question
stringlengths 31
360
| answer
stringlengths 0
39.1k
|
---|---|
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH | Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn trong quá trình tố tụng, thì: Nguồn gốc nhà đất số 637A Âu Cơ (số cũ 239) phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú (thuộc một phần thửa 15, 20 tờ bản đồ số 5, BĐĐC năm 2005) là của ông Lê Văn Chọi (mất năm 1992) và bà Nguyễn Thị Cớ (mất năm 1988) tạo lập từ trước năm 1975. Ông Chọi và bà Cớ chết không để lại di chúc. Ngày 21/9/1992, các anh chị em của nguyên đơn đã ký giấy cam kết nhất trí nhường cho nguyên đơn hưởng trọn căn nhà 239 Âu Cơ này. Nguyên đơn đã quản lý, sử dụng nhà đất ổn định và có kê khai đăng ký sử dụng đất năm 1999 với diện tích ước lượng là 712m2. Tuy nhiên vào năm 2016, khi nguyên đơn nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất, thì phía bị đơn đã gửi đơn ngăn cản và từ đó xảy ra tranh chấp giữa 2 bên. Nay nguyên đơn yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất đối với nhà đất nêu trên, theo Bản vẽ hiện trạng vị trí số 125512/TTĐĐBĐ-VPTT ngày 28/6/2018 do Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập theo yêu cầu của Tòa án, với diện tích đất là 788,6m2. Ngoài ra, theo đơn khởi kiện bổ sung, nguyên đơn còn yêu cầu hủy bỏ phần nội dung “lối đi chung” thể hiện trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, hồ sơ gốc số 12822/2002 ngày 02/5/2002 do UBND Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Vương Hữu Thành, bà Lê Thị Đặng, đã được chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận Tân Phú cập nhật thay đổi sang tên ông VHT ngày 21/8/2017, vì ông cho rằng phần lối đi này thuộc quyền sử dụng 3 của ông. Tuy nhiên, sau đó nguyên đơn chỉ yêu cầu điều chỉnh “lối đi chung” thành “lối đi nhờ”. - Các bị đơn: Ông LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL, bà Lê Thị Nga không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng thời họ có đơn yêu cầu phản tố: yêu cầu công nhận toàn bộ nhà đất tranh chấp là di sản của ông Lê Văn Chọi và bà Nguyễn Thị Cớ. Ngoài ra, bị đơn còn yêu cầu phản tố bổ sung: chia thừa kế đối với căn nhà 633/7 Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú (nguyên đơn đã bán). Tuy nhiên tại buổi hòa giải ngày 27/02/2020, đại diện bị đơn đã rút lại yêu cầu phản tố bổ sung. Bị đơn cũng thống nhất với diện tích đất thể hiện theo Bản vẽ hiện trạng vị trí số 125512/TTĐĐBĐ-VPTT ngày 28/6/2018 do Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập, tự nguyện giao cho nguyên đơn quản lý, sử dụng căn nhà số 637A Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú với diện tích 128m2 theo như Giấy cam kết ngày 21/9/1992 và Giấy phép sửa chữa nhà ngày 28/01/1957. Như vậy, tổng diện tích đất tranh chấp còn lại là 660,6m2, bị đơn yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật, cho 07 người con gồm: Ông LBP, LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL, bà Lê Thị Nga, Lê Thị Đặng, Lê Thị Huệ (bà Huệ chết sau ông Chọi, bà Cớ. Bà Huệ có 04 con là Nguyễn Lê Tùng, Nguyễn L T H, Nguyễn L T2, Nguyễn LT Th), chia bằng giá trị quyền sử dụng đất dựa theo kết quả định giá của Hội đồng định giá do Tòa án lập ngày 13/5/2019 - mỗi thừa kế được hưởng 1/7 giá trị quyền sử dụng đất. - Theo lời trình bày của ông VHT, hiện nay ông là chủ sở hữu căn nhà 637C Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú. Trước đây nhà này dùng lối đi chung với nhà 637B của bà LTL, nhưng từ khi bà Lan bán nhà cho người khác (năm 2018), họ đã bít lối đi chung, nên gia đình ông đã sử dụng lối đi bên phần đất do nguyên đơn đang quản lý, sử dụng. Ông đã được Nhà nước đã cấp Giấy chứng nhận vào năm 2002 và xác nhận đây là lối đi duy nhất vào nhà của ông, vì vậy ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn. - Bà Lê Thị Đặng do ông VHT đại diện theo ủy quyền cũng thống nhất với yêu cầu phản tố của bị đơn. - Bà Nguyễn L T H, Nguyễn LT Th, ông Nguyễn Lê Tùng và Nguyễn L T2 là con của bà Lê Thị Huệ có lời khai thừa nhận việc cho nhà đất theo Giấy cam kết ngày 21/9/1992 và không tranh chấp gì trong vụ án này, đồng thời xin xét xử vắng mặt. - Bà PTH (vợ nguyên đơn) cũng thống nhất với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và xin xét xử vắng mặt. - Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban nhân dân quận Tân Phú đều xác định Giấy chứng nhận số hồ sơ gốc 12822/2002 ngày 4 |
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH | Tại phiên toà phúc thẩm: Ông Nguyễn Hồng Hải đại diện cho ông LVB trình bày: Đề nghị sửa án sơ thẩm, bác yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn. 5 Ông LVB là bị đơn, đồng thời đại diện cho ông Lê Thanh Dũng, và bà Lê Thị Nga trình bày: Nguồn gốc nhà đất số 637A Âu Cơ (số cũ 239) phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú (thuộc một phần thửa 15, 20 tờ bản đồ số 5, BĐĐC năm 2005) với diện tích 128m2 và diện tích đất khuôn viên là 788,6m2 của ông Lê Văn Chọi (mất năm 1992) và bà Nguyễn Thị Cớ (mất năm 1988) tạo lập từ trước năm 1975. Ông Chọi và bà Cớ chết không để lại di chúc. Ông Chọi, bà Cớ có bảy người con gồm: ÔngLBP, ông LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL và bà Lê Thị Nga, bà Lê Thị Đặng, bà Lê Thị Huệ. Giấy cam kết ngày 21/9/1992 có nội dung chỉ để lại căn nhà diện tích 128m2. Vì vậy nay các ông bà đồng ý cho ông Phương hưởng căn nhà diện tích 128m2 dùng vào mục đích thờ cúng, không được mua bán sang nhượng. Phần diện tích đất 660,6m2 phải chia cho các đồng thừa kế. Ông thừa nhận các con ông Chọi bà Cớ đều được cha mẹ chia đất nhà. Tuy nhiên phần nhà đất các anh chị em khác được hưởng có diện tích nhỏ hơn nhiều so với phần ông LBP được hưởng. Đề nghị chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn. Ông NHC, đại diện cho bà LTL trình bày: Giấy ủy quyền ngày 26/4/2022 của các anh chị em ông Phương có mục đích để ông Phương được trọn quyền giải quyết về việc nhà và đất của cha mẹ để lại trong vụ án mà ông Phương đang tranh chấp với bà Nguyễn Thị Kim Phụng tại Tòa án Tân Phú. Bản kê khai nhà và đất năm 1999 là ông Phương lén lút kê khai không anh chị em nào biết và không có các hộ liền kề cùng sinh sống trên cùng thửa đất và trong cùng khuôn viên nhà đất ký giáp ranh. |
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH | 02/5/2002 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Vương Hữu Thành, bà Lê Thị Đặng là đúng thực tế, “lối đi chung” thể hiện trên Giấy chứng nhận này là lối đi duy nhất để kết nối căn nhà với đường giao thông hiện hữu, nếu hủy lối đi này, sẽ không còn lối đi ra đường giao thông hiện hữu. Các bên đương sự thống nhất diện tích đất tranh chấp là 788,6m2 theo Bản đồ hiện trạng vị trí số 125512/TTĐĐBĐ ngày 28/6/2018 do Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập, thuộc MPT (15, 20), tờ bản đồ số 5 phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, đồng thời thống nhất với kết quả định giá tài sản tranh chấp tại biên bản ngày 13/5/2019. |
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH | Tại Bản án dân sự sơ thẩm Bản án dân sự sơ thẩm số 854/2021/DS-ST ngày 17 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh đã quyết định: 1. Đình chỉ một phần yêu cầu của nguyên đơn- ông LBP, về việc yêu cầu điều chỉnh “lối đi chung” trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, hồ sơ gốc số 12822/2002 ngày 02/5/2002 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Vương Hữu Thành, bà Lê Thị Đặng, đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận Tân Phú cập nhật sang tên ông VHT ngày 21/8/2017. 2. Chấp một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: 2.1 Công nhận căn nhà số 637A Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú và phần đất khuôn viên có diện tích 788,6m2 thuộc MPT (15, 20), tờ bản đồ số 5 phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Bản đồ hiện trạng vị trí số 125512/TTĐĐBĐ ngày 28/6/2018 do Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập, là tài sản thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của ông LBP. 2.2 Ông LBP được quyền liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. 3. Không chấp nhận yêu cầu của các bị đơn: ông LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL, bà Lê Thị Nga về việc yêu cầu chia thừa kế (chia tài sản chung) mỗi người 1/7 giá trị quyền sử dụng đất của diện tích đất 660,6m2, theo Bản đồ hiện trạng vị trí số 125512/TTĐĐBĐ do Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 28/6/2018. Ngoài ra án còn tuyên trách nhiệm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo. Ngày 23/6/2021 ông LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL và bà Lê Thị Nga kháng cáo bản án sơ thẩm. |
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH | Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đồng bị đơn: Nhà và đất diện tích 788,6 m2 đất tại địa chỉ: Số 637A Âu Cơ, Phường Hòa Thạnh, Quận Tân Phú là di sản thửa kế hợp pháp của ông Lê Văn Chọi và bà Nguyễn Thị Cớ để lại cho các đồng thừa kế. Giữa các đồng thừa kế đã có văn bản cam kết hưởng nhà của nhà của cha mẹ để lại ký vào 21/9/1992; trong đó ghi rõ: “ ...Cho anh LBP được hưởng trọn nhà và số đồ đạc cùng vật dụng trong nhà”. Tuy vậy, cái “nhà” được đề cập trong văn bản cam kết 21/9/1992 chỉ là ngôi nhà có diện tích đất xây dựng 128m2, không bao gồm diện tích đất xung quanh. Chính bởi lẽ đó, phần diện tích đất 660,6m2 xung quanh cần được xem là di sản thửa kế chưa chia. Mặc dù văn bản cam kết không có đề cập đến nội dung giới hạn quyền của người nhận trong việc “hưởng nhà” này nhưng tại văn bản “Đơn khởi kiện” ngày 28/9/2017, chính nguyên đơn là ông Phương đã tự xác nhận rằng: “Năm 1992, cha tôi mất, các anh chị em trong gia đình cùng họp lại và thống nhất với nhau để cho tôi được hưởng nhà đất và tất cả vật dụng trong căn nhà tại địa chỉ 6 số 637a Âu Cơ, phường Hoà Thạnh, quận Tân Phú (số cũ: Số 239 Âu Cơ, phường 19, quận Tân Bình) mục đích là để làm nhà thờ cúng ông bà và cha mẹ. Giấy ủy quyền ngày 26/4/2002; theo tường trình của bị đơn nội dung uỷ quyền đó là để ông Phương làm người đại diện cho anh chị em “Được trọn quyền giải quyết về việc nhà và đất của cha mẹ để lại”; Giấy uỷ quyền này cũng nêu rõ là “giải quyết theo đơn khiếu nại” mà cụ thể là giải quyết Tranh chấp giữa các anh em ông Phương, ông Bạch ... với bà Nguyễn Thị Kim Phụng là người thuê căn nhà số: 1359 đường Âu Cơ (nay là số: 631 Âu Cơ, Phường Hòa Thạnh, Quận Tân Phú), vụ án này do UBND quận Tân Phú thụ lý; nội dung tờ ủy quyền này không liên quan tới nhà và 788,6 m2 đất đang được giải quyết tại vụ án này. Đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn theo đó không công nhận căn nhà số 637a Âu Cơ, phường Hoà Thạnh, quận Tân Phú là tài sản thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn. Công nhận căn nhà số 637a Âu Cơ, phường Hoà Thạnh, quận Tân Phú (số cũ: 239 Âu Cơ, phường 19, quận Tân Bình, Tp.HCM) và QSDĐ với diện tích là 788,6m2 đất tại số 637a Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú là di sản để lại cho các đồng thừa kế. |
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH | Sau khi nghiên cứu các tài tiệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: 8 [1]. Về hình thức: đơn kháng cáo của ông LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL và bà Lê Thị Nga làm trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm. [2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của ông LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL và bà Lê Thị Nga, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Về nguồn gốc tài sản nhà đất số 637A Âu Cơ (số cũ 239) phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú (thuộc một phần thửa 15, 20 tờ bản đồ số 5, BĐĐC năm 2005) các bên đương sự đều thông nhất nguyên là của ông Lê Văn Chọi (mất năm 1992) và bà Nguyễn Thị Cớ (mất năm 1988) tạo lập từ trước năm 1975. Ông Chọi và bà Cớ chết không để lại di chúc. Theo “Giấy cam kết hưởng nhà do cha mẹ để lại” ngày 21/9/1992 được lập với chữ ký thỏa thuận của các ông, bà: LVB, Lê Thanh Dũng, LTL, Lê Thị Nga, Lê Thị Đặng, Lê Thị Huệ với nội dung “Tất cả anh chị em cùng nhất trí nhường nhà số 239 Âu Cơ, P19, quận Tân Bình (nay là số 637A Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú) cho anh LBP được hưởng trọn nhà và số đồ đạt cùng vật dụng trong nhà” Ngày 26/4/2002, thì các anh chị em của ông Phương gồm: ông Bạch, bà Nga, bà Đặng, bà Lan, bà Huệ và ông Dũng tiếp tục lập giấy đồng ý cho ông Phương trọn quyền giải quyết về việc nhà đất của cha, mẹ chết để lại, có xác nhận chữ ký tại Ủy ban nhân dân Phường 19, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy ý chí của các đương sự đều là không tranh chấp, nhường toàn bộ di sản thừa kế tại căn nhà nói trên cho ông LBP. Theo xác nhận của các đương sự tại phiên tòa thì ngoài phần nhà đất tranh chấp trên, ông Lê Văn Chọi và bà Nguyễn Thị Cớ còn các tài sản đất đai, nhà cửa khác, đã chia cho các anh chị em gồm LVB, Lê Thanh Dũng, LTL, Lê Thị Nga, Lê Thị Đặng, Lê Thị Huệ. Ông LBP đã sử dụng ổn định, lâu dài từ năm 1992 trên phần diện tích đất đang tranh chấp có đăng ký kê khai, đóng thuế. Về ý kiến của ông NHC, đại diện cho bà Lê Thị Nga và luật sư: theo Quyết định số 3376/QĐ-UB-QLĐT ngay 11/6/1999 của Uỷ ban nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh về việc kê khai đăng ký nhà, đất, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đô thị thì tất cả các cá nhân, tổ chức sở hữu nhà, sử dụng đất đều phải đăng ký kê khai. Quyết định 3376/QĐ-UB-QLĐT được phổ biến đến tất cả người dân, trong hồ sơ vụ án cũng thể hiện bà Lê Thị Đặng có đăng ký kê khai đối với căn nhà số 239 Âu Cơ. Như vậy năm 1999 các anh chị em ông Phương không đi đăng ký kê khai đối với phần diện tích đất đang tranh chấp mà để ông Phương đăng ký kê khai một mình cũng thể hiện ý chí từ bỏ quyền thừa kế. Việc kê khai theo Quyết định 3376/QĐ-UB-QLĐT cũng không có quy định về việc ký giáp ranh. Luật sư và ông Châu cho rằng tờ ủy 9 quyền ngày 26/4/2002 là giấy ủy quyền tham gia tố tụng trong một vụ án tại Tòa Tân Phú nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh có một vụ án nào giữa ông Phương và bà Phụng như đã trình bày. Ngoài ra bà Lê Thị Đặng ngày 27/12/2011 có bản tường trình xác nhận nội dung “cam kết đồng ý cho em tôi là LBP được hưởng tất cả đất đai và tài sản cha mẹ để lại tại số 637 A Âu cơ. Các con bà Lê Thị Huệ gồm bà Nguyễn LT Th, Nguyễn L T2, Nguyễn Lê Tùng, Nguyễn Lê Hiền đều có bản tự khai nội dung: “...đồng ý giữ nguyên nội dung mà mẹ tôi đã ký đồng ý cho ông LBP được quản lý sử dụng căn nhà số 239 Âu Cơ phường 19 quận Tân Bình, TPHCM cũ nay là 637 Âu Cơ phường Hòa Thạnh quận Tân Phú Tp HCM và tất cả các vật dụng của cha mẹ để lại và không khiếu nại và tranh chấp gi. Ngoài ra theo lời trình bày của các đương sự, theo bản vẽ hiện trạng vị trí thì căn nhà số 637 Âu Cơ phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú có diện tích xây dựng 320m², trên cùng một thửa đất theo các tài liệu trước năm 1975 và tài liệu 2005, không thể tách rời nhà và đất khuôn viên. Các đồng bị đơn không xác định được phần diện tích nào là phần diện tích khuôn viên căn nhà. Tại cấp phúc thẩm các ông LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL và bà Lê Thị Nga, không nêu được tình tiết, chứng cứ và lý lẽ gì mới so với cấp sơ thẩm Kháng cáo của bà ông LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL và bà Lê Thị Nga không có cơ sở để chấp nhận. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội dồng xét xử không xem xét. Về án phí: ông LVB, bà LTL và bà Lê Thị Nga là người cao tuổi, được miễn án phí phúc thẩm. ông Lê Thanh Dũng phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận. |
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 52/2023/DS-PT, Ngày: 17/02/2023, TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH | Căn cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Bác kháng cáo của ông LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL và bà Lê Thị Nga, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuyên xử: 1. Đình chỉ một phần yêu cầu của nguyên đơn ông LBP, về việc yêu cầu điều chỉnh “lối đi chung” trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, hồ sơ gốc số 12822/2002 ngày 02/5/2002 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Vương Hữu Thành, bà Lê Thị Đặng, đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận Tân Phú cập nhật sang tên ông VHT ngày 21/8/2017. 2. Chấp một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: 10 2.1. Công nhận căn nhà số 637A Âu Cơ, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú và phần đất khuôn viên có diện tích 788,6m2 thuộc MPT (15, 20), tờ bản đồ số 5 phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Bản đồ hiện trạng vị trí số 125512/TTĐĐBĐ ngày 28/6/2018 do Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập, là tài sản thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của ông LBP. 2.2. Ông LBP được quyền liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. 3. Không chấp nhận yêu cầu của các bị đơn: ông LVB, ông Lê Thanh Dũng, bà LTL, bà Lê Thị Nga về việc yêu cầu chia thừa kế (chia tài sản chung) mỗi người 1/7 giá trị quyền sử dụng đất của diện tích đất 660,6m2, theo Bản đồ hiện trạng vị trí số 125512/TTĐĐBĐ do Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 28/6/2018. 4. Về án phí - Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Thanh Dũng phải chịu án phí 116.493.429 đồng (Một trăm mười sáu triệu, bốn trăm chín mươi ba nghìn, bốn trăm hai mươi chín) đồng. - Bà LTL, bà Lê Thị Nga, ông LVB được miễn án phí. Hoàn lại cho ông LVB và ông Lê Thanh Dũng số tiền tạm ứng án phí 26.840.000 (hai mươi sáu triệu tám trăm bốn mươi nghìn) đồng, theo các Biên lai số AA/2017/0011470 và số AA/2017/0011471 cùng ngày 26/7/2018 của Chi cục Thi hành án quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Hoàn trả lại cho ông LBP số tiền tạm ứng án phí 21.000.000 (Hai mươi mốt triệu) đồng, theo Biên lai thu số AA/2017/010002 ngày 23/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. - Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê Thanh Dũng phải chịu án phí dân sự phúc thẩm 300.000 đồng, được trừ vào tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0094857 ngày 08/7/2021 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho Bà LTL, bà Lê Thị Nga, ông LVB. 5. Về chí phí tố tụng khác: Chi phí xem xét tại chỗ và chi phí định giá tài sản, nguyên đơn tự nguyện chịu và đã nộp xong. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. |
Tên bản án là gì Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2022 | Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2022 |
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2023 | V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất, tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. |
Ai là nguyên đơn Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2024 | * Nguyên đơn: Bà Lường Thị K, sinh năm 1948; địa chỉ: Khu phố H, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; Vắng mặt. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Đỗ Xuân Đ; địa chỉ: Số nhà X, ngõ Y, đường N, phường D, quận G, thành phố Hà Nội; Có mặt. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Hoàng Thị O, Luật sư Công ty Luật TNHH L thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; địa chỉ: Số nhà X, ngõ Y, đường N, phường D, quận G, thành phố Hà Nội; Vắng mặt. 1 |
Ai là bị đơn Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2025 | * Bị đơn: Ông Ngô Hữu C, sinh năm 1963; địa chỉ: Khu phố T, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; Có mặt. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Lê Quốc H, ông Nguyễn Thanh H, bà Trịnh Thị T – Luật sư Văn phòng luật sư Lê Quốc H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa; địa chỉ: Số Z đường A, phường B, thành phố E, tỉnh Thanh Hóa; Có mặt Luật sư Lê Quốc H. |
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2026 | Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Minh Ngọc, Kiểm sát viên. |
Ai là thư ký toà Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2027 | Thư ký phiên toà: Bà Đinh Hồng Vân -Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh |
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2028 | Theo nguyên đơn đã trình bày về nguồn gốc và quá trình sử dụng thửa đất đang tranh chấp. Tuy nhiên, tài liệu không cung cấp thông tin chi tiết về nội dung này. |
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2029 | Năm 1992, vợ chồng ông Trần Trí U và bà Lường Thị K đã đồng ý chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất và tài sản trên đất cho ông Ngô Hữu C tại thửa số 801, tờ bản đồ số 02, diện tích 2.500m2 theo bản đồ 299 ở thôn C, xã Q, thị xã S; trên đất có một ngôi nhà rộng 15m2, một sân phơi rộng 10m2, một bếp nấu, một giếng xây và cây cối... Việc chuyển nhượng được lập thành văn bản có xác nhận của UBND xã Q, thị xã S và được UBND xã Q lập đoàn đo đạc thực địa giao nhà đất thể hiện rõ về ranh giới, tứ cận lô đất với giá là 4.000.000 đồng, ông C đã trả đủ tiền và nhận nhà đất, đồng thời nộp phí sau khi chuyển nhượng để đảm bảo việc sử dụng đất, tránh phát sinh tranh chấp giữa các bên. Cụ thể gồm có Đơn xin chuyển nhượng nhà và nhượng đất và tài sản bất động ngày 05/11/1992 do ông Trần Trí Ư và bà Lường Thị K ký tên, được UBND xã Q xác nhận ngày 14/12/1992; Biên bản bàn giao quyền sử dụng về tài sản và đất theo 299 do UBND xã Q lập hồi 15h ngày 15/11/1992 tại gia đình ông Trần Trí Ư, có Hội đồng kiểm tra thực địa là các thành viên của UBND xã và có ông Trần Trí Ư ký xác nhận; Biên bản kiểm tra nhà ở, đất ở nông thôn ngày 27/8/2008 có xác nhận của cấp có thẩm quyền; Phiếu thu tiền thuế chuyển quyền sử dụng tài sản nhà đất số 193/12 nộp vào ngân sách xã Q ngày 09/12/1993; Đơn xin cấp Giấy CNQSDĐ ngày 27/8/2008 có xác nhận đầy đủ của thôn, chính quyền và Phòng TNMT thị xã S. Từ năm 1992 đến năm 2014 (khi có quyết định thu hồi đất) gia đình ông C sử dụng nhà đất ổn định, là người thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với thửa đất 801 và không có tranh chấp với các hộ giáp ranh, gia đình ông C đã trồng và chặt bán cây bạch đàn nhiều đợt. Năm 2008, UBND Q đã lập danh sách đề nghị UBND thị xã S cấp Giấy CNQSDĐ cho các hộ trong xã theo quy định của pháp luật, UBND xã đã thông báo rộng rãi, công khai đến tất cả các hộ trong xã. Gia đình ông Ư ở cùng xã, biết rõ gia đình ông C sử dụng đất và được cấp Giấy CNQSDĐ nhưng không có ý kiến thắc mắc hay tranh chấp. Việc bà K khởi kiện được Tòa án nhân dân tỉnh giải quyết tại Bản án hành chính sơ thẩm số 35 ngày 17/7/2017 đã có hiệu lực pháp luật và Tòa án chỉ dành cho bà K quyền yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp số tiền mà hộ ông C được phê duyệt bồi thường trong vụ án dân sự nếu có căn cứ. Bà K không cung cấp được tài liệu chứng cứ mới so với tài liệu chứng cứ đã được đánh giá tại Bản án số 35 là không đủ điều kiện khởi kiện. Vì vậy, ông C đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lường Thị K về việc xác định diện tích đất 1.941m2 thửa số 801, tờ bản đồ số 02, tại thôn C, xã Q (nay là Phường Q) thuộc quyền của gia đình bà K. Công nhận Quyết định số 1682 là hợp pháp và có hiệu 4 lực; ông C được nhận toàn bộ số tiền bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất theo Quyết định 1682. |
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2030 | Theo luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đã không chấp nhận lời trình bày của nguyên đơn và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xem xét theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tài liệu không cung cấp thông tin chi tiết về lập luận của luật sư này. |
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2031 | Theo bản án dân sự sơ thẩm số 24/2021/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã được kháng cáo bởi nguyên đơn là bà Lường Thị K tại phiên tòa phúc thẩm. |
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2032 | Theo quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa là có cơ sở và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. |
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2033 | Hội đồng xét xử đã nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình bày của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa, và nhận định rằng nguyên đơn là bà Lường Thị K có đơn kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2021/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa là trong thời hạn luật định, nên được xem xét theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, theo , Hội đồng xét xử cũng đã chấp nhận quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát. |
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 278/2022/DS-PT Ngày: 22/9/2034 | Hội đồng xét xử đã nhận định rằng nguyên đơn là bà Lường Thị K có đơn kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2021/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa là trong thời hạn luật định, nên được xem xét theo quy định của pháp luật. |
Tên bản án là gì Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” |
Hội đồng xét xử gồm những ai Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: - Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Ngọc Thu Hương - Các Thẩm phán: Ông Đỗ Đình Thanh, Ông Nguyễn Văn Minh - Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thanh Trúc - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Ông Nguyễn Văn Phượng - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa . |
Ai là nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | - Nguyên đơn: Bà Trần Thị D, sinh năm 1968 (có mặt); Địa chỉ: Ấp M, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. |
Ai là bị đơn Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | - Bị đơn: Anh Trần Văn R, sinh năm 1983 (vắng mặt); Địa chỉ: Ấp M, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. |
Ai là đại diện Viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Ông Nguyễn Văn Phượng - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. |
Ai là thư ký toà Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Bà Phan Thanh Trúc - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. |
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Theo đơn khởi kiện ngày 11 tháng 06 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị D, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn T, ông Trần Văn V2, bà Trần Thị T3, bà Lê Thị N2, bà Đỗ Thị D1, anh Lê Văn L1, chị Lê Thị D2, anh Lê Văn B2, chị Lê Thị Bé T4, chị Lê Thị M3, ông Quảng Văn D3 và anh Quãng Việt Đ trình bày: Cha mẹ bà là cụ Lê Văn T7 và cụ Nguyễn Thị T8 có 09 người con gồm: Ông Lê Văn T, bà Trần Thị T3, ông Lê Văn C2, ông Trần Văn V2, ông Trần Văn N3, bà Lê Thị N2, bà Trần Thị N1, bà Trần Thị Y, bà Trần Thị D. Cụ T7 và cụ T8 không có con riêng hay con nuôi nào khác. Năm 1994 cụ Lê Văn T7 chết, năm 1998 cụ Nguyễn Thị T8 chết. Tài sản của cha mẹ để lại gồm: 17 công đất ruộng tầm cấy và 02 công đất tầm cấy đất vườn. Đối với 17 công tầm cấy đất ruộng thì đã được Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu giải quyết bằng Bản án số 39/DS-PT ngày 15/5/1999, riêng phần đất vườn 02 công thì chưa được chia. Sau khi cha mẹ bà chết thì ông N3 quản lý phần đất này. Ông N3 đã bán cho bà Trần Thị X1 01 công đất vườn, còn lại 01 công. Năm 2002, ông N3 cho bà về ở trên căn nhà của cha mẹ để lại và quản lý phần đất vườn 01 công và nuôi anh Trần Văn R, ông N3 thì đi nơi khác sinh sống. Nay bà X1êu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với phần diện tích đất theo đo đạc thực tế là 1.228,7m2, thuộc thửa số 51 và 85, tờ bản đồ số 26 tọa lạc tại Ấp M, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. Phần đất diện tích 1.002,2m2 do bà Trần Thị X1 đang quản lý, sử dụng và phần đất nền mộ diện tích 12,6m2 thuộc thửa đất số 51, tờ bản đồ số 26 thì bà D không yêu cầu chia thừa kế. Bà D yêu cầu được nhận đất để cất nhà ở. Đối với các cây trồng trên đất thì bà không yêu cầu. Đối với căn nhà của bà D và căn nhà của anh R trên đất thì khi chia thừa kế nếu giao cho bà và các anh em thì nhà của ai nằm trên phần đất của người khác thì bà sẽ tháo dỡ nhà trên đất, bà X1êu cầu anh R phải tháo dỡ nhà nếu phần nhà của anh R nằm trên phần đất được chia thừa kế cho người khác. Yêu cầu hủy toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 608937 cấp cho anh Trần Văn R diện tích 299,3m2 và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 608936 đối với diện tích 929,4m2 do Ủy ban nhân dân huyện P cấp cho anh Trần Văn R vào ngày 28/11/2018. Đồng thời yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế có diện tích 186,4m2 thuộc một phần thửa 51, thửa 85, tờ bản đồ 26 đất tọa lạc tại Ấp M, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu, anh R đã bán cho ông D4, bà X1. |
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Anh R, bà X1, ông D4 đề nghị sửa án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa hôm nay, chị N đại diện cho anh R giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị sửa án, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đơn kháng cáo hợp lệ về hình thức. Các đương sự thừa nhận cụ T7, cụ T8 có 09 người con. Ông Trần Văn V2, bà Trần Thị T3, bà Lê Thị N2, bà Trần Thị N1, người thừa kế thế vị của ông Lê Văn C2 gồm bà Đỗ Thị D1, anh Lê Văn L1, chị Lê Thị D2, anh Lê Văn B2, chị Lê Thị Bé T4, chị Lê Thị M3, ông Quảng Văn D3 và anh Quãng Việt Đ cùng yêu cầu nhận kỷ phần thừa kế và đồng ý giao lại cho bà Trần Thị D được hưởng, do đó bà D được hưởng tổng cộng 06 kỷ phần. Ông Lê Văn T yêu cầu được nhận kỷ phần thừa kế bằng hiện vật. Bà Trần Thị X1 yêu cầu nhận kỷ phần thừa kế và đồng ý giao lại cho anh R nên anh R được nhận tổng cộng 02 kỷ phần. Phần đất tranh chấp có nhà và đất. Án sơ thẩm giao đất cho bà D và Anh R. Bà Trần Thị D được giao phần đất 131.14m2 thuộc thửa 85, cùng tờ bản đồ số 26 và đất vườn tạp diện tích 688m2. Anh Trần Văn R được giao phần đất 409,56m2 (trong đó 241,4m2 thuộc thửa 51 và 168,16m2 thuộc thửa 85, cùng tờ bản đồ số 26); đất vườn tạp diện tích 241,4m2. Anh Trần Văn R có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị D số tiền 6.155.000 đồng, hoàn trả cho ông Lê Văn T số tiền 13.914.777 đồng là phù hợp. Anh R, bà X1 và ông D4 kháng cáo yêu cầu sửa án không cung cấp chứng cứ gì mới. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh R, bà X1 và ông D4, giữ nguyên án sơ thẩm. |
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | |
Quyết định của toà sơ thẩm Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng xin vắng mặt, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật. |
Quan điểm của viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | |
Nhận định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | [1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng xin vắng mặt, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật. [2] Xét kháng cáo của anh Trần Văn R là bị đơn; ông Nguyễn Văn D4 và bà Trần Thị X1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử nhận thấy: [2.1] Các bên đương sự thống nhất xác định cụ Lê Văn T7 và cụ Nguyễn Thị T8 chết để lại di sản là phần đất 17 công đất ruộng đã được chia thừa kế tại Bản án dân sự phúc thẩm số 39/PTDS ngày 15/5/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu. Bà D xác định còn lại diện tích đất vườn chưa chia là 2.243,5m2. Trong đó, phần đất diện tích 1.002,2m2 bà Trần Thị X1 đang quản lý, sử dụng do ông N3 đã chuyển nhượng và phần đất nền mộ diện tích 12,6m2 thuộc thửa đất số 51, tờ bản đồ số 26 thì bà D và các đồng thừa kế không yêu cầu chia thừa kế. Bà D chỉ yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với phần đất qua đo đạc thựctếlà1228,7m2 thuộcthửađấtsố51vàsố85,tờbảnđồsố26tọalạcẤpM, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. [2.2] Các đương sự thống nhất cha mẹ của cụ T7 và cụ T8 chết trước cụ T7 và cụ T8. Cụ Lê Văn T7 và cụ Nguyễn Thị T8 có 09 người con gồm: ông Lê Văn T, bà Trần Thị T3, ông Lê Văn C2, ông Trần Văn V2, ông Trần Văn N3, bà Lê Thị N2, bà Trần Thị N1, bà Trần Thị Y, bà Trần Thị D; cụ T7, cụ T8 không có con riêng hay con nuôi nào khác. Ông C2 chết nên vợ và các con ông C2 là người thừa kế thế vị gồm: Bà Đỗ Thị D1, anh Lê Văn L1, chị Lê Thị D2, chị Lê Thị M3, anh Lê Văn B2, chị Lê Thị Bé T4. Ông N3 chết năm 2008 nên vợ và các con ông N3 là người thừa kế thế vị gồm: Bà Huỳnh Thị H1, chị Trần Thị K và anh Trần Văn R. [2.3] Bản án dân sự phúc thẩm số 39/PTDS ngày 15/05/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu thể hiện các con của cụ T7 và cụ T8 chỉ yêu cầu chia thừa kế đối với phần diện tích đất 17 công tầm cấy đất trồng lúa. Đối với phần đất thổ cư và vườn thì các đương sự chưa yêu cầu và Bản án dân sự phúc thẩm số 39/PTDS ngày 15/05/1999 chưa xem xét giải quyết. Tại Biên bản lời khai ngày 12/4/1999 (bút lục 276, 277), ông Trần Văn N3 xác định lý do ông đăng ký kê khai quyền sử dụng đất: “Khi có chủ trương của Nhà nước để quản lý lại đất đai, má tôi (bà T8) kêu tôi đi làm chứng nhận quyền sử dụng đất, khi má tôi lên Phòng Địa chính gặp anh Lê Thanh Cường cán bộ địa chính của huyện, nói với má tôi là để lại cho con đứng tên đi bà lớn tuổi rồi, nên má tôi mới để cho tôi đứng tên, ngoài ra không có giấy tờ gì của má tôi để toàn bộ lại cho tôi”. Tại biên bản lấy lời khai ngày 14/8/2019, bà Huỳnh Thị H1 cũng xác định phần đất vườn và thổ cư chưa được chia thừa kế. [2.4] Do đó, phần đất diện tích 929,4m2 thuộc thửa 51 và 299,3m2 thuộc thửa 85, tờ bản đồ 26, tọa lạc tại Ấp M, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu là di sản của cụ T7 và cụ T8 để lại chưa được phân chia, trước khi chết cụ T7 và cụ T8 không để lại di chúc cho ai nên di sản được chia thừa kế theo pháp luật. [2.5] Di sản của cụ T7 và cụ T8 được chia làm 09 phần. Qua đo đạc thực tế phần đất có diện tích 1.228,7m2 trong đó có 929,4m2 đất vườn, 299,3m2 đất thổ cư. Theo kết quả định giá diện tích đất có giá trị là (299,3m2 x 170.000 đồng) + (929,4m2 x 80.000 đồng) = 125.233.000 đồng nên một kỷ phần di sản thừa kế là 13.914.777 đồng. Ông Trần Văn V2, bà Trần Thị T3, bà Lê Thị N2, bà Trần Thị N1, người thừa kế thế vị của ông Lê Văn C2 gồm bà Đỗ Thị D1, anh Lê Văn L1, chị Lê Thị D2, anh Lê Văn B2, chị Lê Thị Bé T4, chị Lê Thị M3, ông Quảng Văn D3 và anh Quãng Việt Đ cùng yêu cầu nhận kỷ phần thừa kế và đồng ý giao lại cho bà Trần Thị D được hưởng, do đó bà D được hưởng tổng cộng 06 kỷ phần tương đương với số tiền 83.489.000 đồng. Ông Lê Văn T yêu cầu được nhận kỷ phần thừa kế bằng hiện vật. Tuy nhiên, hiện nay ông Lê Văn T đã có nhà, đất trên một phần khác, diện tích một kỷ phần ông T được nhận cũng không đảm bảo việc tách thửa cũng như công năng khai thác sử dụng di sản nên giao phần đất là kỷ phần của ông T cho anh R sử dụng để đảm bảo diện tích sử dụng, anh R có trách nhiệm hoàn trả lại giá trị kỷ phần cho ông Lê Văn T với số tiền 13.914.777 đồng. Bà Trần Thị X1 yêu cầu nhận kỷ phần thừa kế và đồng ý giao lại cho anh R nên anh R được nhận tổng cộng 03 kỷ phần tương đương với số tiền 41.744.000 đồng. [2.6] Bà Trần Thị D và anh Trần Văn R yêu cầu được nhận di sản thừa kế là hiện vật. Bà D và anh R cũng đang sử dụng đất và hiện có nhà trên đất Tòa án cấp sơ thẩm giao đất cho bà Trần Thị D và anh Trần Văn R tiếp tục quản lý, sử dụng là có căn cứ, cụ thể bà Trần Thị D được giao phần đất 819,14m2 (trong đó 131,14m2 thuộc thửa 85, cùng tờ bản đồ số 26) tương ứng với giá trị đất bằng số tiền (131,14m2 x 170.000 đồng/m2 = 22.294.000 đồng; đất vườn tạp diện tích 688m2 x 80.000 đồng = 55.040.000 đồng, tổng cộng 77.334.000 đồng). Anh Trần Văn R được giao phần đất 409,56m2 (trong đó 241,4m2 thuộc thửa 51 và 168,16m2 thuộc thửa 85, cùng tờ bản đồ số 26), tương ứng với giá trị đất bằng số tiền (168,16m2 x 170.000 đồng/m2 = 28.587.000 đồng; đất vườn tạp diện tích 241,4m2 x 80.000 đồng = 19.312.000 đồng, tổng cộng 47.899.000 đồng). Do đó, anh Trần Văn R có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị D số tiền 6.155.000 đồng, hoàn trả cho ông Lê Văn T số tiền 13.914.777 đồng. Căn cứ biên bản về việc khảo sát vị trí nhà của bà Trần Thị D và anh Trần Văn R ngày 23/9/2022, biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 19/9/2019. Tòa án cấp sơ thẩm phân chia hợp lý và buộc anh R tháo dỡ phần nhà có chiều ngang 2,9m, chiều dài 07m, kết cấu mái thiếc, vách thiếc, khung sườn cây gỗ địa phương, nền đất để giao trả lại đất cho bà Trần Thị D. [2.7] Do phần đất vườn và đất thổ cư là di sản của cụ T7 và cụ T8 để lại chưa chia thừa kế nhưng năm 2007 ông N3 làm đơn xin cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 51, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.190,9m2 đất vườn và thửa 85, tờ bản đồ số 26, diện tích 299,3m2 đất thổ cư. Đến ngày 14/7/2009 ông Trần Văn N3 được Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 02 thửa đất nêu trên. Sau khi ông Trần Văn N3 chết, bà Huỳnh Thị H1, chị Trần Thị K lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, giao 02 phần đất diện tích 2.190,9m2 và diện tích 299,3m2 cho anh Trần Văn R đứng tên quyền sử dụng. Đến ngày 28/11/2018, anh Trần Văn R được Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 02 diện tích đất nêu trên. Diện tích đất 1.228,7m2 là di sản của cụ T7 và cụ T8 để lại, việc ông N3 được sử dụng và quản lý phần đất nêu trên với tư cách hộ gia đình của ông N3 là không đúng, dẫn đến việc anh Trần Văn R làm thủ tục nhận thừa kế từ ông N3 là chưa đúng quy định, nên việc Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân anh Trần Văn R là không đúng pháp luật. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 929,4m2 thuộc thửa 51 và 299,3m2 thuộc thửa 85, tờ bản đồ 26 tọa lạc tại Ấp M, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu là có căn cứ. [2.8] Đối với phần đất nền mộ diện tích 12,6m2 thuộc thửa đất số 51, tờ bản đồ số 26 thì các đương sự không yêu cầu chia thừa kế. Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định rõ việc này nhưng Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết là vượt quá yêu cầu của các đương sự. [2.9] Phần đất anh R chuyển nhượng cho bà X1 và ông D4 thuộc di sản thừa kế nên anh R không có quyền lấy phần đất trên chuyển nhượng cho bà X1 và ông D4. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh R với ông Nguyễn Văn D4 và bà Trần Thị X1 là vô hiệu. Do anh R, ông D4 và bà X1 không có yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét là có căn cứ. [2.10] Chi phí xem xét, thẩm định và định giá tài sản tranh chấp, án phí dân sự sơ thẩm: giữ nguyên. [3] Từ nhận định phân tích nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với phần đất nền mộ diện tích 12,6m2 thuộc thửa đất số 51, tờ bản đồ số 26 khi các đương sự không yêu cầu là vượt quá yêu cầu của các đương sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị N đại diện cho anh R kháng cáo phần này là có cơ sở. Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của các đương sự, sửa án sơ thẩm về phần này, điều chỉnh lại số liệu cho chính xác phần của bà D được hưởng là 819,14m2, không phải 819,24m2. [4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa án nên anh Trần Văn R, ông Nguyễn Văn D4 và bà Trần Thị X1 không phải chịu án phí. |
Quyết định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số 175/2023/DS-PT Ngày 10 - 4 - 2023 V/v “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | QUYẾT ĐỊNH: Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; 11 Căn cứ khoản 5 Điều 26, Điều 34, Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 38, Điều 91, 157, 164, Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 612, 614, 623, 649, 650, 651, 652, 660, 668 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 32 Luật Tố tụng hành chính; Căn cứ khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Trần Văn R là bị đơn; ông Nguyễn Văn D4 và bà Trần Thị X1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2022/DS-ST ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu về phần đất nền mộ diện tích 12,6m2 thuộc thửa đất số 51, tờ bản đồ số 26: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị D đối với anh Trần Văn R. 1.1. Bà Trần Thị D được toàn quyền sử dụng và sở hữu phần đất diện tích 819,14m2 (trong đó 688m2 thuộc thửa 51 và 131.14m2 thuộc thửa 85, cùng tờ bản đồ số 26) tọa lạc Ấp M, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu, có vị trí và số đo cụ thể như sau: Hướng Đông giáp phần đất chia cho anh Trần Văn R có số đo 7.0m + 21,4m + 19,9m + 5,0m + 23,9m; Hướng Tây giáp phần đất ông Quyền có số đo 72,6m; Hướng Nam giáp lộ kênh Thầy Thép có số đo 9,1m; Hướng Bắc giáp phần đất của bà Trần Thị X1sử dụng có số đo 15,6m; 1.2. Anh Trần Văn R được toàn quyền sử dụng và sở hữu phần đất diện tích 409,56m2 (trong đó 241,4m2 thuộc thửa 51 và 168,16m2 thuộc thửa 85, cùng tờ bản đồ số 26), tọa lạc Ấp M, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu, có vị trí và số đo cụ thể như sau: Hướng Đông giáp phần đất bà Bảy đang sử dụng có số đo 6,9m + 21,3m + 24,9m + 2,3m + 18,9m; Hướng Tây giáp phần đất chia cho bà D có số đo 7,0m + 21,4m + 19,9m + 5,0m + 23,9m; Hướng Nam giáp lộ kênh Thầy Thép có số đo 7,9m; Hướng Bắc giáp phần đất của bà Trần Thị X1sử dụng có số đo 01m; 1.3. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 608937 cấp cho anh Trần Văn R đối với diện tích 299,3m2 thuộc thửa 85, tờ bản đồ 26 và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 608936 đối với diện tích 929,4m2 thuộc thửa 51, tờ bản đồ 26 do Ủy ban nhân dân huyện P cấp cho anh Trần Văn R vào ngày 28/11/2018. Các đương sự có quyền kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. 1.4. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Trần Văn R với bà Trần Thị X1và ông Nguyễn Văn D4 đối với diện tích đất 186,4m2 thuộc một phần thửa 51, thửa 85, tờ bản đồ 26 tọa lạc Ấp M, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu là vô hiệu. 2. Buộc anh Trần Văn R tháo dỡ, di dời phần nhà ngang 2,9 m, dài 07m, kết cấu mái thiếc, vách thiếc khung sườn cây gỗ địa phương, nền đất để giao trả đất cho bà Trần Thị D. Buộc anh Trần Văn R có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Trần Thị D số tiền 6.155.000 đồng. Buộc anh Trần Văn R có nghĩa vụ hoàn trả giá trị kỷ phần thừa kế cho ông Lê Văn T số tiền 13.914.777 đồng. 3. Chi phí xem xét, thẩm định và định giá tài sản tranh chấp tổng số tiền 3.007.485 đồng, bà Trần Thị D phải chịu 2.004.990 đồng, anh Trần Văn R phải chịu 668.330 đồng, ông Lê Văn T phải chịu 334.165 đồng. Bà Trần Thị D đã nộp đủ số tiền 3.007.485 đồng và chi hết, nên buộc anh R phải hoàn trả lại cho bà Trần Thị D số tiền 668.330 đồng, ông Lê Văn T phải hoàn trả lại cho bà Trần Thị D số tiền 334.165 đồng. 4. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà Trần Thị D phải chịu 4.174.450 đồng, bà Trần Thị D đã nộp tạm ứng án phí số tiền 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0014135 ngày 14/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Bạc Liêu được đối trừ, bà Trần Thị D còn phải nộp tiếp số tiền 3.824.450 đồng. Anh Trần Văn R phải chịu án phí số tiền 2.087.200 đồng. Ông Lê Văn T phải chịu án phí số tiền 695.739 đồng. 4. Án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu. Hoàn lại cho anh Trần Văn R số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng do Nguyễn Quốc Vương (nộp thay Trần Văn R) theo Biên lai thu số 0000248 ngày 07/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu. Hoàn lại cho ông Nguyễn Văn D4 số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng do Nguyễn Quốc Vương (nộp thay Nguyễn Văn D4) theo Biên lai thu số 0000249 ngày 07/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu. Hoàn lại cho bà Trần Thị X1số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng do Nguyễn Quốc Vương (nộp thay Trần Thị Y) theo Biên lai thu số 0000354 ngày 13/12/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu. 5. Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015. 6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án. |
Tên bản án là gì Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” |
Hội đồng xét xử gồm những ai Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Hồng. Các thẩm phán: Ông Lê Hoàng Tấn Bà Trần Thị Hòa Hiệp |
Ai là nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Nguyên đơn: 1.1. Bà Trần Thị Mười H, sinh năm 1959. Địa chỉ: Lốc A2.2, hộ 3.03, KDC VL B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên lạc: Số 24/34 hẻm 199, Phường 7, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. 1.2. Bà Trần Thị Đ, sinh năm 1958. Địa chỉ: Ấp M, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. 1.3. Ông Trần Văn Mười B, sinh năm 1963. Địa chỉ: Ấp H, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. |
Ai là bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Bị đơn: Bà Trần Thị Thùy L, sinh năm 1977. Địa chỉ: Ấp S B, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. Người đại diện hợp pháp của bị đơn có: Ông Đặng Công C, sinh năm 1960. Địa chỉ: 719B NP, HN 3, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Nai, (Theo văn bản ủy quyền ngày 25/3/2023), có mặt. |
Ai là đại diện Viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Bà Cao Thị Hạnh - Kiểm sát viên cao cấp. |
Ai là thư ký toà Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Quang Hiển - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. |
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Nguyên đơn bà Trần Thị Mười H, ông Trần Văn Mười B và bà Trần Thị Đ trình bày: Cụ Trần Văn C, tên gọi khác là Trần Văn N hoặc NC (chết năm 1963) và cụ Trần Thị Đ1 (chết năm 1969) có 11 người con, trong đó có 02 người đã chết lúc còn nhỏ không rõ họ, tên, còn lại 09 người con gồm: Ông Trần Văn X, chết năm 1968, bà Trần Thị B, chết năm 1999, ông Trần Văn L, ông Trần Văn S, chết năm 1965, bà Trần Thị C, chết lúc nhỏ, không có chồng, con; bà Trần Thị S; bà Trần Thị Đ; bà Trần Thị Mười H; ông Trần Văn Mười B. Phần đất 5.720m2 tại các thửa 1536, 1537, 1789, tờ bản đồ số 1, loại đất thổ, vườn và chuyên trồng lúa nước tọa lạc tại ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang có nguồn gốc của vợ chồng cụ Trần Văn C, cụ Trần Thị Đ1 tạo lập lúc còn sống, do cụ Trần Văn C (tên thường gọi là N) đứng tên chủ sử dụng trong Sổ mục kê ruộng đất năm 1983 của xã T. Sau khi cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 chết, các nguyên đơn thay nhau canh tác sau đó giao cho ông Trần Văn L quản lý, sử dụng để thờ cúng ông bà. Năm 1998, bà Trần Thị Thùy L (con ruột ông Trần Văn L) tự ý kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có sự đồng ý của các con của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 nên không có tranh chấp hay khiếu nại về việc bà Trần Thị Thùy L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2005, bà Trần Thị S từ nước ngoài gửi tiền về và ông Mười B, bà Mười H, bà Trần Thị Đ cùng bỏ tiền ra để xây dựng 01 căn nhà cấp 4 trên thửa đất 1537, để cho ông Trần Văn L, bà Hồ Thị H và anh Trần Văn L1 (con của ông Trần Văn L và bà Hồ Thị H) ở thờ cúng ông, bà. Sau khi ông Trần Văn L chết, năm 2014 các nguyên đơn phát hiện bà Trần Thị Thùy L có ý định bán đất nên phát sinh tranh chấp. Nay bà Mười H, ông Mười B và bà Trần Thị Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện GCĐ và Ủy ban nhân dân thị xã G cấp cho hộ bà Trần Thị Thùy L. Công nhận phần đất có diện tích 5.720m2 thuộc các thửa số 1536, 1537 và thửa 1789, tờ bản đồ số 1, tọa lạc tại ấp MX, xã T, huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang là di sản của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 chết để lại chưa chia. Yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 cho hàng thừa kế thứ nhất gồm bà Trần Thị S, bà Trần Thị Đ, ông Trần Văn Mười B, ông Trần Văn L và bà Trần Thị Mười H. Giao kỷ phần thừa kế của bà Trần Thị S, bà Trần Thị Đ, bà Mười H và ông Mười B cho bà Mười H quản lý, sử dụng, sau này giữa các đồng thừa kế có tranh chấp sẽ khởi kiện bằng vụ kiện khác. Công nhận căn nhà cấp 4 xây dựng trên thửa đất 1537, tờ bản đồ số 1 là tài sản thuộc sở hữu chung của bà Trần Thị S, bà Trần Thị Đ, ông Trần Văn Mười B và bà Trần Thị Mười H. Nhưng các nguyên đơn không yêu cầu bà Hồ Thị H, anh Trần Văn L1 di dời để giao trả nhà mà tiếp tục cho bà Hồ Thị H và anh Trần Văn L1 tiếp tục ở căn nhà gắn trên thửa đất 1537. |
Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Bị đơn Trần Thị Thùy L trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ Trần Văn C (chết năm 1963) và cụ Trần Thị Đ1 (chết năm 1969) để lại cho cha ruột của bà Trần Thị Thùy L là ông Trần Văn L canh tác trước năm 1975. Năm 1980, thực hiện chính sách nhường cơm xẻ áo, nhà nước đã giao 6000m2 đất (thuộc thửa 1789) cho 06 hộ dân ở ấp MX, xã T, huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang canh tác. Năm 1997, bà Trần Thị Thùy L làm đơn xin lại đất và được 06 hộ dân trả lại 3000m2, bà Trần Thị Thùy L kê khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất và hộ gia đình bà Trần Thị Thùy L đã được Ủy ban nhân dân huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00407/MX ngày 14/5/1998 đối với thửa 1789 tờ bản đồ số 1 diện tích 3.000m2 loại đất chuyên trồng lúa nước, tại ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. Đến ngày 24/11/2014, Ủy ban nhân dân thị xã G cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Trần Thị Thùy L đối với thửa đất 156, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.579,0m2, loại đất chuyên trồng lúa nước, toạ lạc tại ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. Đến ngày 30/6/2015, Ủy ban nhân dân thị xã G cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Trần Thị Thùy L đối với thửa đất 155, tờ bản đồ số 4, diện tích 886,9m2, loại đất ở nông thôn + cây lâu năm, tại ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. Khi bà Trần Thị Thùy L kê khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất thì các cô chú của bà Trần Thị Thùy L không ai tranh chấp, khiếu nại. Tại thời điểm được cấp giấy đất thì hộ gia đình của bà Trần Thị Thùy L gồm có bà Trần Thị Thùy L, Phạm Thị Ngọc P, Trần Thị Yến N. Sau khi hộ bà Trần Thị Thùy L được cấp giấy đất, bà Trần Thị Thùy L cho ông Huỳnh Văn N và bà Trần Thị C thuê đất canh tác nhưng không làm hợp đồng thuê mà chỉ thỏa thuận miệng. Do các thửa đất nêu trên không còn là di sản của cụ Trần Văn C, cụ Trần Thị Đ1 nên bà Trần Thị Thùy L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc yêu cầu chia di sản là quyền sử dụng đất đối với các thửa đất 1789, 155,156 toạ lạc tại ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. Đối với căn nhà cấp 4 xây dựng trên thửa đất 1537 (nay là thửa 155), bà Trần Thị Thùy L thừa nhận là tài sản của bà Trần Thị S, bà Trần Thị Đ, ông Mười B và bà Mười H xây dựng vào khoảng năm 2005 cho ông Trần Văn L ở, sau khi ông Trần Văn L chết bà Hồ Thị H và anh Trần Văn L1 đang ở trong căn nhà trên. Bà Trần Thị Thùy L yêu cầu được sở hữu căn nhà và tự nguyện hoàn giá trị căn nhà cho các nguyên đơn theo giá trị nhà đã định giá. |
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Luật sư Nguyễn Đình Đ bảo vệ quyền và lợi ích của bị đơn Trần Thị Thuỳ Linh có ý kiến: Các thửa đất 155,156 mặc dù có nguồn gốc của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 nhưng đã cho ông Trần Văn L sử dụng từ trước năm 1975 nên không còn là di sản của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1. Quá trình sử dụng, ông Trần Văn L đã đứng tên kê khai trong sổ mục kê ruộng đất năm 1983, đến năm 1998 bà Trần Thị Thùy L là con của ông Trần Văn L tiếp tục kê khai đăng ký và được cấp quyền sử dụng đất. Do đó đề nghị Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị Thùy L, sửa án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Mười H, ông Mười B và bà Trần Thị Đ về việc yêu cầu chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất đối với các thửa đất số 155, tờ bản đồ số 4, diện tích 886,9m2 (đo thực tế 842,9m2 trong đó có 300m2 đất ở nông thôn và 542,9m2 đất trồng cây lâu năm); thửa đất số 156, tờ bản đồ số 4, diện tích 1579,0m2 (đo thực tế 1623,5m2), loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. - Bà Vũ Thảo L là người đại diện hợp pháp của các nguyên đơn bà Mười H, ông Mười B, bà Trần Thị Đ có ý kiến: Các đương sự trong vụ án đều thừa nhận nguồn gốc thửa đất 155, 156 là của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 để lại. Do đó các nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa 155, 156 là phù hợp theo quy định của pháp luật. Do đó đề nghị bác kháng cáo của bà Trần Thị Thùy L, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Luật sư Nguyễn Hoài B bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày: Các bên đương sự đều thừa nhận nguồn gốc của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1. Sau đó cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 chết giao lại cho ông Trần Văn L quản lý sử dụng như vậy ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn là chưa phù hợp. Về Sổ mục kê ruộng đất và năm 1983 có thể hiện nguồn gốc đất của ông N. Tại bản án sơ thẩm có nêu rõ: “chủ sử dụng của các thửa đất nêu trên là “N” được viết bằng viết chì, nên không rõ “N” có phải là cụ Trần Văn C, tên gọi khác là Trần Văn N hoặc NC hay không, nhưng các đương sự đều thừa nhận các thửa đất này là của vợ chồng cụ Trần Văn C, cụ Trần Thị Đ1 tạo lập”. Trên thực tế có việc cụ Trần Văn C có tên là N hay còn gọi là NC. Trong hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện ông Trần Văn L có tên là Năm Lu Li như phía bị đơn trình bày. Trong hồ sơ kê khai quyền sử dụng đất của bà Trần Thị Thùy L vào năm 1998 có nội dung “nguồn gốc đất của cha Trần Văn L bệnh tâm thần để lại cho con chung khẩu CCQ” tình tiết này là không phù hợp vì thứ nhất Sổ mục kê năm 1983 thể hiện chủ sử dụng của các thửa đất nêu trên là “N” tên còn gọi là NC không liên quan đến ông Trần Văn L và trong giai đoạn đó tương tự trong bản án sơ thẩm cũng thể hiện là đối với 3000m2 mã đã đưa vào hợp tác xã các đương sự thống nhất đất này là do các hộ dân trả lại cho gia đình cụ Trần Văn C. Vì vậy, việc bà Trần Thị Thùy L tự ý đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có sự đồng ý của các đồng thừa kế là không phù hợp pháp luật. Đối với căn nhà xây trên thửa đất 1537 (nay là thửa 155), các đương sự thống nhất trình bày căn nhà là tài sản chung của các nguyên đơn và bà Trần Thị S nhận định này của bản án sơ thẩm là phù hợp vì các nguyên đơn bỏ tiền xây dựng vào năm 2005 để cho ông Trần Văn L, bà Hồ Thị H, anh Trần Văn L1 cùng ở và thờ cúng ông bà. Phía bị đơn không chứng minh được ông Trần Văn L là người xây nhà. Bị đơn cũng có yêu cầu được sở hữu nhà và tự nguyện hoàn trả giá trị cho các nguyên đơn. Việc phân chia di sản là quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 155, 156 là phù hợp với quy định của pháp luật và bản án sơ thẩm cũng đã xác định hàng thừa kế theo quy định tại điều 651, 652 Bộ luật dân sự và trên tinh thần của Nghị quyết 02 năm 2004 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bản án sơ thẩm đã xét xử chính xác và đúng với quy định của pháp luật. Đề nghị bác kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm. - Ông Phạm Công G là người có quyền, nghĩa vụ liên quan trình bày: Thống nhất với ý kiến của bị đơn bà Trần Thị Thùy L. - Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn lại vắng mặt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; đơn kháng cáo của bị đơn Trần Thị Thùy L hợp lệ đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Về nội dung kháng cáo: Xét yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Thùy L là chưa có căn cứ để chấp nhận bởi vì việc bà Trần Thị Thùy L kê khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất thửa 1536,1537 (nay thửa là 155,156) không có sự đồng ý của các đồng thừa kế của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1. Do đó án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn, chia di sản của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 để lại gồm các thửa đất nêu trên là có căn cứ. Đối với căn nhà trên đất không phải là di sản của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 để lại nên ghi nhận sự tự nguyện của các nguyên đơn giao căn nhà cho bà Hồ Thị H và anh Trần Văn L1 tiếp tục quản lý để ở. Vì vậy đề nghị bác yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị Thùy L, giữ nguyên bản án sơ thẩm. |
Quyết định của toà sơ thẩm Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Các quyết định khác của án sơ thẩm về việc đình chỉ xét xử đối với phần rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị Mười H và bà Trần Thị Đ về việc tranh chấp thửa đất số 1789, tờ bản đồ số 1, diện tích 3000m2, loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00407 cấp ngày 14/5/1998 cho hộ bà Trần Thị Thùy L; về việc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Văn Mười B yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00407 cấp ngày 14/5/1998 do Ủy ban nhân dân huyện GCĐ cấp cho hộ bà Trần Thị Thùy L, xác định di sản thừa kế và chia thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1789, tờ bản đồ số 1, diện tích 3000m2, loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang; về việc giao cho hộ bà Trần Thị Thùy L tiếp tục quản lý, sử dụng thửa đất số 1789, tờ bản đồ số 1, diện tích 3000m2 (đo đạc thực tế 3.103,1m2) loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang; về hoàn trả tạm ứng án phí cho bà Trần Thị Yến N không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị. |
Quan điểm của viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | |
Nhận định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định: [1] Kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị Thùy L làm trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo trình tự phúc thẩm. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt, nên tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự. [2] Theo kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất do Công ty trách nhiệm hữu hạn Tài nguyên và Môi trường INCOM (Bút lục 734, 737) đã xác định phần đất tranh chấp gồm: Thửa đất số 155 tờ bản đồ số 4 theo Giấy chúng nhận số CH06037 cấp ngày 30/6/2015 diện tích 886,9m2 loại đất ONT + CLN, kết quả đo đạc thực tế 842,9m2 đất tọa lạc ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang; Thửa đất số 156, tờ bản đồ số 4 theo Giấy chứng nhận số CH03197 cấp ngày 24/11/2014, diện tích 1.579,0m2 loại đất chuyên trồng lúa nước, kết quả đo đạc thực tế 1.623,5m2 đất tọa lạc ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 19/7/2022 (Bút lục 728) đã xác định: Thửa đất cũ 1536 tờ bản đồ số 01 thành thửa mới 156 tờ bản đồ số 04; thửa đất 1537 tờ bản đồ số 01 loại đất lúa thành thửa mới 155 tờ bản đồ số 04. Trên thửa đất số 155 có căn nhà cấp 4 cột BTCT, vách tường, mái tonle phi rô xi măng, lót gạch xeramic; nhà phụ nền đất vách lá, trụ BTCT, mái tol phiro xi măng; hồ nước hiện do bà Hồ Thị H và anh Trần Văn L1 đang quản lý sử dụng để ở. [3] Nguyên đơn bà Mười H, ông Mười B, bà Trần Thị Đ khai rằng thửa đất 155, 156 đang tranh chấp có nguồn gốc của cụ Trần Văn C (chết năm 1963), cụ Trần Thị Đ1 (chết năm 1969) để lại. Sau khi cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 chết, các nguyên đơn thống nhất giao cho ông Trần Văn Lợi quản lý sử dụng nhưng sau đó bà Trần Thị Thùy L là con gái của ông Trần Văn L tự ý kê khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất mà không được sự đồng ý của các con của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1. Đến năm 2014 khi các ông bà biết được bà Trần Thị Thùy L có ý định sang nhượng đất nên mới phát sinh tranh chấp. Do đó các nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất gồm thửa đất nêu trên. Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn thì cho rằng mặc dù thửa đất 1536 (thửa mới là 156) và thửa 1537 (thửa mới là 155) và thửa 1789 có nguồn gốc của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1. Nhưng sau khi cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 chết, cha của bà Trần Thị Thùy L là ông Trần Văn L trực tiếp quản lý sử dụng từ trước năm 1975. Đến năm 1980, thực hiện chính sách về đất đai, chính quyền địa phương đã lấy 6.000m2 đất ruộng thuộc thửa 1789 chia cho 06 hộ dân ở ấp MX, xã T, huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang canh tác. Năm 1997, bà Trần Thị Thùy L làm đơn xin lại đất và được 06 hộ dân trả lại 3000m2. Do ông Trần Văn L bị bệnh nên bà Trần Thị Thùy L làm đơn kê khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất diện tích 5.720m2 đất (trong đó có 3.000m2 được các hộ dân trả lại) thuộc các thửa 1537, 1536, 1789 tạo lạc tại ấp MX, xã T, huyện GCĐ, tỉnh Tiền Giang. Xét thấy tại Công văn số 461/TL-VPĐK ngày 08/02/2018 của Văn phòng đăng ký đất đai thuộc sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang đã xác định: - Theo sổ mục kê ruộng đất được UBND xã ký năm 1983 (Sổ bộ ruộng đất) có thông tin tên chủ sử dụng ruộng đất thửa số 780, 781, 783, 784 - sơ đồ giải thửa đất ruộng - tờ số 01 là Năm và được viết bằng viết chì; Thửa đất 1536, 1537 - tờ bản đồ số 01 tương ứng thửa đất số 781, 780 - sơ đồ giải thửa đất ruộng - tờ số 01; Thửa đất 1789 - tờ bản đồ số 01 thuộc 01 phần thửa đất 783 + 01 phần thửa đất số 784 - sơ đồ giải thửa đất ruộng - tờ số 01. - Tại sổ mục kê đất đai của xã T thị xã G, tỉnh Tiền Giang do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang lập ngày 31/12/2009 thể hiện bà Trần Thị Thùy L đứng tên kê khai người quản lý, sử dụng đất tại các thửa 1536 diện tích 1.500m2 loại đất LUA; thửa 1537 diện tích 1.220m2 loại đất ONT-CLN; thửa 1789 diện tích 3.000m2 loại đất LUA (Bút lục 194-196). Như vậy theo sổ mục kê (còn gọi là sổ bộ ruộng đất) do Ủy ban nhân dân xã T lập năm 1983 chủ sử dụng ruộng đất đứng tên kê khai là người tên N gồm các thửa đất số 1536, 1537, 1789 (thửa cũ 781, 780, 783 và một phần thửa 784). Các nguyên đơn bà Mười H, ông Mười B và bà Trần Thị Đ cho rằng do cụ Trần Văn C (tên thường gọi là Trần Văn N hoặc NC) đứng tên chủ sử dụng trong Sổ mục kê ruộng đất năm 1983 của xã T. Nhưng các nguyên đơn cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cụ Trần Văn C tự là Trần Văn N (NC) như nguyên đơn đã khai. Còn bị đơn bà Trần Thị Thùy L thì khai cha bà là Trần Văn L tên thường gọi là N Lu Li đứng tên kê khai trong sổ mục kê năm 1983. Xét thấy lời khai của bà Trần Thị Thùy L là có căn cứ phù hợp với lời khai của người làm chứng ông Huỳnh Văn H đã khai: “...Ông H làm chủ tịch xã T từ năm 1991- 2004, bà Trần Thị Thùy L là con của ông Trần Văn L (tức là ông N lu li) tôi được biết ông Trần Văn L thần kinh không được bình thường” (Bút lục 331). Trong khi Ủy ban nhân dân xã T lập sổ ruộng đất vào năm 1983 còn cụ Trần Văn C chết năm 1963 và cụ Trần Thị Đ1 chết năm 1969. Các nguyên đơn cũng thừa nhận sau khi cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1 chết thì phần đất trên do ông Trần Văn L quản lý canh tác. Vì vậy có căn cứ xác định cụ Trần Văn C không phải là người đứng tên chủ sử dụng ruộng đất trong sổ ruộng đất năm 1883 mà do ông Trần Văn L (tự là ông N - N lu li) đứng tên kê khai trong sổ mục kê ruộng đất đối với các thửa số 780, 781, 783, 784 -1 sơ đồ giải thửa đất ruộng - tờ số 01 tương ứng các thửa đất 1536, 1537 - tờ bản đồ số 01 theo sổ mục kê ruộng đất năm 2009 do bà Trần Thị Thùy L đứng tên kê khai người quản lý, sử dụng đất. Đồng thời, tại biên bản hòa giải ngày 28/11/1997 UBND xã T giải quyết về việc tranh chấp đất theo yêu cầu của ông Trần Văn L và bà Trần Thị Thùy L thì 06 hộ dân gồm Nguyễn Thành L, Lê Thanh H, Trừ Văn Đ, Trần Văn M, Huỳnh Văn K đồng ý mỗi người trả 1⁄2 diện tích đất cho ông Trần Văn L, tổng cộng chung diện tích được trả lại cho ông Trần Văn L là 3.000m2 đất lúa (Bút lục 02-05). Ngày 18/3/1998 bà Trần Thị Thùy L làm đơn xin đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 5.720m2 đất gồm các thửa 1537: 1220m2 TV; thửa 1536: 1500m2 2L; thửa 1789: 3000m2 2L. Nội dung kê khai nguồn gốc đất cha Trần Văn L sử dụng trước năm 1975 hiện nay bị bệnh tâm thần để lại cho con chung hộ khẩu. Tại đơn xin đăng ký cấp quyền sử dụng đất, bà Trần Thị Thùy L khai do cha của bà là ông Trần Văn L bị bệnh tâm thần nên bà kê khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất. mặc dù trong Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do văn phòng đăng ký đất đai - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang cung cấp không có hồ sơ bệnh án của ông Trần Văn L, tuy nhiên căn cứ vào lời khai của những người làm chứng: Ông H làm chủ tịch xã T từ năm 1991 - 2004 có lời khai “bà Trần Thị Thùy L là con của ông Trần Văn L (tức là ông N lu li) tôi được biết ông Trần Văn L thần kinh không được bình thường” (Bút lục 331) và tại biên bản ghi lời khai ngày 10/01/2022 ông Trần Văn Mười B cũng có lời khai: “ Theo tôi biết, ông Trần Văn L có vấn đề về thần kinh nhưng không có giấy tờ xác nhận” (Bút lục 637-638). Do đó xét thấy việc bà Trần Thị Thùy L làm đơn xin đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 5.720m2 đất gồm các thửa 1537: 1.220m2 TV; thửa 1536: 1.500m2 2L; thửa 1789: 3.000m2 2L và ghi nội dung kê khai nguồn gốc đất cha Trần Văn L sử dụng trước năm 1975 hiện nay bị bệnh tâm thần để lại cho con chung hộ khẩu là phù hợp. |
Quyết định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số: 247/2023/DS-PT Ngày 08 tháng 5 năm 2023 “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất” | Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. - Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Trần Thị Thùy L. 1. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 39/2020/DS-ST ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang: 1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Trần Thị Mười H, ông Trần Văn Mười B, Trần Thị Đ về việc yêu cầu hủy : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06037 do Ủy ban nhân dân thị xã G, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 30/6/2015 cho hộ bà Trần Thị Thùy L đối với thửa đất số 155, tờ bản đồ số 4, diện tích 886,9m2 loại đất ONT + CLN, tọa lạc tại ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 03197 do Ủy ban nhân dân thị xã G, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 24/11/2014 cho hộ bà Trần Thị Thùy L đối với thửa đất số 156, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.579,0m2 loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. 1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Trần Thị Mười H, ông Trần Văn Mười B, bà Trần Thị Đ về việc xác định thửa đất số 155, tờ bản đồ số 4, diện tích 886,9m2 loại đất ONT + CLN và thửa đất số 156, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.579,0m2 loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang là di sản thừa kế của cụ Trần Văn C và cụ Trần Thị Đ1. 1.3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Trần Thị Mười H, ông Trần Văn Mười B, Trần Thị Đ về việc yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất gồm thửa đất số 155, tờ bản đồ số 4, diện tích 886,9m2 loại đất ONT + CLN và thửa đất số 156, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.579,0m2 loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. 2. Về chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm: - Về chi phí tố tụng: Các nguyên đơn bà Trần Thị Mười H, ông Trần Văn Mười B, bà Trần Thị Đ phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng 31.981.000 đồng (Ba mươi mốt triệu chín trăm tám mươi mốt ngàn đồng). Được khấu trừ vào số tiền do nguyên đơn đã nộp tạm ứng. Đương sự đã nộp đủ. - Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị Mười H, ông Trần Văn Mười B, bà Trần Thị Đ được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm cho bà Trần Thị Mười H, bà Trần Thị Đ, ông Trần Văn Mười B mỗi người 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo các biên lai thu số 42030, 42028, 42028 ngày 23/8/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. 3. Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn bà Trần Thị Thùy L không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Trần Thị Thùy L số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu số 0000276 ngày 05/9/2022 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang. 4. Các quyết định khác của án sơ thẩm về việc đình chỉ xét xử đối với phần rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị Mười H và bà Trần Thị Đ về việc tranh chấp thửa đất số 1789, tờ bản đồ số 1, diện tích 3000m2, loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00407 cấp ngày 14/5/1998 cho hộ bà Trần Thị Thùy L; về việc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Văn Mười B yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00407 cấp ngày 14/5/1998 do Ủy ban nhân dân huyện GCĐ cấp cho hộ bà Trần Thị Thùy L, xác định di sản thừa kế và chia thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1789, tờ bản đồ số 1, diện tích 3000m2, loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang; về việc giao cho hộ bà Trần Thị Thùy L tiếp tục quản lý, sử dụng thửa đất số 1789, tờ bản đồ số 1, diện tích 3000m2 (đo đạc thực tế 3.103,1m2) loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc ấp MX, xã T, thị xã G, tỉnh Tiền Giang; về hoàn trả tạm ứng án phí cho bà Trần Thị Yến N không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị. 5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. |
Tên bản án là gì Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. |
Hội đồng xét xử gồm những ai Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Đức Phương. Các Thẩm phán: Bà Huỳnh Thanh Duyên. Ông Nguyễn Văn Tửu. |
Ai là nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | 1. Bà Dương Thị H, sinh năm 1944 (vắng mặt). 2. Bà Dương Thị B, sinh năm 1948 (có mặt). Cùng địa chỉ: Ấp L, xã Đ, huyện D, tỉnh T. Người đại diện hợp pháp của bà Dương Thị H: Bà Dương Thị L, sinh năm 1963 (Theo văn bản ủy quyền ngày 12/9/2022 - có mặt). 3. Bà Dương Thị L, sinh năm 1963 (có mặt). Địa chỉ: Ấp B, xã L, thị xã D, tỉnh T. Tạm trú: Ấp L, xã Đ, huyện D, tỉnh T. 4. Bà Dương Thị Ph, sinh năm 1964 (có mặt). Địa chỉ: Số 150, đường 19/5, Khóm 2, Phường 1, thị xã D, tỉnh T. |
Ai là bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | Ông Dương Văn Đ, sinh năm 1952 (có mặt). Địa chỉ: Ấp B, xã L, thị xã D, tỉnh T. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đ: Luật sư Nguyễn Văn N, Đoàn Luật sư tỉnh T (có mặt). |
Ai là đại diện Viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Ông Hà Văn Hừng - Kiểm sát viên. |
Ai là thư ký toà Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | Thư ký phiên tòa: Ông Bùi Đức Anh - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. |
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | Cụ Dương Văn Đ1 (chết 1997) và cụ Phan Thị L2 (chết 2016) có quyền sử dụng diện tích 40.000m2, loại đất nuôi trồng thủy sản và diện tích 6.104,3m2, loại đất ở và cây lâu năm, cùng tọa lạc tại ấp B, xã L, thị xã D, tỉnh T. Nguồn gốc đất do cụ Dương Văn Nh (cha cụ Đ1) để lại. Cụ Đ1 và cụ L2 có 5 người con, gồm các ông/bà Dương Văn Đ, Dương Thị H, Dương Thị B, Dương Thị L, Dương Thị Ph. Cụ Đ1 và cụ L2 chết không để lại di chúc. Trước khi chết thì cụ Đ1 có căn dặn cụ L2 và các con để diện tích 40.000m2 cho ông Đ quản lý, sử dụng và có nhiệm vụ thờ cúng tổ tiên, vì ông Đ là con trai duy nhất, còn diện tích 6.104,3m2 thì chia đều cho 05 chị em. Thực hiện ý nguyện của cụ Đ1, các bà đã thống nhất giao cho ông Đ diện tích 40.000m2. Sau khi cụ L2 chết thì các nguyên đơn yêu cầu chia diện tích 6.104,3m2, nhưng ông Đ chỉ đồng ý chia cho 04 chị em, mỗi người 240m2 (ngang 08m x dài 30m). Vì vậy, các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia diện tích đất còn lại sau khi trừ diện tích đất có mộ là 5.104,3m2 cho 04 người, mỗi người được hưởng bằng 1.020,86m2. |
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | Nguồn gốc diện tích 6.104,3m2 là của ông nội (Dương Văn Nh) để lại cho cha là ông Đ1 như các nguyên đơn trình bày là đúng. Trước năm 1975, do chiến tranh nên đất bị bỏ hoang. Sau năm 1975, cụ Đ1 cất một cái chòi nhỏ để ở và trồng hoa màu trên một phần đất này. Đến năm 1980, do sức khỏe yếu, hơn nữa chỉ một mình ông là con trai nên cụ Đ1 mới cho vợ chồng ông san lấp động cát và cất nhà ở trên thửa đất này và ông có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên. Khi Nhà nước có chủ trương cấp quyền sử dụng đất thì cụ Đ1 cho ông đứng kê khai, đăng ký đất và ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy CNQSDĐ) vào năm 1995. Trong suốt quá trình ông sử dụng, kê khai, đăng ký và được cấp giấy CNQSDĐ thì không có ai tranh chấp. Đến năm 2004, ông có cho người em ruột là bà L mượn một phần đất để cất nhà ở tạm, đến khi nào ông có nhu cầu sử dụng đất thì ông lấy lại. Do đó, ông không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích đất 5.104,3m2. Vì bà H, bà B và bà L đã được hưởng di sản của cha mẹ để lại là căn nhà gắn liền với diện tích đất 1.420m2, thửa số 164, tờ bản đồ số 09 và diện tích đất 2.460,2m2, thửa số 125, loại đất trồng lúa, tờ bản đồ số 08, cùng tọa lạc tại ấp L, xã Đ, huyện D, tỉnh T. Ông Đ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà L, ông Ph1 và chị Q có nghĩa vụ di dời căn nhà và tài sản có trên đất đi nơi khác để trả lại diện tích 446,9m2, thuộc một phần thửa số 82 cho ông sử dụng. |
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | |
Quyết định của toà sơ thẩm Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | |
Quan điểm của viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | Đất có nguồn gốc của cụ Đ1, ông Đ cùng khai phá. Thời điểm năm 1995, ông Đ được cấp giấy CNQSDĐ nhưng cụ Đ1 và cụ L2 không phản đối. Đất cấp cho hộ ông Đ. Tại thời điểm cấp giấy thì hộ ông Đ có 7 người, gồm: Cụ Đ1, ông Đ, bà T (vợ ông Đ) và các con ông Đ. Theo quy định tại Luật Đất đai năm 2013 thì những người nêu trên có quyền sử dụng đất nên diện tích đất ông Đ đứng tên được chia làm 2 phần, trong đó cụ Đ1 và ông Đ mỗi người 1 phần. Cụ Đ1 chết không để lại di chúc nên chia phần của cụ Đ1 cho các con theo pháp luật, có tính công sức của ông Đ. Trong sơ đồ chia thừa kế có phần ký hiệu O nhưng chưa xác minh làm rõ phần đất này thuộc thửa nào? Không thẩm định đo đạc xác định lại là vi phạm tố tụng, gây khó khăn cho việc thi hành án. Bản án sơ thẩm chia cho ông Đ 2.205m2 là phần đất sau khu mộ, có giá trị thấp hơn nhưng lại buộc ông Đ trả giá trị theo kết quả định giá cho người thừa kế khác là thiệt thòi cho ông Đ. Tổng chiều dài phần đất giáp đường đất là 48,64m nhưng Tòa án lại chia cho các đương sự (bà L, bà H, bà B, bà Ph) tổng cộng là 49,7m là không chính xác; Đồng thời cơ quan chuyên môn cũng không tách ra từng phần đất được chia, xác định vị trí cụ thể thửa đất nên việc thi hành án là không thể thực hiện được. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự chấp nhận kháng cáo của ông Đ, chấp nhận kháng nghị của Viện trường Viện kiểm sat nhân dân tỉnh T, hủy bản án sơ thẩm. |
Nhận định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy: Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý và giải quyết vụ án là đúng quy định tại khoản 5 và khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Đ kháng cáo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh kháng nghị đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nên vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Về nội dung: [1] Các đương sự thống nhất xác nhận: Cụ Đ1 và cụ L2 là vợ chồng, có 5 người con, gồm: Ông Đ, bà L, bà H, bà B, bà Ph. Cụ Đ1 và cụ L2 chết không để lại di chúc. Đất tranh chấp là thửa 508, diện tích 3.250m2 và thửa 509, diện tích 3.250m2, cùng tờ bản đồ số 10, tại ấp B, xã L, huyện D, được UBND huyện D cấp giấy CNQSDĐ cho ông Đấu ngày 17/8/1995. Nguồn gốc các thửa đất trên là của cụ Đ1. [2] Quá trình tố tụng, ông Đ cho rằng đã được cụ Đ1 cho phần đất trên nhưng không có căn cứ chứng minh, không được người thừa kế của cụ Đ1 thừa nhận. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định thửa 508 và thửa 509 là di sản thừa kế của cụ Đ1 và chia thừa kế theo pháp luật cho ông Đ, bà L, bà H, bà B, bà Ph là có căn cứ. [3] Hồ sơ vụ án thể hiện: Ông Đ được UBND huyện D cấp giấy CNQSDĐ đối với thửa 508, mục đích sử dụng là đất trồng cây lâu năm và thửa 509, mục đích sử dụng là đất ở và đất trồng cây lâu năm. Việc Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành thủ tục định giá tài sản và đo đạc diện tích các thửa đất làm căn cứ chia thừa kế là đúng. [4] Tuy nhiên, tại Biên bản định giá ngày 30/7/2020, Hội đồng định giá chỉ xác định giá trị quyền sử dụng đất của thửa 508, 509 là 300.000 đồng/m2, mà không xác định giá trị quyền sử dụng đất ở, đất trồng cây lâu năm là không đúng quy định. [5] Tại Sơ đồ khu đất ban hành kèm theo Công văn số 382/VPĐKĐĐ- KTĐC ngày 19/8/2020 của Văn phòng Đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T (bút lục 373), thể hiện tổng diện tích đất tranh chấp là 5.163,6m2, nhưng sơ đồ này không thể hiện tọa độ cụ thể và không thể hiện diện tích nhà, vật kiến trúc trên đất. Việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ sơ đồ này để chia cho các đồng thừa kế là không thể thi hành án. Đồng thời, tại sơ đồ khu đất thể hiện chiều dài giáp đường đất là 48,64m nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại chia cho bà L, bà H, bà B, bà Ph diện tích đất có chiều dài tổng cộng 49,7m là không phù hợp. [6] Đất của bà L được chia 215,6m2, bà H, bà B, bà Ph mỗi người được chia 392m2. Tại điểm b, Điều 4 Quyết định số 26/2021/QĐ-UBND ngày 18/11/2021 của UBND tỉnh T Quy định điều kiện tách thửa đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất trên địa bàn tỉnh T, có nội dung: Diện tích tối thiểu của thửa đất mới hình thành đối với đất nông nghiệp của các phường, trị trấn, xã là 500m2. Đối chiếu quy định trên thì việc chia thừa kế cho các đương sự với diện tích trên là trái quy định. [7] Ngoài ra, việc định giá tài sản tranh chấp là ngày 30/7/2020 nhưng đến ngày 23/3/2022, Tòa án mới xét xử sơ thẩm là quá thời hạn quy định nhưng hồ sơ vụ án không thể hiện ý chí của các đương sự về việc đồng ý với kết quả định giá ngày 30/7/2020 này và không yêu cầu định giá lại. [8] Ông Đ và bà T là người trực tiếp quản lý di sản nên phải được hưởng phần công sức quản lý, tôn tạo di sản. Do không xác định được cụ thể công sức là bao nhiêu thì ông Đ, bà Tốt phải cùng được hưởng bằng một kỷ phần thừa kế. Việc Tòa án không chia cho ông Đ, bà T hưởng phần công sức nêu trên là không đúng pháp luật. [9] Từ những nội dung nêu trên, thấy rằng việc Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát, chấp nhận kháng cáo của ông Đ, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T, hủy bản án sơ thẩm. [10] Tạm ứng chi phí tố tụng và án phí sơ thẩm do các đương sự nộp sẽ được xem xét khi Tòa án giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. [11] Án phí phúc thẩm: Ông Đ không phải chịu. |
Quyết định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số: 692/2022/DS-PT Ngày 27-9-2022 V/v: “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản”. | Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Chấp nhận kháng cáo của ông Dương Văn Đ. 2. Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T. 3. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2020/DS-ST ngày 23 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh T. 4. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh T giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung. được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được. thu thập chứng cứ chưa 5. Án phí phúc thẩm: Ông Dương Văn Đ không phải chịu. 6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. |
Tên bản án là gì Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” |
Hội đồng xét xử gồm những ai Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Bùi Xuân Trọng; Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hồng Nam; Bà Vũ Thị Thu Hà. |
Ai là nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1962; Nơi cư trú: Thôn Q, xã V, thành phố T, tỉnh T; có mặt. |
Ai là bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Ông Nguyễn Xuân M1, sinh năm 1956; Nơi cư trú: Thôn T1, xã V, thành phố T, tỉnh T; có mặt. |
Ai là đại diện Viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Ông Phạm Đức Thắng - Kiểm sát viên cao cấp. |
Ai là thư ký toà Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Ông Phan Nhật Phong - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. |
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị M trình bày và có yêu cầu cụ thể như sau: Bố bà là cụ Nguyễn Xuân K1 (chết năm 1987) có hai vợ. Cụ K1 và cụ D1 (chết năm 1974) kết hôn năm 1935, có 09 người con là bà Nguyễn Thị T3, bà Nguyễn Thị R, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H4 (chết năm 2021, có 04 con: Nông Văn H2, Nông Văn B1, Nông Văn C và Nông Thị L6), bà Nguyễn Thị T6, bà Nguyễn Thị Đ1, ông Nguyễn Xuân X (chết 1996, có vợ bà Lại Thị M2 và 04 con Nguyễn Thị T9, Nguyễn Xuân L, Nguyễn Thị L1 và Nguyễn Thị L2), ông Nguyễn Xuân M1 và bà Nguyễn Thị U. Năm 1953, Cụ K1 kết hôn với cụ Trần Thị N2 (chết năm 2009) có 02 con là bà Nguyễn Thị N3 và bà Nguyễn Thị M; (Bà N3 chết năm 2019, chồng là ông Nguyễn Hữu T8 và 02 con là Nguyễn Thị H1 và Nguyễn Hữu L3). Cụ K1 trước đây là địa chủ, có nhiều đất đai nên sau khi kết hôn đã cho cụ N2 mảnh đất đang tranh chấp (thửa 196, tờ bản đồ 06) tại thôn Q, xã V, còn cụ K1 sống cùng bà cả và các anh chị con bà cả ở thôn T5, xã V. Cụ N2 làm một căn nhà nhỏ tường đất lợp rạ để 03 mẹ con sinh sống. Đến năm 1978, bà N3 đi lấy chồng và ở nhà chồng, còn bà vẫn ở cùng cụ N2, mẹ con chăm lo cho nhau. Cụ N2 nói đất này cho bà, bà toàn quyền định đoạt. Năm 1980, khi Ủy ban nhân dân xã tiến hành đo đạc đất đai, bà đứng ra kê khai diện tích đất. Năm 1995, bão làm đổ hết cả nhà cửa bà phải vay mượn và buôn bán lấy tiền xây nhà, tôn sân, đào tre xây tường bao xung quanh thì mới có được mảnh đất như ngày hôm nay. Mảnh đất trên bà sử dụng ổn định, đóng thuế đầy đủ, lâu dài không có tranh chấp với ai. Bà được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG068888 ngày 11/12/2006, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00003/VC-TP/1152/QĐ-UB tên Nguyễn Thị M. Quá trình kê khai, đo đạc đất đai và Ủy ban nhân dân xã làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ai có ý kiến gì. Năm 2011, ông M1 và bà N3 đến nhà bà đòi 01 sào ruộng của mẹ con bà về cho ông T14 làm, các anh chị không có ý kiến gì về diện tích đất ở của bà. Năm 2019 bà N3 mất, khi còn sống bà N3 không đòi hỏi quyền lợi gì về mảnh đất này, chưa bao giờ UBND xã phải hòa giải tranh chấp đất đai giữa chị em bà. Nay do sức khỏe yếu, điều kiện kinh tế khó khăn nên bà muốn nhượng một phần mảnh đất để lấy tiền thuốc men, sinh sống và sửa lại gian nhà cho đỡ dột nát. Tuy nhiên, khi liên hệ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở địa phương thì bà được UBND xã thông báo ông M1 có đơn cho rằng đất trên là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Xuân K1 nên UBND xã V không cho bà chuyển nhượng đất, địa phương đã gọi các bên hòa giải nhiều lần nhưng ông M1 đều vắng mặt nên không hòa giải được. Nay bà M cho rằng ông M1 cản trở bà thực hiện quyền của người có quyền sử dụng đất hợp pháp, đề nghị Tòa án giải quyết công nhận quyền sử dụng đất của bà và yêu cầu ông M1 chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền sử dụng đất của bà. Đối với yêu cầu của bị đơn ông Nguyễn Xuân M1 về chia di sản thừa kế của cụ K1 thửa số 196, tờ bản đồ số 06 tại thôn Q, xã V và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà có quan điểm là cụ K1 trước đây đã cho cụ N2 diện tích đất trên để mẹ con bà ở, cụ K1 không sinh sống trên đất, không có công sức tôn tạo đất, không thực hiện nghĩa vụ tài chính và không kê khai đứng tên người sử dụng đất nên không có quyền sử dụng đất. Cụ N2 đã cho bà mảnh đất trên từ trước nên bà đã đứng tên, nộp thuế, sử dụng ổn định, năm 2006 bà được UBND thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ai có ý kiến gì. Bà là người sử dụng đất ổn định lâu dài được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất; diện tích đất trên không phải là di sản thừa kế của cụ K1 để lại nên bà không chấp nhận yêu cầu của ông M1 về chia di sản thừa kế đất này và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. |
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Ông đồng ý với phần trình bày về quan hệ huyết thống bố mẹ và các anh chị em trong gia đình như bà M trình bày. Năm 1953, bố ông là cụ K1 lấy vợ hai là cụ Trần Thị N2 (chết năm 2009) sau cải cách ruộng đất thì cụ K1 mua nhà ở thôn T5, xã V sống cùng mẹ ông là cụ D1 và anh chị em ông, cụ N2 vẫn ở cùng ông bà nội tại Thôn Q, xã V. Sau một thời gian bà N2 phát sinh mâu thuẫn với em dâu nên ông bà nội cho bố ông mảnh vườn tại Thôn Q, xã V (đất đang có tranh chấp) để cụ N2 làm nhà ở riêng. Bố ông chết năm 1987 không để lại di chúc, di sản để lại là mảnh đất 154m2 tại thửa số 196, tờ bản đồ số 06, ở thôn Q, xã V, thành phố T, tỉnh T hiện bà Nguyễn Thị M quản lý đã được UBND thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Thị M. Ông không chấp nhận yêu cầu của bà M. Ngày 18/3/2021, ông M1 có đơn yêu cầu phản tố, cho rằng thửa số 196, tờ bản đồ số 06 ở thôn Q, xã V, thành phố T, tỉnh T là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Xuân K1 chưa chia, việc bà M tự ý làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) không thông báo nên ông không biết. Ông M1 đề nghị hủy GCNQSDĐ số AG068888 ngày 11/12/2006 vào sổ số H00003/VC-TP/1152/QĐ-UB mang tên Nguyễn Thị M và phân chia thừa kế đối với thửa đất trên. Cụ thể hàng thừa kế của bố ông có 11 người con nên mỗi người được hưởng 14m2 đất và đề nghị giao cho 10 người (trừ bà M) được nhận kỷ phần bằng hiện vật. |
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | |
Quyết định của toà sơ thẩm Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng cụ Nguyễn Xuân K1 chết năm 1987, trước khi Pháp lệnh Thừa kế công bố ngày 10/9/1990. Theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành pháp lệnh thì thời hiệu mở thừa kế tính từ ngày công bố pháp lệnh. Do vậy thời điểm mở thừa kế của cụ K1 được tính từ ngày 10/9/1990, đến ngày 12/3/2021 bị đơn ông Nguyễn Xuân M1 nộp đơn kiện tại Tòa án đã quá 30 năm, các đương sự thừa nhận cụ K1 cho cụ N2 mảnh đất để làm nhà tạm mẹ con ra ở, sau này bà M xây nhà, công trình phụ, tường bao, làm sân... trên đất. Ông M1 khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ K1 là quyền sử dụng đất (bất động sản), không phải di sản là nhà và do ông M1 chỉ yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ K1 là quyền sử dụng đất, không yêu cầu chia nhà, cũng như ngày 10/9/2021 nguyên đơn bà Nguyễn Thị M nộp đơn yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản thừa kế của bị đơn nên đã hết thời hiệu khởi kiện. Nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng, bởi: + Theo lời khai của một số đương sự có trong hồ sơ vụ án thì thời điểm cụ N2 về ở trên đất cùng cụ K1 đã có nhà ở. Lời trình bày của bà Nguyễn Thị N3 tại Bút lục 64: “Sau khi sinh được 2 chị em tôi là Nguyễn Thị N3 và Nguyễn Thị M... bố tôi đã làm nhà cho mẹ con tôi ở.”. Bút lục 62 lời trình bày của ông Nguyễn Xuân M1 “Bố tôi tách 2 bà ở riêng nhà. Bố tôi làm nhà cho bà kế tại đất của cụ tôi để lại cho bố tôi...”. Cũng tại Bút lục số 42 lời trình bày của ông Nguyễn Xuân M1 có sự xác nhận của các ông bà là cô chú ruột, thím dâu, xác nhận lời trình bày của ông. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị M cũng xác nhận lời khai trên là đúng nhưng bà cho rằng ngôi nhà cụ K1 làm chỉ là nhà tre vách đất đã bị hỏng, ngôi nhà hiện nay là do bà mới làm lại. Như vậy đủ căn cứ để xác định di sản do cụ K1 để lại đã có nhà ở trên đất. Phía bị đơn có yêu cầu phân chia di sản của cụ K1,vậynhàởđâycũngđượcxácđịnhlàdisảncủacụK1đểlại. - Xem xét các quy định tại Phần I về dân sự tại Giải đáp số 01/GĐ- TANDTC ngày 05/01/2018 thì thấy: “Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia”. - Theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 2 và khoản 2 Điều 17 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì “Thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực không được tính vào thời hiệu trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991”. Ngoài ra, Nghị quyết số 02/2004 ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Phần I mục 2.2 A có quy định: “Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.” Việc Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng do bị đơn chỉ có yêu cầu chia di sản của cụ K1 là quyền sử dụng đất, không có yêu cầu chia nhà nên không có cơ sở áp dụng quy định về thời hiệu như trên là không đúng. Không có quy định về việc áp dụng quy định về thời hiệu này thì phải phụ thuộc vào việc đương sự có yêu cầu hay không yêu cầu chia. Từ đó dẫn đến việc nhận định đối với phần di sản của cụ K1 để căn cứ khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định hiện nay bà M đang quản lý di sản nên phần di sản của cụ K1 là 1/2 diện tích đất đang tranh chấp thuộc về bà M như vậy là không đúng. Cũng tại phiên tòa hôm nay bà M trình bày hiện tại bà cũng không ở ngôi nhà trên kể từ khi đi xây dựng gia đình, hiện ngôi nhà này bà đang cho cháu họ thuê để ở. Như vậy, trên thực tế hiện nay bà M cũng không ở và không phải là người trực tiếp sử dụng, quản lý, chiếm hữu phần di sản này. Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân M1 về yêu cầu chia di sản thừa kế do hết thời hiệu khởi kiện là không đúng với quy định pháp luật. [4]. Đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị H1 về chia di sản thừa kế của cụ N2: - Cụ N2 chết ngày 18/4/2009, chị H1 gửi đơn khởi kiện chia thừa kế ngày 01/3/2022. Theo quy định tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ N2 vẫn còn. - Hàng thừa kế thứ nhất của cụ N2 gồm bà M và bà N3. Sau đó đến năm 2019 bà N3 chết (bà N3 có chồng là ông Nguyễn Hữu T8 và 02 con là chị Nguyễn Thị H1 và anh Nguyễn Hữu L3). Như vậy, trường hợp chia di sản thừa kế của cụ N2 thì ông T8, chị H1 và anh L3 là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà N3 đối với di sản bà N3 được chia. - Tài sản tranh chấp trong vụ án này là diện tích đất tại thửa đất số 196, tờ bản đồ số 06, thôn Q, xã V, thành phố T đã được UBND thành phố T cấp GCNQSDĐ mang tên bà M. Như đã phân tích trên, đất có nguồn gốc của cụ K1 cho cụ N2 từ năm 1967 - 1968 để cụ N2 làm nhà 03 mẹ con ở riêng, khi bà N3 đi lấy chồng thì nhà đất này cụ N2 và bà M sinh sống mẹ con nuôi nhau. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng bà M kê khai đứng tên và thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng đất, đồng thời bà M đã tôn tạo xây dựng nhà, công trình phụ, tường bao, làm sân trên đất cụ N2 và anh chị em đều biết nhưng không ai có ý kiến gì, khi làm thủ tục đến khi bà M được cấp GCNQSDĐ xã không nhận được đơn từ, ý kiến khiếu nại gì liên quan đến cấp GCNQSDĐ cho bà M, đồng thời cho rằng ý chí của cụ N2 khi còn sống đã cho bà M diện tích đất này là không đúng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà M cũng không có tài liệu gì chứng minh diện tích đất trên đã được cụ N2 cho riêng bà còn việc bị đơn có biết việc này hay không thì bà không nắm được, ý kiến này cũng trùng khớp với lời trình bày của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là hoàn toàn không biết bà Nguyễn Thị M được cấp GCNQSDĐ số AG068888 ngày 11/12/2006. Từ những phân tích trên thấy tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu độc lập của chị H1 về việc chia di sản thừa kế của cụ N2 là không đúng, làm ảnh hưởng đến những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà N3 đối với di sản mà bà N3 để lại. [5]. Xét yêu cầu về hủy GCNQSDĐ số AG068888 ngày 11/12/2006 vào sổ số H00003/VC-TP/1152/QĐ-UB mang tên Nguyễn Thị M thấy: Bản án sơ thẩm nhận định nguồn gốc đất trước đây của cụ K1 cho cụ N2, năm 1987 cụ K1 chết không để lại di chúc, còn 2 mẹ con bà M và cụ N2 ở trên đất này. Thời điểm bà M làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cụ N2 vẫn còn sống nhưng hồ sơ không có tài liệu tặng cho là chưa phù hợp quy định. Tuy nhiên qua xác minh thời điểm này cụ N2 còn minh mẫn nên xác định cụ N2 biết và cho bà M phần tài sản của mình, sau khi bà M được cấp GCNQSDĐ đã sử dụng đất ổn định, không ai có ý kiến gì. Nay bà M là người duy nhất có quyền sử dụng đất trên nên không cần thiết phải hủy GCNQSDĐ. Việc nhận định như trên là hoàn toàn không có cơ sở và trái với quy định pháp luật, bởi lẽ: Sau khi cụ K1 mất đi, hồ sơ tài liệu lưu giữ tại chính quyền địa phương (Bút lục 197) thể hiện tại tờ bản đồ số 06, thửa 196, diện tích 154m2 thuộc thôn Q, xã V người sử dụng đất mang tên cụ Trần Thị N4. Tuy nhiên toàn bộ hồ sơ kê khai và xem xét cấp GCNQSDĐ của bà M (từ Bút lục 170 đến 174) đều ghi tên bà Nguyễn Thị M là chủ sử dụng đất, trong khi thời điểm này cụ Trần Thị N2 vẫn đang còn sống và vẫn đứng tên chủ sử dụng thửa đất. Như vậy việc kê khai như trên là không đúng. Việc cấp GCNQSDĐ cho bà M là đã cấp sai đối tượng. Bên cạnh đó, nguồn gốc di sản này đã được cấp sơ thẩm xác định là của cụ Nguyễn Xuân K1 và cụ Trần Thị N2. Cụ K1 mất đi không để lại di chúc, tuy nhiên trong toàn bộ hồ sơ vụ án không có bất cứ tài liệu nào thể hiện trước và tại thời điểm thực hiện việc kê khai cấp GCNQSDĐ nguyên đơn đã thực hiện thủ tục kê khai di sản thừa kế đối với di sản này. Và cũng không có bất cứ tài liệu nào thể hiện những người thuộc hàng thừa kế của cụ K1 có văn bản từ chối nhận di sản thừa kế trên. Như vậy di sản có nguồn gốc của cụ K1, chưa thực hiện việc kê khai di sản thừa kế mà đã thực hiện cấp GCNQSDĐ cho bà M là hoàn toàn trái với quy định pháp luật chứ không phải là có sai sót như nhận định của Bản án sơ thẩm. Trong quá trình xét hỏi công khai tại phiên tòa phúc thẩm và căn cứ đơn trình bày của bà N3, ông M1 và chị H1 thì tại thời điểm bà M được cấp GCNQSDĐ thì cụ N2 đã bị khuyết tật về thị giác và thính giác. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng vì cụ vẫn còn minh mẫn nên cụ buộc phải biết việc bà M làm thủ tục cấp GCNQSDĐ và cụ đồng ý cho bà M làm GCNQSDĐ phần tài sản này là không chính xác. Từ những phân tích trên và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, các Đơn đề nghị của bà Nguyễn Thị N3, ông Nguyễn Xuân M1, lời khai của ông M1, chị H1 thể hiện việc bà M được cấp GCNQSDĐ không ai được biết để có ý kiến phản đối. Chỉ đến năm 2014, khi bà M có ý định chuyển nhượng phần đất cho người khác thì tất cả các người con của cụ K1, cụ N2 và cụ D1 mới biết đất đã được cấp tên của bà Nguyễn Thị M. Và ngay khi biết được thông tin, ông M1 và bà N3 đã có đơn ngăn chặn gửi đến UBND xã V để đề nghị giải quyết theo quy định. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng không ai có ý kiến phản đối việc cấp GCNQSDĐ của bà M là không đúng. Bản án cấp sơ thẩm đã tuyên không chấp nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Xuân M1 và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là không đúng quy định pháp luật. |
Quan điểm của viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | |
Nhận định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | [III]. Hội đồng xét xử thấy Bản án sơ thẩm số 01/2022/DS-ST ngày 05 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh T đã có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật, những sai sót này cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó Hội đồng xét xử đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định. Do Bản án sơ thẩm bị hủy nên người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; Tòa án cấp sơ thẩm sẽ quyết định về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng khi giải quyết lại vụ án. |
Quyết định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 08/02/2023 V/v “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” | Căn cứ khoản 3 Điều 308 và Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; 1. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn là ông Nguyễn Xuân M1 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Hữu T8, anh Nguyễn Hữu L3, chị Nguyễn Thị H1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2022/DS-ST ngày 05 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh T về về việc “Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn trở quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa Nguyên đơn bà Nguyễn Thị M với Bị đơn ông Nguyễn Xuân M1 và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác. 2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh T giải quyết, xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.. 3. Về án phí: Các đương sự kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; hoàn trả anh Nguyễn Hữu L3 và chị Nguyễn Thị H1, mỗi người 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai thu tương ứng số 0005351 và 0005352 ngày 29/4/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh T. Án phí, tạm ứng án phí và chi phí tố tụng dân sự sơ thẩm sẽ được quyết định khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. 4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. |
Tên bản án là gì Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. |
Hội đồng xét xử gồm những ai Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thảo Các Thẩm phán: 1. Ông Lê Ngọc Tường 2. Bà Đỗ Thị Hòa |
Ai là nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | 1. Bà Trần Thị Ngọc Tr, sinh năm 1963 2. Ông Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1956 Địa chỉ: 53 đường số FE, khu phố S, phường HBC, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. |
Ai là bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | 1. Bà Lê Thị K, sinh năm 1965 2. Ông Lê Văn E, sinh năm 1948 Địa chỉ: 363 KVC, khu phố S, phường C, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đăng Q, sinh năm 1993 Địa chỉ: 91 NQ, Phường 11, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. |
Ai là đại diện Viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | Ông Nguyễn Văn Hoàng – Kiểm sát viên. |
Ai là thư ký toà Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | Bà An Phương Trang – Thư ký Tòa án |
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Tr và ông Nguyễn Văn Ch có người đại diện theo ủy quyền là ông Đỗ Trọng Q trình bày: Nguồn gốc phần đất có diện tích 411,9m2 thuộc một phần thửa 130, tờ bản đồ số 48, bộ địa chính xã C, thành phố Thủ Đức (tài liệu năm 2005) - theo Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 31/3/2022 là của ông Lê Văn L5, sinh năm 1923 chết năm 2008 cho vợ chồng bà Tr, ông Ch vào năm 1987; ngay sau khi được cho đất vợ chồng bà Tr, ông Ch đã cất nhà tạm bằng vách ván, mái ngói để cả gia đình ở (việc cho đất được thể hiện thông qua đơn xin phép cất nhà ngày 11/01/1987) có xác nhận chữ ký của ông Lê Văn L5 và được chính quyền địa phương chấp thuận cho phép ngày 09/3/1987). Trong quá trình sử dụng đến năm 1996 bà Tr, ông Ch sửa chữa nhà và ở ổn định cho đến nay; thực hiện việc đăng ký kê khai và nộp thuế đầy đủ theo quy định. Năm 2013 bà Tr, ông Ch nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên, trong thời gian chờ Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức (cũ) cấp giấy, thì bà K, ông E tranh chấp với bà Tr, ông Ch; sự việc đã được Ủy ban nhân dân phường C hòa giải ngày 31/12/2020 và ngày 07/01/2021 nhưng không thành; vì vậy bà Tr, ông Ch khởi kiện đề nghị Tòa án xem xét giải quyết: Công nhận toàn bộ quyền sử dụng đất có diện tích 411,9m2 thuộc một phần thửa 130, tờ bản đồ số 48, bộ địa chính xã C, thành phố Thủ Đức (tài liệu năm 2005) – theo Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 31/3/2022, là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Trần Thị Ngọc Tr, ông Nguyễn Văn Ch. |
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | Theo đơn phản tố, trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Lê Thị K và ông Lê Văn E có đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Đăng Q trình bày: Nguồn gốc phần đất có diện tích khoảng 405,2 m2 thuộc thửa đất số 365, tờ bản đồ số 3 (nay là thửa đất số 130, tờ bản đồ số 48) tọa lạc tại số 53 đường 48, khu phố S, phường C – theo bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở tài nguyên và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 31/3/2022 là của cha mẹ bà K, ông E (tên là Lê Văn L5 và Cao Thị L6) được thừa hưởng từ gia tộc để lại. Vào năm 1987 bà Tr, ông Ch (ông Ch là cháu họ gọi cha mẹ bà K, ông E là cậu) gặp nhiều khó khăn về chỗ ở nên cha mẹ của bà K, ông E đã đồng ý cho ông Ch, bà Tr ở nhờ trên phần đất của gia đình. Cụ thể ông L5, bà L6 đã đồng ý cho bà Tr, ông Ch xây cất một căn nhà tạm có diện tích 4 x 5 = 20 m2, phần đất xây dựng nhà nêu trên trước đây là nền nhà cũ của bà ngoại ông Ch do ông L5, bà L6 cho ở nhờ trước đó để lại, diện tích khu đất thực tế hiện tại khoảng 405,2 m2. Năm 2007 và năm 2008 cha mẹ của bà K, ông E là ông L5, bà L6 chết (không để lại di chúc). Trong thời kỳ hôn nhân cha mẹ bà K, ông E có với nhau tất cả 11 người con chung gồm: Bà Lê Thị T1, sinh năm 1942; bà Lê Thị B1, sinh năm 1944 (chết năm 2021, có chồng là: Ông Huỳnh Văn Ng sinh năm 1941 và các con là: Ông Huỳnh Anh T2, sinh năm 1970; Huỳnh Thị Anh T3, sinh năm 1974; ông Huỳnh Anh Th, sinh năm 1975 và bà Huỳnh Lê Anh Đ, sinh năm 1972); ông Lê Văn E, sinh năm 1948; ông Lê Văn B, sinh năm 1954; bà Lê Thị C, sinh năm 1956; ông Lê Văn L, sinh năm 1960; ông Lê Văn N, sinh năm 1961; bà Lê Thị M, sinh năm 1963; bà Lê Thị K, sinh năm 1965; bà Lê Thị Th2, sinh năm 1950, chết năm 2010 (độc thân, không có chồng con) và ông Lê Văn T4, sinh năm 1946, chết năm 1967 (độc thân, không có vợ con). Sau khi cha mẹ của bà K, ông E (chết) thấy gia đình bà Tr, ông Ch còn gặp nhiều khó khăn về nơi ở và cũng là chỗ anh em họ hàng nên gia đình bà K, ông E đồng ý để cho gia đình bà Tr, ông Ch được tiếp tục ở nhờ trên thửa đất mà cha mẹ bà K, ông E để lại. Vào khoảng giữa năm 2013 bà K, ông E và các đồng thừa kế khác biết được việc bà Tr, ông Ch đã lén lút đi kê khai nhà đất trước đó và thực hiện các thủ tục để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất, đối với phần đất được cha mẹ bà K, ông E cho bà Tr, ông Ch ở nhờ vào năm 1987. Biết được sự việc bà K, ông E đã làm đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan có thẩm quyền để ngăn chặn việc làm bất hợp pháp nêu trên của bà Tr, ông Ch. Đồng thời bà K, ông E đã nhiều lần yêu cầu bà Tr, ông Ch giao trả lại phần đất nêu trên nhưng bà Tr, ông Ch không thực hiện. Do đó bà K, ông E không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và có đơn phản tố đề nghị Tòa án xem xét giải quyết: Công nhận toàn bộ phần đất diện tích 405,2 m2 thuộc thửa đất số 129, 130, tờ bản đồ số 48, 43 – tọa lạc tại số 53 đường số 48, khu phố S, phường C, thành phố Thủ Đức theo Bản đồ hiện trạng vi trí do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 31/3/2022, là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lê Văn L5 và bà Cao Thị L6 gồm: Bà Lê Thị T1; ông Lê Văn E ; ông Lê Văn B; bà Lê Thị C; ông Lê Văn L; ông Lê Văn N; bà Lê Thị M; bà Lê Thị K; ông Huỳnh Văn Ng3; ông Huỳnh Anh T2; bà Huỳnh Lê Anh Đ; bà Huỳnh Thị Anh T3 và ông Huỳnh Anh Th. Và buộc ông Nguyễn Văn Ch và bà Trần Thị Ngọc Tr phải có trách nhiệm giao trả ngay lại cho gia đình bà K, ông E phần đất được cha mẹ (bà K, ông E) cho bà Tr, ông Ch ở nhờ năm 1987 với diện tích thực tế hiện nay là 405,2 m2 thuộc thửa đất số 130, tờ bản đồ số 48 – tọa lạc tại số 53 đường số 48, khu phố S, phường C, thành phố Thủ Đức; theo Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 31/3/2022. |
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | |
Quyết định của toà sơ thẩm Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | Tòa sơ thẩm đã áp dụng luật đất đai năm 1987 để bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là vi phạm nguyên tắc áp dụng pháp luật theo Điều 156 Luật áp dụng các văn bản pháp luật. Vì theo quy định tại Điều 5 Luật đất đai chỉ nghiêm cấm mua bán, chuyển nhượng... chứ không cấm tặng cho. - Phía bị đơn không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào chứng minh việc cho nguyên đơn ở nhờ trên phần đất đang tranh chấp. - Biên bản tiếp xúc ngày 06/9/2013 tại khu phố không có giá trị pháp lý. - Tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là đã vi phạm nguyên tắc về chứng cứ và chứng minh quy định tại Chương 7 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Bị đơn bà Lê Thị K và ông Lê Văn E có người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Đăng Q yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh: - Về thủ tục tố tụng: + Hội đồng xét xử, những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn phúc thẩm. + Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận phần đất thuộc thửa số 130, tờ bản đồ 48, tọa lạc tại số 53 đường số 48, khu phố S, phường C, thành phố Thủ Đức thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn. Bị đơn có phản tố yêu cầu công nhận phần đất nêu trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lê Văn L5, bà Cao Thị L6 và yêu cầu nguyên đơn phải trả lại phần đất nêu trên. Cả nguyên đơn và bị đơn đều chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất. Theo Điều 4 Luật đất đai năm 2013 thì cần phải xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp quyền sở hữu tài sản” là không đúng và trái với quy định của pháp luật. Vì vậy, cần phải sửa lại cho phù hợp. - Về nội dung: Với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa thấy rằng: + Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn: Theo Công văn số 2858/UBND-TNMT ngày 13/5/2022 của Ủy Ban nhân dân thành phố Thủ Đức thì nguồn gốc đất do ông Lê Văn L5 sử dụng từ trước và sau năm 1975. Năm 1987, ông L5 cho cháu là ông Nguyễn Văn Ch và bà Trần Thị Ngọc Tr sử dụng (Đơn xin phép cất nhà với diện tích 20m2 (4m x 5m) có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã ngày 09/3/1987). Năm 1995 ông Ch, bà Tr tự sửa chữa lại nhà (không phép, diện tích xây dựng 70m2 theo hồ sơ kê khai năm 1999). Năm 2004, bà Trần Thị Ngọc Tr được Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức) cấp số nhà số 53 (số nhà cũ: 19/2B) đường số 48, khu phố S, phường C (Quyết định số 11329/QĐ-UB ngày 10/7/2004). Quá trình sử dụng phần đất được tặng cho, ông Ch và bà Tr đã thực hiện đầy đủ việc đăng ký kê khai sử dụng đất qua các thời kỳ (1991, 1999, 2005) và nghĩa vụ thuế với Nhà nước. - Trong suốt quá trình ông Ch và bà Tr sử dụng đất, phía gia đình ông Lê Văn L5, bà Cao Thị L6 (ông L5 chết năm 2008, bà L6 chết năm 2007) không phản đối việc ông Ch và bà Tr xây dựng, sữa chữa nhà; đăng ký kê khai quyền sử dụng đất và thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật đất đai năm 2013, Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ và Công văn số 2858/UBND-TNMT ngày 13/5/2022 của Ủy Ban nhân dân thành phố Thủ Đức có cơ sở xác định ông Ch và bà Tr đã sử dụng 354m2 đất thuộc một phần thửa đất số 130, tờ bản đồ số 48 (tài liệu năm 2005), tọa lạc tại số 53 đường số 48, khu phố S, phường C, thành phố Thủ Đức ổn định, lâu dài từ trước ngày 01/7/2004 và có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu được công nhận toàn bộ quyền sử dụng đất có diện tích 411,9m2 thuộc một phần thửa 130, tờ bản đồ số 48, bộ địa chính xã C, thành phố Thủ Đức (phần đất tranh chấp) thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn với nhận định cho rằng ông Ch bà Tr không thực hiện theo Biên bản tiếp xúc ngày 06/9/2013 của Ban điều hành khu phố S, phường C về việc đã đồng ý chia đôi phần đất tranh chấp nhưng không thực hiện là không trung thực trong việc kê khai đất và đã áp dụng Điều 5 Luật đất đai năm 1987 quy định “Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn, chiếm đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức, nhận đất được giao mà không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích, tự tiện sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác, làm huỷ hoại đất đai” để cho rằng việc tặng cho đất giữa ông L5, ông Ch và bà Tr không hợp pháp là không đúng, vi phạm quy định tại Chương 7 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về chứng cứ và chứng minh bởi lẽ: - Phía bị đơn không đưa ra được bất cứ tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. - Biên bản tiếp xúc ngày 06/9/2013 không mang tính ràng buộc và các bên có quyền thay đổi ý kiến; mặt khác tại Biên bản tiếp xúc ngày 06/9/2013 cũng không có nội dung nào thể hiện ông Ch, bà Tr thừa nhận phần đất tranh chấp được ông L5, bà L6 cho ở nhờ chứ không phải được tặng cho. - Điều 5 Luật đất đai năm 1987 không nghiêm cấm việc tặng cho đất. + Về án phí dân sự sơ thẩm: Bản án sơ thẩm ghi nhận bị đơn tự nguyện hỗ trợ giá trị phần công trình xây dựng trên đất của nguyên đơn nhưng lại buộc bị đơn phải chịu án phí đối với phần tự nguyện hỗ trợ là vi phạm quy định tại Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Từ các phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Tr và ông Nguyễn Văn Ch; Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, sửa bản án sơ thẩm như nhận định trên. |
Quan điểm của viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | |
Nhận định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về hình thức và thời hạn kháng cáo: Ngày 09 tháng 12 năm 2022 Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đưa vụ án ra xét xử và ban hành bản án số 4426/2022/DS-ST. Ngày 15 tháng 12 năm 2022, nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Tr và ông Nguyễn Văn Ch có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Ngày 20 tháng 12 năm 2022 Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 thì kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức còn trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận. [2] Về sự có mặt, vắng mặt của các đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông Nguyễn Trần Nhật T vắng mặt không có lý do, ông Huỳnh Văn Ng3 và ông Nguyễn Thanh P có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông Nguyễn Trần Nhật T, ông Huỳnh Văn Ng3 và ông Nguyễn Thanh P theo quy định tại khoản 2 Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự. [3] Về nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Văn Ch và bà Trần Thị Ngọc Tr, và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: [3.1] Về tố tụng: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Ch và bà Trần Thị Ngọc Tr khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận phần đất thuộc thửa đất số 130, tờ bản đồ số 48, tọa lạc tại số 53 đường số 48, khu phố S, phường C, thành phố Thủ Đức thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn. Bị đơn có phản tố yêu cầu công nhận phần đất nêu trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lê Văn L5, bà Cao Thị L6 và yêu cầu nguyên đơn phải trả lại phần đất nêu trên. Cả nguyên đơn và bị đơn đều chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất. Theo Điều 4 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.” Do vậy, cần phải xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp quyền sở hữu tài sản” là không đúng và trái với quy định của pháp luật đã viện dẫn trên nên cần sửa lại cho phù hợp. [3.2] Về nội dung: - Về nguồn gốc nhà, đất có diện tích 354m2 thuộc một phần thửa đất số 130, tờ bản đồ số 48 (tài liệu năm 2005) tọa lạc tại địa chỉ số 53 đường số 48, khu phố S, phường C, thành phố Thủ Đức, Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào Công văn số 2858/UBND-TNMT ngày 13/5/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức, thì phần đất đang tranh chấp có nguồn gốc là của ông Lê Văn L5 sử dụng từ trước và sau năm 1975. Năm 1987, ông L5 cho cháu là ông Nguyễn Văn Ch và bà Trần Thị Ngọc Tr sử dụng (Đơn xin phép cất nhà có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã ngày 09/3/1987). Nhà do ông Nguyễn Văn Ch và bà Trần Thị Ngọc Tr xây dựng năm 1987 với diện tích 20m2 (4m x 5m) có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã trên đơn xin phép cất nhà ngày 09/3/1987. Năm 1995 ông Ch, bà Tr tự sửa chữa lại nhà (không phép, diện tích xây dựng 70m2 theo hồ sơ kê khai năm 1999). Năm 2004, bà Trần Thị Ngọc Tr được Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức) cấp số nhà số 53 (số nhà cũ: 19/2B) đường số 48, khu phố S, phường C (Quyết định số 11329/QĐ-UB ngày 10/7/2004). Xét, việc tặng cho đất để xây dựng nhà ở giữa ông Lê Văn L5 với ông Nguyễn Văn Ch, bà Trần Thị Ngọc Tr mặc dù không được lập thành hợp đồng, nhưng đã được lập thành văn bản là “Đơn xin phép cất nhà”, ông L5 đã ký xác nhận vào đơn với nội dung “Tôi Lê Văn L5 có cho cháu tôi một khu đất để cất nhà” (BL 60) và văn bản này đã được Ủy ban nhân dân xã C xác nhận ngày 09/3/1987. Như vậy, có cơ sở khẳng định ông L5 đã cho cháu là ông Nguyễn Văn Ch, bà Trần Thị Ngọc Tr phần đất này, nên sau khi nhận tặng cho đất, ông Ch và bà Tr đã xây cất nhà tạm bằng vách ván, mái ngói để cả gia đình ở. Năm 1996, ông Ch, bà Tr sửa chữa lại nhà, nhưng phía gia đình ông Lê Văn L5 (chết năm 2008), bà Cao Thị L6 (chết năm 2007) cũng như các con của họ đều không phản đối việc ông Ch và bà Tr xây dựng, sữa chữa nhà. Ngày 10/7/2004 Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức) có Quyết định số 11329/QĐ-UB về việc cấp đổi số nhà 53 số nhà cũ 19/2B đường số 48, khu phố S, phường C, quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức)..., cho thấy phần đất này đã thuộc quyền quản lý, sử dụng của vợ chồng bà Tr ông Ch và họ đã ở ổn định cho đến nay. - Về Quá trình đăng ký kê khai qua các thời kỳ và làm nghĩa vụ thuế theo quy định: Theo Tài liệu đo năm 1991: Thửa đất số 365 tờ bản đồ số 3 do bà Trần Thị Ngọc Tr đăng ký, diện tích 449m2, loại đất Thổ. Theo hồ sơ kê khai năm 1999: Do ông Nguyễn Văn Ch và bà Trần Thị Ngọc Tr đăng ký, diện tích 70m2, diện tích xây dựng 70m2, số tầng 01. Theo Tài liệu năm 2005: Một phần thửa số 130 tờ bản đồ số 48 do bà Trần Thị Ngọc Tr đăng ký, có thể hiện công trình xây dựng. - Về việc thực hiện nghĩa vụ thuế: Bà Trần Thị Ngọc Tr đăng ký nộp thuế từ năm 2012 đến năm 2021 với diện tích 348,2m2. - Về điều kiện cấp giấy chứng nhận: Trong trường hợp không có tranh chấp và căn cứ vào thời điểm tạo lập, sử dụng, đối chiếu với quy hoạch được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và quy định của pháp luật đất đai, việc xem xét cấp giấy chứng nhận đối với khu đất trên được xem xét theo quy định tại Điều 20 và Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ. Xét, việc ông L5 cho đất là hợp pháp, trong quá trình sử dụng phần đất được tặng cho, ông Ch và bà Tr đã thực hiện đầy đủ việc đăng ký kê khai sử dụng đất qua các thời kỳ (1991, 1999, 2005) và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế với Nhà nước và đã có quá trình sử dụng ổn định, lâu dài. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật đất đai năm 2013, Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ và Công văn số 2858/UBND-TNMT ngày 13/5/2022 của Ủy Ban nhân dân thành phố Thủ Đức có cơ sở xác định ông Nguyễn Văn Ch và bà Trần Thị Ngọc Tr đã sử dụng 354m2 đất thuộc một phần thửa đất số 130, tờ bản đồ số 48 (tài liệu năm 2005) theo Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 31/3/2022, tọa lạc tại số 53 đường số 48, khu phố S, phường C, thành phố Thủ Đức ổn định, lâu dài từ trước ngày 01/7/2004 và có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu được công nhận toàn bộ quyền sử dụng đất có diện tích 411.9m2 thuộc một phần thửa 130, tờ bản đồ số 48, bộ địa chính xã C, thành phố Thủ Đức (theo tài liệu năm 2005) thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. [3.3] Xét, Bản án sơ thẩm đã căn cứ vào Biên bản tiếp xúc ngày 06/9/2013 của Ban điều hành khu phố S, phường C để nhận định: “ ... phía gia đình bị đơn có đại diện là ông Lê Văn E và phía gia đình bà Tr đã thỏa thuận thống nhất là phần đất tranh chấp nêu trên sẽ được chia đôi cho ông Ch, bà Tr một nửa và các con của ông Lê Văn L5 một nửa”. Tuy nhiên, theo biên bản tiếp xúc ngày 06/9/2013 của Ban điều hành khu phố S, phường C hòa giải thành tranh chấp đất đai của hai bên (đều được các bên thừa nhận), nhưng bà Tr, ông Ch không thực hiện mà lại xin cấp giấy cho toàn bộ phần đất tranh chấp vào năm 2020 là không trung thực trong việc kê khai đăng ký đất đai và áp dụng Điều 5 Luật đất đai năm 1987 để cho rằng việc tặng cho đất giữa ông L5, ông Ch và bà Tr không hợp pháp và từ đó chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là không có căn cứ, bởi lẽ: - Phía bị đơn không đưa ra được bất cứ tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. - Biên bản tiếp xúc ngày 06/9/2013 (BL 134) không mang tính ràng buộc và các bên có quyền thay đổi ý kiến, cụ thể sau khi phía bị đơn đề nghị phần đất của bà Tr nằm về một phía để khu đất của bên gia đình bị đơn được liền lạc, thì bà Tr đã có ý kiến là không đồng ý vì sợ mở đường mất nhà và đất; Theo biên bản làm việc ngày 04/10/2013 (BL 133) của tổ hòa giải khu phố về việc ông Lê Văn E có đơn khiếu nại gia đình bà Tr không thực hiện theo biên bản hòa giải ở khu phố ngày 06/9/2013, nhưng do gia đình bà Tr không tới tham dự, nên tổ hòa giải đã thống nhất làm biên bản và ký tên kèm theo biên bản tiếp xúc ngày 06/9/2013 để ông Lê Văn E mang đến Ủy ban nhân dân phường C giải quyết. Tuy nhiên, trong hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện tại thời điểm năm 2013, 2014 Ủy ban nhân dân phường C có giải quyết vấn đề tranh chấp này. Mãi đến ngày 31/12/2020 và ngày 07/01/2021, Ủy ban nhân dân phường C mới tổ chức hòa giải theo đơn của bà Trần Thị Ngọc Tr nhưng không thành, nên tổ hòa giải của phường đã hướng dẫn các đương sự khởi kiện ra Tòa. Mặt khác, tại Biên bản tiếp xúc ngày 06/9/2013 cũng không có nội dung nào thể hiện ông Ch, bà Tr thừa nhận phần đất tranh chấp được ông L5, bà L6 cho ở nhờ chứ không phải được tặng cho. - Điều 5 Luật đất đai năm 1987 quy định “Nghiêm cấm việc không nghiêm cấm việc tặng cho đất. Do đó, kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đối với yêu cầu công nhận quyền quyền sử dụng đất có diện tích 411.9m2 thuộc một phần thửa 130, tờ bản đồ số 48, bộ địa chính xã C, thành phố Thủ Đức cho bà Trần Thị Ngọc Tr và ông Nguyễn Văn Ch là có căn cứ, nên được chấp nhận. Xét kháng nghị đối với phần án phí, Hội đồng xét xử xét thấy: Bản án sơ thẩm ghi nhận bị đơn tự nguyện hỗ trợ giá trị phần công trình xây dựng trên đất của nguyên đơn, nhưng lại buộc bị đơn phải chịu án phí đối với phần tự nguyện hỗ trợ là vi phạm quy định tại Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bị đơn. Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức về nội dung này là có cơ sở. Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ để chấp kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Tr và ông Nguyễn Văn Ch; Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, sửa bản án dân sự sơ thẩm như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. [4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận và sửa án, nên các đương sự không phải chịu. |
Quyết định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số: 431/2023/DS-PT Ngày: 12/4/2023 Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. | Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 4; khoản 2 Điều 101 Luật đất đai năm 2013. Căn cứ Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ; Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Tuyên xử: Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Tr và ông Nguyễn Văn Ch; Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 4426/2022/DS-ST ngày 09/12/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc Tr, ông Nguyễn Văn Ch. Công nhận toàn bộ quyền sử dụng đất có diện tích 411.9m2 (theo hướng dẫn ranh của nguyên đơn) thuộc một phần thửa 130, tờ bản đồ số 48, bộ địa chính xã C, thành phố Thủ Đức (theo tài liệu năm 2005); theo Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và môi trường Tp. Hồ Chí Minh lập ngày 31/3/2022 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Trần Thị Ngọc Tr, ông Nguyễn Văn Ch. 2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Lê Thị K, ông Lê Văn E về việc công nhận toàn bộ phần đất diện tích 405.2 m2 (theo hướng dẫn ranh của bị đơn) thuộc thửa đất số 129, 130, tờ bản đồ số 48, (thửa 43, tờ bản đồ số 54) – tọa lạc tại số 53 đường số 48, khu phố S, phường C, thành phố Thủ Đức; theo Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 31/3/2022 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lê Văn L5 và bà Cao Thị L6 gồm: Bà Lê Thị T1; ông Lê Văn E; ông Lê Văn B; bà Lê Thị C; ông Lê Văn L; ông Lê Văn N; bà Lê Thị M; bà Lê Thị K; ông Huỳnh Văn Ng3; ông Huỳnh Anh T2; bà Huỳnh Lê Anh Đ; bà Huỳnh Thị Anh T3 và ông Huỳnh Anh Th. 3. Về các chi phí tố tụng: - Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ số tiền 3.000.000 đồng bà Trần Thị Ngọc Tr, ông Nguyễn Văn Ch tự nguyện chịu; đã thực hiện việc nộp và chi xong. - Về chi phí thẩm định giá số tiền là 30.000.000 đồng và chi phí đo vẽ số tiền là 8.635.162 đồng; tổng cộng số tiền là 38.635.162 đồng bà Lê Thị K, ông Lê Văn E phải chịu. 4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Lê Thị K, ông Lê Văn E mỗi người phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng. Tuy nhiên, ông Lê Văn E là người trên 60 tuổi và có đơn xin miễn, nên theo quy định ông E không phải nộp. Hoàn trả cho bà Trần Thị Ngọc Tr số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2019/0058726 ngày 25/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. 5 . Án phí dân sự phúc thẩm các đương sự không phải chịu. Hoàn trả cho bà Trần Thị Ngọc Tr số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2022/0007420 ngày 19/12/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Bản án phúc thẩm, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. |
Tên bản án là gì Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. |
Hội đồng xét xử gồm những ai Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Thị Ánh Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Trần Ngọc Thực 2. Ông Nguyễn Thành Thông |
Ai là nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Bà Nguyễn Thị Ái Tr, sinh năm 1955 (vắng mặt). Địa chỉ: Số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H; Địa chỉ liên lạc: Số 411/67/18D đường T, Phường M1, quận G, Thành phố H. |
Ai là bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Bà Nguyễn Thị Ái V, sinh năm 1956 (có mặt). Địa chỉ: Số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H. |
Ai là đại diện Viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H: Bà Nguyễn Thị Mộng Linh – Kiểm sát viên. |
Ai là thư ký toà Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Thư ký phiên tòa: Bà Đinh Vũ Xuân Hương – Thư ký Tòa án nhân dân Thành phố H. |
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Theo đơn khởi kiện các ngày 25/6/2020, 09/7/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ái Tr và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Ngọc Th trình bày: Nhà, đất số 100/54 (số cũ là 100/49) đường L, Phường M, quận B, Thành phố H là tài sản chung của ông Nguyễn Văn V2 (chết ngày 23/5/1980) và bà Dương Thị S (chết ngày 10/05/2005), là cha mẹ của nguyên đơn bà Tr. Ông V2 và bà S có 07 người con chung là: Bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X, bà Nguyễn Thị A, ông Nguyễn Văn Th2 (sinh năm 1947, ông Th2 đã chết không có vợ, con). Bà Tr cam kết, rằng ông Nguyễn Văn V2 và bà Dương Thị S không có người con nào khác, ông V2 và bà S không để lại di chúc, không để lại nghĩa vụ gì đối với bất cứ ai. Đối với ý kiến của bà Nguyễn Thị Ái V, cho rằng ông V2 và bà S có thêm một người con là Nguyễn Thị S1, chết năm 2006. Chồng bà S1 là ông Trần Văn L1 chết năm 2016, bà S1 có 6 người con gồm: Ông Trần Nguyễn Đại V1, ông Trần Nguyễn Q, ông Trần Quốc Đ, bà Trần Thị Mai L, ông Trần Nguyễn Đại Tr1 và bà Trần Thị Kim A1. Nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam: Số 100/57 (số mới 100/62) đường L, Phường M, quận B, Thành phố H, hiện nay ở Hoa Kỳ (không rõ địa chỉ), phía nguyên đơn đồng ý với ý kiến này. Gần đây, vì nhận thấy tuổi của các chị em đã lớn, bà Tr có đề nghị thỏa thuận phân chia di sản của cha mẹ để lại để dễ quản lý. Tất cả chị em trong nhà đều đồng ý, nhưng bà Nguyễn Thị Ái V không đồng ý việc phân chia, nên nguyên đơn kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Phân chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn V2 và bà Dương Thị S theo quy định của pháp luật đối với nhà, đất số 100/54 (số cũ 100/49) đường L, Phường M, quận B, Thành phố H cho bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X, bà Nguyễn Thị A. Riêng bà Nguyễn Thị S1 đủ điều kiện thì chia cho các con bà S1 được hưởng phần của bà S1. Nguyên đơn đồng ý với Bản vẽ hiện trạng nhà đất do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H lập ngày 28/12/2021 và đồng ý với giá trị nhà đất theo Chứng thư thẩm định giá số 040622/CT-TNV ngày 27/6/2022 của Công ty Cổ phần đầu tư và Thẩm định giá T là 9.271.038.002 đồng. Giá trị kỷ phần thừa kế mà bà Nguyễn Thị Ái Tr được nhận tạm tính là 1.545.173.000 (một tỷ năm trăm bốn mươi lăm triệu một trăm bảy mươi ba nghìn) đồng. Bà Nguyễn Thị Ái Tr muốn nhận giá trị nhà, đất. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn đã nộp tạm ứng tổng số tiền: 21.200.000 đồng (chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: 3.000.000 đồng; Ủy thác tư pháp: 200.000 đồng; Chi phí thẩm định giá: 18.000.000 đồng). Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. |
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Bị đơn bà Nguyễn Thị Ái V trình bày trong quá trình giải quyết vụ án như sau: Cha mẹ bà là ông Nguyễn Văn V2 (chết năm 1980), bà Dương Thị S (chết năm 2005). Cha mẹ bà chết không để lại di chúc. Ông bà nội và ông bà ngoại đã chết trước cha mẹ bà. Cha mẹ bà có tất cả 08 người con chung, gồm: Bà Nguyễn Thị S1 (sinh năm 1939, chết năm 2006; chồng bà S1 là ông Trần Văn L1 sinh năm 1935 và chết năm 2016; bà S1 có 06 người con gồm: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim A1 hiện đang sống tại Hoa Kỳ), ông Nguyễn Văn Th2 (sinh năm 1947, chết năm 1975, khi còn sống ông Th2 không kết hôn với ai), bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X. Trước khi chết, cha mẹ bà có để lại di sản là nhà, đất số 100/54 (số cũ là 100/49) đường L, Phường M, quận B, Thành phố H. Cha mẹ bà chết không để lại nghĩa vụ gì đối với bất cứ ai. Nguồn gốc nhà, đất do cha mẹ bà tạo lập từ lâu. Khi đó bà còn nhỏ, các anh, chị, em bà không ai đóng góp gì vào việc tạo lập tài sản này. Năm 1996, do nhà hư hỏng nên bà Nguyễn Thị S1 có về Việt Nam thuê người đến sửa lại nhà cũ. Việc thuê người sửa nhà có hợp đồng hay không, bao nhiêu tiền, bà S1 là người trực tiếp đưa tiền cho thợ xây. Người thợ xây họ và tên là gì, ở đâu, bà không biết. Trước đây cả gia đình bà sống tại căn nhà này, mẹ của bà chết chỉ còn bà, ông X sống tại nhà này. Hiện nay, những người sau đây đang sống tại nhà: Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X, con ông X tên là Nguyễn Hải D và vợ Hải D là Trần Kiều Ph1. Nhà đất nói trên đã có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4947/2004 do Ủy ban nhân dân quận B cấp cho ông Nguyễn Văn V2 và bà Dương Thị S ngày 15/11/2014. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà không đồng ý vì bà muốn ở căn nhà này cho đến khi bà chết, bà không muốn ra ngoài sống vì bà độc thân, ở đây là chỗ ở duy nhất của bà từ lúc mới sinh ra cho đến nay, nếu chia rồi thì không có nhà nào để ở. Tòa án đã giải thích các quy định của pháp luật cho bà biết, trong trường hợp Tòa án phải chia thừa kế theo quy định của pháp luật thì bà được quyền yêu cầu nhận di sản thừa kế bằng hiện vật và trả giá trị lại cho các đồng thừa kế khác, nhưng bà không yêu cầu vì không có khả năng thanh toán tiền lại cho những người khác. Bà cũng không có yêu cầu cầu phản tố, yêu cầu độc lập và không yêu cầu xem xét đối với chi phí sửa chữa, chi phí chăm sóc, ma chay cho người để lại di sản, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Bà và ông Nguyễn Công X đã ở tại căn nhà này từ khi sinh ra cho đến nay, có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế, bảo quản làm tăng giá trị nhà. Bà đề nghị Tòa án áp dụng Án lệ số 05 ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét về công sức đóng góp của bà và ông X trong việc quản lý, tôn tạo di sản. Bà không xác định được công sức cụ thể là bao nhiêu, đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định của pháp luật để xem xét, đảm bảo quyền lợi cho bà và ông X. Bà đồng ý với Bản vẽ hiện trạng nhà do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H lập ngày 28/12/2021 và đồng ý với giá trị nhà đất theo Chứng thư thẩm định giá số 040622/CT-TNV ngày 27/6/2022 của Công ty Cổ phần đầu tư và Thẩm định giá T là 9.271.038.002 đồng. Về chi phí tố tụng: Bà không nộp, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. |
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | |
Quyết định của toà sơ thẩm Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, các đương sự không cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ. * Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ái Tr (có ông Nguyễn Ngọc Th đại diện) trình bày: Nhà, đất số 100/54 (số cũ 100/49) đường L, Phường M, quận B, Thành phố H là di sản của cụ Nguyễn Văn V2 (chết năm 1980) và cụ Dương Thị S (chết năm 2005). Cụ V2 và cụ S chết không để lại di chúc. Cha mẹ của cụ V2 và cụ S đã chết trước hai cụ. Cụ V2 và cụ S có tất cả 08 người con chung gồm: - Bà Nguyễn Thị S1 (sinh năm 1939, chết năm 2006). Chồng bà S1 là ông Trần Văn L1 chết năm 2016. Bà S1 có 06 người con gồm: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim A1 hiện đang sống tại Hoa Kỳ. Bà S1 chết không để lại di chúc; - Bà Nguyễn Thị A; - Ông Nguyễn Văn Th2, sinh năm 1947, chết độc thân ngày 21/6/1973; - Bà Nguyễn Thị Ái Ph; - Bà Nguyễn Thị Ái Th1; - Bà Nguyễn Thị Ái Tr; - Bà Nguyễn Thị Ái V; - Ông Nguyễn Công X. Cụ V2 và cụ S không có con riêng, không có con nuôi và không để lại nghĩa vụ tài sản đối với người khác. Nay, nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ V2 và cụ S là nhà, đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H, chia làm 08 phần bằng nhau, 07 đồng thừa kế mỗi người được nhận 01 phần, phần còn lại chia cho bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X vì họ đã có công sức gìn giữ, bảo quản di sản thừa kế. Nguyên đơn không nhận hiện vật, yêu cầu chia giá trị tại thời điểm thi hành án. Nguyên đơn cho bị đơn và gia đình ông Nguyễn Công X lưu cư tại nhà trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, hết thời gian này bà V, gia đình ông X và những người đang cư trú trong nhà phải giao nhà, đất; bà V và ông X phải giao bản chính giấy tờ nhà, đất để thi hành án theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn thống nhất với bản vẽ và chứng thư thẩm định giá, không yêu cầu thẩm định giá lại. Chi phí tố tụng nguyên đơn đã nộp tạm ứng gồm: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ số tiền là 3.000.000 đồng và chi phí thẩm định giá là 18.000.000 đồng, tổng cộng là 21.000.000 đồng, yêu cầu giải quyết theo quy định. Nguyên đơn không yêu cầu bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X phải trả chi phí tố tụng cho nguyên đơn. Các chi phí tố tụng khác mà nguyên đơn đã nộp tạm ứng, nguyên đơn tự nguyện chịu, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết về chi phí chăm sóc, tiền thuốc, phụng dưỡng, đám tang, mộ phần, đám giỗ cho cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S. * Bị đơn bà Nguyễn Thị Ái V trình bày: Bà thống nhất với toàn bộ lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chia di sản thừa kế làm 08 phần như nguyên đơn yêu cầu. Bà không nhận di sản bằng hiện vật vì không có điều kiện để hoàn trả lại tiền cho các đồng thừa kế khác, yêu cầu nhận giá trị di sản tại thời điểm thi hành án. Bị đơn thống nhất với bản vẽ và chứng thư thẩm định giá, không yêu cầu thẩm định giá lại. Bị đơn không yêu cầu giải quyết về chi phí chăm sóc, tiền thuốc, phụng dưỡng, đám tang, mộ phần, đám giỗ cho cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S vì đó là nghĩa vụ của con đối với cha mẹ. Bị đơn không nộp chi phí tố tụng, đề nghị giải quyết theo quy định. * Bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (có bà Bùi Thị Ánh T đại diện) trình bày: Bà thống nhất với toàn bộ lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, đồng ý chia di sản thừa kế làm 08 phần như yêu cầu của nguyên đơn. Bà Ph và bà Th1 xin nhận di sản bằng giá trị tại thời điểm thi hành án. Bà thống nhất với bản vẽ và chứng thư thẩm định giá, không yêu cầu thẩm định giá lại. Bà không yêu cầu giải quyết về chi phí chăm sóc, tiền thuốc, phụng dưỡng, đám tang, mộ phần, đám giỗ cho cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương ThịS.Bàkhôngnộpchiphítốtụng,đề nghịgiảiquyếttheoquyđịnh. - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H bà Nguyễn Thị Mộng Linh – Kiểm sát viên trung cấp phát biểu: Từ khi thụ lý vụ án đến nay Thẩm phán và Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Các đương sự chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Về nội dung: Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4947/2004 do Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố H cấp ngày 15/11/2004, thì nhà đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H là tài sản của cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S. Theo lời khai của các đương sự và người đại diện đương sự thì cụ V2 và cụ S chết không để lại di chúc. Nay nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ V2 và cụ S theo quy định của pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất của hai cụ, là có căn cứ chấp nhận. Về hàng thừa kế thứ nhất của cụ V2 và cụ S hiện nay chỉ còn 07 người con là: Bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X và bà Nguyễn Thị S1 (bà S1 chết năm 2006, chồng bà S1 đã chết. Bà S1 có 06 người con gồm: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim A1). Tuy nhiên, tại phiên tòa nguyên đơn (có ông Nguyễn Ngọc Th đại diện) yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn V2 và Dương Thị S làm 08 phần bằng nhau, 07 đồng thừa kế mỗi người nhận một phần, phần còn lại giao cho bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X nhận vì họ đã có công gìn giữ, bảo quản đối với di sản thừa kế. Xét, đây là sự tự nguyện của nguyên đơn, bà V và ông X là người sinh sống tại nhà đất tranh chấp từ khi sinh ra cho đến nay, có công sức đóng góp trong việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; Bị đơn bà Nguyễn Thị Ái V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1 (có bà Bùi Thị Ánh T đại diện) đồng ý với ý kiến này của nguyên đơn, nên có căn cứ chấp nhận. Về chi phí tố tụng và án phí, đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Từ các phân tích trên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về kỷ phần thừa kế mà bà Nguyễn Thị S1 được nhận, do không xác định được địa chỉ của các con của bà S1 ở nước ngoài, nên đề nghị giao cho bị đơn quản lý và bị đơn có nghĩa vụ giao lại cho các con của bà S1. |
Quan điểm của viện kiểm sát Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | |
Nhận định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, người đại diện của đương sự và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về tố tụng. [1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S là nhà đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H; Vụ án có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cư trú ở nước ngoài. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là: “Tranh chấp thừa kế tài sản”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố H theo quy định khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 và điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. [1.2] Về tư cách đương sự, việc đại diện và sự có mặt, vắng mặt của các đương sự. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ái Tr ủy quyền cho ông Nguyễn Ngọc Th đại diện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Ái Ph và bà Nguyễn Thị Ái Th1 cùng ủy quyền cho bà Bùi Thị Ánh T đại diện, các văn bản ủy quyền hợp lệ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Công X có đơn xin vắng mặt, ông Nguyễn Hải D và bà Trần Kiều Ph1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, không có đơn xin vắng mặt. Tòa án đã tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp cho bà Nguyễn Thị A ở Hoa Kỳ để thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo ngày Tòa án mở phiên tòa lần thứ nhất và lần thứ hai, nhưng bà Nguyễn Thị A không có văn bản trình bày lời khai của bà nộp cho Tòa án, không cung cấp chứng cứ và cũng không có đơn xin vắng mặt. Các đương sự trong vụ án cho rằng các ông/bà: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim A1 (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) đang cư trú tại Hoa Kỳ, nhưng không cung cấp được nơi cư trú của họ để Tòa án tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp. Tòa án đã ban hành Thông báo số 10470/TB-TA ngày 09/8/2022, thông báo cho nguyên đơn liên hệ cơ quan báo chí, đài phát thanh hoặc đài truyền hình trung ương để thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo ngày Tòa án mở phiên tòa lần thứ nhất và lần thứ hai cho các đương sự nói trên. Nguyên đơn đã thực hiện thủ tục thông báo triệu tập đương sự trên phương tiện thông tin đại chúng theo thông báo của Tòa án tại Đài Tiếng nói Việt Nam (phát sóng trong 03 ngày liên tiếp từ ngày 11 đến ngày 13/8/2022), Báo Thanh niên (đăng 03 ngày liên tiếp từ ngày 15 đến ngày 17/8/2022). Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho họ tại nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam, nhưng các ông/bà: V1, Q, Đ, L, Tr1, A1 vẫn không đến Tòa án để tham gia tố tụng theo thông báo, không cung cấp lời khai, chứng cứ và cũng không có đơn xin vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án. [1.3] Về thời hiệu: Các đương sự không yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu, nên căn cứ vào khoản 2 Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử không xem xét về thời hiệu khởi kiện. [2] Về nội dung. [2.1] Về nguồn gốc nhà, đất. Căn cứ công văn số 1030/UBND-TNMT ngày 05/4/2021 của Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố H, thì nhà đất số 100/54 (số cũ 100/49) đường L, Phường M, quận B, Thành phố H có nguồn gốc do cụ Dương Thị S nhận chuyển nhượng từ ông Lê Văn T1 và bà Tô Thị R năm 1957 bằng giấy tay. Nhà đất xây dựng lại năm 1968. Năm 1977 và năm 1999, cụ Dương Thị S đứng tên kê khai nhà đất. Ngày 01/11/2004, cụ Dương Thị S có đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, được Ủy ban nhân dân Phường M, quận B xác nhận ngày 10/11/2004 với nội dung: Nhà không có trong danh sách Nhà nước quản lý, không có trong danh sách diện 2/IV, hiện nay không có tranh chấp. Ngày 15/11/2004, Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4947/2004 đối với nhà đất nói trên cho cụ Nguyễn Văn V2 (chết năm 1980) và cụ Dương Thị S; Tổng diện tích sử dụng nhà là 84.3m2, kết cấu: vách gạch, mái tôn, số tầng: 01 tọa lạc trên diện tích đất 84.3m2, thửa đất số 4, tờ bản đồ số 18 (bản đồ địa chính). Căn cứ Bản đồ hiện trạng vị trí – Áp ranh và Bản vẽ hiện trạng nhà do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H lập và phát hành ngày 28/12/2021 (theo hợp đồng số: 129859/TTĐĐBĐ-VPTT) thì nhà, đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H có diện tích như sau: Diện tích theo hiện trạng là 92,2m2 (diện tích phạm lộ giới là 7,5m2, không phạm lộ giới là 84,7m2), thuộc thửa số 4 và một phần thửa số 7 (diện tích 0,6m2), Tờ bản đồ số 18, Bộ địa chính Phường M, quận B (theo tài liệu năm 2002); Diện tích xây dựng là 84,8m2 (trong đó 1,4m2 phạm lộ giới, 83,4m2 không phạm lộ giới), kết cấu tường gạch, mái tôn, sân. Theo lời khai của các đương sự, thì khi cụ V2 và cụ S tạo lập tài sản các con của hai cụ còn nhỏ, không ai đóng góp gì. Các đương sự cùng xác nhận tài sản tranh chấp nói trên là di sản thừa kế của vợ chồng cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S. Cụ V2 chết ngày 23/5/1980, cụ S chết ngày 10/5/2005, hai cụ chết không để lại di chúc nên di sản thừa kế của hai cụ được chia thừa kế theo pháp luật. [2.2] Những người được hưởng di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S. [2.2.1] Căn cứ kết quả xác minh tại Công văn số 114/UBND ngày 04/5/2021 của Ủy ban nhân dân Phường M, quận B, Thành phố H, thì cơ quan này không có thông tin về những người thuộc hàng thừa kế của cụ Nguyễn Văn V2, cụ Dương Thị S và ông Nguyễn Văn Th2. Tại phường, qua kiểm tra thực tế hồ sơ di chúc từ năm 1997 đến năm 2005 không tìm thấy di chúc của cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S. [2.2.2] Tại Công văn số 951/STP- HT ngày 16/3/2022 của Sở Tư pháp Thành phố H trả lời Công văn số 317/TATP-TDS ngày 18/01/2022 của Tòa án như sau: Cụ Dương Thị S, sinh năm 1918 và cụ Nguyễn Văn V2, sinh năm 1917 không có thông tin về việc đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp. Bà Nguyễn Thị S1 (X1), sinh năm 1939 không có thông tin đăng ký khai sinh tại Sở Tư pháp. Tại Sở Tư pháp có thông tin khai sinh về những người có cha là Nguyễn Văn V2 và mẹ là Dương Thị S như sau: Án thế vì khai sinh của Tòa Sơ thẩm Sài Gòn, số 10438/NĐ ngày 11/6/1966 đã tuyên: “Nguyễn Thị Ái Ph sinh năm 1949, Nguyễn Thị Ái Th1 sinh năm 1952, Nguyễn Thị Ái Tr sinh năm 1955, Nguyễn Thị Ái V sinh năm 1956 tại Thạnh Mỹ Tây, Gia Định là con của Nguyễn Văn V2 và Dương Thị S”. [2.2.3] Căn cứ Tờ khai gia đình ngày 12/9/1974, Giấy chứng nhận đăng ký nhân khẩu trong hộ ngày 01/10/1976, bản sao các giấy khai sinh của bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, ông Nguyễn Công X, bà Nguyễn Thị ÁI Ph và lời thừa nhận của các đương sự, thì hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S gồm có 08 người con chung sau đây: - Bà Nguyễn Thị S1, sinh năm 1939; chết năm 2006 tại Hoa Kỳ nhưng các đương sự không cung cấp được giấy khai sinh, giấy khai tử của bà S1. Theo lời khai của các đương sự, thì chồng bà S1 là ông Trần Văn L1 (chết năm 2016, đương sự không cung cấp được giấy đăng ký kết hôn của bà S1 và ông Lâu cũng như giấy khai tử của ông Lâu); bà S1 có 06 người con gồm: + Ông Trần Nguyễn Đại V1, sinh năm 1959; + Ông Trần Nguyễn Q, sinh năm 1963; + Ông Trần Quốc Đ, sinh năm 1965; + Bà Trần Thị Mai L, sinh năm 1968; + Ông Trần Nguyễn Đại Tr1, sinh năm 1970; + Bà Trần Thị Kim A1, sinh năm 1973. - Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1945; - Ông Nguyễn Văn Th2, sinh năm 1947, chết ngày 21/6/1973 theo Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số: 2215/2019/QĐST-DS ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H (trích lục khai tử số 02/TLKT ngày 20/01/2020 của Ủy ban nhân dân Phường M, quận B). Các đương sự cùng khai nhận, ông Th2 chết độc thân (không có vợ, không có con); ông Th2 không để lại di chúc. - Bà Nguyễn Thị Ái Ph, sinh năm 1949; - Bà Nguyễn Thị Ái Th1, sinh năm 1952; - Bà Nguyễn Thị Ái Tr, sinh năm 1955; - Bà Nguyễn Thị Ái V, sinh năm 1956; - Ông Nguyễn Công X, sinh năm 1961. Các đương sự cùng xác nhận, ngoài 08 người con chung nói trên thì cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S không có con riêng, không có con nuôi, cha mẹ của Cụ V2 và cụ S đã chết trước hai cụ, hai cụ không để lại di chúc và không để lại nghĩa vụ tài sản đối với ai. Đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Cụ Nguyễn Văn V2 chết ngày 23/5/1980, nên những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của Cụ V2 gồm có: Cụ Dương Thị S (vợ) và 07 người con của cụ V2 là: Bà Nguyễn Thị S1 (chết năm 2006), bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X. Như vậy, 1⁄2 giá trị nhà, đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H là di sản thừa kế của cụ V2 chưa chia, các đương sự không tranh chấp về hàng thừa kế, nên di sản thừa kế của cụ V2 trở thành tài sản chung của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ V2. Cụ Dương Thị S chết ngày 10/5/2005, những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ S gồm có có 07 người là: Bà Nguyễn Thị S1 (chết năm 2006, có con là các ông/bà: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim A1), bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X. Di sản của cụ S là 1⁄2 nhà đất tranh chấp được chia theo pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ S. Như vậy, những người được hưởng di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S có 07 người gồm: Bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X và bà Nguyễn Thị S1. Căn cứ khoản 2 Điều 679 của Bộ luật Dân sự năm 1995 thì: “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”. Bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X là người sinh sống tại nhà đất tranh chấp từ khi sinh ra cho đến nay, là đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và đã có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế, họ không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ. được hưởng vì đã có công sức đóng góp trong việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế. Vì vậy, có đủ điều kiện để áp dụng Án lệ số 05/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội chia làm 08 phần, trong đó 07 phần chia cho 07 người thừa kế theo luật mỗi [2.3] Xét yêu cầu của bị đơn bà Nguyễn Thị Ái V về việc đề nghị Hội đồng xét xử xem xét công sức đóng góp của bà và ông Nguyễn Công X trong việc gìn giữ, quản lý di sản thừa kế, nhận thấy: Mặt khác, các đồng thừa kế khác là bà Nguyễn Thị Ái Tr (nguyên đơn), bà Nguyễn Thị Ái Th1 và bà Nguyễn Thị Ái Ph (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) cũng đồng ý chia di sản thừa kế thành 08 phần bằng nhau, trong đó 07 đồng thừa kế mỗi người được nhận một phần, phần còn lại giao cho bà V và ông X đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cho bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X được nhận số tiền tương đương 01 kỷ phần thừa kế theo pháp luật (mỗi người được nhận 1⁄2 kỷ phần thừa kế) đối với công sức đóng góp trong việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế. Như vậy, di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S được người được nhận một phần bằng nhau, (mỗi người nhận 1/2). Riêng phần di phần còn lại chia cho bà V và ông X sản mà bà Nguyễn Thị S1 (chết năm 2006) được nhận (tương đương 1/8 giá trị nhà đất), Tòa án không xác định được chính xác họ và tên của các con bà S1, theo lời khai của các đương sự tại hồ sơ vụ án, thì bà S1 có 06 người con là các ông/bà: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim A1; Các đương sự không cung cấp được địa chỉ của các con bà S1 ở nước ngoài. Vì bếp; sửa nhà vệ sinh. Ngoài lời khai này, bà V không cung cấp được chứng cứ về việc sửa chữa, không biết số tiền bà S1 đã sửa chữa nhà là bao nhiêu. Nguyên đơn của Công ty Cổ phần đầu tư và Thẩm định giá T, thì nhà đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H có tổng giá trị là: 9.271.038.002 đồng, trong đó giá trị quyền sử dụng đất là 9.009.117.902 đồng và giá trị công trình xây dựng là 261.920.100 đồng. Căn cứ vào khoản 2 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 1995, thì: “Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật, thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được, thì hiện vật được bán để chia”. Xét, nhà đất nói trên không đủ diện tích để chia thừa kế bằng hiện vật cho 07 người con của cụ V2 và cụ S, những người thừa kế không ai có yêu cầu được nhận hiện vật và hoàn trả tiền cho các đồng thừa kế khác, nên di sản thừa kế của X được lưu cư tại nhà, đất tranh chấp trong thời gian 03 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực, hết thời hạn này phải giao nhà đất để thi hành án. Bị đơn và bà Th1, bà Ph đồng ý với yêu cầu này của nguyên đơn. Xét, nhằm tạo điều kiện cho bị đơn bà Nguyễn Thị Ái V và gia đình ông Nguyễn Công X có thời gian tìm nơi ở mới, cần thiết phải cho họ có thời gian lưu cư như ý kiến của nguyên đơn. Vì vậy, hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bà Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X, ông Nguyễn Hải D, bà Trần Kiều Ph1 và những người đang cư trú tại nhà, đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H tại thời điểm thi hành án phải giao nhà, đất này cho Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền để thi hành theo quy định của pháp luật; Đồng thời, bà Nguyễn Thị vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Án lệ số 06/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tạm giao kỷ phần thừa kế mà các con của bà Nguyễn Thị S1 được nhận cho bà Nguyễn Thị Ái V quản lý, sau này bà Nguyễn Thị Ái V có nghĩa vụ giao lại cho các con của bà S1. Xét ý kiến của bà V cho rằng, năm 1996 bà Nguyễn Thị S1 có bỏ chi phí sửa nhà, sửa các hạng mục: Lát gạch Ceramic phòng khách, phòng ngủ số 3 và phòng và bà Ph, bà Th1 không thừa nhận việc bà Nguyễn Thị S1 có sửa chữa nhà, không đồng ý hoàn trả giá trị sửa chữa cho bà S1. Các con của bà Nguyễn Thị S1 cũng không có văn bản trình bày ý kiến về việc sửa chữa này của bà S1, không có yêu cầu gì trong vụ án, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ xem xét. [2.4] Theo Chứng thư thẩm định giá số 040622/CT-TNV ngày 27/6/2022 cụ V2 và cụ S được bán để chia. Tại phiên tòa, nguyên đơn đồng ý cho bị đơn và gia đình ông Nguyễn Công Ái V và ông Nguyễn Công X có nghĩa quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng vụ giao bản chính Giấy chứng nhận đất ở số 4947/2004 do Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố H cấp cho ông Nguyễn Văn V2 (chết năm 1980) và bà Dương Thị S ngày 15/11/2004 cho Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền để thi Thành phố H sau khi trừ các chi phí liên quan đến việc bán tài sản, sẽ được chia, nhận một kỷ phần bằng nhau tương đương 1/8 giá trị còn lại của di sản; Các con A1) được nhận một kỷ phần tương đương 1/8 giá trị còn lại của di sản; Bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X được nhận số tiền tương đương 1/8 giá trị còn lại của di sản (mỗi người nhận 1/2) đối với công sức đóng góp trong việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế. [3] Về chi phí tố tụng. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ái Tr đã nộp tạm ứng các chi phí tố tụng, trong đó có: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: 3.000.000 đồng; Chi phí thẩm định giá: 18.000.000 đồng, tổng cộng là 21.000.000 đồng. Nguyên đơn yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật, nhưng không yêu cầu bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X phải trả. Căn cứ khoản 2 Điều 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đồng thừa kế được hưởng phần di sản như nhau nên mỗi đồng thừa kế phải chịu chi phí tố tụng như nhau, cụ thể: Bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1 mỗi người phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Ái Tr số tiền là: 21.000.000 đồng : 7 = 3.000.000 đồng. Các đồng thừa kế của bà Nguyễn Thị S1 gồm các ông/bà: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim A1) có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị A Tr số tiền là: 3.000.000 đồng. Trả ngay sau khi bản án có hiệu lực. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc không yêu cầu bà Nguyễn Thị A V và ông Nguyễn Công X phải hoàn trả chi phí tố tụng. Các chi phí tố tụng khác mà nguyên đơn đã nộp tạm ứng, nguyên đơn tự nguyện nộp và không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét. [4] Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Chứng thư thẩm định giá số 040622/CT-TNV ngày 27/6/2022 của Công ty Cổ phần đầu tư và Thẩm định giá T, thì nhà đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H có tổng giá trị là: 9.271.038.002 đồng. Giá trị tài sản tranh chấp được chia làm 08 phần bằng nhau, 07 đồng thừa kế mỗi người nhận 01 kỷ phần, 01 kỷ phần còn lại là công sức đóng góp, tôn tạo di sản mà bà V và ông X được nhận. Trị giá của mỗi kỷ phần thừa kế là: 9.271.038.002 đồng : 8 = 1.158.879.750 đồng. hành theo quy định của pháp luật. Số tiền thu được từ việc bán nhà, đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B như sau: - Bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X mỗi người được của bà Nguyễn Thị S1 (chết năm 2006 là các ông/bà: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim - Bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr mỗi người phải nộp án phí là: 36.000.000 đồng + (3% x 358.879.750 đồng) = 46.766.392 đồng. Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về công sức đóng góp trong việc chăm sóc, phụng dưỡng, đám tang, mộ phần, đám giỗ cho cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S, nên không xem xét. - Bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X mỗi người được nhận một kỷ phần thừa kế + 1⁄2 của một kỷ phần thừa kế là công sức đóng góp tương đương với số tiền là: 1.158.879.750 đồng + 579.439.875 đồng = 1.738.319.625 đồng; án phí là: 36.000.000 đồng + (3% x 938.319.625 đồng) = 64.149.588 đồng. Bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X là người cao tuổi, có đơn yêu cầu được miễn nộp án phí, nên được miễn toàn bộ án phí phải nộp nêu trên theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội và Điều 2 Luật Người cao tuổi. - Bà Nguyễn Thị A phải nộp án phí là: 36.000.000 đồng + (3% x 358.879.750 đồng) = 46.766.392 đồng. - Các đồng thừa kế của bà Nguyễn Thị S1 (chết năm 2006) gồm các ông/bà: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim A1 phải nộp án phí là: 36.000.000 đồng + (3% x 358.879.750 đồng) = 46.766.392 đồng. Từ các phân tích nói trên, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc đề nghị áp dụng Án lệ số 05/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để tính công sức đóng góp trong việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế của bị đơn và ông Nguyễn Công X. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu và đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, áp dụng án lệ để tính công sức đóng góp cho bị đơn và ông Nguyễn Công X, là có căn cứ nên chấp nhận. |
Quyết định của hội đồng xét xử Tên bản án là "Bản án số: 825/2023/DS-ST Ngày: 30-5-2023 Vv: Tranh chấp thừa kế tài sản. | Áp dụng khoản 5 Điều 26, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 2 và khoản 5 Điều 147, khoản 2 Điều 165, khoản 2 Điều 184, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 273 và khoản 2 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng Điều 677, điểm a khoản 1 Điều 678, điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 679, khoản 2 Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 1995; Áp dụng Điều 2 của Luật Người cao tuổi; Áp dụng điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQHĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối [5] Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về công sức đóng góp trong việc chăm sóc, phụng dưỡng, đám tang, mộ phần, đám giỗ cho cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S, nên không xem xét. cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình; Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Áp dụng Án lệ số 05/2016/AL và Án lệ số 06/2016/AL cùng ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ái Tr về việc chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn V2 (chết năm 1980) và cụ Dương Thị S (chết năm 2005) là nhà, đất số 100/54 (số cũ là 100/49) đường L, Phường M, quận B, Thành phố H theo quy định của pháp luật. 1. Xác định nhà, đất số 100/54 (số cũ là 100/49) đường L, Phường M, quận B, Thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4947/2004 do Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố H cấp cho cho cụ Nguyễn Văn V2 (chết năm 1980) và cụ Dương Thị S ngày 15/11/2004 (hiện trạng nhà đất hiện nay theo Bản đồ hiện trạng vị trí – Áp ranh và Bản vẽ hiện trạng nhà do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H lập và phát hành ngày 28/12/2021 theo hợp đồng số: 129859/TTĐĐBĐ- VPTT), là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn V2 (chết năm 1980) và cụ Dương Thị S (chết năm 2005). 2. Những người được hưởng di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S gồm có: Bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X và bà Nguyễn Thị S1 (bà S1 chết năm 2006, bà S1 có 06 người con là: Ông Trần Nguyễn Đại V1, ông Trần Nguyễn Q, ông Trần Quốc Đ, ông Trần Thị Mai L, ông Trần Nguyễn Đại Tr1 và bà Trần Thị Kim A1). Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X và bà Nguyễn Thị S1 (bà S1 chết năm 2006, có các con bà S1 là: Ông Trần Nguyễn Đại V1, ông Trần Nguyễn Q, ông Trần Quốc Đ, ông Trần Thị Mai L, ông Trần Nguyễn Đại Tr1 và bà Trần Thị Kim A1 nhận) mỗi người thừa kế được nhận một kỷ phần thừa kế bằng nhau tương đương với 1/8 giá trị di sản thừa kế tại thời điểm thi hành án; - Bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X được nhận số tiền tương đương 1/8 giá trị di sản thừa kế tại thời điểm thi hành án (mỗi người nhận 1/2) đối với công sức đóng góp trong việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế. 4. Hết thời hạn 03 (ba) tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, các đương sự được quyền thỏa thuận với nhau về việc bán di sản thừa kế hoặc yêu cầu Cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền bán di sản thừa kế là nhà, đất số 3. Di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S là nhà, đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H được chia làm 08 (tám) phần bằng nhau, cụ thể: - Bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà 100/54 (số cũ là 100/49) đường L, Phường M, quận B, Thành phố H để thi hành án theo quy định của pháp luật. trú trong nhà, đất số 100/54 đường L, Phường M, quận B, Thành phố H tại thời Số tiền thu được từ việc bán di sản thừa kế nói trên sau khi trừ các chi phí giá trị còn lại của di sản. Tạm giao kỷ phần thừa kế mà các con của bà Nguyễn Thị S1 được nhận cho bà Nguyễn Thị Ái V quản lý để sau này bà Nguyễn Thị Ái đương 1/8 giá trị còn lại của di sản (mỗi người nhận 1/2) đối với công sức đóng góp trong việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế. 5. Các đương sự không ai yêu cầu Tòa án giải quyết về công sức đóng góp trong việc chăm sóc, phụng dưỡng, đám tang, mộ phần, đám giỗ cho cụ Nguyễn Văn V2 và cụ Dương Thị S, nên không xem xét. 6. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ái Tr đã nộp tạm ứng chi phí tố tụng là 21.000.000 (hai mươi mốt triệu) đồng (chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: 3.000.000 đồng và chi phí thẩm định giá: 18.000.000 đồng). Bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1 mỗi người phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Ái Tr số tiền là: 3.000.000 (ba triệu) đồng. Các đồng thừa kế của bà Nguyễn Thị S1 gồm các ông/bà: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim A1) có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Ái Tr số tiền là: 3.000.000 (ba triệu) đồng. Trả ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Ái Tr về việc không yêu cầu bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X phải hoàn trả chi phí tố tụng. Các chi phí tố tụng khác mà nguyên đơn đã nộp tạm ứng, nguyên đơn tự nguyện nộp và không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét. Bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X có nghĩa vụ giao bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số: 4947/2004 do Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố H cấp ngày 15/11/2004 cho cụ Nguyễn Văn V2 (chết năm 1980) và cụ Dương Thị S để thi hành án. Bà Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X, ông Nguyễn Hải D, bà Trần Kiều Ph1 và những người đang cư điểm thi hành án phải giao nhà, đất này cho Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền để thi hành án theo quy định của pháp luật. liên quan đến việc bán tài sản, sẽ được chia như sau: - Bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V, ông Nguyễn Công X mỗi người được nhận một kỷ phần thừa kế tương đương 1/8 giá trị còn lại của di sản; - Các con của bà Nguyễn Thị S1 (chết năm 2006) là các ông/bà: Trần Nguyễn Đại V1, Trần Nguyễn Q, Trần Quốc Đ, Trần Thị Mai L, Trần Nguyễn Đại Tr1 và Trần Thị Kim A1 được nhận một kỷ phần thừa kế tương đương 1/8 V có nghĩa vụ phải giao lại cho họ theo hướng dẫn tại Án lệ số 06/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. - Bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X được nhận số tiền tương 7. Án phí dân sự sơ thẩm: - Miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm cho bà Nguyễn Thị Ái Ph, bà Nguyễn Thị Ái Th1, bà Nguyễn Thị Ái Tr, bà Nguyễn Thị Ái V và ông Nguyễn Công X do các đương sự là người cao tuổi, có đơn yêu cầu được miễn nộp án phí. - Bà Nguyễn Thị A phải nộp án phí là: 46.766.392 (bốn mươi sáu triệu bảy trăm sáu mươi sáu nghìn ba trăm chín mươi hai) đồng. - Ông Trần Nguyễn Đại V1, ông Trần Nguyễn Q, ông Trần Quốc Đ, bà Trần Thị Mai L, ông Trần Nguyễn Đại Tr1 và bà Trần Thị Kim A1 phải nộp án phí là: 46.766.392 (bốn mươi sáu triệu bảy trăm sáu mươi sáu nghìn ba trăm chín mươi hai) đồng. Các đương sự thi hành án tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền. Án xử sơ thẩm công khai, đương sự (hoặc người đại diện đương sự) có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án sơ thẩm. Viện Kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). |
Tên bản án là gì Tên bản án là "Bản án số: 398/2023/DS-ST Ngày: 30/3/2023 Vv: Tranh chấp thừa kế, chia tài sản chung; Yêu cầu hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy bỏ/công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy bỏ hợp đồng đặt cọc và hủy bỏ/công nhận nội dung cập nhật trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. | Tên bản án là "Bản án số: 398/2023/DS-ST Ngày: 30/3/2023 Vv: Tranh chấp thừa kế, chia tài sản chung; Yêu cầu hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy bỏ/công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy bỏ hợp đồng đặt cọc và hủy bỏ/công nhận nội dung cập nhật trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. |
Hội đồng xét xử gồm những ai Tên bản án là "Bản án số: 398/2023/DS-ST Ngày: 30/3/2023 Vv: Tranh chấp thừa kế, chia tài sản chung; Yêu cầu hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy bỏ/công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy bỏ hợp đồng đặt cọc và hủy bỏ/công nhận nội dung cập nhật trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. | Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Thị Ánh Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Nguyễn Thị Thanh Mai 2. Ông Nguyễn Thành Thông |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.