text
stringlengths 0
1.28M
|
---|
Nhưng công việc đó vẫn còn dang dở và đã phải dừng lại trong dăm năm trời. Phải đến thời điểm những năm 2010, sau những thôi thúc mạnh mẽ cần xuất bản các tác phẩm kinh điển về nền văn minh Hy-La cổ đại, chúng tôi mới quyết tâm dành trọn vẹn công sức và thời gian để xây dựng nên Tủ sách Hy-La kinh điển của Alpha Books. Bắt đầu từ đâu và triển khai như thế nào? Chúng tôi lần theo dấu chân những “người khổng lồ” trên thế giới, thông qua các danh mục sách kinh điển, chúng tôi đã hình thành nên một danh mục đủ để đeo đuổi trong hàng chục năm trời. Nhưng trước tiên, vẫn phải bước những bước đầu tiên. Và con đường ấy thật nhiều chông gai: sự e dè, nghi ngại của những độc giả tốt bụng, sự hụt hơi trên dặm đường dịch thuật, sự kỳ công trong từng trang bản thảo. Sau những tác phẩm đầu tiên về nền văn minh Hy-La như Chính trị luận của Aristotle, Cộng hòa của Plato; Iliad và Odyssêy của Homer; Ngày cuối trong đời Socrates của Plato đã được ra mắt bạn đọc, Tủ sách Hy-La vẫn đang không ngừng được phát triển, mở rộng nhằm giúp bạn đọc tiếp cận được toàn bộ di sản trí tuệ khổng lồ của nền văn minh này trong mọi lĩnh vực. Và rồi đây, chúng tôi sẽ tự hào giới thiệu tới bạn đọc những tác phẩm quan trọng của Arrian, Herodotus, Plutarch hay các công trình nghiên cứu đồ sộ của Edward Gibbon, v.v… |
Lần xuất bản đầu tiên sẽ không tránh khỏi còn tồn tại những thiếu sót. Chúng tôi hy vọng nhận được sự góp ý chân thành của quý bạn đọc để hoàn thiện các tác phẩm đã được chuyển ngữ. Hy vọng quý bạn đọc sẽ thu được nhiều tri thức hữu ích khi lựa chọn các tác phẩm trong Tủ sách này. |
Arrian, hay Lucius Flavius Arrianus, tác giả cuốn sách này, là một triết gia, một quan chức, một nhà quân sự, người sinh trưởng trong gia đình giàu có – đó là tất cả những điều kiện xã hội của một trí thức tinh hoa đúng nghĩa theo truyền thống phương Tây, người sẽ được hưởng một nền giáo dục đủ cao và có cuộc sống đủ tách biệt khỏi những vấn đề thường nhật để có cái nhìn cao thượng nhưng thực tế, khách quan nhưng có chủ kiến về mọi vấn đề cần nhận thức. Đáng tiếc rằng cũng như những tác gia khác của thời cổ-trung đại, Arrian xứ Nicomedia có lẽ đã nghiên cứu và viết rất nhiều tác phẩm quan trọng, nhưng đa phần trong số đó đã không còn có thể tìm thấy. Tác phẩm Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế là kiệt tác quan trọng hiếm hoi còn được đến ngày nay. Đây thực sự là một kiệt tác mà chỉ riêng ở lĩnh vực hẹp về khoa học quân sự, khoa học chính trị hay thậm chí nhân học, ta có thể nói ngay rằng không thể hiểu về quân sự cổ đại và tư duy phức hợp cổ-trung đại giữa huyền thoại-chiến công, nhà nước-quân đội, thần thánh-con người,… mà không tham khảo và đọc một cuốn sách như vậy. Cần nói thêm rằng, cho đến nay, Arrian chắc chắn là tác gia đã đọc nhiều nhất, biết nhiều nhất và có những tư liệu quan trọng nhất về nền quân sự Macedonia và Alexander Đại đế. Tất thảy những điều ấy cho phép hội tụ đủ điều kiện để ông viết nên một kiệt tác về một con người kiệt xuất. |
Một con người kiệt xuất là người khiến người khác muốn đọc về họ sau khi nghe về họ – và đó là người mà những cá tính hẹp hòi nhất và con người nhất lại khiến chúng ta thấy họ gần gũi và đáng nhớ hơn bao giờ hết. Alexander Đại đế chính là một con người kiệt xuất như vậy. Nếu mỗi cuộc đời là một tác phẩm, thì tự cuộc đời của Alexander là một tác phẩm vĩ đại. Nếu mỗi anh hùng đều cần một sử thi để trở nên trọn-vẹn là một anh hùng, thì tác phẩm mà bạn đọc cầm trên tay đây chính là sử thi quan trọng hoàn thiện hình ảnh vị vua-thần chiến tranh của thế giới cổ-trung đại. Hãy đọc những câu cuối cùng trong kiệt tác này, để có thể bắt đầu đọc nó trong tinh thần của chính nó: “… Nhưng là một con người, nếu ai đó coi thường Alexander, trước hết anh ta nên tự so sánh mình với ngài: bản thân anh ta, một kẻ tầm thường ít tiếng tăm còn Alexander là vị hoàng đế vĩ đại với những thành công mà không ngòi bút nào tả xiết, người cai trị hai lục địa, người mà danh tiếng đã được cả thế gian biết tới. Làm sao có ai đó dám lăng mạ ngài, khi người đó hiểu rằng sự khinh thị và mục đích tầm thường của anh ta chỉ chứng minh cho sự bất lực của bản thân mà thôi?… tôi tin rằng vào thời đại đó, không một dân tộc nào, không một thành phố nào, không một cá nhân nào lại không biết tới cái tên Alexander; không có một ai trên thế gian này giống như ngài, và do đó, tôi không thể không tin rằng có một vài quyền lực siêu nhiên nào đó liên quan tới cái chết của ngài…Trong cuốn sách này, tôi thừa nhận rằng bản thân có thấy Alexander phạm phải một số sai lầm, nhưng tôi không ngại ngần gì trong việc bày tỏ lòng ngưỡng mộ vô bờ bến đối với con người ngài. Ở những điểm tôi chỉ trích ngài, tôi cần phải làm như vậy vì tôi mong muốn được kể lại sự thật như tôi đã thấy, và do đó, giúp ích cho độc giả của tôi. Những điều này là động lực để tôi bắt đầu viết cuốn lịch sử này: và tôi cũng xin cảm tạ thần linh đã hỗ trợ tôi hoàn thành tác phẩm này.” |
Những tác phẩm Cổ-Trung đại nói chung là khó-hiểu và dễ-đọc với phần lớn những người muốn tìm hiểu – một mặt vì chúng thường bao hàm những ẩn ý cổ thuộc về một nghệ thuật văn chương mà đến nay gần như đã biến mất, nhưng mặt khác những người viết không sử dụng đến hệ thống thuật ngữ khoa học rắc rối hay những phương pháp nghiên cứu phức tạp nào. Dù vậy, xuyên qua mọi lớp vỏ ngôn ngữ và thời đại, có những điều luôn luôn khiến con người ở bất cứ nơi đâu bị thu hút, đó là sự huyền bí gắn liền với những tâm tình phàm tục, sự vĩ đại mà một nửa của nó là cá nhân và nhỏ nhen, những chiến công oanh liệt mà phần chìm là sự dằn vặt và những khát vọng dường như là tầm thường nhất, và những phẩm chất phi thường trong hình hài một con người nhân gian. Tác phẩm Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế mà bạn đang cầm trên tay là một cuốn sách kỳ lạ và đáng đọc như thế. |
Alpha Books trân trọng gửi đến bạn đọc tác phẩm giá trị này. Chúng tôi hy vọng, tác phẩm này của Arrian sẽ làm thỏa mãn những ai yêu thích tìm hiểu về nghệ thuật quân sự, chiến tranh, cũng như nền văn minh Hy-La. Trong quá trình hoàn thành tác phẩm, mặc dù đã rất cố gắng, song chúng tôi e rằng vẫn còn những thiếu sót. Bởi vậy, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc về bản dịch để hoàn thiện trong những lần xuất bản sau. |
Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2015 |
Những cuộc chinh phạt của Alexander đại đế |
Arrian, hay Lucius Flavius Arrianus, là một người Hy Lạp sinh ra vào khoảng một vài năm trước năm 90 sau Công nguyên (SCN), trong một gia tộc giàu có tại Nicomedia, thủ phủ của La Mã thuộc Bithynia. Cha của ông được công nhận là công dân La Mã, điều này cho phép Arrian bắt đầu sự nghiệp trong công cuộc phục vụ vương quyền. Vào khoảng năm 108 SCN, ông học triết học dưới sự hướng dẫn của Epictetus. Triết lý này đề cao sự tri túc [contentment – nghĩa là biết đủ]. Tri túc đem đến một đời sống lặng lẽ, bình yên, không có gì đáng để bận tâm phiền não. Sự bình an tâm hồn là điều đáng quý trọng hơn cả. Niềm an lạc ấy được tìm thấy thông qua sự tự kiềm chế [self-control] hay tự chủ [self-mastery]; đó là khả năng chế ngự lòng ham muốn và làm chủ bản thân, không để mình buông thả theo dục vọng. (ND)](2) và ghi chép những lời thuyết giảng của triết gia này trong cuốn The Discourses (tạm dịch: Những tranh luận) và tóm tắt các bài giảng của Epictetus trong Manual (tạm dịch: Sổ tay). Ông thăng tiến rất nhanh trong sự nghiệp. Vào khoảng năm 129 hoặc 130 SCN, ông đã là quan chấp chính. Một năm sau, ông được bổ nhiệm làm thống đốc một khu vực biên giới thuộc Cappadocia, điều này cho thấy Hoàng đế Hadrian tin tưởng vào khả năng quân sự và quản lý của ông tới mức nào. Arrian chỉ huy hai quân đoàn La Mã và đông đảo quân đội đồng minh, gánh vác một trọng trách chưa từng có tiền lệ đối với người Hy Lạp trong giai đoạn đó. Năm 134 SCN, ông đánh đuổi quân xâm lược Alan khỏi vùng Armenia trong một cuộc chinh phạt mà ông đã mô tả trong The Formation Against the Alans (tạm dịch: Dàn trận chống lại quân Alan). Ông cũng viết Tactical Manual (tạm dịch: Nghệ thuật tác chiến) cho kỵ binh và Circumnaviagation of the Black Sea (tạm dịch: Hành trình qua biển Đen), một ghi chép về chuyến hải hành mà ông đã thực hiện từ Trapezus tới Dioscurias vào những năm 131-132 SCN. Ông đã rút khỏi chức vụ này hoặc bị triệu hồi trước thời điểm vua Hadrian băng hà vào năm 138, và trong phần đời còn lại, ông sống tại Athens và chuyên tâm vào việc viết lách. Arrian đã trở thành công dân Athens và trở thành quan chấp chính vào năm 145, điều khiến ông có đủ điều kiện trở thành thành viên của Hội đồng Areopagus, hội đồng quản trị chính của Athens. Không ai biết gì hơn về cuộc đời của ông. Những tác phẩm còn lại về thời kỳ Athens của Arrian bao gồm On the Chase (tạm dịch: Bàn về truy kích), cuốn Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế gồm bảy quyển, và Indica (tạm dịch: Lịch sử Ấn Độ) – một ghi chép về chuyến hải hành từ Ấn Độ tới vịnh Ba Tư của hạm đội Alexander Đại đế. |
Trích Lời tựa của dịch giả |
Sau khi thời đại Alexander khép lại, ngay từ đầu thế kỉ thứ II TCN, văn học Hy Lạp đã suy tàn một cách nhanh chóng, và trong suốt 100 năm – khoảng từ năm 50 TCN tới năm 50 SCN – khi nền văn học Latinh đang ở đỉnh cao, nó gần như đã tiêu biến. Nền văn học này đã có một lịch sử dài lâu, và từng là một trong những đỉnh cao vinh quang của thế giới trong khoảng 1000 năm. Tuy vậy, văn học Hy Lạp không hoàn toàn kết thúc. Thế kỷ thứ hai trong kỷ nguyên của chúng ta đã bắt đầu một cách khó khăn khi có một sự phục hưng tinh thần Hy Lạp, và tiếng Hy Lạp một lần nữa được sử dụng với vai trò là một ngôn ngữ văn học – dĩ nhiên, người ta đã luôn dùng tiếng Hy Lạp trên khắp những vùng đất rộng lớn ở phía đông của Đế chế La Mã, và những người La Mã được giáo dục đã quen thuộc với ngôn ngữ này cũng như những người Anh có học thức ngày nay quen với tiếng Pháp. Người ta không bao giờ xác định được thời điểm bắt đầu của một trào lưu văn học, và ngay từ thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên Kitô giáo, đã xuất hiện nhiều nhà văn Hy Lạp nổi tiếng, một trong số đó là Plutarch. Tuy vậy, không khó để xác định khởi đầu của thời phục hưng Hy Lạp, bắt nguồn từ sự kiện Hadrian lên ngôi vào năm 117 SCN. Phần nhiều nỗ lực và sức mạnh của thời phục hưng Hy Lạp, quả thực, nhờ vào người đàn ông xuất chúng này, vốn phần nào cũng là một nhà thơ và là người say mê văn học Hy Lạp cổ. Sự bảo trợ mà ông đem đến cho những nhà triết học Hy Lạp của thời đại đó bảo đảm cho sự vĩ đại và tầm ảnh hưởng ngày một gia tăng của họ, và ảnh hưởng này, tới lượt nó, lại tác động như một cú hích tới sự phục hưng của văn chương Hy Lạp. Hoàng đế Marcus Aurelius đã viết cuốn sách nổi tiếng của ngài bằng tiếng Hy Lạp. |
Arrian đã tích cực tham gia vào trào lưu phục hưng văn chương Hy Lạp. Trào lưu này cũng đã thu hút các nhà văn cùng thời khác, có thể nhắc tới một số tên tuổi như Appian, sử gia người Hy Lạp viết về La Mã; Pausanias, người mà tác phẩm Tour of Greece (tạm dịch: Dạo chơi Hy Lạp) của ông đã trở thành một trong những nguồn khảo cứu của tôi; Galen – một tác gia viết về y học; và Lucian với lối viết đơn giản nhưng hóm hỉnh một cách tuyệt vời – một tác giả mà trên nhiều phương diện là đáng đọc nhất trong tất cả những tên tuổi nêu trên. |
Tất cả những nhà văn này đều sử dụng cách diễn đạt rất khác biệt so với ngôn ngữ Hy Lạp lúc bấy giờ. Họ bắt chước lối viết cổ (archaizing) một cách thận trọng, mô phỏng một cách có ý thức, hoặc cố gắng mô phỏng ngôn ngữ và phong cách văn chương của 300 hoặc 400 năm trước. Điều này chắc chắn ảnh hưởng tới chất lượng tác phẩm của các tác giả này. Họ rất dụng công trong sáng tác, và không có điều gì kiểu như phong cách “tự nhiên” tồn tại trong đó, mặc dù lớp hậu thế chúng ta ngày nay đã luôn tin rằng phong cách văn chương tuyệt vời nhất là phong cách đạt đến sự tự nhiên. Các nhà văn Hy Lạp trong thế kỷ thứ hai không hề nghĩ như vậy; đối với họ, các nhà văn vĩ đại của 400 hoặc 500 năm trước đã tạo ra một phong cách nghệ thuật chuẩn mực và cách duy nhất để có được sự xuất sắc đó là sao chép lại cách diễn đạt của các vị đó càng giống càng tốt. Chỉ có hai cuốn sách chúng ta có ngày nay gần gũi với tiếng koinê, hoặc tiếng Hy Lạp của Syria và Tiểu Á thời đại đó, là cuốn Tân Ước và ghi chép của Arrian về những bài giảng của Epictetus. Trong nhiều thế kỷ, cả giới học giả lẫn những kẻ thông thái rởm, đều cho rằng tiếng Hy Lạp của kinh Tân Ước là thứ tiếng thiếu tinh tế và thấp kém – một trong những ví dụ tiêu biểu là lời giễu nổi tiếng của Nietzsche rằng Chúa hẳn đã học tiếng Hy Lạp, nhưng có lẽ ngài không xuất sắc lắm trong môn học này. Nhưng ngày nay, hầu hết chúng ta đã ngộ ra, và vẻ đẹp của tiếng Hy Lạp trong kinh Tân Ước, cũng như sức mạnh diễn đạt của nó khiến chúng ta ao ước rằng, phải chi những nhà văn của kỷ nguyên đó đã đón lấy thứ ngôn ngữ sống động ngay trên đôi môi của họ thay vì tìm kiếm nó trong những văn bản của quá khứ. Một ví dụ về việc tính chất nhân tạo này có thể đi xa tới mức nào đã được chính Arrian cung cấp. Một trong những cuốn sách của ông – cuốn Indica (tạm dịch: Lịch sử Ấn Độ), có một phần ngắn được viết dựa trên ghi chép của Nearchus về chuyến hải hành từ sông Ấn tới vịnh Ba Tư – ông sử dụng, rõ ràng là để thay đổi, hoặc đơn giản để cho thấy rằng ông có thể sử dụng phương ngữ Ionic như Herodotus. |
Tiêu chuẩn lạ lùng này là một gánh nặng hầu như không thể chịu đựng nổi với các nhà văn thời kỳ đó. Trong số họ, chỉ Lucian vận dụng nó một cách khéo léo; những người còn lại, gồm cả Arrian, đều không tránh khỏi gượng gạo, chẳng khác gì việc một nhà văn Anh hiện đại, người ngưỡng mộ cách diễn đạt đầy màu sắc, mềm mại và sinh động của văn xuôi thời Elizabeth, đã quyết định viết phác họa những chân dung lịch sử theo phong cách của ngài Thomas North. |
Do đó, từ quan điểm về phong cách, Arrian không phải là một nhà văn hàng đầu. Theo một cách nào đó, đây là một ưu điểm cho dịch giả; trong khi một dịch giả dịch những tác phẩm Hy Lạp kinh điển sẽ luôn cảm thấy thua kém bởi ý thức về một sự kém cỏi, thì người dịch tác phẩm của Arrian lại luôn cảm thấy hào hứng bởi cảm giác tự mãn, hầu như có thể thông cảm được, bằng cách làm lu mờ chính tác giả bởi cái mà Shelley, khi bàn về bản dịch Symposium (tạm dịch: Tiệc rượu) tuyệt hay của chính ông, đã gọi là “tấm mạng che màu xám phủ lên những từ ngữ của chính tác giả”, và ở chỗ này hay chỗ khác, ông thậm chí đã hoàn thiện ý tứ của tác giả. Tuy nhiên, tác phẩm của Arrian, về cơ bản, là rõ ràng và dễ hiểu; và đó là một ưu điểm. |
Danh sách những từ viết tắt |
Tạp chí Triết học Mỹ. |
Xã hội cổ xưa và những thể chế. Những nghiên cứu đệ trình lên Victor Ehrenberg (Ancient Society and Institutions. Studies presented to Victor Ehrenberg), E. Badian biên tập (Oxford, 1966). |
Trung tướng J. F.C. Fuller, Tài chỉ huy quân sự của Alexander Đại đế (The General-ship of Alexander the Great) (London, 1958). |
Tạp chí Hellenic Studies. |
Ngài William Tarn, Alexander Đại đế (Alexander the Great), 2 tập (Cambridge, 1948). |
M. N. Tod, Tuyển tập những bản chép lịch sử Hy Lạp (A Selection of Greek Historical Inscriptions), tập 2) (Oxford, 1948). |
Ulrich Wilcken, Alexander Đại đế (Alexander the Great), G. C. Richards dịch (London, 1932); tái bản với lời giới thiệu những nghiên cứu về Alexander, chú thích và thư mục tài liệu tham khảo của Eugene N. Borza (New York, 1967). |
Arrian ngày nay chỉ được nhớ tới với vai trò là tác giả của cuốn Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế và là học trò của triết gia Epictetus, người đã gìn giữ những bài giảng của thầy mình khỏi sự lãng quên. Tuy nhiên, Arrian còn là nhân vật nổi tiếng trong thời đại của ông. Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế chỉ là một trong số những tác phẩm lịch sử quan trọng, trong khi ông giữ chức quan chấp chính tại La Mã và Athens, đồng thời cai trị một khu vực biên giới của đế chế La Mã suốt một thời gian dài. |
Flavius Arrianus Xenophon, tên đầy đủ của Arrian, là một người Hy Lạp, sinh ra tại Nicomedia, thủ phủ của La Mã thuộc Bithynia, vào khoảng một vài năm trước năm 90 SCN. Ông xuất thân trong một gia đình giàu có, và chính Arrian đã tiết lộ với chúng ta rằng ông giữ chức tư tế (priesthood) của nữ thần Demeter và nữ thần Kore trong thành phố. Giống như những người Hy Lạp giàu có khác, cha của Arrian được công nhận là công dân La Mã, rõ ràng là do một trong những hoàng đế Flavia, mà khả năng cao nhất là vua Vespasian, ban cho. Bởi vậy, Arrian ngay từ khi ra đời đã là một công dân La Mã đầy triển vọng trong sự nghiệp phục vụ vương quyền, nếu ông thực sự theo đuổi điều đó và có đủ năng lực cần thiết. |
Arrian trải qua thời niên thiếu và tuổi trẻ tại mảnh đất quê hương, nơi ông hẳn đã được thừa hưởng một nền giáo dục thượng lưu Hy Lạp theo lối thông thường về văn học và hùng biện. Sau đó, cũng giống như nhiều người Hy Lạp trẻ tuổi khác có vị thế xã hội tương đương – những người theo đuổi sự nghiệp phục vụ vương quyền, Arrian quyết định hoàn thiện học vấn của mình bằng cách theo học triết học. Vào khoảng năm 108, ông đã tới Nicopolis ở Epirus, nơi nhà triết học Khắc kỷ Epictetus đã thành lập một trường học sau khi Domitian ra lệnh trục xuất các triết gia khỏi La Mã vào năm 92/93. Epictetus là một người xuất chúng, đã từng chịu cảnh nô lệ, chủ yếu bận tâm tới những vấn đề đạo đức. Những bài giảng của ông nhấn mạnh vào việc mỗi cá nhân đều phải quan tâm tới tâm hồn của anh ta, coi thường sự giàu có và xa hoa, có nhiều điểm gần gũi với Kitô giáo. Quả thực, thi thoảng, người ta vẫn suy nghĩ một cách sai lầm rằng những quan điểm này hẳn đã chịu tác động của một tôn giáo mới. Giống như Socrates, Epictetus đã không để lại bất cứ trang viết nào, nhưng may mắn thay, ông đã để lại một ấn tượng khó phai đối với người học trò trẻ tuổi đến độ Arrian đã ghi chép lại những lời giảng của thầy mình và sau đó, đã xuất bản chúng trong cuốn Discourses (tạm dịch: Những tranh luận) gồm tám quyển. Bốn trong số tám quyển này vẫn được lưu giữ cho tới ngày nay, đem đến cho chúng ta bức chân dung sinh động về một con người lỗi lạc. Ngoài ra còn có cuốn Manual (tạm dịch: Sổ tay) và Handbook (tạm dịch: Sách kim chỉ nam), mà trong đó, vì lợi ích của công chúng, Arrian đã kết hợp những nội dung chính trong bài giảng của Epictetus. Trong thời Trung đại, cuốn sách này được ưa chuộng và trở thành cẩm nang cho đời sống trong tu viện. Rõ ràng là Arrian đã thu nhận được những tiêu chuẩn đạo đức cao từ Epictetus mà từ thước đo đó, ông đã đem ra để đánh giá Alexander Đại đế. Epictetus cũng nhiệt thành tán dương sự hối hận sau khi hành động sai trái, chúng ta nhận thấy thái độ tương tự khi Arrian ngợi ca cách hành xử của Alexander Đại đế sau khi giết Cleitus. Do Epictetus đã lấy trải nghiệm cuộc đời mình dưới thời Domitian ở La Mã để minh họa cho những bài giảng của ông, những luận bàn của Arrian về “nguyên nhân sụp đổ của các hoàng đế”, kẻ nịnh thần, cũng xuất phát từ một nguồn tương tự. |
Về sự nghiệp phục vụ vương quyền của Arrian cho tới khi ông giữ chức quan chấp chính vào năm 129 hoặc 130, chúng ta chỉ biết rằng ông đã phục vụ tại biên giới Danube, có thể là ở Gaul và Numidia. Sự nghiệp của Arrian có thể đã được thúc đẩy bởi niềm yêu thích văn hóa Hy Lạp của Hadrian, người đã kế vị Trajan, lên ngôi hoàng đế vào năm 117. Nhưng việc bổ nhiệm Arrian giữ chức thống đốc của Cappadocia, một năm sau khi ông giữ chức quan chấp chính là sự thừa nhận khả năng quân sự và tài cai trị của ông; bởi không có bằng chứng nào cho thấy Hadrian cho phép một tình cảm ủy mị nào đẩy đế chế của ngài vào tình trạng nguy hiểm. Trong thời gian khu vực biên giới rộng lớn và trọng yếu của Cappadocia đã mở rộng ra phía Bắc tới tận biển Đen, và dọc bờ biển phía Đông của nó từ Trapezus tới tận Dioscurias, Arrian đã được trao quyền chỉ huy hai quân đoàn La Mã và một lực lượng lớn đồng minh, một quyền chỉ huy hiếm có và có lẽ là vô tiền khoáng hậu đối với một người Hy Lạp trong giai đoạn đó. Đó là một khoảng thời gian đầy xáo trộn “được tạo ra bởi những cuộc chinh phạt ngắn ngủi của Trajan vượt ra ngoài vùng Euphrates, và bằng việc nhanh chóng quay trở lại chính sách phòng vệ của Hadrian”. Vào năm 134, người Alan băng qua vùng Caucasus, đe dọa xâm lược Cappadocia và mặc dù họ không vượt qua được biên giới, Arrian vẫn được ghi nhận là người đã đuổi quân xâm lược ra khỏi vùng Armenia. Tác phẩm còn lại của Arrian, The Formation against the Alans (tạm dịch: Dàn trận chống lại quân Alan), mô tả cách sắp xếp lực lượng của ông, cùng với trật tự hành quân và những chiến thuật được tuân theo. Hai tác phẩm khác đánh dấu thời kỳ ông làm thống đốc vẫn còn tồn tại tới ngày nay, tác phẩm Circumnavigation of the Black Sea (tạm dịch: Hành trình qua biển Đen) và Tactical Manual (tạm dịch: Nghệ thuật tác chiến). Tác phẩm sau có niên đại vào khoảng 136/137 SCN. Cuốn sách chỉ quan tâm tới những chiến thuật của kỵ binh; vì Arrian nói rằng ông đã viết một tác phẩm về chiến thuật bộ binh. Cuốn Circumnavigation of the Black Sea là một ghi chép, dựa trên bản báo cáo chính thức (bằng tiếng Latinh) được ông, với vai trò thống đốc, đệ trình lên hoàng đế về chuyến hải hành từ Trapezus tới Dioscurias và hai chuyến đi khác để xây dựng nên một bản ghi chép về toàn bộ bờ biển Đen. Chuyến hải hành này diễn ra vào giai đoạn đầu Arrian nhậm chức – trong sách ông nhắc tới việc nghe tin về cái chết của vua Cotys năm 131/2 – nhằm kiểm tra những phòng tuyến trong khu vực của mình. |
Arrian được bổ nhiệm chức thống đốc của Cappadocia năm 137, nhưng ông đã rời bỏ chức vụ này hoặc đã được triệu hồi trước thời điểm hoàng đế Hadrian băng hà vào tháng Sáu năm 138. Dường như ông không nắm giữ bất kỳ chức vụ nào cao hơn, vì nhiều lý do mà chúng ta chỉ có thể đoán chừng, nhưng ông đã tiếp tục cư trú tại Athens và dành phần đời còn lại cho việc viết lách. Ông đã trở thành công dân Athens, và vào năm 145/146 ông đã giữ chức quan chấp chính, một chức vị cao của Athens cổ đại. Điều cuối cùng chúng ta biết về ông là vào năm 172/173, ông là thành viên của Hội đồng Areopagus, và năm 180, nhà thơ trào phúng Lucian đã nhắc tới ông bằng những từ ngữ cho thấy ông đã mất. |
Những tác phẩm mà Arrian viết khi ở Athens rất phong phú và đa dạng. Trình tự sáng tác những tác phẩm này không thể được xác định một cách chính xác, nhưng chúng ta có thể tin tưởng rằng những tác phẩm đầu tiên của ông khi đó là tiểu sử của Dion vùng Syracuse, Timoleon vùng Corinth, và cuộc đời của Tilliborus, một kẻ cướp nổi danh, người đã gây tai họa cho Tiểu Á. Tất cả những tác phẩm này đều đã biến mất không một dấu vết. Trong những trước tác của mình, Arrian thường nhắc tới người trùng tên với ông, Xenophon người Athens, với tinh thần ganh đua và tìm kiếm phần bổ sung cho một cuốn sách của nhà văn cao tuổi hơn về cùng một chủ đề. Bằng cách chọn cùng một nhan đề, On the Chase (tạm dịch: Bàn về truy kích), Arrian nhấn mạnh mối liên quan và thách thức sự so sánh. Quả thực, ông viết rằng ông đã dành cả tuổi trẻ của mình để theo đuổi những sở thích giống như của Xenophon thành Athens – săn bắn, chiến thuật, và triết học. Những tác phẩm lịch sử của ông ra đời muộn hơn. Ngoài cuốn Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế, cuốn sách mà nhan đề và sự phân chia thành bảy quyển của nó rõ ràng đã bắt chước cuốn Anabasis của Xenophon, Arrian đã viết Indica (tạm dịch: Lịch sử Ấn Độ), một ghi chép về chuyến hải hành của hạm đội Alexander Đại đế từ Ấn Độ tới vịnh Ba Tư (dựa trên cuốn sách của Nearchus) được mở đầu bằng mô tả về Ấn Độ và con người xứ sở này. Trong Events after Alexander (tạm dịch: Những sự kiện sau khi Alexander qua đời) bao gồm mười quyển, chúng ta hầu như chỉ thấy tường thuật về hai năm đầu tiên. Phần còn lại đã biến mất – chắc chắn là mất mát lớn nhất trong số các tác phẩm của Arrian. Chúng ta chỉ sở hữu những phần không trọn vẹn từ những tác phẩm khác của ông, Parthian History (tạm dịch: Lịch sử Parthia) viết về những cuộc chinh phạt của Trajan trong 17 quyển, và History of Bithynia (tạm dịch: Lịch sử của Bithynia) kể lại câu chuyện về mảnh đất quê hương ông từ thời huyền thoại tới năm 74 TCN, khi vị vua cuối cùng, Nicomedes IV, đã trao lại vương quốc của ngài cho La Mã. |
NHỮNG CUỘC CHINH PHẠT CỦA ALEXANDER ĐẠI ĐẾ |
Cuốn sách này thực sự là một tuyệt tác của Arrian, một sự bảo đảm vĩnh viễn cho danh tiếng của ông. Arrian đã nói rõ về tầm quan trọng của cuốn sách này đối với ông: |
“Tôi không cần tuyên bố danh tính của mình – mặc dù nó chưa từng được ai biết tới; tôi không cần ghi rõ quê hương tôi và gia đình tôi, hay bất kỳ một chức vụ nào mà tôi đã từng nắm giữ. Tôi chỉ muốn nói điều này: rằng cuốn sách này, từ khi tôi còn trẻ, đã quý giá hơn quê hương, dòng họ và sự thăng tiến – quả thực, đối với tôi, nó chính là tất cả những điều đó.” |
Arrian đã nắm bắt được một đề tài hấp dẫn, và một cơ hội tuyệt vời. Không một ai từng viết về Alexander nhiều hơn ông. Không một ai, dù là một nhà thơ hay nhà văn nào, có được sự công minh như ông. Chừng nào những tác phẩm của những tác giả viết về Alexander trước đó còn tồn tại những sai lầm hiển nhiên, chừng đó một Alexander thực sự còn bị che giấu dưới lớp lớp những tuyên bố mâu thuẫn. Những tác giả này thậm chí không thể xác định chính xác địa điểm diễn ra trận chiến quyết định với Darius; họ không biết những ai đã cứu sống Alexander ở Ấn Độ. Chưa bàn tới việc Achilles – người may mắn được Homer thuật lại kỳ công, những người kém may mắn hơn, như những bạo chúa người Sicily chẳng hạn, cũng được ưu ái hơn Alexander. Cuốn sách của Arrian quả thực đã chấm dứt tình trạng này. Tầm quan trọng của Alexander Đại đế to lớn đến mức Arrian đã không ngần ngại thách thức cả những sử gia Hy Lạp vĩ đại. |
Với nhiệm vụ này, Arrian đã sở hữu những lợi thế quan trọng. Chúng ta không thể nói điều gì chắc chắn về thời điểm ông bắt đầu viết cuốn sách này, nhưng nhiều khả năng là không phải ở nửa đầu thế kỷ thứ II. Lúc đó, ông khoảng 60 tuổi; ông chắc hẳn đã đọc rất nhiều tác phẩm về Alexander và quen thuộc với những sử gia cổ đại như Herodotus, Thucydides và Xenophon; ông đã viết một số lượng tác phẩm đáng kể, mặc dù không tác phẩm nào nhiều tham vọng như cuốn sách này; ông ít nhất đã có một nền tảng triết học và có trải nghiệm phong phú về quân trị lẫn cai trị; cuối cùng, và không hề kém quan trọng hơn, ông sở hữu một lương tri (common sence) vượt trội. |
Tuy nhiên, ông cũng chia sẻ nhiều khó khăn lớn với những sử gia khác khi viết về Alexander Đại đế. Người đầu tiên trong số đó là Diodorus người Sicily, người xuất hiện khoảng 300 năm sau cái chết của Alexander Đại đế, người đã dành cuốn sách thứ 17 trong bộ Universal History (tạm dịch: Lịch sử thế giới) của mình để viết về triều đại của Alexander Đại đế. Quintus Curtius, nhà văn Latinh, đã viết cuốn History of Alexander (tạm dịch: Lịch sử về Alexander Đại đế) vào thế kỷ thứ I SCN, trong khi đó vào đầu thế kỷ thứ II, Plutarch, nhà viết tiểu sử người Hy Lạp, đã viết Life of Alexander (tạm dịch: Cuộc đời của Alexander Đại đế), cuốn sách cung cấp một bổ sung hữu ích cho Arrian. Cuốn Philippic Histories (tạm dịch: Lịch sử các diễn văn) của Pompeius Trogus, người viết sớm hơn Diodorus một chút, chỉ còn được lưu lại trong bản tóm tắt nghèo nàn của Justin (thế kỷ thứ III SCN). Tất cả các tác giả này đều phải đối diện với việc lựa chọn những chi tiết nào trong vô số những nguồn dữ liệu mâu thuẫn về cuộc đời của Alexander Đại đế. Bởi vậy, Arrian đã không cường điệu khối lượng dữ kiện mà chọn cách “đương đầu” với các sử gia về Alexander. Phần nhiều những tư liệu về vị hoàng đế này đã biến mất không một dấu vết, những gì còn lại, trong “hình hài” của những tác phẩm không trọn vẹn, gắn với một số tác giả hiện có, khẳng định tuyên bố của Arrian rằng có nhiều lời dối trá về Alexander và vẫn còn tồn tại nhiều phiên bản mâu thuẫn về hành động của vị hoàng đế này. |
Nhiều người tháp tùng Alexander đã viết về cuộc viễn chinh và người lãnh đạo từ quan điểm riêng của họ. Callisthenes, cháu của Aristotle, được coi như là “một chuyên viên báo chí” của Alexander trước người Hy Lạp – vì những đồng minh của ngài không hề nhiệt tình chút nào. Cũng chính Callisthenes đã viết một ghi chép về cuộc viễn chinh mà trong đó nhà vua, người chắc chắn “đã hiệu chỉnh” câu chuyện của Callisthenes, mang nhiều đặc điểm nổi bật của “các anh hùng trong thần thoại”. Phiên bản chính thức này tất yếu phải dừng lại khi tác giả của nó bị bắt giữ, và sau đó bị hành hình vì nghi ngờ mưu phản. Sự kiện cuối cùng được ghi chép lại là trận Gaugamela. Chares, viên thị thần hoàng gia, đã viết một cuốn sách về các giai thoại khi ông còn ở trong triều, trong khi Onesicritus, hoa tiêu chính của Alexander, học trò của Diogenes, đã để lại một ghi chép là sự pha trộn nguy hiểm giữa thật và giả. Đối với ông, Alexander là “một triết gia trong lĩnh vực quân sự”, một người đàn ông mang sứ mệnh. Nearchus, người đã chỉ huy hạm đội của Alexander trong chuyến hải hành từ Ấn Độ tới vịnh Ba Tư, tiếp bước cùng với một ghi chép ít khoa trương hơn, nhưng không may là ghi chép này chỉ bắt đầu từ chuyến hải hành của ông. Sau đó, chỉ giới hạn trong những ghi chép cùng thời quan trọng nhất, chúng ta có những bản chép sử của Ptolemy, người mà sau khi Alexander băng hà, đã trở thành người cai trị và sau này là vua của Ai Cập, và bản chép sử của Aristobulus, người có vẻ là một kỹ sư hay kiến trúc sư. Về những ghi chép này, tôi sẽ bàn tới sau. Nhưng ghi chép về Alexander phổ biến nhất trong những thế kỷ sau đó – mà Cealius, bạn của Cicero, đã đọc được – lại được viết bởi một người không tham gia cuộc viễn chinh, Cleitarchus. Ông đã viết bản sử đó tại Alexandria vào cuối thế kỷ thứ IV, hoặc có thể muộn hơn. Cleitarchus đã mô tả Alexander như “một người anh hùng”, như Callisthenes đã làm, và (có chút phi lý) như người sở hữu những phẩm chất tiêu biểu nhất của một vị vua Hy Lạp. Nhưng sức hấp dẫn chủ yếu của cuốn sách hầu như chắc chắn là từ những mô tả sống động và những tình tiết gây xúc động mạnh, chẳng hạn như việc Thais, gái điếm hạng sang của Hy Lạp đã dẫn dắt Alexander, một kẻ nghiện rượu trong cuộc truy hoan ồn ào dẫn tới việc đốt cung điện tại Persepolis, việc Alexander nhận những mặt hàng xa xỉ của người Ba Tư, bao gồm cả một hậu cung gồm 365 cung phi, rồi cuộc truy hoan kéo dài hàng tuần ở Carmania, vụ đầu độc Alexander, v.v… |
Arrian đã đọc tất cả hoặc đọc phần nhiều những bản chép sử này. Ông chắc chắn quen với những lời phê phán của những trường phái triết học, đặc biệt là phái Khắc kỷ, và những nhà hùng biện. Họ tìm thấy một sự tương hợp trong tật nghiện rượu, tính tự phụ của Alexander, sự thiếu hụt khả năng tự kiểm soát bản thân mà dần trở thành thứ bạo lực giết chóc và những tham vọng thần thánh của ngài. |
Đối mặt với vấn đề về tính xác thực, Arrian quyết định, một cách rất khôn ngoan, sử dụng bản chép sử của Ptolemy và Aristobulus làm nền tảng cho câu chuyện của ông. Ở những chỗ mà hai phiên bản này khớp nhau, ông nhất trí coi những sự kiện đó là chân thực. Ở những điểm họ khác nhau, đôi khi ông dùng cả hai phiên bản; hoặc thường xuyên hơn, khi thấy nghi ngờ, ông chọn theo Ptolemy. Chắc chắn rằng, về những vấn đề quân sự, các ghi chép của Ptolemy là nguồn tham khảo chính của Arrian. Điều này không phải là một sự liều lĩnh. Vì Alexander đã mất trước khi hai sử gia này viết lịch sử về ngài, họ chắc chắn không thể kiếm được món lợi lộc nào từ việc dối trá, trong khi đó với Ptolemy, sẽ là sự nhục nhã cho một vị vua nếu ông bịa đặt. Không khó khăn gì khi tìm kiếm những lý do cho việc tại sao Aristobulus và đặc biệt là Ptolemy có thể không quan tâm tới việc nói sự thật hay tại sao họ lại che giấu một phần sự thật. Nhưng sẽ có lý hơn khi tin rằng, Arrian đã đi tới một quyết định, sau một quá trình nghiên cứu lâu dài các cứ liệu sẵn có, rằng những tác giả này cung cấp những ghi chép trung thực nhất và đáng tin nhất về Alexander. Để bổ sung cho những tác phẩm của họ, Arrian cũng sử dụng “những câu chuyện” của các sử gia khác, chẳng hạn như Callisthenes và Chares, ở những điểm có “mối liên hệ đáng kể và đáng tin nhất”. |
Trong giới hạn mà chúng ta có thể nhận định, lựa chọn Ptolemy như là nguồn cứ liệu chính của Arrian là hoàn toàn đúng đắn, đặc biệt là khi ông quan tâm rất nhiều tới những vấn đề quân sự vì Ptolemy là một người chinh chiến nhiều kinh nghiệm, người đã góp phần vào nhiều cuộc chiến mà ông mô tả, mặc dù ban đầu không phải là một nhân vật xuất sắc. Những ghi chép của Ptolemy về những cuộc chiến lớn của Alexander, như chúng ta thấy qua con mắt của Arrian, không cách nào tránh được việc có những chỗ khó hiểu, có lẽ vì khó khăn của một người trong cuộc với việc duy trì một cái nhìn toàn cảnh về cuộc chiến. Chúng ta cũng nên ghi nhớ rằng Ptolemy đã không nằm trong Bộ tham mưu (The Staff) cho tới tận cuối năm 330. Những hoạt động quân sự khác, cụ thể là những hoạt động mà Ptolemy đã tham gia, đều được ghi chép với sự rõ ràng đáng ngưỡng mộ, mặc dù ông có khuynh hướng phóng đại đóng góp của mình. Điều này có thể hiểu được và không quan trọng lắm. Khó cảm thông hơn là sự bôi nhọ Perdiccas có hệ thống một cách rõ ràng, người vốn là đối thủ khó ưa của Ptolemy trong cuộc tranh chấp quyền lực sau cái chết của Alexander. Sai lầm chính trong cuốn sách của ông dường như là ở sự dè dặt về một vài tình tiết dễ gây tranh luận hơn hoặc có thể dễ mang tai tiếng về sự nghiệp của Alexander. Arrian đã không trích dẫn ông như một nguồn chính cho câu chuyện về vụ giết hại Cleitus, mặc dù khó có thể tin rằng Ptolemy đã không nhắc gì tới bi kịch này, trong khi đó các ghi chép của ông lẫn của Aristobulus đều là cơ sở để Arrian viết về nỗ lực của Alexander trong việc du nhập nghi lễ phủ phục (proskynesis). Dường như Ptolemy đã không nói gì hơn về những tình tiết này. Điều tương tự có lẽ cũng xảy ra với “âm mưu” của Philotas và các cận thần trẻ tuổi, mặc dù ông đã buộc tội cả Philotas lẫn Callisthenes. |
Cuốn sách của Aristobulus đã cung cấp một bổ sung hữu ích cho Ptolemy, vì Aristobulus dường như quan tâm hơn tới địa lý và lịch sử tự nhiên. Hầu hết các chi tiết địa lý và đo đạc địa hình trong Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế đều được lấy từ cuốn sách của Aristobulus và ông cũng là người mô tả những tính toán đo đạc của Alexander nhằm cải tiến hệ thống kênh đào của Babylon và hàng hải trên sông Tigris. Aristobulus cũng là người được nhà vua ra lệnh khôi phục lăng mộ của Cyrus gần Pasargadae, nơi đã bị bọn trộm cướp tàn phá. Chúng ta mắc nợ ông những mô tả về lăng mộ này trước và sau khi bị cướp phá, những mô tả mà sau này đã được khảo cổ học hiện đại công nhận. Câu chuyện sống động về cuộc hành quân qua sa mạc Gedrosia với những quan sát về thực vật học có giá trị có lẽ cũng được khai thác từ cùng một nguồn. Cũng chính Aristobulus là người thuật lại công cuộc khai phá những bờ biển ở Ả Rập cùng những kế hoạch mà Alexander đã thực hiện cho cuộc chinh phục vùng đất này. Một trong những động lực viễn chinh của Alexander đã được Aristobulus tiết lộ là ngài muốn những người Ả Rập thừa nhận mình là một vị thần – điều mà chúng ta biết được từ Strabo, vì Arrian đã không nhắc tới nguồn cứ liệu mà ông đã sử dụng. |
Tuy nhiên về khía cạnh cá nhân, trước tác của Aristobulus đặt ra nhiều nghi vấn. Trong khi Ptolemy sẵn lòng vượt qua những khía cạnh không mấy dễ chịu trong tính cách của Alexander, cuốn sách của Aristobulus dường như có tính chất “biện giải” rõ ràng khiến nó có phần “khoa trương” (kolax). Sử gia này đã nhấn mạnh một cách công tâm sự rộng lượng của nhà vua đối với hoàng tộc Ba Tư bị bắt giữ, và kiên trì giữ quan điểm về việc Cleitus tự chuốc lấy rắc rối. Tuy vậy, mặc dù ông buộc tội Philotas và Callisthenes, ông rõ ràng dè dặt hơn Ptolemy khi đưa ra những nhận xét đánh giá. Sau đó, việc Aristobulus tuyên bố rằng đức vua không phải là một kẻ nghiện rượu nặng, dù ngài vẫn còn sa đà vào những dạ yến chỉ với mục đích đàm luận, hẳn đã khiến người ta cảm thấy nực cười. Chỉ riêng vụ giết hại Cleitus đã bác bỏ tuyên bố này. Trên thực tế, nó thể hiện một phản ứng thái quá từ quan điểm khó lòng bào chữa được về việc Alexander nghiện rượu. Nhiều sử gia đã mô tả nhà vua vào lúc cuối đời như là nạn nhân của nỗi sợ hãi có tính chất cuồng tín. Theo những gì họ thuật lại thì Alexander, nghe theo lời khuyên của các nhà tiên tri, đã hành hình một thủy thủ dám đeo dải băng có dấu hiệu hoàng gia và một người đàn ông dám ngồi lên ngai vàng. Tuy nhiên, Aristobulus lại nói rằng người thủy thủ đó chỉ bị phạt đánh và sau đó được thả đi, còn người đàn ông thứ hai đã bị hành hình vì động cơ của y, điều đó ngụ ý rằng, y không phải chịu nhiều đau đớn hơn. Tuy nhiên, điều này rất đáng nghi ngờ, nhất là khi kẻ này bị đem ra để trút giận. Mặt khác, Aristobulus thuật lại rằng chính nhà tiên tri Peithagoras đã kể với ông rằng Alexander rất ưu ái ông vì Peithagoras đã tiết lộ với ngài rằng kết quả của những lần hiến tế cho thấy một thảm họa sắp giáng xuống đầu ngài. |
Arrian đã đem đến cho công trình của mình sự kiên nhẫn, lương tri, tri thức nhân văn sắc sảo cũng như trải nghiệm quân trị và cai trị đáng kể. Về những vấn đề quân sự, ông tôn trọng những kết quả mà Ptolemy đã đưa ra. Sau đó, ông đi theo một nguồn thông tin đáng tin cậy từ một nhóm nhỏ những người Macedonia, những người mà ông dường như luôn luôn hiểu rõ. Sẽ là nóng vội khi đánh giá thấp Arrian bằng cách nói rằng ông chẳng làm được gì nhiều ngoài việc tóm tắt trước tác của Ptolemy. Như vậy là không công bằng. Chúng ta chỉ so sánh ghi chép của Arrian về Issus hoặc về Gaugamela với ghi chép của Quintus Curtius, người chắc chắn đã tiếp cận cuốn sách của Ptolemy một cách trực tiếp hoặc gián tiếp qua một nguồn khác, để đánh giá thành tựu của ông. Điều này không có nghĩa là tác phẩm của Arrian về những hoạt động quân sự đã hoàn toàn làm thỏa mãn độc giả, hay ông đã nói với chúng ta mọi điều mà chúng ta muốn biết về quân đội Macedonia. Chẳng hạn, chúng ta không biết rằng người ta trả công cho những người lính thuộc các đơn vị khác nhau bằng hình thức nào, và quan trọng hơn, chúng ta gần như chẳng biết bất cứ điều gì về khâu hậu cần của quân đội. Một lần nữa, về trận Gaugamela, Arrian thất bại trong việc giải thích làm cách nào người đưa tin từ Parmenio có thể tìm tới Alexander sau khi anh ta đã bắt đầu đuổi theo Darius. Đôi khi ông dường như đã hiểu nhầm Ptolemy, vì việc người Macedonia tin rằng Alexander, sau khi băng qua sông Hydaspes, đã dẫn đầu đội kỵ binh của ngài với hy vọng có thể đánh bại toàn bộ đội quân Porus, là điều hoàn toàn không chắc chắn. Mặt khác, Arrian phê phán một cách hợp lý tuyên bố của Aristobulus về việc con trai của Porus đã được cử tới chỉ với 60 chiến xa để ngăn Alexander băng qua sông Hydaspes, và tán dương vị hoàng đế đã dám từ chối việc liều mạng tấn công người Ba Tư ngay trong đêm tại Gaugamela theo lời khuyên của Parmenio. Hơn nữa, Arrian gần như đã luôn sử dụng những thuật ngữ kỹ thuật rất chính xác, điều đem lại một sự trợ giúp lớn đối với sinh viên ngành lịch sử quân sự. Ông cũng quan tâm tới tên các vị chỉ huy của những đơn vị quân sự. Việc Arrian sử dụng taxis (“đơn vị”) như là một từ hữu ích và “Chiến hữu” (Hetairoi) để nói tới đội Kỵ binh Chiến hữu hoặc chỉ “Những người thân cận” của Alexander đã gây ra nhiều khó khăn, nhưng về điều này, Arrian hầu như không thể chịu trách nhiệm. Sự quan tâm tỉ mỉ tương tự hiển nhiên dành cho những vấn đề cai trị. Những sắc lệnh của các thống đốc được nhắc tới một cách đúng đắn, và trong suốt cuốn sách, với những người Macedonia Arrian cẩn thận viết thêm tên cha của họ, chẳng hạn như Ptolemy, con trai của Lagus, và đối với người Hy Lạp, ông viết thêm tên thành phố quê hương của họ. Nếu Arrian không làm như vậy, chắc chắn sẽ gây ra nhiều nhầm lẫn, vì xét thấy thiếu tên chính xác của những người Macedonia, và có vô số người mang tên Ptolemy hay Philip. |
Tuy vậy, chúng ta phải lấy làm tiếc rằng Arrian đã giải thích chủ đề của ông theo một khuôn mẫu phần nào hạn hẹp, có lẽ là vì hình mẫu của ông, sử gia Xenophon, cũng chỉ tập trung vào cuộc viễn chinh của mình. Không giống như Polybius, Arrian không bàn luận tại sao Alexander xâm lược châu Á – tuy nhiên, ông hẳn sẽ nói rằng đó là vấn đề đối với sử gia của Philip và rằng Alexander không bao giờ nghĩ về việc ngừng lại một cuộc hành quân khi nó đã thực sự bắt đầu – ông cũng không nhắc tới những cuộc hành quân trước ở châu Á hoặc sự hiện diện của lực lượng Macedonia ở châu Á vào năm 334. Ghi chép của ông về những sự kiện vào năm 336, điều đã xác định những mối liên hệ của Alexander với những thành bang Hy Lạp, ít nhất về mặt hình thức, đã được xử lý một cách giản lược đến mức chỉ có thể hiểu một cách mơ hồ. Hệ quả là độc giả, tôi ngờ rằng, sẽ cảm thấy băn khoăn khi Arrian nói tới “những quyết định của người Hy Lạp” trong khi chẳng hề nhắc tới Liên minh Corinth. Trên thực tế, mối quan hệ của Alexander với những thành bang Hy Lạp và những sự kiện xảy ra ở Hy Lạp trong suốt cuộc viễn chinh hầu như hoàn toàn không được chú ý tới. Điều này, ở một vài mức độ, có thể hiểu và biện minh được, mặc dù những hy vọng của người Ba Tư về việc đẩy cuộc chiến tranh sang Hy Lạp vào năm 333 sẽ trở nên khó hiểu nếu không có cơ sở là sự bất mãn của Hy Lạp. Quả thực, thiên kiến của Arrian với Alexander dẫn ông tới chỗ xử lý hết sức sơ sài đoạn quan trọng này trong cuộc chiến cho dù âm mưu này của người Ba Tư đã sớm thất bại. Ngoài ra, độc giả hẳn phải cảm thấy rất hiếu kỳ, về chuyện đã xảy ra với Vua Agis của Sparta, người đã biến mất khỏi những trang viết của Arrian sau khi nhận 30 ta-lăng và 10 con tàu từ người Ba Tư, thậm chí là về cuộc nổi loạn của người Sparta vào năm 331 mà Alexander được thuật lại là có lưu tâm tới. |
Arrian rõ ràng không hề nỗ lực đem đến một ghi chép toàn diện về chiến tranh, hoặc về những tiền đề của nó. Chúng ta chỉ tình cờ nghe thấy những vấn đề về đế chế Ba Tư đã diễn ra trước khi Darius lên ngôi vào năm 336, và mọi độc giả hẳn phải tự hỏi rằng: “Tại sao người Ba Tư lại cho phép lực lượng của Alexander băng qua châu Á mà không có sự phản kháng nào?” Thậm chí, sau khi cuộc viễn chinh bắt đầu, chúng ta còn được biết về điều người Ba Tư dự định làm khi họ liên hệ với Alexander. Chỉ trong đêm ở Issus vào tháng Mười một năm 333, chúng ta mới được nghe về những kế hoạch của Darius trong những tháng trước. Arrian đã thận trọng bỏ qua tình trạng của quân Ba Tư, như Giáo sư Brunt đã chứng minh. Ông không phớt lờ những vấn đề của người Ba Tư, nhưng phương pháp của ông “là đi theo những cuộc tiến công và mô tả những hành động của chính Alexander.” |
Chân dung Alexander của Arrian, nói chung, rộng mở với việc phê bình hơn là tường thuật về những hoạt động quân sự của ông, một phần thông qua sự tin cậy của ông với Ptolemy và Aristobulus. Tuy nhiên, bức chân dung Alexander này không đơn giản là một tổng hợp những cứ liệu của Arrian; bởi Arrian sở hữu một tính cách nổi trội mà chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng trong thái độ của ông đối với vấn đề tôn giáo và đạo đức. Phần nhiều những đặc điểm tính cách về Alexander mà Arrian mô tả là không thể bác bỏ được. Chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng những phẩm chất đã khiến vị hoàng đế này có thể duy trì vị trí thống lĩnh đối với quân đội trong vòng nhiều năm, một khả năng lãnh đạo táo bạo vốn luôn được mong đợi ở một vị tướng trong thời đại của Alexander Đại đế – dù Arrian không che đậy sự thật rằng những người dưới quyền vị hoàng đế này đôi khi cho rằng nhà vua đã đi quá xa trong việc mạo hiểm cuộc đời mình; niềm tin vào chiến thắng (điều hiếm khi không được như ý), mà cùng với điều đó, ngài đã truyền cảm hứng cho đội quân của mình; và cuối cùng là sự quan tâm của Alexander đối với sự sung túc của những người dưới quyền. Chúng ta cần nhớ rằng, sau chiến thắng tại Granicus, Alexander “quan tâm tới những người bị thương; ngài tới thăm họ, kiểm tra vết thương của họ, hỏi từng người xem họ bị thương như thế nào và trong hoàn cảnh nào, lắng nghe câu chuyện của họ và cho phép họ phóng đại tùy thích.” Chúng ta nhớ lại sự quả quyết và ngoan cố của ngài trong nhiều giai đoạn khó khăn, nổi bật là trong lần đối đầu với sự kháng cự liều mạng của những người Tyre trong bảy tháng trời ròng rã, và lòng can đảm của ngài trong tai ương, được minh chứng bằng “hành động đáng khâm phục nhất”, từ chối uống nước trong chiếc mũ sắt, vốn quá ít ỏi để cả đội quân chia sẻ, trong cái nóng như thiêu như đốt của sa mạc Gedrosia – một bằng chứng, mà như Arrian đã lưu ý, cho thấy khả năng chịu đựng và tài chỉ huy của Alexander. Arrian cũng tán dương cách cư xử rộng lượng của Alexander đối với Porus, một vị vua bại trận người Ấn Độ – mặc dù điều này không đồng nghĩa với sự giúp đỡ không vụ lợi – và lòng trắc ẩn của ngài đối với hoàng tộc Ba Tư bị bắt giữ. Trong cuốn sách, có nhiều ví dụ về tình cảm của Alexander đối với những chiến hữu của ngài, đặc biệt là với người bạn chí cốt Hephaestion. Lòng tin của vị hoàng đế đối với họ đã được mô tả một cách sinh động trong câu chuyện nổi tiếng với thầy thuốc Philip. Arrian cũng đã nhiệt thành bình luận về sự ăn năn của Alexander sau khi giết hại Cleitus. |
Khi trí tưởng tượng của Arrian được nhen lên bởi những tình tiết như vậy, ông đã đẩy câu chuyện lên cao trào và đạt tới độ hùng biện. Trong hầu hết các phần, ông bằng lòng với việc để câu chuyện tự nói lên ý nghĩa của mình. Chắc hắn, ông đã né tránh một cách thận trọng thuyết duy cảm và phủ nhận một cách rõ ràng sự thật về những câu chuyện được ưa thích kiểu như chuyến viếng thăm của nữ hoàng Amazon hoặc cuộc truy hoan kéo dài hàng tuần dọc Carmania. Có lẽ không đoạn văn nào mô tả sự ngưỡng mộ của Arrian đối với người anh hùng của ông tốt hơn và làm nổi bật giọng điệu tự sự của ông hơn là trong đoạn Arrian mô tả Alexander Đại đế trở về với đội quân của mình sau khi bình phục khỏi vết thương đã suýt khiến ngài bỏ mạng. Tôi xin trích dẫn phần cuối của đoạn này: |
Ngài bước xuống gần khu trại và quân lính nhìn ngài bước đi; họ tập trung xung quanh ngài, chạm vào tay, vào đầu gối, vào quần áo của ngài; một vài người, bằng lòng với việc nhìn thấy ngài đang đứng gần, quay đi với lời cầu nguyện ở trên môi. Những vòng hoa được quàng lên ngài và những bông hoa dường như trở nên rực rỡ hơn. |
Nhưng sự ngưỡng mộ hiển nhiên của Arrian đối với Alexander và những thành tựu của ngài cũng không ngăn ông chỉ trích người anh hùng của mình vì ngài đã không đạt được những tiêu chuẩn cao mà một người khắc kỷ như Arrian cho rằng một ông vua nên đạt được. Cụ thể, Alexander đã bị phê phán một vài lần vì tham vọng quá lớn. Arrian không biết và sẽ không suy đoán về những hoạch định tương lai của Alexander, nhưng ông tin rằng vị hoàng đế này sẽ không bao giờ hết đam mê với những cuộc chinh chiến. Những nhà thông thái Ấn Độ đã được khen ngợi bởi quan điểm “mỗi người chỉ nên sở hữu mảnh đất mà anh ta đang đứng”, và Alexander, mặc dù tán thưởng quan điểm này, vẫn luôn hành động hoàn toàn trái ngược. Rõ ràng là đối với Arrian, những cuộc chinh phục của Alexander chỉ là biểu hiện của tham vọng khôn cùng về danh tiếng. Điều này phần nào là sự thật, nhưng không phải là toàn bộ câu chuyện. Arrian đã chỉ trích lá thư của Alexander gửi cho Cleomenes, thống đốc Ai Cập, trong đó nhà vua hứa sẽ tha thứ cho những tội lỗi trong quá khứ của ông ta, đồng thời cho phép ông ta làm những việc cần thiết trong tương lai nếu ông ta xây dựng những đền thờ ở Ai Cập vinh danh Hephaestion. Sự hiểu biết và lòng nhân đạo của sử gia thể hiện rõ ràng trong thái độ của ông với vụ giết hại Cleitus. Hành động của Alexander đã khiến Arrian cảm thấy thương xót cho người đàn ông đã sa đà vào hai thói trụy lạc là nhục dục và rượu chè. Nhà vua đã không giữ được tự chủ – điều mà Arrian đã lưu ý từ trước rằng đây là yếu tố cần thiết để đem lại hạnh phúc. Quan điểm tương tự cũng xuất hiện trong bài diễn văn của Coenus tại sông Hyphasis khi ông nói với Alexander rằng: “Khi chúng ta được ưu đãi mọi thứ, tinh thần tự chủ là điều đáng khâm phục” – chắc chắn đây là quan điểm riêng của Arrian, dù nó có được Coenus chia sẻ hay không. |
Theo quan điểm của tôi, nhược điểm chính trong chân dung Alexander của Arrian nằm ở hai chỗ – một là khuynh hướng che đậy khía cạnh ít hấp dẫn hơn trong tính cách của nhà vua mà hẳn bắt nguồn từ nguồn cứ liệu về ông, và hai là thất bại của Arrian trong việc đánh giá đúng mục đích của Alexander, đặc biệt là về vấn đề người Ba Tư. |
Điều thứ nhất là rõ ràng khi viết về thời điểm trước khi cuộc viễn chinh bắt đầu. Những đồng minh Hy Lạp đã chê trách Alexander vì cuộc tàn sát người Thebes, phá hủy thành phố này và biến những người sống sót thành nô lệ. Trong Những cuộc chinh phạt của AlexanderĐại đế không có một điều gì được thuật lại về trách nhiệm của Alexander khi thông qua hình phạt này, mặc dù thực sự ngài phải chịu trách nhiệm về điều đó. Tuy nhiên, kể cả Plutarch, người mà không ai có thể buộc tội là có thái độ thù địch với Alexander, cũng ngầm cho rằng Alexander phải chịu trách nhiệm cho việc này; và mục đích của Alexander (khi thông qua hình phạt với Thebes), như Plutarch đã nhận thấy, là làm kinh sợ những thành bang Hy Lạp khác, khiến họ phải quy phục ngài. Về trận Granicus, Arrian thuật lại mà không bình luận gì về vụ thảm sát gần 18.000 lính đánh thuê Hy Lạp cũng như không hề lưu tâm tới sự dã man hay tính không thích hợp của nó. Tương tự, vụ thảm sát 7.000 người Ấn tại Massaga Ấn Độ cũng được kể tới mà không có một nhận xét nào. Về việc Philotas dính líu vào âm mưu chống lại nhà vua, Arrian bằng lòng chấp nhận tuyên bố của Ptolemy, mặc dù “những bằng chứng rõ ràng” cho tội lỗi này chưa được viện dẫn đầy đủ. Hơn nữa, việc đốt cháy cung điện tại Persepolis được nhắc tới rất ngắn gọn mà không hề đề cập tới một phiên bản khác cho rằng nó đã bị đốt trong một bữa tiệc rượu. Nhưng mặt khác, Arrian đã đem đến một ghi chép được cân nhắc kỹ hơn về vụ giết Cleitus so với Aristobulus, và rõ ràng ông miễn cưỡng chấp nhận những khẳng định của Ptolemy và Aristobulus khi cho rằng Callisthenes có dính líu tới âm mưu phản loạn của các cận thần trẻ tuổi. |
Điều mà độc giả hiện đại thấy thiếu vắng trong cuốn sách của Arrian là đánh giá về những vấn đề lớn hơn. Alexander xuất hiện như một nhà lãnh đạo lớn, một người chinh phục vĩ đại, người sở hữu một tham vọng khôn cùng, người đã đạt tới thành công tột đỉnh của nhân loại và nếu ngài đã phạm phải những tội ác lớn, ngài là người biết hối lỗi. Dĩ nhiên, cuộc chinh phạt đế chế Ba Tư là thành tựu vĩ đại nhất của Alexander, nhưng điều chúng ta muốn biết là phải chăng ngài còn hơn cả một nhà chinh phục vĩ đại nhất. Ngài đã xây dựng những kế hoạch gì cho đế chế của mình? Ngài muốn những thần dân của mình xây dựng phần nào trong đế chế đó? Giữa vô số những điều mơ hồ về Alexander Đại đế, có một điều rõ ràng là ngài rất hăng hái với điều mà những nhà văn hiện đại gọi là “chính sách liên minh”. Biểu hiện rõ ràng nhất về chính sách này là lời cầu nguyện của ngài tại Opis – một lời cầu nguyện mà Arrian ghi chép lại nhưng không hề bình luận gì – rằng người Macedonia và người Ba Tư sẽ chung sống hòa bình và cùng nhau cai trị vương quốc. Đây là một quan điểm có tính cách mạng, mà chúng ta có thể chắc chắn rằng nó đã không được cả người Macedonia lẫn nhiều người Hy Lạp đồng tình. Theo Plutarch thuật lại thì đó là vì người thầy lỗi lạc nhất của Alexander Đại đế, triết gia Aristotle, người đã truyền cho ngài tình yêu văn chương Hy Lạp mà đặc biệt là những tác phẩm của Homer, đã viết thư khuyên răn vị vua trẻ hãy đối xử với những người Hy Lạp như một nhà lãnh đạo và đối xử với “những kẻ dã man” như một ông chủ. Thái độ khinh thị đối với “những kẻ dã man” này chắc chắn là phổ biến. Nhưng Alexander, người hẳn đã nghi ngờ điều này trước khi cuộc viễn chinh bắt đầu – Artabazus và những lãnh đạo người Ba Tư khác đều đã sống trong cảnh tha hương dưới triều đại của vua Philip khi Alexander còn là một đứa trẻ – đã nhanh chóng bác bỏ nó. Sau trận Gaugamela, chúng ta thấy Alexander đã chỉ định những người Ba Tư làm thống đốc, chắc chắn không phải vì thiếu những người Macedonia thích hợp với chức vụ này. |
Arrian rõ ràng đã đồng tình với thiên kiến chống lại “những kẻ dã man” của Aristotle và không chấp nhận quan điểm của Alexander về tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Trong lần mô tả tính cách của Alexander ở cuối cuốn sách, ông nhìn nhận việc hoàng đế chấp nhận trang phục của người Ba Tư và việc ngài nhập đội quân Ba Tư vào quân đội Macedonia chỉ như “một kế sách” để cho thấy ngài không có thái độ khinh thị với những thần dân Ba Tư của mình. Quả thực, Arrian đã sớm chê trách việc hoàng đế chấp nhận trang phục phương Đông như là một hành động “dã man” mà không có khác biệt nhiều lắm với hình phạt “man rợ” của ngài với Bessus. Cả hai hành động, dưới con mắt của Arrian, đều làm nên giá trị con người của Alexander. Kể cả trong trường hợp Bessus, Arrian không nhận ra rằng Alexander với vị thế là một “Hoàng đế vĩ đại” đã sử dụng một hình phạt của người Ba Tư đối với Bessus. Ở một chỗ khác, ông cho rằng Alexander “đang dần hướng tới sự phung phí quá độ “của những kẻ dã man”, và việc hoàng đế kết hôn với Roxane, công chúa người Bactria, là một hành động khai sáng. Về điều này, ông viết: “Tôi ủng hộ ngài hơn là chê trách.” Arrian ý thức rõ về việc “Chính sách liên minh” cùng với việc chấp nhận trang phục Ba Tư và nghi lễ hoàng gia Ba Tư là một nỗi sỉ nhục cay đắng đối với những người Macedonia. Men rượu khiến Cleitus dám tỏ bày những lời bất bình được sẻ chia và cảm thông sâu sắc, trong khi quy mô âm mưu phản loạn của các cận thần trẻ tuổi khiến người ta nghĩ rằng động cơ của họ phần nhiều không phải vì mục đích cá nhân mà là vì chính trị. Tuy vậy, Arrian chưa từng tự đặt ra câu hỏi rằng nếu chính sách liên minh đơn giản chỉ là một “phương kế” để lấy lòng người Ba Tư thì tại sao Alexander lại khăng khăng duy trì nó ở mức độ rộng lớn như vậy? |
Plutarch đã có phần cường điệu khi cho rằng số lượng thành phố mà Alexander sáng lập đã lên tới con số 70. Trong Những cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế, Arrian nhắc tới một con số ít hơn mười hai thành bang; đó không phải là lý do để phàn nàn, vì ông đã không đưa ra bản liệt kê nào. Chúng ta cũng không hề được biết về những động cơ của Alexander, mà như nhiều học giả cho rằng động cơ quân sự hoặc kinh tế, vốn chỉ là một phần trong sứ mệnh lan truyền văn hóa Hy Lạp khắp châu Á của ngài. Qua cuốn Lịch sử Ấn Độ, chúng ta được biết rằng ngài đã khuyến khích những người Cossaea từ bỏ thói quen du canh du cư để sống định cư trong những thành phố mới được xây dựng. |
Theo ghi chép về những ngày cuối cùng của hoàng đế, Alexander thực sự đảm nhiệm rất nghiêm túc các sứ mệnh tôn giáo của mình. Arrian thường thuật lại rằng hoàng đế tổ chức lễ hiến tế hoặc tiệc rượu, và coi những lời tiên tri được đưa ra bởi những nhà tiên tri của ngài, nổi tiếng nhất là Aristander, là hoàn toàn chính xác. Chỉ có duy nhất một lần, trước việc vây hãm Tyre, Arrian đã mỉa mai: “Dù mơ hay không mơ, điều hiển nhiên là vây hãm Tyre là một việc vô cùng khó khăn.” Tuy nhiên, thái độ phản đối hay hoài nghi của Arrian về việc nhà vua rất chăm lo tới chuyện thờ cúng trong thời đại của ngài – một thái độ mà Arrian chia sẻ với Plutarch và sử gia Appian – đã khiến ông không đánh giá đúng những tham vọng thần thánh của Alexander. Việc Alexander tin rằng ngài chính là con trai của thần Zeus-Ammon, vì tổ tiên của ngài, Hercules là con trai của thần Zeus, là rất chắc chắn, mặc dù phải thừa nhận là không thể đưa ra bằng chứng. Alexander đã lên đường tới Siwah với “hy vọng biết thêm về bản thân một cách chính xác hơn, hay ít nhất là để nói rằng ngài đã biết được điều gì đó”. Đối với Arrian, tuyên bố của Alexander chỉ là một “phương kế” khác nhằm gây ấn tượng với thần dân của ngài. Arrian bộc lộ thái độ hoài nghi tương tự về sự thần thánh của Alexander. Năm 324, các thành bang Hy Lạp, chắc chắn là để đáp lại “đề nghị” của nhà vua, đã gửi những theoroi (những sứ thần được gửi đi vì sứ mệnh thiêng liêng) tới để trao mũ miện bằng vàng cho ngài ở Babylon. Việc các sứ thần đó là những theoroi là không thể nghi ngờ; việc chính họ cũng đội mũ miện chứng minh điều đó. Nếu Arrian viết rằng “họ tới như những theoroi thực sự”, sử dụng từ gốc Hy Lạp với hàm ý ngờ vực hoặc mỉa mai, ông hẳn có ý nói Alexander, vốn là một người phàm, sẽ không bao giờ có thể trở thành một vị thần. Các vị thần luôn bất tử, con người thì không, và “sau cùng”, như Arrian đã bình luận một cách lạnh lùng, “Alexander mất không lâu sau đó”. |
Arrian đã đem đến một trước tác tốt nhất và đáng tin cậy nhất về cuộc viễn chinh của Alexander Đại đế, tránh được những cường điệu mà các vị tiền bối của ông mắc phải, đồng thời sửa chữa lại những chỗ nhầm lẫn của họ. Trong khi những ghi chép sử của Diodorus và Curtius, cụ thể là, tiểu sử của Plutarch đã soi sáng (và đôi khi làm mờ) tính cách của Alexander, có lúc là về cả những kỳ công quân sự của ngài, thì cuốn sách của Arrian lại là nền tảng cho hiểu biết của chúng ta. Nó gây ấn tượng cho độc giả như thể đây là tác phẩm của người đàn ông trung thực nhất, người đã có những nỗ lực nghiêm túc và tỉ mỉ để khám phá sự thực về Alexander Đại đế – một nhiệm vụ dường như là bất khả trong thời đại của ông – và là người đã phán xét với lòng nhân ái những nhược điểm mà một người đàn ông đã bộc lộ ra trước những cám dỗ của vương quyền tối cao. Chúng ta không phủ nhận những điểm hạn chế của cuốn sách, nhưng cần phải ghi nhớ rằng quan điểm của Alexander về đế chế của ngài, gồm cả những kẻ chinh phục Macedonia và những kẻ bị chinh phục Ba Tư, đã biến mất cùng với ngài. Việc làm thế nào để chung sống với kẻ bị chinh phục và liên kết làm một với họ trong một chính quyền là một quan điểm đã không được hoàn thiện cho đến rất lâu sau khi Alexander qua đời. |
QUÂN ĐỘI CỦA ALEXANDER ĐẠI ĐẾ |
Vào mùa xuân năm 334, Alexander khởi hành từ Macedonia, rời Antipater với 12.000 bộ binh và 1.500 kỵ binh để bảo vệ mảnh đất quê hương và trông chừng những thành bang Hy Lạp. Quy mô của đội quân mà cùng với nó, ngài đã băng qua eo biển Hellespont được ghi chép lại rất khác nhau, tổng số dao động trong khoảng 30.000 tới 43.000 bộ binh và từ 4.000 tới 5.500 kỵ binh. Nhưng con số chi tiết mà Diodorus đưa ra: 32.000 bộ binh và 5.100 kỵ binh, về cơ bản, gần với tổng số mà Arrian (Ptolemy) đưa ra, và có thể là con số chính xác. Quy mô và cách bố trí lực lượng giữ khu vực chiếm được trên đất của địch tại Abydos – nơi chắc chắn đã có sự xuất hiện của vài đội quân vào năm 334 – chưa được biết tới, nhưng có nhiều khả năng nó chỉ là một lực lượng nhỏ và chủ yếu là bộ binh đánh thuê. |
Trụ cột của bộ binh là bộ binh hạng nặng Macedonia, “Bộ binh Chiến hữu” (Foot Companions), đã được tổ chức dựa trên nền tảng quân địa phương thành sáu tiểu đoàn (taxeis), mỗi tiểu đoàn khoảng 1.500 người. Thay vì mang theo cây thương chín feet (gần 3 mét) như bộ binh hạng nặng của Hy Lạp, bộ binh Macedonia được vũ trang với một thanh giáo hoặc sarissa khoảng từ 4 đến 4,3 mét, mà phải dùng cả hai tay mới sử dụng được. Một tấm khiên tròn, màu sáng được đeo ở vai trái, nhỏ hơn tấm khiên thường được lính Hy Lạp mang theo và sử dụng bằng tay trái. Cả bộ binh Hy Lạp lẫn Macedonia đều mặc giáp và đội mũ sắt, nhưng có thể là lính Macedonia không mặc giáp che ngực. Đội hình phalanx (một thuật ngữ tiện dụng để chỉ toàn bộ bộ binh Macedonia hạng nặng), giống như tất cả những đội quân Macedonia khác, đều được vua Philip áp dụng một tiêu chuẩn rèn luyện và kỷ luật xuất sắc. Không giống như đội hình phalanx mà người La Mã đã chạm trán khoảng một thế kỷ trước, đội hình phalanx của Alexander có tính cơ động cao và có khả năng áp dụng chiến thuật nhanh, như chúng ta sẽ được thấy khi đọc sáu chương đầu tiên trong cuốn sách của Arrian. |
Trong trận chiến, cánh phải của đội hình phalanx được bảo vệ bởi những Hypaspist hay “Vệ quân”. Họ là một tập hợp những người xuất sắc, bao gồm tiểu đoàn Hoàng gia (agema) và hai tiểu đoàn khác, mỗi tiểu đoàn xấp xỉ 1.000 người. Alexander thường sử dụng họ trong những cuộc hành quân nhanh chóng và những hoạt động lưu động khác, thường kết hợp với kỵ binh và những đội quân vũ trang hạng nhẹ. Điều này cho thấy, mặc dù không được chứng minh, rằng vệ quân được vũ trang sơ sài hơn bộ binh hạng nặng; nhưng nếu như vậy, chúng ta không rõ điểm khác biệt này dựa vào đâu. |
Các thành viên của Liên minh Corinth đóng góp 7.000 bộ binh hạng nặng, trong đó có 5.000 lính đánh thuê Hy Lạp. Phần còn lại trong bộ binh của Alexander bao gồm 7.000 quân Thracia và Illyria, được trang bị lao và hai đội bắn tên do người Crete và Macedonia chịu trách nhiệm. Đơn vị xuất sắc nhất trong số những đội quân trang bị hạng nhẹ là quân Agrianes, gồm 1.000 người. Họ được đánh giá rất tốt trong tương quan với lính Macedonia và xuất sắc không kém những Gurkhas trong quân đội Ấn Độ. Về phía các đội quân đồng minh, họ đã sát cánh bên Alexander trong suốt các cuộc chinh phạt và được Arrian nhắc đến khoảng 50 lần. Cùng với những cung thủ và vệ quân, quân đồng minh đã góp phần trong tất cả những lần trinh sát, các trận đánh nhỏ, đồng thời đã chiến đấu rất anh dũng trong nhiều chiến dịch. |
Niềm kiêu hãnh giữa đội kỵ binh được nắm giữ bởi “Những chiến hữu Hoàng gia” (Royal Companions) người Macedonia. Đội quân này ban đầu có 1.800 kỵ binh, chia thành tám tiểu đội hay Ilai, tất cả ở dưới quyền chỉ huy của Philotas, con trai của Parmenio. Trong số đó, Tiểu đội Hoàng gia, bao gồm khoảng 300 người, là vệ quân riêng của Alexander, đội quân mũi nhọn cho sức mạnh tấn công của kỵ binh trong những trận đánh lớn. Vị trí của họ là ở bên cánh phải của vệ quân, những người có nhiệm vụ duy trì liên kết giữa Kỵ binh Chiến hữu và đội hình phalanx. Bên cánh trái của đội hình phalanx là kỵ binh Thessaly, bao gồm khoảng 1.800 người vào lúc khởi đầu cuộc viễn chinh. Đặt dưới quyền chỉ huy chung của Parmenio, họ đảm nhận nhiệm vụ khó khăn tại Issus và Gaugemela là giữ chân lực lượng kỵ binh xuất sắc của người Ba Tư càng lâu càng tốt trong khi Alexander tung ra đòn quyết định ở cánh phải. Những đồng minh Hy Lạp đã cung cấp 600 kỵ binh, và phần còn lại là 900 quân, được hợp thành bởi những người Thrace, Paconian, và “Lính trinh sát” (Prodomoi), những người còn được gọi là “Kỵ binh đánh giáo” (Sarissophoroi) vì họ được trang bị sarissa, có thể là ngắn hơn những chiếc sarissa mà bộ binh sử dụng. Việc những kỵ binh hạng nhẹ là người Macedonia hay người Thrace là không rõ ràng; nhưng chắc chắn họ được phân biệt với “quân Thrace”. Cuối cùng, mặc dù Diodorus không nhắc tới kỵ binh đánh thuê trong danh sách lực lượng của ông, Alexander có thể đã có một vài đội như vậy ngay từ đầu. Trước trận Gaugamela, ít nhất, ngài có thể đã sở hữu khoảng 1.000 lính đánh thuê. |
Bất chấp nhu cầu về những đơn vị đồn trú tại Tiểu Á và Ai Cập, quân đội của Alexander tại Gaugamela đã lên tới con số 40.000 bộ binh và 7.000 kỵ binh. Theo như Arrian thuật lại, chỉ một vài viện quân đáng kể tới từ quân đội Macedonia và quân đồng minh khi Alexander đặt chân lên đất Gordium vào đầu năm 333. Không có bằng chứng nào cho thấy Alexander đã nhận được quân viện trợ trước trận Gaugemela. Quintus Curtius, người đã thuật lại rằng sau năm 331 Alexander đã nhận được nhiều viện quân, cũng chỉ nhắc tới những viện quân của lính đánh thuê trong giai đoạn này. Rõ ràng sự gia tăng về số lượng binh lính phần lớn là do tuyển mộ lính đánh thuê từ Hy Lạp và những lính đánh thuê đã từng chiến đấu cho Ba Tư. Alexander ban đầu đối xử với nhóm sau như những kẻ phản bội, nhưng sau này, khi nhận ra rằng điều này chỉ kích động sự kháng cự liều mạng nên sau đó vài tháng, ngài đã thay đổi chính sách của mình. Nhiều đơn vị đồn trú của Alexander bao gồm phần lớn là lính đánh thuê. |
Ngay sau trận Gaugamela, Alexander nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ của quân đội Macedonia, không ít hơn 6.000 lính bộ binh và 500 kỵ binh. Điều này cho phép ngài thành lập tiểu đoàn thứ 17 cho bộ binh, điều chắc đã diễn ra vào đầu năm 330. Những tiểu đoàn khác chắc hẳn vẫn duy trì được sức mạnh trong một thời gian. Đó là phân đội Macedonia cuối cùng mà Alexander nhận được cho tới khi ông trở về phía Tây sau cuộc chinh phạt Ấn Độ, và cũng không có lý do thuyết phục nào về việc ông nhận được một đội quân tiếp viện nào khác. Vào năm 333, những đội quân đồng minh từ các thành bang Hy Lạp và từ Thessaly đã được thải hồi tại Ecbatana. Chúng ta được thuật lại là nhiều người trong số họ đã được tuyển mộ lại như những lính đánh thuê. Lính đánh thuê Hy Lạp được sử dụng ngày càng nhiều, và những đơn vị đồn trú tại nhiều thành phố được Alexander lập ra tại những tiểu bang (satrapy) miền Đông, thường gồm những lính đánh thuê này cùng với cư dân bản địa và một vài người Macedonia không đủ sức khỏe. Có thể đoán được rằng một phần trong số 10.000 bộ binh và 3.500 kỵ binh được để lại để bảo vệ Bactria vào năm 327 đều là người Macedonia. |
Sau Gaugamela, mô hình chiến tranh đã thay đổi. Ở Bactria và Sogdiana, Alexander nhận ra ông đang phải đương đầu với sự kháng cự của cả một dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Bessus và sau đó là Spitamenes, những người đã gạt đi những mâu thuẫn lớn và tập trung mở rộng chiến tranh du kích. Để có thể đối phó với kiểu chiến đấu linh hoạt này, vào năm 329, Alexander đã tiến hành một thay đổi quan trọng trong việc tổ chức Kỵ binh Chiến hữu. Chúng ta không còn nghe về tám tiểu đội (Ilai), mà nghe nói đến (ít nhất) tám trung đoàn (Hipparchiai), mỗi trung đoàn bao gồm hai tiểu đội hoặc nhiều hơn. Một số tiểu đội này dường như bao gồm cả những kỵ binh xuất sắc người Ba Tư. Dĩ nhiên, Alexander đã sử dụng kỵ binh Ba Tư bên ngoài Kỵ binh Chiến hữu. Vào đầu năm 330, chúng ta được biết về đơn vị kỵ binh phóng lao người Ba Tư, và tại trận chiến sông Hydaspes vào năm 326, Alexander đã sử dụng đội quân của Daae, những cung thủ cưỡi ngựa, cũng như những kỵ binh từ Bactria, Sogdiana, Scythia, Arachotia, và vùng Parapamisus hoặc vùng Hindu Kush. |
Tại Massaga ở Ấn Độ, người ta thuật lại rằng Alexander đã cố gắng tuyển mộ lính đánh thuê Ấn Độ cho quân đội của mình, nhưng khi họ có ý định đào ngũ, ngài đã tàn sát hàng loạt nhóm binh lính. Không có đợt tuyển mộ lính Ấn Độ nào khác được ghi chép lại, và đội quân Ấn Độ duy nhất trong quân đội của Alexander mà chúng ta được biết là đội quân do các vương gia (rajah) Taxiles, Porus và thành phố Nysa cung cấp với tổng số khoảng 11.000 người. Tuy nhiên, nếu Nearchus chính xác khi nói rằng (Indica 19.5) ngay khi bắt đầu chuyến hải hành xuôi theo sông Hydaspes, Alexander mang theo 120.000 quân lính (Curtius 8.5.4) đưa ra con số tương tự về quân đội của ngài khi bắt đầu cuộc chinh phạt Ấn Độ; Plutarch (Alexander 66.4) cũng thuật lại tương tự về lực lượng (kỵ binh) mà Alexander mang theo khi rời Ấn Độ, Alexander chắc hẳn phải có một lượng quân Ấn Độ rất lớn trong quân đội của mình. Nhưng sự hiện diện của họ chỉ là tạm thời, bởi không có dấu hiệu nào cho thấy có bất kỳ người Ấn Độ nào quay trở lại phía Tây cùng với ngài. |
Giữa những lời than phiền của người Macedonia vào năm 324, Arrian nhắc tới việc thành lập trung đoàn kỵ binh thứ 15 mà hầu hết bao gồm những người Iran, nếu chúng ta chấp nhận việc hiệu đính của Giáo sư Badian với trước tác của Arrian. Điều này có nghĩa là việc phân chia Kỵ binh Chiến hữu thành tám trung đoàn đã bị loại bỏ, và chỉ trong một thời gian ngắn, sau khi trở về từ Ấn Độ, Kỵ binh Chiến hữu chỉ còn bốn trung đoàn. Đôi khi người ta nói rằng thay đổi này phản ánh những tổn thất trong suốt cuộc hành quân qua sa mạc Gedrosia. Đội quân của Hephaestion được miêu tả như một “Chiliarchy”, một nhóm gồm 1.000 người, và mặc dù thực sự Hephaestion đúng là một “Chiliarch” hoặc một “Vizier”, điều đó không có nghĩa hiển nhiên là phải giữ lại tên của ông dẫn đến đội quân của ông được gọi là “chiliarchy của Hephaestion”, thay vì “trung đoàn của Hephaestion”. Điều này, đối với tôi, dường như có nghĩa là những trung đoàn mới (trên danh nghĩa) có khoảng 1.000 người. Nếu như vậy, việc thay đổi sẽ được tiến hành trong cách tổ chức, hợp nhất kỵ binh vào những đơn vị yếu hơn và mạnh hơn. |
Vào năm 324, khoảng 30.000 người Ba Tư trẻ tuổi (những “Người nối nghiệp”), được rèn luyện theo kiểu mẫu của Macedonia trong ba năm ròng, đã được sáp nhập vào đội quân của Alexander tại Susa. Cùng năm đó, sau cuộc binh biến tại Opis, Alexander đã gửi những người Macedonia không đủ sức khỏe hoặc đã quá tuổi phục vụ quân ngũ, khoảng 10.000 bộ binh và 1.500 kỵ binh, chắc hẳn là phần lớn lực lượng Macedonia của ngài, trở lại quê hương. Vào năm 323, quân tiếp viện đã tới Babylon. Philoxenus đã mang theo một đội quân từ Caria và Menander mang một đội quân từ Lycia, trong khi Menidas đã tới cùng đội kỵ binh dưới quyền chỉ huy của ông. Chắc hẳn là, như Brunt giả định, đó là những phân đội mới đến từ Macedonia để thay thế cho những cựu binh đang trên đường về nhà. Từ năm 331, Alexander đã không tuyển mộ thêm nhân lực từ quê hương. Tuy nhiên, việc có phải Alexander muốn giảm bớt yếu tố Macedonia xuống mức không đáng kể trong quân đội của ngài hay không thì không chắc chắn. Hơn nữa, Peucestas đã mang tới 20.000 cung thủ và những lính bắn đá người Ba Tư, cũng như một lực lượng đáng kể quân Cossaea và Tapurian, mà có thể là kỵ binh. Lúc đó, Alexander đã thực hiện cuộc cải cách cuối cùng của ngài. Những người Ba Tư đã hợp nhất vào các đơn vị Macedonia theo một cách thức mà mỗi trung đội bao gồm bốn phó chỉ huy người Macedonia và mười hai người Ba Tư, mỗi người đều được vũ trang theo kiểu mẫu dân tộc của họ. |
Trong tương lai, sau đó, hoặc ít nhất là trong tương lai gần, quân đội ở châu Á chủ yếu bao gồm những phân đội người Iran. Theo lời thuật lại của Quintus Curtius, dấu hiệu duy nhất về quy mô của hợp phần Macedonia đã được đưa ra trong bài diễn văn mà Alexander đọc nhưng đây hẳn là sáng tác riêng của sử gia. Trong đó nhà vua nhắc tới đội quân gồm 13.000 bộ binh và 2.000 kỵ binh, tất cả đều là người Macedonia, ngoại trừ những đơn vị đồn trú. |
Nếu có ai đó băn khoăn vì sao tôi lại tiếp tục đào xới những bước đường viễn chinh của Alexander, việc mà rất nhiều người đã thực hiện, thì xin quý vị hãy dành chút thời gian đọc trọn tác phẩm rồi hãy đưa ra những đánh giá khách quan nhất về công trình của tôi. |
Đối chiếu những ghi chép của Ptolemy và Aristobulus về Alexander Đại đế, con trai của vua Philip xứ Macedonia, ở những điểm giống nhau tôi đều thực hiện việc khảo cứu về độ xác thực của những dữ liệu này, còn ở những điểm khác nhau, tôi lựa chọn điều mà tôi cảm thấy có nhiều khả năng xảy ra hơn và thú vị hơn. Cuộc đời của Alexander vĩ đại và bí ẩn hơn bất kỳ nhân vật lịch sử nào – việc tái hiện cuộc đời ông trên trang giấy, dù là của bất cứ tác gia nào, luôn dẫn đến những tranh cãi không dứt về tính xác thực; tuy vậy, dường như đối với tôi, việc sử dụng những cứ liệu của Ptolemy và Aristobulus là đáng tin hơn cả, vì Aristobulus là người đã sát cánh trong những cuộc viễn chinh của Alexander, còn Ptolemy có ưu điểm là một vị vua, mà việc nhầm lẫn sẽ đem lại sự xấu hổ cho người hơn bất kỳ ai. Hơn nữa, Alexander đã qua đời khi những người này viết về ông nên họ không phải chịu một áp lực nào, và họ cũng không thể thu được món lợi nào từ việc xuyên tạc sự thật. Một vài tuyên bố của những sử gia khác về Alexander có thể tương ứng với những truyền thuyết phổ biến: một vài trong số đó thú vị và nhiều khả năng là sự thật, tôi cũng đã nhắc đến chúng trong công trình của mình. |
Vua Philip của Macedonia qua đời khi Pythodelus đang là quan chấp chính ở Athens. Người kế vị ông, Alexander, khi đó chỉ tầm 20 tuổi. Tương truyền rằng, khi vừa kế vị, Alexander đã tới Peloponnese, yêu cầu tất cả các thành bang trong Hy Lạp một lần nữa thể hiện sự trung thành như đã thể hiện với cha ngài bằng việc tập hợp lực lượng, và khởi phát một cuộc viễn chinh tới xứ Ba Tư. Sự khước từ duy nhất là từ phía những người dân thành Lacedaemon (Sparta), viện dẫn những truyền thống xưa cũ rằng không thể để ngoại nhân là người thống lĩnh. Cũng tại Athens, có nhiều vấn đề đã nảy sinh; nhưng mọi chướng ngại cuối cùng đã bị phá bỏ với sự xuất hiện của Alexander. Thậm chí vị hoàng đế trẻ tuổi còn nhận được những cam kết ủng hộ mạnh mẽ hơn cả thân phụ ngài là Philip lúc sinh thời. Sau khi dàn xếp xong việc này, Alexander trở lại Macedonia và chuẩn bị cho cuộc chinh phạt châu Á. |
Chiến cuộc đánh dấu cho năm trị vì đầu tiên của Alexander là cuộc đột kích vào xứ Tharce, vùng đất nằm ở biên giới phía bắc quê hương Macedonia của ngài vào mùa xuân năm 335 TCN, nơi đang bị xới tung vì cuộc tranh chấp của người Triballi và Illyria. Để chu toàn cho cuộc viễn chinh sẽ vươn tới đất Ba Tư bên kia bờ đại dương, việc sáng suốt nhất cần làm ngay là dẹp yên những hỗn loạn ở vùng đất cận kề xứ sở của ngài. |
Trong vỏn vẹn mười ngày, Đại đế và đội quân hùng mạnh của ngài đã bỏ lại sau lưng Amphipolis, thành phố bên bờ biển Aegea, rời Philippi và ngọn núi Orbelus, băng qua Nestus, tới ngọn Haemus. Ở đây, chắn giữa ngài và tập hợp lực lượng dân bản địa cùng những người Tharce trên đỉnh là triền núi dốc, nơi chỉ có thể hành quân từng đơn vị một. Những người Tharce tự do với vũ khí lăm lăm trong tay đã tập hợp một hàng rào chắn bằng các chiến xa, với dụng ý xa hơn là sẽ đè bẹp hoàn toàn đội quân Macedonia khi những binh lính này đang dần tiến lên từ triền núi. Họ hy vọng rằng sự va chạm với chiến xa sẽ gây ra tổn thất cho quân đội kẻ thù, từ đó, tạo được thế cân bằng về lực lượng. |
Đứng trước thử thách phải vượt qua ngọn núi với ít tổn thất nhất, Alexander đã đưa ra đối sách là dùng bộ binh hạng nặng đi theo đội hình phalanx, trong đó từng chiến binh nhích từng bước một với khiên che kín trên đầu; họ di chuyển sát nhau thành một đội hình chặt chẽ nhất có thể, với cách thức này khi các chiến xa lăn xuống triền núi, chúng sẽ lao vượt qua họ mà không gây ra thương tích gì. Chiến lược của ngài đã tỏ ra hiệu quả: không có khoảng trống giữa các đơn vị để các chiến xa gây tổn thất, chúng chỉ có thể nảy lên trên những tấm khiên xếp chồng nhau. Người Macedonia khi vượt qua đợt tấn công của các chiến xa, đã hò reo một cách điên cuồng khi lên tới đỉnh, hăm hở xông vào đội hình đối phương với sự dũng cảm đáng kinh ngạc. Cung thủ dưới sự điều động của ngài đã di chuyển sang bên cánh phải để có được một vị trí thuận lợi hơn trước tuyến chính trong đội hình, nhằm phong tỏa những đợt phản công mà người Thrace có thể tung ra. Vệ binh của ngài cùng với những người Agrianes di chuyển về phía cánh trái, tạo thành gọng kìm bóp nát đội hình của kẻ thù. Chiến lược hoàn hảo này của ngài có vẻ đã quá chu toàn, vì trước khi gọng kìm siết lại, toán quân ô hợp của những người Thrace đã tự tan vỡ trước sự tấn công mạnh mẽ của bộ binh. Quả thực, thậm chí trước khi những đội quân dưới sự chỉ huy của Alexander ở cánh trái tiếp xúc với quân Thrace, lực lượng của họ đã bị phá vỡ và bỏ chạy xuống núi. Khoảng 1.500 người đã bị giết, chỉ một vài người bị bắt; phần lớn những người còn lại rất nhanh nhạy và quá thông thuộc địa hình để không bị rơi vào tay kẻ thù. Kho báu, đồ dự trữ, phụ nữ và trẻ em của người Thrace, tất cả đều thuộc về những chiến binh thắng trận. |
Những chiến lợi phẩm gửi trở lại các thị trấn ven biển, được giao lại cho Lysanias và Philotas tùy ý sử dụng, còn ngài thì tiếp tục hành quân về phía trước. Sau đó, Alexander tiếp tục băng qua dãy Haemus tới vùng Triballi, và tới sông Lyginus, nơi cách Danube ba ngày hành quân. Tin về những bước tiến công của Alexander đã loan tới Syrmus, vua của những người Triballi, người đã từng bước gửi phụ nữ và trẻ em tới Danube với mệnh lệnh phải băng qua sông tới một hòn đảo gọi là Pine Tree. Những người Thrace láng giềng cũng đã trú tại hòn đảo này nhằm chống lại cuộc tiến công của Alexander, cùng với Syrmus và những tùy tùng riêng của ông, dù phần lớn những người Triballi đã rút lui một cách vội vàng tới con sông này hẳn một ngày trước khi Alexander bắt đầu hành quân. |
Khi tin tức về cuộc di chuyển của những người Triballi tới tai Alexander, ngài bắt đầu cho tấn công. Alexander đã đổi hướng đường đi của mình, tính toán lại chiến lược, và tìm thấy một chốt gác của người Triballi. Sau khi khai thác thông tin từ những thổ dân bị bắt lúc đang ngủ trưa và biết rằng họ đang chuẩn bị cho cuộc chiến tại khu rừng cạnh bờ sông, Alexander quyết định thay đổi cách dụng binh của mình. Ngài sắp xếp đội hình theo hàng dọc để giáp chiến, lệnh cho cung thủ và những người ném lao tấn công cấp tập với mục đích dụ quân địch đang ẩn náu trong các cứ điểm tới khu đất trống. Quân Triballi khi bắt đầu chịu thiệt hại từ những đợt xạ tiễn đã lao ra với ý định đè bẹp những toán quân tầm xa vốn chỉ được trang bị khinh giáp. Chính lúc đó, cái bẫy của Alexander đã hạ xuống gọn gàng và thành công mỹ mãn. Ngài hạ lệnh cho Philotas tấn công ở cánh phải với kỵ binh vùng thượng Macedonia, Heracleides và Sopolis với kỵ binh từ Bottiaea và Amphipolis tấn công từ bên cánh trái. Quân chủ lực tiến lên phía trước với sự yểm trợ của kỵ binh, đụng độ trực tiếp với trung quân của địch. |
Người Triballi về cơ bản có thể cầm cự được trước những đợt xạ kích, nhưng khi vấp phải đợt tấn công dồn dập của bộ binh Macedonia ở cự li gần và sự giày xéo không thương tiếc của kỵ binh thì nhất loạt tan vỡ. Tàn quân rút lui một cách hỗn loạn ra phía bờ sông. Thương vong hơn 3.000 người, chỉ có một số ít sống sót vì sự dày đặc của tán rừng và buổi hoàng hôn nhập nhoạng làm cản trở cuộc truy kích của người Macedonia. Theo Ptolemy, quân Macedonia chỉ thiệt hại hơn chục kỵ binh và khoảng 40 quân bộ. |
Ba ngày sau trận chiến, Alexander đã tới Danube. Đây là dòng sông lớn nhất ở châu Âu; nó dẫn tới một con đường lớn hơn bất kỳ con đường nào khác, và hình thành nên đường biên giới với những lãnh thổ của một vài bộ tộc hiếu chiến. Phần lớn trong số họ có nguồn gốc Celtic – quả thực, nguồn của con sông này là ở lãnh thổ của người Celtic – phần xa nhất là thuộc về người Quadi và Marcomanni; sau đó, theo hướng đông, nó sẽ băng qua lãnh thổ của người Iazyges, một nhánh của Sauromatae, của Getae, của chính Sauromatae, và cuối cùng là của Scythia, nơi nó đi tới điểm cuối của hành trình và băng qua năm ngọn núi để đổ vào biển Đen. Trên sông Danube đã có sẵn những tàu chiến từ Byzantium băng qua biển Đen để chờ đợi Alexander. Ngài đã lãnh đạo họ cùng với bộ binh hạng nặng và cung thủ, cố gắng đổ bộ hòn đảo mà người Triballi và Thrace đang lẩn trốn. Tuy nhiên, tình huống lúc đó không hề ưu ái ngài: tất cả những con tàu của Alexander đều gặp phải chướng ngại khi cố gắng thả neo trong khi chúng vốn đã ít ỏi về số lượng và không được vận hành tốt lắm; phần lớn đường bờ sông của hòn đảo quá dốc để đổ bộ, và tàu thuyền buộc phải băng qua những khúc sông hẹp, điều quá khó để khắc phục. Trước tình trạng này, Alexander đã ra lệnh rút quân thay vì vượt sông và tấn công người Getae. Một lực lượng lớn quân Getae – khoảng 4.000 kỵ binh và hơn 10.000 bộ binh – đã được hợp nhất bên kia sông, sẵn sàng ngăn chặn bất kỳ đợt vượt sông nào, đây chính là một trong những lý do khiến Alexander thay đổi kế hoạch. Một lý do khác là ý tưởng mới để đổ bộ sang bờ bên kia của sông Danube dường như rất hấp dẫn. Alexander đã đích thân hợp nhất hạm đội, ra lệnh hạ trại ngoài trời và chất đầy cỏ khô trong đó. Ngài cũng tập hợp tất cả những thuyền độc mộc sẵn có. Đây là loại thuyền có rất nhiều ở vùng lân cận. Người bản địa sử dụng chúng để đánh bắt cá, ghé thăm các dân tộc láng giềng ở phía thượng lưu con sông, và thông thường là để sử dụng cho những đợt cướp phá. Khi đã tập hợp được số lượng thuyền độc mộc nhiều nhất có thể, toàn bộ quân, hoặc phần lớn đội quân của Alexander, đã dùng phương tiện này để vượt sông. Thực tế thì số lượng này rơi vào khoảng 1.500 kỵ binh và 4.000 bộ binh. |
Việc vượt sông được tiến hành ngay trong đêm, và công cuộc đổ bộ ít nhiều đã được che giấu nhờ cánh đồng lúa mạch. Ngay trước rạng đông, Alexander đã tiến quân xuyên qua cánh đồng, hạ lệnh cho bộ binh mở đường, phát quang cánh đồng. Kỵ binh bám theo bộ binh và khi họ rời khỏi khu vực đất trống, Alexander điều họ vượt lên cánh phải, đồng thời, lệnh cho Nicanor tiến lên cùng với kỵ binh trong đội hình chặt chẽ trên mặt trận đã được mở rộng. |
Cuộc tấn công mở màn của kỵ binh đã giáng một đòn quá nặng nề lên người Geate; việc Alexander băng qua sông Danube, con sông lớn nhất châu Âu, một cách dễ dàng chỉ trong một đêm quả là hành động mạo hiểm khiến dân Geate vô cùng kinh ngạc, chưa kể tới sự ác liệt của cuộc tấn công và hình ảnh đáng sợ của đội hình phalanx đang tiến về phía họ. Người Geate đã quay đầu bỏ chạy về thị trấn, nơi cách con sông khoảng hơn 6 kilômét; nhưng ngay khi họ nhận ra Alexander, cùng với đội kỵ binh của ngài, đã chắn ở phía trước và dàn quân dọc bờ sông nhằm ngăn chặn mai phục hoặc bao vây, dân Geate đã bỏ cả thị trấn, nơi lúc này chỉ được phòng vệ một cách sơ sài, và mang theo tất cả số phụ nữ và trẻ em mà ngựa của họ có thể chuyên chở được, tiếp tục tháo chạy tới một khu vực trống, càng xa con sông càng tốt. Alexander đã tiếp quản nơi này cùng với mọi thứ có giá trị mà người Geate đã bỏ lại phía sau. Những chiến lợi phẩm này được Meleager và Philip chuyển tới căn cứ sau khi san phẳng thị trấn. Ngay bên bờ sông Danube, Alexander Đại đế đã tiến hành lễ tạ ơn thần Zeus Vị cứu tinh, thần Heracles và cả thần sông vì đã cho phép ngài vượt sông. Cũng trong ngày hôm đó, ngài và toàn bộ quân đội tiếp tục cuộc viễn chinh. |
Trong thời điểm này, có nhiều sứ thần của Syrmus, vua của người Triballia và từ rất nhiều các bộ tộc tự do khác dọc sông Danube tới cầu kiến Alexander. Người Celtic từ biển Adriatic cũng đã cử đại diện tới – những người đàn ông ngạo mạn và cao lớn. Tất cả đều bày tỏ mong muốn được kết giao với Alexander, và hai bên cũng đã trao đổi vật làm tin. Alexander đã hỏi những sứ thần Celtic rằng họ e sợ nhất điều gì. Ngài hy vọng rằng quyền uy của ngài đã vang xa tới vùng đất của họ, thậm chí xa hơn nữa, và mong rằng người Celtic sẽ trả lời rằng: “Thưa bệ hạ, điều mà chúng tôi e sợ nhất trên thế gian chính là Ngài.” Tuy nhiên, Alexander đã không được như ý. Do người Celtic sinh sống ở một vùng đất xa xôi, không dễ dàng bị tấn công, và cũng không nhận ra rằng cuộc viễn chinh của Alexander nhằm tới mọi mảnh đất trên thế giới nên họ đã đáp lời rằng điều mà họ sợ hãi nhất là bầu trời sụp đổ. Tuy vậy, Alexander đã quyết định liên minh với họ, đưa họ về quê hương và chỉ thầm nghĩ rằng người Celtic đã nghĩ quá nhiều về chính bản thân họ. |
Sau đó, Alexander tiến quân tới lãnh thổ của Agrianes và Peaones, nơi ngài được cấp báo rằng Cleitus, con trai của Bardylis, đang làm loạn, rằng y đã đứng về phe của Glaucias, hoàng tử của Taulanti; hơn nữa, còn có tin là người Autariates có ý định tấn công ngài trên đường hành quân. Vì những lý do trên, Alexander cho rằng đây là thời điểm phù hợp để tiến quân, không thể trì hoãn hơn được. |
Langaros, vua của người Agrianes, người đã không hề giấu giếm sự kính phục của mình với Alexander kể cả khi vua Philip (thân phụ của Alexander) còn sống, đã đích thân tới tiếp kiến Alexander. Xuất hiện cùng với Langaros trong dịp này là đội vệ binh, đội quân xuất sắc nhất và được trang bị tốt nhất mà ông sở hữu. Nghe tin Alexander muốn tìm hiểu xem người Autariates là những ai và sức mạnh của họ ra sao, Langaros khuyên Alexander chẳng nên băn khoăn về họ, vì Autariates là bộ tộc chiến đấu kém cỏi nhất trong khu vực này. Ông đề nghị Alexander cho phép mình được đích thân tấn công họ và khiến họ phải chịu đựng những tổn thất nặng nề. Nhờ những sự giúp đỡ này, Langaros đã được Alexander ban tặng mọi niềm vinh dự, bao gồm cả những tặng phẩm mà trong vương triều của người Macedonia coi là có giá trị nhất. Alexander cũng hứa hẹn rằng nếu Langaros tới thăm ngài tại Pella, ngài sẽ gả Cyna, em gái của ngài cho ông. Tuy vậy, Langaros đã không kịp hưởng niềm vinh dự này. Ông đã ốm bệnh và qua đời sau khi trở về quê hương. |
Lúc đó, Alexander đã tiến quân dọc theo sông Erigon, trên đường tới Pelium, một thị trấn mà Cleitus chiếm đóng, nơi được coi là cứ điểm được phòng vệ vững chãi nhất trong khu vực. Ngài đã dừng chân trước sông Eordaicus với ý định sẽ thực hiện một cuộc đột kích vào ngày hôm sau. Thị trấn được bao quanh bởi những đồn chỉ huy và những khu rừng rậm rạp. Các đồn này đều do quân đội của Cleitus nắm giữ, bởi vậy, trong trường hợp đột kích, họ có thể tấn công quân Macedonia từ mọi phía. Glaucias, vua của người Taulanti, vẫn chưa tới nơi. Tuy nhiên, Alexander đã không lãng phí thời gian. Trong khi đó, kẻ thù của ngài, khi biết ngài đang tiến vào thị trấn, đã hiến tế ba nam, ba nữ và ba con cừu đực đen. Họ đã cố ý dụ quân Macedonia ở những điểm đóng quân gần hơn; nhưng không lâu sau khi quân Macedonia xuất hiện trong phạm vi đủ gần, quân đội của Cleitus đã bỏ những vị trí phòng vệ được tin là vững chãi của họ. Người ta thấy xác của những nạn nhân bị đem ra hiến tế vẫn đang nằm tại nơi họ ngã xuống. |
Alexander nhốt quân của Cleitus trong thị trấn, và chiếm giữ ngay một vị trí ở gần tường thành, tính kế phong tỏa; nhưng ngày hôm sau, Glaucias xuất hiện với một lực lượng hùng mạnh. Hệ quả là, Alexander đã bỏ kế hoạch chiếm giữ thị trấn, do lực lượng của ngài tương đối mỏng, nhiều binh lính thiện chiến đã rút lui vào bên trong thành, và còn nhiều hơn những binh lính, dưới sự chỉ huy của Glaucias, sẽ sẵn sàng tấn công Alexander khi ngài đang ra sức phòng vệ. Do đó, Alexander đã ra lệnh cho Philotas mang theo những súc vật chở hành lý để tìm kiếm nguồn lương thực; đi cùng Philotas còn có một nhóm nhỏ kỵ binh làm nhiệm vụ bảo vệ. Hành động này đã không qua mắt được Glaucias; ông di chuyển lên phía trên, chiếm cứ vùng đất cao, nơi bao quanh khu vực mà Philotas đang tìm kiếm nguồn lương thực. Mối nguy hiểm treo lơ lửng trên đầu nhóm kỵ binh và đàn súc vật nếu bóng tối đột ngột bao phủ họ đã được báo cho Alexander, ngay lập tức ngài giải cứu họ với một đội quân được hợp thành từ những người Agrianes, cung thủ, vệ quân và một đội kỵ binh gồm 400 lính khỏe mạnh. Ngài để những đội quân còn lại ở gần thị trấn; và vì ngài đã rút lui toàn bộ lực lượng, kẻ thù của ngài, những kẻ trước đó đã bị phong tỏa trong thành, đã nhanh chóng phá vỡ vòng vây và nhập vào đội quân của Glaucias. Tuy nhiên, Glaucias đã từ bỏ vị trí của ông trên đồn cao ngay khi thấy Alexander xuất hiện. Nhóm của Philotas đã an toàn trở về chỗ đóng quân. |
Mặc dù vậy, dường như vẫn còn một vài lực lượng dưới quyền chỉ huy của Glaucias và Cleitus nhận ra Alexander đang lâm vào một tình thế khó khăn. Họ đã nắm giữ các đồn chỉ huy, cùng với những đội kỵ binh và những phân đội khác đã được vũ trang với lao và ná bắn đá, ngoài ra còn có một lực lượng đáng kể bộ binh hạng nặng; những binh lính này hiện đang ở giáp ranh với thị trấn, tất cả đều đang sẵn sàng tấn công vào đợt rút lui của Alexander; trong khi đó quân đội của ngài bắt buộc phải đi qua một con đường hẹp, nhiều cây cối, với một bên là sông và một bên là những chân đồi dốc đứng, rất khó có thể vượt qua, thậm chí chỉ với đội hình bốn hàng. Trước tình huống này, Alexander đã sắp xếp đội hình chính của đội kỵ binh thành đội hình 120 hàng, 200 kỵ binh mỗi cánh được ra lệnh là không được làm ồn, và phải tuân theo mệnh lệnh một cách khôn ngoan. Sau đó, ngài hạ lệnh cho bộ binh hạng nặng trước hết dựng thẳng giáo của họ; sau đó, theo mệnh lệnh của chỉ huy, hạ thấp những mũi nhọn để tấn công, đưa chúng sang trái rồi sang phải. Toàn bộ đội hình phalanx đã dịch chuyển một cách mau lẹ, xoay theo cách này rồi cách khác, thực hiện vô số những di chuyển phức tạp. Sau khi hạ lệnh cho đội quân của mình chuyển qua một số đội hình khác nhau với tính linh hoạt cao, Alexander ra lệnh cho cánh trái tập hợp thành đội hình mũi nhọn và chuẩn bị tấn công. |
Kẻ thù, chắc hẳn cảm thấy sửng sốt bởi sự thông minh và kỷ luật của những thao tác này, đã rời bỏ vị trí xuống những đoạn đường thấp hơn của ngọn đồi, quên cả việc đợi quân Macedonia tới để đánh giáp lá cà. Sau đó, Alexander đã hô hào toàn quân hô vang tiếng xung trận, gõ giáo mác vào khiên. Tiềng ồn vang dội đến độ những người Taulanti không thể chịu nổi và đã phải rút lui về thị trấn. |
Một nhóm nhỏ của quân địch vẫn còn ở lại, chiếm cứ một ngọn đồi mà Alexander bắt buộc phải vượt qua; vì vậy, ngài đã hạ lệnh cho Kỵ binh Chiến hữu và đội vệ quân riêng của ngài chuẩn bị hành động và sẵn sàng tấn công. Tính toán được đưa ra là nếu kẻ địch quyết bám trụ ở ngọn đồi, phân nửa trong số họ sẽ phải xuống ngựa và hỗ trợ cho kỵ binh. Tuy vậy, ngọn đồi đã bị bỏ lại; quân địch đã rời đi tới đường tiếp giáp với những ngọn núi. Alexander cùng với Kỵ binh Chiến hữu đã chiếm cứ ngọn đồi. Ngài triệu hồi quân Agrianes và cung thủ – một lực lượng gồm 2.000 người, ra lệnh cho vệ quân băng qua sông, dẫn theo sau là những đơn vị Macedonia khác. Ngay khi tới được bờ bên kia, toàn lực lượng sẽ tập trung hướng về phía cánh trái nhằm tạo ra một thể thống nhất trước mặt quân thù. Trong khi đó, từ ngọn đồi, Alexander sẽ quan sát tỉ mỉ bất kỳ sự di chuyển nào mà quân thù thực hiện. |
Nhìn thấy quân Macedonia băng qua sông, người bản địa đã rút khỏi khu đất cao với ý định sẽ tấn công nhóm của Alexander khi nhóm này rút lui sau cùng; Alexander đã một mình phá vây một cách nhanh chóng trong khi lực lượng chính của bộ binh, đang chuẩn bị vượt sông, hô vang những tiếng xung trận. Kẻ thù, trước đợt tổng công kích dữ dội, đã nhất loạt tan vỡ. Alexander lúc này mới hạ lệnh cho quân Agrianes và cung thủ tiến tới hai bên bờ sông. Ngài là người băng qua sông đầu tiên và thiết lập đội pháo binh ở bờ sông. Alexander hạ lệnh yêu cầu tất cả những loại đạn pháo đều phải bắn ở tầm xa để có thể tấn công kẻ thù, những kẻ mà ngài thấy rằng đang gây khó khăn cho quân đội của ngài. Cung thủ được lệnh tấn công từ giữa dòng sông. Quân của Glaucias không dám mạo hiểm trong phạm vi này, và người Macedonia vượt sông an toàn mà không phải chịu bất kỳ thương vong nào trong quá trình rút lui. |
Ba ngày sau, đội quân của Cleitus và Glaucias đã hạ trại mà không có sự phòng vệ đầy đủ: không đặt ra những trạm lính gác thường xuyên, không có hàng rào hoặc hào bảo vệ; hơn nữa, phòng tuyến của họ lại mở rộng một cách nguy hiểm. Lúc đó, Alexander đã tận dụng lợi thế của sự bất cẩn này – điều hẳn là do (Cleitus và Glaucias) nghĩ rằng Alexander đã hoảng sợ rút quân. Dưới sự bao phủ của bóng tối, ngài đã dẫn vệ quân, quân Agrianes, cung thủ cùng quân đội của Perdiccas và Coenus vượt sông trở lại, đồng thời ra lệnh cho phần còn lại của đội quân nhất loạt theo sau. Thời điểm chín muồi để tấn công đã tới; bởi vậy, không chờ tới khi tập trung được toàn bộ lực lượng, Alexander hạ lệnh cho quân Agrianes và cung thủ đột kích bất ngờ trên một mặt trận hẹp – một kiểu dàn quân chắc chắn đã dội toàn bộ sức mạnh khủng khiếp nhất lên đầu kẻ thù ngay tại điểm yếu của họ. Một vài người bị giết ngay trên giường ngủ, một số người khác bị bắt khi cố gắng tẩu thoát. Nhiều người bị bắt và bị giết ngay tại chỗ, số đông bỏ chạy trong hoảng sợ và hỗn loạn. Chỉ một vài người còn sống sót. Việc truy lùng kẻ địch còn kéo xa tới tận những ngọn núi trên lãnh thổ Taulanti. Không ai có thể trốn thoát trừ phi họ quẳng lại toàn bộ vũ khí. Cleitus đã chạy về thị trấn; sau đó, phóng hỏa nó, rồi chạy tới chỗ người Taulanti, nơi ông tìm chỗ nương náu cùng với Glaucias. |
Trong khi đó, nhiều sự kiện đã diễn ra tại Thebes. Một số người, với ý định lật đổ chính quyền, đã vời một số kẻ tha hương vì vấn đề chính trị quay trở lại; những người này lén xâm nhập thành phố trong đêm, bắt và giết Amyntas và Timolaus, hai người cai trị Cadmeia và không hay biết gì về mối nguy hiểm bên ngoài. Sau đó, họ tự xuất hiện trong Hội đồng, kích động người Thebes nổi loạn chống lại Alexander, hành động vì “sự tự do” và “tự trị”, thuyết phục Thebes quẳng đi gánh nặng gông xiềng mà người Macedonia đã quàng vào cổ họ. Đám người này còn biến lời xúi giục của họ trở nên hấp dẫn hơn nữa với người Thebes bằng cách khăng khăng khẳng định rằng Alexander đã qua đời tại Illyria – điều này dường như là tin đồn phổ biến vào thời điểm đó, vì ngài đã vắng mặt quá lâu mà không hề có liên lạc gì với họ. Trong trường hợp này, người Thebes đã làm điều mà số đông họ muốn làm, đó là phớt lờ sự thật và thuyết phục bản thân tin vào điều mà họ muốn tin theo. |
Tin tức về những sự kiện này khiến Alexander hết sức bận tâm. Suốt thời gian qua, ngài đã không có lòng tin với Athens, và giờ đây âm mưu này lại tới từ Thebes. Alexander không thể coi nhẹ chuyện này, vì mối nguy rõ ràng mà ngài phải đối mặt là sự bất mãn có thể lan rộng tới những người Lacedaemonia, những người dù trong bất kỳ trường hợp nào, vẫn luôn ngấm ngầm oán hận quyền chỉ huy của người Macedonia, rồi tới những thành bang khác ở Peloponnese, thậm chí tới những người Aetolia, vốn là những kẻ chẳng thể nào tin tưởng được. Bởi vậy, ngài đã quyết định hành động, tiến quân về phía Eordaea và Elimiotis, vượt qua những rặng núi của Stymphaea và Paravaea, tới đất Pelinna thuộc Thessaly trong vỏn vẹn bảy ngày. Sáu ngày sau, Alexander đặt chân lên đất Boetia, và tin ngài vượt qua Cổng thành đã không tới được tai người Thebes cho tới khi toàn bộ lực lượng của Alexander tập trung tại Onchestus. Thậm chí những người đứng đầu vụ nổi loạn vẫn tiếp tục rêu rao rằng Alexander đã qua đời: họ tuyên bố rằng đội quân dưới quyền chỉ huy của Antipater từ Macedonia đã tới, và giận dữ phủ nhận việc Alexander đang đích thân chỉ huy quân đội – họ khăng khăng rằng nếu đó là Alexander, đó hẳn là Alexander khác: Alexander, con trai của Aeropus chứ không phải Alexander, con trai của Philip. |
Ngày hôm sau, Alexander rời Onchestus và hành quân tới Thebes. Ngài dừng chân trước hàng rào vây quanh của Iolaus, chờ đợi ở đó trong khi cho người Thebes thời gian để suy nghĩ lại, trong trường hợp họ thay đổi ý kiến và quyết định điều đình với ngài. Tuy vậy, người Thebes đã chẳng đi tới một thỏa thuận nào hoặc chịu nhường nhịn một phân; ngược lại, đội kỵ binh và một lực lượng đáng kể bộ binh hạng nhẹ đã nhanh chóng xuất kích và tấn công vào tiền đồn của quân Macedonia cùng với những đợt xạ kích nhưng không thu được kết quả nào. Alexander đã ra lệnh cho nhóm bộ binh hạng nhẹ và cung thủ ra ngoài để kiểm tra, việc chẳng mấy khó khăn với nhóm này dù họ đã tiến quân được khoảng cách khá xa so với vị trí chính của ngài. Ngày hôm sau, Alexander cùng với toàn quân di chuyển xung quanh những cổng thành dẫn tới Eleutherae và Attica. Tại đây, ngài vẫn kiềm chế không tung một đợt đột kích vào những phòng tuyến của thành phố và chọn một vị trí không xa Cadmeia, hỗ trợ cho những người Macedonia đang bám trụ tại vùng đó. Người Thebes đã bao quanh thành phố với một hàng rào kép, canh giữ hết sức cẩn trọng nên đơn vị đồn trú bị bao vây sẽ không nhận được sự trợ giúp bên ngoài nào, hoặc không thể tung ra những đợt tấn công bất ngờ vào kẻ thù của mình. Tuy vậy, Alexander đã không hề di chuyển mà vẫn kiên nhẫn chờ đợi, ngài vẫn hy vọng giữ được mối giao hảo với người Thebes và cố gắng tránh xung đột với họ. |
Trong tình huống này, tất cả những người có quyền lợi lớn ở thành phố đã lo lắng tiếp cận Alexander và xin ngài đặc xá cho tội nổi loạn; nhưng những kẻ đi đày và nhóm người chịu trách nhiệm về việc triệu hồi họ, đặc biệt một vài người là thủ lĩnh của Liên minh Boeotia, đã khước từ khả năng nhận được khoan hồng của Alexander và tìm cách kích động cuộc chiến bằng mọi cách. Tuy vậy, Alexander vẫn chờ đợi và không hề tấn công. |
Ptolemy, con trai của Lagus, trong ghi chép của ông về sự kiện này, đã thuật lại rằng Perdiccas, một viên chỉ huy giữ nhiệm vụ canh gác, cùng với tiểu đoàn đứng không xa trước hàng rào của quân thù, đã bắt đầu một cuộc đột kích riêng mà không chờ đợi bất kỳ hiệu lệnh nào từ Alexander. Sau khi tạo ra được một lỗ hổng trong hàng rào, Perdiccas đã chắn đường đội quân Thebes, theo sau anh ta là Amyntas, con trai của Andromenes, người đã cùng với những binh lính dưới quyền mình hợp thành một đạo quân và ngay lập tức tiến lên phía trước khi thấy Perdiccas vào được bên trong thành. Để tránh cho những người này khỏi bị quân Thebes tàn sát, Alexander đã ra quyết định tiến công, để cung thủ và quân Agrianes băng qua lỗ hổng ở hàng rào, nhưng vẫn giữ lại cận vệ riêng và phần còn lại của đội vệ quân ở bên ngoài. |
Trong khi cố gắng mở thêm một lỗ hổng xuyên qua hàng rào thứ hai, Perdiccas đã bị thương; anh ta được mang trở lại căn cứ nhưng vết thương khá nghiêm trọng và khó mà giữ được mạng sống. Quân lính của Perdiccas, hợp nhất với những cung thủ của Alexander, giữ chân quân Thebes trên con đường lầy lội đổ về phía Heraleum, gây khó khăn cho họ khi họ rút lui về phía đền thờ; nhưng thời điểm khi quân Thebes chuyển hướng, đương đầu với những người đuổi theo với tiếng la hét thịnh nộ, quân Macedonia đã buộc phải rút lui. Khoảng 70 cung thủ đã thiệt mạng cùng với chỉ huy của họ là Eurybotas vùng Crete; số còn lại đã vội vã thỉnh cầu cứu viện từ cận vệ của Alexander cùng với phần còn lại của đội vệ quân. |
Thấy quân lính của mình đang rút lui hoàn toàn cùng với những người Thebes đang đuổi theo sau, Alexander đã nhanh chóng tung đòn đáp trả. Ngài đã ra lệnh cho bộ binh tấn công, và đuổi quân thù vào bên trong cổng thành. Cuộc tháo chạy nhanh chóng trở nên hỗn loạn – đến độ, quân Thebes không kịp đóng cổng thành. Quân Macedonia đã bám theo họ sát gót, vượt qua cổng thành, xâm nhập được vào bên trong những công sự, nơi cần phải có thêm nhiều chốt gác phía trước mà giờ đã bị bỏ lại trong tình trạng không được phòng vệ. Một nhóm binh lính được hợp nhất với đơn vị đồn trú của Cadmeia rồi từ đó tiến tới con đường hướng về phía Ampheum, dẫn tới thị trấn trong khi những đội quân ở phía gần tường thành, nơi đã bị chiếm đóng trong suốt cuộc tháo chạy, đã nhất loạt tiến công, đi tới khu quảng trường chợ. |
Quân đội của Thebes chỉ trụ vững được một thời gian ngắn trước Ampheum, cho tới khi quân Macedonia cùng với Alexander tấn công họ từ mọi phía. Kỵ binh của người Thebes, những người nỗ lực mở đường xuyên qua các tuyến phố, đã bỏ chạy tới vùng đất trống, trong khi lính bộ binh cũng chỉ ráng hết sức để thoát thân. Trong cơn kích động, quân Phocis, Plataea và lính từ những thị trấn Boeotia khác đã chém giết bừa bãi những người Thebes – lúc đó họ đã không có bất cứ sự bảo vệ nào – nhiều hơn cả quân Macedonia. Họ đốt nhà, giết những người ở lại; họ chém giết những người có ý kháng cự; quân lính thậm chí không hề nương tay với phụ nữ và trẻ em, kể cả khi họ đã níu lấy các bệ thờ. |
Sự tàn ác của cuộc tàn sát, cùng với quy mô và tầm quan trọng của thành phố thất thủ, và trên hết có lẽ là tính bất ngờ của sự kiện này đối với cả người chiến thắng lẫn kẻ chiến bại, tất cả đã khiến những người thuộc dòng giống Hy Lạp còn lại choáng váng không kém so với chính những người Hy Lạp liên quan. Cuộc viễn chinh Sicily, chỉ ước tính riêng số người chết, đã đem đến một thảm họa tương đương với người Athens; nhưng cần phải nhớ rằng, cuộc viễn chinh đó xảy ra ở một nơi xa xôi: đội quân đã bỏ mạng đó không phải là quân đội bản địa, mà phần lớn là quân đội của các thành bang trong liên minh; bản thân người Athens vẫn còn chưa bị tổn hại, vẫn có thể trụ vững trong nhiều năm chống lại Ba Tư và liên minh Lacedaemonia; và với những lý do đó, thất bại tại Sicily không khiến người Athens nghĩ đến một tai ương không thể tránh khỏi, hoặc là một câu chuyện kinh hoàng tương đương (với thảm họa của người Thebes) đối với những người Hy Lạp khác. Hơn nữa, thất bại tại Aegospotami là ở trên biển, và dù người Athens có cảm thấy bẽ mặt vì việc Trường Thành của họ bị phá hủy, phần lớn hải quân của họ đã đầu hàng, đế chế của họ đã thất bại, họ vẫn duy trì hình thức cai trị cha truyền con nối và nhanh chóng khôi phục lại sức mạnh cũ của mình; quả thực, Trường Thành đã được xây dựng lại, quyền lực trên biển của họ đã được phục hồi, và người Athens, sau đó, thực sự đã có thể đảo ngược tình thế và cứu nguy cho người Lacedeamonia, những người đã từng là đối thủ ghê gớm và suýt chút nữa đã phá hủy Athens thoát khỏi một nguy cơ lớn. Chính người Lacedaemonia, sau những thất bại tại Leuctra và Mantinea, đã thấy sửng sốt bởi sự bất ngờ của thảm họa hơn là bởi tổn thất mà họ gánh chịu; và cảnh tượng kỳ lạ của cuộc tấn công Sparta của người Boeotia và Arcadia, do Epaminondas chỉ huy, đã gây cho họ và đồng minh nỗi kinh hoàng còn hơn cả mối hiểm nguy tức thì đó. Hơn nữa, việc chiếm Plataea không thể được coi là một thảm họa lớn vì đây chỉ là một thị trấn nhỏ, và hầu hết cư dân của thị trấn này đã chạy trốn sang Athens, chỉ có rất ít người bị bắt khi thị trấn sụp đổ; và cuối cùng, việc chiếm Melos và Scione cũng chẳng mấy quan trọng: họ chỉ là những cộng đồng dân cư tách biệt, và sự sụp đổ của họ, dù là một điều hổ thẹn cho những người gây ra vụ này, hầu như không thể bị coi là một cú sốc nặng nề đối với toàn bộ người Hy Lạp. |
Với Thebes, trái lại, đó là một vấn đề hoàn toàn khác: sự vô kỷ luật, diễn tiến quá nhanh của các sự kiện dẫn tới vụ nổi loạn, việc thành phố bị hạ quá đột ngột và dễ dàng, vụ thảm sát kinh hoàng và không thể tránh được, tình trạng nô dịch hoàn toàn của một thành phố vượt trội về quyền lực và danh tiếng quân sự ở Hy Lạp, nói không ngoa, đều được cho là do cơn thịnh nộ của Thần linh. Mọi người đều nhận thấy rằng, sau cùng, Thebes đã bị trừng phạt vì sự phản bội – họ đã phải trả giá vì đã phản bội Hy Lạp trong chiến tranh Ba Tư, cho việc chiếm đóng Plataea trong suốt thời gian đình chiến, vì sự nô dịch tàn nhẫn đối với thần dân của họ, vì vụ thảm sát những người đã đầu hàng không phải với Thebes, mà với Sparta, việc tàn phá vùng quê mà trong đó quân đội Hy Lạp đã đẩy lùi cuộc xâm lược của Ba Tư, và cuối cùng, vì sự ác ý hiểm độc mà người Thebes đã bộc lộ ra đối với người Athens khi ủng hộ đề nghị do liên minh Lacedaemonia đưa ra, rằng dân Athens nên bị bán làm nô lệ. Giờ đây mọi người đều tuyên bố rằng các vị thần đã đưa ra nhiều dấu hiệu cảnh báo cho tai họa này – những dấu hiệu đã từng bị phớt lờ, nhưng giờ đây và sau này, sẽ mãi mãi được ghi nhớ, đã được minh chứng rõ ràng bởi lời tiên tri trước sự kiện về số mệnh bất hạnh đang tới. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.