question
stringlengths
7
163
answer
stringlengths
0
10.1k
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 4
àm, về bổn phận trước tương lai của đất nước. Chúng ta nên hiểu rằng, chỉ có con đường rèn luyện nhân cách và tu dưỡng trí tuệ mới đưa chúng ta trở thành một người có ích, để chúng ta làm tròn bổn phận của mình. Hãy luôn nhớ rằng: tuổi trẻ là tương lai của đất nước! Tuổi trẻ là tuổi trẻ của đất nước và tương lai là tương lai của tuổi trẻ. Chúng ta có cống hiến, có cho đi thì mới có thể nhận lại được nhiều hơn thế. Các bạn trẻ, các bạn hãy vững tin để chân cứng đá mềm, để làm giàu cho quê hương xứ sở.
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 5
Tương lai đất nước chính là con đường phía trước của mỗi dân tộc. Nói đến tương lai đất nước là nói đến thời kì phát triển thịnh vượng sắp tới mà đất nước đang hướng đến. Thế hệ tuổi trẻ ngày nay được sống, lao động, học tập trong môi trường hòa bình; được thừa hưởng những thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công cuộc đổi mới đất nước; được cống hiến và trưởng thành trong sự ổn định về chính trị, sự phát triển vững chắc của kinh tế – xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện; được gia đình và xã hội dành cho nhiều cơ hội học tập để có trình độ học vấn, chuyên môn cao hơn các lớp thanh niên đi trước. Những lợi thế to lớn ấy khiến tuổi trẻ trở thành lực lượng lao động quan trọng nhất tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay mang trên vai trọng trách lịch sử, đó là phải trở thành lực lượng lao động có trí tuệ và có tay nghề cao, có đạo đức và lối sống trong sáng, có sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần cường tráng để đưa Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong muốn của chủ tịch Hồ Chí Minh. Với lợi thế năng động, sáng tạo, giàu nhiệt huyết, không ngại ngần khó khăn, tuổi trẻ là lớp người có khả năng học tập, tiếp nhận trình độ khoa học công nghệ kĩ thuật tiên tiến của các nước trên thế giới và vận dụng hiệu quả vào tình hình thực tiễn đất nước. Nhiều thanh niên Việt Nam đã không ngại khó khăn, ngày đêm ra sức học tập, sáng tạo và thành công rực rỡ trên con đường khởi nghiệp làm giàu. Họ chính là những tấm gương sáng ngời cho ý chí vượt khó vươn lên thành công. Tuổi trẻ là lớp người tiên phong trong chiến lược quảng bá hình ảnh con người và nền văn hóa Việt Nam ra khắp năm châu. Với trình độ công nghệ cao, sự nhạy bén tiếp biến và vận dụng tri thức, giỏi ngoại ngữ, tuổi trẻ Việt Nam từng bước giới thiệu với bạn bè khắp thế giới một nền văn hóa Việt Nam bình dị, nhân văn, mang đậm bản sắc Á Đông trên khắp các diễn đàn. Tuổi trẻ là lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Hằng năm, lớp lớp thanh niên đã hăng hái lên đường nhập ngũ đi thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng đối với tổ quốc. Như Bác Hồ đã nói: “Đâu cần thì thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, tuổi trẻ ngày nay xông xáo vào các phong trào tình nguyện, đem sức trẻ dẻo dai giúp đỡ nhân dân các vùng khó khăn, thiên tai, bão lũ… Màu áo xanh thắm của đoàn thanh niên tình nguyện từ bao năm qua đã trở nên quen thuộc với người dân nghèo khó trên khắp mọi miền đất nước. Trước hết, tuổi trẻ phải có ý thức rõ ràng trách nhiệm, vai trò và nghĩa vụ của mình đối với tương lai đất nước. Tuổi trẻ phải tích cực bồi dưỡng và nâng cao tình yêu tổ quốc và ý thức trách nhiệm của bản thân đối với nhân dân và đất nước. Không ngừng rèn luyện bản thân, nâng cao bản lĩnh, nắm bắt cơ hội, biến tri thức thành công cụ đắc lực trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước. Tuổi trẻ cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, tay nghề. Trong thời kỳ
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 5
phát triển kinh tế – xã hội trong nước và hội nhập quốc tế, thanh niên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, khả năng thực tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế. Người thanh niên nào cũng phải học; ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải học; người thanh niên nào cũng phải xác định tham gia học tập thường xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân. Tuổi trẻ phải tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh văn minh, tiến bộ. Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu, bảo vệ sự sống trên trái đất. Tuổi trẻ phải là lực lượng xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự nguyện, tự giác tham gia các thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tuổi trẻ cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; không ngại ngần tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo. Không còn nghi ngờ gì nữa, tuổi trẻ chính là tương lai của đất nước. Chính tuổi trẻ sẽ là người quyết định vị thế của đất nước trên trường quốc tế, sánh vai với các cường quốc năm châu như lời Bác Hồ đã thiết tha căn dặn. Với tình hình thế giới có nhiều biến động như ngày nay, tuổi trẻ Việt Nam phải tăng cường học tập, rèn luyện mình vững vàng, sẵn sàng đưa đất nước phát triển, hội nhập cùng thế giới.
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 6
Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ đã thiết tha căn dặn: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em". Lời nhắn nhủ của Bác một lần nữa càng giúp ta thấm thía hơn vai trò, trách nhiệm của thế hệ với tương lai đất nước. "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Cuộc đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Vâng, tuổi trẻ là chặng đời con người có thể có những đóng góp lớn lao nhất cho xã hội. Vì sao vậy? Bởi lẽ, tuổi trẻ là tuổi sung sức nhất trong cuộc đời mỗi con người. Tuổi trẻ là tuổi ôm ấp bao ước mơ, hoài bão. Tuổi trẻ là tuổi năng động và sáng tạo. Tuổi trẻ cũng là tuổi có sức bật mạnh hơn hết thảy. Với tất cả những phẩm chất tinh túy ấy, không bàn cãi gì nữa, thế hệ trẻ sẽ là những chủ nhân của đất nước, sẽ là nguồn động lực hàng đầu trong công cuộc xây dựng một đất nước phát triển và giàu mạnh. Song, để có thể sống và đóng góp một cách trọn vẹn, viên mãn nhất cho đất nước, tuổi trẻ cũng cần chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết để tiến vào tương lai, đảm đương vai trò, sứ mệnh thiêng liêng của mình. Tuổi trẻ ấy không ai khác chính là chúng ta, thế hệ học sinh, sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường. Vậy, chúng ta phải chuẩn bị những gì cho hàng trang đi vào tương lai? Thiết nghĩ, trước hết chúng ta phải là những con người có đạo đức tốt, có nhân cách cao đẹp. Đồng thời, phải không ngừng nỗ lực để nâng cao tri thức, hiểu biết, trí tuệ nhằm đem tài năng của mình phục vụ cho Tổ quốc. Nghĩa là, mỗi người phải phần đấu để trở thành con người toàn diện, vừa có đức, vừa có tài. Lời Bác dạy vẫn còn đó: "Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Con đường tiếp cận tri thức của nhân loại là cả một hành trình không mệt mỏi, không có chỗ dừng. Để có thể thực sự trở thành những chủ nhân vững vàng của đất nước tương lai, ngay từ bây giờ, mỗi chúng ta phải không ngừng học tập, nắm bắt một cách đầy đủ những kiến thức cơ bản để có thể tiến xa hơn trên con đường khám phá tri thức nhân loại, trở thành lực lượng lao động tri thức, trở thành những con người cốt cán của thời đại khoa học kĩ thuật. Tương lai đất nước phụ thuộc vào việc học của chúng ta. Lời nhắn nhủ của Bác đặt trong hoàn cảnh hiện nay càng sâu sắc hơn bao giờ hết. Sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội sẽ không chấp nhận những ai bằng lòng với những gì mình đang có. Điều đó cũng có nghĩ làm không chịu học, không ham học thì chúng ta sẽ bị tụt hậu. Chắc chắn, sứ mệnh của những chủ nhân tương lai sẽ không phải là chúng ta. Điều này quả là ngoài ý muốn của những ai biết yêu Tổ quốc, giống nòi, biết tự hào với truyền thống cao đẹp của "con Hồng cháu Lạc". Vậy chúng ta phải học tập như thế nào để có thể đáp ứng được yêu cầu lớn lao đó? Thiết nghĩ, mỗi người phải ý thức rõ vai trò chủ
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 6
nhân tương lai đất nước. Không ngừng học tập và học hỏi, học với tất cả sự nhiệt tình và niềm say mê khám phá không ngừng để tiếp cận chân lí của tri thức nhân loại. Xác định rõ mục tiêu học tập vinh quang ấy, mỗi học sinh phải xem những tấm gương hiếu học, những gương mặt tài năng trẻ không chỉ là niềm tự hào của tuổi trẻ chúng ta mà còn là cái đích vươn lên của mỗi con người. Trau dồi kiến thức, học đến đâu chắc đến đó; kết hợp học với hành, lí thuyết gắn với thực nghiệm để có kích thích sáng tạo; tìm tòi cái mới. Và tất nhiên, không bao giờ quên ý thức trau dồi trở thành con người toàn diện cả tài và đức. Bởi chỉ thực sự có tài và có đức thì mới mong đóng góp được nhiều cho đất nước, cho dân tộc. Bác mong các cháu ma khôn lớnNối gót ông cha bước kịp mình. (Tố Hữu) Lời Bác dạy và mong ước tha thiết của Người sẽ mãi là lẽ sống đẹp của mỗi chúng ta, hôm nay và mai sau. Bạn, tôi và tất cả chúng ta chắc chắn sẽ là những chủ nhân xứng đáng của đất nước. Và, tất nhiên phải bắt đầu ngay từ bây giờ, những gì cần thiết nhất để hoàn thành sứ mệnh của tương lai.
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 7
Người Việt Nam thường nói: "tre già măng mọc", "con hơn cha là nhà có phúc". Vấn đề truyền thống là mạch ngầm trong lòng dân tộc, là sức sống diệu kỳ trong hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Cha ông ta trao cho con cháu ngọn lửa thiêng liêng của nền văn hóa, văn hiến và hơn ai hết tuổi trẻ của thế hệ hôm nay phải có sứ mệnh thắp sáng hơn, đưa ngọn lửa thiêng liêng ấy đến đài vinh quang trong tương lai. Thời kì nào cũng vậy, dân tộc nào cũng vậy, tuổi trẻ là nguồn tài nguyên vô giá và là nhân vật chính tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho Tổ quốc, cho dân tộc. Tuổi trẻ là thế hệ măng đã sắp thành tre, là những con người đủ điều kiện, đủ ý thức để nhận thức vị trí của mình trong cuộc đời đối với chính mình và xã hội. Tuổi trẻ của đất nước hôm nay là bạn, là những anh chị hơn mình tuổi tác đang có mặt trong các giảng đường Đại học, Cao đẳng, đang hoạt động bằng tâm huyết của mình để cống hiến nhiều nhất sức trẻ với sự đam mê, hăng say, nhiệt tình bốc lửa. Nhiệm vụ của tuổi trẻ thời nào cũng có những mục đích rất cụ thể. Thời kì chống Pháp, chống Mĩ, hàng triệu thanh niên đã ngã xuống, đem lại độc lập, tự do cho đất nước. Giờ đây, hàng triệu Thanh niên Việt Nam cần phải thấm nhuần lời dạy của Bác là phải: "Học tập tốt, lao động tốt". Hơn bao giờ hết chúng ta cần suy ngẫm tới những lời nói vàng ngọc xuất phát tự đáy lòng của Bác trong "Thư gửi học sinh Việt Nam" nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm Châu được hay không, chính là nhờ một phần vào công học tập của các cháu". Ngay những ngày đầu mở nước, Bác đã quan tâm diệt giặc dốt. Bác coi loại giặc này còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Với kinh nghiệm từng trải, với việc chứng kiến nhiều nền văn minh khác nhau trên thế giới Bác đã hiểu rằng: "Một dân tộc dốt nát, dân trí thấp thì trước sau cũng chỉ là nô lệ cho thế lực bên ngoài". Nói đến tuổi trẻ hôm nay là nói tới việc học hành. Tuy nhiên, có người coi chuyện học hành như một việc khổ sai. Việc học là sự thúc ép của cha mẹ, của thầy cô. Việc học không tự giác đã dẫn tới lười biếng, cẩu thả. Chính mình tự đầu độc mình bằng...học. Người ta coi học tập là ngày hội, thì một số người coi học tập là nỗi nhọc nhằn phải chịu đựng. Kiến thức các bộ môn cứ y như cỏ rơm mà con người phải nhai lại vậy. Có người coi chuyện học tập, chuyện thi cử chỉ là hình thức. Bởi họ cần bằng cấp không cần kiến thức. Có bằng cấp họ lại được "sắp", "xếp" vào những vị trí như mong muốn của bản thân, thậm chí theo như ý của các ông bố, bà mẹ. Vị trí của họ sớm đã được xác định nên dẫn tới một bộ phận thanh niên không đem hết tài sức để phấn đấu. Thật nguy hại cho lối học cơ hội này bởi lối học đó sẽ tạo nên những nhân cách cơ hội, phương cách làm giàu "kiểu chụp giật may rủi" chúng chẳng những không đưa nước ta sánh vai với các cường quốc mà ngược lại chúng làm dân tộc ta tụt hậu, lụn bại. Thời đại của tri thức, của kh
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 7
oa học công nghệ. Ai nắm được tri thức công nghệ, người ấy sẽ nắm chiếc đũa thần để tạo bước đi thần diệu cho đất nước. Nhiệm vụ của tuổi trẻ phải có chiếc đũa thần ấy. Bất cứ ai ở tuổi ăn học, phải tạo mọi điều kiện, tiếp cận với tri thức. Chỉ có tri thức dồi dào, đạo đức nhân tâm trong sáng, khát vọng sống, lao động cống hiến mãnh liệt trong tầng lớp tuổi trẻ thì tương lai của dân tộc mới sáng lạn, lấp lánh hào quang. Tuổi trẻ Việt Nam không phải không có nhân tài. Nhưng tất cả tuổi trẻ Việt Nam phải biết hóa thân cho "dáng hình xứ sở". Mọi người phải là anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân ngày nào. "Đoàn vệ quốc quân một ngày ra điNào có sá chi đâu ngày trở vềRa đi ra đi bảo tồn sông núi..." Chúng ta phải học tập với tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Phải coi chuyện học tập hằng ngày của chúng ta là những chiến công. Nói như Đại tướng Võ Nguyên Giáp là thanh niên ta hiện nay cần phải lập những Điện Biên Phủ mới để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên huy hoàng, ấm no, hạnh phúc. "Thành công là do 99% tài năng và 1% may mắn". Tôi, bạn và những người lắng nghe dòng tâm sự này hãy cố gắng nỗ lực hết mình để Việt Nam mãi trường tồn với thời thời gian, vĩnh cửu trên thế giới.
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 8
“Tre già măng mọc” quy luật ngàn đời nay vẫn thế. Cũng như cuộc sống con người, thế hệ trước cống hiến, hi sinh cũng sẽ đến lúc nhường bước cho thế hệ trẻ vươn lên làm chủ vận mệnh của đất nước. Và tuổi trẻ chính là tương lai của đất nước, tuổi trẻ sẽ quyết định sự tồn vong, hưng vượng của một quốc gia. Tuổi trẻ không ai khác chính là lứa tuổi thanh thiếu niên, những bạn độ tuổi học sinh sinh viên, họ được trang bị kĩ lưỡng về tri thức và kĩ năng để chuẩn bị hành trang vững chắc bước vào cuộc sống, bước vào hành trình xây dựng đất nước. Vậy vì sao tuổi trẻ và chỉ có tuổi trẻ mới là tương lai, mới là sự phát triển của đất nước? Trước hết, theo đúng như quy luật đã nói ban đầu, tre già măng mọc, cây già ngã xuống cây non sẽ đứng lên tiếp bước. Con người ta không ai có thể trường tồn mãi mãi, mà cũng sẽ có lúc phải nghỉ ngơi, và để xã hội tiếp tục phát triển các thế hệ sau sẽ kế tục. Thứ hai thế hệ trẻ được trang bị đầy đủ, kĩ lưỡng trên tất cả các phương diện: sức khỏe, tri thức, đạo đức để đem những điều mình đã được học phục vụ cuộc sống bản thân và xã hội khi đã trưởng thành. Sự ảnh hưởng của thế hệ trẻ đến tương lai của đất nước còn thể hiện ở sự phát triển của đất nước khi thế hệ đó kế tục. Một thế hệ giỏi giang, cần mẫm, sống có đạo đức của ngày hôm nay chính là dấu hiệu cho tương lai vững bền, tươi sáng của đất nước trong tương lai. Không chỉ vậy, thế giới không ngừng phát triển, khoa học công nghệ đưa văn minh nhân loại đến những bước tiến ngoài sức tưởng tượng, mà thế hệ trẻ lại là thế hệ có sức trẻ, có nhiệt huyết, thông minh và sáng tạo dễ dàng tiếp thu và đưa vào thực tiễn các tri thức mới. Bởi vậy, họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước. Vai trò của thế hệ trẻ, không phải chỉ đến bây giờ mới được xác định, mà hàng trăm năm trước đây đã được minh chứng bằng những vị anh hùng đã lưu danh sử sách. Lý Công Uẩn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,… đều là những người có học thức uyên bác, tuổi trẻ cần cù, chăm chỉ lại thêm thiên phú trời ban đã lập nên những chiến công hiển hách, đã để lại sự nghiệp văn chương vĩ đại cho muôn đời sau. Gần hơn ta có thể kể đến chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người thanh niên trẻ tuổi, thông minh, hiếu học, đã sẵn sàng rời quê nhà ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình bôn ba hải ngoại vẫn không ngừng học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, để tìm ra con đường cứu nước đúng đăn cho dân tộc. Gần hơn chút nữa, chắc hẳn các bạn vẫn không quên cậu bé Đỗ Nhật Nam, tuy nhỏ tuổi nhưng rất thông minh, xuất chúng, đây chính là mầm mon sẽ gánh vác sự phát triển của đất nước sau này. Nhìn vào thực ti
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 8
ễn lịch sử, từ xưa đến nay thế hệ trẻ luôn là thế hệ đi đầu, tiên phong, sẵn sàng xông vào khó khăn hiểm nguy. Trong thời chiến ta vẫn nhớ những vị anh hùng trẻ tuổi như Lê Văn Tám,… đến thời bình những chiếc áo xanh tình nguyên khoác trên mình khẩu hiệu, “Đâu cần thanh niên có. Việc khó có thanh niên” đem sức trẻ đi giúp đỡ mọi người trên khắp mọi miền đất nước. Vậy ta mới thấy, tuổi trẻ có ý nghĩa như thế nào đối với sự phát triển của đất nước. Để phát huy sức trẻ, chúng ta, thế hệ học sinh cần chăm chỉ học tập hơn nữa, không chỉ bồi đắp tri thức mà còn rèn đạo đức, luyện kĩ năng, để có đầy đủ công cụ cần thiết, sẵn sàng bước vào cuộc sống và cống hiến. Bên cạnh đó nhà nước cũng cần có các chính sách ưu tiên hơn nữa khuyến khích việc học, phát triển tài năng… Thế hệ trẻ chính là tương lai đất nước, là cội rễ cho sự phát triển của dân tộc. Là một học sinh, chúng ta cần không ngừng nỗ lực, cố gắng, xây dựng cho bản thân một mục đích, mục tiêu rõ ràng, không ngừng phấn đấu để đạt được những mục tiêu mình đã đề ra.
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 9
Người ta thường có câu: "tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu". Có lẽ vậy, tuổi trẻ là cái tuổi ta đủ trí đủ lực để làm mọi điều cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Tuổi trẻ là gì? Có ai chưa từng trải qua? Tuổi trẻ là những tháng năm rực rỡ, là những ánh mặt trời xuyên qua những tầng mây nhưng cũng là những ngày khó khăn và trắc trở. Ta còn trẻ, tức ta không chỉ đón nhận mỗi niềm vui và hạnh phúc mà còn phải đón nhận những cơn bão gió của cuộc đời. Tuổi trẻ mang một bản tính riêng biệt cho mình đó là "ngông". Họ còn trẻ, họ dám nghĩ, dám làm, dám sai và dám gánh chịu. Ước mơ của bạn như những cánh chim bồ câu bay đi, hết lần này đến lần khác, những lần nào cũng bị bão táp làm cho tổn thương. Thế là chúng ta bắt đầu chìm đắm trong tuyệt vọng, oán trách sự thất bại. Nhưng khi ta trải qua những ngày tháng gian khổ, chúng ta có thể nhìn ra bản chất của cuộc sống vốn không phải là một con đường bằng phẳng, tràn đầy ánh sáng và sự hân hoan, mà là một đường núi gập ghềnh có cả sự hân hoan của người chiến thắng lẫn sự khổ đau của kẻ thất bại. Có lẽ vì thế mà chúng ta không ngừng cố gắng, sống hết mình vì tuổi thanh xuân. Tuổi trẻ luôn là tương lai của đất nước. Bởi những người trẻ, họ có sức mạnh, có đủ tiềm năng để phát triển. Họ có nhiệt huyết để nỗ lực làm việc và cống hiến. Chẳng ai có thể bì với sức trẻ. Dù cho ta sai lầm nhưng hãy nhớ rằng ta mới ngoài 20, cuộc sống này vẫn cho phép bạn mắc sai lầm và cho bạn cơ hội để sửa chữa sai lầm ấy. Hãy cứ làm việc, miệt mài và cống hiến, tuổi trẻ của chúng ta sẽ trở nên ý nghĩa hơn rất nhiều. Khi thời gian vùn vụt trôi đi, bao mùa xuân đi ngang đời trẻ, đến lúc rồi ta cũng sẽ già, sẽ trải qua nhiều biến cố, con người lúc ấy cũng trầm lại, tĩnh lặng như mặt nước sớm mai. Ta sẽ không còn cảm giác của tuổi trẻ, ta sẽ chẳng thể xông pha khi đứng trước những con đường đầy gai và bụi rậm. Tuổi trẻ như những con sóng, sóng dữ dội đôi lúc lại dịu êm, sóng xô bờ cát rồi lại trở về với biển. Như một quy luật vậy, có lúc biển sẽ lắng lại, không còn những con sóng xô bờ dữ dội nữa. Vì vậy, vì bản thân ta, hãy cố gắng hết minh. Vì tương lai đất nước ta hãy không ngừng cống hiến để cuộc đời mỗi con người trở nên ý nghĩa hơn. Trong cuộc sống có rất nhiều những tấm gương thế hệ trẻ mà chúng ta cần noi theo. Các bạn còn nhớ cô gái Đặng Thùy Trâm, nữ liệt sĩ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, cô gác lại bút nghiêng để ra tiền tuyến, vì đất nước, vì cách mạng mà lao vào vòng chiến. Thật dũng cảm, thật oai hùng và táo bạo khi một người con gái có thể hy sinh tuổi trẻ để cống hiến. Bạn sao có thể quên những anh bộ đội canh gác ngoài đảo xa, vì tổ quốc, vì lãnh thổ mà hy sinh quên mình. Những tấm gương ấy luôn sáng mãi, soi chiếu bước đi của thế hệ tương lai. Ngược lại, ta càng phải phê phán những người còn trẻ nhưng không có chí, còn trẻ mà không cố gắng vì tương lai. Hoặc họ đang đớn hèn trước những thử thách và sóng gió của cuộc đời, họ đóng cửa trùm chăn trước xã hội để thỏa mãn cái thú vui riêng mình. Tuổi trẻ ai cũng một lần t
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 9
ừng nếm trải nhưng chẳng một ai có thể quay lại lần thứ hai. Đời người tuy dài thế, năm tháng sẽ nhanh qua thôi. Hãy hết mình vì tuổi trẻ, vì tương lai đất nước các bạn nhé.
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ Vĩ đại của Đảng ta, dân tộc ta, đã viết trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc năm 1946 như sau: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Vậy hôm nay chúng ta hãy cùng nhau bàn bạc về tuổi trẻ và tương lai của đát nước nhé! Nói về đất nước ta trước năm 1945, thật là những cuộc sống tối tăm: Những mảnh đời như lão Hạc, chị Dậu và cái Tí thật chẳng có lối thoát, không còn hi vọng gì, còn con trai lão Hạc thì: Kiếp sống của nhân dân lao động thì tăm tối, bị chà đạp về nhân phẩm và quyền sống; kiếp sống của những người trí thức cũng chẳng có tương lai: những ông giáo của Nam Cao cũng hệt như con hổ nhớ rừng: "Nay sa cơ chịu nhục nhằn tù hãm"... Nhưng Bác Hồ đã tiên đoán được tiềm năng của dân tộc Việt chúng ta. Năm 1921, người đã viết: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến". Với ý nghĩa "tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội, thực sự thanh niên là lực lượng hùng hậu, có sức khỏe. Có học vấn và tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học hiện đại. Trong giai đoạn cách mạng mới, trước xu thế toàn cầu hóa về kinh tế và bối cảnh thế giới biến động phức tạp, Đảng ta đã khẳng định: "Thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, là nguồn nhân lực quyết định thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thanh niên chiếm 1/3 dân số, là lực lượng xung kích, là người chủ hiện tại và tương lai của đất nước ta. Hiện nay, thanh niên ta đang đứng trước những thời cơ là: - Sự nghiệp đổi mới của Đảng, sự đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự quan tâm của nhà nước và các cấp chính quyền và các ngành mở ra cho thanh niên nhiều cơ hội để phát huy tài năng, cống hiến và trưởng thành. - Các chính sách của nhà nước như phát triển giáo dục, nâng cao trình độ học vấn và tay nghề, các chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế nhiều thành phần ...là cơ hội để thanh niên vươn lên làm giàu chính đáng. Trong những năm 1920, Bác viết bài "Gửi thanh niên An Nam" như sau: "Thanh niên chúng ta đang làm gì? Nói ra thì buồn, buồn lắm: họ khồng làm gì cả. Những thanh niên không có phương tiện thì không dám rời quê nhà;; những người có phương tiện thì lại chìm ngập trong sự biếng nhác; còn những kẻ xuất dương thì chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn tính tò mò của tuổi trẻ mà thôi! Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên của người không sớm hồi sinh!". Cùng thời lúc ấy, nhà cách mạng Phan Bội Châu cũng mượn tiếng gà gáy để đánh thức tuổi trẻ. Rồi từ đó, nhà chí sĩ kêu gọi thanh niên: Bao nhiêu năm trôi qua từ những năm 1920 ấy, bao anh hùng đã đỗ máu xương xuống mảnh đất này! Bây giờ, trong những thanh niên thế kỉ XXI, ai là người còn nhớ đến những người lãnh tụ chịu tù tội, ai đếm được những máu xương nhuộm thắm quê hương để giành độc lập tự do? Nếu bạn có một hoái bão cao đẹp dựng xây đất nước,
Viết bài văn nghị luận: Tuổi trẻ và tương lai đất nước - mẫu 10
xin hãy đi lên bằng nghị lực của mình và một trí tuệ được thụ hưởng có chọn lọc thời mờ cửa của thế kỉ XXI. Mong sao những thanh niên như thế có một tưorng lai tươi sáng khi bạn biết đi lên, sống xây dựng và cống hiến. bạn sẽ có một tương lai tươi sáng giữa một góc quê hương giàu đẹp! Nhưng nếu bạn là một trong những bạn trẻ đang rong chơi thay cho việc vùi đầu vào nghiên cứu và học tập? Nếu bạn ăn chơi và vô tình sa chân vào con đường nghiện ngập, khó thoát ra? Vậy thì tương lai của nhũng người như bạn đưa đất nước quê hương về đâu? Bạn đưa gia đình thân thích bạn đi đến nơi nào nếu nơi bạn đến là bệnh viện chữa AIDS? Nếu thanh niên chúng ta không là gánh nặng cho gia đình, xã hội, mà là chỗ dựa cho người thân yêu, thì đó là "con hơn cha là nhà có phước". Đất nước càng nhiều người như thế, càng giàu mạnh hùng cường. .
Dàn ý Thuyết minh về cây chuối
I. Mở bài Giới thiệu về cây chuối: Cây chuối là một loại cây rất phổ biến ở Việt Nam. Đi khắp vùng quê trên đất nước đều thấy chuối một loại cây mang lại một cảm giác thân thiện và dân dã. II. Thân bài 1. Đặc điểm a. Hình dạng +Cây chuối thân mềm, hình trụ, tán lá dài mỏng, xanh và mượt. +Gốc chuối tròn, rễ chùm ăn sâu dưới đất, và rễ lớn dần theo thời gian. +Buồng chuối: Tùy theo mỗi cây mà buồng chuối to nhỏ khác nhau, có những cây chuối trăm quả, nghìn quả và có cả những buồng chuối dài đến tận gốc. +Cây chuối rất ưa ẩm nên thường sống bên cạnh ao hồ, hay sông suối +Chuối phát triển rất nhanh và mọc thành từng khóm, từng bụi chen chúc. b. Nơi sinh sống +Cây chuối từng sống nơi ẩm ướt, nên thường mọc bên sông, suối, ao hồ. +Cây chuối thích nghi với môi trường nhiệt đới. +Chuối thường không bám chặt trên đất nên thường rất dễ ngã. 2. Các loại chuối +Chuối sứ: Chuối sứ to tròn, chín màu vàng tươi. +Chuối ngự: Chuối ngự to, thơm và ngon. +Chuối cau: Nhỏ như quả cau, vàng tươi khi chín. +Chuối tiêu: Nhỏ vừa, chín rất ngọt và thơm. +Chuối lùn: Quả to dài, thơm và ngon. +Chuối hột: Quả to, bên trong hạt chi chít như hạt tiêu. +Chuối kiểng: Là cây không trái. 3. Công dụng - Tất cả bộ phận của cây chuối có thể sử dụng được. +Lá: Gói bánh, làm thức ăn cho thực vật… +Thân: Thức ăn +Quả: Thức ăn +Gốc: Thức ăn - Chuối góp phần tạo nên các món ăn ngon. - Quả chuối là một thực phẩm bổ dưỡng và bổ ích. - Chuối có thể chữa bệnh. - Làm mặt nạ dưỡng da. 4. Ý nghĩa của cây chuối +Trong thơ ca: Chuối đi vào thơ ca một cách thân thuộc và dân dã. +Trong thi ca: Trong các bức họa đồng quê bên cạnh các con sông luôn gắn với cây chuối. +Cây chuối rất hữu ích với người dân. III. Kết bài Nêu cảm nghĩ về cây chuối: Cây chuối là một loại cây thân thuộc và gắn bó với người dân Việt Nam. Bên cạnh tre, nứa thì chuối cũng một hình ảnh dân dã, thể hiện sự bất khuất của người dân.
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 1
Chuối là loài cây rất quen thuộc và không thể thiếu trong đời sống của con người. Bởi cây chuối có rất nhiều công dụng, quả chuối là món ăn thơm ngon và bổ dưỡng, các bộ phận khác từ cây chuối được dùng làm rất nhiều việc khác nhau. Đi dọc một vòng từ bắc vào nam chúng ta sẽ thấy cây chuối được trồng ở mọi nơi trên khắp đất nước Việt. Cây chuối được trồng ở khắp mọi nơi ở bờ ao, trong vườn nhà, ở ruộng, hay những vùng đất bãi phù sa. Thân cây mọc thẳng đứng và tròn, được tạo thành bởi lớp bẹ xếp khít vào nhau, bên trong hơi xốp, bề mặt ngoài của thân rất bóng và nhẵn. Lá chuối được mọc ra từ ngọn. Ban đầu những chiếc nõn chuối màu xanh non, sau đó lá xòa dần mọc chìa ra các phía và có màu đậm hơn. Mỗi chiếc là chuối có một đường gân lá nằm ở giữa, hai bên có hai dải mềm mại rủ xuống. Khi lá già thì các là sẽ tự khô đi để nhường chỗ cho những lá non đang chuẩn bị chồi ra ngoài. Khi cây chuối đủ tuổi để trưởng thành, chúng bắt đầu trổ buồng. Mỗi cây chuỗi đều cho một buồng, mỗi buồng lại có nhiều nải, mỗi nải lại có nhiều quả. Có giống cho hàng trăm quả một buồng. Buồng chuối được mọc thành từ những chiếc hoa mọc từ thân ra. Hoa chuối giống như ngọn lửa màu hồng,sau đó những chiếc bẹ nở dần ra rụng xuống là lúc những nải chuối non xuất hiện. Quả chuối lớn rất nhanh, chúng càng phát triển quả chuối càng cong hình lưỡi liềm, khi xanh có có màu xanh, khi chín có màu vàng. Chuối cũng có rất nhiều loại và được đặt tên với những cái tên rất hấp dẫn như chuối hương, chuối ngự, chuối hột. Mỗi loại chuối đều có đặc điểm, mùi hương thơm ngon riêng. Trong đó chuối ngự được trồng ở vùng Nam Định được coi là loại chuối thơm ngon nhất. Trong ẩm thực, quả chuối xanh có thể ăn với thịt dê, ăn gỏi, kho cá hay nấu với ốc, ếch đều rất ngon. Với những quả chuối già, chúng sẽ chín cây hoặc đem giấm đi cho chín. Chuối chín có rất nhiều vitamin rất tốt cho sức khỏe, người già và người trẻ đều có thể sử dụng loại chuối này. Xưa kia chuối được coi là loại quả quý thường để tiến vua, ngay nay chuối được coi là món ăn dân giã, quen thuộc. Trồng chuối rất nhanh cho thu hoạch, mang lại giá trị kinh tế cho người nông dân và con phục vụ xuất khẩu. Đây là một trong những loại quả được sử dụng nhiều nhất ở châu Âu vì nó là loại quả không chỉ ngon mà còn sạch. Không chỉ trồng chuối để ăn quả, khi thu hoạch chuối xong, người ta sẽ dùng thân cây chuối thái ra có thể làm thức ăn cho lợn, trâu bò rất tốt. Thân chuối non có thể dùng gói xôi, bánh nem rất tiện lợi, lá chuối non có thể gói bánh, gói giò, lá chuối khô có thể dùng làm chất đốt. Dây chuối khô có thể dùng để làm dây buộc các vật dụng, rất dai và bền. Người ta có thể dùng hoa chuối đã nở hết buồng để làm nộm hoặc để luộc. Củ chuối cũng có thể làm nộm hoặc nấu lươn, ốc, ếch rất ngon. Chuối là loại quả để thắp hương trong ngày rằm, mùng một, là loại quả không thể thiếu trong mâm ngũ quả ngày tết. Chuối còn tượng trưng cho sự thanh bình của làng quê. Chuối rất dễ sống và nhanh lớn, nhưng vòng đời của chúng rất ngắn, chỉ khoảng mộ
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 1
t năm. Mỗi cây chuối lớn lên trưởng thành và chỉ ra bông một lần rồi chết. Vào mua gió bão, nếu chuối có buồng cần phải chống để cây khỏi đổ. Khi thu hoạch cần phải nhẹ nhàng tránh rơi gãy. Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và đã dâng hiến tất cả cho con người Việt Nam, từ đời sống vật chất cho tới đời sống tinh thần. Cây chuối là niềm tự hào không chỉ của thiên nhiên, của đất mẹ mà còn của nông dân Việt Nam; cây chuối sẽ mãi là hình ảnh đẹp trong lòng mọi người.
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 2
Trong đời sống của những người nông dân nơi làng quê, hình ảnh cây chuối đã trở nên hết sức quen thuộc và mang nhiều ý nghĩa. Cùng với cây tre, cây chuối có lẽ chính là người bạn thân thiết nhất đối với tất cả những người con. Chuối là một loại cây thường mọc thành bụi và được trồng rất nhiều trong vườn. Ở nông thôn, hầu như nhà nào cũng trồng những cây chuối bởi rất nhiều những lợi ích của nó. Thân cây chuối có hình trụ và được tạo thành bởi rất nhiều những bẹ lá hình vòng cung có màu trắng xanh. Nhìn thân cây chuối cao to như vậy, thế nhưng kết cấu bên trong của cây chuối thì rất rỗng và xốp. Thân chuối thường bao giờ cũng có lớp bẹ ngoài có màu đậm hơn nhiều so với những lớp bên trong. Do tác động của thời tiết, lớp bẹ ngoài ấy thường có màu ngả nâu như lớp áo bảo vệ cả thân cây. Lá chuối rất to. Hai mặt của lá chuối có màu không đều nhau cho lắm. Mặt trên của lá có màu đậm hơn so với mặt trên có tác dụng nhận lấy ánh mặt trời để tạo thành chất diệp lục. Còn mặt dưới thì nhạt màu hơn. Trên tàu lá, những đường gân mọc chi chít theo thứ tự nhất định, đều tăm tắp. Những tàu lá chuối không hề mọc cùng một phía mà mọc theo nhiều hướng khác nhau, vươn ra khắp mọi nơi như bàn tay để hứng lấy nắng, lấy gió thiên nhiên. Chuối là một loại cây ăn quả phát triển khá nhanh. Do vậy, chỉ sau khoảng 2 - 3 tháng, cây chuối đã bắt đầu trổ hoa. Hoa chuối có hình thoi, cũng được tạo thành bởi rất nhiều những lớp áo có màu đỏ tía. Mỗi lớp đều ôm ấp những đài họa bé tí xíu chỉ bằng ngón tay út của chúng ta mà thôi. Chính những đài hoa bé nhỏ này sau này sẽ trở thành những nải chuối thơm ngon. Chuối cũng là loại cây có khả năng thích nghi rất cao, lại nhanh có quả ăn. Do đó, cây chuối cũng được rất nhiều người trồng trong những khu vườn của từng gia đình. Chuối cũng là một loại cây có rất nhiều những công dụng to lớn. Hầu như các bộ phận ở trên cây chuối đều có thể sử dụng được. Quả chuối là một loại quả rất giàu chất dinh dưỡng cả với chuối xanh và chuối chín. Chuối xanh dùng để ăn cắt lát với những món như thịt ếch, dê, bò… chuối chín có rất nhiều những chất dinh dưỡng năm trong nó. Lõi thân cây chuối và hoa chuối có thể dùng để làm rau sống ăn rất ngon và mát. Lá chuối có thể dùng để gói và bọc thực phẩm. Với những người chăm làm đẹp, hẳn chúng ta đã từng có ít nhất một lần dùng chuối xay nhuyễn để đắp mặt nạ, dưỡng da. Tất cả những bộ phận trên cây chuối hầu như chúng ta đều có thể sử dụng chúng được. Đó chính là những đặc điểm mà không phải loại cây nào cũng có thể làm được. Thế mới biết, giá trị của cây chuối lớn như thế nào. Trong đời sống văn hóa, cây chuối cũng được so sánh, liên tưởng tới rất nhiều những hình ảnh. “mẹ già như chuối chín cây”. Hình ảnh của những cây chuối đang có quả chín được so sánh với người mẹ phải hy sinh rất nhiều để chăm lo cho con cái có một cuộc sống tốt đẹp. Những buồng chuối chín dần thì thân cây lại càng thêm khô héo cũng như người mẹ nuôi con, cho tới khi con cái được lớn khôn trưởng thành thì cũng là lúc mẹ đã già đi, không cò
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 2
n được như ngày nào nữa. Đó chính là sự liên tưởng tương đồng của những người mẹ và cây chuối. Hay như trong những bức tranh của các danh hoa thì hình ảnh của cây chuối luôn được người họa sĩ ưu ái để đưa vào trong những đứa con của mình. Tóm lại, cây chuối là một loại cây vô cùng hữu dụng và có rất nhiều những giá trị trong nó. Không chỉ giúp cho chúng ta có được thu nhập mà chúng còn giúp nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi người chúng ta để chúng ta biết thêm nhiều hơn về cuộc sống.
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 3
Đất nước Việt Nam ta được thiên nhiên ban tặng cho rất nhiều loại trái cây thơm ngon. Mỗi loài mang một hương vị khác nhau, một hình dáng khác nhau. Và có lẽ về sự dẻo thơm thì chuối là loại quả thơm ngon nhất trong số tất cả các loại hoa quả. Ngoài ra, cây chuối còn rất nhiều tác dụng trong đời sống Việt Nam. Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ rất nhanh tươi tốt; còn ở rừng, bên những khe suối hay thung lũng, chuối mọc thành rừng bạt ngàn, vô tận. Chuối phát triển rất nhanh. Chuối có gốc tròn như đầu người, lớn dần theo thời gian, có rễ chùm nằm dưới mặt đất. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì là do từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối đều cho một buồng chuối. Có buồng chuối trăm quả và nhiều hơn thế. Không thiếu những buồng chuối dài từ ngọn cây uốn trĩu xuống tận gốc cây. Chuối chặt theo nải. Quả chuối có nhiều hình dạng tuỳ thuộc vào từng loại khác nhau. Ví dụ như chuối ta có dáng thuôn dài, vỏ xanh; còn chuối tiêu quả căng tròn, vỏ mỏng, thịt dày, vỏ vàng. Ngoài ra còn có chuối hương, chuối ngự, chuối sứ, chuối mường... Trong đời sống vật chất của con người Việt Nam thì chuối là một loài cây hữu dụng từ thân đến lá, từ gốc đến hoa, quả. Thân chuối rỗng nên người xưa hay dùng thay phao, ngoài ra còn làm thức ăn cho gia súc. Lá chuối tươi rửa sạch dùng để gói xôi, bánh giầy, bánh cốm, bánh chưng... và một trò chơi dân gian mà trẻ con hay chơi là cưỡi ngựa. Lá chuối khô cũng dùng để gói bánh gai hay cuộn chặt thay nút chai khá tốt. Bắp chuối thì chẻ ngọn nhỏ làm nộm, tương tự với nõn chuối làm rau sống hay ăn kèm với bún ốc, bún riêu. Trái chuối xanh hay được nấu cùng các thức ăn có vị tanh như ốc, lươn... vừa khử tanh lại vừa làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Trái chuối chín là một thức quả được nhiều người ưa chuộng. Cây chuối cho ta thật nhiều công dụng, ngay cả với đời sống tinh thần. Cây chuối đã trở thành biểu tượng cho làng quê Việt Nam. Nải chuối chín không thể thiếu trong các mâm cúng trời, đất, tổ tiên. Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và đã dâng hiến tất cả cho con người Việt Nam, từ đời sống vật chất cho tới đời sống tinh thần. Loại cây này đã trở thành niềm tự hào không chỉ của thiên nhiên, của đất mẹ mà còn của nông dân Việt Nam; cây chuối sẽ mãi là hình ảnh đẹp trong lòng mọi người.
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 4
Trong những hoa thơm trái ngọt mà thiên nhiên tạo hóa diệu kỳ đã ban tặng cho đất nước Việt Nam xinh đẹp của chúng ta không thể thiếu đi chuối - một loại quả thơm ngon dẻo ngọt và rất được ưa dùng. Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và là một loài cây ưa nước nên khi đến thăm những vùng quê ta sẽ bắt gặp những bụi chuối mọc hàng ngàn bên cạnh bờ ao, suối. Cây chuối được trồng chủ yếu để lấy trái, và ở mức độ ít hơn là lấy thân và để trang trí. Chuối có gốc tròn, rễ chùm nằm ở bên dưới. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì, từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối xanh, mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối có một buồng chuối, mọc ở tít phần cao nhất của thân cây, bên dưới mặt những tán lá to rộng. Mỗi buồng phải có tới trăm quả chi chít nhau hoặc hơn thế nữa. Quả chuối ra thành nải treo, mỗi tầng (gọi là nải) có tới hai mươi quả quả, và mỗi buồng có ba đến hai mươi nải như thế. Quả chuối có nhiều hình dạng tuỳ thuộc vào từng loại khác nhau. Chuối ta có dáng thuôn dài, vỏ xanh còn chuối tiêu quả căng tròn, vỏ mỏng, thịt dày, vỏ vàng. Ngoài ra còn có chuối hương, chuối ngự. chuối sứ, chuối mường... vô cùng phong phú, đa dạng. Cây chuối trong đời sống thường ngày, từ thân, lá quả đều có giá trị, công dụng riêng. Thân cây thái nhỏ ra có thể làm thức ăn cho lợn rất tốt. Lá chuối để gói xôi, gói bánh rất tiện lợi, sạch sẽ và dễ kiếm. Lá chuối khô có thế dùng làm chất đốt, để cuốn bánh gai hoặc quấn nhỏ làm nút chai rượu. Hoa chuối mà để làm món nộm hoa chuối thì ngon còn gì bằng, không những dễ làm mà còn thơm ngon và rẻ. Quả chuối có lẽ là nhiều công dụng nhất. Nó là một loại trái cây rất bổ dưỡng, hội tụ đầy đủ thành phần những chất dinh dưỡng cần thiết cho con người. Trong chuối có chứa nhiều chất vitamin, ăn vào rất tốt cho một làn da mịn màng. Và chủ yếu chuối thường dùng để ăn nhiều hơn vì nó rất ngon. Ở nông thôn, chuối còn là một phần thu nhập của người nông dân, người nông dân trồng chuối, bán những nải chuối kiểm lấy tiền để cải thiện đời sống tốt hơn. Không chỉ có ích trong đời sống vật chất mà còn mang giá trị tinh thần rất cao. Từ lâu, cây chuối đã trở thành một trong những biểu tượng của làng quê Việt Nam. Hình ảnh nải chuối như đôi tay ngửa nâng đỡ, ôm ấp, hứng lấy nắng sương đọng thành quả ngọt và che chở, bảo bọc, không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên. Cây chuối chính là biểu tượng cho tâm hồn mỗi con dân đất Việt. Bổ ích và ý nghĩa như vậy, ở Việt Nam, chuối được trồng và bán rộng rãi, giá thành rất rẻ so với những loại hoa quả khác, hầu như mọi gia đình đều có khả năng mua để ăn hàng ngày. Cây chuối từ lâu đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong đời sống của người dân Việt Nam. Nhắc đến cây chuối là như nhắc đến cả hồn cốt của tâm hồn người Việt.
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 5
Đất nước Việt Nam ta có truyền thống nông nghiệp, trồng cây ăn quả lâu năm. Với đất đai màu mỡ và thiên nhiên phù hợp, rất nhiều loại quả ngon ra đời, trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Trong đó, loại quả quen thuộc nhất, loài cây hữu ích nhất chính là cây chuối. Chuối được trồng ở nhiều nơi với nhiều loại giống khác nhau, từ đồng bằng đến miền núi, từ Nam ra Bắc đâu đâu cũng có họ hàng nhà chuối sinh sống. Dù là loại chuối nào thì chuối cũng có đang thẳng, tròn như một cái trụ mọng nước, gồm nhiều bẹ ấp lại mà thành, ở giữa có lõi dẫn chất dinh dưỡng để nuôi sống cây. Phía đầu mỗi bẹ thì có lá mọc xung quanh, mỗi tàu lá có cuống lá dài chạy dọc giữa bản, lá rộng cỡ 40-50cm. Theo thời gian, bộ lá của họ chuối vàng, già, héo quắt đi và nằm rủ khô quanh thân. Còn củ chuối thì có vỏ đen, sần sùi, khi gọt vỏ ngoài thì để lộ màu ngà đặc trưng. Xung quanh củ có rễ chùm màu nâu hoặc đen, rễ có nhiệm vụ hút chất dinh dưỡng để nuôi cây. Điều không thể không nhắc tới là hoa chuối, hoa có màu phơn phớt hồng giống như bếp lửa của thiên nhiên kỳ diệu. Qua quá trình miệt mài hút chất dinh dưỡng để bồi bổ cho hoa, hoa sẽ phát triển thành buồng chuối, mỗi buồng có từ 8-10 nải, mỗi nải có từ 10-15 quả. Lúc đầu quả còn xanh, lớn dần chín có màu vàng và mùi vị đặc trưng riêng. Họ chuối cũng đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước, những nải chuối tươi ngon sẽ được thu hoạch về và đóng gói làm hàng xuất khẩu. Còn trong cuộc sống hàng ngày, họ nhà chuối cũng mang lại nhiều lợi ích cho con người: thân già thì làm phao bè vượt sông; thân non có thể thái ghém làm rau sống ăn rất mát; hoa chuối thì có thể cắt về làm nộm hoặc nấu với ốc, lươn; .... Nhưng có một điều rất quan trọng là chuối còn trở thành vật thờ cúng tổ tiên, ngày lễ Tết thì người ta thờ chuối xanh còn ngày giỗ kinh người ta thờ chuối chín. Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và dâng hiến tất cả “tuổi xuân” của mình cho con người Việt Nam cả về đời sống vật chất và tinh thần. Nó sẽ luôn là loại cây, loại quả mà mỗi con dân đất Việt luôn tự hào về nhắc về Cây chuối còn gắn liền với tuổi thơ của nhiều người không bởi cái hương viij của nó mà là những kí ức không thể phai mờ bên gia đình, bên bạn bè. Hiện nay, tuy chuối vẫn đóng góp một phần không nhỏ trong thu hoạch hằng năm của người nông dân, song cũng đã có rất nhiều những vườn chuối đã bị phá đi do nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy vậy nhưng những kí ức về tuổi thơ chơi trốn tìm trong vườn chuối, lén ba mẹ hái những quả chuối chín sớm hay những hòm đánh trận giả lấy lá chuối làm cờ vẫn mãi là kỉ niệm đẹp nhất không thể phai mờ. Những thế hệ hôm nay, các em có ít những trải nghiệm ấy, nhưng mỗi khi ăn trái chuối ngọt thơm, hãy nhớ lấy công lao của những người trồng cây đã chăm bón từng ngày để được có quả ngon như ngày hôm nay. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến quê hương của những loài cây ăn quả phong phú và độc đáo. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho những loài cây n
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 5
ày phát triển nhanh chóng. Một trong số những loài cây dễ trồng và nhanh cho thu trái là cây chuối. Chuối ở Việt Nam hiện nay được biến đến là một loại cây tương đối phổ biến gồm một số loại thông dụng như chuối tiêu, chuối tây, chuối ngự, chuối hột hay chuối lùn,…, ngoài ra còn một số loại chuối rừng…Là một loại cây dễ sống, chuối thích hợp khi được trồng ở những nơi có khí hậu ẩm ướt. Về đặc điểm sinh trưởng, chuối có thể tự sinh trưởng trong môi trường tự nhiên. Chuối thường mọc theo bụi, tuy nhiên để chuối có sự phát triển đầy đủ nhất, người ta thường trồng chuối thành những bụi từ một cho tới bốn cây. Nếu như một bụi chuối quá nhiều, thông thường, người trồng chuối sẽ đánh ra những bụi khác nhau. Chuối là một loại cây thuộc dạng rễ chùm, chính bởi vậy, người ta sẽ thấy rễ của chuối không ăn quá sâu vào lòng đất nhưng những loại cây ăn quả có rễ cọc khác. Tuy nhiên với đặc điểm rễ mọc thành từng chùm nên chuối vẫn có thể sinh trưởng tốt từ các chất dinh dưỡng và muối khoáng mà các nhánh rễ thu nhận được. Thân chuối có dạng hình trụ thẳng đứng. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học, đây chỉ được gọi là thân giả. Chiếc thân giả này sẽ tùy từng loại cây mà có chiều cao khác nhau, thông thường khoảng từ 1,5 cho tới 2,5 m. Từ mỗi chiếc thân này, có thể mọc ra một một buồng chuối trước khi nó được thay thế bởi một chiếc thân giả khác. Đặc điểm tiêu biểu của thân chuối là bề mặt nhẵn mịn và bóng từ ghép lại thành các lớp chồng lên nhau. Thân chuối có nhiều công dụng, trước hết thân chuối có thể được dùng làm thức ăn cho gia súc gia cầm để bổ sung nước và chất xơ.. ngoài ra thân chuối non còn được sử dụng thái lát mỏng thành một món rau sống ưa thích của con người. Lá chuối rộng bản và to, có màu xanh non đẹp mắt. Một thân chuối sẽ có nhiều lá chuối mọc xòe ra xung quanh và bên trên ngọn. Hai mặt của lá chuối sẽ có hai màu khác nhau. Mặt bên trên được đón nhận nhiều ánh nắng mặt trời nên sẽ có màu xanh thẫm, mặt bên dưới, do nhận được ít ánh sáng mặt trời hơn nên sẽ có màu xanh nhạt và kèm theo phấn trắng. Lá chuối cũng có rất nhiều công dụng đối với đời sống con người. Người ta sẽ thường sử dụng lá chuối để gói các loại thức ăn như xôi, cốm,... vì rất sạch và thân thiện với môi trường. Đặc biệt hơn, lá chuối khi nhai dập có thể cầm máu. Ngoài ra, lá chuối khô sẽ thường dùng để gói các loại bánh như bánh gai,…. Phần cuống của lá chuối khô rất chắc và dai, vì vậy, những người dân thường sẽ dùng để bó rau. Lá chuối khô cũng có thể dùng làm chất đốt,... Không thể bỏ qua một bộ phận quan trọng khi nói đến cây chuối, đó là hoa chuối hay còn gọi là bắp chuối. Bắp chuối có màu đỏ thẫm và trông giống như một giọt nước khổng lồ treo ngược. Bắp chuối ở những miền đồng bằng khác bắp chuối rừng về màu sắc, thông thường những hoa chuối ở đồng bằng sẽ có màu màu tím chứ không đỏ tươi như bắp chuối rừng. Hoa chuối ngon sẽ là hoa chuối khi cầm chắc và nặng tay. Hoa chuối thường được sử dụng làm món ăn kèm với các loại bún nước, làm gỏi, hay nộm cũng rất ngon. Đó đều là n
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 5
hững món ăn thanh mát rất được người dân Việt Nam ưa chuộng. Chuối mọc thành từng buồng. Buồng chuối là tập hợp của nhiều nải chuối. Tùy từng giống chuối khác nhau mà mỗi buồng chuối sẽ có số lượng nải chuối không giống nhau. Có những buồng chuối chỉ có vài nải, nhưng cũng có những buồng chuối có số lượng nải lên đến hàng trăm. Để chuối phát triển tốt, quả đều và đẹp, thông thường người trồng chỉ để lại từ mười cho tới mười hai nải trên một buồng. Tùy từng loại khác nhau mà quả chuối cũng sẽ có hình dạng và vị khác nhau. Quả chuối thường có màu xanh lúc còn non và màu vàng khi chín với hình dáng cong như lưỡi liềm. Thông thường mỗi nải chuối sẽ có từ mười hai cho tới hơn hai chục quả. Quả của những cây chuối rừng sẽ thường có hột lớn hơn và cứng hơn những loại chuối được trồng tại các hộ gia đình. Chuối là một loại quả mang lại giá trị kinh tế cho con người, trong những trang trại lớn người ta trồng chuối nhằm mục đích xuất khẩu. Tuy nhiên có nhiều hộ gia đình cũng trồng chuối với mục đích để tráng miệng hoặc thắp hương mỗi ngày tết ngày rằm. Chuối chín có vị rất ngọt và có mùi rất thơm, người người ta có thể sử dụng để ăn trực tiếp hoặc dùng làm nguyên liệu cho những món ăn mùa hè rất thơm ngon như kem chuối hay chè chuối,...Chuối xanh cũng có thể được sử dụng để làm thành các món như chuối nấu ốc, chuối om đậu hay dùng xắt lát ăn kèm với những món thịt. Trong đời sống văn hóa của con người, chuối là một loại cây gắn bó với làng quê. Ở đâu ta cũng thấy những cây chuối mọc thành từng bụi xanh tốt. Cây chuối là một loài cây mộc mạc và giản dị, nó cũng tượng trưng cho sự sống của con người dù môi trường khắc nghiệt như thế nào cũng mạnh mẽ vươn lên. Đó là một loại cây có giá trị kinh tế và nhiều công dụng đối với đời sống con người, bởi vậy mỗi người cần yêu quý và trân trọng loài cây hữu ích này.
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 6
Thiên nhiên tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho con người nhiều loại trái cây thơm ngon. Biết bao loại cây, mỗi loại lại có một dáng vẻ, một công dụng khác nhau. Chuối là một loài cây đã vô cùng quen thuộc, gần gũi với làng quê. Đi khắp đất nước Việt Nam, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh những cây chuối, bụi chuối xanh tốt vươn lên từ bờ ao, bờ sông. Chuối là loại cây có quả được ăn rộng rãi nhất. Nguồn gốc của nó bắt nguồn từ vùng nhiệt đới ở Đông Nam Á và Úc. Ngày nay, nó đã được trồng khắp vùng nhiệt đới. Chuối có mặt ở ít nhất 107 quốc gia. Quả của những cây chuối dại có nhiều hột lớn và cứng. Nhưng hầu hết loại chuối để ăn đều thiếu hột vì đã được thuần hóa lâu đời. Chuối thường được trồng nhiều ở nông thôn và miền núi. Vì là loài ưa nước nên nó thường mọc ở bên bờ sông, bờ suối. Thân chuối thẳng, nhẵn bóng như cái cột nhà. Thân chuối do nhiều bẹ chuối ôm lấy nhau tạo thành. Bẹ ở ngoài thường có màu đậm hơn, bẹ nằm chính giữa thì có màu trắng. Thân chính này là một thân giả của chuối. Nõn chuối màu xanh non, có hình dạng giống cuốn thư thời xưa. Cây chuối có rất nhiều tàu lá, lá chuối to như tấm phản, gân lá to chạy dọc phiến lá. Lúc lá chuối còn tươi thì có màu xanh nhạt, lúc già thì rũ xuống thân cây, chuyển thành màu nâu. Hoa chuối lúc mới ra thì hướng thẳng lên trời, sau quay sang ngang rồi đâm xuống đất. Sau khi hoa chuối già, bẹ ở ngoài rụng hết thì bắt đầu phát triển thành quả. Một buồng chuối có nhiều nải chuối, thường là mười nải. Những buồng chuối có khi dài từ đỉnh xuống tận gốc, trĩu nặng cả thân cây. Quả chuối màu xanh lúc còn non, khi chín chuyển thành vàng, trông như vầng trăng lưỡi liềm. Chuối có rất nhiều công dụng, hầu như bộ phận nào của cây cũng không cần bỏ đi. Quả chuối chín thơm ngon, bổ dưỡng được nhiều người ưa chuộng. Ăn chuối còn có tác dụng làm đẹp cho da. Quả chuối xanh ăn kèm với thịt luộc và thường được nấu kèm với cá, ốc... vừa khử tanh vừa làm cho món ăn thêm đa dạng. Lá chuối tươi dùng để gói quà, gói bánh. Lá chuối khô có thể làm chất đốt hoặc dây buộc. Củ chuối, hoa chuối thì nấu canh hoặc làm món nộm, salad. Thân chuối thái nhỏ làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Hạt chuối có thể làm một vị thuốc tốt trong Đông y. Chuối có một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Việt. Vào ngày Tết, trên mâm ngũ quả của mỗi gia đình không thể thiếu một nải chuối để cúng tổ tiên. Chuối vốn dĩ chỉ trồng để ăn quả nhưng hiện nay nó còn được dùng để trang trí trong nhà. Tàu lá rộng, xanh mướt của chuối tạo cảnh quan đẹp mắt, mang lại cảm giác tươi mới, êm đềm, tin cậy tượng trưng cho tình yêu của mẹ thiên nhiên. Những năm tháng chiến tranh đói ăn, đói mặc, chuối là nguồn thực phẩm dồi dào đã cứu sống không biết bao nhiêu mạng người. Chuối cũng khá phong phú, đa dạng về chủng loại. Một số loại chuối tiêu biểu như: chuối ta quả dài như lưỡi liềm, chuối tây quả tròn và ngắn hơn, chuối hột, chuối mật, chuối trứng cuốc. Chuối ngự quả ngắn nhưng ruột vàng và có vị rất thơm ngon. Khi xưa, chuối ngự
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 6
là món ăn hoàng gia, chỉ có vua chúa mới được thưởng thức. Chuối ngự chính là đặc sản của vùng Hòa Hậu, Lý Nhân, Hà Nam Cây chuối mọc thành từng bụi và được trồng bằng cách tách rời thân non đem trồng thành bụi mới. Ta nên trồng chuối ở nơi gần nguồn nước như ao, hồ để tiện tưới tắm. Chuối là loại cây dễ trồng và phát triển khá nhanh nên không cần tốn công chăm sóc. Nguyễn Trãi đã từng làm bốn câu thơ về cây chuối, gọi là “Ba tiêu” : “Tự bén hơi xuân, tốt lại thêmĐầy buồng lạ, màu thâu đêmTình thư một bức phong còn kín,Gió nơi đâu gượng mở xem” Trải qua bao nhiêu năm nữa, chuối vẫn sẽ có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt Nam.
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 7
Nhắc đến Việt Nam là không thể không nhắc đến nhắc đến hình ảnh cây chuối. Chuối là một loài cây rất mực thân quen và gần gũi trong đời sống con người. Từ khắp mọi nẻo đường, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh tàu lá chuối xanh tốt. Cây chuối đóng góp một vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân. Cây chuối thuộc họ Chuối, là một loại cây ăn trái vốn được thuần hóa từ lâu đời. Cây chuối có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Đến nay, người ta ước tính có khoảng ba trăm giống chuối được trồng và sử dụng trên khắp thế giới. Cây chuối ở Việt Nam có nguồn gốc từ giống chuối hoang dại. Nó được trồng nhiều ở nông thôn và rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ, ở rừng, ở những khe suối hay thung lũng. Chuối được phân thành nhiều loại. Về cơ bản có chuối ăn quả, chuối lấy lá. Ở Việt Nam có một số loại chuối phổ biến như chuối tiêu, chuối tây, chuối ngự, chuối ngự, chuối sứ, chuối bom, chuối quạ… Một số loại chuối nhập khẩu từ nước ngoài như chuối Laba (Pháp), chuối Dacca (Trung Mỹ)… Chuối là loại cây có thân ngầm. Phần thân chính nằm dưới đất gọi là củ chuối. Phía trên chỉ là một thân giả mọc thẳng đứng và tròn, được tạo thành từ nhiều lớp bẹ xếp khít vào nhau, bên trong hơi xốp, bề mặt trơn bóng và nhẵn. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Ban đầu, những chiếc nõn chuối còn xanh non, sau đó lá xòe ra có màu xanh đậm hơn. Khi già, lá ngả dần về màu vàng đất, rũ xuống để nhường chỗ cho lá tươi. Khi cây chuối trưởng thành, nó bắt đầu trổ buồng. Mỗi cây chuối đều có một buồng, mỗi buồng gồm nhiều nải mỗi nải có nhiều quả. Buồng chuối mọc từ hoa từ thân ra. Giữa tán lá xanh mát, hoa chuối như ngọn lửa hồng chiếu sáng cả vòm lá xanh. Hoa sắp thành hai hàng theo kiểu xoắn tạo thành nải chuối. Sau đó những chiếc bẹ rụng dần là lúc những nải chuối con xuất hiện. Khi chuối còn xanh thì có màu xanh đậm còn khi chín thì ngả sang màu vàng. Trong đời sống nhân dân Việt Nam, chuối là một loại cây hữu dụng từ thân, lá đến hoa, quả. Quả chuối cung cấp hàm lượng đường cần thiết cho cơ thể hoạt động. Chuối ăn dễ tiêu hóa, vừa sáng mắt lại tốt cho da, làm cho làn da luôn sáng mịn. Thân chuối có thể làm thức ăn cho trâu, bò, lợn rất tốt. Thân chuối non cùng củ chuối có thể thái ra ăn kèm với ốc, lươn để khử tanh rất tốt, lại có thể làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Lá chuối có thể dùng để gói bánh, gói xôi... khi phơi khô có thể làm chất đốt. Người ta có thể dùng hoa chuối đã nở hết buồng để làm nộm hoặc để luộc. Chuối là thức quả để thắp hương trong các ngày lễ, tết. Trong ngày rằm hoặc mùng một, người ta dùng chuối chín. Đây còn là loại quả không thể thiếu trong mâm ngũ quả ngày Tết. Chuối là loại cây khá dễ sống ưa đất phù sa, đất bãi ven sông. Quá trình sinh trưởng của một cây chuối không dài khoảng một năm. Mỗi cây chuối chỉ một lần trổ buồng, sau khi thu hoạch người ta chặt cây đào gốc lên để cho cây con phát triển. Một cây chuối mẹ có thể đẻ nhiều cây chuối con rồi đẻ nhiều cây chuối cháu, sinh trưởng rất nhanh. Vì dễ trồng lại nhanh cho quả nên chuối được
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 7
người nông dân ưa chuộng. Nếu không may chuối bị sâu có thể cắt bỏ lá sâu, bắt sâu. Nếu chuối ra buồng cần phải chống cho cây khỏi đổ. Khi thu hoạch cần phải nhẹ nhàng tránh rơi gãy. Bên cạnh những loại cây gần gũi như trầu, cau, dừa… thì chuối còn tượng trưng cho sự bình dị, thanh bình của làng quê. Cây chuối có từ ngàn đời. Nó dâng hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất của mình cho con người. Cây chuối là nét đẹp thanh bình của thiên nhiên, của đất mẹ, của nông thôn Việt Nam.
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 8
Một trong những cây trồng rất phổ biến ở các làng quê của Việt Nam là cây chuối. Đã từ lâu, cây chuối đã trở thành một loại cây có vai trò quan trọng quan trọng với cuộc sống của con người. Cây chuối thuộc họ Chuối, có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới thuộc Đông Nam Á và Úc. Loài chuối được trồng ở khoảng 107 quốc gia trên thế giới. Đa số loại cây được trồng để lấy trái, phục vụ nhu cầu ăn uống của con người. Cây chuối thường mọc thành bụi (được gọi là bụi chuối), được trồng bằng cách tách rời cây non, từ cây non sẽ mọc ra bụi cây mới. Thân chuối (hay còn gọi là thân giả) được tạo nên bởi các bẹ của tàu chuối. Các bẹ này xếp từng lớp bọc lấy nhau tạo thành thân chuối. Thân chuối trơn, bóng có màu xanh hơi vàng. Thân chuối có thể cao khoảng 2 - 8m, chiều dài của lá có thể kéo dài 3,5m. Như bất kỳ loại cây ăn quả nào, cây chuối cũng có hoa, hoa chuối thuộc loại lưỡng tính. Hoa cái ra phía trên hoa đực. Hoa cái tạo ra những quả chuối phát triển được còn hoa đực thì không sinh sản, còn được gọi là bắp chuối. Khi phần hoa cái kết thành quả và ngày càng phát triển thì sẽ tạo thành buồng chuối. Mỗi buồng chuối có khoảng từ ba đến hai mươi nải. Mỗi nải có thể có tám quả trở lên. Khi non quả có màu xanh non. Khi già, quả có màu xanh đậm và khi chín quả có màu vàng. Cuối cùng là củ chuối là phần nằm dưới đất, có rễ chùm. Củ chuối có hình nửa vòng tròn. Phía dưới tiếp giáp đất có hình nửa vòng tròn, phía trên củ chuối tiếp giáp với thân. Củ chuối có thể ăn được - là món ăn gắn với một thời gian khó của dân tộc Việt Nam. Cây chuối là loài cây ưa ẩm ướt, nên thường sống ở ven các ao, hồ. Có rất nhiều loại chuối khác nhau. Ở Việt Nam có một số loại chuối phổ biến như chuối tiêu, chuối tây, chuối ngự, chuối ngự, chuối sứ, chuối bom, chuối quạ… Một số loại chuối nhập khẩu từ nước ngoài như chuối Laba (Pháp), chuối Dacca (Trung Mỹ)… Các bộ phận của cây chuối đều có ích. Chuối là loại trái cây bổ ích cho con người. Nó đã trở thành mặt hàng xuất khẩu với giá trị kinh tế cao của nhiều nước nhiệt đới. Quả chuối xanh còn có thể dùng làm nguyên liệu nấu ăn (bánh chuối, canh chuối…). Có loại chuối còn dùng để ăn kèm với những món ăn khác như cốm tạo ra thứ hương vị rất ngon miệng. Thân chuối non cùng củ chuối có thể thái ra ăn kèm với ốc, lươn để khử tanh rất tốt, lại có thể làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Tàu lá chuối thường được phơi khô rồi dùng gói lá bánh, gói xôi… Trong đời sống tinh thần, chuối là một trong những loại quả không thể thiếu trong mâm ngũ quả của ngày tết. Cây chuối còn xuất hiện trong các bức tranh phong cảnh làng quê - trở thành một trong những biểu tượng của thôn quê Việt Nam. Chuối còn xuất hiện trong các bài hát, bài thơ quen… Như vậy, cuối có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người. Dù thời gian qua đi thì những cây chuối vẫn gắn bó với người nông dân nói riêng, con người Việt Nam nói chung.
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 9
Đi khắp các làng quê Việt Nam, không khó để bắt gặp hình ảnh những vườn, bụi chuối xanh mướt với những buồng chuối trĩu nặng. Cây chuối ưa sống ở vùng nhiệt đới, chính vì vậy cây chuối đã trở nên quá đỗi quen thuộc với người nông dân Việt Nam từ bao đời. Cây chuối thuộc họ Chuối. Là loại cây được trồng để lấy quả. Cây chuối có một thân ngầm (củ chuối) ở dưới đất.Từ thân ngầm thân giả của cây mọc lên có thể cao từ 3 đến 5 m, có dạng trụ tròn, màu xanh lá khi còn non, màu nâu hơi đỏ khi trưởng thành. Giữa thân chuối là nơi các tàu lá mọc ra. Ban đầu tàu lá cuộn tròn như một chiếc ống chồi dần lên từ giữa ngọn cây, sau đó lá chuối từ từ xòe ra và tàu chuối cũng không vươn lên bầu trời nữa mà từ từ ngả ngang xuống bởi vì lúc này tàu lá chuối đã lớn và nặng hơn. Tàu lá chuối giống như một chiếc quạt cầm tay lớn, xanh mướt không tì vết. Nhưng sau khi bị gió quật, lá chuối rách thành nhiều mảnh. Và khi già, lá chuối sẽ có màu nâu, héo rũ xuống thân cây chuối. Tàu là chuối sẽ thay phiên nhau mọc lên, cho đến khi cây trưởng thành cây chuối giống như một chiếc ô vững mình đứng trong gió. Rồi vào một buổi sáng tinh mơ nào đó, bạn sẽ bất ngờ nhìn thấy hoa chuối mọc ra từ giữa thân cây. Hoa chuối có màu đỏ đậm, cấu tạo như một búp sen hướng xuống mặt đất. Từng lá của hoa chuối sẽ nở rồi cuộn lên phía cuống chuối, làm lộ ra nải chuối với những quả chuối bé chỉ bằng ngón tay út. Trong một hoa chuối có rất nhiều nải chuối nhưng để khiến quả to, đều, đẹp người ta sẽ không để hoa chuối nở hết mà cắt hoa đi để dành chất dinh dưỡng nuôi quả lớn. Bộ phận nào của cây chuối cũng mang những lợi ích riêng. Ngày nay, không mấy ai còn biết tới củ chuối nhưng trong thời kỳ nghèo đói của cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, củ chuối đem hầm lên là một loại thức ăn chống đói quen thuộc với người nông dân. Thân cây chuối cũng được đem thái nhỏ dùng để làm thức ăn cho các loại gia súc. Lá chuối thì lại được dùng để gói bánh. Những chiếc bánh giậm, bánh giò được gói bằng lá chuối xanh mướt. Gạo nếp trắng óng lên vị xanh, dậy hương thơm của lá là một món ăn ngon được làm vào các dịp lễ hoặc để ăn lót dạ vào buổi sáng. Món nem chua Thanh Hóa cũng dùng những chiếc là chuối để gói tạo độ thơm cho nem. Lá chuối khô không chỉ dùng để gói bánh gai mà còn được dùng làm chất đốt. Ngay cả hoa chuối người ta cũng nghĩ ra món nộm giải ngán hay món gỏi ngon tuyệt. Còn quả chuối cũng được ăn với nhiều cách khác nhau. Chuối khi còn xanh được dùng để nấu với thịt hoặc xương, ta cũng có thể đem chuối xắt lát đem chiên tẩm đường hoặc sấy khô tạo thành một món ăn vặt ngòn ngọt, giòn tan. Chuối chín mang nhiều chất dinh dưỡng có thể ăn trực tiếp hoặc làm thành các loại chè, bánh. Cây chuối rất dễ sinh trưởng trong môi trường đất ẩm. Ta chỉ cần lấy củ chuối vùi vào trong đất ẩm, sau vài ngày thân chuối sẽ mọc lên. Cây chuối ưa nắng nhưng trong điều kiện ít nắng cây vẫn phát triển tuy nhiên sẽ sinh trưởng và phát triển chậm hơn. Có rất nhiều loại chuối khác nhau như: chuối tiêu, chuối hột, chuối hương, c
Thuyết minh về cây chuối - mẫu 9
huối ngự, nhưng đặc biệt nhất là loại chuối ngự. Loại chuối này dáng quả nhỏ, chỉ to bằng hai ngón tay chụm lại, khi chín chuối có màu vàng cam đẹp mắt, cuống có màu xanh tươi nên ngày xưa loại chuối này thường được dùng để tiến vua. Giống như cây lúa, cây cau, cây chuối là loài cây quen thuộc với người nông dân việt Nam từ hàng nghìn năm này, là người bạn thân thiết, là một thứ không thể thiếu trong đời sống của người Việt Nam ta. .
Bản nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình của người khác - mẫu 1
Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như "Bình Ngô đại cáo" của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ "Cảnh ngày hè" là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Mở đầu bài thơ "Cảnh ngày hè" là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè: "Rồi hóng mát thuở ngày trường Hòe lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương Lao xao chợ cá làng Ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương" Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung thoải mái nhất khi ở ẩn, lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác khướu giác và tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh "lao xao" của làng chài, "dắng dỏi" của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ "đùn đùn", "giương", "phun", "tiễn", "lao xao", "dắng dỏi". Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả - ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng thân thuộc gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Hai câu cuối của bài thơ đã được Nguyễn Trãi gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ: "Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương" Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước. Bài thơ "Cảnh ngày hè" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục: Đề - Thực - Luận - Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiết xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du: "Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông" Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể hiện được cá tính về nhiệt huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của N
Bản nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình của người khác - mẫu 1
guyễn Trãi về thơ văn. Bài thơ "Cảnh ngày hè" đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.
Bản nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình của người khác - mẫu 2
Tình mẫu tử, từ xưa đến nay vẫn luôn là điều thiêng liêng nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Bởi đó là một tình cảm nuôi lớn chúng ta từng ngày, đem đến cho chúng ta những cái ôm ấm áp mỗi đêm, những làn gió mát rượi giữa buổi trưa hè nóng nực từ cái quạt của mẹ và tiếng hát ru du dương vang lên mỗi đêm khuya tĩnh lặng. Có lẽ vì vậy mà tình mẫu tử vẫn luôn luôn là đề tài xuyên suốt trong văn học, được các nhà thơ khai thác và thể hiện rất thành công, bài thơ “Trong lời mẹ hát” của Trương Nam Hương chính là một minh chứng xuất sắc cho điều đó. Đến với bài thơ Trong lời mẹ hát, một bài thơ tuy không quá dài nhưng lại chứa rất nhiều hàm ý sâu sắc khiến mỗi bản thân chúng ta phải suy ngẫm lại bản thân mình: “Thời gian chạy qua tóc mẹ Một màu trắng đến xôn xao Lưng mẹ cứ còng dần xuống Cho con ngày một thêm cao.” Thật vậy, thời gian vô tình lắm, cứ thế trôi qua mà không bao giờ ngoái lại nhìn dù chỉ một lần. Thời gian đã làm cho những mái tóc của mẹ trở nên bạc trắng, những lo âu và vất vả khiến cho người mẹ yếu đi khiến phận làm con trông mà xót lòng. Có thể thấy rằng, mẹ vẫn yêu thương con bằng cả trái tim của mình, không quản ngại bao khó khăn, gian nan, vất vả chỉ để cho con có một cuộc sống đầy đủ nhất. Sự hi sinh cao cả đó, quả thực chúng ta không thể nói hết bằng lời. Phép nhân hóa và nghệ thuật dùng từ láy điêu luyện của tác giả đã đưa hồn vào hai câu đầu của bài thơ thật khéo léo và cẩn thận tới từng chi tiết, làm rung động trái tim bao đứa con xa mẹ mà nhớ mà thương, ... Đứa con cứ như ngọn trúc xanh của mùa xuân vụt lên phơi phới còn tấm lưng của mẹ thì ngày một không còn được thẳng nữa. Con đâu có biết là có quá nhiều khó khăn đè nặng trĩu trên tấm lưng gầy yếu ấy. Nghệ thuật đối lập trong 2 câu thơ “còng – cao” đã làm nổi bật rõ hơn về hình ảnh người mẹ “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để tương lai con có thể trưởng thành cả về mặt nhận thức lẫn đạo đức, thực sự là một người có ích cho xã hội. Nhưng dù ngoài kia có biến động như thế nào, thì tình yêu của con dành cho mẹ vẫn là bất tận, những tình yêu mẹ ấp ủ, xây dựng, bồi đắp thêm mà bao thời gian qua đã trao cho con một cách âu yếm, nhẹ nhàng mà thầm kín. Một người con chỉ biết để ý đến công việc và tìm kiếm nửa kia cho bản thân mình, mà quên đi mất ở quê hương vẫn còn một bóng dáng gầy còm ngày ngày tựa cửa trông con về thăm. Còn chi nữa, ngoài tình yêu ấy mẹ dành cho con? Còn chi nữa, ngoài đôi mắt nheo đuôi của mẹ dành cho con? Tất cả những thứ gọi là tình cảm mà ta đa đang tìm kiếm chân thật nhất chỉ có trong lòng mẹ, tình yêu luôn được cất giấu trong trái tim và lòng vị tha cao cả của mẹ. Đứa con khi đang mải mê với những nơi xa lạ, thì cũng đã chợt quên đi tình mẹ cha ấm êm ở quê nhà. Khi chợt tỉnh giấc mộng nồng say, thì đứa con đó mới chợt nhớ ra tình yêu vĩnh hằng, bất biến từ thuở còn non. Quả là một tình cảm thực sự rất thiêng liêng và cao quý. Lời thơ của tác giả như lắng xuống trong những câu thơ cuối, trong hình ảnh “Thời gian chạy qua tóc mẹ/ Một màu trắng đến nôn
Bản nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình của người khác - mẫu 2
nao/ Lưng mẹ cứ còng dần xuống/ Cho con ngày một thêm cao”. Hình ảnh mái tóc bạc trắng cùng tấm lưng ngày một còng đi đã khiến biết bao quý bạn đọc xót xa, ngậm ngùi, đánh thức tình cảm và ý thức trách nhiệm của con với đấng sinh thành: “Mẹ ơi trong lời mẹ hát Có cả cuộc đời hiện ra Lời ru chắp con đôi cánh Lớn rồi con sẽ bay xa ...” Khổ thơ cuối trên đã bộc lộ rõ tình cảm của con dành cho mẹ. Trong những lời hát ru tràn đầy yêu thương của mẹ, pha trong những giấc mơ là cả một cuộc đời trước mắt. Phép nhân hóa chính là biện pháp nghệ thuật hết sức đặc sắc khi cho rằng lời ru đã “chắp con đôi cánh”. Đó chính là đôi cánh của sự động viên, một sự khích lệ to lớn như để khích lệ tinh thần con chiến đấu với dòng đời tràn đầy những khó khăn, luôn đứng sau hỗ trợ khi con có vấp ngã trên đường đời. Nó như một câu nói nhẹ nhàng của mẹ bên con: “Đi đi con, hãy mang theo đôi cánh này cùng với những ước mơ to lớn nhất mà con từng mơ thấy những đêm say giấc, hãy sử dụng nó làm cho con trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn”. Khi có được đôi cánh ấy, con có thể bay xa tới những nơi tuyệt nhất của cuộc đời để xây nên một cơ nghiệp thật to lớn. Và hãy đừng quên, lời ru của mẹ năm xưa đã giúp cho đạt được ước mơ ấy. Thật cảm ơn biết bao những câu hát mẹ tặng cho con. Có thể khẳng định rằng, tình mẫu tử chính là thứ tình cảm thiêng liêng nhất, không một điều gì khác có thể sánh bằng mà bất cứ một con người nào cũng không thể thiếu đi được. Và bài thơ Trong lời mẹ hát của Trương Nam Hương như một dòng suối nguồn trong trẻo về tình mẫu tử thiêng liêng, và tin chắc rằng vẫn sẽ tiếp tục chảy mãi trong lòng người đọc cho đến tận mai sau. .
Ca dao có câu Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài - mẫu 1
Âm điệu ngọt ngào của ca dao đã đi vào hồn ta từ thuở nằm trên nôi. Đó là tiếng nói tâm tình rất giàu cung bậc. Ca dao không chỉ là tiếng nói trữ tình, là điệu buồn vui trong cuộc sống mà còn là những lời răn dạy êm đềm giàu tính thuyết phục: “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài, Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi” Quả là một lời vàng ngọc giàu hình ảnh, giàu ý nghĩa về việc giáo dục con người. Trước hết hình ảnh viên ngọc gợi cho ta nghic đến một món trang sức long lanh đẹp mắt rất quý giá. Câu ca dao gợi cho ta nghĩ đến cả một quá trình rèn luyện , mài giũa của người thợ từ lúc viên ngọc còn ẩn trong viên đá thô sơ, tầm thường cho đến khi hình thành viên ngọc long lanh trong sáng lấp lánh. Ở đây, vừa ca ngợi công trình mài giũa ấy, đồng thời giả định nếu không co sự mài giũa kia thì làm sao có thể hình thành được viên ngọc quý. Như vậy nếu không có sự mài giũa để thành viên ngọc ấy thì viên đá vẫn là viên đá vô dụng. Câu ca dao gợi cho ta nghĩ về con người. Từ nhỏ , nếu không qua sự giáo dục rèn luyện của gia đình và nhà trường, ta cũng như viên đá kia vô dụng mà thôi,. Nói cách khác,ta phải coi trọng công lao rèn luyện, dạy dỗ của cha mẹ và thầy cô, phải coi trọng công việc tự rèn luyện, ý thức vươn lên của bản thân. Ta phải tự nguyện mài giũa, rèn luyện để trở thành viên ngọc sáng, nghĩa là thành con người tốt đẹp về mọi mặt. tài năng của con người cũng vậy, đều phải do tập luyện. Mặc dù “thiên tài bẩm sinh” là do có sẵn nhưng nếu ta biết bồi dưỡng, rèn luyện thêm, tài năng ấy tất sẽ ngày cãng tinh vi sắc sảo, sẽ vượt bậc, đáng trân trọng. Ngược lại, có tài năng mà ỷ lại, không quan tâm rèn luyện thì một ngày kia, tài năng cũng bị lụi tàn. Tương tự như vậy, sự thông minh bẩm sinh và bản chất tốt đẹp của người học sinh quả là một viên ngọc sáng chưa được mài giũa. Nếu biết chú trọng việc rèn luyện, mài giũa, bao gồm cả việc tự rèn luyện và thái độ tích cực rèn luyện dưới sự hướng dẫn của cha mẹ và thầy cô, chắc chắn viên ngọc bẩm sinh ấy sẽ sáng lên đẹp đẽ, long lanh, được mọi người yêu quý, tôn trọng. Trái lại, dù thông minh, tốt nết nhưng không qua rèn luyện, lâu dần sẽ thoái hóa, trở thành vô dụng không còn giá trị ban đầu. Thật là uổng phí. Câu ca dao là một bài học, khuyên chúng ta không nên chủ quan hoặc lười biếng mà sao nhãng việc rèn luyện bản thân. Ta phải biết phát huy những cái hay, cái đẹp vốn có để đẹp hơn, tốt hơn nữa. cho đến ngày nay, lời dạy vẫn vô cùng quý báu nhằm nhắc nhở ta có ý thức trong việc rèn luyện học tập, tu dưỡng trong đạo đức, nhân cách đặc biệt là phát huy tài năng sẵn có để góp phần hữu hiệu xây dựng đất nước tươi đẹp hơn.
Ca dao có câu Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài - mẫu 2
Từ viên ngọc ta nghĩ đến con người cũng vậy. Ngay từ nhỏ nếu ta được sự giáo dục của cha mẹ, của nhà trường… thì ta đã tiếp thu những đức tính tốt để sau này ra đời ta sẽ là người tốt. Là con người ai cũng có thể là người tốt, “nhân chi sơ tính bổn thiện”, nếu ta biết phát huy những cái thiện, khắc phục những cái xấu thì chắc chắn ta sẽ là người có phẩm chất cao đẹp. Phẩm chất, nhân cách này ta phải tự rèn, sửa chữa một cách thường xuyên, chi cần chúng ta dừng lại một thời gian thì nó sẽ bị thói hư tật xấu che lấp đi, lúc đó liệu ta còn giữ được cái tốt đẹp trước nữa không? Tài năng của con người cũng vậy, đều phải do ta tập luyện. Mặc dù “thiên tài bẩm sinh” là do con người tự sẵn có, nhưng nếu ta biết bồi dưỡng, rèn luyện thêm cho tài năng ấy ngày càng tinh vi sắc sảo hơn thì tài năng kia sẽ vượt bậc, đáng trân trọng. Ngược lại, có được tài năng mà ỷ lại, coi thường không quan tâm chăm sóc rèn luyện thì một ngày nào đó tài năng kia cũng bị lụi tàn không ai sử dụng nữa. Người học sinh được trời phú cho tính thông minh, nếu biết phát huy tính thông minh ấy bằng cách chịu khó, siêng năng, học hỏi, nghiên cứu thêm sách vở, bạn bè… thì chắc rằng sẽ vươn cao hơn, như viên ngọc được mài giũa lấp lánh và sẽ được mọi người yêu thích. Trái lại, nếu người học sinh thông minh kia lười biếng, coi thường, không chịu khó học tập thì tính thông minh ấy sẽ lu mờ dần, thoái hóa, đôi khi còn trở nên ngu ngốc thua kém bạn bè, chẳng khác nào như viên ngọc không được mài giũa. Lời ca dao trên là một bài học sâu sắc nhắc nhở chúng ta cần phải biết phát huy những cái hay, cái tốt đẹp vốn sẵn có để nó được đẹp hơn, tốt hơn nữa. Đối với học sinh ngày nay lời dạy này vô cùng quý báu nhằm giúp cho các em có ý thức trong việc rèn luyện để ngày càng tiến bộ trong học tập cũng như trong đạo đức, nhân cách, nhất là biết cách phát huy tài năng sẵn có của mình để tu dưỡng góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng đất nước. Sống ở trên đời không ai tự nhiên mà có được tài năng, tự nhiên trở thành con người hữu dụng cho xã hội được. Muốn đạt được thành công đó, ta phải có một thời gian rèn luyện, phấn đấu tu dưỡng bản thân. Nhằm khuyên răn nhắc nhở con cháu phải biết tu dưỡng tính tình, biết khắc phục những thiếu sót để phát huy cái hay cái đẹp sẵn có ngày càng trở nên hoàn thiện, toàn mĩ hơn, ca dao ta có câu: “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi”. Ta hiểu lời trên như thế nào cho chính xác? Lời ca dao đưa ra hình ảnh viên ngọc. Nói đến viên ngọc ta phải hiểu đây là đồ vật trang sức rất quý, có giá trị, đẹp lóng lánh. Nhìn vào ai cũng phải trầm trồ, ước muốn. Nhưng có ai biết đâu rằng trước kia nó chỉ là một viên đá thô sơ, tầm thường được người thợ mang về đục đẽo, mài gọt, giũa từng li từng tí mới được như vậy. Nếu như không có sự mài giũa công phu, không phải do bàn tay khéo léo của người thợ thì liệu viên ngọc đó có sáng chói, rực rỡ và có giá trị như thế không? Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi
Ca dao có câu Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài - mẫu 4
Sau lũy tre xanh, trên những cánh đồng lúa chín, nhân dân lao động Việt Nam âm thầm sáng tác nên kho tàng ca dao tục ngữ đặc sắc. Âm điệu mượt mà của ca dao đã đi vào hồn ta từ thuở nằm trong nôi. Đó là tiếng nói tâm tình rất giàu cung bậc. Ca dao không chỉ là tiếng nói trữ tình, là điệu buồn vui trongcuộc sống mà còn là những Lời răn dạy êm đềm giàu sức thuyết phục: Quả là một lời vàng ngọc giàu hình ảnh, giàu ý nghĩa về việc giáo dục con người. Chúng ta hãy thử đi vào tìm hiểu ý nghĩa câu ca dao này. Trước hết, hình ảnh viên "ngọc" gợi cho nghĩ đén một món trang sức rất quý giá, long lanh đẹp mắt. Câu ca dao như gợi ta nghĩ đến một quá trình rèn luyện, mài giũa của người thợ từ lúc viên ngọc còn ẩn trong viên đá thô sơ, tầm thường cho đến khi hình thành được viên ngọc long lanh. Câu ca dao vừa ca ngợi công trình mài giũa ấy, đồng thời giả định nếu không có sự giũa kia thì làm gì hình thành được viên ngọc quý. Như vậy là không có viên ngọc sáng đẹp ẩy, viên đá vẫn là viên đá vô dụng. Câu ca dao ấy gợi cho ta nghĩ về con người. Từ nhỏ, nếu khống qua sự giáo dục rèn luyện của gia đình và nhà trường, ta cũng như viên đá kia. vô dụng mà thôi. Nói cách khác, ta phải coi trọng công lao rèn luyện dạy dỗ của cha mẹ và thầy cô, phải coi trọng công việc tự rèn luyện, ý thức vươn lên của bản thân. Ta phải tự nguyện mài giũa, rèn luyện mình để trở thành viên ngọc sáng, nghĩa là thành con người tốt đẹp về mọi mặt. Tài năng cùa con người cũng vậy, đều phải do tập luyện. Mặc dù "thiên tài bẩm sinh" là do có sẵn, nhưng nếu ta bồi dưỡng, rèn luyện thêm, tài năng ấy tất sẽ ngày càng tinh vi sắc sảo, sẽ vượt bậc, đáng trân trọng. Ngược lại, có được tài năng mà ỷ lại, không quan tâm rèn luyện thi một ngày kia, tài năng cũng bị lụi tàn. Tương tự như vậy, sự thông minh bẩm sinh và bản chất tốt đẹp của người học sinh quả là viên ngọc sáng chưa được mài giũa. Nếu biết chú trọng việc rèn luyện, mài giũa, bao gồm cả việc tự rèn luyện và thái độ tích cực rèn luyện dưới sự hướng dẫn của cha mẹ và thầy cô, chắc chắn viên ngọc bẩm sinh ấy sẽ sáng lên đẹp đẽ, long lanh, được mọi người yêu quý, tôn trọng. Trái lại, dù thông minh, tôt nết nhưng không qua rèn luyện, lâu dần sẽ thoái hóa, trở thành vô dụng - không còn giá trị ban đầu. Thật là uổng phí! Câu ca dao trên vừa là một câu lục bát hay, vừa là một bài học sâu sắc khuyên chúng ta không nên chủ quan hoặc lười biếng mà sao nhãng việc rèn luyện bản thân. Ta phải biết phát huy những cái hay, cái đẹp vốn có để đẹp hơn, tốt hơn nữa. Cho đến nay, lời dạy này vẫn vô cùng quý báu nhằm nhắc nhờ ta có ý thức trong việc rèn luyện học tập, tu dưỡng trong đạo đức, nhân cách, đặc biệt là phát huy tài năng sẵn có để góp phần hữu hiệu xây dựng đất nước đàng hoàng to đẹp hơn. .
Viết đoạn văn làm rõ chất trào phúng nhẹ nhàng mà sâu cay của bài thơ Lai Tân - mẫu 1
Câu thơ cuối cùng của bài thơ Lai Tân đã thể hiện chất trào phúng nhẹ nhàng mà sâu cay: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Thối nát như vậy thì “thái bình” sao nổi, đang loạn đấy chứ. “Y cựu” đối với “Lai Tân”. Lai Tân mà văn như xưa. Nghĩa là cái thối nát thành nề nên không đổi. Tiếng cười mỉa mai chua chát toát ra tư cách nói ngược và nghệ thuật chơi chữ ấy. Tiêu cực thi có nhưng cuộc sống vẫn yên ổn, đất nước thì “vẫn thái bình, thịnh trị”. Lời ngụy biện mị dân ấy thật là tội lỗi quá lớn. Cái vỏ bề ngoài bình yên nhưng bên trong rường cột bị đục khoét rỗng cả rồi. Cái trời đất Lai Tân này sắp sụp đổ. .
Dàn ý Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc
1. Mở bài +Giới thiệu nhạc cụ. 2. Thân bài +Nguồn gốc, lịch sử: +Đã xuất hiện trong lịch sử dân tộc từ hàng ngàn năm trước. +Cấu tạo của nhạc cụ. +Đặc điểm âm thanh. +Vai trò của nhạc cụ trong văn hóa, nghệ thuật. 3. Kết bài +Nêu cảm nhận của em.
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - đàn đá
Việt Nam là một đất nước được biết đến với nhiều truyền thống văn hóa và phong tục độc đáo. Điều này xuất phát bởi đất nước ta là một quốc gia có nhiều dân tộc anh em. Trong số các dân tộc Việt, có lẽ các dân tộc ở Tây Nguyên được biết đến với nhiều nhạc cụ và các làn điệu độc đáo nhất. Một trong số nhạc cụ tiêu biểu của các dân tộc khu vực này đó chính là chiếc đàn đá. Nhạc cụ này cùng những điệu ca được tạo ra từ nó đã trở thành làn điệu chính trong các lễ hội ở Tây Nguyên. Đàn đá ở Việt Nam có tên gọi khác là goong lu, được biết đến là một loại nhạc cụ cổ xưa nhất của nước ta và cũng là nhạc cụ sơ khai nhất của loài người. Đàn đá được phát hiện năm 1949 tại Tây Nguyên và nhạc cụ này sau đó đã được xác nhận có từ thời đồ đá cách đây khoảng 3000 năm. Đàn có cấu tạo vô cùng đơn giản, đó là được làm từ các thanh đá với kích thước khác nhau. Các loại đá được sử dụng để tạo ra loại đàn này thường sẽ lấy từ vùng núi Nam Trung hay đông nam bộ và thường là đá nham, đá sừng,…. Trải qua quá trình đẽo gọt tỉ mỉ, với sự thẩm âm chính xác, con người đã tạo thành những chiếc đàn đá hoàn chỉnh. Đàn có nhiều âm vực khác nhau tùy theo kích thước, độ mỏng hay dày của đá. Những âm trầm của đàn được tạo ra bởi những thanh đá to và dài, ngược lại những âm cao của đàn thường sẽ tạo ra bởi những thanh đá mỏng nhỏ và ngắn. Mỗi bộ đàn đá có thể có số lượng thanh khác nhau thường dao động từ khoảng 8 cho tới 15-20 thanh. Tuy nhiên, bộ đàn đá lớn nhất của Việt Nam là bộ đàn đá có số lượng thanh lên tới 100. Đàn có âm sắc đặc trưng như tiếng và chạm của đá trong thiên nhiên. Đàn đá đá cũng là một nhà cụ được biết đến như một cầu nối giữa cõi âm và cõi dương của con người. Khi đánh đàn mỗi, người nghệ nhân sẽ sử dụng búa nhỏ để gõ vào mỗi thanh đá nhằm tạo ra những âm sắc và phải thật nhanh tay để các âm này được nối với nhau tạo sự liền mạch cho một làn điệu. Đàn đá ngày nay vẫn được sử dụng trong các hoạt động nghi lễ, hội hè của đồng bào. Tiếng đàn đá tạo cho các nghi thức tế lễ thêm linh thiêng. Tiếng đàn phối tấu cùng các nhạc cụ khác tạo nên những tiết tấu sôi động cho các động tác nhảy múa trong các lễ hội. Trong âm thanh rộn ràng vang vọng của đàn đá, cả buôn làng cùng hòa mình vào những điệu múa tập thể trong các lễ hội lớn như Lễ hội mừng lúa mới, uống rượu cần….. Giai điệu từ đàn được coi là những giai điệu linh thiên. Những giai điệu dân tộc từ đàn đá sẽ được thể hiện hay, nhất độc đáo nhất khi đó là những giai điệu gắn liền với âm hưởng Tây Nguyên, biểu thị tâm tư tình cảm của con người, đặc biệt gợi lên chút hoang dã và sức sống của người dân Tây Nguyên. Âm thanh của đàn đá khi vang lên vô cùng giản dị thanh thoát, khi ào ào như thác đổ, đôi khi lại trong vắt như tiếng suối chảy, có lúc lại như tiếng gió của đại ngàn khiến con người cảm thấy hòa hợp với thiên nhiên hơn. Đàn đá cùng những giai điệu mang đậm nét văn hóa dân tộc đã được UNESCO công nhận là các nhạc cụ trong không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, trở thành một biểu trưng cho đời sống tinh thầ
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - đàn đá
n và cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên của người dân Tây Nguyên. Đàn đá không phải chỉ là một nhạc cụ đem lại âm thanh đặc trưng của Tây Nguyên mà còn ẩn chứa trong đó cả giá trị lịch sử văn hóa lâu đời của mảnh đất này. Chính bởi vậy, đàn đá cùng với giá trị của nó cần được bảo tồn gìn giữ và phát huy.
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - khèn
Giống như quan họ bắc Ninh thì khèn không biết từ bao giờ đã trở thành những quan niệm sống những nền văn hóa và nét tinh thần không thể thiếu được trong cuộc sống của người Hơ Mông. Chiếc khèn đã trở đi trở lại trên những tác phẩm truyện và thơ như Tây Tiến của Quang Dũng và Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài. Vậy không biết rằng khèn có những đặc điểm vai trò gì đối với đời sống tâm hồn nơi đây. Khèn có cả truyền thuyết về nó, điều đó chứng tỏ khèn có rất từ lâu đời rồi. truyền thuyết kể lại rằng ngày xưa, một gia đình nọ có sáu anh em, ai cũng hát hay, sáo giỏi. Lúc chưa lập gia đình, tiếng sáo của họ khi thổi cùng nhau lúc vi vút, xào xạc như cây rừng gặp gió, lúc véo von tựa chim trên đỉnh núi cao, lúc lại ào ào như thác đổ. Những dịp hội hè, họ đều đến thổi sáo giúp vui. Sau này, khi họ đều có gia đình, những lúc không hợp đủ cả sáu người, tiếng sáo trở nên lạc điệu. Họ bèn bàn nhau chế tác ra thứ nhạc cụ hợp nhất nhiều thứ. Người anh cả nghĩ ra cái bầu, anh thứ hai nghĩ ra ống thổi dài, bốn người còn lại nghĩ ra những ống thổi tiếp theo. Tất cả sáu ống, thay cho sáu anh em. Lạ thay, thứ nhạc cụ lạ lùng ấy khi hoàn thiện, thổi lên tạo ra nhiều tầng âm thanh có sức quyến rũ kỳ lạ… Đó là chiếc khèn H’Mông ngày nay. Khèn ngoài người Hơ Mông ra thì còn có khèn của người Thái, người Lào, người mường…và những loại khèn ứng với những dân tộc ấy mang tên dân tộc ấy. Khèn là loại nhạc cụ thuộc bộ hơi và rất phức tạp, gồm nhiều ống trúc xếp cạnh nhau một đầu cắm xuyên qua bầu gỗ hình bắp chuối làm bầu cộng hưởng. Khèn Hơ Mông có 6 ống, khèn Thái có 12 ống, có khi có đến 14 ống, bó thành hàng…Khèn có thể thổi thành bè, có bè giai điệu và có bè trầm. Thông thường có âm kéo dài và lặp đi lặp lại. Những chiếc khèn ấy có tác dụng rất lớn trong đời sống tình cảm của người Hơ Mông vì thứ nhất nó chính là những dụng cụ để cho chàng trai Hơ Mông tỏ tình với người con gái Mông. Tiếng khèn không thể thiếu trong những đêm tình mùa xuân, những ngày hội ném pao, ném quay của họ được tổ chức bên cạnh tiếng khèn của họ. Như vậy qua đây ta thấy được những đặc điểm và nguồn gốc của khèn. Khèn trở thành những âm thanh không thể thiếu trong âm nhạc để làm nền cho những lời tán tỉnh của trai gái yêu nhau. Yêu làm sao khi thấy được những âm thanh ấy.
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - sáo trúc
Việt Nam là một đất nước có âm nhạc dân tộc đa dạng với rất nhiều nhạc cụ dân tộc và điệu ca đặc sắc. Một trong số những nhạc cụ truyền thống gắn liền với các lễ hội, phong tục dân gian chính là sáo trúc. Sáo trúc không chỉ là một loại nhạc cụ độc đáo mà còn được coi là quốc hồn của nền âm nhạc dân tộc. Sáo trúc là một loại nhạc cụ có từ rất lâu đời. Cây sáo nói chung được người ta biết như một loại nhạc cụ có từ thời cổ đại, được bắt nguồn từ những tiếng kêu của những cây lau, sậy khi gió thổi qua. Chính từ cảm hứng này mà một nhạc cụ âm nhạc diễn tấu được những âm thanh trên của thiên nhiên đã được ra đời. Rất nhiều nước trên thế giới có sử dụng sáo với hình dáng và cấu tạo khác nhau. Thông thường, sáo được làm bằng ống trúc, tuy nhiên thỉnh thoảng người ta cũng làm sao nhanh bằng kim loại hoặc bằng gỗ, tất cả đều có thể sử dụng được. Trên sáo, người ta đục các lỗ tương ứng với các âm cơ bản và lỗ để người sử dụng thổi tạo âm thanh, ngoài ra, cũng có thể đục thêm lỗ để buộc dây treo hay là đồ trang trí ở phần đầu. Khi biểu diễn, các nghệ sĩ thường sử dụng kĩ thuật đánh lưỡi, nhấn hơi, luyến hơi… để tạo nên những bản nhạc hấp dẫn, lạ tai, độc đáo. Mỗi quốc gia khác nhau lại có những loại sáo khác nhau làm bằng các chất liệu khác nhau. Dựa theo cách thổi, sáo có thể được phân chia ra làm hai loại chính, đó là sáo ngang hoặc dọc. Các loại sáo ngang và dọc đều rất phong phú về thể loại và cấu tạo. Nhưng nếu xét về độ phổ biến, sáo ngang sẽ phổ biến hơn sáo dọc. Các loại sáo dọc thường dễ sử dụng vì vị trí dùng để thổi ở phần đầu được thiết kế vát hơn so với thân sáo, người thổi dễ điều khiển hơi hơn, tuy nhiên, loại sáo này thường dễ bị nhầm với tiêu vì cũng cùng cách thức sử dụng. Sáo thường được làm từ rất nhiều các loại nguyên liệu khác nhau như trúc nứa gỗ, ngoài ra còn có thể làm từ nhựa, kim loại hoặc là xương. Mỗi loại vật liệu sẽ mang đến cho sáo một âm sắc khác nhau. Riêng đối với sáo trúc thì vật liệu dùng để làm sáo sẽ là các loại cây trúc đã già, nhiều năm tuổi, như vậy sẽ giúp cho âm của sáo khi thổi lên sẽ được chắc và làm tăng độ bền cho sáo, tránh mối mọt. Hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, giới trẻ càng làm quen hơn với những thiết bị điện tử thì sáo trúc - một loại sáo mang âm hưởng dân gian Việt Nam vẫn không mất đi vị thế. Âm thanh vang lên từ sáo trúc trở thành một điệu ca dân gian của dân tộc, khiến chúng ta trở về với những âm thanh nhẹ nhàng dân dã của đồng quê. Không chỉ vậy, một nét độc đáo trong ứng dụng chính là sáo trúc còn được sử dụng để kết hợp âm thanh với những nhạc cụ hiện đại khác để tạo ra những bản nhạc vừa truyền thống lại vừa mang hơi hướng hiện đại phù hợp với thị hiếu của mình nghe. Cây sáo trúc tượng trưng cho vẻ đẹp của của quê hương. Trong mỗi khúc nhạc diễn tấu trong lễ hội của dân tộc, không thể thiếu ở hình ảnh những cây sáo trúc. Từ những cây sáo này, những làn điệu dân ca đã được chắp cánh trở nên bay bổng hơn, du dương hơn từ sáo, những chiếc diều cũng trở nên có tâm hồn. Tuy không phải là
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - sáo trúc
một loại nhạc cụ chỉ có duy nhất ở Việt Nam, nhưng chính người sử dụng sáo trúc đã tạo thành những điệu ca mang dấu ấn của nền âm nhạc Việt Nam so với thế giới. Tôi chắc chắn rằng, tương lai có thể có nhiều biến đổi nhưng sáo trúc cùng với những những điệu nhạc được tạo ra từ nó mãi mãi trở thành một nét đẹp văn hóa, nét đẹp trong âm nhạc dân gian của dân tộc.
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - đàn bầu
Ca dao ta có câu: “Đàn bầu ai gảy nấy nghe Làm thân con gái chớ nghe đàn” Câu ca dao ấy đã phần nào nói lên được những sự quan trọng của đàn bầu. Loại âm nhạc ấy có thể nói là truyền tải được những câu ca dao à ơi. Hay nhà thơ Văn Tiến Lê từng viết: “Một dây nũng nịu đủ lời Nửa bầu chứa cả đất trời âm thanh” Vậy đặc điểm của đàn bầu là gì?, âm thanh của nó như thế nào? Gắn liền với dòng chảy lịch sử nước Việt, có một dụng cụ âm nhạc đã góp phần làm nên ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa quốc tộc của người Việt, đó chính là Đàn Bầu, một tên gọi rất thuần Việt. Theo địa lý tự nhiên, nước Việt Nam mang dáng hình chữ S mềm mại. Còn theo ngôn ngữ thi thơ nước Việt có hình dáng thon thả như “giọt Đàn Bầu”, một cách ví von hoán dụ trong bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Phạm Minh Tuấn: “Đất nước tôi thon thả giọt Đàn Bầu” Đàn bầu, tên chữ là độc huyền cầm là loại đàn một dây của người Việt, thanh âm phát ra nhờ sử dụng que hay miếng gảy vào dây. Dựa theo cấu tạo của hộp cộng hưởng, đàn bầu chia hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ. Về cấu tạo thì Đàn bầu thường có hình dạng một ống tròn (bằng tre, bương, luồng) hoặc hình hộp chữ nhật (bằng gỗ); một đầu to, một đầu vuốt nhỏ hơn một chút; thường có chiều dài khoảng 110cm, đường kính hoặc bề ngang ở đầu to khoảng 12,5cm, đầu nhỏ khoảng 9,5cm; cao khoảng 10,5cm. Ở loại đàn gỗ Mặt đàn và đáy đàn bằng gỗ ngô đồng, hoặc gỗ thông hay gỗ tung. Mặt đàn hơi cong lên một chút, đáy đàn phẳng có một lỗ nhỏ để treo đàn, một hình chữ nhật ở giữa để thoát âm đồng thời cầm đàn khi di chuyển và một khoảng trống để cột dây đàn. Thành đàn bằng gỗ cứng như cẩm lai hoặc mun để cho chắc chắn và có thể bắt vít cho khóa dây đàn. Trên mặt đầu to có một miếng xương hoặc kim loại nhỏ gọi là ngựa đàn. Qua ngựa đàn, dây đàn được luồn xuống và cột vào trục lên dây đàn xuyên qua thành đàn, trục này được làm đẹp và nó được giấu phía sau thành đàn. Ngày nay người ta dùng khóa dây đàn bằng kim loại cho chắc để chống tuột dây đàn. Trên mặt đầu nhỏ của đàn có một cần dây làm bằng gỗ hoặc sừng, được gọi là cần đàn hoặc vòi đàn. Cần đàn xuyên qua nửa đầu trái bầu khô hoặc tiện bằng gỗ theo hình dạng tương tự và cắm vào một lỗ trên mặt đầu nhỏ của vỏ đàn. Một đầu dây đàn buộc cố định vào cần đàn khoảng giữa bầu đàn. Khi công nghệ điện tử ra đời, để tăng âm lượng tiếng đàn, người ta lắp một cuộn cảm ứng điện từ có lõi sắt non vào dưới mặt đàn giáp với dây ở phía đầu to để cảm ứng âm thanh truyền qua bộ dây đồng trục, đưa tín hiệu đến khuếch đại âm thanh qua máy tăng âm. Loại đàn này chỉ có thể dùng dây thép và có nhược điểm là độ méo âm thanh khá lớn so với âm thanh của loại đàn không dùng bộ khuếch đại điện tử (đàn mộc). Que gảy đàn: thường được vót bằng tre, giang, thân dừa, gỗ mềm… Người ta hay làm bông hoặc tựa đầu nhọn một chút để làm mềm âm thanh khi gảy. Ngày xưa hay dùng que dài khoảng 10 cm, ngày nay với nhiều kỹ thuật diễn tấu nhanh nên người ta hay dùng que ngắn chừng 4-4,5 cm. Âm thanh đàn bầu nền nã dịu dàng, nó như gợi lên cái tâm hồn xa xưa
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - đàn bầu
của người Việt ta. Âm thanh nó còn rất mềm mại, uyển chuyển nhẹ nhàng. Chính vì thế mà đàn bầu khi được cất lên thường đi liền với những bài ca dao cổ hay chính là những lời mẹ ra. Qua đây ta thấy được những đặc điểm và âm thanh của đàn bầu. Nó gợi lên những gì xa xưa vô cùng thuần túy nền nã, dịu dàng. Nó độc đáo ở chỗ nó thổi cái hồn của những gì gọi là ngày xưa, những gì là mộc mạc thân thương nhất.
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - đàn nhị
Âm nhạc Việt Nam mang tính bản sắc độc đáo không chỉ bởi sự nổi tiếng của những bài ca dao, những điệu “Nam ai Nam bình”, những điệu hát xoan, hát quan họ mà cái độc đáo ấy còn được tạo nên bởi những nhạc cụ mang tính dân tộc. Một trong những nhạc cụ tiêu biểu cho hệ thống nhạc cụ dân tộc Việt Nam phải kể đến đàn nhị. Đàn nhị là một loại đàn mang tính dân tộc cao, đàn nhị có có từ rất sớm (khoảng từ thế kỉ thứ mười) tồn tại và phát triển đến tận ngày nay. Đàn nhị là loại nhạc cụ thuộc bộ dây có cung vĩ. Khác với các loại đàn khác như: đàn nguyệt, đàn tranh … có rất nhiều dây thì đàn nhị chỉ có hai dây duy nhất. Cũng có lẽ vì đặc điểm của dây đàn khá đặc biệt mà người ta gọi nó với cái tên là đàn Nhị. Hình dáng của đàn nhị cũng khá đặc biệt, nó nhỏ và gọn hơn rất nhiều so với các nhạc cụ dân tộc khác. Đàn có hai dây,và khi chơi nhạc thì người ta sẽ dùng một thanh kéo, vừa ma sát với dây đàn, vừa ma sát với nhựa thông được đính ở thân đàn để tạo ra những âm thanh độc đáo. Đàn thường được những người nghệ sĩ để trên chính đôi chân của mình khi tấu nhạc.Vì vậy khi chơi nhạc thì người nghệ sĩ thường ngồi, có thể là trên một mảnh chiếu, cũng có thể là ngồi trên ghế. Dây kéo của đàn nhị cũng khá đặc biệt, nó được cấu tạo bởi những sợi tơ rất mảnh và mềm mại, sau đó được kết nối với thanh tre mỏng, uốn thành một hình cung mềm mại. Khi dây kéo của đàn nhị được cọ sát với dây đàn để phát ra âm thanh trong tương đối giống thanh kéo của đàn vĩ cầm. Cách sử dụng đàn nhị cũng khá đơn giản, tuy nhiên đó là đối với những người nghệ sĩ thực thụ, còn đối với những người mới học thì cần phải luyện tập siêng năng thì mới có thể sử dụng được thành thục loại đàn này. Khi chơi đàn, ta sẽ dùng tay trái giữ dọc nhị và bấm dây đàn bằng lòng ngón tay hoặc đầu ngón tay để tạo ra tiết tấu, nhạc điệu. Tay phải sẽ cầm cung vĩ hay còn gọi là dây kéo đẩy qua lại mới tạo ra âm thanh. Về tên gọi của đàn nhị cũng khá đa dạng. Ở những nơi,những vùng miền khác nhau thường có tên gọi khác nhau. Chẳng hạn, người Kinh gọi là “líu” (hay nhị líu để phân biệt với nhị chính), dân tộc Mường thì gọi đàn Nhị là “ cò ke’’, hay như người dân Miền Nam thì lại gọi nó với cái tên “ Đờn cò”. Tuy nhiên, cái tên được dùng phổ biến nhất, được nhiều người quen gọi nhất thì vẫn là đàn nhị. Kích cỡ và hình dáng của đàn nhị cũng có sự khác nhau, tùy thuộc vào sở thích, nhu cầu cá nhân của người sử dụng đàn. Đàn nhị thường được cấu tạo bởi những bộ phận như sau: Bát nhị (hay còn gọi là ống nhị); dọc nhị (hay còn gọi là cần nhị, cán nhị); trục dây, dây nhị, cử nhị (hay khuyết nhị) ,và cuối cùng là cung vĩ. Đàn nhị xưa kia được sử dụng phổ biến trong các loại hình âm nhạc dân tộc như: hát Xẩm ( đàn nhị thường giữ vai trò chủ đạo trong việc tạo ra tiết tấu cho những người hát Xẩm), là một trong những nhạc cụ trong nhạc phường bát âm, dàn nhã nhạc hay trong ban nhạc hát chầu văn, tài tử và dàn nhạc tổng hợp. Ngày nay, trong sự phát triển đa dạng của các thể loại nhạc hiện đại, đàn nhị còn được dùng phối kết hợp
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - đàn nhị
với các thể loại như: nhạc pop, nhạc rock… tạo ra những nét độc đáo, cá tính trong âm nhạc. Đàn bầu là một nhạc cụ phổ biến của dân tộc Việt Nam đặc biệt đối với dân tộc của các cùng núi phía bắc, nó đã trở thành một thể loại âm nhạc phổ biến và trở thành giá trị truyền thống phổ biến của mỗi con người, mỗi chúng ta đều thấy hình ảnh của cây đàn bầu xuất hiện nhiều trong cuộc sống của những người dân vừng đồng bào dân tộc. Đây là một nhạc cụ được dùng để giải trí và nó đã trở thành một biểu tượng văn hóa truyền thống đẹp của con người Việt Nam. Giá trị của nó để lại cho dân tộc rất nhiều ý nghĩa văn hóa truyền thống tốt đẹp và có giá trị ý nghĩa mạnh mẽ nhất đối với mỗi người. Trong sự bùng nổ các thể loại, các dụng cụ nhạc hiện đại như ngày nay, đàn nhị không còn được sử dụng rộng rãi như trước nữa, thị hiếu người nghe có phần giảm so với trước đây. Tuy nhiên, dù âm nhạc có phát triển đến đâu, đến mức độ như thế nào thì đàn nhị mãi là một loại nhạc cụ dân tộc mang đầy giá trị, không chỉ trong âm nhạc, mà nó còn là văn hóa, là bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - cồng chiêng Tây Nguyên
Nói về Tây Nguyên, chúng ta chợt nghĩ đến một vùng đất đỏ ba-dan rực lên màu lửa với những vườn cà phê trĩu quả, những cánh rừng bạt ngàn màu xanh, là quê hương của nhà rông hùng vĩ, là mảnh đất của những ché rượu cần với những lễ hội mang màu sắc Tây nguyên hoang dã nhưng cũng rất đỗi thanh bình hay đó là những thiên sử thi hùng tráng. Thế nhưng trong chiều sâu văn hóa, chúng ta như lắng nghe được tiếng trầm bổng hào hùng từ ngàn xưa vọng lại của những chiếc cồng chiếc chiêng, mà ta gọi đó là Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên: Bana, Xê-đăng, Hmông, Cơ-ho, Rơ-măm, Ê-đê... Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ. Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường kính từ 20cm đến 60cm, loại cực đại từ 90cm đến 120cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi từ 18 đến 20 chiếc. Cồng chiêng Tây Nguyên là loại nhạc cụ độc đáo, đặc sắc và đa dạng.Các dàn cồng chiêng Tây Nguyên lấy thang bồi âm tự nhiên làm cơ sở để thiết lập thanh âm của riêng mình.Trong đó, mỗi biên chế của từng tộc người đều cấu tạo bởi thang 3 âm, 5 âm hay 6 âm cơ bản. Song, cồng chiêng vốn là nhạc cụ đa âm, bên cạnh âm cơ bản bao giờ cũng vang kèm một vài âm phụ khác. Thành thử trên thực tế, một dàn 6 chiêng sẽ cho ta tối thiểu 12 âm hay nhiều hơn nữa. Điều đó lý giải tại sao âm sắc cồng chiêng nghe thật đầy đặn và có chiều sâu. Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử rất lâu đời.Về cội nguồn, có nhà nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng là phiên bản sau của đàn đá.trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá, chiêng đá... tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng... Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên... âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng người, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên. Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu hay trong một buổi nghe khan... đều phải có tiếng cồng. Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng chiêng nối liền, kết dính những thế hệ. Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một vị thần.Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao.Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Đã có thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai c
Thuyết minh một nhạc cụ dân tộc hoặc điệu ca dân tộc - cồng chiêng Tây Nguyên
on voi hoặc 20 con trâu. Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng. Cồng chiêng đã đi vào sử thi Tây Nguyên như để khẳng định tính trường tồn của loại nhạc cụ này: “Hãy đánh những chiêng âm thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất.Đánh cho tiếng chiêng vang xa khắp xứ. Đánh cho tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiêng vượt qua nhà vọng lên trời.Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào cành đến phải ngã xuống đất. Đánh cho ma quỷ mê mải nghe đến quên làm hại con người. Đánh cho chuột sóc quên đào hang, cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phải giật mình, cho hươu nai đứng nghe quên ăn cỏ, cho tất cả chỉ còn lắng nghe tiếng chiêng của Đam San...”. Trên cơ sở đó, cồng chiêng Tây Nguyên ẩn chứa nhiều giá trị sâu sắc, có thể coi là hình ảnh đại diện cho một vùng đất anh hùng, là biểu trưng cho cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên và là một màu sắc độc đáo trong bức tranh văn hóa Việt Nam đa đang, đậm đà bản sắc. Giá trị của Cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện qua bản chất nghệ thuật mà nó mang lại. Cồng chiêng không do cư dân Tây Nguyên tự đúc ra mà xuất phát từ một sản phẩm hàng hoá (mua từ các nơi khác về) được nghệ nhân chỉnh sửa thành một nhạc cụ. Phương pháp chỉnh sửa chiêng cộng với tai âm nhạc nhạy cảm của nghệ nhân sửa chiêng đã thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế và hiểu biết cặn kẽ về chế độ rung và lan truyền âm thanh trên mặt chiêng và trong không gian. Có hai phương pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên sử dụng: Gõ, gò theo hình vảy tê tê và theo hình lượn sóng. Do vậy, kỹ thuật gõ, gò theo đường tròn trên những điểm khác nhau quan tâm điểm của từng chiếc chiêng là một phát hiện vật lý đúng đắn, khoa học (mặc dù trình độ phát triển xã hội của người Tây Nguyên thuở xưa chưa biết đến vật lý học). Đây là sáng tạo lớn của cư dân các dân tộc ít người Tây Nguyên. Để đáp ứng các yêu cầu thể hiện bằng âm nhạc khác nhau, các tộc người Tây Nguyên đã lựa chọn nhiều biên chế dàn cồng chiêng khác nhau .
Dàn ý Thuyết minh về cây dừa
I. Mở bài “Kìa vườn dừa cây cao cây thấp.Gió quặt quà cành lá xác xơ.Thương anh em vẫn đợi chờ” - Không biết từ bao giờ mà cây dừa đã đi vào thơ ca rất đỗi thân thuộc và trìu mến, cây dừa là một loại cây rất quen thuộc và ý nghĩa đối với cuộc sống của người dân. - Cây dừa gắn bó thủy chung son sắt với con người. II. Thân bài 1. Nơi phân bố +Trên thế giới: Dừa thường phân bố ở vùng châu Á, Thái Bình Dương. +Ở Việt Nam: Dừa thường tập trung từ Quảng Ngãi đến Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Bình Định và Bến Tre. 2. Đặc điểm a. Cấu tạo +Thân dừa: Cây dừa cao khỏe, có màu nâu sậm, hình trụ và có những nốt vằn trên thân. +Lá: Lá dài, xanh và có nhiều tàu. +Hoa: Trắng và nhỏ. +Quả: Phát triển từ hoa, bên ngoài màu xanh dày, bên trong có cùi và nước. +Buồng dừa: Chứa các quả dừa, mỗi buồng thường có khoảng mười lăm quả. b. Khả năng sinh sống +Thường sống ở khí hậu nhiệt đới. +Phát triển trên đất pha cát và có khả năng chống chịu tốt. +Dừa cần độ ẩm cao (70 - 80%) để có thể phát triển một cách tối ưu. +Phát triển trong khu vực khô cằn. 3. Phân loại +Dừa xiêm: Loại dừa này trái thường nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống. +Dừa bị: Trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm. +Dừa nếp: Trái vàng xanh mơn mởn. +Dừa lửa: Lá đỏ, quả vàng hồng. +Dừa dâu: Trái rất nhỏ, thường có màu hơi đỏ. +Dừa dứa: Trái nhỏ, màu xanh, nước ngọt, vì thơm mùi dứa nên gọi là dừa dứa. +Dừa sáp: Cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp, chỉ có ở vùng Cầu Kè (Trà Vinh). 4. Công dụng +Nước dừa: Thường được dùng làm nước uống, kho cá, nước chấm… +Cơm dừa: làm kẹo, mứt hay làm nước cốt dừa... +Dầu dừa: nấu ăn, dưỡng tóc, dưỡng da… +Xơ dừa: dùng làm dây thừng... +Thân dừa: làm cột nhà, làm cầu bắt qua sông… +Hoa dừa: dùng để trang trí... +Gáo dừa: dùng để nấu ăn hay vật dụng trong gia đình…. +Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm, thuốc sát trùng để súc miệng hay chữa trị bệnh lỵ. +Làm đồ thủ công mỹ nghệ. +Dừa có thể một số bệnh như: Khản tiếng, lỵ, giải độc…. 5. Ý nghĩa của cây dừa +Trong đời sống +Trong nghệ thuật: văn học, âm nhạc… III. Kết bài Dừa là một người bạn rất hữu ích với người dân quê Việt Nam. Dừa rất có ích cho cuộc sống và tinh thần của người dân.
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 1
Nghe tiếng gió rì rào cùng sóng biển, nghe tiếng xào xạc bên bờ. Kìa những cây dừa xếp hàng dài trên bãi cát trắng. Một loài cây đã quá quen thuộc và trở thành hình ảnh gần gũi xuất hiện trong những bức tranh miền biển Dừa là một loại cây đã xuất hiện từ lâu. Nguồn gốc của cây dừa bắt nguồn từ đâu vẫn còn là một điều gây nên tranh cãi. Dừa là cây có thân cao khỏe màu xanh sẫm hoặc ngả nâu thẫm , ước chừng chiều cao của thân cây là 20 mét đến 25 mét, thân dừa có những nốt vằn đặc trưng, đường kính của cây khoảng 45 cm đến 50 cm. Lá cây dừa dài, to có màu xanh tươi và có nhiều tàu xòe ra, khi già lá dừa sẽ ngả vàng và có màu nâu. Hoa dừa nhỏ xíu màu trắng muốt mọc từng chùm, từng chùm nổi bật. Quả dừa mọc ra từ hoa, quả hình tròn, có màu xanh vỏ cứng và dày, bên trong có cùi dừa trắng thơm ngậy và nước dừa màu trắng đục. Nước dừa thường được lấy uống để giải khát trong mùa hè. Thường những quả dừa không đơn độc, chúng mọc thành buồng, một buồng có từ 10 đến 15 quả. Những cây dừa thường sinh sống ở những nơi có khí hậu nhiệt đới, phát triển ở những vùng đất khô cắn, có đất pha cát. Trái nước với nơi sinh sống thiếu nước thì dừa có một sức sống mãnh liệt và chống chịu cao. Vì thế chúng hay được trồng ở các nơi ven biển vừa đẹp, vừa chống lại được bão gió. Dừa được phân bố ở khu vực Châu á và Thái Bình Dương trên thế giới và được trồng từ Quảng Ngãi rải rác khắp nơi đến tận Mũi Cà Mau, đặc biệt được trồng nhiều ở Bình Định và Bến Tre trên mảnh đất Việt Nam. Dừa cũng như bao cây khác, chúng được phân ra nhiều loại: dừa xiêm,dừa bị, dừa lửa, dừa sáp, dừa nếp, dừa dâu. Tất cả loại dừa đều có công dụng khác nhau như những quả dừa xiêm dù trái nhỏ nhưng nước rất ngọt thường được bổ ra và uống. Dừa bị trái to, cùi dày thường được dùng để chế biến thực phẩm. Ngoài ra những dừa còn được dùng trong nhiều việc như kho cá, kho thịt. Cùi dừa được nạo ra làm kẹo hay mứt, hoặc xay nhuyễn, thái sợi để nấu xôi. Dầu dừa được dùng làm dầu ăn hoặc để làm đẹp cho các chị em phụ nữ, xơ dừa được dùng để làm dây thừng, còn những thân dừa cao to thường dùng để dựng cột nhà hoặc làm chiếc cầu nhỏ bắc qua kênh rạch. Như vậy cây dừa được trồng không chỉ làm đẹp cho cuộc sống con người mà nó còn mang lại nhiều lợi ích cả về mặt kinh tế. Loài cây xanh tươi ấy gắn bó với người dân như một người bạn thân thiết từ bao đời.
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 2
“Dừa xanh đứng sừng sững giữa trờiĐem thân mình hiến cho đời thủy chung” Cây dừa cứ thế tự nhiên đi vào thơ ca văn chương. Dừa xanh đã trở thành loài cây quen thuộc, gắn bó với người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền trong. Nguồn gốc của cây dừa này không ai rõ, nhưng một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc từ Đông Nam Châu Á và cũng có người cho rằng chúng có nguồn gốc từ miền tây bắc Nam Mỹ. Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt cũng như nó ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và mưa. Vì vậy chúng đã trở thành người dân định cư không thể thiếu trên những bờ biển vùng nhiệt đới. Chúng gần như không thể sống được ở những vùng có nhiệt độ khắc nghiệt như Địa Trung Hải. Ở Việt Nam dừa xuất hiện nhiều ở các tỉnh miền Trung như Bến Tre, Cà Mau, Bình Định. Thân dừa cao có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45cm, cây dừa khỏe cao đến 25m. Còn thân dừa lùn có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Mỗi cây dừa đều gồm: thân, lá, hoa, buồng, trái. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu, khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm. Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Quả dừa khi mọc sẽ kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ mười đến mười lăm trái dừa, có buồng lại có hơn mười lăm trái. Họ hàng nhà dừa rất phong phú và đa dạng. Kể đến như dừa xiêm: là loại có quả nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống. Dừa bị thì trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm. Dừa nếp lại có trái vàng xanh mơn mởn. Hay dừa sáp là loại có cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp. Mỗi loại dừa sẽ có cách sử dụng khác nhau tùy theo nhu cầu người dùng. Dừa có nhiều công dụng. Người ta lấy thân dừa làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa… Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa tươi mát lại vừa duyên dáng và độc đáo. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường là một trong những mặt hàng thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn dân giã mà lạ miệng. Có thể làm gỏi, xào rất thích hợp với người ăn chay. Trên thân dừa có những con đuông dừa sinh sống. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông dừa thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng. Và nó trở thành đặc sản kỳ lạ của nhiều nước có trồng dừa. Tuy nhiên kết tinh đẹp nhất của cây dừa với tất cả những gì tinh túy lại là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, tốt cho hệ tiêu hoá, có thể dùng trong băng b
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 2
ó vết thương. Ngoài ra nước dừa dùng để chế biến món ăn kho cá, kho thịt, thắng nước màu, thổi xôi. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Ngoài ra cây dừa còn có tác dụng to lớn với nghệ thuật văn chương khi hình ảnh cây dừa trở thành hình ảnh quen thuộc có giá trị với những thi sĩ. “Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõDừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơCứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gióTôi hỏi nội tôi: “Dừa có tự bao giờ? ” (Dừa ơi) Hay: “Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gióCó phải người còn đó là con gái của Bến Tre…” (Dáng đứng Bến Tre) Trải dài khắp dải đất miền Trung của Việt Nam, những hàng dừa xanh vẫn đứng rì rào trong gió. Cây dừa không chỉ quen thuộc với cuộc sống con người Việt Nam mà còn trở thành một phần kinh tế của những con người nơi đây.
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 3
“Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gió, có phải người còn đó, là con gái của Bến Tre”. Câu hát ngân nga mang đậm hồn quê gợi nhớ về vùng đất Bến Tre, quê hương của đồng khởi. Nhắc đến Bến Tre, người ta liên tưởng đến một vùng quê thanh bình với cây lành trái ngọt. Đặc biệt, có một loài cây gắn bó quanh năm, gắn bó cả cuộc đời với người dân Bến Tre - cây dừa. Đi khắp Bến Tre, nơi đâu ta cũng gặp bóng râm của những hàng dừa mát rượi. Hầu như nhà nào cũng trồng dừa. Cây dừa từ lâu đã trở thành biểu tượng ở Bến Tre. Nó cũng như cây chè của Bảo Lộc, Thái Nguyên, cây cà phê ở Buôn Mê Thuột hay cây cọ ở vùng quê sông Thao. Khác với cây dừa ở các tỉnh khác được mọc ở vùng đồng bằng, dọc bờ biển hay ven những triền cát trắng, cây dừa Bến Tre mọc dài trên ba cù lao lớn, cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Vì vậy, cây dừa Bến Tre quanh năm được phù sa của các nhánh sông Tiền, Hàm Luông, Ba Lai, Cổ Chiên bồi đắp nên lúc nào cũng xanh tươi đầy sức sống. Cây dừa Bến Tre có rất nhiều chủng loại. Dừa ta hay còn gọi là dừa bị trái to, cơm dày, dừa xiêm trái nhỏ nước ngọt và thanh, dừa lửa có vỏ bên ngoài vàng cháy, dừa dâu trái thon nhỏ dần ở hai đầu như hình dáng quả dâu. Ngoài ra còn có một số loại khác như: Dừa Tam Quan, dừa cỏ, dừa dứa, dừa éo riêng dừa sáp chỉ mọc được ở Trà Vinh và trở thành đặc sản của vùng đất này. Có lẽ trong tất cả các loại cây trái ở Việt Nam, cây dừa là một loại cây cống hiến cả cuộc đời mình cho con người. Không một chi tiết nào trên thân dừa lại không có chỗ dùng. Rễ dừa dùng để làm chất đốt, có nơi còn làm thuốc nhuộm. Lá dừa dùng để lợp nhà, gói bánh dừa, tàu dừa chặt ngắn lá dùng để trang trí nhà rạp, cổng hoa trong những tiệc cưới ở làng quê. Lá dừa khô được bó lại thành cây làm đuốc soi đường trong những vùng sâu thiếu thốn ánh đèn phố thị. Sống lá dùng để đan những giỏ hoa giỏ đựng trái cây trông rất thanh mảnh và trang trọng. Thân dừa thường dùng để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Sau khi bào bỏ lớp vỏ bên ngoài, người ta lấy thân làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa. Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa thanh nhã vừa lạ mắt. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường có giá trị thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn độc đáo. Có thể làm gỏi, lăn bột, xào... rất thích hợp với người ăn chay. Tuy nhiên, món này không phải lúc nào cũng có vì mỗi khi đốn một cây dừa, người ta mới lấy được củ hủ để dùng. Thậm chí ngay cả con sâu sống trên cây dừa (còn gọi là đuông dừa) cũng là một thứ món ăn ngon. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng ở các quán ăn trong thành phố. Tuy nhiên, thứ có giá trị nhất vẫn là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, giải độc. Ngày xưa, trong chiến trận, thiếu các phương tiện y tế, người ta còn dùng nước dừa thay thế cho dịch truyền. Dừa khô có nhiề
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 3
u công dụng hơn nữa. Nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu, cơm dừa rám dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Gáo dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Hiện nay, các mặt hàng làm từ cây dừa không chỉ phát triển trong nước mà còn được mở rộng ra các nước khác trên thế giới. Kẹo dừa Bến Tre được xuất khẩu nhiều nhất qua trung Quốc. Đi về Bến Tre, chỉ cần qua khỏi phà Rạch Miễu ta sẽ đi giữa bạt ngàn màu xanh của dừa. Những buổi trưa oi bức, chỉ cần mắc võng học bài dưới gốc dừa, bên cạnh bờ ao, hoặc đưa mắt nhìn bầu trời xanh đung đưa qua kẽ lá, nghe tiếng cá nhảy, đớp mồi dưới ao chúng ta bỗng thấy cuộc đời đẹp biết bao. Cuộc sống của người dân Bến Tre gắn liền với cây dừa từ bao đời nay. Ngôi nhà của họ cũng ẩn hiện dưới bóng râm mát rượi của hàng dừa, lúc khát nước uống trái dừa ngọt lịm… Không biết đã có bao nhà thơ đã dệt nên những vần thơ đẹp về cây dừa ở Bến Tre. Cây dừa cũng xuất hiện khá nhiều trong thơ ca, trở thành biểu tượng của miền Tây sông nước: “Khi yêu yêu lắm dừa ơiCả trời cả đất cả người Bến TreBóng dừa râm mát lối quêNgười ơi! Tôi tưởng lối về cung tiên…” Trong tương lai, cuộc sống ngày một hiện đại hơn. Nhưng những giá trị tinh thần vẫn không bao giờ thay đổi. Cũng như vậy, cây dừa sẽ mãi gắn bó với người dân Bến Tre như những hạt phù sa mãi mãi gắn liền với các con sông để ngày bồi đắp cho mảnh đất quê hương thêm màu mỡ.
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 4
Dang tay đón gió gật đầu gọi trăngThân dừa bạc phếch tháng nămQuả dừa lủng lẳng- con nằm trên cao Nhắc đến loài cây ấy, tôi cứ mãi nhẩm đi nhẩm lại mấy câu thơ đã học thuộc lòng từ ngày thơ bé. Bạn hãy cùng tôi tìm hiểu về cây dừa nhé. Nguồn gốc của cây Dừa này không ai rõ, các nhà khoa học chưa xác định đúng chính xác. Trong đó một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc ở khu vực đông nam châu Á trong khi những người khác cho rằng nó có nguồn gốc ở miền tây bắc Nam Mỹ. Các mẫu hóa thạch tìm thấy ở New Zealand cho chúng ta nhận thấy rằng các loại thực vật nhỏ tương tự như cây dừa đã mọc ở khu vực này từ khoảng 15 triệu năm trước. Có nhiều hóa thạch có niên đại sớm hơn cũng đã được phát hiện tại Rajasthan và Maharashtra, Ấn Độ. Họ hàng nhà dừa rất phong phú và đa dạng.Kể đến như dừa xiêm: là loại có quả nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống. Dừa bị thì trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm. Dừa nếp lại có trái vàng xanh mơn mởn. Hay dừa sáp là loại có cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp,… Mỗi loại dừa sẽ có cách sử dụng khác nhau tuỳ theo nhu cầu người dùng. Về cấu tạo, dừa gồm có thân, lá, hoa, quả, buồng dừa và quả dừa. Thân dừa cao khỏe, có màu nâu sậm, hình trụ và có những nốt vằn trên thân.Thân dừa cao có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45cm, cây dừa khỏe cao đến 25m. Còn thân dừa lùn có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Mỗi cây dừa đều gồm: thân, lá, hoa, buồng, trái. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu,khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm. Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Quả dừa khi mọc sẽ kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ 5 đến 10 trái dừa, có buồng lại có hơn 15 trái. Dừa có nhiều công dụng đối với đời sống của con người. Người ta lấy thân dừa làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa…Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa tươi mát lại vừa duyên dáng và độc đáo. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường là một trong những mặt hàng thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn dân giã mà lạ miệng. Có thể làm gỏi, xào… rất thích hợp với người ăn chay. Trên thân dừa có những con đuông dừa sinh sống. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng. Và nó trở thành đặc sản kì lạ của nhiều nước có trồng dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, tốt cho hệ tiêu hoá, có thể dùng trong băng bó vết t
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 4
hương.Ngoài ra nước dừa dùng để chế biến món ăn kho cá, kho thịt, thắng nước màu, thổi xôi. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Cây dừa còn có tác dụng to lớn với nghệ thuật văn chương khi hình ảnh cây dừa trở thành hình ảnh quen thuộc có giá trị với những thi sĩ. “Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõDừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơCứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gióTôi hỏi nội tôi: “Dừa có tự bao giờ?”(Dừa ơi) Để trồng được một cây dừa phát triển nhanh, cho ra nhiều trái cần người trồng phải có sự chăm sóc cẩn thận trong giai đoạn đầu và giai đoạn cây ra hoa. Lúc này cần chăm bón đầy đủ, theo dõi tình hình cây thường xuyên. Khi mang mầm cây về, người trồng phải chọn nơi thoáng đãng, chuẩn bị đất tơi có cát trộn lẫn để tạo cho cây môi trường sống tốt nhất, thuận lợi nhất cho sự phát triển của nó. Khi thu hoạch cần chú ý với chăm bón tốt để thêm chất dinh dưỡng cho cây. Như vậy mới mong luôn có những trái dừa ngọt mát. Cây dừa ngày nay vẫn là một trong những nét đặc trưng của các vùng quê miền Tây ven biển. Bờ biển trong xanh cùng hàng dừa sai trái là hình ảnh làm nên thương hiệu cho biển nước ta. Cây dừa sẽ mài theo con người trong cuộc sống tương lai.
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 5
Dừa là một loại cây trồng phổ biến ở các vùng quê khắp cả đất nước, đặc biệt tập trung nhiều ở các miền ven biển nước ta. Cây dừa đóng góp rất nhiều lợi ích vào trong đời sống của con người, trở thành cây trồng quen thuộc, hữu ích và kinh tế cao. Dừa có nguồn gốc ở khu vực đông nam châu Á, sau đó trở nên phổ biến khắp thế giới nhờ những dòng chảy của biển mang quả dừa khô đi đến mọi nơi. nhờ khả năng chịu hạn, sức sống bền bỉ, giúp cây dừa trở thành loại cây định cư bên các bờ biển nhiệt đới một cách tương đối dễ dàng. Thậm chí, tại các vùng núi cao, cây dừa vẫn phát triển tốt. Dừa là một loài cây trong họ Cau, thuộc loại cây lớn, thân đơn trục, có thể cao tới 30m, với các lá đơn xẻ thùy lông chim một lần, cuống và gân chính dài 4 – 6 m, các thùy với gân cấp hai có thể dài 60 – 90cm; lá kèm thường biến thành bẹ dạng lưới ôm lấy thân; các lá già khi rụng để lại vết sẹo trên thân. Ở nước ta, cây dừa phát triển rất phong phú. Căn cứ vào hình thức bên ngoài hoặc đặc trong bên trong quả, hoặc vùng miền phát triển, người ta phân dừa thành nhiều loại: Dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa dâu, dừa dứa, dừa sáp. Các giống dừa trồng phổ biến ở địa phương có dừa ta, dừa dâu, dừa lửa, dừa xiêm, dừa cỏ, dừa Tam Quan, dừa lùn. Hoa của dừa là loại tạp tính (có cả hoa đực lẫn hoa cái và hoa lưỡng tính), với cả hoa đực và hoa cái trên cùng một cụm hoa. Dừa ra hoa liên tục với hoa cái tạo ra hạt. Dừa là loại quả khô đơn độc được biết đến như là quả hạch có xơ. vỏ quả ngoài thường cứng, nhẵn, nổi rõ 3 gờ, lớp vỏ quả giữa là các sợi xơ gọi là xơ dừa và bên trong nó là lớp vỏ quả trong hay gáo dừa hoặc sọ dừa, lớp vỏ quả trong hóa gỗ, khá cứng, có ba lỗ mầm có thể nhìn thấy rất rõ từ phía mặt ngoài khi bóc hết lớp vỏ ngoài và vỏ giữa (gọi là các mắt dừa). Thông qua một trong các lỗ này thì rễ mầm sẽ thò ra khi phôi nảy mầm. Bám vào thành phía trong của lớp vỏ quả trong là vỏ ngoài của hạt với nội nhũ dạng anbumin dày, là lớp cùi thịt, gọi là cùi dừa, nó có màu trắng và là phần ăn được của hạt. Có lẽ trong tất cả các loại cây trái ở Việt Nam, cây dừa là loại cây cống hiến cả cuộc đời mình cho con người. Tất cả các phần của quả dừa và cây dừa đều có thể được sử dụng. Không một chi tiết nào trên thân dừa lại không có chỗ dùng. Rễ dừa dùng để làm chất đốt, có nơi còn làm thuốc nhuộm. Lá dừa dùng để lợp nhà, gói bánh dừa, tàu dừa chặt ngắn lá dùng để trang trí nhà rạp, cổng hoa trong những tiệc cưới ở làng quê. Lá dừa khô được bó lại thành cây làm đuốc soi đường trong những vùng sâu thiếu thốn ánh đèn phố thị. Sông lá dùng để đan những giỏ hoa giỏ đựng trái cây trông rất thanh mảnh và trang trọng. Thân dừa thường dùng để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Sau khi bào bỏ lớp vỏ bên ngoài, người ta lấy thân làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mĩ nghệ khác hoặc làm chén đũa… Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí, vừa thanh nhã vừa lạ mắt. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường có giá trị thẩm mĩ cao. Đọt dừa
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 5
non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn độc đáo. Có thể làm gỏi, lăn bột, xào,… rất thích hợp với người ăn chay. Thậm chí ngay cả con sâu sống trên cây dừa (còn gọi là đuông dừa) cũng là một thứ món ăn ngon. Tuy nhiên, thứ có giá trị nhất vẫn là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, giải độc. Dừa khô có nhiều công dụng hơn nữa. Nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu, cơm dừa rám dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Gáo dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mĩ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Các sản phẩm của dừa còn được làm thuốc chữa bệnh, đồ mĩ nghệ và các vật dụng đồ đạc hết sức tiện lợi và bền bỉ. Tại một số nước, trái dừa còn là vật phẩm dâng lên các vị thần trong những ngày lễ quan trọng. Cây dừa, quả dừa và tên gọi của nó là là biểu trưng cho sự tinh khiết, sức sống bền bỉ, có ý nghĩa biểu thị cho sự an lành. Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt cũng như ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và lượng mưa bình thường (750 – 2.000 mm hàng năm), điều này giúp dừa trở thành loại cây định cư bên các bờ biển nhiệt đới một cách tương đối dễ dàng. Dừa cần độ ẩm cao đế có thể phát triển một cách tối ưu nhất, điều này lí giải tại sao nó rất ít khi được tìm thấy trong các khu vực có độ ẩm thấp (ví dụ khu vực Địa Trung Hải), thậm chí cả khi các khu vực này có nhiệt độ đủ cao. Nó rất khó trồng và phát triển trong các khu vực khô cằn. Khi quả còn non thì lớp vỏ rất cứng, nhưng quả dừa non hiếm khi rụng, ngoại trừ khi bị bệnh như nấm chẳng hạn hoặc do chuột, dơi,… phá hoại. Trong thời gian quả rụng tự nhiên, lớp vỏ trở thành màu nâu và xơ dừa trở nên mềm và khô hơn, như thê quả sẽ ít bị hư hại khi rụng. Dừa được trồng nhiều ở nhiều nơi từ Bắc chí Nam, nhất là các vùng duyên hải. Cây dừa đã trở thành một hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống của nhân dân ta. Có thể thấy điều này qua các bức tranh dân gian Đông Hồ hoặc các lễ hội hái dừa ở vùng đồng bằng tư Nam Bộ. Trái dừa luôn có mặt trong mâm ngũ quả thờ cúng trong ngày Tết cổ truyền. Từ bao đời nay, cây dừa vẫn bền bỉ, kiên trung với đất, với người, dâng cho cuộc sống biết bao hoa thơm trái ngọt. Cây dừa là biểu tượng của sức sống phi thường, lòng quả cảm, đức hi sinh mà con người Việt Nam đời đời gắn bó, trân trọng và biết ơn.
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 6
Cây dừa - một loài cây khá phổ biến ở Việt Nam. Đây là loại cây có giá trị lớn về thương mại cũng như ý nghĩa tinh thần đối với nước ta. Hiện nay, chưa có một tài liệu nghiên cứu nào ghi chép một cách chính xác về nguồn gốc của cây dừa. Nhưng không thể phủ nhận rằng, ngày này cây dừa đã được trồng ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới. Dừa là một loại cây có thể phát triển tốt ở điều kiện tự nhiên vùng nhiệt đới, đảo và vùng ven biển. Vì vậy, người ta thường trồng dừa ở vùng ven biển khá nhiều. Ở Việt Nam, khu vực trồng nhiều dừa nhất là Bến Tre và Bình Định, ngoài ra còn có trên các đảo lớn nhỏ. Dừa không có quá nhiều loại. Theo đặc điểm hình thái và mục đích sử dụng, người ta chia dừa thành hai loại: dừa cao và dừa lùn. Dừa giống cao khi trưởng thành cao khoảng 12 - 20m, phát triển nhanh nhưng sau 5 - 7 năm mới cho trái. Quả to, cùi dừa dày và hàm lượng dầu dừa cao. Dễ trồng, chống chịu tốt. Còn dừa giống lùn trưởng thành thường cao dưới 10m, phát triển chậm nhưng khoảng 3 - 5 năm sau đã ra hoa và kết trái. Quả dừa nhỏ, cùi mỏng, nước nhiều chủ yếu dùng làm nước giải khát. Ngoài hai nhóm trên, còn có nhiều giống dừa được lai tạo để phù hợp khí hậu và điều kiện gieo trồng từng vùng. Về cấu tạo, thân dừa mọc thẳng, hình trụ, cao khỏe, màu nâu sậm. Trên thâm có nhiều nốt vằn nối tiếp nhau. Lá dừa dạng xẻ thùy, tàu lá dài từ 3 - 7m và phân thành nhiều lá nhỏ. Lá mọc chủ yếu ở phần đầu ngọn nên đôi khi nhìn xa, cây dừa như một chiếc ô khổng lồ. Theo thời gian, cây phát triển cao lên, lá ở gốc già rồi rụng dần để lại mắt sẹo ở thân cây. Hoa dừa màu trắng ngà, mọc ra thành dẻ nhỏ từ nách lá. Mỗi giống giữa sẽ ra hoa ở từng thời điểm khác nhau nhưng trung bình là khoảng 30 - 40 tháng sau khi trồng. Hoa đực hoa cái sẽ tự thụ phấn hoặc thụ phấn chéo, kết thành quả. Quả dừa mọc theo chùm, chi chít nhau. Mỗi chùm phải có từ mười đến mười lăm quả. Quả dừa có năm lớp bao bọc lấy nhau. Lớp đầu tiên là lớp vỏ ngoài cùng, cứng và có màu xanh. Phần kế tiếp là lớp xơ, sau đó là lớp gáo dừa, cùi dừa và nước dừa ở trong cùng. Khi dừa còn non thì cùi dừa mỏng, màu trắng trong. Đến khi quả dừa đã phát triển thiện, cùi dừa sẽ chuyển sang màu trắng đục và dày lên lúc dừa già. Lớp xơ sẽ chuyển cứng, hóa gỗ. Rễ dừa là rễ chùm, bám chặt lấy lòng đất hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Ban đầu còn nhỏ, rễ cây màu trắng lớn lên sẽ chuyển sang màu nâu đỏ. Dừa có rất nhiều công dụng hữu ích. Mỗi bộ phận đều có một chức năng khác nhau. Thân dùng làm cột chống hoặc chế thành đồ mỹ nghệ và vật liệu trong xây dựng, lá dừa héo khô thì dùng làm chất đốt bảo vệ môi trường. Rễ là nguyên liệu quan trọng để làm các loại thuốc nhuộm, thuốc sát trùng làm sạch miệng hay điều trị bệnh lỵ, đánh răng. Tán lá xòe rộng nên hay được trồng ở các khu nghỉ dưỡng vừa tạo vẻ đẹp thẩm mỹ vừa dùng che nắng. Trong quả dừa lại có nhiều công dụng riêng. Nước dừa có vị thơm ngọt, béo ngậy mà không ngán, vừa giải khát vừa đẹp da. Cùi dừa bào mỏng nấu kèm xôi hay kho thịt sẽ khiến món ăn thêm hấp dẫn. Đặc biệt còn có
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 6
“thạch dừa” - một món đồ ăn vật vô cùng được yêu thích, nhất là đối với trẻ em. Mỗi dịp Tết, người ta còn cùi dừa nếp trắng non chế thành nhiều loại mứt màu sắc khác nhau, hương vị tự nhiên ngọt thanh rất hấp dẫn. Dầu dừa nấu từ phần cùi còn là loại mỹ phẩm cực an toàn, dùng dưỡng tóc, dưỡng môi vô cùng hiệu quả… Như vậy, cây dừa là một loại cây hữu ích đối với con người. Dừa cũng gắn bó với cuộc sống của người dân Việt Nam từ xa xưa - trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam.
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 7
“Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổiMà lá tươi xanh mãi đến giờ” Đi vào trong những vần thơ, trong lời ru câu hát, cây dừa đã trở thành một người bạn của người dân Việt Nam. Dừa đã gắn bó với quê hương, với những bờ cát trắng và nắng gió của tổ quốc từ ngàn đời nay với màu lá xanh tươi như thế. Không chỉ ở Việt Nam mà trên khắp các châu lục, dừa là một loài cây quen thuộc. Các nghiên cứu khoa học vẫn chưa tìm ra được câu trả lời chính xác cho nơi bắt đầu của dừa nhưng qua nhiều năm phát triển, dừa giờ đây trở nên rất phổ biến, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới như châu Á và vùng ven Thái Bình Dương. Còn ở nước ta, dừa thường tập trung ở các tỉnh miền Trung, nổi tiếng nhất là ở Bến Tre và Bình Định. Thân dừa rất cao, một số cây có thể cao đến ba mươi mét. Dừa còn sở hữu một thân hình khỏe khoắn với khuôn hình trụ kiên cố, có những nốt vằn trên thân vết sẹo để lại sau khi những bẹ lá già và rụng xuống đất để lại. Dừa càng già thì màu thân càng bạc đi theo năm tháng. “Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu,Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng” (Cây dừa, Trần Đăng Khoa) Đúng như nhà thơ đã miêu tả, cây dừa có tán rộng với những lá dài, xanh mướt và nhiều tàu. Thân hình cao lớn, tán lá xanh dày nên những hôm trời nắng. Cây dừa đứng sừng sững như một chiếc ô khổng lồ, dang rộng những cánh lá xanh dài của mình để che bớt đi cái chọi lọi, gay gắt của nắng, đem lại những bóng râm mát cho người dân nghỉ ngơi. Lá dừa có hình dạng như lông chim với một gân chính dài, cứng, từ gân đâm ra những lá đơn. Mỗi lần làn gió thổi qua là những lá đơn lẻ ấy lại va chạm vào nhau, tạo nên những âm thanh xào xạc rất vui tai. Ấy cũng là thú vui của những du khách đi biển, nằm dài trên bờ cát trắng dưới bóng mát của tán dừa, lắng tai nghe bản hòa tấu của tiếng sóng vỗ rì rầm và lá rì rào như đang hát. Dừa cũng có hoa, nhưng hoa dừa lại nhỏ, có màu trắng. Vì kích thước quá nhỏ, lại nằm ở trên cao nên ít khí người ta nói đến hoa dừa. Nhưng hoa dừa lại vô cùng quan trọng. Từ những bông hoa nhỏ ấy, ta mới có những trái dưa thơm nức mùi hương. Quả dừa phát triển từ hoa, lớp vỏ bên ngoài màu xanh, cứng, nhẵn và có ba đường gờ lên rất rõ ràng. Vì thế mà quả dừa không tròn như quả nhãn, quả cam, không có hình bầu dục như xoài mà có một dạng rất riêng và đặc trưng. Dừa là quả hạch có xơ, vỏ dừa được cấu thành từ nhiều lớp xơ dừa chồng lên nhau, khá cứng nên người ta thường gọi là sọ dừa hoặc gáo dừa. Bên trong những lớp xơ đã hóa gỗ ấy là cùi dừa và nước dừa - nguyên liệu nấu ăn đã rất phổ biến. Với dừa non thì cùi thường mỏng và mềm, nên thường được hái để lấy nước. Với những quả già, lớp ngoài chuyển thành màu nâu thì cùi dừa dày, chắc nên được sử dụng để lấy cùi. Để lấy dừa non thì cần phải hái nhưng với dừa già, ta chỉ cần đợi nó rụng xuống và thu hoạch là được. Trái dừa cũng được chia ra nhiều loại như dừa xiêm với trái nhỏ, nước rất ngọt; dừa bị với trái to; dừa lửa với vỏ màu vàng hồng như ánh lửa. Dừa không chỉ đem lại bóng mát cho người dân vào những ngày hè nóng nực mà còn được mang nhiều
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 7
giá trị sử dụng khác. Gần như tất cả các bộ phận trên cây dừa đều có thể sử dụng và làm nguyên liệu cho đời sống sinh hoạt. Nước dừa ngoài là một thức uống giải khát thì có thể sử dụng làm các món ăn như cá kho, nước chấm. Cùi dừa vừa có thể ăn trực tiếp lại vừa có thể thêm vào các món như thịt kho dừa, các loại chè để tăng thêm hương vị. Là một người dân Việt Nam, không ai là không biết đến dừa Bến Tre, đặc biệt là kẹo dừa Bến Tre với sắc ngọt lịm và mùi thơm thanh thanh dễ chịu của hương dừa. Hiện nay, con người còn sáng tạo ra dầu dừa - một sản phẩm dùng để làm đẹp khá phổ biến. Với sọ dừa thì có thể làm gáo nước, rễ dừa được sử dụng như một loại thuốc, thân dừa là một cây cầu chắc chắn. Không chỉ hiện hữu trong đời sống thường nhật, dừa còn đi vào văn học. Trong ca dao như một hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam: “Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu,Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng” Lê Anh Xuân, một nhà thơ hiện đại cũng có những vần thơ về cây dừa với bài thơ như tiếng gọi thân thương “Dừa ơi”. Dừa còn đi vào trong âm nhạc, trở thành biểu tượng cho một vùng miền của tổ quốc trong “Dáng đứng Bến Tre”. “Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõDừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơCứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gióTôi hỏi nội tôi: "Dừa có tự bao giờ?" Dừa đã gắn bó với tuổi thơ của bao người dân Việt Nam, lớn lên cùng với những lũ trẻ da sạm đi vì nắng gió, che mát cho tâm hồn bao đời người dân đất Việt.
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 8
“Cây dừa xanh tỏa nhiều tàuDang tay đón gió, gật đầu gọi trăngThân dừa bạc phếch tháng nămQuả dừa – đàn lợn con nằm trên cao” Hình ảnh cây dừa đã đi vào thơ ca nhạc họa một cách rất tự nhiên. Dừa là hình ảnh rất gần gũi và hết sức quen thuộc thân thương và trìu mến, gắn liền với tuổi thơ của mỗi chúng ta. Nguồn gốc của loài thực vật này là chủ đề gây tranh cãi, trong đó một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Châu Á trong khi những người khác cho rằng nó có nguồn gốc ở miền Tây bắc Nam Mỹ. Đến nay dừa đã được trồng phổ biến và xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước. Trên thế giới, dừa thường phân bố ở vùng châu Á, Thái Bình Dương. Ở Việt Nam, dừa thường tập trung từ Quảng Ngãi đến Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Bình Định và Bến Tre Dừa có rất nhiều loại như dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa lửa, dừa dâu, dừa sáp. Nhưng nhìn chung các loại dừa đều cơ bản giống nhau và có những lợi ích riêng giúp ích cho cuộc sống con người. Hầu như loại dừa nào cũng có đặc điểm và cấu tạo như nhau. Thân dừa có hình trụ với những nốt vằn trên thân, cao khỏe, có màu nâu sậm, cao khoảng 20- 30 cm, đường kính rộng khoảng 45 cm. Đối với loại dừa dùng để làm cảnh thì thân thường là màu xanh có nhiều đốt với những tán lá xòe rộng như một cái ô khổng lồ. Lá dừa xanh, rất dài và tán lá rộng. Mỗi một cây dừa đều có nhiều tàu lá. Khi già thì lá chuyển mình thành màu vàng rồi héo dần và rụng. Phải quan sát rất tỉ mỉ thì ta mới nhìn thấy những bông hoa trắng, nhỏ li ti kết thành từng chùm trông thật thích mắt. Cây ra hoa rồi kết thành trái. Quả dừa tròn, nằm trên những tàu lá, kết thành từng chùm như đàn lợn con nằm trên cao. Cây dừa có rất nhiều quả, quả của chúng kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ năm đến mười trái dừa, có loại trên hai trái. Quả dừa gồm hai phần là phần vỏ và phần nước ở bên trong được ngăn cách nhau bởi lớp cùi trắng. Để lấy nước của quả dừa thì đây là một công đoạn cũng rất khó cần loại bỏ lớp vỏ ngoài và lớp xơ dừa sau đó dùng đũa/que chọc vào mắt lớn nhất của quả rồi đặt ống hút vào. Người ta có thể lấy nước bằng cách chặt bỏ một phần vỏ ở phần đối diện với cuống dừa để phần vỏ cứng bên trong phơi ra vật chứa. Người ta tìm đến với dừa có rất nhiều những công dụng khác nhau. Mỗi bộ phận của dừa hầu như đều chứa đựng những lợi ích khác nhau. Chúng ta không chỉ biết công dụng của dừa dùng để ăn mà biết đến với rất nhiều công dụng khác. Thân dừa dùng để làm cột chống, hay lá dừa khi già héo và rụng thì người ta phơi khô dùng để đun và cháy rất bén. Bên cạnh đó, thân dừa có thể dùng làm đồ mỹ nghệ hoặc làm vật liệu cho một số công trình xây dựng. Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm, thuốc sát trùng để súc miệng hay chữa trị bệnh lỵ và nó còn được dùng để đánh răng. Tán lá dừa rộng, xòe to nên có thể dùng để che nắng, che mưa. Xơ dừa dùng làm dây thừng, hoa dừa dùng để trang trí. Phần có tác dụng to lớn là nằm ở quả dừa. Bên trong quả có chứa nước dừa thơm ngon, béo ngậy có thể dùng để
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 8
uống giúp đẹp da hay dùng để nấu cơm, thổi xôi thêm cùi dừa nạo mỏng thì ta sẽ được đĩa xôi ngon miệng, béo ngậy, giàu chất dinh dưỡng. Người ta còn biết dùng nước dừa đun lại để làm dầu dừa dưỡng da, dưỡng tóc. Cùi dừa dùng để kho thịt, thạch dừa hay dùng để làm kem dừa khi trời nắng nắng oi bức hay dùng là mứt vào mỗi dịp tết. Khi dùng xong bên trong, họ còn dùng gáo dừa để làm vật dụng trong gia đình hay dùng để nấu ăn… Cây dừa có rất nhiều tác dụng to lớn đối với cuộc sống của con người. Đã từ lâu nó đã trở thành biểu tượng của người dân Việt Nam bởi sự kiên cường bất khuất, dám đối mặt với mọi gian nan để vươn cao, vươn xa hơn.
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 9
Ngay từ tiểu học, chúng ta có lẽ ai cũng đã từng ngân nga mấy câu thơ của Trần Đăng Khoa: “Cây dừa xanh tỏa nhiều tàuDang tay đón gió gật đầu gọi trăngThân dừa bạc phếch tháng nămQuả dừa - đàn lợn con nằm trên cao” Những dòng thơ ấy gợi nhắc về một loài cây thơm mát ngọt lành, quanh năm gắn bó với người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân Bến Tre - dừa. Dừa là biểu trưng của Bến Tre, cũng giống như cây chè ở Thái Nguyên hay cây cam - Hà Giang. Đó là loài cây với cấu tạo có phần đặc biệt, cây thân đứng, cao và không có cành. Tàu lá cứ từ thân mà mọc ra, to và dài đến năm sáu mét, tỏa ra xanh mát. Hoa dừa trắng ngần, kết thành từng cụm gắn bó keo sơn, gồm cả hoa đực và hoa cái. Hoa dừa thụ phấn nhờ gió. Quả dừa cứng cáp có ba cạnh, da xanh nhẵn mượt, sọ dừa bên trong được bao bọc bởi một lớp xơ nâu nhạt. Sọ dừa bao lấy cơm dừa và nước dừa. Cơm dừa trắng đục, ăn hơi giòn và ngọt nhẹ, nước dừa trong vắt, thanh thanh dễ chịu. Dừa là loại cây rễ chùm, màu nâu, mọc sâu và khỏe. Dừa được biết đến với sức sống bền bỉ và mạnh mẽ, nhưng thích hợp nhất để trồng dừa là đất pha cát với khí hậu nóng ẩm. Những vùng ven biển Việt Nam rất thích hợp để trồng loài cây ấy. Không chỉ vậy, bởi đặc tính chịu mặn nên dừa cũng được trồng nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dừa xét theo những đặc điểm sinh trưởng và cấu tạo, có thể chia thành dừa lùn và dừa cao. Tuy nhiên nếu xét về công dụng, có thể chia dừa thành nhóm các giống dừa uống nước: dừa xiêm xanh (nước ngọt thanh), dừa xiêm lục (nước có hàm lượng đường cao..), dừa xiêm lửa, dừa xiêm xanh ruột hồng. Nhóm tiếp theo là giống dừa lấy dầu: dừa ta xanh ta vàng, dừa dâu xanh dâu vàng, dừa dứa hay dừa sáp. Cây dừa có nhiều công dụng. Phần cơm dừa trắng ngần, bùi ngọt không chỉ có thể dùng để ăn trực tiếp mà còn được dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp chế biến các sản phẩm bánh mứt: mứt dừa, kẹo dừa, hoặc dùng điều chế mỹ phẩm: son dưỡng, dầu dừa, dầu gội đầu, kem đánh răng vị dừa. Vào trưa hè nắng gắt, ngồi dưới bóng dừa mà thưởng thức hương vị ngọt thanh, mát dịu của nước dừa thì quả là thoải mái vô cùng. Xơ dừa có thể dùng để bện dây thừng, sản xuất một số đồ thủ công còn vỏ dừa có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất phân bón. Gáo dừa thích hợp làm nhạc cụ dân tộc hay làm gáo múc nước. Từ lá dừa, người ta lợp nhà lợp cửa, tàu dừa dùng trang trí cổng hoa trong mỗi ngày vui. Lá dừa phơi khô trở thành đuốc soi đường khi thiếu sáng hay được đan thành những món đồ thủ công giản dị. Thân dừa được dùng làm cầu bắc ngang kênh, làm cột dựng nhà hay chén đũa. Dừa không chỉ có giá trị trong nước mà nhiều sản phẩm từ dừa được dùng xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao. Đến với những miền ven biển, người ta bắt gặp những hàng dừa xanh cao chắn gió. Ngày qua ngày, dừa đối với người dân miền biển, người dân Bến Tre trở thành một người canh gác, một người bạn thủ thỉ tâm giao tâm tình, một đặc trưng riêng: “Thấy dừa thì nhớ Bến Tre.Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười.Dừa cũng rất tự nhiên mà đi vào thơ ca nhạc họaTrả ơn ai có c
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 9
ây dừaCho tôi nghỉ mát đợi chờ người thương” Hoặc là: “Trên thân dừa vết đạn xác xơ.Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổiMà lá tươi xanh mãi đến giờTôi nghe gió ngàn xưa đang gọiXào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua” Dừa cũng được dùng để tạo nên những câu đố cho đám trẻ nông thôn: “Một mẹ nuôi chín mười conKhông ăn, không uống no tròn vo vo” (Là cái gì?) Kỹ thuật chăm sóc dừa không quá phức tạp. Nên chọn trồng dừa tại những vùng đất pha cát, khí hậu nhiệt đới ẩm. Trong quá trình trồng chú ý bón lót, bón thúc, phòng ngừa sâu bệnh thường xuyên để cây có thể sinh trưởng, phát triển tốt. Cây dừa như người Việt Nam ngay thẳng, cứng cáp và vươn cao, mộc mạc và giản dị nhưng lại mang giá trị vật chất, tinh thần lớn lao. Hiểu vậy để mỗi người thêm yêu quý, trân trọng loài cây ấy.
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 10
Nhắc đến Việt Nam là người ta nhớ ngay đến một quốc gia với muôn ngàn hoa trái. Trong rất nhiều những loài cây có giá trị từ Bắc xuống Nam dọc đất nước, có một loài cây thẳng, giản dị, một loài cây quen thuộc với người dân miền biển Việt Nam - cây dừa: “Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõDừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơCứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gióTôi hỏi nội tôi: Dừa có tự bao giờ?” (Dừa ơi) Dừa được biết đến là một loài cây cùng họ với cây cau. Hiện nay, nguồn gốc chính thức của dừa vẫn chưa được khẳng định chính xác. Một số giả thiết cho rằng dừa có nguồn gốc ở khu vực Đông nam Á, cũng có giả thiết cho rằng dừa có nguồn gốc Nam Mỹ. Đặc điểm cấu tạo của cây dừa không quá phức tạp, đó là một loài cây thân trụ đứng và cao, mọc thẳng và không phân cành, phân nhánh. Lá dừa trực tiếp mọc ra từ thân chính, gồm hai phần: cuống lá và chét lá. Mỗi tàu dừa có độ dài từ 5 - 6m. Trung bình một cây dừa có khoảng dao động từ 32 - 35 lá. Cây dừa cũng có hoa. Hoa có màu trắng mọc ra từ nách lá, nở thành từng cụm, cả hoa cái và hoa đực đều nằm trên một cụm hoa. Rễ dừa thuộc kiểu rễ chùm, khi dừa mới ra rễ, rễ thường có màu trắng, nhưng trong quá trình sinh trưởng, rễ sẽ có màu nâu, rễ dừa mọc sâu và khỏe. Quả dừa có vỏ cứng, nhẵn và xanh mượt mà, bên trong là một lớp xơ màu hơi nâu, tiếp đến là lớp gáo dừa cứng chắc. Trong cùng là lớp cùi dừa trắng ngần, thơm nhẹ, có màu trắng trong khi quả dừa còn non và chuyển sang trắng đục khi dừa già. Cùi dừa bao chứa nước dừa thanh thanh, ngọt nhẹ. Dừa là loài cây có khả năng sinh trưởng mạnh mẽ, chịu mặn tốt và phát triển thuận lợi trên đất pha cát, ưa những nơi sinh sống có nhiều ánh sáng với lượng mưa vừa phải. Bởi những đặc điểm sinh trưởng trên nên dừa được trồng nhiều ở những vùng khí hậu nhiệt đới ẩm. Ở nước ta, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện về khí hậu và đất đai thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của dừa. Ngoài ra, dừa còn được canh tác nhiều tại các tỉnh miền Trung và Bến Tre. Người ta thường phân chia dừa thành hai loại dựa trên đặc điểm sinh cấu tạo và khả năng sinh trưởng. Đó là dừa lùn, đây là giống cây cao khoảng dưới 10m, thời gian kết trái dao động trong khoảng 3 tới 5 năm, dừa trái nhỏ, cùi mỏng. Dừa sức sống kém hơn, dễ bị sâu bệnh. Một số tiểu loại của dừa lùn phổ biến là dừa Tam Quan hay dừa Xiêm. Loại thứ hai chính là dừa cao. Giống dừa cao có chiều cao dao động trên 10m cho tới khoảng 20m, thời gian ra trái muộn hơn giống dừa lùn, trong khoảng từ 5 đến 7 năm. Dừa có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt hơn, dừa trái lớn với cùi dày. Một số loại nhỏ của giống dừa cao là dừa Sáp hay dừa Lửa. Dừa là loại cây mang giá trị cao đối với đời sống con người. Thân dừa thường được dùng làm đồ gỗ mỹ nghệ hay vật liệu cho các công trình xây dựng: cầu. Lá dừa dùng làm mái che hay một số đồ thủ công như giỏ đan, tranh, chổi dừa khô có thể dùng làm chất đốt. Nước dừa chứa nhiều chất chống oxy hóa và vitamin, dùng làm nước giải khát. Nước cốt dừa có thể dùng làm gia vị trong các món giải nhiệ
Thuyết minh về cây dừa - mẫu 10
t như chè hay trong một số món ăn: thịt kho. Gáo dừa có thể dùng chế tạo nhạc cụ thủ công hay đơn giản là làm gáo múc nước. Xơ dừa dùng bện dây thừng hay làm thảm, khảm thuyền, cũng có thể dùng làm phân bón. Vỏ dừa có thể được dùng làm than củi. Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm hay thuốc sát trùng. Dường như không chỉ mang giá trị kinh tế, dừa đã thực sự để lại ý nghĩa trong đời sống con người, đặc biệt là người dân Bến Tre. Loài cây ấy đã trở thành một loài cây thân thuộc, một người bạn che chở và hiền lành. Dừa từ rất lâu cũng đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận trong văn chương: “Cây dừa xanh tỏa nhiều tàuDang tay đón gió gật đầu gọi trăngThân dừa bạc phếch tháng nămQuả dừa - đàn lợn con nằm trên cao” (Cây dừa, Trần Đăng Khoa) Hay như: “Thân dừa găm vết đạnNước ngọt. Bọc cùi thơmCái ăn và cái mặcTreo chung với trái vườn” (Bóng dừa) Không chỉ là nguồn cảm hứng cho văn chương, dừa còn là chất liệu cho nhiều bài hát: “Hát về cây dừa quê tôi” (Hoài Thanh) và rất nhiều những bức tranh nghệ thuật. Dừa là loài cây có sức sống tốt nên kĩ thuật chăm sóc không quá phức tạp, dừa không kén đất, tuy nhiên nên trồng dừa ở những khu vực gần kênh rạch, nên chọn những giống dừa có chiều cao khoảng 0,3 m. Ngoài ra cũng cần chú ý việc bón lót cho cây. Cần che chắn cho dừa trong ba tháng đầu tiên, quan tâm, cung cấp đủ nước cho dừa, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh. Dừa tồn tại trong tâm thức của người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân vùng Bến Tre như một loại cây lành tính và quen thuộc, thân thương như người bạn. Bởi thế, mỗi người cần có ý thức giữ gìn bảo vệ loài cây giàu giá trị ấy. .
Dàn ý Thuyết minh về áo dài
I. Mở bài - Nêu lên đối tượng: Chiếc áo dài Việt Nam. VD: Trên thế giới, mỗi Quốc gia đều có một trang phục của riêng mình. Từ xưa đến nay, chiếc áo dài đã trở thành trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam. II. Thân Bài 1. Nguồn gốc, xuất xứ + Không ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ + Bắt nguồn từ áo tứ thân Trung Quốc + Căn cứ vào sử liệu, văn chương, điêu khắc, hội hoa, sân khấu dân gian chúng ta đã thấy hình ảnh tà áo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử. +Tiền thân của áo dài Việt Nam là chiếc áo giao lãnh, hơi giống áo từ thân, sau đó qua lao động, sản xuất chiếc áo giao lãnh mới được chỉnh sửa để phù hợp với đặc thù lao động -> áo tứ thân và ngũ thân. +Người có công khai sáng là định hình chiếc áo dài Việt Nam là chúa Nguyễn Phúc Khoát. Chiếc áo dài đầu tiên được thiết kế tại thời điểm này là sự kết hợp giữa váy của người Chăm và chiếc váy sườn xám của người trung hoa.=> áo dài đã có từ rất lâu. 2. Hiện tại +Tuy đã xuất hiện rất nhiều những mẫu mã thời trang, nhưng chiếc áo dài vẫn giữ được tầm quan trọng của nó, và trở thành bộ lễ phục của các bà các cô mặc trong các dịp lễ đặc biệt.. +Đã được tổ chức Unesco công nhận là một di sản Văn Hoá phi vật thể, là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. 3. Hình dáng - Cấu tạo * Áo dài từ cổ xuống đến chân * Cổ áo may theo kiểu cổ Tàu, cũng có khi là cổ thuyền, cổ tròn theo sở thích của người mặc. Khi mặc, cổ áo ôm khít lấy cổ, tạo vẻ kín đáo. * Khuy áo thường dùng bằng khuy bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông. * Thân áo gồm 2 phần: Thân trước và thân sau, dài suốt từ trên xuống gần mắt cá chân. * Áo được may bằng vải một màu thì thân trước thân sau sẽ được trang trí hoa văn cho áo thêm rực rỡ. * Thân áo may sát vào form người, khi mặc, áo ôm sát vào vòng eo, làm nổi bật những đường cong gợi cảm của người phụ nữ. * Tay áo dài không có cầu vai, may liền, kéo dài từ cổ áo --> cổ tay. * Tà áo xẻ dài từ trên xuống, giúp người mặc đi lại dễ dàng, thướt tha, uyển chuyển. * Áo dài thường mặc với quần đồng màu hoặc màu trắng bằng lụa, sa tanh, phi bóng....với trang phục đó, người phụ nữ sẽ trở nên đài các, quý phái hơn. +Thợ may áo dài phải là người có tay nghề cao, thợ khéo tay sẽ khiến áo dài khi mặc vào ôm sát form người. +Áo dài gắn liền tên tuổi của những nhà may nổi tiếng như Thuý An, Hồng Nhung, Mỹ Hào, ....., đặc biệt là áo dài Huế màu tím nhẹ nhàng… +Chất liệu vải phong phú, đa dạng, nhưng đều có đặc điểm là mềm, nhẹ, thoáng mát. Thường là nhiễu, voan, nhất là lụa tơ tằm… +Màu sắc sặc sỡ như đỏ hồng, cũng có khi nhẹ nhàng, thanh khiết như trắng, xanh nhạt. Tuỳ theo sở thích, độ tuổi. Thường các bà, các chị chọn tiết dê đỏ thẫm… 4. Áo dài trong mắt người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế +Từ xưa đến nay, áo dài luôn được tôn trọng, nâng niu.… +Phụ nữ nước ngoài rất thích áo dài 5. Tương lai của tà áo dài III. Kết bài Cảm nghĩ về tà áo dài, ...
Thuyết minh về áo dài - mẫu 1
Nhắc đến trang phục thì phải nói rằng là ở bất kỳ quốc gia nào, bất kì dân tộc nào cũng đều có một trang phục truyền thống riêng của mình. Dân tộc Việt Nam chúng ta cũng thế dân tộc chúng ta có một trang phục truyền thống nổi tiếng thường được nghe đến với cái tên Áo Dài Việt Nam. Chiếc áo dài mang một vẻ đẹp rạng ngời, duyên dáng, dịu dàng và đậm đà bản sắc dân tộc. Chiếc áo góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua bao thời đại. Từ khi được các bạn bè quốc tế yêu thích, chúng ta đã để lại ấn tượng sâu sắc vào tâm trí, góc nhìn của họ. Chuyện về sự ra đời của chiếc áo dài lại vào thời Vua Nguyễn. Sau khi đánh bại các phiến quân, bình định được Đàng Trong, năm 1765, chúa Nguyễn đã ban hành lệnh đổi mới về trang phục, cách ăn mặc của toàn dân ở Đàng Trong. Ban đầu chỉ nhằm mục đích phân biệt người dân với Đàng Ngoài. Suốt những năm sau khi chiếc áo dài đầu tiên được ra đời có cấu tạo khá đơn giản áo cổ tay ngắn, cửa ống tay rộng hoặc hẹp. Phần vải trải dài từ cổ xuống chân ở cả sau và trước áo dành cho các người trong triều đình gọi là áo giao lĩnh. Phát triển thêm một kiểu áo mới đáng chú ý nữa diễn ra vào thời Vua Minh Mạng. Năm 1828 truyền thống về trang phục vẫn tiếp tục với loại áo dài có tên áo dài ngũ thân. Sau suốt quá trình đổi mới đã được hoàn thiện làm tăng thêm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Từ thời ấy đến bây giờ là loại thông thường hiện nay được các cô gái mặc vào ngày tết hoặc dịp lễ. Cấu tạo loại thông thường hiện nay gồm 3 phần chính: cổ áo cao từ 4-5cm có lót vải cứng ở trong cho đứng. Tiếp theo là phần tay áo dài đến cổ phần vai đến cổ tay to đến hẹp dần, thân áo gồm 2 thân trước và sau, dài từ vai xuống cổ chân dành cho học sinh cũng có loại ngắn hơn chỉ vừa tới hông của người phụ nữ. Có nút cài ở giữa áo kéo dài từ phần cổ áo xuống cuối đuôi áo ở thân trước và nút cài chéo từ cổ xuống nách kết bằng vải. Chất liệu thông thường là làm từ lụa tơ tằm hoặc lụa tổng hợp. Có một vài chi tiết làm từ vải mỏng làm cho áo dài của dân tộc ta hết sức đẹp đẽ. Ngày nay, chiếc áo dài được cách tân rất nhiều chi tiết để phù hợp với cuộc sống mới và sở thích của mỗi người nhưng những nét căn bản của nó vẫn được gìn giữ cẩn thận. Chiếc Áo Dài thực sự đã đi vào đời sống dân tộc và nhân dân thế giới, trở thành một nét đẹp văn hóa không bao giờ phai mờ. Chiếc áo dài truyền thống là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam ta là một loại trang phục quen thuộc đơn giản mà được các bạn bè quốc tế trên thế giới yêu mến. Chiếc áo dài là tượng trưng cho quê hương đất nước con người Việt Nam là nét đẹp tâm hồn người phụ nữ cũng giống như những cấu tạo của chiếc áo nhìn đơn sơ giản dị nhưng thân thương kỉ niệm gắn bó với con người Việt Nam.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 2
Nếu người Nhật đĩnh đạc và oai vệ với Kimono, người Hàn Quốc điệu đà và lộng lẫy với bộ Hanbok, Người Ấn Độ huyền bí với Sari thì người Việt Nam tinh tế và lịch thiệp trong tà áo dài truyền thống. Áo dài Việt Nam từ lâu đã trở thành niềm tự hào của người phụ nữ Việt Nam. Cho đến nay, vẫn chưa ai biết rõ được nguồn gốc chính xác của chiếc áo dài. Nhiều người cho rằng hình dáng và kiểu cách của chiếc áo dài Việt Nam bắt nguồn từ chiếc áo sườn xám của người Trung Quốc. Tuy nhiên, chưa có cơ sở để khẳng định điều đó. Ngược dòng thời gian tìm về cội nguồn, hình ảnh chiếc áo dài Việt với hai tà áo thướt tha trong gió đã được tìm thấy qua các hình khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng một nghìn năm. Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát có quy định chặt chẽ về trang phục phụ nữ: “đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở”. Chiếc áo dài lúc này vẫn chưa được xẻ tà. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, áo dài tứ thân cũng thay đổi và mang vẻ quyền quý hơn. Phụ nữ thành thị đã biến tấu thành áo dài ngũ thân nhằm thể hiện sự giàu sang cũng như địa vị xã hội của người phụ nữ. Giống như một quy luật, thời trang cũng đi liền với diễn biến lịch sử, chiếc áo dài ngũ thân vẫn không là điểm dừng của trang phục truyền thống Việt. Khoảng những năm 1931 trở đi, làn sóng văn hóa Tây Âu du nhập vào Việt Nam đã làm ảnh hưởng đến thị hiếu của người dân đặc biệt là quan niệm thẩm mĩ đối với áo dài. Qua nhiều thời kỳ và giai đoạn biến đổi, áo dài mang nhiều cái tên và biến đổi về kết cấu. Áo dài đã trở thành biểu tượng của trang phục phụ nữ Việt, là sản phẩm văn hóa không thể thiếu cho vẻ duyên dáng của phụ nữ Việt. Khi mặc những chiếc áo dài, các cô gái thường chỉ cài cúc cạnh sườn. Phần từ ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo ra ngoài. Bên trong là chiếc yếm đào đỏ thắm, đầu đội nón quai thao trông rất duyên dáng, lịch thiệp và kín đáo. Viên cố đạo người Italia tên là Bôri sống ở Việt Nam từ năm 1616 đến năm 1621 đã viết một tập kí sự, trong đó ông ghi những nhận xét về phụ nữ Việt Nam như sau: “Quần áo của họ có lẽ kín đáo nhất vùng Đông Nam Á”. Trải qua năm tháng, chiếc áo dài được dần dần thay đổi và hoàn thiện hơn. Ngày nay, kiểu cổ áo dài được biến tấu khá đa dạng như kiểu cổ trái tim, cổ tròn, cổ chữ U, trên cổ áo thường được đính ngọc. Đầu thế kỉ XX, phụ nữ Việt Nam chỉ mặc một chiếc áo dài, bên trong là chiếc áo cộc và chiếc quần hai ống dài thay thế dần chiếc váy. Quần áo dài được may chấm gót chân, ống quần rộng. Quần áo dài khi xưa may bằng vải cứng cáp, nay thường được may với vải mềm, rũ. Màu sắc thông dụng nhất là màu trắng. Nhưng xu thế thời trang hiện nay thì chiếc quần áo dài có màu đi tông với màu của áo. Nhưng ngày nay còn được cách tân phối cùng chiếc chân váy dài tạo vẻ dịu dàng, thanh lịch. Thân áo được tính từ cổ xuống phần eo. Cúc áo dài thường từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông. Từ eo, thân áo dài được xẻ làm hai tà, vị trí xẻ tà ở hai bên hôn
Thuyết minh về áo dài - mẫu 2
g. Tà trước và sau được nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn, điểm chia hai tà áo trước – sau cũng trễ dưới eo. Điều khác biệt nhất là eo áo được nhấn nhẹ ôm khít, tà sẻ cao hơn trước. Áo dài khi mặc lên hơi sát vào bụng, nên trông như ngực nở ra tôn vinh lên rất nhiều. Tay áo được tính từ vai. Tay áo không có cầu vai, may ôm sát cánh tay, dài đến qua khỏi cổ tay. Cho đên nay, cấu trúc chiếc áo dài truyền thông tương đôi đã ổn định. Khi Việt Nam tham gia khối APEC năm 2006, đại biểu của các nước đã mặc chiếc áo dài truyền thống của nước chủ nhà Việt Nam chụp một bức hình kỉ niệm. Ngày nay, với xu hướng phát triển của xã hội ngày càng năng động, cá tính, nhiều nhà thiết kế thời trang đã thiết kế chiếc áo dài tân thời theo lối phá cách, những chiếc áo dài ngắn tay thậm chí không có tay áo đi chung với những chiếc quần jean cá tính,… làm cho chiếc áo dài thêm năng động, trẻ trung nhưng không mất đi vẻ kín đáo, tế nhị. Đối với phụ nữ Việt Nam trước dây, trang phục dân tộc là chiếc áo tứ thân màu nâu đen, váy đen, yếm trắng, đầu chít khăn mỏ quạ, thêm vào đó là những chiếc thắt lưng thiên lý hay màu đào. Trong tà áo dài, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam như đẹp hơn, tự nhiên, mềm mại và thanh thoát hơn. Ngày nay, các mốt thời trang của nước ngoài đã du nhập vào nước ta, nhưng trang phục truyền thống, chiếc áo dài dân tộc vẫn là một biểu tượng đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 3
Áo dài là trang phục đẹp nhất của phụ nữ Việt Nam. Chiếc áo khoác ngoài màu thầm, bên trong là chiếc áo cánh sen, áo mỡ gà,... làm cho người phụ nữ quê ta trở nên duyên dáng, xinh đẹp và trang trọng. Áo dài của các bà, các mẹ ngày xưa thường là áo tứ thân hoặc áo năm thân. Áo tứ thân được kết bằng bốn mảnh vải, hai thân trước và hai thân sau. Áo năm thân, vạt áo trái phía trước được ghép thành hai thân vải, rộng gấp đôi vạt áo phía phải. Mặc áo tứ thân thường mặc bỏ buông; mặc áo năm thân thường buộc thắt vào nhau, làm cho dải thắt lưng thiên lí hiện ra lấp ló. Các cụ bà lên chùa lề Phật vào ngày mồng một, ngày rằm thì mặc áo dài tứ thân màu nâu, màu đà bằng vải hay lụa tơ tằm. Ngày xưa, con gái Kinh Bắc đi hội chùa Dâu, đi hát Quan họ hay mặc áo dài tứ thân màu thẫm. Chiếc áo dài tân thời ngày nay vốn là chiếc áo dài tứ thân được cải tiến. Ống tay dài thon, cổ áo hoặc được dựng cao, hoặc ôm tròn viền quanh cổ người mặc được cách điệu. Có nhiều cúc bấm chạy chéo nghiêng theo hai vạt áo phía trước. Lưng áo được may thắt lại tạo nên ‘eo”, làm hiện lên vẻ đẹp trẻ trung, yêu kiều của thiếu nữ. Áo dài tân thời được may bằng lụa đủ màu sắc: trắng, hồng, xanh lơ, tím,... lụa điểm hoa, điểm một số loài chim đủ màu sắc rực rỡ, lộng lẫy. Trong lễ hội, hình ảnh các thiếu nữ xuất hiện trong chiếc áo dài tân thời, người đi xem cảm thấy như đàn bướm sặc sỡ đang bay lượn giữa vườn hoa xuân. Thứ hai hằng tuần, trường em quy định giáo viên nữ mặc áo dài trắng, các giáo viên nam mặc vét, thắt ca-vát, đi giầy. Lễ chào cờ hàng tuần trở nên long trọng; sân trường như sáng bừng lên. Chiếc áo dài màu trắng điểm hoa, chiếc áo dài màu xanh da trời, màu tím Huế đã làm tôn vẻ đẹp thiếu nữ Việt Nam trang nhã, trinh trắng hơn, mềm mại, tươi đẹp hơn.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 4
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thướt tha, đắm thắm , hiền dịu trong tà áo dài Việt Nam luôn là hình ảnh để lại ấn tượng, nét đậm văn hóa rất riêng đối với bạn bè quốc tế. Chính vì thể, chiếc áo dài trở thành thứ trang phục đẹp đẽ, là trang phục truyền thống của Việt Nam ta. Không biết chiếc áo dài có từ bao giờ nhưng qua những giai đoạn lịch sử khác nhau. Áo dài của các bà, các mẹ ngày xưa thường là áo tứ thân hoặc áo năm thân. Áo tứ thân được kết bằng bốn mảnh vải, hai thân trước và hai thân sau. Áo năm thân, vạt áo trái phía trước được ghép thành hai thân vải, rộng gấp đôi vạt áo phía phải. Mặc áo tứ thân thường mặc bỏ buông; mặc áo năm thân thường buộc thắt vào nhau, làm cho dải thắt lưng thiên lí hiện ra lấp ló. Các cụ bà lên chùa lễ Phật vào ngày mồng một, ngày rằm thì mặc áo dài tứ thân màu nâu, màu đà bằng vải hay lụa tơ tằm. Ngày xưa, con gái Kinh Bắc đi hội chùa Dâu, đi hát Quan họ hay mặc áo dài tứ thân màu thẫm. Dần dần chiếc áo dài được cách tân, cải tiến dần trở thành những chiếc áo dài tân thời như ngày nay. Áo tứ thân được cải tiến, ống tay thon, cổ áo hoặc được dựng cao, hoặc ôm tròn viền quanh cổ người mặc được cách điệu. Có nhiều cúc bấm chạy chéo nghiêng theo hai vạt áo phía trước. Lưng áo được may thắt lại tạo nên ‘eo”, làm hiện lên vẻ đẹp trẻ trung, yêu kiều của thiếu nữ. Tà áo xẻ dài từ hông xuống tạo nên nét duyên dáng, thướt tha của người con gái Việt. Áo dài tân thời được may bằng lụa đủ màu sắc: trắng, hồng, xanh lơ, tím,... lụa điểm hoa, điểm một số loài chim đủ màu sắc rực rỡ, lộng lẫy tôn thêm vẻ đẹp cho chiếc áo. Chiếc áo dài khi mặc thường được được đi kèm với chiếc nón lá đội đầu càng tôn vẻ dịu dàng nữ tính của người phụ nữ Việt Nam. Chiếc áo dài là trang phục truyền thống đi vào trong thơ ca trở thành những áng thơ hay, cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà thơ: "Áo trắng đơn sơ mộng trắng trongHôm xưa em đến mắt như lòngNở bừng ánh sáng em đi đếnGót ngọc dồn hương bước tỏa hồng" Áo dài được dùng rộng rãi và rất phổ biến. Xưa, áo dài được người phụ nữ sử dụng phổ biến khi đi đồng, khi làm việc,… trở thành một trang phục thường ngày bởi sự tiện lợi ngay cả khi làm lụng trên đồng. Ngày nay cũng thế, chiếc áo dài không chỉ là trang phục lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn văn hóa dân tộc, là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam mà chiếc áo dài đã trở thành trang phục công sở như các ngành nghề: Tiếp viên hàng không, nữ giáo viên, nữ nhân viên ngân hàng, học sinh,... Ngoài ra ta có thể diện áo dài để đi dự tiệc, dạo phố vừa kín đáo, duyên dáng nhưng cũng không kém phần thời trang, thanh lịch. Dù hiện nay có nhiều mẫu thời trang ra đời rất đẹp và hiện đại nhưng vẫn không có mẫu trang phục nào thay thế được chiếc áo dài – trang phục truyền thống của người phụ nữ Việt Nam ta: Dịu dàng, duyên dáng nhưng cũng rất hợp mốt, hợp thời.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 5
Đã từ lâu, khi nhắc đến người phụ nữ Việt Nam, bạn bè quốc tế lại trầm trồ nói về chiếc áo dài. Quả thực, chiếc áo dài Việt Nam xứng đáng được coi là loại trang phục truyền thống thể hiện được vẻ đẹp và tâm hồn người phụ nữ Việt Nam. Gọi là áo dài là theo cấu tạo của áo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo của người phụ nữ rồi từ đáy lưng ong 2 thân thả bay xuống tận gót chân tạo nên những bước đi duyên dáng, mềm mại, uyển chuyển hơn cho người con gái. Tấm áo lụa mỏng thướt tha với nhiều màu sắc kín đáo trang nhã lướt trên đường phố trở thành tâm điểm chú ý và là bông hoa sáng tôn lên vẻ yêu kiều, thanh lịch cho con người và khung cảnh xung quanh. Chiếc quần may theo kiểu quần ống rộng bằng thứ vải đồng chất đồng màu hay sa tanh trắng nâng đỡ tà áo và làm tăng sự mềm mại thướt tha cho bộ trang phục mượt mà duyên dáng, gợi vẻ đằm thắm đáng yêu. Đã ngót một thế kỷ nay, cô nữ sinh trường Quốc học Huế trong trang phục áo dài trắng trinh nguyên như là biểu trưng cho vẻ đẹp thanh khiết cao quý của tâm hồn người thiếu nữ đất Việt. Để đến bây giờ trang phục ấy trở thành đồng phục của nhiều nữ sinh trong các trường phổ thông trung học như muốn nói với mọi người với du khách quốc tế về văn hoá và bản sắc dân tộc. Tà áo trắng bay bay trên đường phố, tiếng cười hồn nhiên trong trẻo của những cô cậu học sinh vương lại phía sau cùng mảnh hoa phượng ở giỏ xe rơi lác đác gợi cho người qua đường một cảm giác lâng lâng, bâng khuâng nhớ về thuở học trò trong vắt những kỷ niệm thân thương. Ngày Tết hay lễ hội quê hương, đám cưới hay những buổi lên chùa của các bà, các mẹ, các chị, chiếc áo dài nâu, hồng, đỏ là một cách biểu hiện tấm lòng thành kính gửi đến cửa thiền một lòng siêu thoát, tôn nghiêm. Chiếc áo dài trùm gối, khăn mỏ quạ chít khéo như hoa sen, tay nâng mâm lễ kính cẩn lên cửa chùa, miệng "mô phật di đà" hình ảnh ấy đã đi vào bức hoạ tranh dân gian Đông Hồ là một biểu tượng độc đáo của văn hoá Việt Nam. Ngày nay trong muôn vàn sự cách tân về trang phục, váy đầm, áo ngắn, áo thời trang chiếc áo dài Việt Nam vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc, mang theo phong cách và tâm hồn người Việt đến với năm châu và trở thành trang phục công sở ở nhiều nơi.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 6
Nhắc đến trang phục truyền thống của đất nước Việt Nam chúng ta người ta nghĩ ngay đến tà áo dài, áo dài thường được sử dụng ở các ngày lễ lớn, tà áo dài thướt tha, kín đáo nhiều màu sắc làm tôn thêm vẻ đẹp yêu kiều dịu dàng của người con gái Việt Nam, đã từ lâu áo dài được coi là trang phục truyền thống của đất nước Việt Nam. Từ xa xưa, dân ta đã thiết kế nhiều loại áo dài đa dạng và phong phú như áo dài truyền thống, áo dài tứ thân và áo dài giao lãnh, áo dài ngũ thân, áo dài truyền thống có cổ hình chữ V dài từ bốn đến năm centimet, làm nổi bật nên vẻ đẹp của chiếc cổ trắng ngần của người phụ nữ Việt Nam và cũng rất là duyên dáng, kín đáo, ngày này chiếc áo dài truyền thống được thiết kế thêm nhiều kiểu hơn, cổ chữ U, cổ trái tim, và cổ tròn làm đa dạng thêm tà áo dài truyền thống. Có năm phần chính trên một chiếc áo dài, phần cổ áo, phần thân áo, phần tà áo, phần tay áo, và phần quần, thân áo được tính từ cổ đến eo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo làm tôn thêm vẻ đẹp thon gọn của người phụ nữ, tà áo được chia làm hai phần tà áo tước và tà áo sau, được chia làm hai phần ngăn cách bởi hai bên hồng, tà áo thì phải dài hơn đầu gối, phần tay áo là phần từ vai đến qua cổ tay, có thể may chung với phần thân áo hoặc may bằng một loại vải riêng biệt, phần quần áo được may theo kiểu quần ống rộng, có thể là vải đồng màu với chiếc áo dài hay khác màu, thường thì quần có màu trắng làm tôn lên sự mềm mại, thướt tha cho bộ trang phục và thêm duyên dáng, đằm thắm đáng yêu của tà áo dài Việt Nam. Trong các ngày lễ hội truyền thống không thể thiếu trang phục áo dài, áo dài vừa thể hiện nét đẹp, nét duyên dáng của người phụ nữ mà còn thể hiện được nét đẹp truyền thống của dân tộc ta, trang phục áo dài còn xuất hiện trong trường hợp, trong các trường Trung học phổ thông thứ hai hàng tuần nhìn các em nữ sinh trong trang phục áo dài trắng đứng lên chào cờ đẹp và thiêng liêng làm sao, những giáo viên trong trang phục áo dài đứng trên bục giảng toát lên vẻ đẹp duyên dáng, thanh lịch nhưng không kém phần thanh tao, trang nghiêm của giáo viên. Trong các buổi văn nghệ, hay các cuộc thi lớn không thể thiếu những hình ảnh chiếc áo dài, khi các hoa hậu của đất nước ta đi thi đấu ở đấu trường quốc tế, trong hành trang không thể thiếu tà áo dài thướt tha, mang nét đẹp, truyền thống của dân tộc ta giới thiệu với bạn bè quốc tế. Khi giặt áo dài phải giặt thật nhẹ tay và không được phơi ở thời tiết nắng quá lâu, ủi ở nhiệt độ vừa phải, có như thế mới giữ được áo dài luôn mới. Áo dài là nét đẹp là biểu tượng của nước Việt Nam, chúng ta hãy giữ gìn để áo dài mãi là trang phục truyền thống của mỗi người Việt Nam, khi nhắc đến tà áo dài chúng ta nghĩ ngay đến nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta hãy phát huy để bản sắc ấy ngày càng tươi đẹp hơn.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 7
Trên trái đất này, mỗi quốc gia đều có một trang phục truyền thống của riêng mình.Việt Nam ta cũng vậy, tà áo dài của chúng ta đã là trang phục cổ truyền có từ thời xa xưa cho đến tận ngày nay. Cho dù đã trải qua không ít thăng trầm của lịch sử nhưng giá trị của nó vẫn rất nguyên vẹn. Nó đã tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Ngày nay, tuy không ít những mẫu mã thời trang, nhưng chiếc áo dài vẫn giữ một vị trí rất quan trọng không những chỉ trong làng thời trang trong nước mà ngay cả trên thế giới. Nó đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể và đã trở thành một biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam hiền hòa mà nhân hậu. Nguồn gốc của chiếc áo dài đã có từ rất xa xưa, không ai biết thời điểm chính xác là từ khi nào, chỉ có thể biết rằng nó được bắt nguồn từ chiếc áo tứ thân vốn đã có từ lâu đời của dân tộc ta. Qua sử liệu, qua văn chương, qua các loại hình nghệ thuật : điêu khắc, hội họa, sân khấu dân gian, chúng ta đã trông thấy hình ảnh của chiếc áo dài qua các giai đoạn phát triển của người dân Việt Nam. Chiếc áo dài phù hợp với mọi lứa tuổi, và mọi tầng lớp của xã hội. Từ người giàu cho đến người nghèo, từ trẻ con cho đến các cụ già đều có thể mặc áo dài. Đối với mỗi độ tuổi, áo dài lại có các cách thức và kiểu may phù hợp, giúp người mặc nó cảm thấy tự tin và xinh đẹp hơn. Ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp thấy những em bé gái xinh xắn, và đáng yêu hơn trong bộ áo dài bằng gấm, có những màu sắc đa dạng như : hồng, đỏ, xanh… cùng những chiếc quần màu trắng hoặc cùng màu áo, ở trong các cuộc nghi lễ sang trọng…trông chúng thật ngộ nghĩnh và dễ thương. Còn đối với các thiếu nữ thì tà áo dài lại càng tôn lên sự cân đối của sự uyển chuyển vốn có của mình. Họ thướt tha trong chiếc áo mềm mại và chiếc quần trắng càng làm tôn lên vẻ tinh khiết và sự trắng trong. Áo dài may bằng nhiều thứ vải khác nhau: gấm Thái Tuấn, lụa tơ tằm, nhung, lụa,…Các kiểu may rất đa dạng và cũng có thể cách điệu như cổ ba phân hay một phần, cổ thuyền, cổ tròn… tuy không màu mè nhưng vẫn rất trẻ trung, thanh tú. Còn với những cô, những bác trung niên thì tà áo dài còn giúp họ thấy sự đứng đắn, lịch lãm và trang trọng. Nhưng với các cụ có tuổi thì có thể mặc áo dài màu nâu hay bằng nhung, lụa, đi kèm là quần đen sẽ cảm thấy lịch sự và trang nhã không kém. Tà áo dài càng ngày càng có nhiều kiểu cách để ta lựa chọn nhưng dù thế nào thì nó vẫn giữ được vẻ đẹp vốn có của mình. Tà áo dài là niềm hãnh diện của người Việt Nam không chỉ ở đất nước mình mà còn là khắp năm châu bốn biển. Giờ đây, mỗi chúng ta phải biết giữ gìn, bảo vệ nó như di sản văn hóa của dân tộc mình. Chắc chắn, chiếc áo dài mãi mãi đẹp và trường tồn theo thời gian.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 8
Mỗi đất nước đều có trang phục truyền thống biểu trưng cho văn hóa của quốc gia mình. Nếu Nhật Bản nổi tiếng với Kimono, Hàn Quốc được biết đến với Hanbok thì Việt Nam lại tự hào với Áo dài. Áo dài không chỉ là trang phục truyền thống mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam. Ngược dòng thời gian để tìm về với nguồn cội, chiếc áo dài đầu tiên với hai tà áo thướt tha bay lượn đã xuất hiện từ trên ba ngàn năm trước. Đồng hành cùng bước đi của lịch sử, áo dài đã trải qua nhiều kiểu dáng khác nhau. Kiểu sơ khai là áo giao lành, được mặc phủ ngoài yếm đào, váy lụa đen, thắt lưng buông thả. Nhưng để tiện cho việc làm ăn, việc đồng áng, áo giao lành được thu gọn thành áo tứ thân. Rồi từ áo tứ thân lại chuyển thành áo dài cổ kính, ôm sát thân, hai vạt trước được tự do tung bay hài hòa giữa cũ và mới. Trải qua bao năm tháng, áo dài dần được thay đổi và hoàn thiện hơn để phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ và cuộc sống năng động của người phụ nữ ngày nay. Áo dài thường được mặc với quần thụng thay cho váy đen ngày xưa. Quần áo dài thường được may với vải mềm, rũ. Áo dài được may với nhiều chất liệu khác nhau như: nhung, voan, lụa, gấm... với nhiều màu sắc phong phú. Họa tiết trên áo có thể là hoa, con vật như chim phượng hoàng, bướm... và nhiều hoa văn mang đậm bản sắc dân tộc. Với sự sáng tạo không ngừng của các nhà thiết kế, áo dài có thể mang nhiều hình dáng khác nhau. Chất liệu làm ra một chiếc áo dài đòi hỏi người mặc cần biết cách bảo quản. Khi giặt áo, chỉ giặt bằng tay, giũ cho áo ráo nước và phơi ngoài nắng nhẹ, tránh nắng gắt vì áo dễ bạc màu. Dùng bàn ủi ủi với nhiệt độ thích hợp tránh quá nóng làm cháy áo. Mặc xong nên giặt áo ngay, treo lên bằng móc áo, nếu gấp phải gấp cẩn thận tránh làm gãy cổ áo. Trong cuộc sống hiện đại, áo dài không chỉ là trang phục lễ hội truyền thống, là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam mà còn trở thành trang phục công sở cho nhiều ngành nghề như tiếp viên hàng không, nữ giáo viên, nữ nhân viên ngân hàng,… Áo dài trắng là biểu tượng tinh khôi của nữ sinh Việt Nam. Áo dài đỏ cung vui trong ngày lễ ăn hỏi, thành hôn của cặp trai tài gái sắc. Mỗi dịp xuân về, nhiều gia đình nô nức chuẩn bị áo dài cho tất cả các thành viên để cùng đón một cái Tết sum vầy, ý nghĩa. Không chỉ như vậy, ở các cuộc thi sắc đẹp trong nước và quốc tế, các thí sinh đều tự chọn cho mình một chiếc áo dài để dự thi. Bạn bè thế giới biết đến vẻ đẹp Việt Nam gắn liền với chiếc áo dài thướt tha, thanh lịch. Năm tháng qua đi, nhiều trang phục hiện đại dần phổ biến hơn. Nhưng áo dài vẫn lưu giữ trọn vẹn vẻ đẹp truyền thống dân tộc Việt Nam. Áo dài cùng nón lá chính là nét duyên dáng Việt. Nhìn thấy hình ảnh áo dài, bao trái tim xa quê hương vẫn thổn thức nghĩ về Việt Nam yêu thương xa nhớ.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 9
Chiếc áo dài xuất hiện trong đời sống của người Việt từ lâu đời. Nó mang đậm bản sắc dân tộc và tượng trưng cho vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng của người phụ nữ. Bạn bè quốc tế cũng rất yêu thích và thán phục vẻ đẹp lạ kỳ, đầy hấp dẫn của chiếc áo dài Việt Nam. Ngược dòng thời gian, không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có tài liệu ghi nhận. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài nghìn năm đã thấy thấp thoáng bóng dáng của tà áo dài, tranh khắc trang phục cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Nét đặc trưng mạnh mẽ nhất của áo dài chính là hai tà áo, dù trải qua bao nhiêu ngàn năm với bao nhiêu biến thể, nét duy nhất vẫn nhận ra được trang phục truyền thống của người Việt không bị lai tạp với các nền văn hóa khác chính là hai tà áo dài. Có nhiều người cho rằng áo dài Việt là một bản khác của sườn xám của phụ nữ Trung Quốc, nhưng chiếc sườn xám chỉ xuất hiện vào khoảng 1920, còn tà áo dài Việt đã có từ rất lâu trước đó. Điều đó chứng tỏ áo dài là một nét văn hóa truyền thống của riêng Việt Nam, là của người Việt Nam. Áo dài cấu tạo gồm ba phần: cổ áo, thân áo và tay áo. Cổ áo cổ điển cao khoảng 4 đến 5cm, khoét hình chữ V trước cổ. Kiểu cổ áo này càng làm tôn lên vẻ đẹp của chiếc cổ cao ba ngấn trắng ngần thanh tú của người phụ nữ. Ngày nay, kiểu cổ áo dài được biến tấu khá đa dạng như kiểu trái tim, cổ tròn, cổ chữ U,… Thân áo được tính từ cổ xuống phần eo. Thân áo dài được may vừa vặn, ôm sát thân của người mặc, ở phần eo được chít ben (hai ben ở thân sau và hai ben ở thân trước). Cúc áo dài thường là cúc bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông. Ngày mới ra đời áo dài có năm khuy ở năm vị trí cố định vừa giữ cho thân áo ngay ngắn vừa tượng trưng cho năm đạo làm người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Từ eo, thân áo dài được xẻ làm hai tà, vị trí xẻ tà ở hai bên hông. Áo dài có hai tà: tà trước và tà sau và bắt buộc dài qua gối. Tay áo được tính từ vai, may ôm sát cánh tay, không có cầu vai, may liền, dài đến qua khỏi cổ tay một tí. Chiếc áo dài được mặc với quần thay cho chiếc váy đen ngày xưa. Quần áo dài được may chấm gót chân, ống quần rộng. Quần áo dài thường được may với vải mềm, rũ. Màu sắc thông dụng nhất là màu đen. Nhưng xu thế thời trang hiện nay thì chiếc quần áo dài có màu đi tông với màu của áo. Có nhiều loại vải dùng để may áo dài như lụa tơ tằm, lụa tổng hợp, gấm, nhung…nhưng tính chất chung là phải mỏng, nhẹ thì áo mới đẹp. Các bà và các chị ở độ tuổi trung niên thích may áo dài bằng nhung, gấm cho sang trọng để mặc trong những dịp cưới hỏi, lễ tết. Còn thanh nữ và thiếu nữ lại thích những chất liệu nhẹ nhàng hơn và màu sắc tươi mát hơn. Chiếc áo dài đi đôi với chiếc quần lụa hay sa tanh, tạo nên vẻ đẹp quyến rũ, sang trọng. Giờ đây chiếc áo dài phụ nữ đã trở thành một tác phẩm mĩ thuật tuyệt vời. Đó là niềm tự hào của y phục dân tộc. Năm 1970, tại hội chợ quốc tế O-sa-ka (Nhật Bản) chiếc áo dài
Thuyết minh về áo dài - mẫu 9
của phụ nữ Việt nam đã đoạt huy chương vàng về y phục dân tộc. Khách quốc tế trầm trồ và ngây ngất khi ngắm nhìn những vạt áo dài lả lơi như những cánh bướm trước gió. Nó vừa kín đáo, vừa e ấp, vừa khêu gợi được những nét đẹp kiều diễm, mảnh mai của người phụ nữ Việt Nam . Chiếc áo dài ngoài vẻ đẹp văn hoá còn có một ý nghĩa đạo lí. Người xưa dạy rằng: Hai tà áo (hai vạt) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu. Cái yếm che trước ngực nằm giữa những chiếc áo ngoài tượng trưng cho hình ảnh mẹ ôm ấp con vào lòng. Năm khuy cài nằm cân xứng trên năm vị trí cố định, giữ cho chiếc áo ngay thẳng, kín đáo tượng trưng cho năm đạo làm người là: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Khi mặc áo dài tứ thân người ta thường buộc hai vạt trước lại với nhau cho chiếc áo cân đối tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng chung thuỷ bên nhau. Ngày nay có nhiều kiểu áo thời trang của nước ngoài du nhập vào nước ta, nhưng trang phục truyền thống, chiếc áo dài dân tộc vẫn là một biểu tượng đẹp của người phụ nữ Việt Nam . Chiếc áo dài đã trở thành quốc phục. Đó là tâm hồn, cốt cách của người Việt gửi vào vẻ tha thướt, quyến rũ của chiếc áo.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 10
Tục ngữ Việt Nam có câu: Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Suy ngẫm nhiều, chúng ta thấy đúng là y phục góp phần quan trọng vào vẻ đẹp của mỗi con người, góp phần quan trọng vào sự thướt tha của phụ nữ. Áo dài Việt Nam là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, che thân từ cổ đến đầu gối hoặc quá đầu gối, dành cho cả nam lẫn nữ. Áo dài thường được mặc vào các dịp lễ hội trang trọng, hoặc nữ sinh mặc khi đi học. Không ai biết áo dài nguyên thủy có từ lúc nào và hình dáng ra sao, nhưng theo những hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ cách đây vài nghìn năm, đã có hình phụ nữ mặc trang phục áo dài với hai tà xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết: Theo sách sử chép thì người Văn Lang xưa mặc áo dài cài nút về bên tả. Từ đó suy rằng trước thời Băc thuộc người Việt gài áo về tay trái, sau bắt chước người Trung Quốc, mới mặc áo gài về bên phải. Theo từng thời kì lịch sử mà chiếc áo dài có những thay đổi về chi tiết. Kiểu sơ khai của áo dài là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì không buộc hai vạt trước lại. Sau để tiện làm việc, áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân, gồm có hai vạt trước và hai vạt sau. Áo tứ thân hợp với phụ nữ thôn quê quanh năm bươn chải, lao động đồng áng. Sau đó, áo ngũ thân ra đời, phù hợp cho phụ nữ tỉnh thành với sự biến đổi vạt nửa trước bên phải của áo tứ thân thu nhỏ, thành một vạt con. Vạt thứ năm nhỏ hơn, nằm dưới một vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình, không để hở áo lót, mỗi vạt có hai thân nối sống, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu. Vạt thứ năm nằm dưới vạt trước, khép kín nhờ năm chiếc khuy, tượng trưng cho "ngũ thường" của Nho giáo và "ngũ hành" của triết học Đông Phương. Đến thể kỉ XVIII, một số người Minh hương bất mãn với nhà Thanh, sang Việt nam lập nghiệp, mang theo một lối sắc phục của người Hoa. Để tạo bản sắc riêng cho dân tộc, Vũ Nương Nguyễn Phúc Khoát (1973 – 1965) đã ban hành một sắc dụ về ăn mặc cho toàn dân xứ Đàng Trong, đây là bước định hình quan rọng cho áo dài biến thành quốc phục Việt Nam: "Áo thì cổ đứng, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện, hai bên nách trở xuống phải khâu kín, không được xẻ mở...". Nhưng có ý kiến cho rằng áo ngũ thân xuất hiện trong thời vua Gia Long (1802-1819). Năm Minh Mạng triều đình có chiếu chỉ cấm mặc váy mà phải mặc quần hai ống (vì áo ngũ thân phải mặc với quần hai ống, không thể mặc với váy) nên có câu ca dao: "Tháng tám có chiếu vua ra Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng" Những năm đầu thế kỉ này tà áo dài theo hai khuynh hướng: Phối hợp với y phục Phương Tây, các nhà tạo mẫu cho ra dời những kiểu áo dài có dây kéo sau lưng. Những kiểu cổ áo trái tim, kiểu cổ truyền thống. Khoảng 1930, họa sĩ Cát Tường sáng tạo ra kiểu áo dài mới bằng cách biến tứ thân, ngũ thân thành áo hai tà. Thân trên áo dược may sát, ôm theo những đường cong của cơ thể tạo ra vẻ yêu kiều, gợi cảm rất độc đáo. Hàng nút cũng được chuyển dịch, cổ áo cũng nhiều thay đổi, và phong phú hơn, mặc với quần " sa tanh" trắng... gọi là áo dài "Le Mur", nhưng có đôi người đưa ý kiến phản bá
Thuyết minh về áo dài - mẫu 10
c vì quá "lai căng". Vũ Trọng Phụng cũng có thái độ trong tác phẩm Số đỏ. Một khuynh hướng khác của các nhà tạo mẫu là khuynh hướng trở về nguồn. các nhà thiết kế dùng những hoa văn hình chim hạc trên áo dùng dể thiết kế ở thân trước áo dài, cổ áo dài hoặc dùng những hoa văn trên vải thổ cẩm để làm viền, những chiếc ao dài vừa duyên dáng vừa hiện đại vừa cổ điển, rang phục kèm theo áo dài cũng thay đổi theo thời gian như quần màu đen, trắng hòa cùng màu với áo, khăn đóng ngày nay thay thế bằng vương miện dùng trong ngày cưới của cô dâu. Năm 1934, một hoạc sĩ khác là Lê Phổ đã bỏ bớt giới nét lai căng và đưa vào những nét đẹp truyền thống của áo dài dân tộc, dược nữ giới hoan nghênh nhiệt liệt. Sau Cách mạng tháng Tám, đối mặt với giặc đói, giặc dốt, Bác Hồ vận động nhân dân bỏ thói quen mặc áo dài. Ngày hòa bình thống nhất, chiếc áo dài lại được cả nước ca ngợi và sử dụng, nhờ sự khéo léo của những nhà thiết kế mà chiếc áo dài Việt Nam vừa tôn vẻ đẹp dịu dàng thể hiện nét kín đáo thướt tha của người phụ nữ Việt Nam. Vì sao vậy? Phần trên thường kín cổ, thể hiện vẻ kín đóa nhưng cũng làm hiện lên bờ vai và đôi tay trắng thon dài của cô gái rất đẹp. Nhờ cắt may khéo léo, phần trên thể hiện nét đẹp khỏe mạnh gọn gàng, thùy mị của cô gái Việt Nam, đồng thời hai tà áo lúc mở lúc khép, quấn quýt trong giá ạo vẻ thướt tha dịu dàng của chiếc áo dài. Nét đẹp đó làm say mê bao văn nhân, thi sĩ Việt Nam, say mê bao khách nước ngoài khi giao dịch tham quan du lịch Việt Nam. Nhà thơ Nguyên Sa đã viết nhiều bài thơ về áo dài Việt nam như: "Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng Thơ anh viết vẫn nguyên màu lụa trắng"    Cố nhạc sĩ Văn Cao và Phạm Duy cũng đưa hình ảnh áo dài Việt Nam vào trong bài "Bến xuân" của mình "Tà áo em rung trong giấc mộng ngập ngừng ngoài Bến Xuân." Đến thể kỉ XXI này, tuy xã hội Việt Nam đã theo nhiều trào lưu y phục phương Tây nhưng người ta vẫn không quên giữ gìn và phát huy vẻ đẹp của chiếc áo dài. Trong vài thệp niên gần đây, tà áo dài đã là đồng phục quy định của nhiều công sở và trường học ngay cả dịp quan trọng như ngày tết , ngày lễ, ngày cưới, người ta cũng dùng áo dài làm trang phục cho cô dâu và phụ nữ. Với những loại vải quý phái, chất liệu đặc biệt như tơ tằm gấm, lụa và vẽ màu sắc lộng lẫy hoặc nhu hòa, chiếc áo dài đã giúp cho người phụ nữ Việt Nam tăng thêm vẻ trang trọng và tươi đẹp. Các nữ sinh mới lớn cắp sách đến trường trong tà áo dài trắng tăng thêm nét yểu điệu, tinh khiết, trong sáng và vô tư như những thiên thần.    Áo dài Việt nam là một trong những nét đẹp truyền thống của người Việt Nam. Người nữ sinh trung học ngày nay nên tự hào khi được mặc chiếc áo này! Bảo vệ nét đẹp áo dài Việt Nam là bảo vệ văn hóa và phong tục của người Việt Nam, nó cũng là nguồn đề tài vô tận cho các thi nhân nghệ sĩ Việt Nam. Thuyết minh về áo dài - mẫu 11 Tục ngữ Việt Nam có câu: Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Suy ngẫm nhiều, chúng ta thấy đúng là y phục góp phần quan tr
Thuyết minh về áo dài - mẫu 10
ọng vào vẻ đẹp của mỗi con người, góp phần quan trọng vào sự thướt tha của phụ nữ.    Áo dài Việt Nam là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, che thân từ cổ đến đầu gối hoặc quá đầu gối, dành cho cả nam lẫn nữ. Áo dài thường được mặc vào các dịp lễ hội trang trọng, hoặc nữ sinh mặc khi đi học. Không ai biết áo dài nguyên thủy có từ lúc nào và hình dáng ra sao, nhưng theo những hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ cách đây vài nghìn năm, đã có hình phụ nữ mặc trang phục áo dài với hai tà xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết: Theo sách sử chép thì người Văn Lang xưa mặc áo dài cài nút về bên tả. Từ đó suy rằng trước thời Băc thuộc người Việt gài áo về tay trái, sau bắt chước người Trung Quốc, mới mặc áo gài về bên phải.    Theo từng thời kì lịch sử mà chiếc áo dài có những thay đổi về chi tiết. Kiểu sơ khai của áo dài là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì không buộc hai vạt trước lại. Sau để tiện làm việc, áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân, gồm có hai vạt trước và hai vạt sau. Áo tứ thân hợp với phụ nữ thôn quê quanh năm bươn chải, lao động đồng áng. Sau đó, áo ngũ thân ra đời, phù hợp cho phụ nữ tỉnh thành với sự biến đổi vạt nửa trước bên phải của áo tứ thân thu nhỏ, thành một vạt con. Vạt thứ năm nhỏ hơn, nằm dưới một vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình, không để hở áo lót, mỗi vạt có hai thân nối sống, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu. Vạt thứ năm nằm dưới vạt trước, khép kín nhờ năm chiếc khuy, tượng trưng cho "ngũ thường" của Nho giáo và "ngũ hành" của triết học Đông Phương. Đến thể kỉ XVIII, một số người Minh hương bất mãn với nhà Thanh, sang Việt nam lập nghiệp, mang theo một lối sắc phục của người Hoa. Để tạo bản sắc riêng cho dân tộc, Vũ Nương Nguyễn Phúc Khoát (1973 – 1965) đã ban hành một sắc dụ về ăn mặc cho toàn dân xứ Đàng Trong, đây là bước định hình quan rọng cho áo dài biến thành quốc phục Việt Nam: "Áo thì cổ đứng, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện, hai bên nách trở xuống phải khâu kín, không được xẻ mở...".    Nhưng có ý kiến cho rằng áo ngũ thân xuất hiện trong thời vua Gia Long (1802-1819). Năm Minh Mạng triều đình có chiếu chỉ cấm mặc váy mà phải mặc quần hai ống (vì áo ngũ thân phải mặc với quần hai ống, không thể mặc với váy) nên có câu ca dao: “Tháng tám có chiếu vua ra Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng”    Những năm đầu thế kỉ này tà áo dài theo hai khuynh hướng: Phối hợp với y phục Phương Tây, các nhà tạo mẫu cho ra dời những kiểu áo dài có dây kéo sau lưng. Những kiểu cổ áo trái tim, kiểu cổ truyền thống. Khoảng 1930, họa sĩ Cát Tường sáng tạo ra kiểu áo dài mới bằng cách biến tứ thân, ngũ thân thành áo hai tà. Thân trên áo dược may sát, ôm theo những đường cong của cơ thể tạo ra vẻ yêu kiều, gợi cảm rất độc đáo. Hàng nút cũng được chuyển dịch, cổ áo cũng nhiều thay đổi, và phong phú hơn, mặc với quần " sa tanh" trắng... gọi là áo dài "Le Mur", nhưng có đôi người đưa ý kiến phản bác vì quá "lai căng". Vũ Trọng Phụng cũng có thái độ trong tác phẩm Số đỏ. Một khuynh hướng khác của các nhà t
Thuyết minh về áo dài - mẫu 10
ạo mẫu là khuynh hướng trở về nguồn. các nhà thiết kế dùng những hoa văn hình chim hạc trên áo dùng dể thiết kế ở thân trước áo dài, cổ áo dài hoặc dùng những hoa văn trên vải thổ cẩm để làm viền, những chiếc ao dài vừa duyên dáng vừa hiện đại vừa cổ điển, rang phục kèm theo áo dài cũng thay đổi theo thời gian như quần màu đen, trắng hòa cùng màu với áo, khăn đóng ngày nay thay thế bằng vương miện dùng trong ngày cưới của cô dâu.    Năm 1934, một hoạc sĩ khác là Lê Phổ đã bỏ bớt giới nét lai căng và đưa vào những nét đẹp truyền thống của áo dài dân tộc, dược nữ giới hoan nghênh nhiệt liệt.    Sau Cách mạng tháng Tám, đối mặt với giặc đói, giặc dốt, Bác Hồ vận động nhân dân bỏ thói quen mặc áo dài. Ngày hòa bình thống nhất, chiếc áo dài lại được cả nước ca ngợi và sử dụng, nhờ sự khéo léo của những nhà thiết kế mà chiếc áo dài Việt Nam vừa tôn vẻ đẹp dịu dàng thể hiện nét kín đáo thướt tha của người phụ nữ Việt Nam. Vì sao vậy? Phần trên thường kín cổ, thể hiện vẻ kín đóa nhưng cũng làm hiện lên bờ vai và đôi tay trắng thon dài của cô gái rất đẹp. Nhờ cắt may khéo léo, phần trên thể hiện nét đẹp khỏe mạnh gọn gàng, thùy mị của cô gái Việt Nam, đồng thời hai tà áo lúc mở lúc khép, quấn quýt trong giá ạo vẻ thướt tha dịu dàng của chiếc áo dài. Nét đẹp đó làm say mê bao văn nhân, thi sĩ Việt Nam, say mê bao khách nước ngoài khi giao dịch tham quan du lịch Việt Nam. Nhà thơ Nguyên Sa đã viết nhiều bài thơ về áo dài Việt nam như: “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng Thơ anh viết vẫn nguyên màu lụa trắng”    Cố nhạc sĩ Văn Cao và Phạm Duy cũng đưa hình ảnh áo dài Việt Nam vào trong bài "Bến xuân" của mình "Tà áo em rung trong giấc mộng ngập ngừng ngoài Bến Xuân." Đến thể kỉ XXI này, tuy xã hội Việt Nam đã theo nhiều trào lưu y phục phương Tây nhưng người ta vẫn không quên giữ gìn và phát huy vẻ đẹp của chiếc áo dài.Trong vài thệp niên gần đây, tà áo dài đã là đồng phục quy định của nhiều công sở và trường học ngay cả dịp quan trọng như ngày tết , ngày lễ, ngày cưới, người ta cũng dùng áo dài làm trang phục cho cô dâu và phụ nữ. Với những loại vải quý phái, chất liệu đặc biệt như tơ tằm gấm, lụa và vẽ màu sắc lộng lẫy hoặc nhu hòa, chiếc áo dài đã giúp cho người phụ nữ Việt Nam tăng thêm vẻ trang trọng và tươi đẹp. Các nữ sinh mới lớn cắp sách đến trường trong tà áo dài trắng tăng thêm nét yểu điệu, tinh khiết, trong sáng và vô tư như những thiên thần.    Áo dài Việt nam là một trong những nét đẹp truyền thống của người Việt Nam. Người nữ sinh trung học ngày nay nên tự hào khi được mặc chiếc áo này! Bảo vệ nét đẹp áo dài Việt Nam là bảo vệ văn hóa và phong tục của người Việt Nam, nó cũng là nguồn đề tài vô tận cho các thi nhân nghệ sĩ Việt Nam. Thuyết minh về áo dài - mẫu 12 Nếu như Hàn Quốc có Hanbok, Nhật Bản có Kimono, Sườn xám ở Thượng Hải thì Việt Nam có áo dài. Áo dài Việt Nam là trang phục truyền thống của Việt Nam, tượng trưng cho nét đẹp hình thể của người phụ nữ. Chẳng ai nhớ chính xác, áo
Thuyết minh về áo dài - mẫu 10
dài có từ đâu và có từ khi nào. Chỉ biết rằng, ở Việt Nam, áo dài được diện đầu tiên dưới thời vua Nguyễn Phúc Khoát. Thời đó, áo dài rất phổ biến và gần như là trang phục thường ngày của người phụ nữ. Ban đầu, áo dài là áo thục lĩnh, về sau thì càng được thiết kế với nhiều kiểu dáng khác nhau. Tên gọi cũng dần được thay đổi. Từ áo tứ thân, áo ngũ thân đến những cái tên như áo dài Lemur… Nhưng dù có thay đổi như thế nào, trang phục áo dài vẫn thể hiện sự kín đáo, khoe trọn nét đẹp của người phụ nữ Á Đông. Áo dài sẽ được cấu tạo từ hai phần, phần thân lá và quần. Thân áo được xẻ tà bắt đầu từ phần eo trở xuống. Quần được may rất rộng và phải dài che hết phần chân. Thông thường, áo dài sẽ được may theo số đo riêng của mỗi người, nhằm đảm bảo phần áo bó trọn hình thể người mặc. Những bước đi thướt tha, uyển chuyển của người con gái thong dong trên những chặng đường dài. Ngày nay, khi thời trang ngày càng phát triển, các nhà thiết kế không ngần ngại thể hiện nhiều mẫu thiết kế. Người ta sử dụng vải lụa, vải sa tanh, vải nhung để may áo. Tùy thuộc vào từng độ tuổi mà các thiết kế được thay đổi sao  cho phù hợp. Ở thời điểm hiện tại, áo dài cũng đã có nhiều sự thay đổi để phù hợp hơn với thời cuộc. Đó là những chiếc áo dài cách tân, cổ khoét tròn, quần được thay bằng váy… Tất cả những thiết kế đó đều mới mẻ và vẫn phù hợp thuần phong mỹ tục. Áo dài thường được chị em diện vào nhiều thời điểm khác nhau. Nữ sinh cấp 3 ở hầu hết các thành phố đều lựa chọn những chiếc áo dài trắng trinh nguyên để mặc. Đó không chỉ là một bộ trang phục mà còn đại diện cho sự trong trắng, thanh khiết của các cô bé. Áo dài còn trở thành biểu tượng của nhiều ngành dịch vụ ở nước ta, điển hình là hàng không. Hãng hàng không Việt Nam airline, hàng không quốc gia đã lựa chọn áo dài làm đồng phục. Điều này góp phần truyền bá nền văn hóa Việt Nam ra với bạn bè thế giới. Hòa chung không khí ngày tết tươi vui, náo nhiệt, những tà áo dài tung bay khắp nơi. Áo dài có nhiều họa tiết, phù hợp cho cả mẹ và bé. Thẩ đẹp biết bao khi một gia đình cùng diện áo dài. Hiện nay, các cơ quan trong bộ máy nhà nước cũng đang đưa trang phục áo dài vào để sử dụng. Đây cũng là một trong những biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của tà áo dài. Giữa vô vàn trang phục với nhiều kiểu dáng mẫu mã khác nhau, áo dài vẫn giữ được vị trí nhất định. Thầm cảm ơn cha ông ta đã có những phát minh hay để lại cho thế hệ trẻ như bây giờ.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 11
Tục ngữ Việt Nam có câu: Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Suy ngẫm nhiều, chúng ta thấy đúng là y phục góp phần quan trọng vào vẻ đẹp của mỗi con người, góp phần quan trọng vào sự thướt tha của phụ nữ. Áo dài Việt Nam là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, che thân từ cổ đến đầu gối hoặc quá đầu gối, dành cho cả nam lẫn nữ. Áo dài thường được mặc vào các dịp lễ hội trang trọng, hoặc nữ sinh mặc khi đi học. Không ai biết áo dài nguyên thủy có từ lúc nào và hình dáng ra sao, nhưng theo những hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ cách đây vài nghìn năm, đã có hình phụ nữ mặc trang phục áo dài với hai tà xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết: Theo sách sử chép thì người Văn Lang xưa mặc áo dài cài nút về bên tả. Từ đó suy rằng trước thời Băc thuộc người Việt gài áo về tay trái, sau bắt chước người Trung Quốc, mới mặc áo gài về bên phải. Theo từng thời kì lịch sử mà chiếc áo dài có những thay đổi về chi tiết. Kiểu sơ khai của áo dài là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì không buộc hai vạt trước lại. Sau để tiện làm việc, áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân, gồm có hai vạt trước và hai vạt sau. Áo tứ thân hợp với phụ nữ thôn quê quanh năm bươn chải, lao động đồng áng. Sau đó, áo ngũ thân ra đời, phù hợp cho phụ nữ tỉnh thành với sự biến đổi vạt nửa trước bên phải của áo tứ thân thu nhỏ, thành một vạt con. Vạt thứ năm nhỏ hơn, nằm dưới một vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình, không để hở áo lót, mỗi vạt có hai thân nối sống, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu. Vạt thứ năm nằm dưới vạt trước, khép kín nhờ năm chiếc khuy, tượng trưng cho "ngũ thường" của Nho giáo và "ngũ hành" của triết học Đông Phương. Đến thể kỉ XVIII, một số người Minh hương bất mãn với nhà Thanh, sang Việt nam lập nghiệp, mang theo một lối sắc phục của người Hoa. Để tạo bản sắc riêng cho dân tộc, Vũ Nương Nguyễn Phúc Khoát (1973 – 1965) đã ban hành một sắc dụ về ăn mặc cho toàn dân xứ Đàng Trong, đây là bước định hình quan rọng cho áo dài biến thành quốc phục Việt Nam: "Áo thì cổ đứng, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện, hai bên nách trở xuống phải khâu kín, không được xẻ mở...". Nhưng có ý kiến cho rằng áo ngũ thân xuất hiện trong thời vua Gia Long (1802-1819). Năm Minh Mạng triều đình có chiếu chỉ cấm mặc váy mà phải mặc quần hai ống (vì áo ngũ thân phải mặc với quần hai ống, không thể mặc với váy) nên có câu ca dao: “Tháng tám có chiếu vua ra Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng” Những năm đầu thế kỉ này tà áo dài theo hai khuynh hướng: Phối hợp với y phục Phương Tây, các nhà tạo mẫu cho ra dời những kiểu áo dài có dây kéo sau lưng. Những kiểu cổ áo trái tim, kiểu cổ truyền thống. Khoảng 1930, họa sĩ Cát Tường sáng tạo ra kiểu áo dài mới bằng cách biến tứ thân, ngũ thân thành áo hai tà. Thân trên áo dược may sát, ôm theo những đường cong của cơ thể tạo ra vẻ yêu kiều, gợi cảm rất độc đáo. Hàng nút cũng được chuyển dịch, cổ áo cũng nhiều thay đổi, và phong phú hơn, mặc với quần " sa tanh" trắng... gọi là áo dài "Le Mur", nhưng có đôi người đưa ý kiến phản bá
Thuyết minh về áo dài - mẫu 11
c vì quá "lai căng". Vũ Trọng Phụng cũng có thái độ trong tác phẩm Số đỏ. Một khuynh hướng khác của các nhà tạo mẫu là khuynh hướng trở về nguồn. các nhà thiết kế dùng những hoa văn hình chim hạc trên áo dùng dể thiết kế ở thân trước áo dài, cổ áo dài hoặc dùng những hoa văn trên vải thổ cẩm để làm viền, những chiếc ao dài vừa duyên dáng vừa hiện đại vừa cổ điển, rang phục kèm theo áo dài cũng thay đổi theo thời gian như quần màu đen, trắng hòa cùng màu với áo, khăn đóng ngày nay thay thế bằng vương miện dùng trong ngày cưới của cô dâu. Năm 1934, một hoạc sĩ khác là Lê Phổ đã bỏ bớt giới nét lai căng và đưa vào những nét đẹp truyền thống của áo dài dân tộc, dược nữ giới hoan nghênh nhiệt liệt. Sau Cách mạng tháng Tám, đối mặt với giặc đói, giặc dốt, Bác Hồ vận động nhân dân bỏ thói quen mặc áo dài. Ngày hòa bình thống nhất, chiếc áo dài lại được cả nước ca ngợi và sử dụng, nhờ sự khéo léo của những nhà thiết kế mà chiếc áo dài Việt Nam vừa tôn vẻ đẹp dịu dàng thể hiện nét kín đáo thướt tha của người phụ nữ Việt Nam. Vì sao vậy? Phần trên thường kín cổ, thể hiện vẻ kín đóa nhưng cũng làm hiện lên bờ vai và đôi tay trắng thon dài của cô gái rất đẹp. Nhờ cắt may khéo léo, phần trên thể hiện nét đẹp khỏe mạnh gọn gàng, thùy mị của cô gái Việt Nam, đồng thời hai tà áo lúc mở lúc khép, quấn quýt trong giá ạo vẻ thướt tha dịu dàng của chiếc áo dài. Nét đẹp đó làm say mê bao văn nhân, thi sĩ Việt Nam, say mê bao khách nước ngoài khi giao dịch tham quan du lịch Việt Nam. Nhà thơ Nguyên Sa đã viết nhiều bài thơ về áo dài Việt nam như: “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng Thơ anh viết vẫn nguyên màu lụa trắng” Cố nhạc sĩ Văn Cao và Phạm Duy cũng đưa hình ảnh áo dài Việt Nam vào trong bài "Bến xuân" của mình "Tà áo em rung trong giấc mộng ngập ngừng ngoài Bến Xuân." Đến thể kỉ XXI này, tuy xã hội Việt Nam đã theo nhiều trào lưu y phục phương Tây nhưng người ta vẫn không quên giữ gìn và phát huy vẻ đẹp của chiếc áo dài.Trong vài thệp niên gần đây, tà áo dài đã là đồng phục quy định của nhiều công sở và trường học ngay cả dịp quan trọng như ngày tết , ngày lễ, ngày cưới, người ta cũng dùng áo dài làm trang phục cho cô dâu và phụ nữ. Với những loại vải quý phái, chất liệu đặc biệt như tơ tằm gấm, lụa và vẽ màu sắc lộng lẫy hoặc nhu hòa, chiếc áo dài đã giúp cho người phụ nữ Việt Nam tăng thêm vẻ trang trọng và tươi đẹp. Các nữ sinh mới lớn cắp sách đến trường trong tà áo dài trắng tăng thêm nét yểu điệu, tinh khiết, trong sáng và vô tư như những thiên thần. Áo dài Việt nam là một trong những nét đẹp truyền thống của người Việt Nam. Người nữ sinh trung học ngày nay nên tự hào khi được mặc chiếc áo này! Bảo vệ nét đẹp áo dài Việt Nam là bảo vệ văn hóa và phong tục của người Việt Nam, nó cũng là nguồn đề tài vô tận cho các thi nhân nghệ sĩ Việt Nam.
Thuyết minh về áo dài - mẫu 12
Nếu như Hàn Quốc có Hanbok, Nhật Bản có Kimono, Sườn xám ở Thượng Hải thì Việt Nam có áo dài. Áo dài Việt Nam là trang phục truyền thống của Việt Nam, tượng trưng cho nét đẹp hình thể của người phụ nữ. Chẳng ai nhớ chính xác, áo dài có từ đâu và có từ khi nào. Chỉ biết rằng, ở Việt Nam, áo dài được diện đầu tiên dưới thời vua Nguyễn Phúc Khoát. Thời đó, áo dài rất phổ biến và gần như là trang phục thường ngày của người phụ nữ. Ban đầu, áo dài là áo thục lĩnh, về sau thì càng được thiết kế với nhiều kiểu dáng khác nhau. Tên gọi cũng dần được thay đổi. Từ áo tứ thân, áo ngũ thân đến những cái tên như áo dài Lemur… Nhưng dù có thay đổi như thế nào, trang phục áo dài vẫn thể hiện sự kín đáo, khoe trọn nét đẹp của người phụ nữ Á Đông. Áo dài sẽ được cấu tạo từ hai phần, phần thân lá và quần. Thân áo được xẻ tà bắt đầu từ phần eo trở xuống. Quần được may rất rộng và phải dài che hết phần chân. Thông thường, áo dài sẽ được may theo số đo riêng của mỗi người, nhằm đảm bảo phần áo bó trọn hình thể người mặc. Những bước đi thướt tha, uyển chuyển của người con gái thong dong trên những chặng đường dài. Ngày nay, khi thời trang ngày càng phát triển, các nhà thiết kế không ngần ngại thể hiện nhiều mẫu thiết kế. Người ta sử dụng vải lụa, vải sa tanh, vải nhung để may áo. Tùy thuộc vào từng độ tuổi mà các thiết kế được thay đổi sao  cho phù hợp. Ở thời điểm hiện tại, áo dài cũng đã có nhiều sự thay đổi để phù hợp hơn với thời cuộc. Đó là những chiếc áo dài cách tân, cổ khoét tròn, quần được thay bằng váy… Tất cả những thiết kế đó đều mới mẻ và vẫn phù hợp thuần phong mỹ tục. Áo dài thường được chị em diện vào nhiều thời điểm khác nhau. Nữ sinh cấp 3 ở hầu hết các thành phố đều lựa chọn những chiếc áo dài trắng trinh nguyên để mặc. Đó không chỉ là một bộ trang phục mà còn đại diện cho sự trong trắng, thanh khiết của các cô bé. Áo dài còn trở thành biểu tượng của nhiều ngành dịch vụ ở nước ta, điển hình là hàng không. Hãng hàng không Việt Nam airline, hàng không quốc gia đã lựa chọn áo dài làm đồng phục. Điều này góp phần truyền bá nền văn hóa Việt Nam ra với bạn bè thế giới. Hòa chung không khí ngày tết tươi vui, náo nhiệt, những tà áo dài tung bay khắp nơi. Áo dài có nhiều họa tiết, phù hợp cho cả mẹ và bé. Thẩ đẹp biết bao khi một gia đình cùng diện áo dài. Hiện nay, các cơ quan trong bộ máy nhà nước cũng đang đưa trang phục áo dài vào để sử dụng. Đây cũng là một trong những biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của tà áo dài. Giữa vô vàn trang phục với nhiều kiểu dáng mẫu mã khác nhau, áo dài vẫn giữ được vị trí nhất định. Thầm cảm ơn cha ông ta đã có những phát minh hay để lại cho thế hệ trẻ như bây giờ. Trên đây là bản thuyết minh về áo dài Việt Nam. Hy vọng nó sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho các em học sinh.
Viết bài thơ sáu chữ hoặc bảy chữ theo đề tài tự chọn về gia đình, người thân, bạn bè, trường lớp, quê hương - mẫu 1
Xuân lòng Đông tàn xuân đến xuân nở hoa Nổi buồn dấu kín giữa chiều tà Vui thơ xướng họa cùng bè bạn Gửi chút tình riêng đến nẻo xa Chợt nghĩ hình ai nơi cỏi vắng Chiếu nay lặng lẹ ngắm mây trời Lòng ta man mác buồn da diết Thả hồn trong gió say tình say Xứ Huế đây, ở xứ Huế đây Tiếng thơ dìu dắt nước non này Mơ màng bóng cũ người xưa ấy Say đắm một thời tuổi thơ ngây Ta muốn tình thơ luôn sẽ đến Để cùng chung điệu tiếng ngân nga Để hồn ấm lại trong hưu quạnh Ngây ngất xuân lòng ta với ta
Viết bài thơ sáu chữ hoặc bảy chữ theo đề tài tự chọn về gia đình, người thân, bạn bè, trường lớp, quê hương - mẫu 2
Năm tháng bạn bè Ta có trong năm tháng bạn bè Trong lối mòn xưa cỏ rêu che Nửa đời chìm nổi về bên bạn Lại vui như chẳng nắng sương gì Ta có trong năm tháng bạn bè Mạ trong ngọn gió lạnh lùng khuya Cha trong hạt cát đêm sao hiện Và em trong đèo núi cách chia Ta có trong năm tháng bạn bè Niềm thương nổi nhớ với say mê Câu thơ thức đến canh gà muộn Tóc bạc bên đèn đọc nhau nghe Ta như sóng ấy dễ tan đi Bạn là ghềnh đá dấu ta ghi Những gì sâu thẳm ngoài vô tận Đều có cho ta giữa bạn bè Rét quá nên thơ không thể ngủ Đốt lên ngọn lửa ấm lòng nhau Ngoài kia sông nép vào bóng cỏ Đêm lạnh vắt ngang tiếng còi tàu…
Viết bài thơ sáu chữ hoặc bảy chữ theo đề tài tự chọn về gia đình, người thân, bạn bè, trường lớp, quê hương - mẫu 3
Thế giới năm qua Thế giới năm qua bao tai ương Chiến tranh khủng bố khắp muôn phương Thiên tai, dịch bệnh liên miên mãi Tang tóc đau thương nối tiếp nhau Chúng ta hãy cùng đoàn kết lại Tay nắm tay nhau chống chiến tranh Tình thương, chia sẻ là sức mạnh Bao nhiêu thảm hoạ cũng tan nhanh .
Dàn ý Kể về một kỉ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của em
1. Mở bài Giới thiệu chung về kỉ niệm hồi thơ ấu sẽ kể. 2. Thân bài +Thời điểm, hoàn cảnh xảy ra kỷ niệm đó. +Kể lại diễn biến của kỉ niệm đó. +Bài học rút ra, ý nghĩa của kỉ niệm đã trải qua. 3. Kết bài Cảm nhận của người viết về kỉ niệm đã kể.
Kể về một kỉ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của em - mẫu 1
Tuổi thơ là gì nhỉ? Mà khiến ai cũng khắc khoải nhớ nhung. Nó là những ngày tháng của vô ưu và điềm mật. Những đứa trẻ bước qua khung trời màu hồng ấy trước khi đến với thế giới trưởng thành. Và em thật may mắn khi được tận hưởng trọn vẹn những ngày tháng tuổi thơ với những kỉ niệm đẹp đẽ. Tuổi thơ của em đúng nghĩa nhất chính là những năm tháng còn sống ở quê với bà. Khi đó, không có nỗi lo về bài vở, về tương lai, chỉ có những buổi rong chơi tưởng như dài bất tận. Những ngày tháng ấy trong em giống như một cuốn phim cũ, mờ mờ ảo ảo, niềm vui thì rõ mà hình ảnh thì mịt mờ. Duy chỉ có những kỉ niệm cùng bà ra vườn là rõ nét vô cùng. Nhà bà em phía sau có một khu vườn nhỏ, ở đó bà trồng đủ các loại rau xanh mướt, mà em ấn tượng nhất là giàn mồng tơi. Khi quả mồng tơi chín, nó sẽ chuyển thành màu tím. Những khi theo bà ra vườn, bà thì cần mẫn hái rau bó thành từng bó nhỏ đem ra chợ bán. Còn em thì ngồi hái từng hạt mồng tơi, bóp nát, hứng nước vào một gáo dừa khô. Từng giọt, từng giọt, tích thành một vũng nước nhỏ màu tím. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng làm em vui sướng lắm rồi. Em dùng nó làm nước màu để vẽ lên sân, lên tàu lá chuối, lên cả bức tường lổ đổ phía trước nhà. Chỉ một lát sau, nước khô đi, em lại vẽ thêm lớp mới. Đến khi bà xong việc, lại hiền từ dẫn em ra cạnh giếng rửa sạch tay rồi lại vào nhà. Chỉ mỗi trò chơi ấy thôi, mà em chơi suốt cả tuổi thơ không thấy chán. Giờ đây bà đã đi xa rồi, em cũng đã khôn lớn. Đôi lúc về quê giỗ bà, em lại ra vườn, tìm gốc mồng tơi cũ để chơi lại trò chơi ấy. Nhưng chẳng hiểu sao em không thể nào cười vui được như khi xưa nữa. Có lẽ vì cảnh vẫn còn nguyên nhưng con người thì đã thay đổi. Chính điều đó khiến kí ức tuổi thơ trở nên trân quý vô cùng. Bởi nó là thứ chỉ có thể hồi tưởng lại chứ không thể trải qua một lần nữa.
Kể về một kỉ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của em - mẫu 2
“Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, để trở về với giấc mơ ngày xưa…”. Đó là câu hát được trích từ ca khúc Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của ca sĩ Lynk Lee. Đó là nỗi lòng chung của rất nhiều người trên thế giới này. Nỗi lòng ấy chẳng có gì lạ khi những ngày tháng tuổi hồng mộng mơ ấy quá đẹp đẽ, quá tuyệt vời. Và nó càng lung linh hơn khi nó đã trôi qua là không trở lại. Nó chỉ có thể trở lại trong hồi tưởng của mỗi người. Cũng như em, mỗi buổi trưa hè, lại nhớ mãi về kỉ niệm năm đó. Còn nhớ hồi đó, em là cô bé học lớp 1 nhỏ con nhưng nghịch ngợm. Bà thường ví em là một chú khỉ đáng yêu. Thuở đó, ngủ trưa là một cực hình đối với em cũng như các bạn nhỏ khác. Cứ chờ bố mẹ ngủ say, em sẽ lẻn qua bờ rào thưa phía sau nhà, chạy ra bụi tre đầu làng, tụ tập cùng các bạn. Ngồi dưới bóng mát của cây tre, tránh đi cái nắng oi ả của mùa hè, chúng em ngồi tụm lại với nhau nói đủ thứ chuyện trên đời. Rồi bắt đầu nghĩ ra đủ trò để chơi. mà em mê nhất chính là trò bện đồng hồ từ lá tre gà. Những chiếc lá tre dài, qua bàn tay điệu nghệ của những đứa trẻ trở thành chiếc đồng hồ xinh đẹp màu xanh. Thế nhưng em lại rất vụng về, mãi chẳng làm được. Những chiếc lá cứ bị nhàu đi trong tay em mà mãi chẳng thành hình. Những đứa trẻ khác thấy vậy, lén tụ vào cười khúc khích khiến em ngượng chín cả mặt. Chỉ riêng Cúc là không như vậy. Cậu ấy vẫn kiên trì làm cô giáo nhỏ, dạy em bện đồng hồ. Suốt bao buổi trưa hè, dưới bóng mát tre ngà, hai cô trò nhỏ cần mẫn dạy nhau đan lá. Dưới sự chỉ bảo của Cúc, cuối cùng em cũng đan thành công một chiếc đồng hồ lá tre đầu tiên. Tuy nó rất xấu nhưng vẫn là thành quả tuyệt vời mà em cố gắng bao lâu. Cuối cùng, em đã đem chiếc đồng hồ đó tặng cho Cúc, còn Cúc đan một chiếc khác tặng cho em. Còn bảo là đó là cặp đồng hồ tình bạn, chỉ cần còn giữ nó thì sẽ mãi không xa nhau. Đến bây giờ, gốc tre vẫn còn đó, chiếc đồng hồ ngày nào tuy đã héo khô, nhưng vẫn được em cất giữ cẩn thận. Nhưng còn Cúc thì đã rất lâu rồi em chẳng được gặp. Vì cuối mùa hè năm đó, Cúc theo gia đình sang Mĩ định cư. Ngày chia tay đó, nắng hạ đỏ rực như đỏ lửa, nhưng lòng em thì nguội lạnh dần. Từ đó đến nay, bao mùa hạ đã đi qua, cảnh xưa vẫn vậy, chỉ là người đã rời đi. Nhưng em vẫn tin chắc rằng, một ngày nào đó, Cúc sẽ trở về, chúng em sẽ ôm nhau thật lâu, rồi lại ngồi xuống nơi gốc tre này, đan lại từ đầu chiếc đồng hồ tình bạn. Kỉ niệm đó là mảnh ghép đẹp nhất, trân quý nhất của em về những ngày tháng tuổi thơ đã trôi qua. Em luôn nhớ về nó để hoài niệm, nhưng cũng để tiến tới tương lai phía trước. Một tương lai sáng rỡ với những đoàn tụ và hạnh phúc.
Kể về một kỉ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của em - mẫu 3
Thời thơ ấu, mỗi người đều có rất nhiều những kỉ niệm đẹp đẽ. Đó là hành trang để chúng ta bước vào cuộc sống trong tương lai. Bản thân tôi cũng có những kỉ niệm như vậy. Tôi sinh ra trong một gia đình rất hạnh phúc. Tôi luôn nhận được tình yêu thương từ mọi người thân trong gia đình. Nhưng người gắn bó nhất với tôi là anh trai. Năm nay, anh hai mươi tuổi. Là sinh viên đại học nên thỉnh thoảng cuối tuần anh mới được về thăm nhà. Nếu nói đến học lực thì anh là một tấm gương điểm sáng để cho lũ trẻ em hàng xóm noi theo. Khi còn nhỏ, tôi thường theo anh đi chơi. Tuổi thơ của tôi đã rất vui vẻ khi có anh ở bên. Tôi còn nhớ nhất về một kỉ niệm khi tôi lên năm. Một lần, trên đường đi học về. Tôi bị một nhóm trẻ con trong xóm trêu chọc. Lúc đó, tôi chỉ biết chạy về nhà ngồi một góc và khóc lóc. Anh trai liền đến hỏi han. Khi biết chuyện, anh đã hứa sẽ giúp tôi “trả thù”. Không biết anh đã nói gì, nhưng nhóm trẻ con trong xóm đã đến xin lỗi. Và từ đó trở đi, chúng không dám bắt nạt tôi nữa. Trong lòng tôi thầm khâm phục anh. Nhiều lúc rảnh rỗi không phải đi học, anh thường đưa tôi đi ra đồng thả diều, câu cá, học bơi… Anh còn dạy tôi học võ nữa. Anh bảo con gái phải biết tự bảo vệ bản thân mình. Biết bao nhiêu là kỉ niệm đẹp đẽ như vừa mới xảy ra thôi. Những năm anh học đại học, phải xa nhà thường xuyên, tôi thấy nhớ anh. Nhớ những lúc anh nấu cơm dỗ tôi ăn khi tôi bị ốm còn bố mẹ bận công chuyện, những lần anh dạy tôi học bài... Những kỉ niệm thời thơ ấu khiến tôi cảm thấy nhớ mãi. Đối với tôi, anh trai chính là một người vô cùng quan trọng. Tôi mong rằng hai anh em sẽ luôn yêu thương nhau.
Kể về một kỉ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của em - mẫu 4
Kỉ niệm luôn đem đến cho chúng ta nhiều cảm xúc đẹp đẽ. Đặc biệt là những kỉ niệm thời thơ ấu đã trở thành hành trang quý giá trong cuộc sống của tôi cho đến bây giờ. Trong gia đình, người tôi gắn bó nhất chính là ông nội. Năm nay, ông đã ngoài bảy mươi tuổi. Trước khi nghỉ hưu, ông tôi là một cán bộ nhà nước. Ông rất yêu thương con cháu. Nhưng ông cũng rất nghiêm khắc khi chúng tôi mắc lỗi. Tuy tuổi đã cao nhưng ông vẫn còn rất khỏe. Ông đã dạy cho chúng tôi rất nhiều bài học bổ ích. Và tôi cũng có rất nhiều kỉ niệm đẹp về ông. Trong kí ức của tôi, ông nội là một người rất yêu thích công việc trồng cây nên khu vườn trong nhà luôn xanh tốt quanh năm. Những cây ăn quả đã cho trái ngọt không biết bao nhiêu mùa. Cứ mỗi buổi chiều, ông lại ra vườn để chăm sóc cây cối. Còn nhớ lúc đó, tôi thường chạy theo ông, đòi được giúp ông tưới tắm cho cây cối trong vườn. Ông đã dạy tôi phải chăm chút chúng một cách nâng niu, cẩn thận. Ông nói rằng: “Cây cối cũng giống như con người cần được chăm sóc”. Nhờ vậy, mỗi loài cây trong vườn đã trở thành người bạn của tôi. Cây ổi cho tôi leo trèo cùng lũ bạn trong xóm. Cây cam cho trái thơm ngọt ngào. Những khóm hoa: đồng tiền, cẩm tú cầu, mười giờ... giúp tôi cảm thấy thư giãn sau một ngày học tập mệt mỏi. Có thể nói, nhờ có ông mà tôi đã trở thành “người làm vườn tài ba”. Không chỉ là chăm sóc cây trong vườn, tôi còn được nghe ông kể rất nhiều câu chuyện hay về cuộc sống. Những câu chuyện về cuộc sống ngày xưa. Một thời đã xa với những câu chuyện thật thú vị. Giờ đây, những kỉ niệm về ông chỉ còn lại trong kí ức. Nhưng tình cảm với ông vẫn còn mãi đây. Những kỉ niệm thời thơ ấu cùng ông nội thật đẹp đẽ. Tôi tự hứa bản thân phải cố gắng học tập thật tốt, để ông sẽ luôn tự hào về đứa cháu của mình. Tôi rất yêu ông nội của mình.
Kể về một kỉ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của em - mẫu 5
Năm nay tôi vào lớp sáu, còn bé Nhi thì bước sang lớp bốn. Bố mẹ Nhi cũng đã về sống với nhau sau hơn một năm sống ly thân. Tôi và Nhi tuy chẳng phải họ hàng nhưng thân thiết lắm! Tất cả bắt đầu từ lần ấy... Năm ấy, tôi học lớp bốn còn bé Nhi học lớp hai. Tội nghiệp bé Nhi! Bố nó ham mê cờ bạc, rượu chè đi suốt từ sáng đến tối mới về lại còn hay đánh vợ chửi con. Mẹ nó không chịu được, quyết định đưa nó về bà ngoại. Nhà bà ngoại nó ở cuối xóm, cạnh nhà tôi. Thế là anh em quen nhau từ đó. Một buổi chiều hè, tôi rủ bé đi chơi vì biết bé rất buồn. Tôi hỏi: - Bây giờ em thích cái gì để anh làm cho? Bé Nhi nói: -Anh biết không! Ngày xưa em mơ ước nhà em như một con thuyền lớn. Bố là cột buồm vững chãi còn mẹ là khoang thuyền che chở nắng mưa. Con thuyền nhà em sẽ chở những ước mơ của em đến đích. Vậy mà bây giờ nó chẳng bao giờ có thể thực hiện được. - Đừng buồn em ạ! Hãy cố gắng lên! Nào, đi! Đi với anh! Tôi dắt bé Nhi đi hái những lá tre nghe thật to để gấp thuyền lá thả trôi sông. Tôi chọn lá to nhất gặp một con thuyền thật đẹp tặng bé Nhi. Nhưng Nhi không giữ được, bé thả ngay xuống nước. Nhưng con thuyền lại không trôi. Nó mắc cạn vào ngay đám rong đang bò lổm ngổm ở giữa dòng. Bé Nhi nói: - Đấy! Gia đình em bây giờ cũng như con thuyền đó, chẳng thể nào nó đi được, chỉ có thể chìm thôi! Tôi vừa tiếc, lại vừa thương Nhi, bèn cứ mang cả quần áo lội xuống sông vượt chiếc thuyền lên. Nước đến bụng rồi đến cổ. Bỗng “sụt” chân tôi trượt phải một hố bùn giữa sông ngay lúc tôi vừa với được chiếc thuyền. Tôi cố gắng chới với trong khi một tay vẫn dâng chiếc thuyền lên khỏi mặt nước. Mấy phút sau, tôi bò lên được tới bờ khi bụng đã uống no nước nhưng rất may con thuyền không nát. Bé Nhi mặt tái mét nhưng rất ngoan ngoãn nghe tôi nói: - Em hãy giữ nó làm kỷ niệm và tin rằng có ngày nó sẽ được bơi thỏa thích trên sông. Hôm đó, vì sợ mẹ mắng, tôi và bé Nhi ngồi ở bờ sông cho đến khô quần áo mới dám về. Đêm, tôi bị sốt cao nhưng vẫn giấu chuyện ban chiều không nói. Mẹ thì cứ tưởng tôi dãi nắng nên bị sốt. Cũng may sáng hôm sau, tôi đã đỡ nhiều. Ngay hôm bố mẹ nó hòa giải và về sống với nhau, nó rủ tôi đem chiếc thuyền ra sông thả. Nhưng chiếc thuyền đã không không còn thả được. Thế là anh em tôi mải miết gấp những chiếc thuyền tre khác. Những chiếc thuyền gấp buổi chiều hôm ấy, chiếc nào cũng trôi về tận cuối dòng sông. Điều bí mật giữa tôi và bé Nhi còn đến tận bây giờ. Đó cũng là kỷ niệm sâu sắc nhất tuổi thơ tôi các bạn ạ!
Kể về một kỉ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của em - mẫu 6
Mỗi chúng ta khi lớn lên, đều bỏ lại đằng sau mình một thời thơ ấu biết bao kỉ niệm buồn vui lẫn lộn. Tôi vẫn nhớ những lần ham chơi quên cả giờ về, hay những lần mải đi chơi làm mất cả chìa khóa nhà. Những kỉ niệm về người anh họ của em khiến em nhớ mãi không thể nào quên. Trong những dịp nghỉ hè, tôi thường được bố mẹ cho về quê. Tôi rất thích về quê bởi ở đó tôi có một người anh họ. Anh hơn tôi một tuổi và rất quý tôi. Mỗi lần về quê, anh thường dắt tôi đi chơi khắp nơi. Anh đi đằng trước, tôi đi theo sau. Nhưng khi tôi mỏi chân, anh thường cõng tôi trên lưng. Ngồi trên lưng anh tôi thích chí cười khanh khách. Quê tôi có bờ lau trắng xóa. Nhưng lúc đang chơi đuổi bắt, không thấy anh đâu, tôi khóc thét lên, anh từ đâu chạy đến, rắc lên đầu tôi những cánh hoa khiến tôi tròn mắt ngạc nhiên. Đặc biệt, tôi rất thích mỗi khi anh và bạn anh thi thả diều, nhìn cánh diều bay lên bầu trời cao lồng lộng, tôi không bao giờ chán. Anh chiều tôi là thế nhưng tính lẻo nhẽo của tôi đã gây nên một tai nạn. Hôm đó, anh dắt tôi đi đến nhà một người bạn. Trên đường đi, tôi bỗng nhìn thấy một cây roi quả sai vô cùng. Những quả roi chín thành từng chùm trông thật thích mắt. Tôi dừng lại và chỉ lên những chùm quả đang lấp ló trong tán lá. Tôi muốn ăn roi. Anh định trèo lên hái cho tôi. Anh đứng ngước mắt lên và lắc đầu: “Cây cao quá, anh không trèo được. Thôi, đi cùng anh ra chợ, anh sẽ mua cho em”. Tôi nhất quyết “Không, em thích ăn cả chùm cơ! Ở chợ không có roi giống thế này”. Dù anh thuyết phục thế nào, tôi cũng không chịu. Anh càng dỗ, tôi càng bướng và tôi đã ngồi bệt xuống đất, nước mắt bắt đầu chảy dài, tay chân đập loạn xạ. Tôi biết, anh nhất định sẽ hái cho tôi khi thấy tôi khóc. Và quả thật, tôi đã thắng. Anh kéo tôi đứng dậy, lau nước mắt và nói: “Em nín đi, anh sẽ hái cho em chùm quả đó”. Anh dắt tôi đến cổng nhà bác có cây roi, gọi cửa và tôi thấy có một bác chạy ra, anh xin phép bác cho anh được hái một chùm roi. Bác đồng ý nhưng dặn anh tôi phải cẩn thận vì cành rơi rất giòn. Anh trèo lên, trèo thật cao để hái được dùng chùm roi tôi thích. Nhưng khi đang hái thì anh trượt chân, ngã nhào từ trên cây xuống. Tôi thấy anh ngã thì chạy đến hỏi: “Anh có đau không?” anh gượng cười, nói: “Anh không sao đâu. Em cứ yên tâm”. Nhưng không phải thế, anh bị gãy chân... Bố về quê, biết anh bị gãy chân vì tôi. Bố đã mắng tôi nhưng anh lại nói với bố: “Tất cả là tại cháu, chú đừng mắng em kẻo nó sợ”. Dù tôi có gây ra chuyện gì, anh cũng luôn che chở cho tôi. Anh là người anh tuyệt vời của tôi. Kỷ niệm đó mỗi khi nghĩ lại, tôi lại thấy cay cay nơi sống mũi.