lịch sử hơn 8 thế kỷ, Moskva được quản lý như một Thành phố liên bang của Nga đóng vai trò chính trị, kinh tế, trung tâm văn hóa và khoa học của Nga và Đông Âu. Là một thành phố toàn cầu, Moskva có một trong các nền kinh tế đô thị lớn nhất, và là một trong các thành phố đắt đỏ nhất thế giới, và cũng là một trong những điểm du lịch phát triển nhanh nhất trên thế giới. Moskva là nơi có số tỷ phú cao thứ ba của bất kỳ thành phố nào trên thế giới, và có số lượng tỷ phú cao nhất của bất kỳ thành phố nào ở Châu Âu. Trung tâm kinh doanh quốc tế Moskva là một trong những trung tâm tài chính lớn nhất của Châu Âu và thế giới, và có một số trong Những tòa nhà chọc trời cao nhất Châu Âu. Moskva cũng là quê hương của công trình kiến ​​trúc tự do cao nhất ở Châu Âu, Tháp Ostankino, và là thành phố đăng cai của Thế vận hội Mùa hè 1980, một trong những thành phố đăng cai của FIFA World Cup 2018. Là trung tâm văn hóa của Nga, Moskva từng là ngôi nhà của các nghệ sĩ, nhà khoa học và nhân vật thể thao Nga do sự hiện diện của rất nhiều bảo tàng, học viện và tổ chức chính trị và nhà hát. Thành phố là nơi tọa lạc của một số UNESCO Di sản Thế giới, và nổi tiếng với kiến ​​trúc và trưng bày kiến trúc Nga, đặc biệt là các tòa nhà lịch sử như Nhà thờ Saint Basil, Quảng trường Đỏ và Điện Kremli ở Moskva, trong đó sau này đóng vai trò là cơ quan quyền lực của Chính phủ Nga. Moskva là nơi đặt trụ sở của nhiều Các công ty của Nga trong nhiều ngành, chẳng hạn như tài chính và công nghệ. Matxcova được phục vụ bởi một mạng lưới trung chuyển toàn diện, bao gồm 4 sân bay quốc tế, 9 nhà ga đường sắt, 1 hệ thống xe điện, 1 hệ thống tàu điện một ray ở Moskva, và đáng chú ý nhất là "Tàu điện ngầm Moskva", hệ thống tàu điện ngầm nhộn nhịp nhất ở Châu Âu và là một trong những hệ thống vận chuyển nhanh lớn nhất trên thế giới. Với hơn 40% lãnh thổ được bao phủ bởi cây xanh, đây là một trong những thành phố xanh nhất ở châu Âu và thế giới. Lịch sử. Những tài liệu nói về Moskva có từ năm 1147 khi nó còn là một thị trấn ít người biết đến trong một tỉnh nhỏ, với phần lớn dân cư thuộc nhóm ngôn ngữ Phần Lan-Ugria, người Merya. Năm 1156, công tước Yury Dolgoruky cho xây tường gỗ và đào hào sâu bao quanh thành phố để chống lại sự trộm cắp, cướp bóc. Do đó dân chúng được bảo vệ rất tốt cho đến tận năm 1177 thì thành phố bị thiêu hủy hoàn toàn và dân cư đã bị chết rất nhiều. Sau cuộc cướp phá năm 1237-1238, khi mà quân Mông Cổ thiêu hủy hoàn toàn thành phố và giết chóc dân cư, Moskva đã được phục hồi và trở thành thủ đô của một công quốc độc lập. Năm 1300, Moskva được quản lý bởi Daniil Aleksandrovich, con trai của Aleksandr Yaroslavich Nevsky và là thành viên của triều đại nhà Rurik. Vị trí thuận lợi trên đầu nguồn sông Volga góp phần vào việc mở rộng vững chắc. Moskva được ổn định và phát triển rực rỡ trong nhiều năm và là điểm thu hút của nhiều người tỵ nạn trên toàn lãnh thổ Nga. Năm 1304, Yury của Moskva giao tranh với Mikhail của Tver để giành ngôi vị công tước Vladimir. Ivan I cuối cùng đánh bại quân Tver để trở thành chủ của công quốc Vladimir, và là người thu thuế duy nhất cho các nhà vua Mông Cổ. Do cống nộp nhiều nên Ivan giành được nhiều sự nhân nhượng của các Hãn ("Khan"). Không giống như các công quốc khác, Moskva không được phân chia cho các con trai mà truyền cho con trai lớn nhất. Kim Trướng hãn quốc (hay Hãn quốc Kipchak) thoạt tiên cố gắng giới hạn ảnh hưởng của Moskva, nhưng do sự lớn mạnh của Đại công quốc Litva đã đe dọa toàn Nga nên vị Hãn lúc đó đã phải tăng cường sức mạnh cho Moskva để cân bằng với Litva. Điều này đã cho phép nó trở thành một trong những thành phố hùng mạnh nhất tại Nga. Năm 1480, Ivan III cuối cùng đã giải phóng Nga khỏi sự thống trị của người Tatar ("Xem Trận chiến trên sông Ugra") và Moskva trở thành thủ đô của đế chế bao gồm toàn Nga và Siberia và một phần các lãnh thổ khác. Sự chuyên chế của các Sa hoàng cuối thời kỳ đó như Ivan Hung đế đã dẫn đến sự tan rã của đế chế, mặc dù nó đã được mở rộng. Năm 1571, người Tarta từ Hãn quốc Krym đã chiếm và thiêu hủy Moskva. Từ 1610 đến 1612, quân đội của Liên bang Ba Lan-Litva xâm chiếm Moskva, và vua Zygmunt III của Ba Lan đã có những cố gắng để chiếm đoạt ngôi báu và sau đó hợp nhất 2 quốc gia Slav. Tuy nhiên, sự cố gắng của quân đội Ba Lan-Litva chỉ nhận được sự ủng hộ nửa vời từ trong nước họ và sự can thiệp đã bị chỉ trích mạnh mẽ từ hạ viện Liên bang. Vì vậy năm 1612, nhân dân Moskva đã nổi dậy chống lại lực lượng Ba Lan-Litva và chiếm Kremli từ tay họ. Năm 1613, hội nghị đế chế đã bầu Mikhail Fyodorovich Romanov (Михаил Фёдорович Романов) làm Sa hoàng nước Nga, thiết lập triều đại nhà Romanov. Moskva không phải là kinh đô nước Nga từ năm 1703 khi Pyotr Đại đế xây dựng Sankt-Peterburg trên sông Neva gần bờ biển Baltic làm kinh đô. Khi Napoléon Bonaparte xâm lược Nga vào năm 1812, người dân Moskva đã di tản và tự đốt cháy thành phố vào ngày 14 tháng 9, khi quân đội của Napoléon tiến vào. Quân đội của Napoléon, do thiếu thốn lương thực, thực phẩm và giá lạnh đã phải rút lui. Tháng 1 năm 1905, người dân Moskva đi bầu thị trưởng thành phố và Aleksandr Adrianov đã trở thành thị trưởng chính thức đầu tiên của Moskva. Sau cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917, Lenin đã chuyển thủ đô từ Sankt-Peterburg về Moskva vào ngày 5 tháng 3 năm 1918 do lo ngại sự xâm lăng từ nước ngoài. Là đầu mối quan trọng trong hệ thống đường sắt của Liên Xô cùng với Kiev và Sankt-Peterburg, thành phố này là mục tiêu xâm chiếm chiến lược của Đức năm 1941. Tháng 11 năm 1941, Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức đã phải dừng bước trước ngoại ô thành phố và sau đó bị đẩy lui trong Trận Moskva (1941). Hành chính. Thủ đô Moskva được phân thành 12 quận hành chính (aдминистративных округ) bao gồm 2 quận mới thành lập từ tháng 1 năm 2002. Mười quận ban đầu được phân thành 125 khu (районы) và hai quận mới được phân thành 21 khu định cư mới (лоселение). Văn hóa, nghệ thuật. Moskva là trung tâm của múa ba lê ("ballet") và các nghệ thuật múa Nga. Các nhà hát và studio ba lê rải rác khắp Moskva. Những cái nổi tiếng nhất là Nhà hát Lớn và Nhà hát Nhỏ. Trong thời kỳ Xô viết giá vé khá rẻ thường là dưới $1, nhưng hầu hết vé được phân phối theo đặc quyền, người dân chỉ có thể mua vé chợ đen. Sau này giá thay đổi rất nhiều. Mặc dù ít hơn một phần tư dân số Nga sống ở nông thôn nhưng những người Moskva cũng giống như những người dân các thành phố khác vẫn gắn liền với nông thôn. Rất nhiều người có nhà ở khu vực nông thôn (tiếng Nga: дача, phát âm "đacha") để dành cho những ngày nghỉ cuối tuần và hội hè. Những ngôi nhà này cũng được sử dụng làm nhà nghỉ cho những người cao tuổi. Có rất nhiều công viên và vườn hoa trong thành phố. Những năm sau chiến tranh là cuộc khủng hoảng về nhà ở đã được giải quyết bằng các ngôi nhà lắp ghép. Khoảng 13.000 các ngôi nhà được tiêu chuẩn hóa và đúc sẵn như thế phục vụ cho phần lớn dân cư Moskva. Chúng được xây cao 9, 12, 17, 21 hay 24 tầng. Các căn hộ được xây dựng và trang bị một phần đồ đạc tại nhà máy trước khi được xây dựng và sắp xếp vào các cột cao. Bộ phim hài nổi tiếng thời kỳ Xô viết là "Số phận trớ trêu, hay Chúc xông hơi nhẹ nhõm !" nhại lại phương pháp kết cấu xây dựng vô hồn này. Nội dung của phim như sau: Bộ phim đã đánh vào tình cảm của những người Nga đang xem bộ phim qua những chiếc ti vi tiêu chuẩn hóa trong căn hộ cũng tiêu chuẩn hóa của mình. Bộ phim này được trình chiếu trên ti vi trong mọi buổi đêm trước năm mới. Nói như vậy không có nghĩa là văn hóa, nghệ thuật của nước Nga nói chung và của người Moskva nói riêng là đơn điệu và nghèo nàn. Trái lại, nền văn hóa-nghệ thuật của người dân Moskva trong gần 900 năm qua cực kỳ phát triển. Tại Moskva hiện nay có hơn 70 viện bảo tàng. Trong đó có rất nhiều viện bảo tàng nổi tiếng thế giới như Viện bảo tàng lịch sử (Исторический музей), Viện bảo tàng quốc gia Tretyakov (Государственный Третьяковская галерея), Viện bảo tàng kiến trúc Shchusev (Музей архитектуры им. А.В. Щусева) v.v. Các nhà văn lớn của Nga cho dù có thể không phải là người Moskva nhưng đã có thời gian dài sống ở đó như Tolstoy, Bunin, Chekhov v.v. đã cho ra đời nhiều tác phẩm nổi tiếng thế giới như "Chiến tranh và hòa bình". Giáo dục. Tại Moskva có rất nhiều trường đại học. Lớn nhất và nổi tiếng nhất là Đại học Quốc gia Moskva nằm trên Đồi Chim sẻ ("Vorobyovy Gory") trong một tòa nhà cao 240m. Hiện nay trường này có 30.000 sinh viên và 7.000 nghiên cứu sinh. Trường Đại học Kỹ thuật Quốc gia Moskva Bauman là trường đại học kĩ thuật hàng đầu của nước Nga, nơi đây là cái nôi đào tạo nên các nhà bác học, các tổng công trình sư, các kỹ sư trưởng nổi tiếng về vũ trụ, hàng không và kĩ thuật quân sự (tên lửa, máy bay chiến đấu, xe tăng, xe thiết giáp, lò phản ứng hạt nhân, siêu máy tính, vũ khí công nghệ cao). "Xem thêm: Danh sách các trường đại học ở Nga" Du lịch. Những điểm du lịch thu hút du khách là các di sản thế giới được UNESCO công nhận như điện Kremli, Quảng trường Đỏ và nhà thờ ở Kolomenskoye, đều là những công trình được xây dựng trong khoảng thế kỷ 14 đến thế kỷ 17. Các điểm thu hút khác bao gồm vườn bách thú, được mở rộng vào thập niên 1990. Moskva cũng là điểm cuối cùng của tuyến đường sắt xuyên Xi-bê-ri dài 9.300 km tới Vladivostok. Thành phố này đẹp nhất khi đến thăm vào giữa mùa đông khi mà các đường phố bị bao phủ bởi tuyết và cảnh tranh tối tranh sáng của mùa đông lục địa. Tuy nhiên do nhiệt độ thường xuyên xuống đến dưới -25 °C nên mùa hè hoặc mùa thu đến sớm có thể cho những cuộc thăm viếng thuận tiện hơn nếu như du khách không phải là người quá lãng mạn. Giá cả sinh hoạt. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ đối với người ngoại quốc cao hơn so với người trong nước. Sự nghiên cứu giá cả sinh hoạt do Mercer Human Resource Consulting tiến hành đã đặt Moskva vào vị trí thứ hai sau Tokyo, làm nó trở thành thành phố đắt đỏ nhất châu Âu. Đối với dân bản địa, những căn hộ nhỏ được chu cấp bởi chính quyền trong thời kỳ Xô viết, cùng với các chi phí tiện nghi ở mức cực kỳ thấp và những khoản thuế thu nhập có thể tránh được đã làm giá cả sinh hoạt thấp xuống rất nhiều. Nhìn vào giá cả vận chuyển, đi lại sẽ cho ra một minh họa tốt. Một chuyến taxi từ sân bay quốc tế Sheremetyevo-2 sẽ có giá đối với người nước ngoài không biết tiếng Nga là $60; với người nước ngoài biết tiếng Nga là $30–$40. Những người dân Moskva bản địa sẽ mặc cả giá xuống mức $15–20 hoặc sẽ tránh không đi taxi riêng mà đi chung với nhau đến ga metro gần nhất với giá 50 xu Mỹ. Ăn uống. Trong thời gian gần đây tại Moskva xuất hiện rất nhiều các nhà hàng ăn uống với giá cả dao động nhiều. Giá đồ ăn trung bình trên một người trong các nhà hàng trung và cao cấp sẽ từ $30 đến $200, đặc biệt nếu có gọi rượu vang nổi tiếng. Những đồ ăn kiểu "căng tin" trong các "stolovaya" (tiếng Nga: столовая - nhà ăn tự phục vụ) có giá khoảng ba đôla Mỹ (47.000 đ tiền Việt). Hệ thống các nhà hàng, như "Moo-Moo", cung cấp đồ ăn kiểu căng tin có chất lượng theo thực đơn kiểu Anh có giá khoảng 5 đô la Mỹ cho mỗi người. Mặc dù phần đông người Moskva không thường xuyên ăn uống thậm chí trong các nhà hàng ăn rẻ tiền nhất, nhưng rất nhiều nhà hàng "bậc trung" mới vẫn xuất hiện và mở cửa, nhắm vào các gia đình trong những ngày nghỉ cuối tuần. Một loạt các cửa hàng bán đồ ăn nhanh mọc xung quanh các nhà ga xe lửa và metro. Hệ thống này bao gồm cả các cửa hàng khắp mọi nơi của McDonald's và các hệ thống khác, đáng kể nhất là Rostiks, chuyên bán các đồ ăn làm từ gà. Ngoài ra hàng loạt các cửa hàng bán cà phê cũng mọc ra xung quanh thành phố này. Giao thông và vận tải. Moskva có bốn sân bay là: sân bay quốc tế Sheremetyevo, sân bay quốc tế Domodedovo, sân bay Bykovo và sân bay quốc tế Vnukovo. Giao thông trong thành phố có thể kể đến hệ thống tàu điện ngầm (metro) Moskva, một hệ thống metro tuyệt vời. Các nhà ga được trang trí bằng các bức tranh treo tường hay khảm vào tường có giá trị nghệ thuật. Bắt đầu hoạt động vào ngày 15 tháng 5 năm 1935, hiện nay hệ thống này có 11 tuyến đường với tổng chiều dài 278 km và hơn 170 ga. Tại các ga rất phổ biến các loại hình đèn chùm pha lê chiếu sáng. Hệ thống này là bận rộn nhất thế giới với hơn 9 triệu lượt hành khách mỗi ngày và tại giờ cao điểm cứ mỗi 90 giây lại có một chuyến tàu. Hệ thống metro Moskva được thiết kế là các tuyến đường "thẳng" giao nhau tại khu vực gần trung tâm thành phố. Ngoài ra còn có một tuyến đi theo đường "tròn" liên kết tất cả các tuyến kia. Do các ga metro đặt tương đối xa nhau (so sánh với các thành phố khác), có thể tới 4 km, nên hệ thống xe buýt rất phát triển. Các tuyến xe buýt chạy qua các ga metro và bao phủ toàn bộ khu vực dân cư. Thông thường cứ mỗi phút lại có một chuyến xe buýt và giá cả khá rẻ so với các thành phố lớn khác của châu Âu (khoảng 1 USD/chuyến). Mỗi một phố chính trong thành phố đều có ít nhất một tuyến xe buýt phục vụ và không có một khu nhà chung cư nào trong số 13.000 chung cư lại phải mất hơn vài phút đi bộ. Ở đây cũng có các hệ thống xe điện trên đường ray (Трамвай-tramvai) và xe điện bánh hơi (Троллейбус-trolleybus). Trước đây rất ít người sử dụng ô tô cá nhân để đi lại do thường xuyên xảy ra tắc nghẽn giao thông. Tuy nhiên, phần lớn các gia đình trung lưu có ô tô để đi lại trong những ngày nghỉ cuối tuần và lễ hội. Theo một số ước tính, có trên 2,5 triệu ô tô lưu thông trên địa bàn thành phố trong ngày (2004). 3 năm trở lại đây (từ 2004) do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Liên bang Nga, đặc biệt là Moskva, số lượng xe hơi cá nhân đã bùng nổ với sự đa dạng về chủng loại, nguồn gốc, tắc đường đã trở thành "chuyện thường ngày ở huyện". Rất nhiều công chức đến công ty bằng xe riêng đã phải đi trước giờ làm việc buổi sáng (8-9 giờ) cả tiếng đồng hồ. Tắc đường trên diện rộng từ sáng đến đêm khuya. Thể thao. Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất trong giới trẻ. Các câu lạc bộ bóng đá thủ đô như Dinamo, Spartak, Lokomotiv, CSKA là các câu lạc bộ có tên tuổi tại châu Âu. Tuy nhiên gần đây tệ nạn hooligan đã phát triển ở Nga và gây không ít ảnh hưởng xấu tới hình ảnh của bóng đá Nga. Các môn thể thao khác như bóng ném, bóng nước, bóng rổ cũng rất phát triển ở đây. Các môn thể thao mùa đông thì có rất nhiều. Phần lớn người Nga đều có ván trượt tuyết và giày trượt băng và có rất nhiều công viên lớn có khu vực để tập luyện các môn trượt tuyết, trượt băng. Có một số công viên cho thuê ván/giày trượt với giá từ $1 đến $5 cho một giờ thuê. Moskva cũng có các đội khúc côn cầu trên băng có tên tuổi ở châu Âu. Moskva là chủ nhà của Thế vận hội Mùa hè 1980, lúc đó môn đua thuyền buồm được tổ chức tại Tallinn (Estonia). Nhân khẩu. Mặc dù dân số của Liên bang Nga giảm mỗi năm khoảng 700.000 người (143,8 triệu * 0.5% tỷ lệ giảm) vì tỷ lệ sinh đẻ thấp, di cư, chết sớm và AIDS, nhưng dân số Moskva thì vẫn đạt tỷ lệ tăng cao, chủ yếu do nhập cư (mặc dù các giấy tờ tùy thân trong nước không cho phép dân không phải người thành phố này ở thủ đô quá 90 ngày mà không phải đăng ký). Những người Moskva mới này đã góp phần làm nền kinh tế thủ đô tăng trưởng đến 20%, ngược lại với sự đình trệ hoặc suy thoái trên phần lớn lãnh thổ Nga, kết quả là nó tạo ra sự phân hóa rõ nét trong những năm gần đây. Hiện nay, Moskva là một trong những thành phố lớn nhất châu Âu. Theo số liệu của báo Forbes vào ngày 22 tháng 7 năm 2004, Moskva là thành phố có đông các nhà tỷ phú nhất trên thế giới. Hiện nay Moskva có 33 tỷ phú, hơn Thành phố New York hai người. Vấn đề khủng bố. Khủng bố là mối đe dọa diễn ra gần đây cho Moskva. Cuộc chiến tranh kéo dài giữa Nga với những phần tử cực hữu của Chechnya đã dẫn đến tình trạng những nhóm người này sử dụng biện pháp khủng bố để chống lại chính quyền liên bang. Vào ngày 6 tháng 2 năm 2004 một quả bom đã phát nổ trong một chiếc ô tô trong đường hầm gần ga metro Avtozavodskaya làm chết ít nhất 40 người và làm thương nhiều người khác. Các hành động khủng bố khác có thể kể đến là vụ phá hủy hai tòa nhà chung cư tháng 9 năm 1999 ("Xem Vụ đánh bom nhà chung cư ở Nga"), vụ nổ trong đường hầm dành cho người đi bộ dưới quảng trường Pushkinskaya trong tháng 8 năm 2000 cũng như việc chiếm giữ nhà hát ở Dubrovka trong tháng 10 năm 2002 mà hơn 100 người đã chết khi các nhân viên của lực lượng an ninh Nga sử dụng khí gây mê để tấn công bọn khủng bố. Liên kết ngoài. Tiếng Anh:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
Paris () là thủ đô và là thành phố đông dân nhất nước Pháp, cũng là một trong ba thành phố phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới cùng Luân Đôn và New York và là một trung tâm hành chính của vùng Île-de-France với dân số ước tính là 2.165.423 người , trên diện tích hơn . Kể từ thế kỷ 17, Paris đã là một trong những trung tâm lớn về tài chính, ngoại giao, thương mại, thời trang, ẩm thực, khoa học và nghệ thuật của thế giới nói chung. Thành phố Paris là trung tâm và là nơi đặt trụ sở chính quyền của vùng và tỉnh Île-de-France, hay Vùng Paris, có dân số ước tính là 12.262.544 người, hay khoảng 19% dân số Pháp . Vùng Paris có GDP là 739 tỷ € (743 tỷ USD) vào năm 2019, cao nhất ở Châu Âu. Theo Khảo sát Chi phí Sinh hoạt Toàn cầu của Economist Intelligence Unit vào năm 2021, Paris là thành phố đắt đỏ thứ hai trên thế giới, cùng với Singapore xếp sau Tel Aviv và đứng trước Zürich, Hồng Kông, Oslo và Geneva. Một nguồn tin khác xếp Paris là thành phố đắt đỏ nhất, ngang hàng với Singapore và Hồng Kông, vào năm 2018. Paris là một trung tâm vận tải đường sắt, đường cao tốc và đường hàng không được phục vụ bởi hai sân bay quốc tế chính: Paris–Charles de Gaulle (sân bay bận rộn thứ hai ở Châu Âu) và Paris–Orly. Khai trương vào năm 1900, hệ thống tàu điện ngầm của thành phố, Métro Paris, phục vụ 5,23 triệu hành khách mỗi ngày; nó là hệ thống tàu điện ngầm bận rộn thứ hai ở châu Âu sau Tàu điện ngầm Moskva. Gare du Nord là nhà ga bận rộn thứ 24 trên thế giới và là nhà ga nhộn nhịp nhất bên ngoài lãnh thổ Nhật Bản, với 262 triệu hành khách vào năm 2015. Paris đặc biệt nổi tiếng với các bảo tàng và địa danh kiến trúc: Louvre vẫn là bảo tàng được ghé thăm nhiều nhất trên thế giới với 2,8 triệu lượt khách vào năm 2021, bất chấp việc đóng cửa do virus COVID-19 gây ra. Bảo tàng Orsay, bảo tàng Marmottan Monet và bảo tàng Orangerie gây chú ý nhờ các bộ sưu tập tranh nghệ thuật Ấn tượng Pháp. Bảo tàng Quốc gia Nghệ thuật Hiện đại của Trung tâm Pompidou có bộ sưu tập tranh nghệ thuật đương đại và hiện đại lớn nhất ở châu Âu. Bảo tàng Rodin và bảo tàng Picasso trưng bày các tác phẩm của hai danh họa. Quận lịch sử dọc theo sông Seine ở trung tâm thành phố đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1991; các địa danh nổi tiếng tại đây bao gồm Nhà thờ Đức Bà Paris ở Île de la Cité, hiện đã đóng cửa để tu sửa sau trận hỏa hoạn ngày 15 tháng 4 năm 2019. Những địa điểm du lịch nổi tiếng khác bao gồm nhà nguyện hoàng gia theo kiểu kiến trúc Gothic Sainte-Chapelle, cũng nằm trên Île de la Cité; Tháp Eiffel, được xây dựng nhằm chuẩn bị cho Triển lãm Quốc tế Paris 1889; Grand Palais và Petit Palais, được xây dựng nhằm chuẩn bị cho Triển lãm Quốc tế Paris 1900; Khải Hoàn Môn nằm trên đại lộ Champs-Élysées, đồi Montmartre và Vương cung thánh đường Sacré-Cœur. Paris chào đón 12,6 triệu lượt khách vào năm 2020, tính theo thời gian lưu trú tại khách sạn, giảm 73% so với năm 2019, do virus COVID-19. Số lượng du khách nước ngoài giảm 80,7%. Các bảo tàng được mở cửa trở lại vào năm 2021, với giới hạn về số lượng khách tham quan tại một thời điểm và yêu cầu du khách bắt buộc phải đeo khẩu trang. Câu lạc bộ bóng đá Paris Saint-Germain và câu lạc bộ bóng bầu dục liên hiệp Stade Français có trụ sở tại Paris. Sân vận động Stade de France có sức chứa 80.000 chỗ ngồi, được xây dựng để chuẩn bị cho FIFA World Cup 1998, tọa lạc phía bắc Paris ở xã Saint-Denis lân cận. Paris tổ chức giải quần vợt Grand Slam thường niên Pháp Mở rộng trên sân đất nện Roland Garros. Thành phố này đã đăng cai Thế vận hội Mùa hè vào các năm 1900, 1924 và sẽ đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2024. Các kỳ FIFA World Cup 1938 và 1998, World Cup Rugby 2007, cũng như UEFA Euro 1960, 1984 và 2016 đều được tổ chức tại thành phố này. Vào tháng 7 hàng năm, giải đua xe đạp Tour de France kết thúc tại đại lộ Champs-Élysées ở Paris. Tên gọi. "Paris" xuất phát từ tên gọi những người Parisii bộ tộc Gaulois. Năm 52 trước Công Nguyên, khi người La Mã tới, họ gọi khu vực này là Lutetia hay "Lutetia Parisiorum". Khoảng năm 300, Lutetia được đổi tên thành Paris, lấy từ chữ "Civitas Parisiorum" - có nghĩa "Thành của người Parisii". Còn nguồn gốc tên những người Parisii vẫn chưa được chắc chắn. Hiện nay, ở Paris cũng có một khách sạn nổi tiếng mang tên Lutetia. Trong tiếng Việt, Paris từng được gọi phổ biến bằng tên Ba Lê, âm Hán-Việt của 巴黎 (pinyin: "Bālí"; dùng tiếng Trung phiên âm tên gốc tiếng Pháp ra chữ Hán rồi quy sang âm Hán Việt tương ứng). Tuy nhiên, tên gọi này hiện nay ít được sử dụng, và tên gọi "Ba Lê" còn trùng âm với nghệ thuật múa ba lê, xuất phát từ chữ "ballet" trong tiếng Pháp. Dựa vào phiên âm, Paris được viết là Pa-ri, tương tự "Mát-xcơ-va" cho Moskva. Nhưng cách phiên âm "Pa-ri" cũng không hẳn chính xác. Trong khi với những người Anh, Paris được phát âm là /ˈpærɪs/ (Pa-ríts), thì những người Pháp gọi tên thủ đô của mình là . Paris nổi tiếng với tên gọi "Kinh đô ánh sáng", vốn từ trong tiếng Pháp là "Ville lumière", dịch chính xác là "Thành phố ánh sáng", cũng giống trong tiếng Anh: "The City of Lights". Tên gọi này được bắt đầu từ nghĩa đen của nó: cuối thế kỷ 17, trung tướng cảnh sát đầu tiên của Paris Gabriel Nicolas de La Reynie ra lệnh thắp sáng những khu vực công cộng nhiều tệ nạn của thành phố. Nhưng bởi Paris nổi tiếng với vị trí trung tâm văn hóa, tri thức của cả thế giới, nên tên gọi này thường được hiểu theo nghĩa bóng. Cùng với Venezia, Paris còn được ví là "Thành phố của tình yêu". Những người yêu thích Paris cũng nói: "Chỉ cần thêm hai chữ cái, Paris trở thành thiên đường". Trong tiếng Pháp, thêm hai chữ a và d, "Paris" thành "Paradis", có nghĩa là thiên đường. Từ "parisien" trong tiếng Pháp là tính từ của Paris, cũng là danh từ để chỉ những người dân của thành phố này. Ngoài ra, "parisien" còn là một từ lóng được các nhà văn của thế kỷ 19 như Victor Hugo, Eugène Sue hay Balzac sử dụng rộng rãi và còn phổ biến cho tới thập niên 1950. Một tên gọi thân mật khác của Paris là "Paname" từ đầu thế kỷ 20 khi những chiếc mũ "panama" phổ biến. Bắt đầu bởi các công nhân đào con kênh Panama, loại mũ này rất thịnh hành ở Mỹ và châu Âu. Rồi đến Paris, tất cả đàn ông đều đội một chiếc "panama" và nó thành một tên gọi cho thành phố. Cũ hơn nữa, Paris và một trong các ngoại ô là Pantin được gọi lóng là "Pantruche" theo tên công ty tổ chức lễ hội Carnaval của Paris: Compagnie Carnavalesque Parisienne "les Fumantes de Pantruche". "Parigot" cũng là một từ lóng để chỉ những người Paris, nhưng từ này ít nhiều mang tính châm chọc, chế giễu. Địa lý. Nằm ở phía Bắc nước Pháp. Paris được xây dựng hai bên bờ sông Seine với tâm là đảo Île de la Cité. Tại trung tâm của bồn địa chất Paris, trên một vùng trầm tích bằng phẳng rộng lớn, Đây cũng là nơi hợp lưu của sông Seine và sông Marne với dân số ước tính là 2.165.423 người , trên diện tích hơn . . Hai đảo của sông tạo nên trung tâm lịch sử của thành phố: Île de la Cité ở phía tây và Île Saint-Louis ở phía đông. Từ tâm này, thành phố trải rộng ra xung quanh, nhưng phần diện tích Paris ở phía bắc - tức hữu ngạn sông Seine - rộng hơn bên tả ngạn phía nam rõ rệt. Cả hai bên sông Seine, một số vùng đất tạo bởi đá thạch cao nhô lên thành những quả đồi nhỏ. Ở hữu ngạn: đồi Montmartre có độ cao là 131 mét, đỉnh là vị trí nhà thờ Saint-Pierre; Belleville cao 128,5 m tại phố Télégraphe; Ménilmontant 108 m; công viên Buttes-Chaumont 103 m; Passy 71 m. Bên tả ngạn: Montparnasse cao 66 m; Butte aux Cailles 63 m; đồi Sainte-Geneviève 61 m. Vào năm 1844, nội ô Paris (Paris "intra-muros") được giới hạn bởi bức tường thành Thiers. Tới năm 1860, một số hạt và quận xung quanh được sáp nhập vào thành phố. Còn ngày nay, Paris được phân định với ngoại ô bằng các đại lộ vành đai dài 35 km. Tuy nhiên có một vài ngoại lệ. Quận 15 vượt qua ranh giới này tới sân bay trực thăng Issy-les-Moulineaux. Quận 16 bao gồm cả rừng Boulogne rộng 846 hecta ở phía tây. Còn rừng Vincennes rộng 995 hecta thuộc Quận 12 ở phía Đông. Tổng cộng chu vi của Paris dài tới 54,74 km. Thành phố Paris rộng 105 km². Nếu tính khu vực đô thị Paris, có nghĩa gồm thành phố và đô thị ngoại ô, tổng diện tích là km² với dân vào năm 1999, chiếm 396 xã của vùng Île-de-France. Còn toàn bộ vùng đô thị Paris, có nghĩa bao gồm tất cả các vùng phụ cận chịu ảnh hưởng của thủ đô, vào năm 1999 có dân số người trên tổng cộng xã. Điểm trung tâm của Pháp được đánh dấu ở sân trước nhà thời Đức Bà, có tọa độ địa lý 48,85341°N, 2,34880°E. Địa chất thủy văn. Bồn địa chất Paris tạo nên một tập hợp các lớp trầm tích kế tiếp. Đây là một trong những nơi đầu tiên trở thành đối tượng của việc xây dựng bản đồ địa chất và cho phép tạo ra nhiều lý thuyết về địa chất, như cổ sinh vật học và giải phẫu so sánh của Georges Cuvier. Bồn Paris được tạo trong khoảng thời gian 41 ngàn năm. Đây là một bồn thềm lục địa trên những khối núi từ thời Đại cổ sinh như khối núi Vosges, khối núi Massif central, khối núi Armorica. Với sự tạo thành của dãy Alps, bồn Paris bị đóng lại, chỉ còn mở ra phía biển Manche và Đại Tây Dương. Nó báo trước cho sự hình thành lưu vực sông Loire và sông Seine. Cuối thế Oligocen, bồn Paris trở thành lục địa. Năm 1911, nhà địa lý Paul Lemoine chỉ ra rằng bồn Paris được hợp bởi những địa tầng bố trí thành những vùng trũng đồng tâm. Sau đó, các nghiên cứu sâu hơn trên nhưng dữ liệu địa chấn và phương pháp khoan đã cho phép có một cái nhìn chính xác. Chúng xác nhận những vùng trũng đồng tâm nhưng phức tạp giống như các phay. Sự cấu tạo của địa hình Paris nằm ở các tầng Đại Trung Sinh và Kỷ Paleogen và được tạo bởi sự xói mòn. Địa tầng đầu tiên bắt đầu từ Kỷ Đệ Tam tiếp tục bồi đắp bởi sông Seine vào thời kỳ hiện đại. Các lớp đọng đầu tiên là cát và đất sét xuất hiện ở khu vực Trocadéro, Quận 16 ngày nay. Nhưng giai đoạn được biết tới nhiều nhất là tầng Lutetia với các lớp đọng giàu thạch cao và đá vôi. Tầng động vật này đã được đặt theo tên tiếng La Tinh của Paris: Lutetia. Lòng đất của Paris mang nhiều đặc tính với sự hiện diện của đá vôi, thạch cao và đá vôi silic. Một số đã được sử dụng như ở Hầm mộ Paris, ngày nay vẫn được mở cửa một phần cho công chúng. Đá vôi được khai thác cho tới thế kỷ 14 ở tả ngạn sông Seine, từ quảng trường Italie tới phố Vaugirard. Ngày nay sự khai thác chuyển về Oise. Còn việc khai thác thạch cao từng rất phổ biến ở Montmartre và Bagneux. Dòng sông Seine chảy qua Paris theo hình một cánh cung: vào thành phố từ phía đông nam và ra khỏi thành phố phía tây bắc. Hơn 30 cây cầu của Paris bắc qua dòng sông này. Còn có hai dòng chảy khác qua Paris. Sông Bièvre phía nam, ngày nay ngầm hoàn toàn dưới đất. Kênh Saint-Martin hoàn thành 1825 dài 4,5 km, nối với bồn Villette vào thành phố ở phía đông bắc. Kênh Saint-Martin chảy ngầm dưới đất cho tới phố Faubourg-du-Temple ở quảng trường Bastille rồi tiếp tục chảy lộ thiên và nối với sông Seine ở phía thượng lưu của đảo Île Saint-Louis. Một con kênh khác là Saint-Denis, cũng nối với bồn Villette theo hướng Saint-Denis, dài 4,5 km và hoàn thành vào năm 1821. Con kênh này gặp sông Seine ở phần hạ lưu và không đi qua Paris. Một dòng sông nữa là Marne, chảy gần Paris qua Seine-Saint-Denis, Val-de-Marne và gặp sông Seine ở phía đông nam thành phố. Địa chất thủy văn đã ảnh hưởng nhiều tới quy hoạch đô thị Paris. Sông Bièvre, một nhánh nhỏ của sông Seine, đã bị che lại, chỉ chảy ngầm dưới đất từ thế kỷ 19 bởi vấn đề vệ sinh. Nhiều dòng nước ngầm khác dưới lòng Paris, như Auteuil đã cung cấp nước cho thành phố bởi các giếng khoan. Các mạch nước tầng Alba được biết đến nhiều nhất trong vùng Paris và được khai thác từ năm 1841 bởi giếng Grenelle. Khí hậu và môi trường. Do có vị trí nằm ở vùng ôn đới, nên Paris có khí hậu tương đối ôn hoà. Ảnh hưởng của đại dương khí hậu ở Paris chiếm ưu thế, thể hiện như: mùa hè mát, trung bình 18°C; mùa đông không quá lạnh, trung bình 6 °C; các mùa đều mưa nhiều và thời tiết thất thường. Lượng mưa trung bình ở Paris là 641 mm. Mưa tuyết không nhiều, chủ yếu vào những tháng lạnh nhất như tháng 1, tháng 2, nhưng đôi khi vào tận tháng 4. Tuy vậy khí hậu Paris cũng đôi khi đột biến. Nhiệt độ cao nhất ghi được tại đây là vào ngày 25 tháng 7 năm 2019, lên đến 42,6 °C. Còn nhiệt độ thấp nhất ghi lại được vào ngày 10 tháng 12 năm 1879, xuống tới -23,9 °C. Mùa hè năm 2003, cùng với châu Âu, Paris cũng phải chịu một trận nắng nóng lịch sử. Như tất cả các thành phố lớn khác trên thế giới, Paris chịu hậu quả của sự thay đổi môi trường do dân số tăng và các hoạt động kinh tế. Là thủ đô có mật độ dân số cao nhất châu Âu nhưng tỷ lệ không gian xanh ở Paris lại thấp nhất, dù những thập kỷ gần đây một số công viên và vườn mới được tạo thêm. Không chỉ là lời đồn, vấn đề phân chó thực sự có ở Paris. Nó vẫn xuất hiện trên vỉa hè, dù ngày nay nhiều người dắt chó đi dạo phải mang theo túi ni lông để nhặt phân chó. Lịch sử. Paris có một lịch sử lâu đời, gắn liền với lịch sử Pháp và cả châu Âu. Từ một thành trì của người Parisii thuộc bộ tộc Gaulois, nơi đây trở thành một thành phố La Mã vào thế kỷ 1. Tới thế kỷ 6, vua Clovis I lấy Paris làm thủ đô cho vương quốc Franc. Trải qua nhiều thế kỷ biến động, mặc dù không liên lục, Paris vẫn là thủ đô của Pháp. Tới thế kỷ 18, thành phố là nơi nổ ra Cách mạng Pháp, rồi sau đó trở thành thủ đô của Đệ nhất đế chế thời Napoléon Bonaparte. Vào thế kỷ 19, Paris bắt đầu có những phát triển vượt bậc và được quy hoạch lại dưới thời Napoléon III. Sau Công xã Paris, thành phố bước vào thời kỳ Belle Époque và trở thành trung tâm văn hóa của cả châu Âu. Qua hai cuộc chiến tranh thế giới, Paris ít bị hủy hoại và tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn hậu chiến. Ngày nay, thành phố tiếp tục là một trung tâm văn hóa, kinh tế của cả thế giới. Tiền sử và Cổ đại. Cách đây ít nhất năm đã có sự hiện diện của con người ở vùng Île-de-France, bằng chứng là những công cụ đá được tìm thấy ở bờ sông Seine. Vào đầu thời kỳ Đồ đá mới, khoảng năm đến trước Công Nguyên, con người đã sinh sống thường xuyên ở bờ trái một nhánh cũ của sông Seine, thuộc Quận 12 ngày nay. Dường như sự sống của con người đã liên tục ở đây suốt thời kỳ Đồ đá mới, nhưng không có nhiều hiểu biết về khoảng thời gian từ thời Tiền sử cho tới thời kỳ Gaule La Mã. Những người Parisii thuộc bộ tộc Gaulois đã làm chủ khu vực này cho đến năm 52 trước Công Nguyên, khi quân đội của Julius Caesar tới. Trong trận chiến với quân đội La Mã, người Gaulois đã phá cầu, đốt thành của mình. Cũng không biết chính xác thành của người Gaulois đã nằm ở đâu: Île de la Cité, Île Saint-Louis, hay một hòn đảo khác mà ngày nay đã nhập vào tả ngạn. Thậm chí có thể là ở tận Nanterre. Sau thất bại của những người Gaulois, nơi đây trở thành Lutetia. Vào thế kỷ 1, một thành phố La Mã được xây dựng ở bờ trái sông Seine theo bản vẽ kiểu Hippodamos. Lutetia chỉ có khoảng 5 tới 6 ngàn dân vào thời kỳ đỉnh cao. Trong đế chế La Mã, nó chỉ là một thành phố khiêm tốn, so sách với Lugdunum vào thế kỷ 2 có tới đến người. Theo truyền thuyết thì Thánh Denis, người tử vì đạo khoảng năm 250, đã truyền Cơ Đốc giáo vào thành phố. Khoảng năm 300, Lutetia được đổi tên thành Paris. Năm 451, trước sự xâm lược của người Hung và người Attila, Thánh Geneviève - một người có ảnh hưởng to lớn của Cơ Đốc giáo khi đó và về sau trở thành thánh bảo trợ của Paris - đã đến thuyết phục những người dân Paris không chạy trốn. Nhưng sau đó họ đã thất bại ở trận Chalons. Trung Cổ. Thời kỳ Trung Cổ, thành phố thoát khỏi sự cai trị của những người Attila trong một thời gian ngắn rồi Childéric I tới chiếm vào năm 464. Năm 508, sau khi chiến thắng những người La Mã, Clovis I - con trai của Childéric I - lấy Paris làm thủ đô của vương quốc Franc và sống ở đây tới khi chết vào năm 511. Trong khoảng thời gian sau đó, thành phố cùng các công trình tôn giáo tiếp tục được xây dựng. Vào thế kỷ 9, các bức thành được dựng lên bên ở hữu ngạn để bảo vệ các giáo khu Saint-Gervais và Saint-Germain-l'Auxerrois. Năm 845, những người Viking tới đánh Paris lần đầu tiên, dân chúng phải rời bỏ thành phố. Các cuộc tấn công này còn kéo dài tới đầu thế kỷ 10 và được kết thúc bởi hòa ước Saint-Clair-sur-Epte năm 911. Năm 987, dòng họ Capet lên trị vì. Khi đó, Paris và Orléans là hai thành phố lớn nhất trong lãnh thổ và vương triều Capet đã chọn Orléans. Hugues Capet, mặc dù cung điện ở Île de la Cité nhưng ít khi sống ở đây. Robert II thì đến Paris thường xuyên hơn. Từ thế kỷ 11, Paris trở thành một trung tâm quan trọng của giáo dục tôn giáo. Quyền lực hoàng gia dần được tập trung ở Paris và thành phố trở lại thành thủ đô của vương quốc từ thời vua Louis VI, rồi Philippe Auguste. Là điểm giao của các con đường buôn bán lớn, Paris trở nên giàu có nhờ thương mại. Lúa mì vào thành phố từ phố Saint-Honoré, dạ ở phố Saint-Denis, và cá từ biển Bắc và biển Manche đến Paris ở phố Poissonniers... Vào năm 1150, dân số Paris ước tính khoảng người. Năm 1163, giáo mục Maurice de Sully xây dựng nhà thờ Đức Bà trên đảo Île de la Cité. Sự quan trọng của thành phố tăng lên, Paris trở thành trung tâm chính trị lẫn tôn giáo. Tả ngạn sông Seine với các nhà thờ đóng vai trò quan trọng về giáo dục. Còn hữu ngạn là trung tâm của thương mại và tài chính. Vào thời kỳ này, các trường học của giáo hội gây dựng được tiếng tăm và muốn trở nên độc lập. Dưới thời vua Philippe II, năm 1215, Đại học Paris được thành lập. Vua Saint Louis lên ngôi năm 1226, cho xây dựng nhà thờ Sainte-Chapelle và tiếp tục công trình nhà thờ Đức Bà. Khoảng 1328, dân số Paris ước tính khoảng người, là thành phố đông dân nhất châu Âu. Nhưng năm vào 1348, nạn dịch hạch đen đã tàn sát dân chúng thành phố. Trong thế kỷ 14, bức tường thành của vua Charles V bao gồm cả Quận 3 và Quận 4 ngày nay, và trải từ cầu Pont Royal tới cửa ô Saint-Denis. Năm 1337 nổ ra cuộc chiến tranh Trăm năm. Sự bất mãn của dân chúng đã nuôi tham vọng của quan thái thú Étienne Marcel gây nên chính biến lớn đầu tiên trong lịch sử Pháp vào năm 1358. Điều này khiến các vị vua không còn ở trong trung tâm thành mà tới Hôtel Saint-Pol, rồi Hôtel des Tournelles, nơi dễ dàng thoát khi có binh biến. Năm 1407 nổ ra cuộc nội chiến giữa hai phe Armagnacs và Bourguignons, tới 1420 mới kết thúc. Chiến tranh Trăm năm vẫn tiếp tục, Paris nằm trong phần lãnh thổ do người Anh kiểm soát. Năm 1429, Jeanne d'Arc thất bại trong việc đánh đổ người Anh và đồng minh là Bourguignons rồi bị thiêu sống năm 1431. Tới năm 1453, thời vua Charles VII, chiến tranh kết thúc. Nhưng Charles VII và con trai là Louis XI lại chuyển đến Val de Loire. Trong khoảng từ 1422 đến 1500, dân số Paris tăng lên, từ 100 ngàn thành 150 ngàn người. Giữa thế kỷ 16, tuy kinh tế có phát triển nhẹ, nhưng thiếu vắng triều đình, Paris chuyển thành một thành phố hành chính và tư pháp. Từ Phục Hưng tới thế kỷ 18. Vào thời kỳ Phục Hưng, triều đình vẫn ở Val de Loire. Paris tiếp tục được mở rộng nhưng khá lộn xộn. Năm 1500, quy tắc xây dựng đô thị đầu tiên được ban bố. Tới năm 1528, François I chính thức chuyển về Paris. Theo ý muốn của nhà vua, ở Collège de France, giáo dục hiện đại hướng đến chủ nghĩa nhân đạo và khoa học chính xác. Dưới sự trị vì của François I, Paris đạt tới người và tiếp tục là thành phố đông dân nhất Tây Âu. Từ 1562 tới 1598 là khoảng thời gian Chiến tranh tôn giáo với 8 cuộc xung đột liên tiếp. Ngày 24 tháng 8 năm 1572, dưới thời Charles IX, đã xảy ra vụ Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy. Những người Công giáo tàn sát những người Kháng Cách khắp Paris với số nạn nhân trong khoảng 2 ngàn tới 10 ngàn người. Giáo hội Pháp, đặc biệt ở Paris, nổi dậy chống lại vua Henri III vào năm 1588. Ngày 2 tháng 8 năm 1589, Henri III bị ám sát, Henri de Navarre trở thành vua Henri IV của Pháp năm 1589. Paris, mặc dù đổ nát và hoang tàn đã không mở cửa cho nhà vua cho tới tận 1594. Năm 1610, một kẻ cuồng tín ám sát Henri IV trên phố Ferronnerie, Paris. Năm 1648, một vụ nổi loạn của dân Paris là nguyên nhân khiến kinh tế giảm sút. Mặc dù số lượng người chết cao hơn số lượng sinh, nhưng dân số Paris vẫn đạt tới nhờ những cuộc di cư từ các tỉnh. Thời kỳ này, Paris là một thành phố thảm hại và kém an ninh. Khu phố Caire và Réaumur, ở quận Quận 2 ngày nay, tràn ngập trộm cắp và ăn mày, được gọi là Cour des miracles. Từ năm 1656, nhờ trung tướng cảnh sát Gabriel Nicolas de La Reynie, nó mới dần bị dẹp bỏ. Kể từ Louis XIII, và tiếp đó là Louis XIV, các vị vua Pháp chuyển đến sống tại cung điện Versailles. Năm 1682 triều đình cũng chuyển về Versailles, Jean-Baptiste Colbert trở thành người quản lý Paris. Mặc dù Versailles nằm rất gần Paris, nhưng trong suốt thời gian trị vì Louis XIV chỉ đến Paris 24 lần để dự các buổi lễ chính thức. Năm 1715, công tước Philippe II, khi đó là nhiếp chính, rời Versailles về Palais-Royal trong Paris. Tiếp đó vị vua trẻ Louis XV sống tại cung điện Tuileries. Một lần nữa, triều đình quay về Paris. Nhưng từ 1722, Louis XV lại trở lại cung điện Versailles. Trong thế kỷ 18, Paris trở thành trung tâm tri thức, nơi sản sinh những tư tưởng của Khai sáng, là thời kỳ hoàng kim của các phòng khách văn học. Thế kỷ 18 còn là giai đoạn Paris phát triển mạnh mẽ về kinh tế khiến dân số tăng nhanh, đạt tới con số người trước khi nổ ra Cách mạng Pháp. Thành phố khi đó trải rộng bằng khoảng 6 quận trung tâm của Paris hiện nay, vườn Luxembourg đánh dấu ranh giới phía tây. Tuy ở Versailles, Louis XV vẫn yêu thích thành phố, quyết định xây dựng quảng trường Louis XV - tức quảng trường Concorde - cùng việc mở ra trường quân sự École militaire vào năm 1752. Và hơn hết là việc xây dựng một nhà thờ ở Sainte-Geneviève vào năm 1754, chính là Điện Panthéon. Cách mạng và Đế chế. Cách mạng Pháp được bắt đầu ở Versailles với sự triệu tập Hội nghị các đẳng cấp và sau đó là Lời tuyên thệ Jeu de paume, những người thuộc Đẳng cấp thứ ba tự thành lập quốc hội. Nhưng nguyên nhân chính của cách mạng là ở Paris: những người dân bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế, giá bánh mỳ tăng, nhạy cảm với chính trị bởi các tư tưởng Khai sáng và oán giận triều đình cùng tầng lớp quý tộc. Việc chiếm ngục Bastille ngày 14 tháng 7 năm 1789 là bước đầu tiên. Jacques de Flesselles - "prévôt des marchands" của thành phố, tương đương thị trưởng - bị giết. Ngày 15 tháng 7, nhà thiên văn Jean Sylvain Bailly tới Tòa thị chính trở thành thị trưởng đầu tiên của Paris. Đến cuối tháng 7 thì tinh thần chủ quyền nhân dân lan ra khắp nước Pháp. Ngày 4 tháng 8, Quốc hội tuyên bố bãi bỏ chế độ phong kiến. Ngày 5 tháng 10, những người nổi dậy tới Versailles vào buổi tối. Sáng ngày 6, họ chiếm lâu đài và buộc nhà vua phải quay trở lại Paris, trú ngụ ở cung điện Tuileries. Sau đó một Quốc hội lập hiến được triệu tập ở Tuileries ngày 19 tháng 10. Ngày 14 tháng 7 năm 1790, lễ hội Fédération được tổ chức ở Champ-de-Mars mừng một năm ngày phá ngục Bastille. Quốc hội với nhiều bè phái dẫn tới mâu thuẫn. Đa số vẫn ủng hộ chế độ quân chủ, đã đi đến thỏa thuận cho vua Louis làm một đấng quân vương bù nhìn. Tình hình chính trị rối loạn đẩy Pháp vào cuộc chiến tranh với Áo và các đồng minh. Ngày 20 tháng 4 năm 1792, Pháp khai chiến với Áo, tình hình trong nước hỗn loạn. Đêm 9 tháng 7 năm 1792, những người cách mạng chiếm Tòa thị chính thành phố. Trong ngày 10 tháng 8, đám đông vây hãm cung điện Tuileries với sự ủng hộ của chính quyền thành phố mới. Vua Louis XVI cùng hoàng gia bị tống giam ở Tour du Temple. Ngày 21 tháng 9 năm 1792, chính quyền tuyên bố chấm dứt chế độ quân chủ và lập ra nền Cộng hòa. Ngày 21 tháng 1, tại quảng trường Louis XV - được đặt tên lại là quảng trường Cách mạng - Louis XVI bị hành quyết bởi tội danh "âm mưu chống lại tự do nhân dân và an ninh chung". Sau đó tới Maria Antonia của Áo, Danton, Lavoisier và Robespierre cùng khoảng 1200 người khác bị ghép vào tội phản cách mạng, lĩnh án tử hình. Thời kỳ Cách mạng không phải là giai đoạn tốt cho việc phát triển thành phố. Rất ít công trình được xây dựng và nhiều nhà thờ, tu viện bị phá hủy. Đến thời kỳ Đốc chính, một số công trình phong cách Tân cổ điển mọc lên. Vào năm 1800, dân số Paris khoảng người. Đến năm 1806, nhờ các cuộc di cư từ các tỉnh, dân số Paris lên đến người. So với Luân Đôn, từ giữa thế kỷ 18, Paris bị bỏ xa về kinh tế lẫn dân số. Năm 1800, dân số Luân Đôn đã xấp xỉ người. Năm 1799, Napoléon Bonaparte lên nắm quyền. Ngày 2 tháng 12 năm 1804, Napoléon nhận tôn phong hoàng đế từ Giáo hoàng Pie VII tại nhà thờ Đức Bà. Paris tiếp tục là thủ đô của Đệ nhất đế chế Pháp. Từ thời kỳ Khôi phục tới Công xã Paris. Sự sụp đổi của Đệ nhất đế chế vào 1814 và 1815 dẫn đến việc quân đội Anh và Nga tới đồn trú ở Paris. Louis XVIII trở về từ nơi lưu đày, ngụ tại cung điện Tuileries. Louis XVIII và Charles X, rồi cả nền Quân chủ tháng bảy ít bận tâm tới quy hoạch đô thị Paris. Giai cấp công nhân phát triển mạnh, sống chen chúc trong các khu phố trung tâm, mật độ tới người một km². Dịch tả năm 1832 sát hại người. Vào năm 1848, 80% số người chết bị chôn ở các huyệt tập thể và hai phần ba dân Paris quá nghèo để trả tiền thuế. Những người dân bị bần cùng hóa tiếp tục nổi dậy khiến Charles X, rồi Louis-Philippe I phải thoái vị. Đây cũng là giai đoạn Paris có nhiều phát triển. Năm 1825, việc xây dựng kênh Saint-Martin hoàn tất. Ngày 26 tháng 8 năm 1837, tuyến đường sắt đầu tiên của Pháp hoàn thành, nối Paris với Saint-Germain-en-Laye. Các nhà ga Saint-Lazare, Gare du Nord, các tuyến đường sắt Paris-Orléans, Paris-Rouen được xây dựng mở ra kỷ nguyên đường sắt. Năm 1825, chiếu sáng công cộng bằng khí gaz được thử nghiệm ở quảng trường Vendôme. Và tới năm 1843, chiếu sáng bằng điện được thử nghiệm ở quảng trường Concorde. Xã hội phức tạp thời kỳ này được phản ánh qua các tác phẩm của Balzac, Victor Hugo hay Eugène Sue. Đệ nhị đế chế bắt đầu từ năm 1852. Dưới thời Napoléon III, Paris có những thay đổi triệt để. Trong vòng không đến 20 năm, từ một thành phố với cấu trúc cũ, Paris trở thành một thành phố hiện đại. Napoléon III cùng Nam tước Haussmann có những ý tưởng chính xác về quy hoạch thành phố: các con phố, đại lộ được vẽ lại, quy định về mặt ngoài các ngôi nhà, bố trí các không gian xanh... Ngày 1 tháng năm 1860, một đạo luật cho phép sáp nhập một loạt hạt xung quanh với Paris. Từ 12 quận với hecta, Paris trở thành 20 quận với tổng diện tích hecta. Sự phát triển đô thị còn tiếp tục vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, năm 1870 Paris bị quân đội Phổ vây hãm trong nhiều tháng. Ngày 8 tháng 2 năm 1871, một chính phủ mới được bầu. Tới ngày 26 tháng 2, một hiệp định sơ bộ được ký ở Versailles chuẩn bị cho hiệp ước Frankfurt - mà nước Pháp quá thua thiệt - sau đó. Tới ngày 1 tháng 5, mang tính tượng trưng, những nhóm quân Phổ vào Paris diễu hành trên đại lộ Champs-Élysées. Dân chúng Paris bất mãn, nổi dậy ngày 18 tháng 5 năm 1871, là sự bắt đầu của Công xã Paris. Adolphe Thiers cùng chính phủ phải tạm thời chuyển về Versailles ngày 20 tháng 3. Từ 22 tới 28 tháng 5 là "Tuần lễ đẫm máu" kết thúc Công xã Paris. Từ Belle Époque tới Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong thời kỳ Belle Époque, Paris có những bước phát triển kinh tế quan trọng. Năm 1913, thành phố có tới một ngàn công ty với một triệu nhân công. Trong khoảng thời quan 1900 tới 1913, sau sự ra đời của điện ảnh, 175 rạp chiếu phim được mở ở Paris. Các đại cửa hàng cũng bắt đầu xuất hiện, mở đầu là Le Bon Marché, rồi tới La Samaritaine, Galeries Lafayette... Hai cuộc triển lãm thế giới vào năm 1889 và 1900 minh chứng cho giai đoạn hoàng kim của Belle Époque. Tháp Eiffel xây dựng nhân triển lãm năm 1889, kỷ niệm 100 năm Cách mạng Pháp. Tuyến tàu điện ngầm đầu tiên cùng Grand Palais, Petit Palais và cầu Alexandre-III hoàn thành năm 1900. Công nghiệp phát triển chuyển ra ngoài ngoại thành: hãng ô tô Renault ở Boulogne-Billancourt và Citroën ở Suresnes. Một số lĩnh vực khác, như ngành in và báo chí, vẫn ở lại trong nội ô thành phố. Belle Époque cũng là thời kỳ mà Paris trở thành trung tâm văn hóa của thế giới. Thành phố sản sinh ra nhiều nghệ sĩ lớn cùng rất nhiều các nhà văn, họa sĩ nổi tiếng của Pháp và khắp nơi trên thế giới tới Paris. Năm 1910, sông Seine với một trận lụt thế kỷ đã làm thành phố thiệt hại tới ba tỷ franc. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Paris tránh được những trận đánh nhưng phải chịu các cuộc ném bom và nã pháo của quân đội Đức. Tuy vậy các cuộc ném bom này chỉ lẻ tẻ và mang tính chất tâm lý. Vào khoảng thời gian giữa hai cuộc thế chiến, thành phố phải đối mặt với những khủng hoảng về kinh tế và xã hội. Để giải quyết vấn đề nhà ở, những chung cư bình dân được lập nên. Bên cạnh đó, ngoại ô cũng được chia lô để xây dựng các ngôi nhà. Vào năm 1921, dân số Paris lên đến người. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nước Pháp đầu hàng, Chính phủ của thống chế Pétain chuyển đến Vichy. Paris trở thành trụ sở chỉ huy của quân đội Đức tại Pháp. Ngày 16 và 17 tháng 7 năm 1942, người Do Thái - cả phụ nữ và trẻ em - bị bắt. Ngày 6 tháng 6 năm 1944, các lực lượng Đồng Minh đổ bộ vào bờ biển Normandie và tới ngày 25 tháng 8, Paris được giải phóng. Trước khi rút quân, tướng Dietrich von Choltitz đã trái lệnh Adolf Hitler, không cho phá hủy thành phố. Paris đương đại. Năm 1956, Paris trở thành thành phố sinh đôi của Roma, như một biểu tượng của sự hòa giải sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong nhiệm kỳ của tổng thống Charles de Gaulle, từ 1958 tới 1969, nhiều sự kiện chính trị đã diễn ra ở thủ đô. Ngày 17 tháng 10 năm 1961, một cuộc biểu tình cho nền độc lập của Algérie bị cảnh sát đàn áp, ước tính 32 tới 325 người chết. Từ ngày 22 tháng 3 năm 1968, một phong trào sinh viên, bắt đầu từ Đại học Nanterre lan dần tới khu phố La Tinh trở thành một vụ bạo loạn. Đỉnh điểm ngay 13 tháng 5, một cuộc biểu tình với người chống lại cảnh sát. Phải sau hai tháng, tình hình mới yên tĩnh trở lại. Vào thời kỳ tiếp theo, các tổng thống Pháp cho xây dựng nhiều công trình hiện đại cả trong Paris và ngoại ô. Từ những năm 1960, khu đô thị hiện đại La Défense dần xuất hiện. Vào năm 1976, chính phủ lần đầu tiên chấp nhận một hội đồng thị chính độc lập kể từ 1871. Jacques Chirac trở thành thị trưởng Paris đầu tiên kể từ 1971 và giữ chức vụ này cho tới tận 16 tháng 5 năm 1995. Trong nhiệm kỳ của tổng thống François Mitterrand, luật ngày 31 tháng 12 năm 1982 cho phép mỗi quận của Paris có một quận trưởng và hội đồng riêng. Thị trưởng trước của Paris là Bertrand Delanoë, đảng viên Đảng xã hội, được bầu năm 2001. Bertrand Delanoë theo đuổi những chính sách giảm lượng ô tô trong thành phố, khuyến khích phương tiện giao thông công cộng cùng xe đạp và đi bộ. Cũng trong nhiệm kỳ của Bertrand Delanoë, một số hoạt động, lễ hội như "Nuit Blanche", "Paris-Plage" bắt đầu được tổ chức hằng năm. Vào ngày 5 tháng năm 2014, Anne Hidalgo, một người  Xã hội chủ nghĩa, đã được bầu làm thị trưởng nữ đầu tiên của thành phố Paris. Cuộc tấn công khủng bố năm 2015. Vào ngày 7 tháng năm 2015, hai kẻ Hồi giáo cực đoan tấn công trụ sở của tờ báo Charlie Hebdo và giết chết mười ba người vào ngày 9 tháng 1, một tên khủng bố thứ ba, tuyên bố y là một thành viên của ISIS, đã giết chết bốn con tin trong cuộc tấn công vào một cửa hàng tạp hóa của người Do Thái ở Porte de Vincennes. Một loạt các cuộc tuần hành diễn ra ở các thành phố trên toàn nước Pháp vào ngày 10 và 11 tháng 1 năm 2015 để tưởng niệm các nạn nhân của vụ tấn công "Charlie Hebdo", vụ nổ súng tại Montrouge, và cuộc khủng hoảng con tin Porte de Vincennes, đồng thời lên tiếng ủng hộ cho tự do ngôn luận, tự do báo chí và chống chủ nghĩa khủng bố. Các quan chức Pháp ước tính rằng các cuộc tuần hành đã có sự tham gia của khoảng bốn triệu người dân cả nước, trở thành đợt tuần hành công cộng lớn nhất tại Pháp kể từ năm 1944, khi Paris được giải phóng khỏi tay Đức Quốc xã vào cuối cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào ngày 13 tháng 11 năm 2015, một loạt các vụ đánh bom và xả súng ở Paris và Saint-Denis, mà ISIS tuyên bố chịu trách nhiệm, đã giết chết 130 người và làm bị thương hơn 350 người. Dân số. Không giống với các thủ đô khác, địa giới của Paris chỉ bao gồm 20 quận. Khu vực ngoại ô nằm ngoài 20 quận này tuy được đô thị hóa từ thế kỷ 19 và có mật độ dân số rất cao nhưng đều thuộc về các tỉnh khác của vùng Île-de-France. Vì vậy tồn tại các khái niệm nội ô Paris, khu vực đô thị Paris, vùng đô thị Paris. Theo ước tính của Viện Thống kê và Nghiên cứu kinh tế quốc gia Pháp, dân số nội ô thành phố Paris vào 1 tháng 1 năm 2018 khoảng người Theo điều tra năm 2012, khu vực đô thị Paris với 396 xã có dân số là .Vùng đô thị Paris, gồm tổng cộng 1584 xã chịu ảnh hương bởi thủ đô, có dân số người, đông dân nhất trong Liên minh châu Âu, và đông dân thứ ba ở châu Âu, sau Istanbul và Moskva. Tổ chức hành chính. Theo luật ngày 10 tháng 7 năm 1964, và có hiệu lực từ 1 tháng 1 năm 1968, về tổ chức lại vùng Paris: thành phố Paris là một xã của Pháp ("commune"), đồng thời là tỉnh của Pháp ("département"). Trước đó, từ năm 1790, Paris từng là tỉnh lỵ của tỉnh Seine. Ngược lại với các thủ phủ khác của Pháp, không có sự liên quan về thuế khóa giữa Paris và ngoại ô của thành phố. Cũng phải xác định rằng địa hạt của "thành phố Paris" chỉ bao gồm phần trung tâm, khác với các thủ đô khác trên thế giới. "Tỉnh Paris" chỉ gồm một "xã" duy nhất, và được chia nhỏ thành 20 quận. Trong lịch sử, vào 11 tháng 10 năm 1795, Paris được chia làm 12 quận. Cách phân chia này kéo dài tới năm 1860, khi một số phần ngoại ô được sáp nhập vào Paris, và thành phố được chia thành 20 quận như ngày nay. Tuy thế, trong bầu cử, Paris lại được chia thành 21 khu vực cử tri. Quy chế. Quy chế của Paris đã từng thay đổi nhiều lần. Từ 26 tháng 3 tới 22 tháng 5 năm 1871, Paris là trụ sở của chính quyền khởi nghĩa Công xã Paris với hội đồng dân chủ được bầu lên. Bắt đầu Đệ Tam Cộng hòa, bộ luật được ban bố ngày 5 tháng 4 năm 1884 trao quyền hành pháp cho tỉnh trưởng tỉnh Seine và quyền cảnh sát cho cảnh sát trưởng thành phố. Hội đồng Paris, do thành phố bầu, mỗi năm chỉ định một chủ tịch có chức năng đại diện. Paris không có thị trưởng. Ngân sách thành phố do Nhà nước phê chuẩn. Luật ngày 31 tháng 12 năm 1975, có hiệu lực vào năm 1977 khi bầu cử thành phố, đã thiết lập Hội đồng Paris. Hội đồng này vừa là hội đồng thị chính, vừa là hội đồng chung, gồm 109 thành viên là những người bầu lên thị trưởng Paris. Các ủy ban của quận giữ vai trò tư vấn. Cảnh sát trưởng được Nhà nước bổ nhiệm giữ vai trò cảnh sát. Cuối cùng, luật ngày 31 tháng 12 năm 1982 mở rộng quyền lực của Hội đồng Paris, đóng vai trò chính về mặt ngân sách và thiết lập các Hội đồng quận. Các chức năng về quản lý hành chính trật tự xã hội được chia sẻ giữa thị trưởng và cảnh sát trưởng. Ngân sách và thuế. Ngân sách của thành phố cho năm 2013 là 7,6 tỷ euro. Phần lớn nhất của ngân sách (38 %) dành cho các dự án nhà ở và đô thị công cộng; 15% cho đường bộ và giao thông; 8% cho các trường học (trong đó chủ yếu được tài trợ bởi ngân sách nhà nước); 5 % cho các công viên và khu vườn; và 4% cho văn hóa . Hội đồng Paris quay lại tỷ lệ đánh thuế giống như năm 2000: 8,8% thuế cư trú; 7,11% thuế đất xây dựng; 13,5% thuế đất không xây dựng và 12,35% thuế kinh doanh, sản xuất. Thuế khóa chiếm 53,2% nguồn thu của thành phố. Tư pháp. Tòa án lớn Paris nằm tại Palais de Justice trên đảo Île de la Cité. Đây là nơi xét xử nhiều vụ án lớn nhất của Pháp. Mỗi quận còn có một tòa án riêng. Tòa án thương mại của Paris cũng nằm trên đảo Île de la Cité. Tòa án cảnh sát ở phố Ferrus Quận 14 còn Hội đồng hòa giải lao động nằm trên phố Louis-Blanc Quận 10. Ngoài ra Paris còn có ba phòng giúp tư vấn về những thông tin pháp lý tại các Quận 10, 14 và 17. Thành phố Paris có những nhà tù nổi tiếng, đi vào lịch sử: Bastille được hoàn thành năm 1370 bị phá trong Cách mạng Pháp; Conciergerie từng là nơi giam giữ Mara Antonia của Áo cùng một số nhân vật hoàng gia cũng trong thời gian Cách mạng; một phần của lâu đài Vincennes cũng từng là nhà tù. Kinh tế. Vùng Île-de-France là một trong những khu vực kinh tế quan trọng nhất thế giới. Vào năm 2011, GDP của Île-de-France là 607 tỷ euro, tương đương 845,9 tỷ đô la. Giả sử là một quốc gia, Île-de-France sẽ đứng thứ 17 thế giới, xấp xỉ với Hà Lan. Mặc dù khu vực đô thị Paris có dân số đứng khoảng thứ 20 trong các khu vực đô thị lớn trên thế giới, nhưng GDP của Paris đứng thứ 5, chỉ sau Tokyo, New York, Los Angeles, và Chicago. Ile-de-France là khu vực đô thị giàu thứ tám ở châu Âu với GDP bình quân đầu người là 46 600 euro trong năm 2013 so với 86 400 euro của Greater London và 68 500 euro của Luxembourg Hoạt động kinh tế ở khu vực Paris cũng đa dạng, không đặc trưng giống các thành phố kinh tế lớn khác như Los Angeles với ngành công nghiệp giải trí, hay Luân Đôn và New York với lĩnh vực tài chính. Theo số liệu của INSEE vào 31 tháng 12 năm 2004, vùng Île-de-France có người làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp có lao động, còn các ngành dịch vụ chiếm đến người. Tuy nông nghiệp chiếm tới 50% diện tích đất của toàn vùng, nhưng số nông dân chỉ là người. Vào năm 2002, tổng sản phẩm nông nghiệp của Île-de-France đạt 750 triệu euro. Ở công nghiệp, con số đó là 67,25 tỷ euro với các lĩnh vực chủ yếu như: sản xuất hàng tiêu dùng, xây dựng, xe hơi, năng lượng... Còn ngành dịch vụ lên tới 328,225 tỷ euro, tương đương 82,8%. Nội ô Paris tập trung một số lượng lớn lao động, gần vào năm 2004, chiếm 31% số nhân lực của vùng. Tiếp theo đó là Hauts-de-Seine với , tương đương 16% . Vào năm 2002, mức lương trung bình ở Paris là 19 euro một giờ, cao hơn một chút so với toàn Île-de-France: 18,2 euro. So với trung bình của toàn nước Pháp là 13,1 euro một giờ thì nó vượt khá xa. Nhưng lại tồn tại một chênh lệch lớn: 10% những nhân công hưởng lương cao nhất nhận được gấp bốn lần 10% hưởng lương thấp nhất. Còn toàn vùng, tỷ lệ này là 3,7 và ở các tỉnh là 2,6. Mặt khác, còn có sự không đồng đều về mặt địa lý: ở Quận 8, lương trung bình một giờ là 24,2 euro, cao hơn 82% so với Quận 20: 13,3 euro. Nhưng ngược lại, sự chênh lệch lương giữa nam giới và nữ giới chỉ 6%, trong khi ở các tỉnh lên đến 10 %. Các khu phố văn phòng. Paris thuộc khu vực kinh tế thứ ba - không trực tiếp sản xuất. Thành phố là nơi đặt trụ sở, văn phòng nhiều công ty lớn của Pháp cũng như thế giới. Sở giao dịch chứng khoán Paris với gần 400 ngân hàng và công ty, được xem như đứng thứ tư thế giới, sau Tokyo, New York và Luân Đôn. Được phát triển từ những năm 1960, khu vực La Défense ở phía tây thành phố với các nhà chọc trời như tháp Areva, tháp EDF, tháp Gan... có tới 3 triệu m² văn phòng và tập trung nhân viên. Có thể thấy ở đây sự hiện diện của công ty, trong đó có 14 trong 20 công ty hàng đầu của Pháp và 15 trong 50 công ty hàng đầu của thế giới. Vẫn có những dự án phát triển tiếp khu vực này với nhiều nhà chọc trời được thực hiện từ 2010 đến 2015. Một khu phố văn phòng khác thuộc trung tâm thành phố, quanh nhà hát Opéra Garnier. Tuy có một vài trò quan trọng nhưng ở đây giá bất động sản quá cao và diện tích các văn phòng rất giới hạn. Một vài khu vực vẫn tiếp tục được quy hoạch. Paris Rive Gauche ở Quận 13 là dự án quan trọng nhất hiện nay. Hay ở ngoại ô, các địa điểm có giá bất động sản thấp hơn, như Plaine Saint-Denis thuộc tỉnh Seine Saint-Denis hoặc về phía sân bay Charles-de-Gaulle. Du lịch. Du lịch, với khái niệm hiện đại, chỉ trở nên thực sự quan trọng ở Paris sau việc xuất hiện của đường sắt vào những năm 1840. Và bắt đầu từ năm 1855, các Triển lãm thế giới đã thu hút số lượng lớn du khách, cũng là dịp giúp Paris có thêm nhiều công trình mới, trong đó nổi tiếng nhất chính là tháp Eiffel vào năm 1889. Các công trình của Paris, cùng với các giá trị về văn hóa, đã giúp du lịch thành phố đặc biệt phát triển. Lĩnh vực du lịch hiện nay đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Paris, chiếm 12,8% nhân công của thành phố, tức người. Các du khách chiếm 50% số người tới thăm bảo tàng, 8% doanh số của Công ty giao thông công cộng Paris RATP, và cuối cùng là 60% khách trọ của các khách sạn. Năm 2005, toàn vùng Île-de-France có khách sạn với phòng, trong đó khách sạn nằm trong Paris. Tuy là một thành phố đắt đỏ, nhưng giá các khách sạn 2 sao của Paris lại thấp, đứng thứ 17 trên tổng số 20 đô thị lớn của thế giới. Ngược lại, các khách sạn sang trọng của Paris lại thuộc hạng đắt nhất, sau Genève. Năm 2013, Paris đón tổng cộng 32 triệu khách du lịch, trong đó 15,5 triệu khách nước ngoài, khiến nó trở thành thành phố được ghé thăm nhiều nhất trên thế giới . Còn toàn vùng Île-de-France con số lên đến 44 triệu. Vào năm 2006, năm mươi địa điểm văn hóa hàng đầu của thành phố đã có 69,1 triệu lượt viếng thăm, tăng 11,3% so với năm 2005. Nhà thờ Đức Bà đón 13,5 triệu du khách, là công trình thu hút nhất nước Pháp. Tiếp theo, nhà thờ Sacré-Coeur với 10,5 triệu, viện bảo tàng Louvre với 8,3 triệu, tháp Eiffel 6,7 triệu, trung tâm Pompidou 5,1 triệu, Cité des sciences et de l'industrie trong công viên La Villette và bảo tàng Orsay ngang nhau với 3 triệu lượt khách viếng thăm. Ngoài ra công viên Disneyland nằm ở ngoại ô Paris mỗi năm cũng thu hút 12,5 triệu lượt khách. Tuy là thủ đô thu hút nhất trên thế giới, nhưng Paris lại là một trong những thành phố đắt nhất và bị cho là kém hiếu khách. Theo cuộc một điều tra được thực hiện bởi văn phòng Global Market Insite về 60 thành phố trên thế giới, qua ý kiến của người, Paris đứng đầu là thành phố đẹp nhất, năng động nhất nhưng đứng thứ 52 về chất lượng đón tiếp. Chính quyền thành phố đã có những cố gắng để thay đổi điều này. Trên truyền hình xuất hiện những đoạn phim ngắn tự chế giễu về tính kém hiếu khách của người dân Paris. Xã hội. Khác biệt xã hội. Tương tự ở một vài thành phố lớn khác như Luân Đôn hay New York, sự tăng giá liên tục của bất động sản cho thấy những dân cư nghèo và trung bình dần được thay thế bằng một tầng lớp mới khá giả hơn. Ở Paris, sự vận động này phổ biến ngay cả ở những khu phố được xem là bình dân, như Quận 10 hay một số khu vực gần ngoại ô như Montreuil thuộc Seine-Saint-Denis. Paris là thành phố đứng thứ 12 nước Pháp về tỷ lệ phải đóng thuế tài sản: 34,5 hộ trên người dân. Năm 2006, gia đình khai thuế tài sản trên euro. Với euro thu nhập trung bình cho mỗi người vào 2001, các gia đình Paris ở mức sung túc nhất nước Pháp. Bốn tỉnh dẫn đầu khác cũng đều thuộc Île-de-France: Hauts-de-Seine, Yvelines, Essonne và Val-de-Marne. Điều này phản ánh sự tập trung nguồn nhân lực cao ở khu vực Paris. Nhưng mặc dù Paris mang hình ảnh của một thành phố giàu có với những tầng lớp cao và quan trọng của xã hội, ngay trong nội thành Paris thực tế vẫn có những chênh lệch. Sự khác biệt truyền thống đánh dấu bởi những người dân phía tây thường giàu có hơn phía đông. Thu nhập trung bình những người dân Quận 7 cao nhất, euro trên một người một năm vào 2001. Còn ở Quận 19, con số này là euro. Người dân ở các Quận 6, 7, 8 và 16 có thu nhập cao hơn các Quận 10, 18, 19, 20 - là những quận kém nhất. Những người nghèo cũng tồn tại ở Paris: Trong năm 2012, 14 phần trăm hộ gia đình ở thành phố kiếm được ít hơn € 977 mỗi tháng, dưới mức nghèo. 25% cư dân trong quận 19 sống dưới mức nghèo khổ; 24% trong quận 18, 22% trong quận 20 và 18% trong quận 10. Trong khu phố giàu có nhất của thành phố, quận 7, chỉ có 7% sống dưới mức nghèo khổ; 8% trong quận 6; và 9% trong quận 16 Sự khác biệt xã hội còn mang cả tính chủng tộc: 32,6% các gia đình Paris có gốc ngoài Liên minh châu Âu ở mức nghèo, trong khi đó con số với những gia đình Pháp là 9,7 %. Các Quận 18, 19 và 20 tập trung tới 40% dân nghèo của Paris và nhiều khu phố còn kèm theo các khó khăn xã hội khác, như thất nghiệp cao, điều kiện giáo dục, y tế cũng kém hơn. Đây cũng là khu vực đón tiếp nhiều người nhập cư đến từ Bắc Phi và một số nước gần Sahara. Chênh lệch mức sống phân bố theo địa lý còn kéo dài ra cả ngoài ngoại ô. Các xã thuộc Hauts-de-Seine gần Quận 16 giàu có hơn các xã thuộc Seine-Saint-Denis gần Quận 19. Những khác biệt về mặt xã hội còn có thể thấy ở một số khu phố xuất hiện các cộng đồng đặc thù. Khu phố Le Marais thu hút nhiều người đồng tính. Cộng đồng Do Thái quy tụ quanh phố Rosiers từ thế kỷ 13. Phường Olympiades Quận 13 là nơi tập trung những người Trung Quốc, Việt Nam, Lào... tạo nên khu phố châu Á lớn nhất ở châu Âu. Khu phố La Tinh, với các trường học và công trình, luôn đông đúc sinh viên và khách du lịch. Gia đình. Tương tự nhiều thành phố trung tâm khác, Paris có nhiều sinh viên, thanh niên và người già hơn trung bình của cả nước Pháp. Vì thế số gia đình dường như ít hơn. Vào năm 1999, trong số các gia đình Paris, có 22% hợp thành bởi một cặp vợ chồng với ít nhất một con nhỏ hơn 25 tuổi. Số gia đình này, với tổng cộng người, chiếm 40,7% dân số Paris. Ngược lại có 27% sống độc thân và 19% sống đôi. Tức tổng cộng có khoảng 47% là độc thân trên giấy tờ, trong khi tỷ lệ đó của toàn nước Pháp là 35%. Có 37% số người Paris đã kết hôn, còn cả nước Pháp tỷ lệ là 50%. Tỷ lệ số gia đình chỉ có bố hoặc mẹ của Paris cũng cao hơn trung bình nước Pháp. Vào năm 1999, trong khi cả nước Pháp là 19% thì ở Paris là 27%, chiếm 7,7% dân số. Điều đó có thể cho thấy tỷ lệ ly hôn cũng cao: trên tổng số 100 cặp kết hôn có 55 cặp ly hôn sau đó. Tỷ lệ sinh của Paris cao hơn trung bình nước Pháp: 14,8 ca sinh trên dân so với con số 13,2 của cả nước. Ngược lại, tỷ lệ sinh 1,75 con trên một gia đình của Paris thấp hơn mức trung bình 1,87 của cả vùng và 1,86 của cả nước Pháp. Trong đó 50% số gia đình Paris chỉ có một con và 17% có ba con hoặc hơn. Lý do bởi giá bất động sản cao, các gia đình thường sống trong một diện tích nhỏ hẹp. Nhà ở. Hơn một nửa - 58,1% vào năm 1999 - số căn hộ của Paris chỉ gồm một hoặc hai phòng. Điều đó có thể cho thấy một phần khá lớn dân Paris sống độc thân hoặc là các cặp không con. Với lý do các căn hộ không có diện tích rộng và giá bất động sản quá cao khiến nhiều gia đình chuyển ra sống ngoài ngoại ô. Nhưng sự lựa chọn này kéo theo những bất lợi trong việc phải di chuyển vào thành phố hàng ngày để làm việc. Những người quyết định ở lại cũng đối mặt với một số khó khăn: dân số quá đông, tâm lý stress của đô thị, ô nhiễm, giá cả đắt đỏ, kém an ninh... Về thâm niên các tòa nhà, vào năm 1999, 55,4% được xây trước 1949, và chỉ có 3,8% xây sau 1990. Toàn bộ thành phố, số lượng nhà ở xã hội chiếm hơn 17%. Thế nhưng tỷ lệ này có sự không đồng đều, mười quận đầu tiên thuộc khu vực lịch sử trung tâm chỉ chiếm 6% số nhà ở xã hội của thành phố. Trong khi đó ba Quận 13, 19 và 20 chiếm tới 47% với con số và năm 1999. Nếu thêm vào đó các Quận 12, 14, 15 và 18 thì có thể thấy vành đai phía nam và đông bắc chiếm tới 81% số nhà ở xã hội của Paris. Giá cả bất động sản ở Paris thuộc hàng cao nhất châu Âu và thế giới góp phần làm cuộc sống ở thành phố này trở nên đắt đỏ. Vào năm 2007, giá nhà trung bình các chung cư cao cấp đạt tới euro một mét vuông. Ở một số khu phố sang trọng, con số còn có thể cao hơn nữa. Paris là thành phố đắt thứ năm thế giới về số tiền mua nhà với mức giá  trong năm 2014. Theo một nghiên cứu trong năm 2012 của báo "La Tribune" , khu vực có giá nhà ở đắt nhất là quận 1, với mức giá trung bình là , trong khi quận 18 chỉ có  Tổng số nhà ở của thành phố của Paris trong năm 2011 là 1,356,074 căn nhà, tăng so với con số 1,334,815 vào năm 2006. Nhập cư. Như đã được ghi trong hiến pháp, các cuộc điều tra dân số ở Pháp không đặt những câu hỏi thuộc về chủng tộc hay tôn giáo, nhưng có thu thập những thông tin về nơi sinh. Qua những con số này, có thể thấy Paris là nơi đa văn hóa nhất toàn châu Âu. Theo cuộc điều tra năm 2011, có 23,1% dân số của thành phố sinh ngoài lãnh thổ chính quốc Pháp Cũng theo số liệu của cuộc điều tra, 4,2% dân vùng Paris là những người mới nhập cư, tới Pháp trong khoảng từ 1990 đến 1999, trong đó nhiều nhất là từ Trung Quốc và châu Phi. Mặt khác, vùng Paris có khoảng 15% là tín đồ Hồi giáo. Làn sóng nhận cư quốc tế đầu tiên về Paris được bắt đầu từ năm 1820 với các nông dân Đức tới, chạy trốn cuộc khủng hoảng nông nghiệp. Nhiều làn sóng nhập cư khác kéo dài liên tục tới tận ngày nay: những người Ý và Do Thái vào thế kỷ 19, những người Nga sau cách mạng Nga năm 1917, những người dân thuộc địa trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, những người Ba Lan đến vào khoảng thời gian giữa hai cuộc thế chiến, người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Bắc Phi những năm 1950 tới 1970, những người Do Thái sau khi một số nước Bắc Phi dành độc lập, những người châu Phi tiếp tục tới Pháp, và những người châu Á tới sau chiến tranh Việt Nam. Những người nhập cư cư trú tập trung thành những khu vực riêng: Quận 18 và 19 gồm những người gốc Phi bắc Sahara, đặc biệt khu Château Rouge và khu Belleville với cả cộng đồng Bắc Phi và cùng Trung Hoa. Quận 13 là nơi có Chợ Tàu, " chinatown " lớn nhất châu Âu. Khắp vùng Île-de-France, cũng có những người nhập cư còn sống rải rác. Những người dân nhập cư, hoặc có gốc nhập cư, không ít đã giành được những thành công. Vào đầu thế kỷ 20, nhà văn Marcel Proust và nghệ sĩ Sarah Bernhardt đều mang một phần máu Do Thái và đã nổi danh khắp thế giới. Tiếp đó là nhà hóa học người Ba Lan Marie Curie, sau khi mất được đưa vào điện Panthéon và in trên tờ 500 franc của Pháp. Cựu Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy tuy sinh ở Paris nhưng là người gốc Hungary. Còn thị trưởng trước kia của Paris là Bertrand Delanoë sinh tại Tunisia và có bố là người Tunisia. Người vô gia cư. Cũng như tất cả các đô thị lớn, một số lượng không nhỏ người vô gia cư sống trên đường phố của Paris. Vào năm 2005, theo ước tính của viện INSEE, thành phố có khoảng người vô gia cư. Nếu so sách với một vài thành phố lớn khác thì số lượng người vô gia cư ở Paris không cao. Tại Luân Đôn, có người vô gia cư trên tổng số 7 triệu dân. Tại Berlin, các con số ước tính rất chênh lệch, từ tới người trên tổng số 3,5 triệu dân. Còn vào năm 2006, con số ở New York là người. Ở Paris, 17% người vô gia cư là nữ giới, và cứ 3 nữ vô gia cư thì một người kèm theo con nhỏ, có thể cùng bố đưa trẻ hoặc không. 57% số người vô gia cư là độc thân, chỉ có 8% có gia đình và một phần ba còn lại đã ly hôn hoặc góa. 24% số đàn ông cư gia cư sinh trong vùng Île-de-France, 37% sinh tại các vùng còn lại của Pháp và gần 40% sinh ở nước ngoài. Về tuổi, 48% các nữ vô gia cư trong khoảng từ 18 tới 30 tuổi. Con số đó ở nam giới là 22%, và 57% đàn ông vô gia cư trong khoảng 31 tới 50 tuổi. Với điều kiện sống kém, nhiều người vô gia cư gặp các vấn đề về sức khỏe, cả thể chất lẫn tâm lý. 15% có vấn đề liên quan tới rượu, 20% có vấn đề về thể chất và 7% về tâm lý. 59% nam và 78% nữ vô gia cư có ăn trưa vào tất cả các ngày, chủ yếu là bánh mỳ kẹp. Còn 16% nam và 10% nữ không có bữa trưa nào vào tuần của cuộc điều tra. Nhiều tổ chức xã hội tham gia vào việc giúp đỡ những người vô gia cư. Nhà thờ Saint-Eustache giúp đỡ các bữa ăn miễn phí. Les Enfants de Don Quichotte ("Những đứa con của Don Quichotte"), được thành lập năm 2006, đã bố trí những chiếc lều đỏ cạnh kênh Saint-Martin giúp đỡ những người vô gia cư trong mùa đông. Y tế. Paris là một trong những thành phố của Pháp có tỷ lệ bác sĩ cao nhất, cả đa khoa và chuyên khoa. Vào năm 2005, toàn Paris có bác sĩ đa khoa. Con số đó ở cả Seine-Saint-Denis và Val-d'Oise là , mặc dù tổng dân số hai tỉnh này cao hơn Paris. Trong những bệnh viện của thành phố, một số được thành lập từ rất lâu. Hôtel-Dieu de Paris do Thánh Landry, giáo mục của Paris, lập ra vào năm 651. Hôtel-Dieu de Paris là biểu tượng của lòng từ thiện của thành phố, và là bệnh viện duy nhất ở đây cho tới tận thế kỷ 12. Bệnh viên Quinze-Vingts do vua Saint Louis lập ra năm 1260 để đón những người mù của Paris, hiện nay ở số 28 phố Charenton, quận 12. Điện Invalides được bắt đầu xây dựng vào năm 1671 cũng là một bệnh viện cho thương binh. Ngày nay, dù trở thành một công trình nổi tiếng, nó vẫn còn giữ chức năng này. Phần lớn các bệnh viện của Paris đều thuộc AP-HP ("Assistance Publique - Hôpitaux de Paris", cơ quan về y tế công cộng của Paris từ năm 1849) và chính quyền thành phố. AP-HP, với vai trò trung tâm bệnh viện vùng cho cả Paris và Île-de-France, có tới nhân viên. Tôn giáo. Tổng giáo phận Paris là một trong hai mươi ba giáo phận Công giáo ở Pháp. Là giáo phận từ thế kỷ 3, Paris được nâng lên thành tổng giáo phận vào ngày 20 tháng 10 năm 1622. Tổng giáo mục hiện nay là hồng y André Vingt-Trois. Vào năm 2005, thành phố gồm có 106 giáo xứ, đón tiếp những giáo dân và hội truyền giáo nước ngoài. Cũng năm 2005, toàn Paris có 730 linh mục, tu sĩ và 220 tu viện (140 cho nữ và 80 cho nam). Ở Paris có 15 giáo sở thuộc Giáo hội Cải cách Pháp, và 10 giáo sở thuộc Giáo hội Luther Pháp. Nhà thờ Hồi giáo Paris là nhà thờ Hồi giáo lớn nhất nước Pháp. Nằm trong khu phố La Tinh, thuộc Quận 5, nhà thờ Hồi giáo này được khánh thành vào ngày 15 tháng 7 năm 1926. Trong nội thành Paris còn rất nhiều nhà thờ Hồi giáo khác và ở Quận 10 cũng có một trung tâm văn hóa Hồi giáo. Viện thế giới Ả Rập cũng là một địa điểm quan trọng về văn hóa Ả Rập, Hồi giáo. Chùa Vincennes nằm trong rừng Vincennes, bờ nam hồ Daumesnil, trong một tòa nhà cũ của triển lãm thuộc địa từ năm 1931. Tại khu phố Tàu ở Quận 13 cũng có hai ngôi chùa khác. Trong vùng Île-de-France cũng có khoảng 10 ngôi chùa của người Việt. Toàn thành phố có 96 đền thờ Do Thái giáo. Dân số Do Thái của Vùng Paris được ước tính vào năm 2014 là 282.000, biến Paris trở thành nơi tập trung lớn nhất của người Do Thái trên thế giới bên cạnh Israel và Hoa Kỳ. Giáo dục. Giáo dục tiểu học và trung học. Trong năm học 2005–2006, Paris có học sinh theo học tại các trường công, gồm ở bậc học thứ nhất và ở bậc học thứ hai. Ở các trường tư có học sinh theo học. Vào năm 2007, toàn thành phố có 881 cơ sở giáo dục công gồm: 323 trường mẫu giáo, 334 trường tiểu học, 6 cơ sở đặc biệt - trường trong bệnh viện, 110 trung học cơ sở, 72 trung học phổ thông, 34 trung học nghề và 2 trung học thực nghiệm. Thêm vào đó là 256 cơ sở giáo dục tư: 110 trường mẫu giáo và tiểu học, 1 trường đặc biệt, 67 trung học cơ sở, 73 trung học phổ thông và 5 trung học nghề. Trong giáo dục bậc trung học, những trường như Louis-le-Grand, Henri-IV và Trung học quốc tế Saint-Germain-en-Laye là những trường danh tiếng, từng là nơi nhiều vĩ nhân của Pháp theo học. Giáo dục đại học. Là thành phố thủ đô, Paris tập trung nhiều trường đại học lớn và có số lượng sinh viên đông đảo. Từ thế kỷ 12, Paris đã là một trong những trung tâm tri thức lớn nhất của châu Âu, đặc biệt về thần học và triết học. Mang tính biểu tượng, năm 1200 được coi là năm thành lập Đại học Paris, dựa theo một pháp điển của vua Philippe II. Trường đại học với các khoa xuất hiện nằm tại đồi Sainte-Geneviève, thuộc khu phố La Tinh ngày nay. Từ thế kỷ 18, các trường đặc biệt được mở ra cho một số ngành nghề. Đó chính là nguồn gốc của các trường lớn hiện nay. Trường Bách khoa và Trường Sư phạm được thành lập vào thời kỳ Cách mạng Pháp. Vào thế kỷ 19, Đại học Paris hiện đại hợp thành bởi sáu khoa luật, y, dược, văn, thần học và khoa học. Thế kỷ 20, số lượng sinh viên tăng nhanh. Sau cuộc nổi loạn của sinh viên năm 1968, Đại học Paris được tổ chức lại thành 13 trường độc lập: Paris I tới Paris XIII như hiện nay. Một số trường đại học được mở ở ngoại ô vào những năm 1960, sớm nhất là Đại học Paris X Nanterre năm 1964. Cùng vào khoảng thời gian đó, nhiều trường lớn đã rời trung tâm, tìm những khu vực rộng hơn ngoài ngoại thành. Cao nguyên nhỏ Saclay ở phía nam thành phố trở thành một địa điểm quan trọng. Trên một diện tích đủ rộng, nơi đây tập trung Đại học Paris XI, các trường lớn như Bách khoa, Trường thương mại HEC cùng các phòng thí nghiệm công và tư. Năm 1991, bốn đại học khác được thành lập ở vùng Île-de-France. Khác với các đại học gần thành phố, chữ " Paris " không xuất hiện trong tên các trường này. Trong những năm 1990, đã có những ý định giảm bớt sự tập trung này như chuyển Trường Hành chính quốc gia ENA về Strasbourg và Trường Sư phạm về Lyon. Nhưng cuối cùng, các trường quan trọng nhất vẫn ở lại Paris. Ngày nay, nội thành Paris vẫn là trung tâm chính của các đại học Pháp. Các trường đại học Paris từ I đến VII đều ở trong nội ô, mặc dù Paris-Dauphine nằm hơi lệch tâm. Có thể nhận thấy bên tả ngạn nhiều trường đại học hơn hẳn. Khu phố La Tinh là một địa điểm quan trọng với sự hiện diện của Sorbonne và Trường Sư phạm ("École normale supérieure"), Trường Mỏ ("École des Mines") cùng Collège de France... Tại Quận 13, gần thư viện François-Mitterrand, nhiều tòa nhà đại học mới được xây thêm cách đây không lâu. Chính quyền thành phố Paris cũng tự duy trì bảy cơ sở giáo dục bậc đại học. Bốn trong số đó dành cho nghệ thuật ứng dụng, đặc biệt là trường École Boulle về nội thất và École Estienne về họa hình, thiết kế bìa sách. Ngoài ra còn hai trường kỹ thuật và một trường về làm vườn. Năm 2004, toàn vùng Île-de-France có tổng cộng khoảng sinh viên, chiếm hơn một phần tư số sinh viên ở Pháp. Trong đó, một nửa sinh viên thuộc các trường nội thành Paris. Cơ quan về đời sống sinh viên, CROUS của Paris có 600 nhân viên làm việc, với ngân sách 70 triệu euro. CROUS Paris quản lý 30 ký túc xá, 16 căng tin và 20 quán cà phê sinh viên cùng một trung tâm thể thao, một trung tâm văn hóa và một phòng triển lãm. Cư xá đại học lớn nhất Paris là Cité internationale universitaire gồm 40 tòa nhà với chỗ. Ngoài ra, các khu vực còn lại của Île-de-France do CROUS Créteil và CROUS Versailles quản lý. Ngoài các ưu tiên, trợ cấp như ở toàn nước Pháp, các sinh viên ở vùng Île-de-France còn được hưởng một vài ưu tiên riêng, như giảm giá vé giao thông công cộng, xem phim... Ngược lại, đời sống sinh viên Paris cũng gặp nhiều khó khăn: giá thuê phòng cao, tốn nhiều thời gian cho đi lại... Giao thông. Paris có một hệ thống giao thông công cộng đa dạng và dày đặc. Ngoài mạng lưới xe buýt phủ khắp thành phố và ngoại ô, ở Paris còn có thể kể ra 16 tuyến tàu điện ngầm (đánh số 1 đến 14 và hai tuyến 3bis, 7bis), 5 tuyến RER (từ A đến E) và 4 tuyến tàu điện (T1 đến T4). Kể từ khi được khánh thành trong năm 1900 mạng lưới Métro (tàu điện ngầm) của Paris đã phát triển thành hệ thống giao thông địa phương được sử dụng rộng rãi nhất của thành phố; ngày nay nó mang về 5,23 triệu hành khách mỗi ngày  với 16 tuyến, 303 trạm (385 điểm dừng) và 220 km (136,7 dặm) đường ray. Xếp chồng lên đây là 'mạng tốc hành khu vực', RER, có năm tuyến (A, B, C, D và E), 257 điểm dừng và 587 km (365 dặm) đường ray kết nối Paris với các phần xa hơn của khu vực đô thị. Hơn €26.5 tỷ sẽ được đầu tư trong vòng 15 năm tới để mở rộng mạng lưới Métro vào vùng ngoại ô, đặc biệt là với dự án Grand Paris Express. Để nối liền Paris với các xã ngoại ô, ngoài hệ thống chính RER, từ sáu nhà ga lớn Saint-Lazare, Gare du Nord, La Défense, Gare de l'Est, Montparnasse, Lyon còn có 15 tuyến đường sắt Transilien tỏa đi khắp vùng Île-de-France. Bốn trong số đó cũng là các nhà ga của TGV, tàu thường nối Paris với tất cả các thành phố của Pháp và châu Âu. Giống như tất cả các đô thị lớn khác trên thế giới, cộng thêm lý do là một thành phố cổ, giao thông đường bộ Paris khá khó khăn và dày đặc xe cộ mặc dù các đại lộ rộng rãi nhờ những cải tạo của Haussmann từ thế kỷ 19. Thành phố được bao bọc bởi một hệ thống các đại lộ vành đai và từ các cửa ô của Paris, các đường quốc lộ, xa lộ tỏa đi khắp vùng và tới các tỉnh. Việc đậu xe ở Paris cũng không đơn giản và hầu như ở tất cả các phố đều phải trả tiền. Còn mạng lưới taxi, đầu 2007 toàn thành phố có khoảng chiếc và trung bình mỗi ngày phục vụ chuyến. Từ những năm cuối 1990, chính quyền thành phố thực hiện chính sách khuyến khích giao thông công cộng và xe đạp. Cùng với các làn đường được phép chạy chung với xe buýt, ở nhiều phố những người đi xe đạp còn có làn đường riêng, tổng cộng dài 371 km. Và tiếp theo Rennes và Lyon, từ ngày 15 tháng 7 năm 2007, chính quyền Paris đưa ra hệ thống dịch vụ xe đạp tự do với tên "Vélib"'. Đây là mạng lưới xe đạp dày đặc nhất châu Âu, với chiếc vào cuối 2007, điểm đỗ trong Paris cách nhau trung bình 300 m. Giao thông hàng không Paris có hai sân bay chính, Charles-de-Gaulle ở phía đông bắc và Orly ở phía nam. Cho đến năm 2017 Charles-de-Gaulle là sân bay bận rộn thứ 5 trên thế giới về lưu lượng hành khách quốc tế. Sau Luân Đôn, Paris là thành phố châu Âu có lượng hành khách trung chuyển lớn nhất, 82,5 triệu và 2,24 triệu tấn hàng hóa trong 2006. Nằm cách Paris 25 km, sân bay quốc tế Charles-de-Gaulle được nối với thành phố bởi đường cao tốc, xe buýt và tuyến RER B. Tại sân bay cũng có một nhà ga với các tuyến tàu và TGV tới các tỉnh. Về lượng máy bay hoạt động, năm 2006 Charles-de-Gaulle xếp thứ nhất châu Âu với chuyến bay. Orly vốn là sân bay chính của Paris trước khi xây dựng Charles-de-Gaulle. Ngày nay, ngoài tới các tỉnh của Pháp, Orly phục vụ các chuyến bay đến các thành phố của châu Âu, Trung Đông, châu Phi và Caribe. Ngoài ra, vùng Paris vẫn còn một vài sân bay nhỏ khác như Le Bourget, Beauvais mà các hãng hàng không giá rẻ vẫn thường sử dụng. Thể thao. Thể thao cũng ghi nhiều dấu ấn trong lịch sử thành phố Paris. Từ thế kỷ 12 đã xuất hiện môn jeu de paume, một trò chơi tương tự quần vợt. Trong thời kỳ Cách mạng Pháp, môn thể thao này đã đi vào lịch sử với Lời tuyên thệ Jeu de paume, một sự kiện quan trọng. Paris đã hai lần đăng cai Thế vận hội mùa hè vào năm 1900 và 1924, đồng thời sẽ là thành phố đăng cai Thế vận hội Mùa hè và Thế vận hội dành cho người khuyết tật 2024. Ngoài ra, thành phố còn tranh cai tổ chức vào các năm 1992, 2008 và 2012 nhưng không thành công, lần lượt để lọt vào tay Barcelona, Bắc Kinh và Luân Đôn. Trong hai lần Pháp đăng cai Giải vô địch bóng đá thế giới vào 1938 và 1998, Paris đều là thành phố quan trọng. Trong đó năm 1998, đội tuyển Pháp đã giành chức vô địch tại sân Stade de France. Paris cũng từng đăng cai các trận đấu tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016. Paris còn là địa điểm của một trong những giải quần vợt quan trọng nhất: Giải Roland-Garros. Đại lộ Champs-Élysées là chặng cuối của giải đua xe đạp nổi tiếng Tour de France. Thành phố có một số câu lạc bộ thể thao chính: Paris Saint-Germain môn bóng đá, Paris-Levallois Basket môn bóng rổ, Paris Handball môn bóng ném, Stade français CASG Paris môn bóng bầu dục. Toàn Paris hiện nay có 360 địa điểm thể thao: 172 sân tennis; 131 phòng tập thể dục thuộc chính quyền thành phố; 36 bể bơi đón 3,4 triệu lượt người năm 2006; 10 bể bơi trong trường học; 32 sân vân động thuộc thành phố; hai địa điểm dành cho môn bơi thuyền. Những trường đại học ở ngoại ô cũng có các khu thể thao riêng. Người dân Paris còn chơi một số môn đơn giản như bi sắt, cờ vua tại các công viên, vườn hoa. Sân vận động Công viên các Hoàng tử ("Parc des Princes") của Paris được hoàn thành từ năm 1897 nằm ở phía tây nam thành phố, tới năm 1972 được xây dựng lại. Sân vận động này có sức chứa chỗ ngồi, và là sân nhà của đội Paris Saint-Germain. Khu thể thao liên hợp Paris-Bercy nằm ở Quận 12 được hoàn thành năm 1984. Ngoài các hoạt động thể thao, nó còn là nơi tổ chức nhiều buổi hòa nhạc lớn. Sân Stade Charléty ở Quận 13, có từ năm 1939 và được xây lại năm 1994, là nơi lý tưởng cho những người chơi thể thao của thành phố. Stade Charléty bao gồm một sân điền kinh chỗ và một phòng đa thể thao với sức chứa người. Sân Stade de France được xây dựng cho Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 có sức chứa chỗ tại Saint-Denis, ngoại ô phía bắc Paris. Sân còn được Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp chọn làm sân nhà cho các trận thi đấu quốc tế. Ngoài bóng đá, sân vận động này còn là địa điểm của các trận bóng bầu dục quan trọng. Tại rừng Vincennes phía đông Paris còn có trường đua Vincennes từ năm 1863. Đây là nơi tổ chức một số giải đua ngựa như Prix de Paris, Prix de France, Prix d'Amérique... Quy hoạch đô thị. Khác với Luân Đôn từng chịu vụ hỏa hoạn năm 1666 hay Lisboa bởi động đất năm 1755, Paris chưa bao giờ bị phá hủy. Nhờ đó hầu hết các triều đại của Pháp kể từ thời Phục Hưng đều để lại những dấu ấn ở Paris. Những chứng tích của quá khứ vẫn còn in dấu ở các con phố, nhưng Paris vẫn là một thành phố đồng nhất và không ngừng hiện đại hóa. Cách tổ chức của thành phố ngày nay phụ thuộc rất nhiều vào quy hoạch của nam tước Haussmann dưới thời Đệ nhị đế chế. Haussmann đã vạch ra phần lớn những con đường chính hiện nay, như đại lộ Saint-Germain, đại lộ Sébastopol... Trung tâm của thành phố Paris là khu Châtelet. Nhiều đường phố lớn và các tàu điện ngầm giao nhau ở đây. Khu vực trung tâm Paris khác biệt với nhiều thành phố châu Âu khác bởi mật độ dân số dày đặc của nó. Chỉ riêng Manhattan của New York với mật độ ngàn người trên một km² là có thể so sách với trung tâm Paris. Là thành phố được xây dựng hai bên bờ sông, riêng trong nội ô Paris có tới 37 cây cầu bắc qua sông Seine. Chưa kể tới một số tuyến tàu điện ngầm chạy dưới lòng sông. Có thể nhận thấy ở Paris, các công trình quan trọng, cả cổ và hiện đại, đều là những điểm nhấn trong quang cảnh của thành phố. Quy hoạch đô thị của Paris cho phép có thể ngắm nhìn các công trình này từ rất xa. Đứng ở quảng trường Italie, nhìn dọc theo đại lộ Gobelins có thể thấy điện Panthéon. Từ điện Panthéon nhìn dọc phố Soufflot về phía vườn Luxembourg sẽ thấy tháp Eiffel. Khu vực tốt nhất để ngắm nhìn tháp Eiffel là sân giữa của Palais de Chaillot, cạnh quảng trường Trocadéro. Nếu đứng ở chân tháp Eiffel, bãi cỏ Champ-de-Mars, nhìn về phía École militaire sẽ thấy tháp Montparnasse. Đứng trước nhà thờ Madeleine nhìn về phía sông Seine sẽ thấy cột đá Obélisque ở giữa quảng trường Concorde, và bên kia sông là Palais Bourbon. Từ điện Invalides nhìn dọc cầu Alexandre-III có thể thấy Grand Palais và Petit Palais ở hai bên đại lộ Winston-Churchill... Nhưng trục quan trọng nhất trong quy hoạch đô thị Paris là Axe historique. Bắt đầu từ bức tượng vua Louis XIV cưỡi ngựa trong sân Napoléon của bảo tàng Louvre, trục này đi qua rất nhiều công trình quan trọng của thành phố: Khải hoàn môn Carrousel, vườn Tuileries, quảng trường Concorde với cột đá Obélisque, đại lộ Champs Élysées, quảng trường Étoile với Khải Hoàn Môn, đại lộ Grande Armée. Vào thập niên 1960, Axe historique còn được tiếp tục kéo dài tới tận khu đô thị hiện đại La Défense với công trình Grande Arche. Kim tự tháp kính Louvre không nằm trên đường thẳng này, mà được xây lệnh sang một bên. Để bảo đảm mỹ quan, mặt ngoài các tòa nhà ở Paris phải tuân theo những quy định của thành phố, như về màu sắc, kiểu cửa sổ... Và từ rất lâu, Paris đã có những quy định chặt chẽ về độ cao các tòa nhà. Ngày nay, những tòa nhà mới có độ cao trên 37 mét phải có giấy phép đặc biệt và ở một vài quận giới hạn chiều cao này còn nhỏ hơn thế. Tháp Montparnasse được xây dựng vào năm 1973 là công trình cao nhất Paris và cả nước Pháp. Vị trí số một này sẽ còn được giữ tới năm 2010, khi nhiều dự án nhà chọc trời sẽ hoàn thành tại khu La Défense: Tour Phare 300 m, và Tour Generali sẽ đạt tới 318 m trở thành tòa nhà cao nhất Tây Âu. Đường phố. Vào năm 1997, toàn Paris có tổng cộng con đường, cả công cộng và tư nhân. Phần nhiều các con phố Paris đều bằng phẳng, ít dốc. Một số đường phố, đại lộ không rải nhựa mà được lát bằng những viên đá nhỏ. Tương tự ở nhiều thành phố khác, tầng một các tòa nhà mặt phố đều dành cho cửa hàng, quán cà phê... Một số hộp đêm, phòng chiều phim chỉ có một cửa nhỏ trên phố, còn không gian chính nằm ở tầng ngầm. Một số đường phố Paris nổi tiếng mang những đặc trưng riêng. Đại lộ Champs-Élysées gần Khải Hoàn Môn và là nơi tổ chức nhiều sự kiện quan trọng, luôn tràn ngập khách du lịch. Phố Rivoli tấp nập ở trung tâm chạy dọc sông Seine ngang qua các công trình nổi tiếng Tòa thị chính, bảo tàng Louvre, Khải hoàn môn Carrousel, vườn Tuileries. Đại lộ Saint-Michel thuộc khu phố La Tinh đông đúc sinh viên. Đại lộ Opéra gần nhà hát Opéra Garnier và khu mua sắm Galeries Lafayette, Printemps... là nơi có nhiều văn phòng hàng không, du lịch. Phố Mouffetard cổ với các nhà hàng, quán cà phê và những cửa hàng truyền thống. Đại lộ Clichy là nơi tấp nập vào ban đêm với nhiều quán cà phê, hộp đêm, trong đó có Moulin Rouge. Đại lộ Montaigne là nơi có nhiều cửa hiệu thời trang cao cấp và khách sạn sang trọng Plaza Athénée... Một điểm nữa tạo nên hình ảnh đặc trưng của các đường phố Paris là sự góp mặt của cột Morris và vòi phun nước Wallace. Quảng trường. Paris có tổng cộng khoảng gần 500 quảng trường lớn nhỏ. Trong số đó, lớn nhất là Quảng trường Concorde và là rộng thứ nhì của Pháp - sau quảng trường Quinconces ở Bordeaux - và thứ 11 thế giới. Ở giữa quảng trường này là cột đá Obélisque, còn xung quanh quảng trường còn có nhiều tòa nhà quan trọng như Đại sứ quán Hoa Kỳ, khách sạn Crillon. Concorde không chỉ là một quảng trường đẹp mà còn là đầu mối giao thông quan trọng của Paris, nơi đây đã từng xảy ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của nước Pháp. Paris còn có những quảng trường nổi tiếng khác như: Quảng trường République là quảng trường rộng thứ nhì sau Quảng trường Concorde. Vendôme, Cũng như Concorde, Vendôme gắn với một số sự kiện lịch sử. Nằm ở một khu vực trung tâm thành phố, Vendôme không có diện tích rộng, Nơi đây có sự hiện diện của Bộ Tư pháp, khách sạn Ritz danh tiếng và nhiều cửa hàng xa xỉ. quảng trường Bastille là nơi có ngục Bastille bị phá hủy trong Cách mạng; quảng trường Étoile, nối với đại lộ Champs-Élysées, là nơi có Khải Hoàn Môn; quảng trường Trocadéro nằm ở khu phố sang trọng, là địa điểm chính ngắm tháp Eiffel. Một số quảng trường nổi tiếng khác cũng luôn được đông đảo du khách lui đến như: Quảng trường Bataille de Stalingrad, Quảng trường Bourse, Quảng trường Madeleine, Quảng trường Sorbonne, Quảng trường Porte de Versailles, Quảng trường Porte de Champerret, Quảng trường Porte Maillot, Quảng trường Contrescarpe, Quảng trường Nation... Kiến trúc và các công trình. Các công trình nổi tiếng nhất Paris được xây dựng vào những khoảng thời gian khác nhau và hầu hết tập trung hai bên bờ sông Seine. Hai bờ sông, từ cầu Sully tới cầu Bir-Hakeim, hợp thành một trong những dòng sông đẹp nhất chạy trong thành phố với các công trình được xếp hạng di sản thế giới của UNESCO. Có thể thấy, từ đông sang tây: nhà thờ Đức Bà, bảo tàng Louvre, điện Invalides, Palais Bourbon, cầu Alexandre-III, Grand Palais, bảo tàng Branly, tháp Eiffel, khu vực Trocadéro với Palais de Chaillot. Ngược lại về phía đông, một số công trình khác hiện đại cũng đã được xây dựng như Bộ Tài chính, thư viện François Mitterrand, cung Bercy... Trên đảo Île de la Cité tập trung các công trình cổ đặc trưng. Nhà thờ Đức Bà mang phong cách kiến trúc Gothic được xây dựng từ thế kỷ 12 tới thế kỷ 13. Nhà thờ Đức Bà được xem là tâm của Paris, trước sân có một điểm đánh dấu cây số 0 của nước Pháp. Điện Conciergerie từng là cung điện của hoàng gia cho tới thời vua Charles V vào nửa cuối thế kỷ 14. Một phần của công trình đã từng là nhà tù giam giữ các nhân vật nổi tiếng của chế độ phong kiến khi nổ ra Cách mạng Pháp. Sainte-Chapelle, xây dựng gần Conciergerie, được xem như một kiệt tác của kiến trúc Gothic. Cầu Pont Neuf, nằm ở điểm cuối phía tây của đảo, có từ cuối thế kỷ 16 và là chiếc cầu cổ nhất của Paris còn lại tới nay. Các công trình phong cách cổ điển cũng ghi dấu ấn ở khu trung tâm Paris. Nhà thờ nhỏ Sorbonne nằm ở giữa khu phố La Tinh được xây vào đầu thế kỷ 17. Cung điện hoàng gia Louvre cũng có từ thế kỷ 17 và được sửa chữa nhiều lần sau đó. Điện Invalides, với nóc mạ vàng được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 theo lệnh của vua Louis XIV dành cho các thương binh và là nơi lưu trữ tro hài cốt của Napoléon từ năm 1840. Điện Élysée được xây dựng và trang trí trong khoảng 1718 tới 1722 tiêu biểu cho phong cách cổ điển, hiện là dinh Tổng thống Pháp. Điện Panthéon được xây dựng vào cuối thế kỷ 18 là nơi yên nghỉ của nhiều vĩ nhân. Những công trình xây dựng vào thế kỷ 19 rất phổ biến ở Paris: Khải Hoàn Môn, nhà hát Opéra Garnier, nhà thờ Sacré-Cœur xuất hiện vào cuối Đệ nhị đế chế. Tòa thị chính Paris hiện nay cũng được xây vào khoảng thời gian 1874 tới 1882. Nhiều công trình khác tiếp tục được xây dựng cho các Cuộc triển lãm thế giới như tháp Eiffel, Palais de Chaillot, Petit Palais, Grand Palais, cầu Alexandre-III... Trong thế kỷ 20, rất nhiều các kiến trúc sư danh tiếng tiếp tục ghi lại dấu ấn trên đường phố Paris như: Guimard, Plumet hay Lavirotte với phong cách Tân nghệ thuật, kế đó Mallet-Stevens, Roux-Spitz, Dudok, Henri Sauvage, Le Corbusier, Auguste Perret vào thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến. Kiến trúc đương đại của Paris được hiện diện bởi Trung tâm Pompidou, xây từ những năm 1970, là nơi có bảo tàng Nghệ thuật hiện đại và một thư viện quan trọng mở cửa cho công chúng; tháp Montparnasse cao 210 mét, một điểm nhấn trong quảng cảnh thành phố được xây từ 1969 tới 1972; Viện thế giới Ả Rập ("Institut du monde arabe") được mở cửa vào năm 1987. Và đặc biệt là các công trình nhờ tổng thống François Mitterrand như Grande Arche ở khu La Défense, nhà hát Opéra Bastille - thuộc nhà hát quốc gia cùng Opéra Garnier; Kim tự tháp kính Louvre - tác phẩm nổi tiếng của kiến trúc sư Ieoh Ming Pei; và thư viện François Mitterrand thuộc thư viện quốc gia nằm tại khu Paris Rive Gauche. Mới hơn cả, bảo tàng Branly về nghệ thuật và văn minh châu Phi, Á, Đại Dương và Mỹ thiết kế bởi Jean Nouvel hoàn thành 2006 tiếp tục làm đa dạng thêm kiến trúc của Paris. Nghĩa trang. Cả bốn nghĩa trang trong nội ô Paris hiện nay đều được xây dưới thời Napoléon và đều nằm trên con đường vành đai của thành phố khi ấy. Trước đó, nhiều nhà thờ của Paris cũng có những nghĩa địa riêng, nhưng cuối thế kỷ 18, chúng đã phải dẹp bỏ vì vấn đề vệ sinh. Tất cả những hài cốt trong nghĩa địa của xứ đạo bị xóa bỏ năm 1786 đã được chuyển về hầm khai thác đá bên ngoài cửa ô phía nam Paris, nơi hiện nay là quảng trường Denfert-Rochereau, Quận 14. Ngày nay là Hầm mộ Paris. Với sự mở rộng thành phố, các nghĩa trang thời Napoléon hiện đều nằm trong nội thành Paris và trở thành những không gian xanh yên tĩnh. Père-Lachaise là nghĩa trang lớn nhất, và cũng là không gian xanh rộng nhất thành phố. Cả bốn nghĩa trang của Paris: Père-Lachaise, Montparnasse, Passy và Montmartre đều là nơi yên nghỉ của rất nhiều danh nhân, không chỉ người Pháp mà còn nhiều vĩ nhân nước ngoài đã tới sống và mất ở Paris. Père-Lachaise là một trong những nghĩa trang nổi tiếng nhất thế giới, với các ngôi mộ của Balzac, Chopin, Molière, La Fontaine, Marcel Proust, Oscar Wilde hay Sarah Bernhardt... đã thu hút rất nhiều du khách tới thăm. Một số nghĩa trang mới khác nằm ngoài ngoại ô được xây dựng và đầu thế kỷ 20. Trong đó lớn nhất là các nghĩa trang Saint-Ouen, Pantin, Ivry và Bagneux. Công viên và vườn. So với các thủ đô khác ở châu Âu, Paris là thành phố có mật độ không gian xanh thấp. Ngoài hai khu rừng Boulogne và Vincennes nằm ngay bên cạnh thành phố, Paris có khoảng 20 công viên và 20 khu vườn cùng các nghĩa trang được trồng cây xanh. Nghĩa trang Père-Lachaise chính là không gian xanh lớn nhất trong thành phố. Vườn Paris, nổi tiếng hơn cả là hai khu vườn cổ Tuileries và Luxembourg. Vườn Tuileries có từ thế kỷ 16, nằm ở bên phải sông Seine, gần viện bảo tàng Louvre. Cung điện Tuileries từng ở đây đã bị đốt vào năm 1871. Vườn Luxembourg nằm ở bờ trái sông Seine, thuộc về lâu đài được xây cho vương hậu Maria de' Medici khoảng năm 1625. Cũng vào thế kỷ 17, Vườn bách thảo, do bác sĩ Guy de La Brosse của Louis XIII, tạo nên để trồng các cây thuốc rồi trở thành một vườn công cộng của Paris. Tới thời Đệ nhị đế chế, việc tạo ra các không gian xanh trở nên cần thiết cho một thành phố có dân số đang phát triển nhanh. Với sự chỉ đạo của kỹ sư Jean-Charles Alphand và họa sĩ phong cảnh Jean-Pierre Barillet-Deschamps, các khu vườn của Paris mới có được bộ mặt như hiện nay. Rừng Boulogne và rừng Vincennes, nằm ngoài Paris, được bố trí tôn trọng điểm cực tây và điểm cực đông của nội thành thành phố. Một số khu vườn khác trong trung tâm cũng được bố trí lại cùng các không gian thoáng đãng được mở ra ở các khu phố. Ở các quận mới hơn, một số công viên quan trọng được quy hoạch: Monceau, Montsouris, Buttes-Chaumont đều do kiến trúc sư của Napoléon III dự kiến. Từ những năm 1980, nhiều khu vực mang các chức năng khác được cải tạo thành không gian xanh. Theo thiết kế của kiến trúc sư Bernard Tschumi, một khu vực lò mổ cũ đã trở thành công viên La Villette - công viên lớn nhất trong nội ô Paris hiện nay. Tiếp tục, trong những năm 1990 là công viên Bercy, công viên Belleville cùng một số khác. Kế đến là những khu vườn gia đình hoặc giáo dục nằm bên vành đai dọc tuyến đường sắt cũ Petite Ceinture. Vườn Éole hoàn thành năm 2007 là công viên quan trọng nhất của Paris vào những năm 2000. Một trong những công viên mới nhất, Promenade des Berges de la Seine được khánh thành vào năm 2013. Các không gian xanh chính của Paris Paris, thủ đô văn hóa. Paris là một trong những trung tâm văn hóa của thế giới. Đón tiếp 27 triệu lượt khách du lịch nước ngoài mỗi năm, Paris có hơn 100 bảo tàng, nhiều nhà hát, các địa điểm đặc biệt - như đại lộ Champs-Élysées, đồi Montmartre, các công trình nổi tiếng - như Khải Hoàn Môn, tháp Eiffel... Thành phố còn là trung tâm của các cuộc hội thảo, hội nghị, là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quan trọng. Paris cũng là trung tâm của thời trang, của hàng xa xỉ phẩm, của ẩm thực và được mệnh danh là thành phố của tình yêu lãng mạn, cùng Venezia. Về giải trí, Paris là nơi tổ chức nhiều hoạt động trình diễn đa dạng, sở hữu những nhà hát quan trọng và lâu đời cùng các rạp chiếu phim với một lượng công chúng đông đảo. Nhiều khu phố Paris mang những đặc trưng văn hóa riêng. Quận La Tinh là khu phố sinh viên, nơi có các trường đại học từ nhiều thế kỷ trước. Café de Flore ở Saint-Germain-des-Prés từng là ngôi nhà của Chủ nghĩa hiện sinh. Đồi Montmartre ngoài nhà thờ Sacré-Cœur nổi tiếng còn là trung tâm của hội họa đầu thế kỷ 20. Tương tự, Montparnasse cũng từng thu hút nhiều họa sĩ, nhà văn nhưng ngày nay trở thành một khu phố văn phòng. Chợ Tàu Paris với sự hiện diện rõ nét của văn hóa phương Đông là khu phố Tàu lớn nhất châu Âu. Đại lộ Champs-Élysées và các phố gần đấy như George-V, Montaigne... là khu vực nhiều cửa hàng thời trang cao cấp, cùng các khách sạn đặc biệt sang trọng Plaza Athénée, George V... Năm 1991, tổ chức UNESCO đã công nhận một số các công trình của Paris thuộc cụm hai bên bờ sông Seine là di sản thế giới. Các công trình biểu tượng của Paris trở nên nổi tiếng trên toàn cầu. Tại Las Vegas, một casino đã xây dựng các bản sao của tháp Eiffel, Khải Hoàn Môn và nhà hát Opéra Garnier. Tương tự, ở ngoại ô Hàng Châu, những người Trung Quốc cũng xây dựng một Paris nhỏ. Bảo tàng. Paris và vùng Île-de-France là nơi có số lượng bảo tàng lớn và quan trọng nhất nước Pháp. Ít nhất một trăm bảo tàng tính riêng trong nội ô Paris, và thêm khoảng một trăm mười bảo tàng khác thuộc vùng Île-de-France. Không chỉ lớn về số lượng, các bảo tàng này còn là nơi trưng bày rất nhiều hiện vật, tác phẩm nghệ thuật quan trọng của thế giới. Cổ nhất, diện tích lớn nhất là viện bảo tàng Louvre, nơi lưu trữ các tác phẩm nổi tiếng như "Mona Lisa", tượng thần Vệ Nữ... Với kỷ lục 8,3 triệu lượt khách trong năm 2006, Louvre là bảo tàng nghệ thuật thu hút nhất thế giới. Tiếp đó phải kể đến những bảo tàng nghệ thuật khác: Orsay, sở hữu nhiều bộ sưu tập trường phái Ấn tượng, Hậu ấn tượng; bảo tàng Nghệ thuật hiện đại nằm trong trung tâm Pompidou. Ở ngoại ô, lâu đài Versailles, được xây dựng bởi vua Louis XIV là cung điện của các vị vua nước Pháp trong thế kỷ 17 và 18, cũng thu hút nhiều triệu du khách mỗi năm với m² dành cho bảo tàng Lịch sử Pháp. Mới mở cửa năm 2006, Bảo tàng Quai Branly ("Musée du quai Branly") về nghệ thuật và văn minh châu Phi, châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ cũng là một bảo tàng quan trọng với lượt khách thăm vào năm 2007. Bên cạnh đó còn có những bảo tàng dành riêng của các nghệ sĩ tên tuổi như bảo tàng Picasso, Không gian Dalí, bảo tàng Rodin, bảo tàng Eugène Delacroix. Paris là nơi đặt một trong những viện bảo tàng khoa học lớn nhất ở ở châu Âu,  Cité des Sciences et de l'Industrie. Nó đã thu hút 2,4 triệu lượt khách tham quan trong năm 2017. Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp, thu hút 1.76 triệu khách tham quan vào năm 2016. Bảo tàng này nổi tiếng với các đồ tạo tác khủng long, bộ sưu tập khoáng sản và Thư viện Tiến hóa. Lịch sử quân sự của nước Pháp, từ thời Trung Cổ đến Thế Chiến II, được trình bày một cách sinh động tại bảo tàng Musée de l'Armée ở Invalides, gần ngôi mộ của Napoleon. Ngoài nghệ thuật và lịch sử, thành phố Paris cũng có nhiều bảo tàng về lĩnh vực khác như bảo tàng Thời trang ("Musée de la Mode et du Textile"), bảo tàng Bưu điện ("Musée de la Poste"), bảo tàng Con người ("Musée de l'Homme"), bảo tàng Hàng hải ("Musée national de la Marine"), bảo tàng Tiền tệ ("Musée de la Monnaie de Paris"), bảo tàng Trung Cổ ("Musée national du Moyen Âge"), bảo tàng Vũ khí ("Musée de l'armée"), bảo tàng Điện ảnh ("Cinémathèque française - Musée du Cinema")... Một số công trình quan trọng như Palais Bourbon, Palais de Chaillot, Petit Palais, Grand Palais, Opéra Garnier... cũng đều có những không gian bảo tàng. Các bảo tàng nổi tiếng nhất của Paris đều là bảo tàng quốc gia, thuộc về Nhà nước Pháp. Một số bảo tàng thuộc về các bộ, như bảo tàng Vũ khí trong Điện Invalides và bảo tàng Hàng không Bourget thuộc về Bộ Quốc phòng Pháp. Một số khác thuộc Viện Pháp - Institut de France, và có cả các bảo tàng tư nhân. Chính quyền thành phố Paris quản lý mười bốn bảo tàng, trong đó có một số nổi tiếng như bảo tàng Carnavalet về lịch sử Paris, nhà tưởng niệm Victor Hugo, Hầm mộ Paris. Nhiều triển lãm được tổ chức ở những địa điểm này. Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại của Louis Vuitton được thiết kế bởi kiến trúc sư Frank Gehry, mở cửa vào tháng 10 năm 2014 ở Bois de Boulogne. Nó nhận được 1.4 triệu lượt khách trong năm 2017. Thư viện. Paris sở hữu một số lượng thư viện lớn và phần nhiều đều mở cửa tự do cho công chúng. Được lập từ thư viện tư của Hồng y Jules Mazarin, Mazarine là thư viện cho công chúng cổ nhất Paris, bắt đầu từ năm 1643. Một thư viện cổ quan trọng khác là Sainte-Geneviève nằm cạnh Panthéon với hai triệu cuốn sách. Thư viện quốc gia Pháp được nằm chủ yếu ở Paris, với hai địa điểm chính: " Richelieu " ở Quận 2 và " François-Mitterrand " ở Quận 13. Trong đó " Richelieu " là thư viện cổ, nhỏ hơn, nằm ở trung tâm, còn " François-Mitterrand " là một công trình kiến trúc hiện đại gồm bốn tòa nhà cao tầng ở khu Paris Rive Gauche. Đây là nơi lưu trữ tư liệu quan trọng bậc nhất thế giới với khoảng 30 triệu cuốn sách gồm nhiều phiên bản gốc giá trị. Cơ sở này trở thành nơi lưu trữ hợp pháp của nước Pháp kể từ triều vua François Đệ nhất. Chính quyền thành phố Paris quản lý 55 thư viện phổ thông và khoảng 10 thư viện chuyên đề, là những nơi công chúng có thể tự do mượn tài liệu. Trong số đó có một vài thư viện được nhiều người biết tới như thư viện Lịch sử Paris, khánh thành năm 1871, nơi lưu trữ một triệu cuốn sách, ảnh, bản đồ liên quan tới lịch sử thành phố. Hoặc thư viện điện ảnh François-Truffaut với nhiều tài liệu điện ảnh quan trọng. Ngược lại với Thư viện quốc gia Pháp hay thư viện Mazarine, các thư viện của chính quyền thành phố đều miễn phí, kể cả các thư viện chuyên đề có thể cấm vị thành viên. Những sách, tạp chí, truyện tranh... được mượn tự do, còn các đĩa nhạc, video thì cần trả một số tiền trung bình hàng năm. Còn có một số thư viện cho công chúng khác, như thư viện trong trung tâm Georges-Pompidou. Rất nhiều thư viện của các đại học cũng mở cửa cho người ngoài. Những cửa hàng sách có thể tìm thấy ở khắp Paris. Các siêu thị của Fnac, bên cạnh những mặt hàng máy tính, thiết bị hình ảnh, âm thanh... còn dành một không gian lớn cho sách, CD nhạc, DVD phim. Đại lộ Saint-Michel cũng có nhiều cửa hàng sách, cả cho sách cũ lẫn sách mới. Còn dọc sông Seine, những hàng nhỏ bán sách cũ đã trở thành một phần của văn hóa Paris. Nhà hát, phòng trình diễn. Hai nhà hát lớn và được biết đến nhiều nhất Paris là Opéra Garnier và Opéra Bastille, được dành cho cả nghệ thuật cổ điển lẫn hiện đại. Ngoài ra, Paris còn có những nhà hát quan trọng khác như Nhà hát kịch Pháp ("Comédie-Française"), nhà hát Châtelet, nhà hát Odéon, nhà hát Mogador và Gaîté-Montparnasse. Một vài trong số này cũng gồm cả các phòng hòa nhạc. Nhà hát vẫn là địa điểm truyền thống quan trọng của văn hóa Paris, kể cả hiện nay, nhiều diễn viên nổi tiếng của nhà hát cũng đồng thời là những ngôi sao trên truyền hình. Một số ca sĩ lớn của âm nhạc Pháp như Édith Piaf, Maurice Chevalier, Georges Brassens và Charles Aznavour đã từng tìm được danh tiếng ở những phòng hòa nhạc của Paris: Bobino, Olympia, La Cigale hoặc Le Splendid. Salle Pleyel là nơi tổ chức nhiều buổi nhạc giao hưởng, Salle Gaveau dành cho nhạc thính phòng, Maison de Radio France có nhiều buổi hòa nhạc lớn mang nhiều phong cách khác. New Morning là một trong những phòng hòa nhạc luôn dành cho jazz, nhưng cũng có các thể loại nhạc khác. Le Zénith ở khu La Villette với chỗ ngồi là một trong những phòng hòa nhạc lớn nhất thành phố. Philharmonie de Paris, phòng hòa nhạc giao hưởng hiện đại của Paris, mở cửa vào tháng 1 năm 2015. Ngoài ra khu thể thao liên hợp Paris-Bercy ở khu Bercy, sân vận động Stade de France ở Saint-Denis thuộc ngoại ô, và sân vận động Công viên các hoàng tử... cũng là những nơi tổ chức các buổi hòa nhạc quy mô lớn. Các quán rượu và cà phê hòa nhạc từng là xương sống của giải trí Paris trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngay từ nửa đầu thế kỷ 19, ở Paris đã xuất hiện quán Moulin de la galette và cà phê hòa nhạc Élysée Montmartre cùng Château-Rouge. Các ban nhạc bình dân đã phục vụ cho đám đông nhảy múa tại quán nhạc Apollo hay khiêu vũ điệu Java tại vùng ngoại ô Temple và Belleville. Các câu lạc bộ thời kỳ tiếp theo mở ra những sàn nhảy hiện đại, như Le Palace - đã đóng cửa - từng rất nổi tiếng ở Paris. Ngày nay, trong những câu lạc bộ ở Paris, như hộp đêm Queen, vũ trường L'Étoile, Le Cab rất được yêu thích. Các sàn với nhạc điện tử như Le Rex, Batofar - một chiếc thuyền được cải tạo thành hộp đêm, hay The Pulp cũng rất đại chúng với sự góp mặt của những DJ hàng đầu thế giới. Rạp chiếu phim. Giống như những thành phố khác ở châu Âu, phim Hollywood chiếm một thị phần lớn tại các rạp của Paris. Nhưng cùng với đó là những bộ phim Pháp, những phim châu Âu khác, và cả điện ảnh châu Á cũng được trình chiếu phổ biến. Năm 2007, Paris có hơn 374 phòng chiếu phim. Số lượt người xem đã đạt tới con số hơn 30 triệu vào năm 2004. Những tập đoàn như UGC, Gaumont sở hữu các rạp ở khắp Paris. Từ 1990, các công ty này xây dựng những trung tâm chiếu phim lớn, từ 10 đến hơn 20 phòng chiếu. UGC có ba trung tâm quan trọng, tại Les Halles, Bercy và La Défense. Gaumont từng có một trong những phòng chiếu lớn nhất Paris ở quảng trường Italie, nhưng đã đóng cửa. Phòng chiếu rộng nhất thành phố hiện nay là Le Grand Rex với chỗ ngồi. Các phòng chiếu còn lại đều nhỏ hơn chỗ. Các địa điểm như Opéra, Champs-Élysées, Montparnasse là những trung tâm của rạp chiếu phim. Ngoài ra còn một hệ thống rạp nhỏ, nhưng cũng rất quan trọng, cho những phim độc lập. Những phòng chiếu này giới thiệu nhiều bộ phim đa dạng, của cả những nền điện ảnh nhỏ, với con số tới 450 đến 550 phim một tuần cho một bộ phận công chúng riêng. Quán cà phê, nhà hàng và khách sạn. Quán cà phê đầu tiên của Paris là Régence, được khai trương năm 1688 tại khu Palais-Royal. Sau đó một năm tới quán Café Procope được mở ở bên tả ngạn sông Seine. Rất nhanh chóng, các quán cà phê trở thành một phần của văn hóa Paris. Những quán cà phê vườn từng rất phổ biến vào thế kỷ 18 và có thể xem như là các " terrasses de café " - cà phê thềm - đầu tiên của Paris. Vào thế kỷ 19, việc quy hoạch lại thành phố cùng sự xuất hiện các đại lộ lớn với vỉa hè tạo điều kiện thuận lợi cho những " terrasses de café ". Ngày nay, các quán cà phê có mặt ở khắp thành phố và từng khu vực lại có những đặc điểm riêng biệt: nơi tập trung nhiều sinh viên như trong quận La Tinh, nơi chủ yếu cho khách du lịch như Montmartre, Champs-Élysées. Trong số đó có những quán nổi tiếng như Café Procope hay Café de Flore từng là nơi gặp gỡ của nhiều danh nhân. Từ cuối thế kỷ 18, Paris đã nổi tiếng với các nhà hàng và món ăn ngon, thức ăn được chuẩn bị rất tỉ mỉ và trình bày rất khéo léo. Một nhà hàng sang trọng, La Taverne Anglaise, được khai trương vào năm 1786 trong khu vườn của Palais-Royal bởi Antoine Beauvilliers; nó gồm một phòng ăn thanh lịch, một thực đơn phong phú, khăn trải bàn bằng vải lanh, một danh sách dài những loại rượu vang hảo hạng và những người phục vụ được đào tạo tốt; La Taverne Anglaise đã trở thành một hình mẫu cho các nhà hàng ở Paris trong tương lai. Nhờ giao thông đường sắt vào giữa thế kỷ 19 và cách mạng công nghiệp, nhiều người từ các tỉnh tới thủ đô mang theo những phong cách ẩm thực khác nhau đã tạo nên những nhà hàng với các đặc sản riêng. Chez Jenny là một ví dụ cho ẩm thực vùng Grand Est, Aux Lyonnais với các món từ Lyon... Sau đó, những người nhập cư tiếp tục giúp cho ẩm thực Paris thêm đa dạng với những món ăn của các dân tộc trên khắp thế giới như Ý, Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan... Không chỉ nổi tiếng về ẩm thực, Paris còn có các nhà hàng đặc biệt khác như Maxim's - nhà hàng được trang trí theo phong cách Tân nghệ thuật từng là điểm đến của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng, hay nhà hàng Jules Verne nằm trên tầng hai của tháp Eiffel. Hiện nay, thành phố có hơn 9.000 nhà hàng. Vào năm 2015, trong số 29 nhà hàng ba sao Michelin ở Pháp, có chín nhà hàng nằm ở Paris. Vào cuối thế kỷ 19, Paris xây dựng thêm rất nhiều khách sạn bởi những cuộc Triển lãm thế giới được tổ chức ở đây đã kéo theo một số lượng lớn du khách từ khắp nơi tới thành phố. Trong số đó có thể kể tới khách sạn Ritz trên quảng trường Vendôme mở cửa năm 1898 và khách sạn Crillon trên quảng trường Concorde năm 1909. Ngày nay hai khách sạn này được xếp vào hạng " palace " - đặc biệt sang trọng - cùng năm khách sạn khác: Bristol, George V, Meurice, Plaza Athénée và Fouquet's Barrière. Ngoài ra, các tập đoàn lớn như Hilton, Accor cũng sở hữu các khách sạn ở khắp Paris. Lễ hội và các sự kiện. Ngoài các lễ hội chung với thế giới và nước Pháp, Paris có nhiều lễ hội riêng được tổ chức trong suốt cả năm. Đầu tháng một, Tết Nguyên Đán được những người châu Á tổ chức ở Quận 13. Tháng hai, lễ hội Carnaval của Paris diễu hành xuyên qua thành phố. Vào cuối tháng hai còn có triển lãm thế giới về nông nghiệp. Triển lãm sách được tổ chức vào tháng ba và Hội chợ Paris cùng cuộc chạy marathon Paris vào tháng tư. Đầu mùa hè, tháng sáu có cuộc diễn hành Gay pride của những người đồng tính. Ngày quốc khánh Pháp 14 tháng bảy là dịp tổ chức duyệt binh truyền thống tại đại lộ Champs-Élysées. Cũng vào cuối tháng này, Champs-Élysées là chặng đích của cuộc đua xe đạp Tour de France. Từ năm 2002, trong vòng hai tháng bảy và tám, thành phố tổ chức Paris-Plage, thay đổi một phần bờ sông Seine thành bãi biển nhân tạo với cát và các ghế vải gập. Một triển lãm về ô tô được tổ chức vào tháng mười các năm chẵn. Tháng mười còn có Hội chợ quốc tế nghệ thuật đương đại - FIAC, và từ 2002 thành phố bắt đầu tổ chức lễ hội Nuit Blanche - Đêm trắng - vào đêm thứ bảy đầu tiên của tháng với nhiều hoạt động nghệ thuật. Thứ bảy tuần thứ hai tháng mười, tại Montmartre còn có lễ hội hái nho. Truyền thông. Phần lớn những tập đoàn truyền thông của Pháp đều nằm tại Paris và thành phố cũng có một số tờ báo riêng. Le Parisien là nhật báo chính của Paris. 20 phút và Métro là hai nhật báo miễn phí, không có nguồn gốc ở Paris, nhưng được nhiều người dân thành phố đọc. Những hành khách đọc các tờ báo miền phí trên phương tiện giao thông công cộng trở thành một hình ảnh hàng ngày của thành phố. Về văn hóa, có tờ L'Officiel des spectacles đăng các chương trình, và tờ Paris frimousse phát hành hàng tháng về các hoạt động văn hóa cho thiếu nhi. Trước đây còn hai tờ báo khác cũng đăng tin tương tự là Zurban và Le Pariscope. Ngược lại với các vùng khác của Pháp, truyền hình địa phương ở Paris không phát triển mạnh. Có thể thấy một số chương trình riêng cho Paris trên đài quốc gia France 3. Còn tại vùng Paris, Télif gần như là kênh duy nhất truyền qua cáp. Truyền qua ADSL hoặc vệ tinh có một số kênh địa phương: VOTV của Val-d'Oise, Télessonne của Essonne, TVM Est parisien của Seine-Saint-Denis, TVFil78 của Yvelines và RTV của Rosny-sous-Bois. Ngoài ra còn một vài kênh khác như Zaléa TV hay Teleplaisance.org... Paris, kinh đô thế giới. Trong lịch sử của mình, Paris là nơi sản sinh và được tìm đến của rất nhiều nhân vật nổi tiếng cũng như các trào lưu tư tưởng, nghệ thuật. Vào thế kỷ 18, Paris là trung tâm của triết học Khai sáng với những Rousseau, Voltaire. Tới thế kỷ 19, các nhà văn vĩ đại của Pháp như Alexandre Dumas, Honoré de Balzac, Victor Hugo đều tìm tới Paris. Và cùng với đó là các tên tuổi đến từ nước ngoài như Chopin, Van Gogh, Heine. Cuối thế kỷ 19, thành phố trở thành thủ đô của hội họa, với các trường phái Ấn tượng, Hậu ấn tượng. Sang thế kỷ 20, Paris tiếp tục là trung tâm văn hóa của cả thế giới, là nơi sản sinh các nhà văn Marcel Proust, André Gide... và là điểm đến của Pablo Picasso, Marc Chagall, Henri Matisse, James Joyce, Ernest Hemingway, Albert Camus, Beckett. Một số nhà khoa học, chính trị gia quan trọng của thế kỷ 20 như Marie Curie, Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh... cùng từng sống và học tập ở Paris. Paris còn là quê hương của điện ảnh, kinh đô của thời trang và là một trung tâm xuất bản lớn. Từng là nơi diễn ra nhiều hội nghị lịch sử quan trọng, thành phố hiện nay là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức thế giới như UNESCO, OECD. Trung tâm tri thức và văn học. Từ thế kỷ 12, Paris đã là một trong những trung tâm tri thức của thế giới Cơ Đốc giáo. Việc chấp nhận phương ngữ Paris bởi triều đình khẳng định khuynh hướng này. Trong thời kỳ Phục Hưng, Paris trở thành trung tâm của Chủ nghĩa nhân văn. Với quyền lực dần được tập trung, thành phố cũng quy tụ các ưu việt của văn hóa Pháp. Khoảng giữa thế kỷ 17, Paris với các phòng khách văn học gần như trở thành trung tâm duy nhất của văn chương Pháp. Thế kỷ 18, cùng với sự ảnh hưởng của văn hóa Pháp lên khắp châu Âu, Paris trở thành trung tâm văn hóa lớn nhất. Những phòng khách văn học Paris đạt tới thời kỳ hoàng kim nhờ những nhà văn, nhà triết học vĩ đại như Voltaire, Jean-Jacques Rousseau của Thế kỷ ánh sáng. Phòng khách của bà Geoffrin từ 1749 tới 1777 từng là nơi tụ họp của Diderot, Voltaire, d'Alembert... cùng nhiều nghệ sĩ, nhà văn khác. Thế kỷ 19, là trung tâm tri thức, Paris là điểm đến của hầu hết những nghệ sĩ lớn của Pháp, như các nhà văn Honoré de Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas... các nhà thơ Paul Verlaine, Arthur Rimbaud, Baudelaire... Không những thế, nhiều trí thức tiến bộ của châu Âu như Chopin, Heine... cũng tìm đến thành phố này. Đến cuối thế kỷ, Paris trở thành chiếc nôi của nhiều trường phái hội họa. Năm 1872, bức tranh "Ấn tượng mặt trời mọc" ("Impression soleil levant") của Claude Monet mở đầu cho Trường phái ấn tượng, rồi được tiếp tục bởi 8 triển lãm khác ở Paris. Thành phố đã quy tụ các họa sĩ nổi tiếng nhất đương thời: Vincent van Gogh, Paul Cézanne, Auguste Rodin, Alfred Sisley, Paul Gauguin, Auguste Renoir, Camille Pissarro... Ngày 28 tháng 12 năm 1895, buổi chiếu phim đầu tiên của anh em Auguste và Louis Lumière tổ chức tại Salon Indien nằm dưới tầng hầm quán cà phê Grand Café ở Paris đánh dấu sự ra đời của điện ảnh. Sang thế kỷ 20, các nhà văn, nghệ sĩ vẫn tiếp tục tìm tới Paris. Tại Montmartre, Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng chủ nghĩa Lập thể. Henri Matisse, Salvador Dalí, Marc Chagall đều tới Paris. Văn học đầu thế kỷ 20 cũng là thời kỳ cách mạng của tiểu thuyết. Từ 1913 tới 1927, bộ tiểu thuyết "Đi tìm thời gian đã mất" ("À la recherche du temps perdu") của Marcel Proust lần lượt được phát hành ở Paris. Năm 1922, tiểu thuyết tiếng Anh "Ulysses" của James Joyce cũng được xuất bản bởi Sylvia Beach ở Paris, và sau đó rất khó khăn mới chính thức vào được Mỹ. Không chỉ các nhà văn Pháp, rất nhiều các nhà văn lớn nước ngoài tới Paris và trải qua một thời kỳ sáng tạo ở đây, như Ernest Hemingway, Henry Miller, Gertrude Stein... Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khu phố Saint-Germain-des-Prés trở thành một trung tâm văn học với sự góp mặt của Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Boris Vian và Jacques Prévert. Samuel Beckett sống ở Paris và viết bằng tiếng Pháp. Cuốn tiểu thuyết tiếng Anh "Lolita" của Vladimir Nabokov không phát hành được ở Mỹ, sau đó được xuất bản ở Paris. García Márquez cũng sống ở Paris một thời gian khi quyết định ở lại châu Âu, chính là giai đoạn viết cuốn "Giờ xấu" ("La mala hora"). Một số chính khác quan trọng của các nước như Toàn quyền Canada Adrienne Clarkson, Roméo LeBlanc, Thủ tướng Canada Pierre Elliott Trudeau, Tổng thống Tunisia Habib Bourguiba, Tổng thống Sénégal Abdou Diouf, Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad... từng học ở Paris và trọ tại Cư xá đại học quốc tế. Sau thời kỳ này, Paris mất dần vị trí độc tôn, nhưng vẫn là một trung tâm lớn về văn học, tri thức và xuất bản của thế giới. Cho tới cuối thế kỷ 20, một số nhà văn danh tiếng như Cao Hành Kiện, Milan Kundera... vẫn tiếp tục tìm đến thành phố. Ngày nay, hầu như các khu phố của Paris đều có những tấm biển ghi lại thời gian lưu trú của các nhà văn danh tiếng. Các nghĩa trang của thành phố không chỉ là nơi yên nghỉ những nhân vật nổi tiếng người Pháp mà còn của rất nhiều danh nhân thế giới. Trụ sở các tổ chức quốc tế. Không chỉ là thủ đô của Pháp, rất nhiều các tổ chức quốc tế cũng có trụ sở tại Paris. Có thể kể tới: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc - UNESCO, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD, Phòng Thương mại Quốc tế - ICC, Lực lượng Đặc nhiệm Hành động Tài chính - FATF, Tổ chức Phóng viên không biên giới... Ngoài ra Paris cũng là nơi tổ chức các hội nghị quan trọng. Nhiều hiệp ước, hòa ước lịch sử đã được ký kết ở đây, như Hòa ước Versailles năm 1919, Hiệp định Paris năm 1973... Với m² phục vụ cho mục đích hội họp, Paris chiếm 5% các hoạt động hội thảo, hội nghị của thế giới. Kinh đô thời trang và xa xỉ phẩm. Paris vẫn thường được xem là kinh đô thời trang của thế giới. Ở đây tập trung những nhà mẫu nổi tiếng, các buổi trình diễn thời trang quan trọng và những cửa hàng thời trang cao cấp. Từ thế kỷ 18, nước Pháp có thể xem như đã đi đầu châu Âu về thời trang khi nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc và các ăn mặc của triều đình Pháp tại Versailles ảnh hưởng tới khắp châu Âu. Những du khách tới Paris và mang về các bộ quần áo rồi lại được những nhà may địa phương bắt chước. Tới khi đường sắt và tàu thủy hơi nước giúp đi lại ở châu Âu được dễ dàng hơn, những phụ nữ giàu có đã tìm tới Paris để mua sắm quần áo. Những thợ may Pháp được xem như hàng đầu và cách ăn mặc của người Paris gây ảnh hưởng tới các nơi khác. Tới thời kỳ Belle Époque, qua các tạp chí, thời trang Paris trở thành chuẩn mực cho tất cả phụ nữ ở các thành phố lớn trên thế giới. Giữa thế kỷ 19, thời trang may đo cao cấp Haute couture xuất hiện ở Paris mặc dù cha đẻ của nó là Charles Frederick Worth, một nhà may người Anh. Sau đó, Haute couture được các nhà tạo mẫu ở Paris như Lanvin, Chanel, Dior... nối tiếp. Vào thời kỳ hậu chiến, trong thập niên 1960, các nhà tạo mẫu của Paris thế hệ sau như Yves Saint Laurent, Pierre Cardin, Givenchy... tiếp tục ảnh hưởng lên toàn bộ ngành thời trang. Ngày nay, Haute couture được bảo vệ bởi luật và do Phòng Thương mại và Công nghiệp Paris ("Chambre de Commerce et d'Industrie") quản lý. Dù phải chia sẻ với một vài thành phố lớn khác, nhưng Paris vẫn giữ vị trí kinh đô thời trang. Các du khách vẫn tiếp tục tới đây để mua sắm. Tập đoàn kinh doanh hàng xa xỉ hàng đầu thế giới LVMH cũng có trụ sở ở Paris. Một vài khu phố của Paris quy tụ nhiều các cửa hàng đồ xa xỉ. Những hãng trang sức như Cartier, dinh van, Chanel... nằm ở quảng trường Vendôme và phố Paix cạnh đó. Đại lộ Montaigne ở Quận 8 với những cửa hàng của Chanel, Louis Vuitton, Gucci, Armani, Dior, Prada, Valentino, Nina Ricci... Phố Faubourg-Saint-Honoré có sự hiện diện của Hermès, Dolce & Gabbana... Đầu đại lộ Champs-Élysées cũng có các cửa hàng của Cartier, Montblanc, Hugo Boss cùng Louis Vuitton đặc biệt thu hút du khách. Paris cũng là trung tâm của mua sắm với các hệ thống cửa hàng nổi tiếng như Galeries Lafayette, Printemps... cùng các trung tâm thương mại Les Halles, La Défense... Vào thế kỷ 19, các cửa hàng hiện đại xuất hiện ở Paris như một ý tưởng cách mạng. Những đại cửa hàng, có sự kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu, ghi giá cả rõ ràng, ổn định, hàng hóa đa dạng, trưng bày trong các không gian rộng, sang trọng... được đi tiên phong bởi Le Bon Marché vào năm 1852. Kế đó tới các đại cửa hàng La Samaritaine, Galeries Lafayette... Nhà văn Emile Zola trong tiểu thuyết "Au Bonheur des Dames" năm 1883 cũng đã miêu tả cuộc đời một nhân viên làm việc trong một đại cửa hàng. Ngày nay, Paris có tất cả năm hệ thống đại cửa hàng: Galeries Lafayette, Printemps, Le Bon Marché, La Samaritaine và BHV. Paris với văn hóa và nghệ thuật. Paris với văn học. Từ rất lâu, Paris đã là nguồn cảm hứng cho các nhà văn. Vào thế kỷ 15, François Villon đã viết về Paris trong tác phẩm chính của mình: "Le Testament". Trong thế kỷ 17 và thế kỷ 18, miêu tả một Paris hiện thực cũng thu hút các tác giả. Thế kỷ 19, các nhà văn Pháp có những bước tiến trong việc miêu tả thành phố với phong cách mang tính chính xác hơn. Dưới nền Quân chủ tháng bảy, Honoré de Balzac phác họa bức tranh chi tiết và hiện đại về xã hội Pháp trong bộ tiểu thuyết đồ sộ "Tấn trò đời" ("La Comédie Humaine"). Gồm hơn 100 tác phẩm, gồm cả tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận... "Tấn trò đời" với vô số các nhân vật ở Paris, là một bức tranh toàn cảnh miêu tả xã hội Pháp thế kỷ 19. Alexandre Dumas với "Ba người lính ngự lâm" cũng cho thấy một Paris khác trong lịch sử. Trong khi Balzac quan tâm tới các tầng lớp cao của xã hội thì một vài tác giả khác lại chú ý đến tầng lớp bình dân của Paris. "Bí mật thành Paris" ("Les Mystères de Paris") của Eugène Sue với những miêu tả về tầng lớn dưới đáy xã hội đăng từng kỳ trên báo từ 1842 tới 1843 đã rất thành công. Hai mươi năm sau đó, một trong những tiểu thuyết gia lớn nhất của Paris, Victor Hugo đã xuất bản "Những người khốn khổ" ("Les Misérables"), tác phẩm đồ sộ miêu tả cuộc sống nhiều mặt của thành phố, khiến Paris trở thành cổ điển. Một tiểu thuyết khác của Victor Hugo, "Nhà thờ Đức Bà Paris" ("Notre-Dame de Paris") tiếp tục giúp độc giả khắp thế giới biết đến nhà thờ nổi tiếng của thành phố. Thành phố Paris sau những cải tạo của Haussmann được Émile Zola miêu tả trong bộ "Les Rougon-Macquart" với những tác phẩm "Le Ventre de Paris", "Nana", "Au Bonheur des Dames". Đầu thế kỷ 20, nhà hát Opéra Garnier của Paris trở thành bối cảnh chính của tiểu thuyết "Bóng ma trong nhà hát" ("Le Fantôme de l'Opéra") của Gaston Leroux. Tác phẩm này đã có rất nhiều chuyển thể, trong đó nổi tiếng như vở nhạc kịch "The Phantom of the Opera" của Andrew Lloyd Webber trên sân khấu Broadway năm 1986, rồi bộ phim cùng tên năm 2004. Trong những năm 1960, các nhà văn biến Paris thành một thành phố hoang đường, đôi khi khôi hài và nực cười như trong "Zazie dans le métro" của Raymond Queneau. Hay một Paris đầy ắp những kỷ niệm trong "Je me souviens" của Georges Perec. Nhà văn Colombia Gabriel García Márquez trong truyện ngắn "Dấu máu em trên tuyết" ("El Rastro de tu Sangre en la Nieve") cũng cho thấy cái nhìn của một người nước ngoài cô đơn giữa Paris về thành phố này. Paris với hội họa và điêu khắc. Là thành phố quan trọng bậc nhất của hội họa, Paris không chỉ là nơi khai sinh của những trường phái Ấn tượng, Lập thể... mà nó còn là đề tài của nhiều họa sĩ. Cho tới Chiến tranh tôn giáo vào cuối thế kỷ 16, không thấy tác phẩm nào thực sự về Paris. Dưới thời Henri IV và Louis XIII, thành phố được Jacques Callot cùng các họa sĩ Hà Lan De Verwer và Zeeman thể hiện trên tranh, đặc biệt là hai bên bờ sông Seine. Cung điện Louvre cũng trở thành một đề tài rất được ưa thích vào thế kỷ 17. Phải đến thế kỷ 19, đời sống thường nhật của Paris mới thu hút các họa sĩ. Jean-Baptiste Camille Corot dựng giá vẽ bên bờ sông Seine; Claude Monet tái hiện không khí mờ hơi nước của nhà ga Saint-Lazare; Auguste Renoir miêu tả cuộc sống khu phố Montmartre với các quán Moulin de la galette, Moulin Rouge; Camille Pissarro vẽ cầu Pont Neuf và Alfred Sisley với cảnh đảo Île Saint-Louis. Tiếp đó, vào cuối thế kỷ, Georges Seurat, Paul Gauguin, Paul Cézanne và Van Gogh tiếp tục tái hiện Paris trong các tác phẩm của mình. Còn Toulouse-Lautrec bị thu hút bởi các quán cabaret của thành phố. Vào thế kỷ 20, Albert Marquet và Maurice Utrillo vẽ những khu phố ít may mắn của Paris. Henri Matisse, Maurice de Vlaminck và André Derain làm việc trong tòa nhà Bateau-Lavoir ở Montmartre, còn Fernand Léger, Amedeo Modigliani, Marc Chagall, Ossip Zadkine và Chaïm Soutine sáng tác trong xưởng vẽ La Ruche ở Montparnasse. Đó chính là thời kỳ hoàng kim của trường phái Paris. Về điêu khắc, ở Paris thế kỷ 19 có thể kể tới François Rude với bức phù điêu "La Marseillaise" trên Khải Hoàn Môn, hay Jean-Baptiste Carpeaux với đài phun nước tại Đài thiên văn. Tiếp đó, vô số các nghệ sĩ danh tiếng với những tác phẩm của mình đã trang hoàng cho Paris: Auguste Rodin, Aimé-Jules Dalou tại vườn Luxembourg và quảng trường Nation, Antoine Bourdelle ở Palais de Tokyo, Aristide Maillol ở vườn Tuileries và Paul Landowski với tượng Thánh Geneviève ở cầu Tournelle. Tân nghệ thuật cũng trang trí cho một số lối vào tàu điện ngầm của Paris nhờ Hector Guimard. Nghệ thuật đương đại hiện diện ở Palais-Royal với các cây cột của nhà điêu khắc Daniel Buren hay ở Trung tâm Pompidou với đài phun nước Stravinski của Jean Tinguely và Niki de Saint Phalle. Paris với âm nhạc. Truyền thống âm nhạc ở Paris bắt từ thời Phục Hưng. Cuối thế kỷ 12 trường phái âm nhạc đa âm điệu Notre-Dame ra đời. Dưới thời François I, công nghệ in ấn mới xuất hiện đã giúp các ca khúc trở nên phổ biến. Thời Louis XIV, nhiều vở opera lớn được giới thiệu ở Paris. Nhạc sĩ gốc Ý Jean-Baptiste Lully tới sống tại Paris và trở thành người phục trách âm nhạc của triều đình. Các vở ba lê của Lully được trình diễn tại cung điện Louvre từ năm 1655. Thế kỷ 18, Jean-Philippe Rameau làm nổi bật vai trò của dàn nhạc trong các vở opera-ba lê. Lịch sử Pháp cũng ảnh hưởng tới âm nhạc của Paris. Nhiều bài hát đại chúng được sáng tác trong thời kỳ Cách mạng Pháp, như "Carmagnole" trở thành ca khúc biểu tượng cho những người cách mạng vào năm 1792. Vào thế kỷ 19, Paris trở thành thủ đô của âm nhạc, các nghệ sĩ nổi tiếng nước ngoài đã tìm tới đây. Âm nhạc tiến đến Chủ nghĩa lãng mạn với những nhạc sĩ như Frédéric Chopin, Hector Berlioz hay Charles Gounod. Âm nhạc cho khiêu vũ của Paris trong thế kỷ 19 nổi tiếng khắp thế giới. Được chơi ở các lễ hội Carnaval Paris, nó còn ảnh hưởng đến âm nhạc truyền thống và các cả nhạc sĩ nước ngoài. Trong số đó có thể kể đến nhạc sĩ người Áo Johann Strauss I, người đã tới Pháp vào 1837. Sau năm 1870, Paul Dukas, Camille Saint-Saëns hay Georges Bizet đã làm nước Pháp trở thành bậc thầy của âm nhạc ba lê. Những cá tính dân tộc trong âm nhạc trở lại với Maurice Ravel và Claude Debussy - các nhạc sĩ ấn tượng. Cuối thế kỷ 19 cũng là thời kỳ của các ca sĩ ứng tác và quán cabaret Le Chat noir ở Montmartre là một địa điểm biểu tượng. Đầu thập niên 1880, " la divine " Sarah Bernhardt, người được xem như nữ nghệ sĩ nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử nghệ thuật, đã từ Paris đi lưu diễn khắp thế giới, tại Luân Đôn, Hoa Kỳ và Nga. Trong Thế kỷ 20, những bài hát của Édith Piaf - người mang biệt danh " cô bé của Paris " - và cả Maurice Chevalier trở thành các ca khúc phổ biến ở Paris và còn được biết đến trên toàn thế giới. Nền ca nhạc Pháp còn rất nhiều những bài hát về Paris. Paris với điện ảnh. Với các công trình nổi tiếng và sự lãng mạn, Paris là một trong những thành phố được đưa lên màn ảnh nhiều nhất. Ngoài các bộ phim quan trọng của điện ảnh Pháp, những đạo diễn thế giới cũng chọn Paris làm bối cảnh cho những tác phẩm của mình. Trong danh sách dài những bộ phim Pháp quay ở đây, có thể kể đến một vài tác phẩm lớn đã trở thành kinh điển. "Hôtel du Nord" (1938) là khung cảnh cho lời thoại nổi tiếng của Arletty: " Atmosphère, atmosphère, est-ce que j'ai une gueule d'atmosphère? ". Tuy bộ phim được thực hiện trong trường quay, nhưng khách sạn nhỏ bên con kênh Saint-Martin vẫn trở thành địa điểm yêu thích của những khán giả điện ảnh. "La Traversée de Paris" (1956) cùng "Le Dernier Métro" (1980) gợi lại những hiện thực về thời gian thành phố bị Đức Quốc xã chiếm đóng năm 1943, và "Paris brûle t-il?" (1966) về giải phóng Paris vào tháng 8 năm 1944. Đầu thập niên 2000, "Le Fabuleux Destin d'Amélie Poulain" (2001) là câu quận hoang tưởng trong một Paris huyền thoại và vĩnh hằng. Bộ phim này giành được những thành công quốc tế và khiến nhiều người yêu điện ảnh tới Montmartre để tìm kiếm những địa điểm tượng trưng của các cảnh quay. Điện ảnh thế giới cũng ghi dấu ấn với những bộ phim về Paris. Năm 1951, bộ phim ca nhạc "An American in Paris", nói về một họa sĩ trẻ ở Paris, đã thành công rực rỡ, đạt giải Oscar cho phim hay nhất. Năm 1957, "Tình yêu ban chiều" ("Love in the Afternoon") mở đầu với những cảnh Paris tràn ngập các đôi yêu đương và Audrey Hepburn gặp gỡ Gary Cooper tại khách sạn Ritz. Trong "Last Tango in Paris" năm 1972, Marlon Brando trong vai một người đàn ông trung niên gặp cô gái trẻ Maria Schneider tại một căn phòng sang trọng ở quận 16. Cuối thế kỷ 20 là bộ phim ca nhạc "Everyone Says I Love You" (1996) của đạo diễn Woody Allen. Đầu những năm 2000, trong "Moulin Rouge!" (2001), Nicole Kidman vào vai cô ca sĩ Satine của quán Moulin Rouge yêu chàng nhà văn Christian do Ewan McGregor diễn. Năm 2004, "Bóng ma trong nhà hát" ("The Phantom of the Opera") chuyển thể từ tiểu thuyết của Gaston Leroux lại giới thiệu một Paris của âm nhạc và sân khấu thời Belle Époque. "Da Vinci code" (2006) tiếp tục chọn Paris làm bối cảnh cho bộ phim. Mới nhất năm 2007, với vị trí kinh đô của ẩm thực, Paris lại xuất hiện trong bộ phim hoạt hình Mỹ "Chú chuột đầu bếp" ("Ratatouille"). Không chỉ những tác phẩm lãng mạn, cảnh Paris với tháp Eiffel bị phá hủy thường xuyên được sử dụng trong các phim khoa học viễn tưởng. Bên cạnh điện ảnh, các công trình nổi tiếng và đời sống thường nhật của Paris là đề tài sáng tác của nhiều nhiếp ảnh gia danh tiếng. Bắt đầu từ Eugène Atget ở cuối thế kỷ 19, tiếp đó tới Robert Doisneau giữa thế kỷ 20, người đã chụp vô số các bức ảnh về Paris, trong đó nổi tiếng hơn cả là "Le Baiser de l'Hôtel de Ville" ("Nụ hôn trước tòa thị chính"). Thành phố kết nghĩa. Từ năm 1956, Paris trở thành thành phố sinh đôi cùng với duy nhất Roma của Ý:      Có nghĩa:    " Duy nhất Paris xứng với Roma; duy nhất Roma xứng với Paris " Ngoài ra Paris còn có nhiều thành phố kết nghĩa khác:
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
[ "Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc tế, phóng viên thể thao, bình luận viên bóng đá, nhà văn và nhà báo người Việt Nam. Anh Ngọc được biết đến là một trong những phóng viên thể thao hàng đầu Việt Nam, đặc biệt về bóng đá và nhất là bóng đá Ý. Ngoài ra, anh cũng nổi tiếng là một trong những bình luận viên được yêu thích qua nhiều giải đấu và là phóng viên tác nghiệp tại các sự kiện thể thao lớn trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, anh là phóng viên Việt Nam đầu tiên và duy nhất tới nay được tạp chí danh tiếng \"France Football\" mời tham gia bình chọn cho danh hiệu Quả bóng vàng.\nNgoài việc là phóng viên thể thao, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thông tin quốc tế. Anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016. Trong các giai đoạn 2010–2013 và 2016 đến nay, anh còn làm biên tập viên rồi Thư ký tòa soạn cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", ngoài ra cũng là cộng tác viên của nhiều đài truyền hình cùng nhiều tờ báo và tạp chí lớn. Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu một chuyên mục riêng trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\", rồi sau đó là một chương trình cùng tên được phát sóng hàng tuần từ tháng 9 năm 2012 trên hệ thống truyền hình Cáp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTVCab). Anh cũng là người phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\" trong cộng đồng bóng đá Việt Nam vào đầu năm 2013. Từ năm 2018, anh trở lại làm bình luận viên cho Serie A trên kênh truyền hình FPT.\nBên cạnh công việc phóng viên, Anh Ngọc cũng đã cho ra mắt những cuốn ký sự viết về hành trình khám phá và tác nghiệp của mình. Cuốn sách đầu tay \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" được phát hành vào tháng 5 năm 2012 có được nhiều đánh giá rất tích cực từ người hâm mộ. Các cuốn bút ký tiếp theo \"Phút 90++\" (2013), \"Nghìn ngày nước Ý, nghìn ngày yêu\" (2017), \"Hẹn hò với Paris\" (2018) và \"Đi khi ta còn trẻ\" (2022) đều có được thành công nhất định.\nThiếu thời.\nAnh Ngọc sinh năm 1976 tại Hà Nội. Khi còn nhỏ, anh theo học tại trường tiểu học Tây Sơn, sau đó là trường THCS Lê Ngọc Hân và THPT Lý Thường Kiệt. Cha anh, Trương Đức Anh, từng là phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng ở mặt trận Quảng Trị năm 1972 và chính là hình mẫu phấn đấu của anh. Ông Trương Đức Anh từng giữ chức Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.\nSau một lần đọc bài viết trên báo \"Thể thao & Văn hóa\" viết về chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 của đội tuyền Ý, anh bắt đầu quan tâm tới môn thể thao và đất nước này.\nBài viết đầu tiên được đăng báo của Anh Ngọc là bài bình luận chiến thắng của F.C. Barcelona trên báo \"Thể thao Việt Nam\" vào tháng 5 năm 1992. Năm 1994, anh thi đỗ vào Khoa Báo chí của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.\nKhi còn là sinh viên, Anh Ngọc thường xuyên tham gia các trận đấu bóng đá của nhà trường và được bạn bè đặt biệt danh \"Thierry Lazure\". Năm 1997, anh giành học bổng để theo học tại khoa báo chí và truyền thông tại Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore chuyên ngành về công nghệ truyền thông và ảnh báo chí.\nSự nghiệp.\nSự nghiệp phóng viên.\nTrở về từ Singapore vào năm 1998, Anh Ngọc được mời về thiết kế website và suýt nữa đã trở thành nhân viên của Công ty Điện toán và truyền số liệu, song tình yêu bóng đá đã đưa anh trở thành biên tập viên thể thao của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội. Ban đầu công việc của anh chỉ là bình luận những trận phát lại thay thế cho biên tập viên Long Hải. Trong thời gian tại đây, Anh Ngọc tham gia nhiều công việc như bình luận viên, phóng viên ảnh, thậm chí từng làm biên tập viên cho một chương trình âm nhạc quốc tế có tên \"Giai điệu cuối tuần\" trong giai đoạn 1999–2000. Ngoài ra, anh cũng là người phụ trách chuyên mục \"Cabin bình luận viên\" trên báo \"Hoa học trò\" từ năm 2000 đến 2002, cùng với đó là xuất hiện cùng với 2 bình luận viên Quang Huy và Long Vũ trong số đầu tiên của \"Hoa học trò 2!\" năm 2002. Anh trở thành bình luận viên chính thức của giải Serie A kể từ mùa giải 1998–1999. Đây là chương trình truyền hình thể thao trực tiếp đầu tiên của Đài truyền hình Hà Nội, và cũng vì lý do trên mà anh bắt đầu tự mày mò học tiếng Ý. Tiếp đó, anh tham gia bình luận giải đấu Euro 2000 của đài. Trận đấu cuối cùng anh bình luận cho đài là chiến thắng 4–2 của Lazio trước Inter Milan mùa giải 2001–02.\nSau 4 năm công tác, Anh Ngọc chuyển sang làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, cụ thể là báo \"Thể thao & Văn hóa\", vào tháng 5 năm 2002. Tại đây, công việc chính của Anh Ngọc là phóng viên thời sự quốc tế, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục viết bài về bóng đá và làm bình luận viên cho Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Năm 2007, anh là trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý trong nhiệm kỳ 3 năm. Trở về nước vào năm 2010, anh trở thành biên tập viên và thư ký tòa soạn, phụ trách mảng thể thao của báo \"Thể thao & Văn hóa\". Từ tháng 2 năm 2011, anh sở hữu chuyên mục riêng mang tên \"Anh Ngọc & Calcio\" trên báo \"Thể thao & Văn hóa\", không lâu sau đó chương trình cùng tên được lên sóng trên kênh \"Bóng đá TV\" của VTVCab. Chương trình được đánh giá cao và có được đông đảo người hâm mộ theo dõi hàng tuần. Tháng 10 năm 2013, Anh Ngọc quay trở lại Ý, tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình trong vai trò trưởng cơ quan thường trú tại đây.\nAnh Ngọc chính là phóng viên Việt Nam duy nhất có mặt tại Oman vào tháng 10 năm 2003 trong chiến thắng lịch sử 1-0 của đội tuyển quốc gia trước đội tuyển Hàn Quốc – đội vừa giành vị trí thứ 4 thế giới ở World Cup 2002 – với bàn thắng duy nhất của Phạm Văn Quyến. Sau chuyến đi đó, anh đã thực hiện loạt bài độc quyền cho báo \"Thể thao & Văn hóa\", trong đó có bài phỏng vấn Văn Quyến ngay sau trận đấu.\nAnh Ngọc tham gia trực tiếp viết bài phục vụ các sự kiện bóng đá lớn như World Cup 2002 và thực hiện nội dung của chương trình \"Tin nhanh World Cup 2006\" của Thông tấn xã Việt Nam. Trong thời gian diễn ra Euro 2004, anh chỉ tham gia làm khách mời truyền hình. Xuyên suốt World Cup 2006, anh tham gia bình luận trực tiếp 7 trận đấu của đội tuyển Ý cùng bình luận viên Quang Huy (giải đấu mà đội tuyển Ý lên ngôi vô địch). Sau đó, anh là đặc phái viên chính thức của Thông tấn xã Việt Nam, trực tiếp đưa tin tức và hình ảnh tại 3 sự kiện lớn Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 – những giải đấu và hành trình sau này trở thành nội dung và cảm hứng cho anh viết nên cuốn bút ký \"Phút 90++\" không lâu sau.\nNăm 2009, Anh Ngọc thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với danh thủ Alessandro Del Piero tại Trung tâm huấn luyện của câu lạc bộ Juventus, Torino, Ý. Đây chính là lần đầu tiên có một phóng viên người Việt Nam trực tiếp liên hệ và giữ bản quyền phỏng vấn một cầu thủ châu Âu mà không thông qua bất kỳ bên thứ ba nào, 3 năm sau, vào tháng 1 năm 2012, anh tham gia làm trợ lý báo chí và ngôn ngữ cho chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của danh thủ Fabio Cannavaro, theo kèm là những bài viết và trao đổi với nhà vô địch thế giới người Ý.\nTháng 10 năm 2010, tạp chí \"France Football\" đã trực tiếp liên hệ với Anh Ngọc để mời anh đại diện cho các nhà báo Việt Nam trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA lần thứ nhất, sau khi giải được hợp nhất với giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu. Từ đó tới nay, anh cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam hàng năm có được vinh dự này.\nNgoài công việc tại Thông tấn xã Việt Nam, Anh Ngọc còn tham gia cộng tác với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC và kênh thể thao K+. Anh cũng là khách mời thường xuyên của chương trình \"Cà phê sáng\" và các buổi bình luận bóng đá của nhiều đài truyền hình trong nước. Ngoài ra, anh cũng từng là khách mời cho chương trình \"Khách của VTV3\" của nhà báo Lại Văn Sâm vào tháng 10 năm 2012. Anh cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như \"Tin tức\", \"Lao động\", \"Tuổi trẻ\", \"Thanh niên\"... cùng nhiều tạp chí như \"Đẹp\", \"Đàn ông\"... Ngoài công việc viết bài, Anh Ngọc cũng là nhà báo ảnh dù tự nhận mình chưa bao giờ là một người chụp ảnh giỏi. Từ năm 2017, Anh Ngọc trở thành cố vấn của chương trình \"Ai là triệu phú\" và phụ trách chuyên mục về câu chuyện thể thao trong chương trình \"Cafe sáng với VTV3\" trên VTV.\nAnh Ngọc cũng là một trong những nhà báo của Việt Nam tham gia tác nghiệp tại World Cup 2014 ở Brazil, Euro 2016 tại Pháp cũng như World Cup 2018 tại Nga. Anh trở lại bình luận cho Seria A sau khi FPT chính thức có được bản quyền phát sóng tại Việt Nam kể từ mùa giải 2018–19. Năm 2021, khi VTVcab có bản quyền Serie A, anh trở lại cabin bình luận của VTVCab sau 8 năm vắng bóng. Anh không thể đi tác nghiệp tại Euro 2020, giải đấu bị lùi sang mùa hè năm 2021 do những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Đây là giải đấu duy nhất anh không đi tác nghiệp kể từ Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Anh cũng tham gia tác nghiệp tại World Cup 2022 ở Qatar. \nNhà văn.\nSau quãng thời gian công tác đầu tiên kéo dài gần 4 năm tại Ý, Anh Ngọc đã quyết định cho ra mắt cuốn tản văn đầu tay mang tên \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" trong khuôn khổ Chương trình hợp tác Văn hoá thể thao Ý-Việt vào ngày 23 tháng 5 năm 2012. Cuốn sách được phát hành và phân phối bởi công ty \"Nhã Nam\". Bộ khung cuốn sách đã được anh cùng nhà báo Yên Ba phác thảo từ năm 2007, bao gồm hơn 20 bài viết và ảnh chụp, ghi lại những khoảnh khắc khi anh sống tại đất nước này. Anh tâm sự cuốn sách là \"một món quà tri ân các khán giả, độc giả cũ, đồng thời đem đến cho những người thuộc thế hệ trẻ chưa đi qua thời của chúng tôi\". Nhìn chung, \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả. Nhà báo Yên Ba cho rằng \"\"Cuốn sách là \"đồng xu\" mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi, nó sẽ giúp bạn đến với nước Ý.\" trong khi nhà báo Nguyễn Trương Quý cho rằng tác giả viết sách theo phong cách \"bình luận bóng đá [...] bằng một tình yêu chân thành\"\", còn nhà báo Nguyễn Lương Phán đánh giá cao việc cuốn sách không bị tình cảm lấn át quá nhiều. Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long nhận xét rằng cuốn sách đã cho thấy tình yêu đặc biệt của Anh Ngọc với đất nước này. Cuốn sách sau đó cũng được giới thiệu trong chuyên mục \"Mỗi ngày 1 cuốn sách\" của kênh VTV1 Đài truyền hình Việt Nam.\nSau thành công của cuốn sách đầu tay, ngay trước khi lên đường nhận nhiệm kỳ thứ 2 tại Ý, Anh Ngọc cho ra mắt cuốn sách thứ hai của mình mang tên \"Phút 90++\" vào ngày 2 tháng 10 năm 2013. Tác phẩm là cuốn bút ký ghi lại những quãng đường tác nghiệp của anh tại 3 giải đấu lớn là Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 dưới trải nghiệm của một nhà báo chứ không chỉ của một người du lịch. \"Nhã Nam\" tiếp tục là đơn vị phát hành cuốn sách này. Anh giải thích \"hai dấu '+' [...] chính là những điều hoàn toàn ngoài sân cỏ\". Ngoài ra, anh cũng giải thích về bức hình cậu bé da đen đứng sau cánh cửa mà anh chọn làm ảnh bìa: \"Tôi đã bắt gặp lại mình của thời thơ ấu trong ánh mắt của cậu bé khi mở hé cánh cửa ấy...\". Đạo diễn Việt Tú đánh giá cuốn sách mang đầy đủ yếu tố gai góc, chân thực cũng như lãng mạn trong khi báo \"Nhân dân\" cho rằng tác giả \"đã thể hiện sự say nghề của một nhà báo, với con mắt quan sát sắc sảo, thấm đẫm tình người\". Cuốn sách, cùng với \"Nước Ý, câu chuyện tình của tôi\", sau đó trở thành một phần của chủ đề tranh luận \"Đi\" trong giới trẻ cùng khoảng thời gian đó.\nQuan điểm.\nBóng đá.\nLà một cây viết kỳ cựu đồng thời là một biên tập viên, một bình luận viên bóng đá nổi tiếng, Anh Ngọc có được sức hút lớn với những người quan tâm tới môn thể thao này và được coi là một trong những nhà báo thể thao hàng đầu Việt Nam. Dù nổi tiếng về tình yêu dành cho nước Ý, song anh cũng rất quan tâm tới bóng đá Việt Nam. Trong lần xuất hiện là khách mời của chương trình \"Khách của VTV3\" trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, anh bộc bạch trăn trở về nền bóng đá nước nhà khi khái niệm \"chuyên nghiệp\" vẫn chưa tồn tại trong \"cách đầu tư, chuyên nghiệp là ở cách suy nghĩ của các ông chủ, chuyên nghiệp từ các trọng tài, từ thái độ thi đấu, tinh thần của các cầu thủ...\" Mặt khác, anh cũng thể hiện nỗi niềm về khan hiếm tài năng bóng đá và tỏ ra đồng cảm với người hâm mộ bóng đá nước nhà: \"Người hâm mộ mình tội lắm, họ ghét đấy, yêu đấy và luôn cho những người đã sai lầm ấy cơ hội. Chỉ tiếc, nhiều ngôi sao đã không ý thức được tình cảm ấy và vẫn tiếp tục phản bội người hâm mộ\".\nNói về nghề bình luận viên bóng đá, Anh Ngọc tự nhận mình có phong cách bình luận sôi nổi của Nam Mỹ và thích cập nhật thông tin, ngay cả trong trận đấu. Mặt khác, anh cũng bộc lộ nhiều lo lắng: \"Đam mê và cách thể hiện đam mê như thế nào thực ra mới chỉ là một phần của nghề này. Tôi đã thấy nhiều bình luận viên trẻ bây giờ có được niềm đam mê ấy, nhưng làm được việc là phân tích trận đấu như bình luận viên thế hệ đi trước thì chưa có ai\". Anh Ngọc trực tiếp tham gia chương trình tuyển chọn bình luận viên trên kênh K+ mang tên \"Người truyền lửa\" vào năm 2012.\nBản thân Anh Ngọc cũng từng thổ lộ mong muốn thấy người hâm mộ thưởng thức bóng đá có văn hóa hơn và có thể được chia sẻ ý kiến với họ qua bất kể phương tiện nào Tháng 1 năm 2013, anh lên tiếng phát động phong trào \"Cổ vũ bóng đá có văn hóa\".\nNghề báo.\nCông việc chính của Anh Ngọc không phải là một bình luận viên bóng đá hay phóng viên thể thao, mà là một phóng viên thời sự quốc tế. Tự nhận không được biết tới nhiều trong vai trò nhà báo, Anh Ngọc cho rằng đó là một động lực để thể hiện tốt hơn vai trò của mình.\nTrong một bài viết trên tạp chí \"Người làm báo\" của Hội nhà báo Việt Nam, Anh Ngọc khẳng định nghề báo hiện đại cần phải đa năng và phải tìm tòi trong mọi yếu tố nhỏ nhất của cuộc sống. Hơn hết, anh cũng bày tỏ niềm đam mê được đi và khám phá, cùng với đó động viên những phóng viên trẻ hãy cố gắng thực hiện điều đó để hoàn thiện kỹ năng nghề báo của mình.\nHoạt động xã hội.\nNgoài những hoạt động liên quan tới cộng đồng bóng đá Việt Nam, Anh Ngọc cũng tham gia tích cực vào những hoạt động xã hội khác. Anh có rất nhiều người hâm mộ, trên mạng xã hội và trong cả đời thực, và là một nhà báo có sức ảnh hưởng đến tầng lớp trẻ tuổi. Sau những hiệu ứng từ những cuốn sách \"Xách ba lô lên và đi\" của Huyền Chip, \"Tôi là một con lừa\" của Nguyễn Phương Mai, và \"John đi tìm Hùng\" của John Hùng Trần... 2 cuốn tản văn của Anh Ngọc cũng được đưa vào trào lưu \"văn học du ký\" cùng những tranh luận (và cả tranh cãi) về chủ đề \"Đi\" trong giới trẻ. Cá nhân Anh Ngọc cho rằng mình viết sách dưới ngòi bút của một nhà báo, \"đi như một người phượt nhưng không viết theo kiểu phượt. Tôi không kể lại chuyến hành trình đó một cách tỉ mỉ, mà viết cảm nhận về cuộc sống, con người ở đó\", từ đó, anh rất ủng hộ giới trẻ tích cực \"đi\" để khám phá bản thân và cuộc sống.\nAnh Ngọc cũng là người tham gia trao đổi về tác dụng về việc đọc sách trong buổi trò chuyện \"Quyển sách thay đổi cuộc đời\" cùng Á hậu Ngọc Oanh và cây bút Dâu Tây vào tháng 3 năm 2013. Ngày 25 tháng 8 cùng năm, anh cùng giáo sư Nguyễn Lân Dũng và nhà sử học Dương Trung Quốc cũng tham gia buổi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm thành công mang tên \"Tôi 2.0: Bước đệm tới thành công\" với sinh viên Hà Nội.\nAnh Ngọc cùng Đinh Tiến Dũng chính là 2 người bình luận cho cuộc thi ABU Robocon 2013 diễn ra tại thành phố Đà Nẵng. Anh cũng từng tham gia vào video ca nhạc \"Tôi là ngôi sao\" của ca sĩ Hiền Thục, ra mắt vào giữa năm 2013. Video được sản xuất bởi Chu Minh Vũ, đạo diễn Lê Hà Nguyên. \"Running man\" Vũ Xuân Tiến cũng góp mặt trong video này. Anh Ngọc cũng chính là một trong những người trực tiếp hỗ trợ truyền thông và cố vấn cho Vũ Xuân Tiến sau khi \"Running man\" đột nhiên trở nên nổi tiếng khoảng giữa năm 2013. Kể từ năm 2013, anh cũng tham gia làm thành viên ban cố vấn của chương trình \"Đường lên đỉnh Olympia\".\nĐời tư.\nAnh Ngọc là người hâm mộ nổi tiếng của câu lạc bộ A.C. Milan. Anh thổ lộ ước mơ được tới nước Ý xuất hiện kể từ sau khi được xem World Cup 1990 và kỷ niệm với bài hát \"Un'estate italiana\" trình bày bởi Gianna Nannini và Edoardo Bennato. Thần tượng của anh, không chỉ trên sân cỏ mà còn về lối sống và đạo đức, là cựu danh thủ người Hà Lan, Marco van Basten. Ngoài đội tuyển Ý, anh còn ưa thích các đội tuyển Argentina, Hy Lạp và Hoa Kỳ. Anh cũng là một người hâm mộ câu lạc bộ Thể Công.\nAnh Ngọc kết hôn năm 2002 với Nguyễn Thanh Thủy, một phóng viên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội. Họ có một người con gái là Anh Thư, sinh năm 2003, và sở hữu một căn nhà nhỏ tại phố Hào Nam, Hà Nội. Sau này, cặp vợ chồng chuyển đến sinh sống tại khu chung cư Vinhomes Ocean Park (Gia Lâm, Hà Nội). Anh Thư là cổ động viên cuồng nhiệt của câu lạc bộ A.S. Roma và danh thủ Francesco Totti. \"Anh Thư\" (và \"Thư Anh\") cũng là một trong những bút danh khác của Anh Ngọc trong những bài viết ngoài chủ đề bóng đá tại một vài ấn phẩm.\nNgoài niềm đam mê bóng đá và sở thích đi du lịch, Anh Ngọc cũng rất thích đọc, trong đó đặc biệt quan tâm tới Alexandre Dumas, Victor Hugo, Emile Zola và Lev Tolstoy. Nhân vật yêu thích của anh khi còn nhỏ thanh tra Corrado Cattani trong serie phim \"Bạch tuộc\" (1986) và cuốn sách \"Những tấm lòng cao cả\" của Edmondo De Amicis. Anh cũng ưa thích điện ảnh, thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ. Ngoài Van Basten, Anh Ngọc còn thần tượng vị tướng Napoléon Bonaparte. Về âm nhạc, anh yêu thích những nghệ sĩ như Frédéric Chopin, Wolfgang Amadeus Mozart, Richard Clayderman, Ennio Morricone, Queen, Michael Jackson, Whitney Houston và The Beatles.\nCũng giống với rất nhiều bình luận viên nổi tiếng khác, Anh Ngọc có thú vui là chơi và thu thập thông tin từ những game bóng đá điện tử như \"Championship Manager\" (tiền thân của \"Football Manager\") hay \"Pro Evolution Soccer\".", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (; ) là phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim do Victor Vũ đạo diễn, được hợp tác sản xuất bởi Galaxy Media & Entertainment, Saigon Concert, PS Việt Nam, Hãng phim Phương Nam & Truyền hình K+ với sự đầu tư của Cục Điện ảnh Việt Nam. Hiện phim đang được chiếu trên nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.\n\"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" được Fortissimo Films mua bản quyền phát hành quốc tế và được công chiếu tại liên hoan phim Cannes 2015. Bộ phim được ra rạp vào ngày 2 tháng 10, 2015. và kết thúc khởi chiếu vào tháng 2 năm 2017\nNội dung.\nPhim là một câu chuyện đầy cảm xúc về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời…\nCâu chuyện là những trang nhật ký về cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều. Thiều đang là học sinh lớp 7 sống ở một vùng quê nghèo, cùng với người em trai tên Tường. Tường là một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung, rất yêu mến anh trai và thích chơi đùa với nhiều loài động vật gồm cả sâu bọ. Cậu bé sống nội tâm, ham đọc sách và rất say mê những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là truyện Cóc tía, chính vì vậy mà cậu nuôi nấng một con cóc dưới gầm giường và đặt tên cho nó là \"Cu Cậu\". Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, đã nhiều lần vô tình để em mình chịu tai bay vạ gió sau những trò nghịch phá do chính mình bày ra. Thiều cũng nhiều lần tỏ ra hẹp hòi, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn rất thương em mình và là một người hào hiệp. Hai anh em Thiều và Tường thả hồn vào những trò chơi dân gian bình dị và nhiều kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của những đứa trẻ làng quê. Truyện cũng mở rộng ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong làng, gồm cả người thân của mình và những bạn học cùng lớp. Ba của Thiều được miêu tả là một người giảo hoạt và được dân làng yêu mến nhưng hay nổi nóng và thường xuyên đánh đòn hai anh em vì nhiều lý do, trong khi mẹ cậu tỏ ra dịu dàng với các con hơn dù bà cũng không tránh khỏi việc trách mắng khi các con làm điều sai quấy.\nChú Đàn là em trai của ba Thiều, bị mất một tay do tai nạn nhưng vẫn luôn yêu đời và thường kể chuyện ma cho hai anh em Thiều và Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú Đàn yêu chị Vinh, một cô gái cùng làng và là con của thầy giáo chủ nhiệm lớp của Thiều, người thầy mà lúc nào cũng làm cho Thiều sợ chết khiếp. Một bạn học của Thiều là Sơn, lớn hơn cậu ba tuổi nhưng học lực rất kém và phải ở lại lớp liên tục. Sơn được miêu tả là một đứa đô con, suốt ngày phá làng phá xóm và có những cử chỉ và lời nói khiếm nhã, thô tục. Về sau, Thiều nhận ra mình đã có tình cảm với Mận, một cô bạn cùng lớp. Mận xinh xắn và ngây thơ nhưng học không được tốt do phải chăm sóc người cha mắc căn bệnh lạ, đang bị mẹ cô bé giam trong căn chòi. Bí mật này chỉ có Thiều và Tường biết, và hai anh em đã phải ẩu đả với Sơn chỉ để bảo vệ Mận trước những âm mưu đen tối.\nBiến cố xảy ra khi căn chòi nhà Mận bốc cháy và mẹ cô bé bị công an bắt do đã giam cầm chồng, khiến ông bị phỏng đoán là đã chết cháy sau khi người ta phát hiện ra có xương lẫn trong đám tro. Chịu liên tiếp nhiều cú sốc lớn, Mận suy sụp hoàn toàn. Gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Mận biết được ba mình còn sống và mẹ sẽ được thả trong một ngày không xa. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận lại khiến cho cơn ghen tức trong lòng Thiều tăng lên theo thời gian. Cậu đã không can ngăn khi con cóc Tường nuôi bị bắt đi làm thịt, điều mà khiến Thiều ray rứt mãi bởi chứng kiến nỗi buồn đau của Tường dù cậu bé không hề biết là do anh mình tiếp tay. Mùa lũ đến, cả làng Thiều chìm trong nước, khi nước rút đi và để lại nhiều hậu quả tiêu cực như đói kém, mất mùa, Thiều, Tường và Mận mới phát hiện ra chị Vinh và chú Đàn đã lập ra kế hoạch cùng nhau bỏ trốn để thoát khỏi sự ngăn cấm của gia đình. Cùng lúc đó, sự hẹp hòi và đố kỵ trong lòng Thiều đã nhiều đến mức trong một phút hiểu lầm cậu đã vô tình khiến em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Thiều càng ân hận hơn khi nghe chính miệng Tường kể rằng người mà Mận thích chơi cùng chính là cậu.\nMận được mẹ đón đi tìm cha, trong khi Thiều ở lại chìm trong nuối tiếc và cắn rứt mà tận tình chăm sóc cho Tường. Cả hai anh em đã giấu ba mẹ nguyên nhân thật sự gây ra cảnh ngộ rủi ro của Tường. Một hôm Thiều mừng rỡ khi thấy Tường đã ngồi dậy được và nghe em trai mình kể về một nàng công chúa không biết từ đâu đến đã trở thành nguồn động viên tinh thần để Tường hồi phục. Quá hiếu kỳ, trong một lần tình cờ phát hiện ra công chúa và lén lút bám theo, Thiều vô cùng bất ngờ khi biết nàng công chúa ấy thực ra là Nhi, con một người mổ lợn trong làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau một vụ tai nạn ba năm trước, nhưng hóa ra cô bé vẫn sống nhưng có vấn đề về thần kinh, khiến cô tự xem mình là công chúa và cha mình là đức vua, người mà cũng vì thương con nên đã giả vờ diễn trò cùng cô bé. Thiều kể lại bí mật này với Tường lúc này đã đứng dậy được, bởi vì Tường và Nhi từng chơi rất thân với nhau. Sự nôn nóng được gặp lại Nhi thôi thúc Tường ra sức tập đi lại. Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ con trong làng trêu chọc, Tường đã chạy hết sức bằng chính đôi chân mình đến bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nghĩa cử này khiến cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.\nSản xuất và phát hành.\nKịch bản bộ phim được Hãng phim Phương Nam đặt hàng đạo diễn Việt Linh viết và đã được hoàn thành trong năm 2013. Kịch bản của bộ phim do Việt Linh, Victor Vũ và Đoàn Nhật Nam chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ phim đã được dự kiến bấm máy vào cuối năm 2014, với các cảnh quay chủ yếu ở Phú Yên, với một số phân đoạn ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có tên \"Hoa vàng trên cỏ xanh\", đây là bộ phim đầu tiên của Victor Vũ không do chính anh viết kịch bản. Kinh phí của bộ phim khoảng gần 20 tỷ đồng. Đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất theo mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, phải 3 năm sau đó mới có bộ phim thứ hai là Thạch Thảo tiếp tục mô hình này.\nNhững hình ảnh đầu tiên trong quá trình quay phim đã được đăng tải trên trang Facebook của đạo diễn Victor Vũ. Ngày 8 tháng 5, 2015, một video trailer dài 2 phút 19 giây được phát tán trên mạng, thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết đây chỉ là trailer nháp và kêu gọi các trang mạng gỡ bỏ đoạn video này. Ngay sau đó, vào ngày 11 tháng 5, trailer chính thức của bộ phim đã được tung ra. Video hậu trường phim cũng được đăng tải vào ngày 19 tháng 6, bật mí nhiều quá trình thực hiện các cảnh quay. Đoạn phim thu hút hàng trăm ngàn lượt xem và chia sẻ.\nTại Việt Nam, bộ phim chính thức khởi chiếu từ ngày 2/10/2015. Tuy nhiên, ngay từ ngày 30 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" đã có hơn 200 suất chiếu sớm trên toàn quốc. Bộ phim sẽ được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng 8 năm 2017.\nĐón nhận.\nDoanh thu.\nBộ phim được coi là một hiện tượng về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, thu hút rất đông khán giả. 2 ngày chiếu sớm (30.09 & 01.10) với các suất đặc biệt trên toàn quốc cũng đều kín chỗ và đỉnh điểm là sự bùng nổ vào ngày công chiếu đầu tiên (02.10). Tính đến thời điểm 02.10, tổng cộng hơn 110.000 vé được bán ra trên toàn quốc.\nTính đến hết ngày 4 tháng 10, bộ phim đã thu về gần 23 tỷ đồng tiền vé, từ 350.000 lượt vé. Sau hai tuần công chiếu, bộ phim thu hút 850.000 lượt khán giả và mang về 59,48 tỷ đồng. Theo The Hollywood Reporter, bộ phim đã thu về 3,5 triệu USD sau một tháng công chiếu.\nLý giải về việc phim được đón nhận nồng nhiệt, đại diện nhà sản xuất và đơn vị phát hành cho rằng \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" thành công khi chạm được đến cảm xúc khán giả. \"Trong đoạn video ngắn ghi lại những phản ứng của khán giả tại rạp, có người đã rơm rớm nước mắt, có người thổn thức và bật khóc khi bất chợt gặp lại hình ảnh chính mình của ngày xưa. Bên cạnh đó cũng có những tiếng cười sảng khoái trước các tình huống đáng yêu, ngô nghê của những đứa trẻ. Có thể nói, lâu lắm rồi mới có một bộ phim chạm vào được trái tim của khán giả nhiều đến vậy\", một đại diện phát hành nói. Theo ý kiến của một đạo diễn hình ảnh, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" còn ấn tượng bởi những góc quay đẹp.\nGiải thưởng.\nTrong lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Silk Road 2015 tại Phúc Châu, Trung Quốc diễn ra vào đêm 26 tháng 9, \"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh\" giành giải \"Phim hay nhất\" do Thành Long trao tặng.\nNgày 5 tháng 12, bộ phim giành giải thưởng tại bốn hạng mục của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, trong đó có giải thưởng cao quý nhất là giải Bông sen vàng.", "Nguyễn Ngọc Tương (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.\nThân thế.\nÔng sinh ngày 22 tháng 6 năm 1881 (tức ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Cha ông là cụ Nguyễn Ngọc Đẫu, mẹ ông là bà Võ Thị Sót.\nDo cha mất sớm khi ông mới 13 tháng tuổi, tuổi thơ lớn lên nhờ sự nuôi dạy của ông nội Nguyễn Đức Loan và người cô ruột. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại nhà, do ông nội dạy. Lên 14 tuổi, ông vào học lớp 3 trường tỉnh, 17 tuổi thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho (\"Collège de My Tho\"). Năm 19 tuổi, ông lên học tại trường Collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).\nSự nghiệp đời.\nSau khi tốt nghiệp Tú tài, năm 21 tuổi, ông thi đậu ngạch Thơ ký, được bổ dụng làm việc tại Dinh Thượng Thư Sài Gòn một năm, rồi về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, ông tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...).\nĐến cuối năm 1919, ông thi đậu ngạch Tri huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên. Năm 1924, ông được đổi làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, ông được thăng ngạch Tri phủ và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp năm Ất Sửu).\nNăm 1927, ông được đổi sang làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Ông tiếp tục làm công chức cho đến năm 1930 thì từ quan để chuyên tâm lo cho việc đạo. Ông được chính quyền thực dân cho trí sĩ và phong hàm Đốc phủ sứ.\nTrong suốt thời gian làm công chức, ông được đánh giá là một quan cai trị thanh liêm và có nhiều công đức với địa phương. Ông thường tổ chức khai hoang, mở trường, lập chợ... được dân chúng yêu thương. Đặc biệt, thời gian làm chủ quận Xuyên Mộc, cho ông từng đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp cho công cuộc khai phá vùng đất này, bấy giờ hãy còn rất hoang sơ. Ông được dân chúng ca tụng \"Ông Phủ Ba hiền như Phật, Ông Phủ Ba thật từ bi\" cũng như lưu lại nhiều giai thoại về ông.\nSự nghiệp đạo.\nCông tích khai đạo.\nThời gian ông làm chủ quận Cần Giuộc, khoảng hạ tuần tháng 12 năm Ất Sửu, sau một thời gian tìm hiểu Đạo Cao Đài ông xin nhập môn vào Đạo. Là một nhân sĩ trí thức yêu nước, ưu đời mẫn thế, ông trở thành một tín đồ tích cực truyền giảng giáo lý Cao Đài, đóng góp đặc biệt trong việc phát triển nhanh chóng tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ sơ khai. Ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần, ông được phong phẩm Phối Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Tương Thanh, đến ngày 3 tháng 7 năm Bính Dần ông được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.\nĐể thuận tiện cho việc xây dựng Tòa Thánh, năm 1927, ông cùng bà Phối sư Lâm Ngọc Thanh được Hội Thánh Cao Đài giao đứng bộ tài sản, đất đai của các tín đồ quyên góp cho Đạo. Trong thời gian xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh cũng cho xây dựng một biệt xá có lầu bằng cây lợp tranh, gần Đại lộ Bình Dương Đạo, để dành làm nơi cư ngụ cho ông để tiện việc theo dõi thi công.\nTuy nhiên, thời gian này, ông vẫn còn làm công chức. Mãi đến tháng 2 năm Tân Mùi (1930), ông mới chính thức phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Điều thứ nhì, đã chỉ định ông làm Chánh Phối Sư, kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.\nTheo sự phân công của Hội Thánh, Quyền Giáo tông Lê Văn Trung có gửi một văn bản gửi đến Thống đốc Nam Kỳ với nội dung giao cho ông Nguyễn Ngọc Tương làm chấp chưởng, phụ trách giao thiệp với chánh phủ và lo xin phép khai thác các Thánh thất. Bản thân ông cũng gửi một bức thơ cho Thống đốc Nam Kỳ xác nhận việc này, do cả quyền Giáo tông Lê Văn Trung và ông Lê Bá Trang ký tên xác nhận. Với vai trò là chưởng quản (đại diện) Hội Thánh, văn bản đầu tiên của ông (số 1, gởi đến các Thánh thất) ban hành vào ngày 2 tháng 2 năm 1931.\nPhụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh.\nTrong thời gian phụng sự tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934), ông đã thực hiện nhiều công việc truyền bá đạo, lập nhà Dưỡng nhi nuôi 94 trò nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mở 4 lớp dạy chữ và Đạo Lý Phổ Thông, tổ chức 1 lớp dạy hàng chức sắc ở làm việc tại Tòa Thánh... Ông cũng cho lập Y viện – Dưỡng đường tại Tòa Thánh để có chỗ cho người làm công quả khi ốm đau, tổ chức thành lập nhiều cơ sở như: Trại hòm, trại cưa, trai mộc, sở đương mây, sở làm củi,… để người về Tòa Thánh đều có việc làm công quả, và phục vụ mọi nhu cầu của Tòa Thánh được tương đối, ít tốn kém. Các cơ sở này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.\nÔng còn cho khai phá đất hoang, mở mang 9 cơ sở hàng bông rau cải, cung cấp thức ăn hằng ngày cho Tòa Thánh, tổ chức các tín đồ làm Phước điền, để có chỗ công quả và tài chính, lương thực cho bổn Đạo\nBan Chỉnh Đạo tại Thánh thất An Hội.\nNgay từ trước khi quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các chức sắc cao cấp, dẫn đến việc ly khai và hình thành nhiều chi phái độc lập. Bản thân ông, với vai trò là một chức sắc lo việc giáo đạo, ông nhiều lần thuyết phục các chức sắc cao cấp tránh việc ly khai, nhưng không thành công. Ông mới rời khỏi Tây Ninh và tu ẩn tại núi Kỳ Vân, Đất Đỏ (Bà Ria). Sau khi nhiều phái đoàn nhơn sanh đến gặp ông mời ông ra lo lại việc Đạo, ông trở lại hành đạo vào ngày 24 tháng 7 năm 1934 và lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre). Sau đó ông cùng với ông Đầu sư Lê Bá Trang tổ chức một Đại hội ngày 14 tháng 10 năm Giáp Tuất (tức 20 tháng 11 năm 1934) tại Bến Tre, có sự có mặt các đại diện của Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam phần (trên tổng số 135 Họ Đạo có trong nước lúc đó) và chừng 1300 người dự tính. Đại hội táng thành chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cữ. Bấy giờ, Ban Chỉnh Đạo vẫn tự xem là một tổ chức thuộc Hội Thánh Cao Đài Nguyên Thủy tại Tây Ninh. Tòa Thánh Tây Ninh tất nhiên không nhìn nhận Ban Chỉnh Đạo.\nBan Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng, chiều tái nhóm thì được điện-tín quyền giáo tông Lê Văn Trung qua đời. Tiếp theo đó tại Tây Ninh, Hộ pháp Phạm Công Tắc và Đức Lý Giáo Tông lập Nghị Định ngày 12 tháng 12 năm 1934 xem các nhóm ly khai khỏi Đạo gốc là Bàng Môn Tả Đạo. Sự hòa hiệp với Tòa Thánh Tây Ninh không giải quyết được, đưa đến quyết định của Đại hội Ban Chỉnh Đạo ngày 18 tháng 1 năm Giáp Tuất (tức 21 tháng 12 năm 1934) tổ chức Hội Vạn Linh từ 8 đến 11 tháng 1 năm Ất Hợi (11 đến 14 tháng 2 năm 1935) tại Thánh thất An Hội Bến Tre để thành lập Hội Thánh để hành Đạo. Hội Vạn Linh công cử Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương lên phẩm Giáo tông để cầm giếng mối Đạo. Tuy chưa bao giờ tuyên bố ly khai, nhưng trên thực tế, các tín đồ tu tập theo quan điểm Ban Chỉnh Đạo đã hình thành tổ chức một Hội Thánh Cao Đài riêng biệt, sau nầy được gọi là Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo để phân biệt với các Hội Thánh khác.\nTừ khi trừ quan hành Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh song song với công việc phổ độ, hành đạo ông rất chú trọng vào phương pháp tu tập, đặc biệt là pháp môn tu tịnh. Đặc biệt, trong thời gian từ 1934 đến 1942, ông qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày. Đó là phương châm hành đạo \"tiêu tích cực hóa hợp\" (vừa hành đạo, vừa tịnh luyện) mà ông hằng dạy trong mỗi khóa hạnh đường dành cho chức sắc, tín đồ. Các kỳ tịnh của ông được tín đồ đặt các tên gọi riêng như \"Bá nhựt trúc cơ\", \"Thập nhị hoài thai\", \"Tam niên nhũ bộ\", \"Cửu cửu thần du\". Kỳ đại tịnh cuối cùng của ông từ 22 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1942) đến ngày ông \"ra tịnh\" vào giờ Tý rạng ngày Rằm tháng 5 năm Tân Mão (tức 18 tháng 6 năm 1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày, được gọi là \"Cửu niên diện bích\".\nSau khi ông qua đời, liên đài của ông an vị trước Thánh thất An Hội, được xem là Tòa Thánh tạm cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo .\nVinh danh.\nTrong thời gian sau năm 1945 đến khi qua đời, ông nhiều lần biểu lộ thái độ ủng hộ phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Minh. Do ảnh hưởng của ông, các tín đồ Ban Chỉnh Đạo hầu hết đều bất hợp tác khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, thậm chí còn tham gia tích cực kháng chiến, đặc biệt là 2 người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt.\nThạc sĩ Lữ Văn Châu, một tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, từng phát biểu về ông như sau: \"Nói chung, phần thế Đạo, Người đã lưu lại tiếng thơm nơi chốn quan trường và gia tộc. Ngày nay, các huyện Châu Thành, Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc còn lưu lại nhiều huyền thọai rất tốt trong những năm tháng Người đảm nhiệm vai trò Chủ quận. Có thể nói Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương có cái nhìn rất sâu, rất xa về tương lai đất nước, dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, Người đã lập ra Hội buôn An Nam, Hội khuyến Văn… để nâng cao dân trí và tạo lập hạnh phúc cho dân sinh. Tuy gặp lúc nước mất chủ qưyền, làm quan thời vận nước suy vong, nhưng Người đã khơi mạch sống cho các con, dạy con biết sống vì đời, hiến dâng đời mình để giữ gìn độc lập, tự do xây dựng quê hương. Mặt thế Đạo của gia đình Nguyễn Ngọc Tương được người đời trân trọng.Nhà nước đang xem xét công nhận di tích lịch sử Quốc gia ngôi Tổ Miếu do các con Người dâng hiến cho Đạo. Công đức xã hội của Anh Cả theo thời gian được chứng minh là bậc hiền tài của đất nước.\"\nGhi nhận những đóng góp của ông, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Huân chương Kháng chiến. Cuộc đời ông đã được nhà văn Trầm Hương dựng lại thành tiểu thuyết \"Đêm trắng của Đức Giáo tông\".\nNgôi nhà Nguyễn Từ Đường của ông nằm tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, hiện đang được Bảo tàng Bến Tre làm hồ sơ khoa học xin xếp hạng Nguyễn Từ đường là di tích cấp quốc gia về nơi sống và lớn lên, nơi lưu giữ nhiều kỉ vật của ông Nguyễn Ngọc Tương, và các con ông. Ngoài ra còn có 3 sắc phong, 12 chiếu chỉ, 245 quyển sách tiếng Pháp loại quý...\nGia đình.\nÔng từng lập gia đình 2 lần. Năm 1902, ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài (1886–1906), hạ sinh được 2 người con là Nguyễn Thị Tú (1903–1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906–1951). Tuy nhiên, bà mất sớm sau 4 năm chung sống.\nVài năm sau, ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu (1884-1937) và có thêm 5 người con, gồm 3 trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966), Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952) và 2 gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2006) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).\nLà một nhân sĩ trí thức, có địa vị xã hội, dưới sự dạy dỗ của ông, các con ông đều học rất giỏi, là những nhân tài đóng góp cho đất nước.\nCả ba con trai ông là Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt đều đi du học ở Pháp và đậu bằng kỹ sư Pháp. Ba ông đều về nước khi học và có chút kinh nghiệm bên Pháp. Hai ông Nhựt, Bích tham gia phong trào độc lập dân tộc do Việt Minh lãnh đạo và giữ những vị trí cao.\nÔng Nguyễn Ngọc Bích từng tốt nghiệp trường kỹ sư Bách Khoa (\"École Polytechnique\") và trường kỹ sư cầu Cống (\"École Nationale des Ponts et Chaussées\") tại Paris. Muốn vào học các trường kỹ sư như các trường đó và trường \"École Centrale des Arts et Manufactures\", phải qua một cuộc thi tuyễn rất khó, đạc biệt là trường École Polytechnique vì chỉ dám thi tuyển vào trường nầy sinh viên ưu tú nhất của nước Pháp. Trong lúc học, sinh viên ở nội trú, mặc quân phục và khi rời trường đương nhiên là sĩ quan của quân đội Pháp và phải vào quân đội hoặc phục vụ ít nhứt 10 năm tại một cơ quan chánh phủ (sau nầy có thể trả lại chi phí học nếu muốn tránh). Vào đầu các năm 1940, ông về nước tham gia Việt Minh và được cử làm Khu bộ phó Khu 9. Ông có tiếng là \"kỹ sư phá cầu\" sau khi phá nhiều cầu để chận tiến binh của quân đội Pháp, trong đó có cầu đúc Cai Răng (Cần Thơ) và Nhu Gia (Sốc Trăng) để chận quân đội của tướng Pháp Valluy (Cai Răng) và Nyo (Nhu Gia). Đầu năm 1946, ông bị quân Pháp bắt gần Sài Gòn, tại địa điểm ông có hẹn với một người sẽ dẫn đường ông đến một nơi ông được lịnh phải đến. Ông bị kết án tử hình bởi tòa án quân đội của Pháp vì ông được xem là \"sĩ quan đào ngủ\". Các sỉ quan tốt nghiệp trường École Polytechnique đang phục vụ tại Việt Nam lúc đó mới giúp ông bằng cách ghi tên ông trong danh sách trao đổi tù binh với Việt Minh, và tổ chức máy bay đài ông về Pháp để ông không thể tiếp tục dự kháng chiến chống họ. Sau khi về Pháp, ông theo học trường Y khoa và trở thành Bác sĩ. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại nghiên cứu về bịnh ung thư (\"cancer\"), và dạy môn Vật Lý Y khoa tại trường Y Khoa Paris. Cùng với một số trí thức Việt Nam, ông lập nhà xuất bản Minh Tân tại Paris để phát hành sách cho Việt Nam như « \"Danh từ khoa học\" » (1951 và 1955), « \"Toán Pháp, lớp nhì va lớp sơ đẳng tiểu học »\" (1953), « \"Chinh phụ ngâm\" », « \"La sơn phu tử »\",v.v. của Hoàn Xuân Hản, « \"Phénoménologie et matérialisme dialectique »\" của Trần Đức Thảo, « \"Hán Việt tự điển » và « Pháp Việt tự điển »\" của Đào Duy Anh\"...\"Cuối đời, ông sống với người bạn gái là Henriette Bùi, con gái ông Bùi Quang Chiêu, nữ bác sĩ bản xứ đầu tiên của Đông Dương, và một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của Pháp.\nÔng Nguyễn Ngọc Nhựt từ tốt nghiệp Kỹ sư tạo tác trường \"École Centrale des Arts et Mahufactures de Paris\", còn gọi tắt là \"École Centrale de Paris\", lấy vợ người Pháp. Đầu năm 1946, ông tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang sang thăm và tìm cách thương lượng với chính phủ Pháp về quy chế độc lập cho Việt Nam. Bị thuyết phục trước phong thái của vị chủ tịch và lời chỉ dẫn của người anh trai Nguyễn Ngọc Bích (bấy giờ đã bị đài sống ở Pháp), ông quyết định về nước với sự giúp đỡ của người anh nầy. Sau khi về nước, ông tham gia kháng chiến, trở thành kỹ sư quân khí. Ông cũng được bầu làm Phó chưởng quản Hội Thánh Cao Đài 12 phái thống nhứt, quy hợp các hệ phái Cao Đài kháng chiến. Năm 1948, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, phụ trách công tác thương binh và xã hội, trở thành Ủy viên trẻ nhất trong Ủy ban. Năm 1949, ông bị quân Pháp bắt. Không như anh mình, ông bị cầm tù và tra tấn và qua đời năm 1952, lúc vừa tròn 34 tuổi. Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận Liệt sĩ và tuy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhứt\nBà Nguyễn Thị Nguyệt về sau trở thành Nữ Đầu Sư của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo." ]
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false