text
stringlengths
0
260k
vào gã, thì ngay lập tức sự sống trở nên mãnh liệt và đau đớn trong gã. Gã thích cuộc sống trước đây của mình, một cuộc sống gói gọn trong cái kén buồn tẻ, ngoại trừ nó không phải là cuộc sống đúng nghĩa, chẳng phải sao? “Lễ Thánh Lucia là ngày gì?” Gã không thể cưỡng lại, vì biết sẽ lôi kéo được đôi mắt cô, sự chú ý của cô về với gã. “Anh không biết Thánh Lucia? Cũng đúng thôi, tôi nghĩ Người là một vị thánh không mấy quen thuộc trong đạo Thiên Chúa. Rất nhiều người Scandinavi thờ phụng Người”, Carrie nói. Trong một khoảnh khắc, gã định phủ nhận đức tin là đạo Thiên Chúa bị mặc định của gã, nhưng rồi khôn ngoan ngậm miệng. Gã là Gabriel Falconi đến từ thành phố North End, láng giềng của Boston. Gã tất nhiên là một tín đồ Công giáo rồi. “Chúng tôi có rất nhiều vị thánh”, gã lẩm bẩm. “Tôi luôn yêu thích Thánh Jude [5] ”. [5] Thực chất ngài có tên trùng với Judas Iscarios - kẻ phản bội Chúa Jesus nên được gọi chệch đi thành Jude. “Người bảo trợ của những trường hợp vô vọng? Người dân ở Angel Falls rất rành về chuyện đó”, Lars nói “Cậu sẽ thích ngày lễ Thánh Lucia, Gabriel ạ. Người con gái lớn tuổi nhất sẽ đeo một chiếc vương miện cắm những ngọn nến, mặc một chiếc váy trắng và mang bánh ngọt đến cho tất cả mọi người”. “Nghe không giống một ngày nghỉ lắm với tôi”, gã lè nhè. “Cứ đợi cho đến khi cậu được nếm những chiếc bánh đi”, Lars vỗ nhẹ chiếc bụng ngưỡng mộ của mình bên dưới sức nặng chẳng đáng bao nhiêu của em bé. “Cậu sẽ có mùa Giáng sinh tuyệt nhất trong đời”. Gabriel liếc nhìn Carrie. “Dù gì đi nữa tôi cũng không nghi ngờ chuyện đó chút nào”, giọng gã điềm tĩnh. Và Carrie đỏ mặt. *** Maggie trượt người vào ghế hành khách trong chiếc xe cũ của Carrie, nhắm mắt lại một lát. “Chị không nên làm thế này”, chị nói. “Chị chưa giặt quần áo, Nils cần chị giảng bài tập đại số, Lars cần làm khung cảnh Chúa giáng sinh, chứ không phải trông em bé”. “Chị không thể chăm sóc cho tất cả mọi người suốt như thể được”, Carrie nói bằng chất giọng lý luận nhất của mình. Maggie quay sang nhìn cô, vẻ hài hước nhạt nhòa hiện lên trong đôi mắt mỏi mệt. “Em nên nghe theo lời khuyên của chính mình. Em đang tự làm cho bàn thân mệt nhoài đấy thôi”. “Ôi, vị thánh hoàn hảo như em ấy à”, cô nhăn nhó chế nhạo. “Chị thừa biết em không có đến nửa nhu cầu phải lo toan như chị”. “Chị chỉ ước sao em có...” Hình ảnh về một đứa trẻ vẫn thường xuyên lặng lẽ giáng lên cô mạnh mẽ, như lúc này đây. “Ôi, không đâu. Và kiểu gì cũng không xảy ra. Em muốn chị biết điều này, em không thích hợp với một gia đình và những đứa trẻ. Nhìn vào mặt tích cực mà xem, chị Maggie. Em có thể đến đây và dùng khát khao có con của mình để chăm chút cho những đứa trẻ nhà chị, đồng thời cho chị thời gian nghỉ ngơi. Trọn vẹn đôi đường”. “Đâu có trọn vẹn cho em. Chị chỉ mong...” “Em ước sao không phải nói đến chuyện ấy nữa”, Carrie kiên quyết. “Đây là khởi đầu cho lễ Giáng sinh. Chị thử nghĩ xem mình có thể mua gì”. “Không nhiều lắm”, Maggie ảo não. “Gì thế này, chị là Grinch kẻ đánh cắp lễ Giáng sinh [6] đấy à? Một túi bạc hà cũng đủ khiến chị em mình thỏa mãn, và điều gì có thể mang lại không khí Giáng sinh hơn nữa nào? Em nghĩ chúng ta có thể nới hầu bao cho một ít ruy băng buộc tóc, cùng một ít sao vàng cho chiếc vương miện Thánh Lucia của Kristen. Chị sẽ cần thêm len cho chiếc áo mới của anh Lars, anh ấy có thể mặc nó trong rừng”. [6] Tên gốc là How the Grinch stole Christmas: Câu chuyện dành cho thiếu nhi của tác giả Dr.Seuss. Chủ đề sai lầm, Carrie nghĩ, khi gương mặt Maggie nhàu nhò trong đau đớn bất chợt nổi lên. “Chị sợ, Carrie. Sợ lắm. Rừng núi là nơi nguy hiểm, và em biết rõ khu khai thác Hunsicker được điều hành tạm bợ thế nào. Nếu hai người làm của ông ta không bị thương thì công việc đã chẳng đến tay Lars”. Một nỗi lo xưa cũ, nỗi lo Carrie đã cố ghìm xuống không biết bao nhiêu lần. Nó chỉ là một công việc nặng nhọc thôi, Carrie đã nói vậy khi gắng trấn an Maggie, trong khi cô thừa biết những nỗi sợ hãi đó hoàn toàn hợp lý. “Chúng ta phải có lòng tín, chị Maggie. Có quá nhiều chuyện tệ hại xảy ra trong mấy
năm gần đây, kể từ lúc nhà máy đóng cửa. Cũng là tự nhiên thôi khi nghĩ những điều tồi tệ hơn còn tiếp diễn, nhưng chúng sẽ không đến. Lars là người thợ cẩn thận, và anh ấy luôn giữ đồ nghề ở tình trạng tốt nhất. Anh ấy sẽ không bị làm sao đâu..” “Em nói đúng”, Maggie đột ngột lên tiếng. “Không nói mấy chuyện u ám nữa. Nếu cứ chán nản mình sẽ không làm được gì, và lễ Giáng sinh không phải lúc để sầu muộn. Mình kể chuyện nào vui vẻ hơn đi”. “Ví dụ như?” Carrie cảnh giác. “Như Gabriel Falconi ấy. Khá là dễ thương, đúng không?” “Em sẽ không bảo anh ta trông dễ thương đâu”. “Thế em bảo cậu ta trông thế nào? Đừng ra vẻ em không phát hiện cậu ta là miếng bánh ngon lành thế nào nhé. Cậu ta là thứ trông tuyệt nhất chị từng thấy kể từ khi gặp Lars”. “Maggie!” Carrie vờ kêu lên sợ hãi. “Em tưởng ở đây chị và Lars là cặp đôi hoàn hảo nhất rồi”. “Đừng cố đánh trống lảng. Em có để mắt đến cậu ta. Và chị thấy một mối tình lãng mạn trong tương lai của em rồi đấy nhé”. “Em chẳng để mắt đến ai cả. Em không hứng thú với chuyện tình cảm, chị thừa biết mà”. Cô có thể nghe thấy sự căng thẳng trong giọng nói của mình, và niềm khát khao đến tuyệt vọng giăng nặng trịch trong bầu không khí, không gì có thể ngụy trang chúng trước người bạn lâu năm nhất của cô. “Dù người kia có là ai, Carrie, anh ta cũng không đáng để em phải sống quãng đời còn lại như một nữ tu”, Maggie nghiêm nghị. “Gabriel đang ở đây, cậu ta hoàn mỹ, không ràng buộc, và giới tính hoàn toàn bình thường...” “Sao chị tin chắc thế?” Carrie đầu hàng trước sự tò mò bản thân. “Chị thấy cách cậu ta nhìn em khi nghĩ không có ai chú ý.” Sẽ không đau đớn, Carrie hờ hững nhủ. Sẽ không có cảm giác như ngọn giáo đâm thẳng vào bụng cô, và cơn đau xuyên suốt cơ thể trong sức nóng hóa lỏng kim loại. Cô đã khóa mọi cảm xúc, mọi yếu điểm, mọi thỏa mãn khi được trở thành một người mẹ xuất sắc và khôn ngoan, để nhân rộng lòng nhân ái quanh cô như những cứu trợ dành cho người nghèo. Cô tự nói với bản thân trái tim cô đã bị chôn vùi cùng tên đểu cáng lạnh lùng cô từng yêu ở New York, và đó là lý do hiệu quả nhất gây dựng niềm tin nơi cô đến tận lúc này. Nhưng giờ đây, trong khoảng thời gian chưa đầy hai mươi bốn giờ đồng hồ, cuộc sống của cô lại chao nghiêng, tất cả là bởi ánh nhìn từ đôi mắt đen của một người đàn ông hệt thiên thần giáng trần. “Chị chỉ đang tưởng tượng thôi”, cô phản bác. “Không hề nhé. Mỗi lần em bước vào phòng là mức độ dữ dội phải vọt lên tới mười độ. Cậu ta...” “Chị em mình hoặc sẽ kết thúc với việc giận dỗi nhau hoặc khóc nức nở lúc đến được khu thương mại”, Carrie cắt ngang. “Hay chúng ta nói đến mấy công thức nấu ăn?” Cô tấp xe vào làn đường dành cho ô tô của khách hàng trong khu trung tâm thương mại mới xây của Saint Luke, thứ gần nhất với thành phố mà vùng Minnesota của họ tự hào. Maggie bất giác lặng yên. Sau đó chị đặt bàn tay thô ráp lên tay Carrie. “Chị thích dùng ít bột bạch đậu khấu trong công thức làm bánh quy đường của chị”. Carrie nhoẻn miệng cười biết ơn. “Bạch đậu khấu cũng được ạ, nếu không cho quá tay”. “Vậy thì thêm chút hạt mùi vào lại càng tuyệt”. “Em không bao giờ có thể biết được sự khác biệt nằm ở đâu. Ôi Chúa tôi, bãi đỗ xe!” Carrie hổn hển. “Chị có nghĩ đây là dấu hiệu từ Chúa không?” “Nhận được một chỗ để xe ngay cạnh cổng vào? Chắc chắn rồi. Chúng ta sẽ có một mùa Giáng sinh tuyệt hơn bao giờ hết cho xem”. *** Gabriel đặt bức tượng thiên thần đã hoàn thành phân nửa xuống bàn dụng cụ cũ mòn và nhìn kinh ngạc. Mới bước sang chiều muộn song cứ như thể gã đơn độc trong xưởng của Lars hàng giờ liền. Gã chỉ ngừng lại khi Lars xuất hiện mang theo bánh táo và cà phê Scandinavi đậm đặc. Lúc đầu chỉ mỗi mình gã ngồi đó, chăm chú nhìn khúc gỗ, cố hình dung cách sử dụng những chiếc đục bé xíu. Nhưng càng tập trung gã càng rối rắm. Lần xuất hiện đầu tiên của Lars là sau khi dỗ em bé ngủ trưa, anh ta không nói gì về chuyện đục đẽo, anh ta chỉ để lại thức ăn, bật chiếc radio nhỏ lên và rời đi. Gabriel
đã uống cà phê, ngấu nghiến chiếc bánh ngon lành, và nghe nhạc. Là nhạc Giáng sinh, gã ghê tởm nhắc bản thân. Thế nhưng, khi gã lắng nghe và nghĩ về tất cả những lý do gã không nên thưởng thức mấy bản “Good King Wenceslas” [7] trình diễn theo kiểu new age [8] , hai tay gã đã nhặt khúc gỗ anh đào lên và bắt đầu làm việc. [7] Một bài hát Giáng sinh nổi tiếng. [8] Thể loại nhạc điện tử kết hợp với các nhạc cụ dân gian, đôi khi kết hợp với tất cả những âm thanh thật trong cuộc sống và được trình diễn theo lối ngẫu hứng. Mỗi lần gã định thần ngừng lại thì tay gã lại trở nên lóng ngóng. Gã chưa bao giờ là một học trò chậm hiểu, và rõ ràng phần con người thuộc về Gabriel Falconi của gã cũng thông thạo ngang như vậy. Nếu gã chú tâm gã sẽ không biết mình đang làm gì. Thế nên gã tập trung vào âm nhạc, vào dòng chảy âm thanh êm dịu, và nhường công việc nghĩ ngợi cho đôi bàn tay. “Đẹp lắm!” Gã không nghe thấy tiếng Lars bước vào. Người đàn ông lớn tuổi đứng ngay bên cạnh, nhìn bức tượng thiên thần. “Cậu có khả năng thiên phú đấy”, Lars tiếp tục. “Và tôi là người phát hiện, tôi tự nhận thế, dù có vẻ là hơi trơ trẽn. Bức tượng thực sự rất đẹp. Cậu đã bắt được cái thần đó rồi”. Gabriel nhìn xuống đôi tay của mình. Chúng thô ráp, sứt sẹo, to lớn và trông vụng về dưới ánh nhìn xa lạ của gã. “Tôi cũng nghĩ thế”, gã lẩm bẩm. “Bức tượng làm tôi nhớ đến một người”, Lars nói, nâng bức tượng lên. “Có gì đó trên gương mặt bà ấy mà tôi không thể nào xác định. Bà ta là một bà già Tác-ta thật sự còn gì?” Gabriel nhìn xuống gương mặt phán xét, nghiêm nghị của Augusta. “Đúng vậy”. “Cậu không nghĩ thiên thần lại đi giống một bà già hay gắt gỏng thế này đấy chứ? Nếu tôi phải đối mặt với bà ta vào ngày phán xét, tôi sẽ sợ đến mất mật. Nhưng trông rất hợp”. Anh ta vỗ nhẹ bàn tay lên vai Gabriel rồi khẽ siết. “Rất hợp”, anh ta lặp lại. Gabriel nhìn anh ta. Trong hình hài trước đây hẳn gã đã nghĩ đó là một lời khen lấy lệ. Nhưng người đàn ông mà gã trở thành còn nhạy cảm hơn bản thân xưa cũ của gã rất nhiều. Và Lars Swensen đã tặng cho gã một lời ca ngợi quý giá, quả thực như vậy. “Cảm ơn”, gã nói. “Tôi sẽ hoàn thành nó vào ngày mai và bắt tay làm một bức tượng khác. Đương nhiên nếu anh muốn tôi giúp. Chỉ mất một chút thời gian để tôi bắt đầu thôi”. Lars gật đầu. “Đôi khi vẫn vậy. Chờ đợi cũng đáng làm. Cậu đã có ý tưởng nào cho bức tượng tiếp theo chưa? Một vị thẩm phán nửa chăng?” Gabriel nhìn chằm chằm xuống gương mặt cạn kiệt hài hước của Augusta. “Tôi không chắc nữa”, gã chậm rãi nói. “Tôi phải xem tay tôi sẽ hình thành nên thứ gì”. Tiếng khóc ré lên từ trong nhà. “Nhóc con gọi rồi. Mấy người phụ nữ vẫn chưa đi mua sắm về, tôi nghĩ tốt hơn hết chúng ta nên xem có thể nấu nhanh món gì không. Khoản bếp núc của cậu thế nào?” Gã nhớ đến những khóa nấu ăn thời thượng bắt buộc đối với một kẻ độc thân quý tộc. Song không hiểu sao gã không nghĩ Lars sẽ đánh giá cao món mực sống thái sợi : cuốn pâté ravioli vịt [9] , “Tôi có thể nấu ăn”, gã nói. “Bò bít tết và spaghetti”. [9] Một loại há cảo của Ý với thịt vịt làm nhân và vỏ bánh làm từ pasta, người ta còn gọi là món pasta nhồi vịt. “Giống tôi. Ngoại trừ hôm nay là ngày sau lễ Tạ ơn. Nếu không dùng thịt gà tây băm thì còn gì là bữa ăn kiểu Mỹ nữa”. “Gà tây băm?” “Chúa nhân từ, chúng không được truyền bá ở Boston sao? Cậu sẽ uổng phí cả đời nếu chưa ăn thịt gà tây băm thực sự. Cứ chuẩn bị tinh thần cho một bữa tiệc nấu nướng đi”. “Bữa tiệc nấu nướng gì thế bố?” Nils gặng hỏi khi cả hai bước vào luồng hơi nóng của gian bếp. Gabriel không nhận ra sự lạnh lẽo ở xưởng. Gã quá miệt mài với công việc và bất cứ ý thức tỉnh táo nào cũng không được quấy rầy. “Gà tây băm”. “Gớm chết”, Nils rú lên. “Kinh bò xừ”, đến lượt Kirsten kêu lên khi cô bé nhịp nhàng vỗ lưng cho em bé. “Dù sao cũng phối hợp hoàn hảo với thịt gà tây”, Nils thêm vào. “Chúng ta không thể ăn sandwich gà tây được ạ?” “Bữa trưa ăn rồi. Hơn nữa, con gà
cô Carrie mang đến to bằng cả thành phố Minneapolis. Thức ăn quá quý giá, không thể lãng phí”. “Món tacos [10] thì sao bố? Nhà mình còn một ít thịt bò xay trong ngăn đá”. [10] Món bánh thịt chiên giòn của Mexico. “Enchilada nhân gà” [11] . Trong giây lát Gabriel không nhận ra những từ đó phát ra từ chính miệng gã. [11] Là những chiếc tortilla, một loại bánh bột ngô cán mỏng cuộn tròn lại với nhân thịt gà tây, rưới một lớp sốt gia vị và được đem nướng. “Cái gì cơ?” Nils ngờ vực hỏi. “Chú sẽ làm enchilada nhân thịt gà”. Có lẽ gã làm được món này. Gã có khả năng đẽo được thứ trông cực kỳ giống với kẻ thù Augusta truyền kiếp, thì chẳng lý gì gã không làm được enchilada nhân gà. Gã chưa bao giờ thích đồ ăn Mexico. Ấy vậy mà đột nhiên lại thèm đến bấn loạn như một bà bầu tám tháng. Gã muốn thứ gì đó phủ đầy ớt bột và tortilla, và nếu dùng gà tây và tự nấu, thì gã sẽ làm được thôi. “Với tôi thì tuyệt đấy. Cậu cần những gì?” Gã ngây ra như phỗng mất một lúc. Nhắm mắt lại gã cô ý bước dần vào trạng thái thất thần. “Tortilla, ớt bột sốt cà chua, pho mát Jack [12] và hành tây”. [12] Tên đầy đủ là Monterey Jack cheese, một nhãn hiệu pho mát nổi tiếng. “Cháu sẽ đến cửa hàng”, Nils hô. “Không được tự đi, nhớ không. Con chỉ mới có giấy phép học lái xe. Bố sẽ lái, và chúng ta sẽ qua đón Jeffie. Thằng bé ở một mình quá lâu rồi”. Lars quay sang Gabriel. “Cậu không ngại nếu phải trông nhà chứ? Kristen có thế quản mấy đứa nhỏ”. Không có gì phải sợ, Gabriel nhủ. Gã chỉ đơn thuần không thích trẻ con thôi. Gã luôn xem chúng là những sinh vật ồn ào, nhốn nháo, và gã không muốn bị mắc kẹt cùng lúc với ba đứa. Nhưng những đứa con của Lars là trường hợp ngoại lệ. Kristen trông rất tươi tắn, xinh xắn và tính cách thì vô cùng ngọt ngào. Thằng nhóc nhỏ hơn, tên gì cũng được, lại có một nụ cười tinh quái vượt quá bản năng dè dặt trong Gabriel. Thậm chí cả con bé đang ẵm ngửa cũng quá đỗi thu hút. Gã sẽ sống sót. “Cứ đi thong thả”, gã hào phóng nói, tự rót cho mình thêm một tách cà phê đậm đặc. Và gã không hối tiếc với những lời đã thốt ra cho đến hai mươi ba phút tiếp theo. Chương 6 Tuyết rơi đều đều, Carrie và Maggie lái xe lên con dốc vào nhà Swensen. Những con đường trơn trợt khiến bất cứ tốc độ bình thường nào cũng có thể trở nên bất cẩn, và đôi khi Carrie cũng phải lắng nghe sức phán đoán đáng tin cậy của cô. Cô không thích sự thật muốn quay trở lại nhà Swensen, với thôi thúc quá gần nỗi tuyệt vọng. Bởi cô thừa hiểu cô đang cố giành lại thứ gì, thứ cô không xứng đáng và sẽ không bao giờ có được. “Em có nghĩ họ đang lo cho chúng ta không?” Maggie hỏi khi ra khỏi ghế trước, hai tay cầm đầy nhũng gói hàng. “Hẳn rồi. Chị có để ý không?” “Nhưng cũng không thể quay về sớm hơn”, chị thừa nhận. “Chị cược là bọn họ đang chụm đầu với nhau, gắt gỏng và chờ chị về nấu bữa tối”. “Em nghĩ anh Lars không phải kiểu người như thế”. “Cưng ơi, mọi đàn ông đều thế cả. Họ đều mong em phục dịch bọn họ, kể cả những gã hoàn hảo hiếm hoi cũng thế”. “Lars là một trong số ít ấy chứ?” “Chắc chắn”, Maggie hổn hển, đi loạng choạng trên con đường phủ băng. “Chị vẫn chưa biết xếp Gabriel vào bậc tiêu chuẩn nào của một người đàn ông hoàn hảo”. “Lars đang đứng ở bậc mười à?” Carrie đỡ bớt vài gói hàng to từ đôi tay lạnh cóng của Maggie. “Chị nghĩ Gabriel khoảng bậc bốn”, Maggie trầm tư. Carrie phản đối ngay lập tức, theo bản năng và không thể nói thành lời. “Chị không thể làm em mắc câu được đâu, Maggie. Theo những gì chúng ta biết, anh ta có thể đang ở mức âm ba”. “Không đúng, chỉ riêng vẻ bề ngoài chị cũng cho cậu ta bốn điểm rồi. Thật mừng là Angel Falls lại hiếm phụ nữ độc thân đến lạ thường. Em chẳng phải cạnh tranh với ai cả”. “Maggie”, cô cảnh cáo, giậm hai chân dính đầy tuyết lên hành lang cứng trước nhà. “Dù sao em cũng không cần lo về chuyện cạnh tranh. Bất cứ người đàn ông nào tinh ý cũng sẽ chọn em trước cả bầy thí sinh dự thi hoa hậu Mỹ”. Chị đẩy cửa vào, làm hơi ấm cùng ánh sáng ùa ra cả hàng hiên. “Cái gì mà thí sinh thi hoa
hậu Mỹ thế?” Giọng nói ồm ồm vang lên, cả thân hình to khỏe choán gần hết cửa vào nhà bếp. “Không may thế đâu, anh yêu. Anh đã có em rồi” Maggie nói. “Và em thì mang cả nửa cửa hàng ở Saint Luke về đây”. Sự lo lắng hiện rõ trong giọng nói của anh. “Anh nghĩ chúng ta đã quyết định không chuẩn bị nhiều cho lễ Giáng sinh rồi mà”. “Đừng làm chị ấy buồn”, Carrie nói, đóng cánh cửa lại. “Chị ấy chỉ dùng một khoản tiền nhỏ thôi. Hãy mừng vì bọn em đã về nhà để nấu ăn cho…” Giọng cô nhỏ dần khi cô ngửi thấy mùi thơm trong không khí. “Món gì vậy ạ?” “Không giống mùi của thịt gà băm”, Maggie nói với giọng tố cáo. “Không phải đâu. Là món enchilada nhân gà, và chỉ vì lòng cao thượng trong tâm hồn cùng tinh thần của lễ Giáng sinh anh mới cố để phân đủ cho hai người bọn em đấy”. “ Anh chưa bao giờ làm enchilada”. “ Anh vẫn chưa biết làm. Gabriel là đầu bếp”. Anh với tay đón các túi đồ. “Để anh cất. Hai người vào trong và lấy thứ gì ăn trước khi chỉ còn chừa mỗi da với xương đi”. “Không có khả năng với em”, Maggie thở dài, treo áo khoác lên móc, “và quá muộn với Carrie” “Không bao giờ là quá muộn với Carrie cả”, Lars nói chắc nịch, rồi đẩy nhẹ hai người phụ nữ. Gian bếp trống không. Maggie hoảng hốt nhìn quanh. “Chị không chắc bữa ăn lại đáng giá thế này”, chị nói khi quan sát chồng đĩa trong bồn rửa, nồi niêu xoong chảo bày la liệt kín mọi chỗ trong trong bếp mà lúc chị đi hoàn toàn sạch sẽ tinh tươm. “Lars đã bảo anh ta là một đầu bếp, chứ không phải một cô phụ bếp rửa bát đĩa chuyên nghiệp”. Carrie chỉ ra khi đi thẳng về phía chiếc bồn. “Em sẽ chỉ cần bắt đầu với những...” “Ôi, không, em không phải làm đâu”. Lars quay lại với tốc độ kỷ lục. “Hai người ngồi xuống đi, anh sẽ phục vụ chu đáo”. Anh bê một chồng đĩa khỏi bàn, đặt chúng vào trong bồn rửa rồi quay lại với một nụ cười ngốc nghếch. “Hai em sẽ không tin nổi mình đang nếm cái gì đâu. Anh không biết thịt gà tây thừa có thể đem lại mùi vị ngon đến thế”. “Em chỉ không tin thứ em đang nhìn đây thôi”, Maggie cáu kỉnh. “Em cũng thế”, Carrie khẽ nói, rồi kinh ngạc ngồi xuống chiếc ghế Lars kéo ra cho cô. Gabriel đang đứng giữa khung cửa. Đống hỗn độn được tạo nên từ kiệt tác nấu nướng của anh ta không tha cho anh ta nguyên vẹn. Sốt ớt tô điểm cho đôi lông mày, bắn tung tóe trên chiếc sơ mi và làm loang lổ chiếc quần jean. Nhưng đó chưa phải điều bất ngờ nhất. Trong tay anh ta là bé Carrie Swensen đang ê a vui vẻ, và vẫn còn lem nhem từ bữa ăn tối. “Bé cưng!” Maggie kêu lên, với tay đón cô con gái nhỏ. “Bé Anna Caroline của mẹ”. Sau một lát cô bé lại được bế ra. “Anh không chắc con bé sẽ theo em đâu, cưng à”, Lars nói, đặt hai đĩa thức ăn đầy ắp trước mặt họ. “Anh nghĩ con bé đang yêu”. Gương mặt mâu thuẫn của Gabriel trầm xuống. Một bên, anh ta dường như xấu hổ đến tột độ trước sự yêu mến rõ ràng của cô bé. Một bên, cái cách anh ta ôm cô bé khiến ai cũng bị bất ngờ về khả năng của anh ta, như thể đôi tay đó đã quá quen với những đứa trẻ, mặc cho lúc trước anh ta khẳng định rằng chưa bao giờ nhìn một người phụ nữ cho con bú. “Con bé khóc hờn khi Lars và Nils đến cửa hàng”, Gabriel nói với giọng trầm thấp. “Tôi chỉ cố làm bé bình tĩnh lại”. Carrie có thể hình dung được điều đó. Cô từng chứng kiến cảnh con bé gào khóc, và đó không phải một cảnh tượng dễ chịu gì. Thông thường ngoài vòng tay của mẹ, không gì có thể làm bé dịu lại, nhưng Gabriel có vẻ sở hữu một khả năng phi thường. Có lẽ khi nằm trong vòng tay anh ta, lắng nghe những âm thanh từ giọng nói trầm trầm rung lên qua lồng ngực... Cô đánh rơi chiếc nĩa, tạo một tiếng “keng” chói tai. “Sao thế?” Gabriel hỏi. “Cô không thích món tôi nấu sao?” Cô ngước lên, gặp ánh mắt đen mướt, bí ẩn của anh ta trên mái đầu loăn xoăn của đứa bé. Sự vụng về, dịu dàng và có chút quyến rũ trong hành động đó làm anh ta ngạc nhiên. “Ngon lắm”, cô thành thực nói. “Tôi chưa bao giờ ăn được nhiều thế này”. “Tôi cứ phải luôn mồm bảo con bé quá gầy”, Maggie nói, quẹt đi
quẹt lại cái nĩa trên cái đĩa đã trống không. “Bảo con bé là nó quá gầy đi, Gabriel”. “Cô quá gầy”, anh ta trầm giọng nói. Câu nói lấy đi tất cả sự tập trung ở Carrie, nhưng cô cố gắng để rũ bỏ trạng thái mơ màng. “À”, cô mạnh miệng. “Em đành khiến mọi người thất vọng thôi. Kể cả em có ăn nhiều gấp đôi, em cũng không thể lên cân. Thiết kế của cơ thể em không cho phép được béo”. “Mọi người sẽ nghĩ con bé đang tự hào về chuyện đó”, Maggie rên rỉ. “Còn chút enchilada nào nữa không vậy?” “Hết rồi”, Lars nói. “Em sẽ ăn hết phần của em chứ?” Chị ném ánh mắt thèm thuồng vào phần thức ăn hầu như không được đụng đến của Carrie. “Phải, cô ấy sẽ ăn hết”, Gabriel nói, trao đứa bé cho Maggie và bao phủ cả cái bóng của mình lên người Carrie. Anh ta đang tán tỉnh cô, có lẽ, chỉ có lẽ thế thôi, nhưng cô có thể đá lông nheo với anh ta chút ít. Có hại gì đâu? “Nếu tôi làm thế anh sẽ cho tôi cái gì?” Anh ta quá gần cô. Maggie đứng dậy, bỏ lại chiếc đĩa đã hết bay, Gabriel ngồi vào chỗ chị vừa để trống, bên cạnh Carrie, “Món tráng miệng”, anh ta đáp. Carrie cứ thế đăm đăm nhìn anh ta, đủ các thể loại hình ảnh nhảy múa trong đầu, song những viên kẹo bi không hề xuất hiện. Cô định nói, rồi lại thôi, đẩy chiếc đĩa vẫn còn đầy ra xa, đẩy luôn trái tim trống rỗng ra xa khỏi cô. “Không phải cho tôi. Tốt hơn tôi nên về nhà. Đường sá trơn trợt và lò sưởi nhà tôi hẳn giờ cũng tắt rồi”. “Nghỉ lại đây đi”, Lars đề nghị. “Không an toàn nếu em lái xe một mình trong đêm với tình hình đường sá thế này đâu”. “Các đường ống nhà em sẽ đóng băng, và em không đủ sức chi trả cho thợ sửa ống nước thêm nữa. Xe của em có thể đương đầu. Đừng lo cho em, Lars. Em sẽ ổn thôi”. “Anh lo lắm, Carrie à. Tất cả bọn anh đều lo”, Lars nghiêm túc nói, tì người lên chiếc bàn chắn giữa bọn họ. “Đúng vậy”. Lời nói tuy ngắn, và sống sượng, nhưng nỗi đau lộ rõ và bất cứ ai cũng có thể nhận ra. Cô không xứng đáng với sự quan tâm của họ. “Ít nhất cũng để anh theo em về và đảm bảo em đến nơi an toàn.. “Không”. “Gabriel có thể đi theo em”, Maggie đề xuất, tiếp tục nhìn con gái để tránh cái trừng mắt của Carrie. “Cậu ấy có thể đàm bảo lò sưởi nhà em tiếp tục hoạt động trước khi cậu ấy đi”. “Không”, cô lặp lại. “Em có thể tự lo, và mọi người cũng biết rõ điều ấy”. Cô đứng dậy, không nhìn vào ánh mắt sẫm kiên định của Gabriel. “Nhưng ngày mai nếu anh muốn đến và xem xét công việc. ...” “Tối nay phù hợp với tôi hơn”, anh ta nói. Cô nghĩ anh ta đã bỏ lỡ màn chuyển cảnh ban nãy rồi. “Vì sao?” Cô thẳng thừng. “Bởi vì ngày mai tôi phải làm xong một bức tượng và bắt tay khắc bức khác, tôi đã hứa với Lars sẽ mang các thứ đến nhà thờ giúp anh ấy, và tôi muốn kiểm tra xe của tôi nữa. Chỉ có thể là tối nay hoặc tuần sau”. “Vậy tuần sau cũng sẽ ổn....” “Thôi đi mà, Carrie”, Maggie nói. “Người đàn ông này muốn đến tối nay, vậy cứ để cậu ta đến tối nay đi em”. Maggie năn nỉ. Cô chỉ có thể bất lực trong loại trường hợp lộn xộn thế này. Lars và Maggie là những người tốt bụng nhất thế giới, nhưng câu thành ngữ “người Thụy Điển ngoan cố” có lẽ từ hình tượng của họ mà ra. Và nếu nói thẳng thì cô không chắc muốn lái xe trên bề mặt trơn trượt của con đường quanh co dài dằng dặc hay không. Phần dẫn động vẫn chạy đều và rất ổn, nhưng khi tất cả mọi thứ bị đóng băng thì nói trước được gì. “Được rồi, em sẽ không tiếp tục tranh cãi”, cô mệt mỏi nói. “Tất cả những gì em muốn làm là về nhà và lên giường đi ngủ. Nếu mọi người cứ khăng khăng là em sẽ an toàn nếu để Gabriel theo em thì em cũng không cản được, dù không cần thiết. Nhưng em mệt lắm, em không muốn kéo Gabriel đi khắp nhà trong cơn bão tuyết để chỉ chỗ nào cần sửa chữa. Anh ấy có thể đi theo em, đảm bảo em yên ổn vào nhà rồi trở lại đây. Hài lòng chưa ạ?” “Rồi”, Lars nói. “Cứ lấy chiếc pickup của tôi mà đi, Gabe. Cô nàng đó tuy già nua và gỉ sét nhưng có thể chạy như một chiếc xe hàng đầu, và
cậu sẽ không cần đến phần dẫn động trong một đêm như thế này đâu”. Anh quay sang Carrie. “Còn em thì hãy ngồi xuống, dùng ít đồ tráng miệng và một tách cà phê trước khi đi đi nào”. Một phần trong cô sẵn sàng chết vì cà phê, nhưng cô càng trì hoãn thì càng phải biểu diễn trong vở kịch ghép đôi lộ liễu của vợ chồng Swensen. Hơn nữa, cô đã kiệt sức. Cô cần được ngả lưng lên chiếc giường của mình càng nhanh càng tốt. Và chấp nhận sự giúp đỡ của Gabriel là cách duy nhất để cô được về nhà trong thời gian ngắn nhất. “Không cà phê, không tráng miệng”. “Không cà phê sao?” Lars nói theo, quá choáng. “Vậy một chút rượu sherry nhé? Thứ gì đó cho em ấm người”. “Một nụ hôn chúc ngủ ngon”, cô nói, nghiêng người qua bàn và hôn lên gò má vạm vỡ của anh. “Thế là em lấy được cả hai từ anh rồi”, cô thì thầm vào tai anh. Lars trông không có chút gì là tức giận. “Đừng làm cái việc anh không làm”. Gabriel đi theo cô ra ngoài phòng khách, chùm chìa khóa của Lars nằm trong tay anh ta, vẻ mặt không sao đọc nổi. Cô tự khích lệ bản thân, đợi anh ta bình luận vài câu, nhưng anh ta im lặng, cái bóng bao phủ lấy cả người cô. Anh ta không giúp cô mặc áo khoác. Quả là một hành động khôn ngoan. Cô đã ở sẵn trong tâm trạng tệ hại, phải chấp nhận giúp đỡ trong khi cô mới là người chìa tay giúp mọi người, và nếu anh ta ngu ngốc mà lo lắng quá mức cho cô, cô sẽ đá vào mông anh ta. Cô hiếm khi nói khó nghe dù chỉ một từ với người khác trừ bản thân. Nhưng anh ta im lặng, cũng không thử chạm vào cô, chỉ đơn giản chờ cô mặc áo khoác. Cô nhủ thầm có khi cô đang mắc chứng hoang tưởng. Anh ta không biết gì về cô và vô số các vấn đề của cô. Không một ai biết hết mọi vấn đề của cô, hoặc độ sâu của những tổn hại cô đã gây ra. Không một ai cần biết. Lương tâm của chính cô bị trừng phạt là đã đủ rồi. “Anh không cần làm thế, anh biết đấy”, cô nói. “Lars và Maggie che chở tôi quá mức cần thiết. Từ khi mười sáu tuổi tôi đã lái xe trên những con đường này, thường xuyên không sử dụng phần dẫn động hay những bánh xe đi trên tuyết”. “Họ quan tâm đến cô”. “Hơi nhiều một chút, nếu anh hỏi tôi”. “Tôi không biết là mình lại được thắc mắc cơ đấy”, Gabriel nói. Thật vô ích khi đi tranh luận. “Con đường dẫn thẳng đến nhà tôi, hình dung con đường rất đơn giản, trừ phi anh mất khả năng định hướng”. Một vẻ khác lạ xoẹt qua mắt anh ta. “Tôi không biết”, anh ta nói đơn giản. Cô không dừng lại để xem xét những ý khác trong lời nói đó. “Ừm, tôi nghĩ anh sẽ tìm ra tối nay thôi, phải vậy không? Anh có nhiều kinh nghiệm lái xe trong mùa đông chưa?” “Tối qua”, anh ta nói, dấu vết của một nụ cười mờ nhạt cong lên trên miệng anh ta. Chúa tôi, cô yêu khuôn miệng đó. Ngay lập tức cô dằn cái ý nghĩ ấy xuống. “Không đủ cho một giấy chứng nhận”. “Do may mắn. Tôi sẽ ổn thôi”. “Tôi không muốn phải kéo anh lên khỏi một cái rãnh khác nữa đâu đây. Có lẽ tối nay anh nên ở yên trong nhà”. Anh ta túm lấy cánh tay cô. Sai lầm lớn, cô nghĩ. Cô thích cảm giác bàn tay anh ta trên cánh tay cô, mạnh mẽ, chở che đầy sức ép mà không hề áp bức. Cô sẽ không để người khác che chở cho cô, cô quá bận rộn để che chở bọn họ. Nhưng Chúa ơi, cảm giác đó thật tuyệt, dù chỉ trong một khoảnh khắc, cô đã lạc mất bản thân. “Tôi nghĩ”, anh ta nói, “chúng ta nên ngừng tranh cãi và khởi hành trước khi con đường bắt đầu trở nên khó đi. Hay là cô đổi ý, quyết định ở lại đêm nay?” “Tôi không đổi ý”. Anh ta vẫn không rời tay khỏi cánh tay cô, và cô cũng không có ý định giải thoát bản thân. “Hy vọng tôi đã nói rõ, anh ở trong xe cho đến khi tôi an toàn vào nhà rồi lái thẳng về”. Anh ta không trả lời. Thay vào đó, anh ta mở cánh cửa, để luồng không khí ẩm ướt và băng giá tràn vào. “Đi thôi”, anh ta nói. Và vì bàn tay ấm áp, khỏe mạnh của anh ta vẫn siết lấy bắp tay cô, cô buộc phải đi theo anh ta. *** Gabriel lái xe từ tốn, theo sau cô trên con đường đóng băng khi gã
suy tính hướng hành động. Gã mừng khi nhìn thấy vài dấu hiệu giận dữ nơi cô. Gã bắt đầu nghĩ tới cô như một vị thánh của Angel Falls. Một tổ hợp chết tiệt, gã nghĩ thầm với nụ cười chua chát. Một vị thánh, và một thiên thần gãy cánh. Gã là người được cho ở phe cái thiện, không phải sao? Gã không chắc về bất cứ chuyện gì thêm nữa. Có lúc gã cảm giác bản thân như Gabriel Faleoni, tự nhiên và thân thuộc bên trong một cơ thể xa lạ, một trí não xa lạ. Emerson Wyatt Macvey III cứ như một giấc mơ, một nhân vật gã đã đọc được trong một cuốn sách. Không phải một cuốn sách hay, nếu nói thêm. Một trong những cuốn tiểu thuyết sầu muộn chôn vùi hoài bão mà gã phải vẫy vùng trong suốt một cuộc đời đã qua đi. Gã tập trung vào ánh đèn đỏ phát ra từ đuôi xe phía trước gã. Lars nói đúng, chiếc xe bám trên con đường đóng băng khá tốt. Gã phát hiện gã lái xe rất giỏi trong những tình huống xấu. Gã tự động liếc nhìn má phanh, dùng một lực ép vừa đủ lên chân ga, và mất một lúc để ngưỡng mộ kỹ năng thành thạo của mình. Rồi ngay lúc đó, gã bắt đầu lại đạp phanh, và lần này vượt xa mức xử lý chính xác, đầu tiên là văng theo một hướng và rồi sau đó là theo một hướng khác trên con đường vốn đã khó đi. Gã cố gắng kéo chiếc xe khỏi cú xoay tròn, đưa nó trở lại trên con đường thẳng và hẹp, hai lòng bàn tay gã đẫm mồ hôi, và những lời chửi rủa lấp đầy cả bầu không khí. Tại sao gã không nhớ? Gã sở hữu tất cả mọi loại tài năng mà gã chưa bao giờ biết chúng từng tồn tại, nếu gã chỉ cần nhớ sử dụng các bản năng chứ không phải cái đầu của gã. Nếu Emerson nghĩ đến chuyện lái xe trên những con đường như cơn ác mộng thì hắn sẽ kết thúc trong một cái rãnh. Nếu Gabriel tập trung vào người phụ nữ đang ở phía trước gã và để mặc tay và chân, chứ không phải tâm trí vào việc lái xe, gã sẽ ổn. Gã theo cô suốt con đường dài quanh co đến căn nhà tối om, nhìn cô tắt máy, vẫy chào tạm biệt trong ánh đèn pha của xe gã và đi về phía cánh cửa với sự linh hoạt giả tạo. Gã biết cô mệt thế nào, gã có thể nhìn thấy những vằn máu li ti bên trong đôi mắt xanh dương, vẻ tái nhợt của nước da, và thậm chí chút run rẩy yếu ớt trên đôi bàn tay cô. Gã cũng có thể thấy khói không còn bốc lên từ chiếc ống trên nóc nhà. Gã đợi cho đến khi đèn trong bếp sáng lên, rồi rút chìa khóa và theo sau cô. Cô đang đứng ở cửa nhà bếp, tròn mắt nhìn gã. “Tôi tưởng tôi đã bảo anh về nhà rồi”. “Vậy sao cô lại đứng ở cửa?” “Tôi biết không thể tin anh”. “Chắc chắn là cô có thể, Carrie ạ”, gã nói. “Tôi ở đây để thấy cô bình yên về đến nhà, và đây là điều tôi sẽ làm. Giờ sao cô không để tôi vào xem cái lò thay vì đứng đây cho không khí lạnh càng tràn nhiều hơn vào trong nhà?” Điều đó hợp lý, nhưng biểu hiện trên mặt cô cho gã thấy rõ rằng cô đang nghĩ khác. Gã tự quyết định, nhẹ nhàng đẩy cô vào và đóng cánh cửa lại sau lưng gã. Căn bếp lạnh băng. “Sao cô không pha cho tôi một chút cà phê trong khi tôi đốt lại lò?” Gã nói. “Tôi không thể”. “Vì sao không?” “Tôi đã kiểm tra rồi. Nước bị đóng đá”. Cô là người mạnh mẽ, nhưng lúc này giọng cô đã hơi rạn nứt. Gã muốn kéo cô vào vòng tay, sưởi ấm cơ thể mảnh khảnh, rã rời của cô. Gã dằn tay vào túi quần để giữ mình khỏi chạm vào cô. “Tôi sẽ giải quyết lò sưởi trước”, gã nói. “Cô hãy vào phòng khách và kiếm cái gì bọc người lại trong lúc tôi làm việc, tôi sẽ xem có thể làm gì với đường nước”. “Anh là thợ sửa ống nước à?” Cô hoài nghi hỏi. “Nếu các đường ống chưa bị vỡ, thì ai cũng có thể rã đông nước đá và tôi không nghĩ nó bị đóng băng lâu đến vậy”. “Anh là người đàn ông của những năng khiếu tiềm ẩn”, cô gượng nói nhưng vẫn ngoan ngoãn đi theo gã. “Tôi biết”, gã nhăn nhó đáp. Gã suýt bảo cô bật radio. Phải có thứ gì giúp xao nhãng khỏi những vụng về thình lình tấn công. Còn một ít than hồng sót nơi đáy chiếc lò tráng men xanh. Gã hà hơi thổi và khuấy
nhẹ lớp tro, mở cửa gió lò vừa đủ và thả vào một lượng nhỏ chất đốt. Trong chốc lát, ngọn lửa bùng lên, liếm trọn những khúc gỗ phía trên. “Anh rất thành thạo”, Carrie nói. Cô ngồi co lại trên chiếc sô-pha gã đã ngủ tối hôm trước, quấn mình trong chiếc chăn đã giữ ấm cho gã. Đó là một sự xao nhãng nguy hiểm và mãnh liệt khiến gã như bị nung trong ngọn lửa. “Đa số mọi người đều không hiểu nguyên lý hoạt động của lò sưởi dùng gỗ”. “Tôi biết một chút kiến thức thông thường”, gã lên tiếng. Không, thực ra mày không hề biết, trí óc của gã phản đối. Nếu mày biết, mày sẽ không lảng vảng gần cô ấy. Hoặc ít nhất mày cũng sẽ không có những ý nghĩ mà mày đang có trong đầu. “Cô có máy sấy tóc không?” Carrie nhăn mặt. “Đang bận phá băng cho đám ống dưới bồn rửa bát. Nghe này, anh không phải bận tâm đâu. Tôi có thể xử lý ngay khi tôi ấm người. Tốt hơn hết anh nên về trước khi đường sá trở nên xấu hơn”. “Nhận giúp đỡ của người khác thì chết phải không?” “Tôi không nhờ anh. Tôi có thể tự thu xếp ổn thỏa”. Cô rùng mình, mặc cho nhiệt độ căn phòng tăng lên nhanh chóng, và tấm chăn sáng màu đã bọc quanh người. “Tôi chắc chắn cô đủ khả năng. Nhưng cô đã giúp tôi hôm qua. Tôi không thích mắc nợ ai bao giờ”. Đó là điều hợp lý nhất gã có thể thốt ra. Cô không cho ai giúp đỡ. Nhưng cô có thể cho phép nhu cầu trả nợ sòng phẳng của ngươi ta. “Thôi được rồi”, cô nói với tiếng thở dài. “Nếu điều đó khiến anh cảm thấy thoải mái”. Mất nhiều thời gian để nước lưu thông hơn gã tưởng. Khi sức nóng từ lò sưởi trong phòng khách len lỏi vào nhà bếp, đôi tay gã bắt đầu thoát khỏi tình trạng tê cóng, cuối cùng gã cũng được thưởng cho tiếng xè xè, rồi đều đặn hơn của dòng nước chảy ra từ chiếc vòi. Tình trạng của nhà tắm kế bên còn tệ hơn. Lúc gã cho nước chảy lại qua khắp nhà, gã cảm thấy rã rời, bẩn và đói. Gã rửa tay và mặt qua loa rồi hướng thẳng về phía phòng khách. Cô đang thiu thiu ngủ trên ghế sô-pha, mái tóc dài vàng óng xõa quanh gương mặt xanh xao, bàn tay vẫn nắm chặt lấy chiếc chăn bọc quanh người. Gã nhẹ nhàng thêm củi vào lò, cho lửa nhỏ xuống, rồi ngồi xổm bên cạnh ngắm nhìn cô. Cô không mở mắt. “Đừng”, cô nói, đôi môi hầu như không cử động, âm thanh nhẹ đến mức gã cứ nghĩ là do tưởng tượng. Nhưng không phải. “Đừng cái gì?” “Đừng nhìn tôi như thế”. Lần này cô mở mắt, nhìn chăm chăm gã với sự dạn dĩ gã thừa biết là giả tạo. Cô sợ gã, và gã thì không hình dung nổi căn nguyên. “Như thế nào?” “Tôi không có nhu cầu. Tôi không phải người anh cần mỗi khi đi nghỉ mát. Tôi không phải đối tác chung giường tiện lợi, hay thậm chí bạn tình một đêm. Tôi đã lên kế hoạch cho đời mình, đó là cuộc sống độc thân. Đừng nhìn bề ngoài rồi vội kết luận”. “Ai nói tôi đang gạ gẫm?” Gã gặng hỏi bằng chất giọng trầm quen thuộc, bất động. Mặt cô ửng đỏ. “Tôi xin lỗi”, cô tắc nghẹn nói. “Tôi nghĩ người vội kết luận là tôi mất rồi”. Gã nên đứng dậy, nói điều gì đó thân thiện và ra về. Và gã biết gã sẽ không làm thế. Có lý do để cô cảnh cáo gã tránh xa cô ra, và không phải vì cô sợ gã, chính bản thân cô mới là đối tượng khiến cô e sợ. “Không”, gã nói. “Không phải mỗi em đâu”. Và gã cúi xuống chạm môi mình vào môi cô. Chương 7 Trời trong trẻo sớm chủ nhật yên ả ló dạng, làn hơi ấm làm tan chảy lớp băng tuyết ương ngạnh bám trên mặt đất Minnesota kể từ lễ Tạ ơn. Gabriel đến nhà thờ Tin lành Messiah với gia đình Swensen, tất cả bọn họ đều kì cọ, chải chuốt, và ăn mặc thật bảnh bao. Gã phải dùng tạm các thứ chứa trong chiếc túi du lịch. Không có những bộ comple của Ý, không áo vest cắt may đắt tiền, thậm chí không có nổi một chiếc quần kaki phù hợp. Rõ ràng ý tưởng về quần áo lịch sự của Gabriel Falconi chỉ là một chiếc quần jean không vá víu và một chiếc áo sơ mi sạch sẽ bằng vải bông mà thôi. Gã đã cố gắng một chút, thậm chí thử là phẳng một thứ trong số chúng, nhưng có vẻ chút ít nghệ thuật nội trợ thôi cũng đã vượt quá khá năng của Gabriel đáng mến rồi.
Gã huýt sáo, cố tập trung vào những tình tiết ngắn nhưng hài hước của bộ sitcom [1] gia đình Swensen xem tối qua, nhưng vô ích. Bàn tay gã lóng ngóng khi cố điều khiển cái bàn là, và không chỉ bất lực khi kháng cự sự phân tâm mà còn biến nó thành thảm họa. [1] Situation comedy hay hài kịch tình huống: Một chương trình tivi hài hước với những nhân vật cố định xuất hiện trong những tình huống khác nhau ở mỗi tuần. Làn môi Carrie có vị tuyệt hơn bất cứ thứ gì môi gã từng chạm vào. Chúng mềm mại, ngoan ngoãn và lẳng lặng cướp đi sự tự chủ của gã khi gã lướt môi mình lên đó, dù nụ hôn không sâu như gã khao khát, dù gã không đẩy cô ngã xuống chiếc ghế, sưởi ấm cơ thể lạnh lẽo của cả hai bằng ngọn lửa hừng hực cháy trong lòng ngay lần đầu gặp cô. Nhưng gã không làm thế. Gã bứt ra mà không nói một lời, để lại cô đăm đắm ánh mắt theo gã trong sự kinh ngạc đến chết lặng. Gã đã rời bỏ cô trước khi cô kịp trấn tĩnh. Gã đã lái xe quay về trên con đường phủ băng, nghĩ về cảm xúc từ đôi môi cô. Ký ức đó thật ngắn ngủi trong suốt ba mươi sáu giờ vừa qua. Và nó lên đến đỉnh điểm bằng vết cháy sém lớn hình tam giác trên chiếc sơ mi tử tế nhất của gã. Sau đó gã đầu hàng, đành cam chịu những vết nhăn nhúm, nhưng vẫn ngu ngốc đến mức hỏi mượn Lars một chiếc cà vạt. Lars đã nhìn gã như một gã điên song vẫn đưa cho gã một chiếc cà vạt bản nhỏ nhã nhặn sẽ rất quen thuộc với Emerson nhưng lại như đang bóp cổ Gabriel. “Giờ còn ai đeo cà vạt đi nhà thờ nữa đâu, Gabe” Lars hiền lành nói khi gã đưa trả. “Cậu sẽ không xúc phạm ai. Trong mắt Chúa không có gì là khác biệt, và cũng chẳng ai quan tâm”. Gabriel nghĩ đến đôi mắt như đá lửa của Augusta. “Anh sẽ ngạc nhiên cho xem”, gã rầu rĩ nói. Giờ thì gã đang đứng bên trong nhà thờ, quan sát cả giáo đoàn trong khi những đứa bé nhà Swensen thì thầm và đánh nhau, và gã phải tạ ơn Chúa vì ít nhất hôm trước gã cũng được nhìn qua nơi này khi gã giúp Lars dựng cảnh Chúa giáng sinh. Nó không giống với bất cứ nhà thờ nào trong ký ức của gã. Khi gã còn bận tâm đến chuyện đi lễ, gã thường xuyên đến Saint Barts tọa lạc ở đường Năm mươi đại lộ số Năm, một nhà thờ cũ, tao nhã được mở cho tất cả những người đứng đắn. Gã có cảm giác đôi mắt mà gã đang dùng để nhìn đây còn quen hơn với sự phô bày và những nghi thức long trọng cùng những tấm kính rực rỡ sắc màu. Nhà thờ Tin lành Messiah trông rất giản dị, vững chãi với các hàng ghế dài bằng gỗ thích, gồ sồi, và cây thánh giá khổng lồ bằng bạc treo phía trước nhà thờ. Chiếc organ được đặt lên trước, và trên đỉnh là một cái chuồng đầy rơm trông có vẻ thô sơ, những con bò khắc gỗ xinh đẹp của Lars, và thiên thần đầu tiên. Augusta hạ cánh trên phần mái thu nhỏ, hai cánh tay dang rộng, gương mặt nghiêm nghị đầy phán xét. Gã khá băn khoăn khi đặt bà ta ngay ở đây. Thiên thần thứ hai trông thân thiện hơn, một thanh niên trẻ với mái tóc xoăn vàng cùng gương mặt yếu đuối. Gã không biết hình ảnh cho thiên thần đó đến từ đâu. Bên ngoài, anh ta rất gần với quan niệm truyền thông về các thiên thần, như các chàng trai xinh xắn, thanh khiết với đôi cánh trải rộng. Và chỉ khi quan sát kĩ hơn người ta mới có thể nhận ra nỗi sợ hãi trong đôi mắt to, trống rống ấy. Bức tượng Mary và Joseph của Lars đặt ở khung cửa sổ phía sau, họ đã bắt đầu chuyến hành trình tới Bethlehem [2] cùng với một con lừa, Lars đã kể với gã như vậy. Gabriel muốn cười nhạo trước ý tưởng ấy. Nhưng thay vào đó, gã thấy mình đang xúc động một cách kì quặc. [2] Một thị trấn gần Jerusalem của Palestine, là thánh địa của Cơ đốc giáo vì được coi là nơi chào đời của chúa Jesus. Không có cách nào để gã có thể thoát khỏi việc đi nhà thờ ngày hôm nay, trừ phi gã xin được chỉ thị của Giáo hội gần đó nhất. Sự sùng đạo công khai của nhà Swensen và tất cả mọi người gã gặp ở Angel Falls khiến gã cảm thấy cực kỳ không thoải mái. Nhưng ít nhất họ cũng không cố áp đặt và không mất hàng giờ để
cường điệu huênh hoang. Niềm tin của họ đơn giản như một phần của cuộc sống, như việc đi mua sắm, lái xe và ăn uống vậy. Hơn nữa, gã cố tình tránh xa Carrie Alexander suốt ngày hôm qua. Gã muốn cho cô thời gian để nghĩ về nụ hôn, xem phản ứng của cô ra sao. Và gã cũng muốn cho mình thời gian để kiểm soát ham muốn thất thường của bản thân. Gã dành cả ngày ở xưởng của Lars, hoàn thiện bức tượng Augusta, và điêu khắc chàng thiên thần trẻ tuổi. Ít nhất Lars cũng không nhìn thấy nét tương đồng bí ẩn nào trên gương mặt hoàn hảo của vị thiên thần này. Tin tức về chiếc xe của Gabriel không mang nhiều khích lệ. Steve đã đằng hắng, ậm ừ lẩm bẩm về những sai lệch và các xy lanh chính - những cụm từ vô nghĩa với Gabriel, nhưng mấu chốt ở chỗ không có tiến triển gì đối với gã. Và dù muốn hay không thì ít nhất cũng phải mất thêm một tuần chờ đợi nữa. Vẫn còn một lựa chọn, gã nghĩ. Gabriel không có nhiều tiền, nhưng gã sở hữu một thẻ tín dụng vàng [3] , phép màu thực thụ. Gã không có cơ hội kiểm tra hạn mức tín dụng, nhưng có thể thu xếp một chuyến bay đến New York và trải nghiệm một tháng trên trái đất theo cái cách gã đã dần trở nên thân thuộc. [3] Loại thẻ có hạn mức tín dụng lơn hơn thẻ thông thường, chỉ được cấp cho những người có thu nhập cao và ổn định. Không hiểu sao ý tưởng ấy không đặc biệt lôi cuốn gã. Không lôi cuốn khi gã nghĩ vẫn có một cơ hội chết tiệt, xin thứ lỗi vì cách diễn đạt, để tự mình chuộc lỗi, sửa lại những sai lầm khó hiểu mà Augusta cứ nhất quyết bắt gã chịu trách nhiệm, và coi như đi qua được trạm trung chuyển linh hồn. Không, gã sẽ không bị quay chín ở một nơi nào khác, và gã nên tận hưởng chuyến ghé qua ngắn ngủi ở trái đất này của gã. Và gã quả thực đã tận hưởng. Căn phòng bên dưới mái hiên của nhà Swensen vừa lạnh vừa khô, chiếc giường thì hẹp và võng vẹo, thức ăn thì đơn giản và đầy chất béo. Ấy thế mà trên chiếc giường chật hẹp đó, bên dưới tấm chăn của Carrie Alexander, gã đã ngủ một giấc ngủ ngon lành nhất trong đời. Thức ăn có vị cũng tuyệt hơn, và chẳng phải gã không cần lo lắng về cholesterol nữa sao. Thêm vào đó bơ và kem có vị ngon không sao cưỡng nổi. Nhưng không gì có thể sánh với làn môi của Carrie Alexander. Gã đã nhìn thấy cô đang ngồi trong dàn hợp xướng, mặc chiếc áo choàng màu xanh dương, gương mặt thanh thản và yên bình. Lại trông giống một vị thánh, gã ảo não nghĩ. Gã sẽ không muốn vấy bẩn người thuộc giới thánh thần. Rồi sau đó chẳng thể yên thân với những quyền lực đang giám sát gã. Và chuyện này chắc chắn làm gã bị gửi thẳng đến địa ngục, có lẽ sẽ không phải chờ cho tới tận đêm Giáng sinh. Gã nên hỏi nhiều hơn khi ở trạm trung chuyển, gà nghĩ và theo đoàn người nhà Swensen xuôi theo lối đi chính giữa để lấy chỗ ngồi gần hàng ghế đầu. Gần với dàn hợp xướng. Liệu gã có bị lưu đày đến một nơi nào khác mà không có chút hy vọng được tha bổng nào không? Hay gã đã hết thời gian để thể hiện thái độ cư xử tử tế? Cho nợ để ít nhất cũng được cố gắng mà cũng không được sao? Có lẽ nhiệm vụ của gã là phải quên đi triệt để sức ảnh hưởng mạnh mẽ của Carrie đối với gã. Khốn thật, đời trước gã chưa hề bất lực đến vậy! Thật không công bằng khi gã bị gửi trả lại để bù đắp cho tất cả những hành động sai trái đổ cho gã. Theo trí nhớ, gã không tốt hơn cũng chẳng tệ hơn kẻ đi kề bên. Nhưng chuyện này chưa xong với gã. Gã ngồi xuống chiếc ghế dài cạnh Harald nhỏ bé, và một lát sau Gertrude Hansen ngồi xuống ngay bên cạnh gã. Không sao dò đuợc đôi mắt bà dưới chiếc kính dày cộp. “Buổi sáng tốt lành”, gã thầm thì, nghĩ rằng một cuộc nói chuyện nho nhỏ trước buổi lễ chắc chắn được cho phép trong nhà thờ này. Nhưng rõ ràng không được phép vói Gertrude. Miệng bà mím lại chê trách, và gã ước gì đã đeo một cái cà vạt. “Buổi sáng tốt lành”, bà đáp. “Cậu đang nghĩ gì thế?” Những ý nghĩ ham muốn về một thành viên trong đàn hợp xướng, gã muốn nói với bà như vậy. “Tôi đang thán phục nét mộc mạc của nhà thờ”, gã thì thào. “Thật
sao?” Ánh mắt Gertrude cực sắc bên dưới lớp kính dày. Bà đưa bàn tay có tuổi của mình ra và vỗ nhẹ lên tay gã. “Chúng ta rất vui vì cậu đã ở lại đây, Gabriel ạ”. Không vui đâu nếu bà biết điều tôi thực sự đang nghĩ, gã ngẫm, mỉm cười với bà và nhìn về phía trước, và nhận ra ánh mắt gã đang hướng thẳng vào đôi mắt Carrie. Nếu cô nhớ tình cảnh lần cuối nhìn thấy gã, thì chắc cô đã quăng nó ra khỏi đầu. Quỷ thật, đương nhiên là cô phải nhớ. Thần trí gã khẳng định chắc chắn cô gần như không được hôn đủ. Dẫu vậy, cô rõ ràng cũng loay hoay lau chùi ký ức đó, ánh mắt cô trong veo và lơ đễnh, gần như ánh mắt bao dung của một người mẹ. Gertrude ngồi bên cạnh gã, có vẻ phù hợp để làm mẹ gã. Gã không định chấp nhận người phụ nữ trong dàn hợp xướng kia. Gã cũng không định gửi đến cô những thông điệp dành cho người lớn từ chỗ ngồi của gã trong giáo đoàn này, không thể với Gertrude một bên và Harald nhạy cảm một bên. Trong một lúc gã đơn giản nhìn cô không rời, và đôi mắt gã nói, “để sau”. Cô chớp mắt, giật mình khỏi trạng thái phăng lặng của mình. Trước khi cô có thể phản ứng, tiếng organ vang lên, mọi người lục tục đứng dậy, và họ đang chìm ngập trong bài “Wachet auf” [4] . [4] Một tác phẩm cho dàn hợp xướng nhà thờ của Johann Sebastion Bach. Nếu gã lo lắng cô sẽ thử chạy trốn khi buổi lễ kết thúc thì điều đó là không cần thiết. Cộng đồng người Scandinavi ở Angel Falls không để một buổi lễ trôi qua mà không kèm theo ăn uống. Ngay lập tức sau khi đi lễ xong gã đã được tiếp tế liên tục với cà phê và loại bánh ngọt mỏng dính có vị tuyệt vời được gọi là kringle khi gã được giới thiệu với nhà Larsen, Swensen, Hansen, Johannsen, Rasmussen, và tất cả các “sen” mà toàn bộ họ được thừa kế cái chữ ấy. Gã biết cô đang đứng đằng sau gã trước khi gã nhìn thấy cô. Ngay cả khi gã đang gượng gạo duy trì một cuộc nói chuyện với mục sư Krieger dịu dàng và hơi mụ mẫm, gã cũng có thể cảm nhận được sự hiện diện của cô qua quần áo và làn da gã như một cơn gió nhẹ mùa xuân. Gã sẽ không bao giờ được cảm nhận làn gió xuân thêm nữa, gã nghĩ trước khi quay lại, và đột nhiên một đợt sóng đau đớn quất mạnh vào gã. Gã thích được cảm nhận làn gió xuân mơn man trên da, với Carrie ở bên. “Anh rất tài năng”. Cô nói khi gã quay lại nhìn cô. Cô đã cởi bỏ chiếc áo trùm xanh dương, và đang mặc một chiếc váy không rõ hình thù. Gã tự nhiên phát hiện gã đang thắc mắc chính xác loại hình thù nào cô có bên dưới đó, và rồi kìm lại. Gã vẫn ở trong nhà thờ, ngay cả khi buổi lễ đã kết thúc. Gã ít nhất cũng có thể cố gắng duy trì lối cư xử của bản thân. “Tôi sao?” Gã nói, cố chống lại ham muốn được chạm những ngón tay vào miệng cô. “Những thiên thần. Tôi yêu cả hai. Thật khó mà tin nổi còn người tài như Lars. Tôi nghĩ anh hẳn đã được trao tặng tài năng đó từ thiên đường”. Lần này gã đã quen dần, kỳ quặc thật, lời tuyên bố ngẫu nhiên chẳng có nghĩa lý gì với bất cứ ai ngoài gã. Thậm chí gã cũng không bị nghẹn miếng bánh ngọt vừa nuốt. “Mấy ống nước nhà cô thế nào rồi?” “Vẫn ổn. Tối thứ sáu tôi không có cơ hội cảm ơn sự giúp đỡ của anh”. Cô nói bình tĩnh, không hề lảng tránh ánh mắt gã. Hai người có thể chơi trò này. “Không có gì”, gã đáp. Gã được thưởng chút sắc hồng trên gò má xanh xao của cô. “Ai đã ở trong tâm trí anh khi anh khắc thiên thần thứ hai vậy?” Cô nhanh chóng thay đổi chủ đề. “Anh ta thật sự trông rất quen, và tôi vẫn không thể nhớ ra đã gặp ở nơi nào”. Cơn bức bối bất chợt xuyên xuống tận xương sống gã. Cả hai thiên thần trông đều quen thuộc với gã, và gã không hề biết hình mẫu đã đến từ đâu. Dù nó có nhảy ra từ chỗ nào, nó cũng đã bò qua trí óc tỉnh táo của gã một cách tuyệt đối. “Tôi không biết nữa. Tôi thực sự không chủ định việc mình sẽ làm, tôi chỉ bắt tay làm thôi”. Xác thực hơn những gì cô có thể nhận ra, gã nghĩ. “Đương nhiên tôi nhận ra Gertrude, và tôi nghĩ anh thật thông minh khi nhìn xuyên
qua vẻ cận thị ngọt ngào của bà. Bà thích tỏ ra duyên dáng và đãng trí, nhưng bên dưới cặp kính dày là một người phụ nữ khá ghê gớm đấy”. “Cái gì?” Âm thanh từ giọng nói bị sốc của gã đã khiến vài cái đầu quay lại, và gã ngay lập tức hạ giọng xuống. “Cái gì cơ?” Gã lại gặng. “Gertrude. Thiên thần đầu tiên của anh giống hệt bà ấy mà không đeo kính, đương nhiên rồi. Đừng bảo với tôi là anh không nhận ra nhé”. “Bà ấy đâu?” Gã khàn khàn hỏi. “Tôi nghĩ bà đã đi về cùng với nhà Milsom rồi. Bà để lại thứ gì đó cho anh ở chỗ Lars”. “Tôi cũng đoán thế”, gã nói, cảm giác run rẩy đến khác thường. “Anh vẫn còn hứng thú với mấy việc ở chỗ tôi chứ?” Phải mất một lúc gã mới gom đủ sự tập trung, “Sao?” “Tôi vừa hỏi anh có còn hứng thú làm mấy việc mộc cho tôi nữa không?” Cô kiên nhẫn lặp lại, hai má vẫn ửng hồng. Gã biết cô đang làm gì. Cô đang cố chứng tỏ cho gã và bản thân rằng cô không bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của gã. Cô có thể đối xử với gã một cách thân thiện xa cách như với tất cả mọi người. “Cô có nghĩ đó là một ý tưởng khôn ngoan không?” Gã hỏi, chủ yếu để xem phản ứng của cô. Khôn ngoan hay không thì cũng chẳng thế ngăn cản gã khỏi việc sửa chữa ngôi nhà cũ nát xiêu vẹo của cô. Và cả cô. “Sao lại không?” Cô vênh cằm thách thức. “Thì cô bảo tôi...” Gã liếc về phía cửa. Lars đang đứng ở đó, những đứa con vây quanh. “Hình như chuyến xe của tôi sắp đi. Khi nào cô muốn tôi ra đó?” “Lúc nào tiện cho anh. Sáng mai được không?” “Nếu nhà Swensen cho tôi mượn xe. Steve nói xe của tôi không rảnh trong một thời gian”. Carrie trông không vui. “Tôi nghĩ chuyện đó không thành vấn đề. Tôi sẽ đến đón anh. Tôi phải chi những việc cần làm cho anh, và chúng ta có thể thảo luận khả năng chi trả để hoàn tất các việc. Và phải thống nhất rõ ràng vài chuyện nữa”. Gã không thể kiềm chế. Gã nhe răng cười, nụ cười toe toét chậm rãi và lười biếng khiến màu hồng ửng trên má cô sẫm thêm. “Cô đang ám chỉ tối thứ Sáu?” Gã thì thầm. “Trông cháu xinh chưa này?” Một người trong gia đình Hansen hay Larsen gì đó đến và trao cho Carrie thẹn thùng một cái ôm thật rộng. “Chúng ta thật may mắn khi có khách xuất hiện trong thị trấn. Thanh niên cứ đi hết thế này làm ta sợ đây sẽ trở thành thị trấn ma mất”. “Sao tất cả thanh niên đều bỏ đi vậy?” Gabriel hỏi. “Nhà máy đóng cửa thì không còn công việc nào nữa ngoài nghề du lịch”, người phụ nữ lớn tuổi nói. “Ta nghe bảo tình trạng diễn ra khắp đất nước, những tập đoàn lớn thôn tính các công ty nhỏ, rồi họ bán rẻ để kiếm lợi nhuận. Cuộc sống của chúng ta có bị phụ thuộc vào mấy tay thương nhân New York bất lương cũng chẳng quan trọng trong mắt chúng. Dù chuyện làm ăn liên quan đến tính mạng con người. Chúng chỉ coi đó như những con số trên sổ sách”. Gã không thích sáng nay tí nào, dứt khoát là vậy. Có quá nhiều tiết lộ và gã khó có thể giải quyết cùng lúc. Tìm kiếm Augusta ẩn thân dưới một cặp đít chai đã đủ tệ rồi, số phận của nhà máy ở Angel Falls thậm chí còn tệ hơn nữa, “Tên nhà máy là gì vậy?” Gã hỏi, không bận tâm che giấu sự căng thăng trong giọng nói. Carrie trông khổ sở khôn cùng. “Precision Industries. Không phải một cái tên đặc biệt, đúng không? Nhà máy sản xuất đồ nội thất, cũng không phải nội thất đặc biệt cho lắm, nhưng có chất lượng rất tốt”. Gã có nhớ Precision Industries, nhưng rất mơ hồ. Đấy là cách nhiều công ty theo đuổi, mua đứt chóng vánh, nhượng lại nhẹ nhàng. Gã cũng thu được lợi nhuận từ sự giải thể của Precision. Gã luôn luôn thu được lợi nhuận. Nó có giá bao nhiêu, nửa triệu đô la? Hay ít hơn? Và giờ nó đang ở nơi nào? Ngoài tầm tay của gã. “Chuyện đó”, gã nói. “Đây là cách cả hệ thống vận hành”. “Chúng ta không nghĩ nó vận hành trơn tru ở đây”, người phụ nữ già chua cay nói, làm gã nhớ đến Gertrude. Và Augusta. “Cứ nhìn phần còn lại của đất nước này xem, tôi sẽ không quá lạc quan về cái cách vận hành của hệ thống anh nói đâu”. Gã còn có thể nói gì. May thay gã được tha không phải cố gắng bảo vệ hệ thống đã
phá hủy thị trấn Angel Falls một cách hiệu quả với sự xuất hiện kịp thời của Lars. “Chúng tôi sẵn sàng để đi rồi. Maggie có vài cái bánh julekage [5] đang lên men nên phải về cho kịp. Sao cậu không đi cùng với Carrie?” [5] Một loại bánh mì “Không!” Carrie nói với sự hấp tấp trần trụi theo đánh giá của gã. Đó là món quà sâu sắc nhất gã từng được nhận ngoại trừ vẻ hốt hoảng của cô khi phải ở gần gã. “Ý em là, em có cả đống việc phải làm”, cô lúng túng, trông vô cùng khốn khổ. Thánh Carrie, người dồn quá nhiều thời gian để chăm sóc người khác, giờ đang cố chắp vá để bảo vệ bản thân. “Tôi sẽ đi luôn bây giờ”, Gabriel thoải mái nói. “Ngày mai cô muốn tôi đến lúc mấy giờ?” Đó là một câu hỏi trong sáng, được tuyên bố một cách ôn tồn. Nó sẽ không là nguyên nhân khiến bóng đêm bao phủ trong đôi mắt cô, gây nên nỗi xúc động mà cô phải tranh đấu quá khó khăn. “Lúc nào cũng được. Anh ấy có thể mượn một chiếc xe ở chỗ anh không, Lars, hay để em đến đón anh ấy?” “Lấy cái xe tải ấy”, ẩn ý trong câu nói của Lars cũng gần bằng một cái nháy mắt nguy hiểm. “Cứ lấy mà dùng, khi nào trả cũng được”. Thời gian là thứ gã không có. “Vậy sáng mai”, gã nói. Đe dọa và hứa hẹn. Chiếc sedan [6] già cỗi của Mỹ chở sáu thành viên gia đình Swensen và thân hình cao lêu nghêu của gã đang đợi ở bên ngoài. Từ xa gã có thể nghe thấy tiếng khóc của bé Carrie, tiếng chí chóe của Nils và Kristen, Harald rên rỉ, và giọng nói nghe mỗi lúc một cao của Maggie. Gã mở cánh cửa hành khách phía trước và đón đứa bé từ tay Maggie. Trong chốc lát những âm thanh ầm ĩ chuyển thành tiếng nấc và hơi thở đứt quãng, sau đó con bé loay hoay nở một nụ cười hạnh phúc nhỏ xíu với gã. [6] Dòng xe cơ bản có bốn chỗ, bốn cửa, có mui cứng rất thông dụng trên thế giới và tại Việt Nam. Gã nhìn chằm chằm xuống đứa bé đang nằm trên tay với sự ngạc nhiên quá đỗi. Điều này đã làm gã sửng sốt tối qua khi gã không có lựa chọn nào khác là bế con bé lên và sáng nay, khi gã tự nguyện đến đón con bé. “Cậu có bàn tay thần kỳ đấy, anh bạn Gabe”, Lars vui vẻ nói. Gabriel bắt gặp ánh nhìn của anh ta qua nóc ôtô. “Ý anh là với bọn trẻ hả?” Gã hỏi, vẫn còn mụ mị. “Có lẽ thế. Dứt khoát là với phái nữ. Đặc biệt là những người phụ nữ tên Carrie”. Anh ta nhe răng cười, rõ ràng rất hài lòng với bản thân, Gabriel ước gì gã có thể đáp trả. Với một câu đùa. Với một giây phút gắn bó giữa những người đàn ông với nhau. Nhưng sự thật là bất cứ thứ gì được nảy sinh, đang trưởng thành, giữa gã và Carrie Alexandra cũng bị sụp đổ ngay khi bắt đầu. Gã cần sửa sai, cứu rỗi những linh hồn bị gã làm tổn thương. Gã không thể bỏ Carrie lại nơi tệ hơn cả nơi gã đã tìm thấy cô ba ngày ngắn ngủi trước, nếu gã muốn kết thúc ở thiên đường. Bởi vậy gã chỉ im lặng, trả đứa bé giờ đã vui vẻ lại cho người mẹ để cài dây an toàn trước khi chui mình vào ghế sau với ba đứa bé khác nhà Swensen. “Bà Gertrude gửi cái này cho chú”, Harald nói, đưa cho gã một cuốn sách bìa cứng nặng trịch. “Cám ơn”, Gabriel lơ đãng nói, lật cuốn sách lại với linh cảm về điều gì đó. Ít nhất đó cũng không phải phần Địa Ngục [7] của Dante. Nó không phải một cuốn sách về tôn giáo, hay mô tả về những trải nghiệm sau khi chết. Đó là thứ gì đó ảo diệu hơn, một thông điệp từ Augusta, rất to và rõ ràng. Một cuốn tiểu thuyết, với tiêu đề thô kệch: Những kẻ ngốc xông pha. Và gã nhớ phần còn lại trong câu danh ngôn đó. “Nơi thiên thần sợ hãi cất bước”. [7] Là phần đầu tiên trong tập thơ Thần Khúc Divine Comedy của nhà thơ Dante Alighieri. Bà ta đang gọi gã là một kẻ hèn nhát hay một tên ngốc đây? Gã thực sự chẳng thèm quan tâm. Tất cả những gì gã nghĩ là Carrie. Ít nhất trong khoảng thời gian hữu hạn. Lúc này, cả thị trấn Angel Falls và những linh hồn lạc lối khác đành phải xếp hàng thôi. Carrie lái xe quá nhanh trên con đường phủ đầy tuyết tan, nguyền rủa bản thân suốt dọc đường về. Vì lý do trời đánh nào cô lại ngu ngốc
đến vậy? Cô sẽ sống sót qua được mùa đông nếu ngôi nhà vẫn đứng yên. Cô chỉ cần không rời khỏi nhà những ngày giá lạnh, ở sát với ngọn lửa đảm bảo cung cấp đủ hơi nóng, giữ cho những ống nước trong nhà khỏi đóng băng. Nếu chúng đóng băng, có đủ khả năng để làm tan chúng bằng máy sấy tóc. Cô có thể tự chăm sóc bản thân. Cô sẽ ăn nhiều hơn. Thi thoảng nghĩ cho mình. Năm ngoái, khi bị bệnh viêm phổi đánh gục, cô không thèm bận tâm cho đến lúc Lars và Maggie tới. Họ chăm sóc cô suốt ngày đêm mới giúp cô thoát khỏi hóa đơn bệnh viện đắt đỏ. Cô không được để chuyện ấy lặp lại. Khi mọi chuyện rơi vào tình trạng đó, điều gì sẽ quan trọng hơn? Sự bứt rút về Gabriel Falconi? Hay món nợ của cô với cả thị trấn Angel Falls? Chưa bao giờ ham muôn của bản thân lại kiểm soát cuộc đời cô thế này. Không, quỷ tha ma bắt. Đã từng, chỉ một lần trong đời cô biến bản thân thành con ngốc vì một người đàn ông. Và đó không đơn giản chỉ là những khao khát đến đột nhiên. Cô đã yêu Emerson MacVey. Nghe có vẻ vớ vẩn, nhưng cô đã thoáng thấy bên dưới đôi mắt xanh dương buốt lạnh của gã đàn ông máu lạnh, nhẫn tâm và điển trai đó một tâm hồn lạc lối. Cô đã phải trả giá cho sự ngu ngốc của mình, một cái giá quá đắt. Cô sẽ không mắc sai lầm đó thêm lần nữa. Cô có khả năng kháng cự được Gabriel, kháng cự ham muốn tưởng chừng mờ nhạt đã cháy bùng lên vào những khoảnh khắc không ngờ. “Dối trá!” Cô kêu thành tiếng, quay xe vào lối đi trước nhà. Đó không phải ham muốn mờ nhạt. Đó cũng không phải một cảm nhận bứt rứt. Mỗi lần nhìn thấy anh ta, mọi cảm giác trong cô càng mạnh mẽ hơn và nhanh chóng trở thành nỗi ám ảnh. Nụ hôn ngắn ngủi, trêu ngươi đó đã khiến cô run rẩy, mơ màng và ước ao những thứ cô nghĩ mình đã từ bỏ và không chút nhớ nhung. Nhưng cô có thể kháng cự. Cô biết rõ anh ta có cùng cảm nhận về cô, nụ hôn kia còn hơn một lời bóng gió. Nhưng bọn họ đang ở vị thế khác xa nhau. Anh ta là môt người tự chủ, đơn độc, trên hành trình đến một cuộc đời mới. Còn cô, có cả một thế giới đang đè nặng lên đôi vai. Trong cuộc đời cô chẳng còn chỗ trống nào nữa, thậm chí là một khoảng thời gian ngắn ngủi, dành cho Gabriel Falconi. Cô có thể làm được. Cô mạnh mẽ và kiên quyết. Cô có thể khiến mọi thứ rõ ràng bằng cách điềm nhiên chỉ ra chẳng có gì giữa họ. Và anh ta sẽ chấp nhận, rồi hướng ánh mắt tuyệt đẹp đó đến người khác. Đây là việc tối thiểu trong khả năng của cô. Cô cần giúp đỡ để qua được mùa đông, và cô sẽ phải đối mặt. Hoặc cô có thể làm cái việc đau đớn, khó khăn đến không tưởng là để Gabriel Falconi đi quanh nhà cô, làm việc, và giữ khoảng cách với anh ta. Hoặc cô có thể nhờ gia đình Swensen, hay ai đó khác ở Angel Falls giúp đỡ. Và cô sẽ chết trước khi cô thực hiện ý định. Vì một lý do đơn giản. Thị trấn này đang chết dần chết mòn, trở thành nơi vắng lặng tiêu điều vì sự xóa sổ nhà máy. Các gia đình đang dần chia cách, mọi người đang rời khỏi nơi ông bà họ đã sống. Lars Swensen sẽ phải vào rừng làm việc và mạo hiểm sinh mạng ở một công trường khai thác gỗ đầy rẫy hiểm nguy. Sẽ không có ai chịu nhận tiền từ cô nếu cô nhờ họ. Họ đều ngốc nghếch nghĩ rằng cô đã hy sinh quá nhiều cho mọi người trong thị trấn. Và không hay biết đó chỉ là khởi đầu không thấm tháp vào đâu của cô mà thôi. Cô nợ nhiều hơn những gì cô có khả năng hoàn trả. Người phải chịu trách nhiệm cho tất cả tai ương đã đổ lên đầu Angel Falls là Caroline Alexander. Nếu Gabriel Falconi là một phần trong những ăn năn của cô, thì cũng là một cái giá phải chăng. Chương 8 Căn nhà nhỏ xíu ấm áp hẳn khi Carrie bước vào. Cô thêm củi vào lò, thả vài thanh quế vào bát nước đặt trên mặt lò, hương vị của lễ Giáng sinh lan tỏa khắp nhà. Cô treo áo khoác lên móc ở hành lang và ngồi xuống bàn bếp, hai tay khoanh trước mặt. Có thứ gì đó đang quấy nhiễu trong tâm trí cô, khiến cô phát điên, và cô không sao hình dung nổi. Nó ở đây, ngoài tầm ý thức
tỉnh táo, và cô không sao tập trung được cho đến khi cô nhớ ra. Chí ít cũng không liên quan đến Gabriel Falconi, bản năng mách bảo cô. Chính sự có mặt của anh ta khiến ý nghĩ kia bay vuột khỏi cô, và cô phải lôi khả năng tự kiềm chế cứng rắn của bản thân ra mới kéo được nó lại. Không nghĩ về đôi tay mạnh mẽ, thô ráp đó nữa, không nghĩ về hình dáng dong dỏng cùng gương mặt của một thiên thần hạ phàm nữa. Thiên thần! Đúng rồi! Những thiên thần Gabriel điêu khắc vừa đẹp vừa lạ lẫm, lại thân quen đến kỳ quái. Lars cũng nhận ra hình ảnh Gertrude trên vị thiên thần lớn tuổi nghiêm khắc, nhưng không một ai biết chàng trai có mái tóc vàng. Không người nào ở Angel Falls từng nhìn thấy người đàn ông có vẻ ngoài giống lạ kỳ với vị thiên thần trong sáng kia. Chỉ mình Carrie. Cô nhìn gương mặt trẻ trung đó và nhìn ra người đàn ông cô đã từng điên rồ đem lòng yêu. Thực vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi cô tự biến mình thành kẻ ngốc vì Emerson Wyatt MacVey III. Cô thật sự đã từng mong đợi, với mọi xúc cảm của người phụ nữ sẵn sàng yêu mà không cần biết đến ngày mai. Cô không thể múa. Những gì được cho là tài năng đáng kinh ngạc ở Angel Falls , Minnesota , lại cực kỳ tầm thường ở New York . Tài năng thiên phú của cô chỉ đáng một xu, tình yêu với môn khiêu vũ không hề quý giá. Cô đã rời công ty nghệ thuật nhỏ mà cô mất bao công sức mới được vào, và rời đi trước khi họ sa thải cô. Chấp nhận thất bại, chấp nhận mất đi giấc mơ cả đời và khờ khạo an ủi bằng chủ nghĩa xtôic [1] của người Scandinavi. Thay vào đó, cô đơn giản thấy mình chỉ là một đứa vụng về không năng khiếu. [1] Nguyên bản: Stoicism: Bình tĩnh và kiên nhẫn khi có điều không hay xảy ra. Việc theo đuổi giấc mơ đã lấy đi phần lớn cuộc đời cô. Cô chưa bao giờ có thời gian cho cái gì vượt quá tình bạn ở những tháng năm tuổi trẻ, vì quá bận rộn với việc biến giấc mơ làm một vũ công tài năng thành hiện thực, tìm một chỗ đứng ngang hàng với Martha Graham và Twyla Tharp [2] . Nếu không có một chàng trai đặc biệt kiên quyết theo đuổi cô ở trường đại học, cô có lẽ đã bước sang tuổi hai mươi ba mà vẫn còn là một trinh nữ. Bởi vì thế, những kinh nghiệm về chuyện phòng the của cô rất hạn chế và chẳng có gì là đáng mê say khi cô làm việc cho Emerson Wyatt MacVey và thấy mình gục ngã một cách phi lý lẫn mụ mị trong tình yêu với hắn. [2] Hai vũ công nổi tiếng của Mỹ Người ta không tìm thấy ở hắn nhiều ấn tượng tốt, ngoại trừ vẻ đẹp trai vượt xa vẻ đẹp truyền thống. Các nữ đồng nghiệp của cô khinh thường hắn. Dường như hắn không có bạn bè, và thái độ thường thấy ở hắn là vẻ hợm hĩnh lạnh lùng đối với tất cả mọi người. Hắn hoàn toàn đơn độc. Chính sự đơn độc đó đã kêu gọi cô. Cô tưởng mình đã nhìn thấy sự yếu đuối dưới bề ngoài xa cách của hắn, cô nghĩ mình đã nhìn thấy một đứa trẻ đầy tổn thương, cần tình yêu và lòng trắc ẩn. Cô tưởng mình đã nhìn thấy một người cô có thể hàn gắn, và quá trình ấy cùng hàn gắn được chính bản thân cô. Giờ cô biết mình là một con ngốc. Nhưng khi ấy, cách đây ba năm, hắn dường như là tất cả mọi thứ cô muốn. Và hắn càng trở nên lạnh lùng, càng trở nên đáng ghét, cô lại càng nghĩ là hắn cần cô. Ban đầu sự thu hút đó khá mong manh. Nó có thể vẫn nguyên vẹn như thiên hướng làm mẹ của phụ nữ nếu cô không nhìn thấy hắn đi với người bạn gái đương thời, nhìn thấy vẻ xa cách biến mất trong thú vui nhục dục, trong cách hắn chạm vào người phụ nữ trẻ kia, trong cách hắn nhìn cô ấy. Không có sự ấm áp, chỉ có kích thích nồng nhiệt, và làm Carrie mê say, không hề chú ý, rồi choáng váng khi nhận ra cô muốn sự nồng nhiệt đó hướng về phía cô. Cô muốn hắn để ý cô. Cô muốn được làm vui lòng hắn. Thêm vào đó, cô muốn giúp đỡ phần nào cho các bạn của cô ở Angel Falls, nơi chỉ có ngành công nghiệp duy nhất là nhà máy đang ngập trong khó khăn. Emerson MacVey biết cách hồi sinh những công ty trên đà phá sản. Hắn mua đi bán lại, rồi đầu
tư vào chúng, khiến chúng sinh lời. Cô nghĩ nếu hắn chỉ cần hướng một phần nhỏ trí óc siêu phàm về nhà máy Precision Industries ở Angel Falls, Minnesota, tình trạng nghỉ không lương cùng khoảng thời gian khó khăn sẽ không còn nữa. Cô tinh ý phát hiện hắn sẽ không hưởng ứng với những chiến thuật dồn dập, mà ngẫu nhiên nhắc đến mới có hiệu quả. Vào một sáng đầu tháng Mười hai khi hắn dừng lại trước bàn cô và yêu cầu cô đưa cho hắn toàn bộ thông tin về Precision Industries, cô những tưởng đó đã là tin chiến thắng. Hôm ấy là ngày khởi đầu mùa lễ Giáng sinh, và cô sẽ đảm bảo cho quê nhà của mình món quà Giáng sinh tuyệt hơn hết thảy. Hắn không phải là kẻ có quan hệ yêu đương với cấp dưới. Dù sao hắn cũng không dễ yếu lòng. Nhưng định luật không còn đúng nữa vào đêm ngày hai mươi ba tháng Mười hai, khi Carrie quay lại công ty để lấy món quà cô để quên. MacVey có kế hoạch đi dự một buổi gây quỹ từ thiện với cô bạn gái tao nhã nên văn phòng hắn sẽ vắng vẻ. Nhưng không phải. Khi cô dùng chìa khóa riêng vào dãy văn phòng thiết kế đầy tính thẩm mỹ, bắt đầu lục lọi bàn làm việc tìm món quà cô mua sớm hôm đó, thì nghe âm thanh từ phòng làm việc phía trong vọng ra. Nhạc. Nhạc Giáng sinh, nhưng không phải những bài vui nhộn. Là loại nhạc cổ điển và được chơi trong các nhà thờ Thiên Chúa thời trung cổ, hợp để đưa tang hơn không khí vui mừng chào đón Giáng sinh. Và cô nghe thấy tiếng thủy tinh loảng xoảng. Cô đứng bất động, cảm thấy tội lỗi đến ngớ ngẩn. Tự hỏi liệu có phải hắn đang cô đơn đằng sau cánh cửa khép hờ đó không. Tự hỏi hắn đang làm gì. Bất cứ chuyện nào không đường hoàng, không thích đáng hoặc bốc đồng không phải thói quen của Emerson Wyatt MacVey. Cô đẩy khẽ cánh cửa, định hỏi hắn có cần gì không. Hắn đang ngồi sau chiếc bàn kính, nét lạnh lùng, trống trải hiển hiện trên gương mặt đẹp trai. Đôi mắt xanh của hắn xa xôi, chiếc áo vest Armani đã được cởi bỏ, chiếc sơ mi bằng vải Ai Cập không cài khuy. Cô chưa bao giờ trông thấy hắn thiếu cà vạt hay mái tóc rối bù. Ngoài thoáng khinh người thường nhật, cô chưa bao giờ thấy cảm xúc khác trên mặt hắn. “Cô đang làm cái quái gì ở đây?” Hắn cũng chưa bao giờ chửi thề. Giọng hắn hung dữ, và cô biết hắn đã uống say. Đôi mắt hắn đỏ ngầu, nhưng cô không nghĩ đây là hậu quả từ thứ chất lỏng màu hổ phách trong chiếc ly thủy tinh bên cạnh bàn tay thanh mảnh của hắn. “Tôi để quên đồ”. “Đi đi”. Cô biết cô nên đi. MacVey là người kín đáo, hắn không muốn cô nhìn thấy hắn lúc này. Trông hắn vô cùng yếu ớt và tổn thương. Nhưng trái tim cô kêu lên vì hắn, và cô đã bước vào trong căn phòng, đóng cánh cửa nặng trịch sau lưng. “Để tôi lấy cho ông một chút cà phê”, cô nhẹ nhàng nói. Hắn trừng trừng nhìn cô. “Tôi không cần cà phê. Rắc rối đêm nay tôi phải giải quyết bằng rượu đây này, đừng hòng lấy cà phê để làm tôi tỉnh ra. Tôi còn chưa uống đủ. Cô có thể ra ngoài và mua thêm rượu Scotch cho tôi.” Cô lắc đầu, băng qua căn phòng và đứng trước bàn “Có chuyện gì vậy?” “ ‘Có chuyện gì vậy?’ à?” Hắn nhại lại, giọng cáu kỉnh. “Cô muốn xoa dịu cơn sốt trên trán tôi sao, Carrie? Chẳng có gì cả, dù sao cũng chẳng có gì hết. Là Giáng sinh, tôi ghét Giáng sinh. Hưởng ứng hợp lý duy nhất từ tôi là uống rượu”. “Cô Barrow đâu rồi?” “Bỏ tôi chạy theo thằng khác”. “Tôi hiểu”. “Không, cô không hiểu”, hắn bắn trả. “Cô nghĩ tôi ở đây, chết chìm trong đau đớn vì cô ta bỏ tôi đấy à? Cô ta chỉ giỏi trên giường thôi. Chấm hết. Cô ta có vẻ ngoài nhã nhặn, và cô ta không hỏi tôi mấy câu ngu ngốc. Nhưng cô ta lại muốn ‘cam kết’”. Giọng hắn nhạo báng. “Cô ta muốn ‘sự gần gũi’. Cô ta muốn tôi hy sinh vì cô ta, còn tôi chẳng hy sinh cho người đàn bà nào hết”. “Thế sao ông lại uống rượu?” “Tỏ lòng tôn kính cho mùa Giáng sinh thôi. Ân trạch cho loài người, và tất cả cái đám rác rưởi kèm theo”. Cô với tay lấy ly whisky chỉ còn một nửa của hắn, nhưng tay hắn đưa tay ra tóm lấy cổ tay cô, ngăn cô lại. Hắn làm cô đau, nhưng cô biết hắn không định thế. Hắn chỉ không nhận
ra hắn đang bóp tay cô mạnh đến thế nào thôi. Họ cứ ở yên vậy trong chốc lát, không cử động, hắn ngồi đó quan sát cô, cổ tay cô bị giam trong tay hắn. Và rồi mắt hắn nheo lại, một nụ cười chế giễu bắt đầu định hình trên làn môi mỏng. Và ngón cái của hắn mơn trớn cổ tay cô. “Cô phải lòng tôi, có đúng không?” Máu dồn lên mặt và cô cố kéo tay ra. “Thật vớ vẩn”. “Tôi biết các dấu hiệu. Nó diễn ra thường xuyên, chỉ có Chúa mới biết vì sao. Thường những cô gái trẻ tuổi hơn sẽ nghĩ tôi chỉ cần một người phụ nữ ngoan hiền để giúp mình hạnh phúc. Tôi không cần một người như thế, Carrie ạ”. “Tôi biết ông không cần”, cô cứng đờ. Hắn cuối cùng cũng chịu thả cô ra, và cô vẫn cảm nhận được hơi ấm từ chỗ hắn vừa nắm chặt. “Tôi sẽ đi bây giờ”. Hắn nhỏm dậy, vòng qua bàn, theo sau cô, săn đuổi cô, dù cái ý niệm đó thật lố bịch với một người đàn ông được giáo dục cẩn thận. “Tôi chỉ cần một người đàn bà”, hắn nói, giọng thấp, mát lạnh và hấp dẫn không thể chối từ. “Em có muốn làm người đàn bà đó không, Carrie? Em có muốn thử xem có thể cứu rỗi được tôi không?” Cô đã đến được cánh cửa, giật mở, nhung cánh tay hắn không biết từ đâu xuất hiện và đóng sập nó lại. Cô xoay người, ngẩng lên, nhìn hắn không chớp mắt. Hắn không cao hơn cô là bao, và trên gương mặt kiên quyết lạnh lùng của hắn cô vẫn có thể nhìn thấy hình ảnh một đứa trẻ bơ vơ. Một đứa trẻ cô muốn an ủi. Hắn đứng đó, hai cánh tay giam cầm cô, nhưng cơ thể không chạm vào cô. “Điều này tùy thuộc vào em, Carrie” hắn trầm giọng. “Em muốn tôi để em đi không?” Hắn thật ấm. Không, thật nóng. Hắn nhìn đăm đăm vào cô qua đôi mắt nhạt màu đầy nhục dục, và lần đầu tiên trong đời cô cảm nhận được sức hút dữ dội từ ham muốn thể xác. Cô sẽ từ chối. Cô sẽ đánh bại cảm xúc, nhưng lý trí của cô tan chảy, và không hiểu sao cô lại nghĩ nếu cô không chấp nhận, không bắt lấy giây phút này, thì cơ hội sẽ chẳng bao giờ đến nữa. “Không”, cô nói, đắm đuối nhìn hắn. “Không cái gì?” “Không, em không muốn anh để em đi”. Hắn mỉm cười, đáng lẽ cô phải được cảnh báo từ nụ cười chậm rãi và điềm nhiên của hắn. Hắn đặt môi lên môi cô, và không thế lực nào trên thiên đường hay trái đất có thể ngăn cô lại. Hắn có vị của whisky. Hắn có vị của cà phê. Hắn có vị của giận dữ và tuyệt vọng. Và tất cả những gì cô muốn nếm là vị ngọt của tình yêu. Cô không muốn nhớ lại đêm đó, nhưng ký ức kia vẫn săn đuổi cô không biết bao lần trong những đêm thao thức khi cô cảm nhận được đôi tay hắn trên cơ thể cô. Hắn kéo cô nằm xuống tấm thảm lông dày và chiếm lấy cô khi váy áo vẫn đầy đủ trên người, chỉ có chiếc quần lót bằng vải cotton tiện dụng bị ném ra xa. Hắn chiếm lấy cô trên chiếc ghế sô-pha bọc da, trần trụi, trơn trượt, với ánh đèn của thành phố bao quanh. Hắn chiếm lấy cô khi cô ngả người trên chiếc bồn rửa trong phòng vệ sinh riêng của hắn, chiếm lấy cô trong buồng tắm lát đá cẩm thạch. Hắn chiếm lấy cô, quan hệ với cô, cho cô thấy những điều cô chưa từng tưởng tượng về cơ thể mình. Điều duy nhất hắn không làm là yêu cô. Chẳng còn chút ảo tưởng nào rơi rớt lại khi cô rời đi lúc bình minh, bỏ hắn nằm dài và thiếp ngủ trên chiếc sô-pha bọc da rộng, với một tấm mền cashmere đắp lên người. Không một từ về tình yêu, không một từ về cảm xúc, ngay cả một cái vuốt ve hắn cũng không cho phép cô. Cô chỉ là người nhận sự đam mê nhuốm màu giận dữ của hắn. Sáng đó cô đi làm muộn. Lúc cô đến văn phòng các thư ký khác đang tất bật làm việc. Megan chào cô với vẻ mặt cau có. “Sao cô phải chọn hôm nay để đi muộn chứ?” Cô ta đay nghiến. Carrie không định cho cô ta biết lý do thực sự. “Ngày mai là Giáng sinh. Không ai làm việc quá nhiều vào hôm nay cả”. “Cô quên chúng ta làm việc cho gã Grinch ghét Giáng sinh rồi. Lúc tôi đến gã đã có mặt ở công ty, gã đang bận phá bung đám nhà máy mới thâu tóm kia kìa. Việc làm quá tử tế cho mùa Giáng sinh”. Carrie
đã hiểu. Cảm giác về thảm họa như thiên thần bóng tối đeo chặt lấy cô từ thời khắc cô rời khỏi vòng tay hắn lúc sớm, và cô đã cố gắng đánh lui nó. “Ý chị là gì?” “Cả cô và tôi đều biết việc làm của gã”, Megan đốp chát. “Gã mua đứt các công ty rồi moi ruột chúng từng phần, để thu món lợi khổng lồ, và bỏ lại thảm họa sau mỗi lần thức giấc. Có Chúa mới biết vì sao gã lại chọn một nhà máy nhỏ ở Minnesota . Hẳn phải có một khoản lời đâu đó trong nó”. “Nơi nào ở Minnesota thế?” Cô gần như không nhận ra giọng nói của mình. “Phải rồi, chẳng phải cô đến từ nơi đó sao?” Megan búng miếng sô-cô-la vào miệng, rồi nhìn cô một cách lãnh đạm. “Một nơi gọi là Precision Industries ở Angel Falls. Gã bán hết thiết bị cho một công ty ở Utah, cho đóng cửa nhà máy, và bây giờ đang quyết định thuê người tháo dỡ hay cứ để đấy cho nó gỉ sét coi như một khoản thu nhập chịu thuế. Quà Giáng sinh thú vị cho thị trấn đó”. “Tôi phải gặp ông ấy”. “Thật ra mà nói…”, giọng Megan nghe giống người hơn một chút “...tôi e gã cũng có một món quà Giáng sinh nho nhỏ cho cô”. Cô ta đưa cho Carrie một chiếc phong bì dài. Carrie sững người nhìn chiếc phong bì một lúc. Cô không muốn nhận, nhưng hai người phụ nữ khác trong văn phòng cũng đang nhìn cô, và thứ duy nhất cô có thể cứu vớt là lòng tự trọng của mình. Cô nhận nó với thoáng cười hờ hững. “Tôi cần nói chuyện với ông ấy”. Megan lắc đầu. “Gã bảo không rồi. Tôi đã thu dọn sẵn bàn cho cô. Cô sẽ thấy số tiền nghỉ việc của cô vô cùng hào phóng. Cô có thể tiếp tục dùng bảo hiểm y tế, và có khoản bồi thường...” Carrie mở chiếc phong bì. Tấm séc nằm ở đó, với số tiền lớn đến sỉ nhục. Kèm theo một tờ giấy nhắn nguệch ngoạc. Hai từ, được viết bằng nét đậm và dùng sức của hắn. “Xin lỗi”. Carrie xé toạc chiếc phong bì và thả xuống sàn. “Tôi không cần khoản phúc lợi nào hết”, cô nói. “Tôi chỉ muốn gặp ông ta thôi”, “Gã ủy quyền cho tôi gọi bảo an nếu cô gây khó dễ”. Carrie nhìn cô ta không nói một lời, cô quay gót bước ra khỏi tòa nhà, bỏ lại sau lưng chiếc hộp vô dụng chứa các đồ đạc cá nhân, bỏ lại sau lưng trái tim cùng những thơ ngây của cô. Cô hận hắn. Cô muốn giết chết hắn, dù cô là một trong những người dịu dàng nhất thế gian. Chỉ vì lợi nhuận và một ý thích thoáng qua, hắn đã hủy hoại cả cô lẫn thị trấn quê hương cô. Cô không ảo tưởng về nguyên nhân hắn sa thải cô. Cô đã nhìn thấy mặt yếu đuối nhất của hắn đêm qua. Hắn không muốn bị gợi nhớ lại chuyện đó. Và hắn thậm chí còn chẳng gom đủ khí khái của một thằng đàn ông để đối mặt với cô, tự mình nói thẳng những gì cần nói với cô. Hắn để thư ký làm cái công việc bẩn thỉu ấy. Và nếu còn chút cảm xúc nào sót lại thì đó chính là nỗi hận thù cô dành cho hắn. Và đúng vậy, ngay khi cô vượt qua được cơn sốc, ngay khi cô bình tâm lại, ngay khi cô nhận ra... Cô không bao giờ trông thấy chiếc taxi. Giây trước cô còn đang vật lộn để lấy lại tinh thần, giây sau cô đã phải vật lộn để lấy lại sự sống của chính mình. Đến lúc cô đủ sức để nghĩ về Emerson Wyatt MacVey, hắn đã qua đời vì nhồi máu cơ tím. Và tất cả những gì cô có thể làm là bật khóc. Cô không muốn nghĩ về hắn khi nhìn trân trân Minnesota thôn dã phủ đầy tuyết. Cô nghĩ đã có thể loại bỏ hắn ra khỏi đầu, để tập trung làm nhiều điều hữu ích hơn cho thị trấn bị bao vây bởi cái nghèo do cô mang đến. Chuộc tội, ăn năn, tất cả những cụm từ chính xác và nghiêm khắc trong kinh thánh cũng chỉ còn chút quyền lực trước niềm vui chân chất của lễ Giáng sinh. Nhưng kể từ khi Gabriel Falconi xuất hiện trước ngưỡng cửa nhà cô, cô lại nghĩ về Emerson. Và tưởng nhớ. Không mấy khó khăn để cô phát hiện nguyên nhân, dù cô có muốn chấp nhận sự thật hay không. Gabriel và Emerson hoàn toàn khác biệt, ngoại trừ biểu cảm giống nhau đến lạ lùng sâu trong đôi mắt, điều cô thậm chí không thể định nghĩa rõ ràng. Điểm chung duy nhất giữa họ là Carrie Alexander. Lần đầu tiên kể từ lúc gặp Emerson MacVey cô bị một người
khác thu hút. Cô không thích thế, không muốn chấp nhận, nhưng dường như cũng không thể phản đối. Cô bị hấp dẫn bởi Gabriel, với giọng nói trầm sâu và từ tốn, đôi tay khỏe khoắn, vẻ đẹp như thiên thần và cả cơ thể cao, duyên dáng của anh ta. Giải thích hợp lý duy nhất là chính sức hút này đã mang trở lại những hồi ức về người đàn ông trước kia cô ngu ngốc muốn giữ làm của riêng. Cô không thể phủ nhận bản thân bị hấp dẫn, nhưng không có nghĩa cô phải ngoan ngoãn tuân theo. Cô sẽ làm hết sức để Gabriel thấy rằng cô không có nhu cầu tìm kiếm một mối quan hệ ngắn ngủi với một anh thợ mộc nay đây mai đó. Cô cũng không có nhu cầu tìm kiếm một mối quan hệ dài lâu với chàng hoàng tử quyến rũ. Cô sẽ không nghĩ đến những mong muốn, những nhu cầu, những yếu điểm của cô. Cô đã có sự ăn năn của cô rồi. Và không gì có thể chen ngang. Cô biết nên ăn nhiều một chút. Thời gian cô phải liên tục theo dõi cân nặng đã không còn và chút hứng thú nhỏ nhoi với thức ăn đã rời bỏ cô, nhưng cô phải giữ sức khỏe. Cô sẽ mở một hộp súp, rồi bắt đầu làm chiếc chăn Giáng sinh cho bà Robbins. Nó phải đặc biệt. Bà Robbins dặn đó là món quà Giáng sinh cho cháu gái duy nhất của bà. Cô cháu gái mà bà không có khả năng mua tặng một món quà cưới. Số tiền Carrie nhận từ bà thậm chí không đủ để mua nguyên vật liệu, nhưng bà Robbins không biết điều đó. Đó chỉ là một việc nhỏ bé Carrie có thể làm để cô đền bù mà thôi. Bà Robbins là một trong những người có cuộc sống bị đảo lộn vì sự đóng cửa của nhà máy. Hai người con trai của bà bị mất việc. Họ đã chuyển cả gia đình đến định cư ở Saint Cloud . Thành viên gia đình duy nhất mà bà cụ này được sống gần là cô cháu gái mới cưới, và cô ấy cũng chỉ ở đó tạm thời. Nếu không có việc, họ không đủ khả năng ở lại thì bà Robbins sẽ phải sống một mình. Đợt tuyết mới lại rơi, và cơn gió bấc lồng lộng đang quất liên hồi lên ngôi nhà. Carrie hy vọng đó không phải cơn gió báo hiệu mùa đông. Miễn là gió không thôi, căn nhà cũ kỹ này vẫn còn đủ độ ấm. Một khi mùa đông thực sự đến, lò sưởi cũng không thể chống chọi với cái lạnh dần xâm chiếm nơi đây. Sáng mai Gabriel sẽ đến và sửa lại các bờ kè xung quanh nền nhà, sửa lại mấy cánh cửa sổ, đóng cho khít và sắp xếp cho mọi thứ gọn gàng hơn. Đổi lại cô sẽ trả anh ta số tiền dành dụm của cô, một khoản tiền nhỏ để quyên tặng cho những người nghèo. Cô không hiểu sao lại nghĩ Gabriel là người thiếu thốn. Có lẽ do ánh nhìn tuy khác biệt trong đôi mắt anh ta song giống Emerson đến lạ lùng. Và chưa bao giờ một người đàn ông nào nghèo túng tình cảm hơn Emerson Wyatt MacVey xuất hiện trong đời cô. Cô phải ngừng nghĩ về hắn. Cũng như ngừng nghĩ về Gabriel Falconi. Cô không có hứng thú với tình dục, nó chỉ toàn gây ra thảm họa. Cô cũng không hứng thú với tình yêu. Phải lòng Emerson MacVey là sai lầm tai hại nhất đời cô. Cô đã tin hắn, và hóa ra hắn là một con rắn táng tận lương tâm. Nhưng không có nghĩa cô không còn yêu hắn. Tuy vậy, lẽ ra cô không nên đặt cả thị trấn quê cô vào đôi bàn tay tàn nhẫn của hắn. Lẫn trái tim cô. Thời gian hối tiếc đã qua. Hôm nay là Chủ nhật đầu tiên của những tuần lễ đón chờ Giáng sinh, và mặc cho nền kinh tế trì trệ, Angel Falls sẽ có một mùa Giáng sinh tuyệt nhất trong trí nhớ. Carrie quả quyết. *** Gabriel đứng trong căn phòng nhỏ ở nhà Swensen, cúi người dưới mái hiên, nhìn ra ngoài thị trấn đầy tuyết, rồi đưa mắt tới nhà máy trên ngọn đồi. Lúc nơi đó còn hoạt động, chắc hẳn tòa nhà kia không hề xấu xí. Giá ở đâu đó ở Massachusetts thì đã có thể trở thành một tòa nhà với những căn hộ cao cấp hiện đại, hoặc một trung tâm thương mại sang trọng rồi. Những người dân ở Angel Falls không có cách nào chi trả cho tòa căn hộ cao cấp hoặc một trung tâm thương mại đắt giá. Họ hầu như chỉ đủ tiền duy trì cuộc sống trong môi trường khắc nghiệt này, chứ đừng nói sẽ hứng thú với những món hàng xa xỉ từng làm gã chán ngán. Đó
là lỗi của gã. Gã không còn hoài nghi, chính công ty tham lam của MacVey đã móc ruột nền kinh tế ở đây, đẩy cả thị trấn vào đà trượt dốc khi chính đất nước này đang cố kéo mình khỏi sự suy thoái. Gã không mảy may nhớ nổi một chi tiết, hay nguyên do. Cuộc sống đó mỗi lúc một trở nên mơ hồ, kẻ đã thực hiện những hành vi kia giờ chỉ như một tên họ hàng xa lạ với Gabriel Falconi. Nhưng kẻ đó lại là gã. Và không cần thắc mắc cơ hội thứ hai của gã hẳn đã đến từ đâu. Bằng cách nào đó gã phải đưa mọi thứ trở lại trục bình thường, nếu không vì cả cái thị trấn chết tiệt này, thì ít nhất cũng vì gia đình Swensen. Ba năm trước việc đó vô cùng đơn giản. Gã có thừa tiền và quyền lực. Còn giờ gã chỉ có một tấm thẻ tín dụng vàng, vài trăm đô la tiền mặt, và một phép màu vỏn vẹn cho mỗi người, thứ quyền lực gã cần sử dụng một cách khôn ngoan. Gã liếc nhìn cuốn sách trên tủ quần áo. Gã chưa bao giờ đọc tiểu thuyết, chưa bao giờ có thời gian cho chúng, và gã nghi ngờ ý định của Gertrude-Augusta vượt xa nhất đâm bất ngờ vào sự yên ổn bấp bênh của gã. Nhà Swensen vẫn bận rộn với các hoạt động gia đình, và gã không muốn chen ngang. Chiếc xe của gã vẫn chưa sửa xong và gió thì đang rít gào ngoài kia, quần đảo tuyết vào một vũ điệu điên cuồng. Gã không có tâm trạng ra ngoài dạo bộ. Trừ phi ngôi nhà của Carrie Alexander ở trong khoảng cách đủ gần, và gã biết rõ không phải. Gã chỉ có vài tuần ở đây, một giây gã cũng không muốn lãng phí. Nhưng cô trông có vẻ sợ gã. Gã nhận ra điều đó khi cô nhìn gã, và gã tự hỏi điều gì đã làm cô hoảng sợ. Nụ hôn của gã sao? Hay thứ gì khác? Rốt cuộc MacVey đã làm gì cô? Không hiểu sao ký ức còn sót lại của gã hoàn toàn trống rỗng. Gã biết mình đã sa thải cô, điều Augusta vui sướng thông báo cho gã. Và cô là người duy nhất rơi nước mắt trước cái chết của gã. Cô yêu gã chăng? Gã biết khả năng ngủ với cô không thể xảy ra, Emerson MacVey có thể là một thằng khốn, nhưng hắn không ngủ với thư ký. Nhưng hẳn vẫn còn điều gì đó. Điều gì đó đã bẻ cong tam giác tồn tại đáng lo lắng giữa ba người bọn họ. Giữa Carrie, Gabriel và bản thân xưa kia của gã. Và gã không thể tiến xa hơn trong công cuộc giải cứu Carrie cho đến khi gã tìm ra đó là gì. Gã rời mắt khỏi phong cảnh trắng xóa trong tuyết, khỏi nhà máy bằng gạch cũ to lớn và ảm đạm, và nhặt cuốn sách lên. Căn phòng lạnh lẽo với cánh cửa đóng chặt, gã chui mình xuống cái chăn bông Carrie làm. Nó mềm mại, âm áp và có mùi như hương thơm của cô. Giá như cô ở đây với gã. Một ý nghĩ ngu ngốc, Augusta chắc chắn sẽ nghe thấy từ cách xa cả nửa thị trấn và trừng trị gã. Nếu nhiệm vụ này đã định sẵn thất bại ngay từ đầu, gã cũng có thể tận hưởng chút thời gian ít ỏi và sau đó nhận lấy hình phạt của mình như một thằng đàn ông. Mở cuốn sách ra, gã bắt đầu đọc. Chương 9 Ôi, Chúa tôi! Mùi hệt như bánh quy vậy. Hương gừng, quế và gia vị tràn khắp ngôi nhà nhỏ lụp xụp khi Gabriel bước vào sáng hôm sau. Cả mùi cà phê, cùng hạt dẻ để thêm vị ngọt. Gã không hiểu làm sao gã biết đấy là hạt dẻ, nhưng chẳng có chút nghi ngờ nào trong đầu gã. Bánh quy nướng được đặt lên những tấm giấy nến khắp nơi trong căn bếp sạch bong. Một vài chiếc được rắc hạt xanh xanh đỏ đỏ, những cái khác được nặn thành những hình thù công phu. Cà phê trong một bình pha bằng nhôm cũ đặt trên mặt lò, và gã có thể nghe tiếng cà phê tí tách nhỏ xuống. Nơi này ngập tràn hơi ấm, thế nhưng, khí trời hôm nay khá dễ chịu. Gã đã nhanh chóng quen với cái lạnh thấu xương của Minnesota, nên ánh mặt trời ở hai mươi độ xem ra vô cùng thoải mái. Gã cởi chiếc áo choàng peacoat [1] cũ dường như đã trở thành vật chống chọi trước mùa đông của gã và treo nó lên cái móc gỗ gần cửa. [1] Là kiểu áo đặc trưng với hai hàng cúc lớn bằng gỗ hoặc nhựa trên thân áo, ve áo to bản, buông thẳng và không bóp lại ở vòng eo. Ngôi nhà lan tỏa mùi hương,
cũng giống như các âm thanh dễ chịu. Tiếng cà phê nhỏ giọt, ti ế ng lửa cháy lách tách, tiếng nước từ vòi hoa sen. Và giọng của Carrie, rất to và êm ái, vui vẻ đến không ngờ khi cất lời hát “God rest ye merry, gentlefolk” [2] . [2] Một bài hát Ciáng sinh truyền thông, t ê n gốc l à “God r est you merry, gentlemen ” nhưng đ ể bài hát tr ở nên trung t í nh và kh ôn g còn thiên vị đ à n ông, người ta đã cho ra đời phiên b ản “Go d rest you merry gentlefolk ” , ở đ ây gentlefolk ch ỉ giới quý tộc nói chung ch ứ kh ông phải mình gentlemen - các quý ông n ữ a. Chắc chắn hát thế là sai đúng không? Không phải là “merry, gentlemen” sao? Chúa cứu rỗi gã, Carrie Alexander hẳn là người theo chủ nghĩa bình quyền, cũng như một vị thánh tử vì đạo. Trong quá khứ chẳng có gì khiến MacVey khó chịu hơn những người đòi bình đẳng giới. Nhưng không hiểu sao sáng nay Gabriel chợt nhận ra bản thân gã đang mỉm cười. “ God rest ye merry, gentlefolk”. Đúng là nghe v ẫ n hơn thật. Thùng chứa gỗ của cô cần được ch ấ t đ ầ y. Sự thật là chẳng gì thích thú hơn ngồi xuống, uống cà phê, ăn bánh quy nướng và đợi xem cô đi ra từ nhà tắm có đầy đủ quần áo hay không, nhưng ký ức xa xôi về đôi mắt nghiêm nghị của Augusta đã bóp chết cái cám dỗ ấy. Gã mất ba lượt đi mới chất đầy được thùng chứa gỗ, và gã cố ý tạo âm thanh đủ to để cô không đi ra ngoài chỉ với một chiếc khăn tắm, nhưng gã vẫn thất vọng vô cùng khi cô chào gã ở cửa, mặc một chiếc áo suông kín cổ dài đến đầu gối. Nhưng rồi gã đã chiến thắng bản năng để nhận ra đó là một thứ quần áo tuyệt vời: màu đỏ tươi và mang không khí Giáng sinh. Nó được làm từ sợi bông mềm, phô bày cả cơ thể thanh mảnh của một vũ công và vấn vít theo từng bước uyển chuyển của cô. Và gã nhíu mày. Cô còn hơn cả thanh mảnh, nói đúng ra là mỏng dính. “Cô quá gầy”, gã nói khi giậm chân cho tuyết rơi xuống và đá cánh cửa lại đằng sau, nghe cộc lốc hơn gã tưởng. Carrie chớp mắt ngạc nhiên, rồi một nụ cười ngọt ngào chậm rãi nở trên gương mặt xanh xao của cô. “Tôi cũng chúc anh buổi sáng tốt lành!”, giọng cô vui vẻ. “Cảm ơn vì đã mang củi vào đây giúp tôi. Anh có muốn một chút cà phê không?” “Có”, gã đáp, biết giọng mình vẫn tương đối gắt gỏng. Gã đi theo cô vào phòng khách, thả rầm đống củi rồi quay sang nhìn cô. Làn da cô ửng hồng sau khi tắm, và một thoáng đề phòng cũng không xuất hiện ở cô sáng nay. Cô vững vàng, quả quyết, và tự chủ. Và gã nhận ra bản thân đang tự hỏi có thể làm gì khiến sự tự chủ của cô mất đi. Cô vào bếp, rót cho hai người những tách cà phê thơm nức. Gã tự nhủ mình ở đây để cứu cô, chứ không phải ngủ với cô. Gã lấy một trong những chiếc ghế dựa, quay lưng nó lại và ngồi xuống, vừa nhận tách cà phê từ tay cô vừa lẩm bẩm cảm ơn. Cô ngồi lên chiếc ghế cách gã xa nhất, một sự thật khiến gã hài lòng. Rõ ràng cô không ở trạng thái yên tâm như cô muốn gã tin. Gã thích thế. “Ăn bánh quy đi!”, gã lên tiếng rồi uống một ngụm cà phê, ngon đến mức có thể chết đi được. Carrie lắc đầu. “ Tôi không đói. Anh cứ ăn đi”. “Cô chẳng bao giờ đói. Lượng thức ăn của cô chẳng đủ nuôi một con chim”. “Chim ăn gấp ba lần trọng lượng của chúng mỗi ngày”. “Kiên quyết nhịn ăn đến chết mà vẫn xấc xược đuợc cơ à”. “Tôi đâu có như vậy”. Ánh mắt cô lấp lánh, và cô dường như đã quên mình phải tỏ ra nghiêm nghị. Cô với tay lấy một chiếc bánh, rồi nhét vào cái miệng bướng bỉnh. “ Vậy làm bánh cho ai? ” “ Đi ề u gì khi ế n anh nghĩ chúng không được làm cho tôi? ” Cô cự lại. “Bởi đến lúc này tôi có thể khẳng định, cô chẳng làm cái của nợ gì cho bản thân cô cả”. Cô ăn thêm một chiếc bánh khác. “Tôi không nghĩ đó là chuyện của anh”. Gabriel nhún vai. “ Tôi cũng tin thế. Tôi không quen ở gần các vị thánh”. “Khó lắm”. Cô đã lấy chiếc bánh thứ ba mà không nhận ra. Đó là chiếc bánh gừng hình người,
và cô cắn cụt đầu nó bằng hàm răng trắng tinh sắc nhọn. “Thực ra mà nói, phần lớn thời gian trong đời tôi đã ở gần những người chỉ biết lo cho lợi ích bản thân. Những người sẵn sàng nghiền nát bất cứ vật gì chắn ngang lối đi của họ”. Cô đang nói về MacVey, gã biết rõ. Gã trầm tư uống thêm một ngụm nữa. “Dù kẻ đó có là ai, thì hắn rõ ràng cũng không đánh giá chuẩn xác về cô”. “Anh đang nói cái gì thế?” Cô nuốt cái bánh thứ ba, và đang với tay lấy cái thứ tư, một chiếc gạc hươu phủ hồ đào lộng lẫy. “Kẻ nghiền nát mọi thứ chắn lối hắn. Tôi cảm thấy cô là một trong những người bị hắn tàn phá”. Gã tự hỏi có phải gã đã đẩy cô đi quá xa rồi không. Gã muốn biết những suy nghĩ thật sự của cô về Emerson MacVey. Liệu có phải cô vẫn còn hận hắn? Lý do là gì? Mẹ kiếp, giá như gã có thể nhớ lại được! Cô đặt chiếc bánh ăn dó xuống. “Nếu anh đã uống xong cà phê, tôi có thể chỉ anh thứ cần sửa quanh đây”. “Cô đã yêu hắn phải không?” Gã không chắc đâu là điều gã mong chờ, khi nỗi đau mơ hồ hiện trong đôi mắt xanh của cô, khi nụ cười méo xệch nở bâng quơ trên môi cô. “Phải”, cô nói, rời bàn với sự uyển chuyển của nghệ sĩ múa. “Trái tim tạo ra để tan vỡ, Gabriel. Niềm tin gây dựng để bội phản. Kết thúc th ả o luận ” . Cô bắt đầu hướng về phía cửa, nhưng Gabriel đã chặn đường. “Cô vẫn còn yêu hắn?” Cô ngẩng lên nhìn gã. Vẫn cảm giác lạ thường khi gã nhìn xuống đôi mắt xanh dương của cô. Trong quá khứ, gã không cao hơn cô đến thế. Đột nhiên gã nhớ lại quá khứ với sự rõ ràng đến choáng váng: hắn đã bao phủ cả cơ thể lên người cô, và hai người vừa khít với nhau đến hoàn hảo. Cô vòng chân quanh hông hắn, đón nhận hắn vào trong, và một đêm, chỉ với một đêm đó thôi hắn đã để lạc mất bản thân và cả sự tồn tại đến khốn khổ của hắn trong sự ấm áp, mềm mại và ngọt ngào của cơ thể cô. “Hắn đã chết”, cô nói nhanh, đôi mắt nheo lại. “Anh ổn chứ? Trông anh cứ như vừa thấy ma ấy”. “Tôi chỉ nhớ lại vài chuyện”, gã thì thào, vẫn còn quay cuồng trong ký ức. “Hẳn không được dễ chịu cho lắm”. “Tôi sẽ không nói thế”, gã cố dài giọng. “Vậy là tình y êu đích thực của cô đã làm tan vỡ trái tim cô, phản bội niềm tin của cô rồi chết. Chắc cô thấy thoải mái lắm khi tưởng tượng hắn đang bị nướng chín trong lửa địa ngục vì những gì đã làm với cô nhỉ?” “Tôi không tìm kiếm sự trả thù, Gabriel”, cô nói. “Hơn nữa, tôi cũng không tin có địa ngục”. “Nhưng cô tin có thiên đường?” “Phải”. “Vậy thiên đường có gì hay khi không có địa ngục?” Cô mỉm cười, tâm trạng có vẻ đã khá hơn. “Khi anh tì m ra, Gabriel, hãy cho tôi biết điều đó”. Chính những khoảnh khắc thế này, Gabriel nghĩ, được nhìn cô bước ra ngoài ánh mặt trời mùa đông vàng ruộm khiến con quỷ trong gã sợ chết khiếp. Cô không biết. Cô không thể biết. Nếu gã cố kể với cô, chắc chắn cô cũng sẽ không tin. Nhưng những lời phù hợp đến kinh dị của cô cứ ám ảnh gã khi theo cô ra ngoài. *** Carrie bắt đầu cho bánh quy vào những hộp sắt tây khác nhau mà cô đã thu thập. Tiếng búa vọng lại hòa nhịp một cách dễ thương với tiếng nhạc Giáng sinh phát ra từ chiếc đài thu cũ , nụ cười bất giác nở trên môi cô. Gabriel đang ở ngoài kia, sửa lại bờ kè quanh nền nhà đang dần sụt xuống vì cũ kỹ. Anh ta hơi ngạc nhiên khi cô đưa anh ta đi xem xét chung quanh, liệt kê những thứ cần tu bổ. Cô không chắc lắm về điều anh ta đang trông đợi. Rất có thể anh ta nghĩ cô yêu cầu anh ta đến đây vì gương mặt điển trai của anh ta, nhưng anh ta đã nhầm. Hẳn từng có nhiều phụ nữ viện cớ để được ở bên anh ta. Đơn giản thời nay người có diện mạo nổi trội rồi lại lối cư xử điềm đạm, bao dung như thế không còn nhiều. Nhưng anh ta cũng không điềm tĩnh như mặt ngoài thể hiện. Nét thông minh sắc sảo và giễu cợt đang kháng cự mãnh liệt với sự dịu dàng trong đôi mắt đen láy của anh ta. Bất cứ khi nào cô nhìn anh ta, nhìn một cách đúng nghĩa, ý nghĩ
lạ lùng rằng cô đang nhìn vào mắt của hai người khác nhau cũng nảy đến với cô. Anh ta đã đúng một điều, những việc cô nhờ anh ta làm không phải do cô tự tạo ra. Chúng rất cần thiết, song nếu trong một hoàn cảnh khác cô sẽ để chúng đợi. Nhưng anh ta mới đến thị trấn, đang gặp khó khăn, không công việc và tiền bạc. Nhà máy bị đóng cửa là lỗi của cô. Trách nhiệm của cô là giúp đỡ những người bị việc đó ảnh hưởng. Nếu Precision Industries còn trụ vững, Gabriel có thể đã được làm việc ở đây trong suốt mùa nghỉ lễ rồi. Anh ta không phải người yêu cầu cũng như dễ dàng chấp nhận sự giúp đỡ. Điều đó cô có thể thông cảm. vì cô cũng có cảm giác y hệt. Khó khăn của phần lớn cư dân trong thị trấn đã bị chính lòng kiêu hãnh che đậy, và Carrie thì ngày càng điêu luyện trong việc lung lạc lòng kiêu hãnh ấy. Bởi có một điểm khác biệt chủ yếu giữa cô và những người dân ở Angel Falls này. Họ không đáng phải gánh chịu bất hạnh. Kẻ đáng nhận bất hạnh ở đây là cô. Cô đã nhiếc móc cái tôi của mình không biết bao lần. Giá cô không nghĩ đến chuyện có thể cứu cả thế giới, cứu nhà máy, cứu thị trấn Angel Falls thân thương lẫn Emerson MacVey. Chính những hành động thiện ý của cô đã mang lại sự tuyệt vọng và hủy diệt. Và Emerson MacVey hẳn đã quên sự tồn tại của cô hàng tháng trời trước khi hắn chết. Tại sao cô vẫn tiếp tục nghĩ về hắn? Kể từ lễ Tạ ơn, hắn vẫn ám ảnh những giấc mơ của cô, cũng như khi cô thức giấc. Cô nghĩ đã vượt qua được tất cả, chỉ nghĩ về hắn một hoặc hai lần một tuần. Nhưng rồi đột nhiên, sức nóng về sự hấp dẫn của cô với hắn, nỗi đau đớn trước sự phản bội của hắn, cơn sốc và nỗi xót thương khi nghe hắn chết hết thảy đều trở lại. Cô nhượng bộ tất cả, biết rằng năng lượng trong người cô cần được tiếp nạp trong quá trình dàn xếp ổn thỏa, để tạo nên khác biệt, để không còn phải khóc than cho quá khứ. Nhưng hắn dường như đang lơ lửng ngay bên ngoài nhận thức của cô, một bóng ma, một linh hồn, một khát khao khiến cô không thể hoàn toàn vực lại bản thân. Điều cô băn khoăn liệu có bao giờ xảy ra hay không. Cô thắt sợi ruy băng bằng vải nhung sáng quanh chiếc hộp cuối cùng và thở dài. Chúng là những món quà nhỏ bé, nhưng là chút tấm lòng, và cô có nhiệm vụ giao hết chỗ quà vào chiều nay, một khi cô chắc chắn Gabriel có đủ việc để làm. Cô ngồi rũ người xuống chiếc bàn tròn, lẩm nhẩm một câu “chết tiệt” mệt mỏi. Ngày hôm qua cô đã quên ăn, và bánh quy đường cho bữa sáng cùng cà phê không phải lựa chọn đầy đủ dinh dưỡng nhất. Cô ngửa đầu ra sau, nhưng căn phòng bắt đầu chao nghiêng quanh cô. Cô cần đứng dậy và cho thêm củi vào lò, cô cần đứng dậy và trả lời điện thoại vừa đổ chuông. Cô thử đứng lên, nhưng cơn chóng mặt lại bủa vây, cô có cảm giác mình bắt đ ầ u rơi thẳng vào bóng tối. Cô rướn tay để tự cứu mình, nhưng không có ai ở đó, chỉ có mình cô, trong màn đêm, và cô đang rơi, rơi mãi... Anh ta bắt được cô. Hai bàn tay mạnh mẽ và ấm áp đón cô, kéo cô lên khỏi vực sâu, ôm cô thật chặt vào cơ thể rắn chắc, đầy cơ bắp. Cô nghe được giọng nói của anh ta, như từ một nơi xa vọng lại, đang chửi thề, cô có thể cảm nhận được những nhịp đập sợ hãi của trái tim anh ta khi anh ta nâng cô dậy trong vòng tay. Cô muốn nói gì đó, nói với anh ta đừng hoảng loạn, nhưng cô không thốt được một lời, và cô phải nhắm mắt, dựa đầu vào vai anh ta. Chúa ơi, bờ vai anh ta thật dễ chịu, cô lơ mơ nghĩ. Mạnh mẽ, hơi gồ lên chút xương, nhưng quá đỗi thoải mái bên dưới làn áo sơ mi bạc màu. Cô muốn vùi mặt vào làn vải mềm mại đó. Anh ta có mùi khói từ c ủ i đốt, từ những khúc gỗ tươi và cà phê hạt dẻ. Cô thắc mắc không biết vị từ miệng anh ta thế nào. Nếu cô nhích đầu một chút thôi, cô sẽ có câu trả lời. Anh ta đặt cô xuống ghế sô-pha, trong chốc lát cô vẫn cứ bám lấy anh ta, không bằng lòng buông anh ta ra. Anh ta thật ấm áp và an toàn, anh ta là
người cô không cần chăm sóc. Anh ta là người sẽ đuổi hết những tên ác quỷ và giữ cho cô bình an, mà cô thì quá mệt mỏi để tiếp tục chiến đấu. Rồi cô cũng buông anh ta ra, tựa người vào ghế, hai mắt vẫn nhắm chặt. “Xin lỗi”, cô yếu ớt thì thào. “Có chuyện gì vậy?” Giọng anh ta thô ráp vì lo lắng, hai bàn tay anh ta, gạt những lọn tóc lòa xòa ra khỏi gương mặt cô. Cô không muốn mở mắt vì nếu cô làm thế cô sẽ thấy anh ta đang nhìn xuống cô. Và cô thì không đủ tự tin là có thể che giấu được nỗi khao khát trong ánh mắt mình. “Anh nói đúng”, cô nói. “Tôi không ăn đủ. Quá nhiều đường và cafein cho một cái bụng rỗng”. “ Chết tiệt ” , anh ta thốt. Cô choàng mở mắt, cố gắng nở một nụ cười run run. “Đừng lo, trước đây cũng từng bị thế này rồi. Tôi chỉ cần tự rót một tách trà, nướng một ít bánh mì là sẽ ổn…” “Cô cứ ở yên đây”, anh ta nói mạnh mẽ. Gương mặt tuyệt đẹp của anh ta nghiêm nghị đầy thu hút. “Nghe này, tôi không sao mà”, cô nói, cố gắng ngồi dậy, nhưng một trong hai bàn tay to khỏe, đẹp đẽ của Gabriel đã đặt lên giữa ngực cô và ấn cô nằm xuống. “Nằm yên”, anh ta nói, “nếu không tôi sẽ ngồi lên người cô đấy. Tôi sẽ nấu súp, hâm nóng sữa, nướng bánh mì và làm bất cứ thứ gì có thể cho cô”. Lời của anh ta đột nhiên thổi lên nỗi sợ hãi khắp người cô. “Tôi không đói, Gabriel... ” Nhưng anh ta đã vào trong nhà bếp lục lọi. Cô cố gắng ngồi dậy, song căn phòng lại xoay vòng khiến cô phải nằm xuống. Cô cần một chút thời gian để phục hồi, và rồi cô sẽ giải thích với anh ta... “Nhà cô chẳng có tí thức ăn nào hết”. Anh ta trở lại quá sớm, còn cô vẫn chưa đỡ hơn để tranh cãi với anh ta. “Đương nhiên là có”, cô run rẩy đáp. “Có ít nhất mười tá bánh quy…” “Còn một chút đường và bột mì, thế thôi. Không sữa, không bánh mì, hai túi trà, một hộp cà chua đặc, và một hộp đậu bắp, lạy Chúa. Vì cái gì mà cô lại để một hộp đậu bắp trong tủ thế hả?” “Nó là thứ duy nhất tôi không thể ép mình ăn”, cô không thể cưỡng lại mà thốt lên. “Chỉ là gần đây tôi không có cơ hội đến cửa hàng thôi. Tôi định ra ngoài chiều nay sau khi để anh bắt đầu công việc. Tôi sẽ đi tặng bánh quy, ghé qua cửa hàng trên đường về và mua thêm đồ dự trữ”. “Cô sẽ không lái xe đi đâu hết”. “Thứ lỗi cho tôi?” “Nếu cô muốn mua sắm tôi sẽ đưa cô đi. Vì nhỡ cô ngất xỉu sau tay lái và làm chết ai đó, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân”. Anh ta gần như cũng bị bất ngờ bởi chính những lời của mình, nhưng vẫn hoàn toàn ngoan cố. “Tôi sẽ không gây nguy hiểm cho người khác”, cô l í nhí. “Cô không chăm sóc bản thân tử tế đồng nghĩa với việc cô đang là mối hiểm nguy với sự bình yên của những người khác đấy. Cứ thử nghĩ đến lần tiếp theo cô quên ăn xem”. Cô không thể cãi lý với anh ta. Sự thật không hề dễ nuốt. Dù cô có xứng đáng hay không, mọi người ở Angel Fails đều lo lắng cho cô. Và kỳ lạ là, cô biết ngay cả khi họ biế t sự thật về chuyện gì đã xảy ra với nhà máy họ vẫn yêu cô. Đó không phải lựa chọn ngẫu nhiên của một tập đoàn quyền lực ngông cuồng. Mà là vì những cố gắng sai lầm để đánh bạc với Chúa, cô đã mang lại sự hủy diệt cho chính thị trấn quê mình. “Anh có thể lái xe đưa tôi đến cửa hàng”, cô mệt mỏi nói, sức chiến đấu đột nhiên cạn kiệt. “Nhưng tôi vẫn sẽ trả tiền cho anh”. “Trong thị trấn này không còn chỗ nào hay ho hơn để cô ném tiền vào nữa à?” Anh ta chống đối. “Tôi cũng có việc phải đến cửa hàng”. Cô ngồi dậy, và may thay cơn chóng mặt đã ngừng lại, ít nhất là trong lúc này. “Gabriel, anh có biết thói quen luôn cho là mình đúng của anh gây khó chịu nhất không?” “Tôi nhún nhường hết sức rồi đấy. Cô cảm thấy đỡ hơn để đi bây giờ chưa?” Những gì cô muốn là chui vào dưới những tấm mền và ngủ. Cô quá mệt mỏi, cả phần cà phê còn lại trong bình cũng không đủ nạp sức lực cho cô. Nhưng Gabriel sẽ không cho phép cô trốn. Coi
anh ta như một trong các dự án chăm bẵm khác của cô có lẽ sẽ là một sai lầm đắt giá được minh chứng trong cuộc đời vốn đã đầy rẫy những sai lầm của cô. “Đến lúc đi rồi”, cô tươi tắn nói, nghi ngờ khả năng có thể lừa được anh ta dù chỉ trong chốc lát. Đôi mắt thân quen đến khác thường đó có thể nhìn thấu cô. Một giờ sau cô ngộ ra mình nên kiên quyết hơn. Họ đã để bánh quy tại nhà thờ để Hội phụ nữ đi phân phát rồi đến thẳng siêu thị của Martinsen. Tất cả mọi người đều nhìn thấy họ khi họ đi vào giữa các gian hàng, vẻ hiền hòa hiện lên nét mặt mọi người nhưng cô biết mọi người nghĩ gì. Và thực tế trước đấy, cô từng muốn điều đó trở thành hiện thực thì mọi thứ chỉ càng trở nên tồi tệ. Gabriel tiếp tục ném các thứ vào xe đẩy của cô. Một tá súp gà đóng hộp, giá tám mươi xu. Nước ép hoa quả loại đắt tiền, bánh quy giòn nhập khẩu, sữa chua, mì ống, tỏi, hành… “Anh đang làm cái gì vậy?” Cô gặng hỏi khi anh ta quăng một túi mười hai chiếc bánh mì que vào phần giỏ đã đầy ắp. “Một người không thể ăn hết chừng này thức ăn”. “Tôi sẽ lấy phần lớn. Và hôm nay tôi sẽ nấu bữa tối cho cô”. “ Gabriel... “ “Carrie... ” Anh ta bắt chước ngay, nhìn xu ốn g cô và m ỉ m cười. Trong thoáng ch ố c cô không thể thở. Trong thoáng chốc tất cả ký ức về Emerson MacVey và những sai lầm ngu ngốc trong đời cô biến mất, cô cứ thế nhìn lên, vào sâu trong đôi mắt ấm áp của Gabriel Falconi và quỵ ngã trước tình yêu. Tất cả âm thanh trong cửa hàng bao vây lấy cô. Bà J o han n sen già nua đang băng qua cô, hướng thẳng về chỗ bán taco chips [ 3 ] , ông Draper ngây người bên sạp báo, khao khát nhìn cuốn tạp chí về máy vi tính, và Jeffie Baker thì lén lút đứng gần ngăn để rượu. Carrie nhận ra tất cả bọn họ, nhưng trong giây phút đó tất cả những gì cô có thể tập trung chỉ là người đàn ông đang đứng trước mặt cô, gần đến mức cô có thể cảm nhận được hơi nóng tỏa ra từ cơ thể anh ta, gần đến mức tất cả những gì cô phải làm là tựa vào anh ta và hai cánh tay mạnh mẽ đó sẽ dang rộng, ôm lấy cô thật chặt và an toàn. [3] M ộ t loại sn ack Và rồi thực tại xâm nhập. Cô kéo mình ra xa, quay lại và nhìn thấy Jeffie nhét một chai rượu xuống bên dưới chiếc áo paca [4] kềnh càng. [4] Áo da có m ũ trùm đ ầ u của người Eskim ô . Cô không nghĩ mình có thể nói gì, chỉ buột ra một âm thanh khe khẽ đầy thất vọng. Không ai khác nhận biết chuyện gì đang xảy ra. Không một ai, ngoài Gabriel. Là một người to lớn, anh ta di chuyển với sự nhanh nhẹn và uyển chuyển đến bất ngờ. Ra vẻ vụng về, anh ta đâm vào Jeffie, làm thằng bé mất đà va phải ngăn nhỏ đựng rượu. Chai rượu thằng bé ăn cắp rơi bộp xuống sàn nhà lót thảm, cùng với nửa tá những chai khác. “Chúa ơi, tôi hậu đậu quá”, Gabriel - người ít vụng về nhất cô từng gặp - nhanh nhảu xin lỗi. Anh ta xếp lại các chai rượu, nhặt luôn cái chai Jeffie đang định ăn cắp và đặt nó trở về vị trí vốn có trên kệ. Đám đông nhỏ đi mua sắm giữa ngày nhanh chóng quay về với việc của mình, còn cuộc nói chuyện giữa Jeffie và Gabriel đã được hạ thấp để không lọt vào tai cô. Nghiêm túc mà nói, cảnh tượng đó trông thật thú vị. Jeffie rõ ràng đã nghĩ Gabriel là Chúa trời. Cô chỉ hy vọng Gabriel không làm thằng bé xấu hổ. Đã đủ khó khăn khi ở tuổi mười bảy, và còn khó khăn hơn nữa nếu có những người cha người mẹ quen suy nghĩ vặn vẹo và đáng chê trách như cha mẹ của Jeffie. C ô lén lăn xe đỗ dọc theo các kệ hàng, hy vọng có thể đặt lại vài thứ, nhưng Gabriel đã tóm lấy tay cô khi cô để mấy hộp súp gà đắt kinh khủng lên ngăn, và anh ta giật cái hộp ra khỏi tay cô. “Tôi đã cho nó một trận”, anh ta thích thú nói. Cô bị sốc. “Không phải chứ! Thằng bé rất nhạy cảm, Gabriel, anh có thể đã làm mọi thứ trở nên xấu hơn…” “Không hiểu sao nó lại chấp nhận trận mắng ấ y từ tôi. Có lẽ nó cảm thấy dễ chịu
hơn khi được chú ý. Nó cần ai đó dạy cho nên thân. Nếu tôi mà bị cha tôi bắt gặp như thế, mông tôi sẽ đau đến mức không thể ngồi trong suốt một tuần”. “ Nhưng cha Jeffie thì chẳng quan tâm ” . “Tôi cũng hiểu cảm giác đó”. “Quyết định xem, Gabriel. Hoặc cha anh lờ anh đi hoặc ông sẽ dạy anh sửa sai thành đúng. Anh sẽ chọn cái nào?” “Tôi có trí tưởng tượng rất phong phú. Ra khỏi đây thôi”. Anh ta ném thêm hai hộp súp gà nữa vào xe đẩy. Cô không có đủ tiền để trả cho tất cả những thứ anh ta đã lấy trên giá. Cả tiền công cô thuê anh ta, và đưa cho mục sư Krieger số tiền cô hứa góp quỹ cho lễ Giáng sinh. Mọi người cần số tiền đó hơn cô rất nhiều, để mua thức ăn, để mua nhiên liệu. Cô cùng quẫn trợn mắt nhìn anh ta, không muốn nói cho anh ta sự thật. Nhưng cô đã quên bên dưới đôi mắt nâu sẫm ấm áp đó là một trí tuệ sắc sảo thế nào. “Sao cô không ra ngoài xe và đợi tôi?” Anh ta điềm nhiên gợi ý. “Tôi phải trả tiền số thực phẩm này”. “Không cần đâu”. “Có, có đấy”, cô giận dữ nói. “Tôi không nhận của bố thí...” “Tôi biết, cô chỉ thích đem cho thôi. Quá tệ cho ngài, Thánh Carrie ạ. Tôi là người chọn đồ, nên tôi sẽ trả tiền, và ý định của tôi là xử lý gọn ghẽ chúng. Nếu ngài muốn la hét ngay giữa cửa hàng tạp hóa địa phương cũng được, tôi rất vui lòng được chiều lòng ngài”. “Tôi không la hét”, cô nói, hai hàm răng nghiến chặt. “Có lẽ cô nên làm thế. Sẽ tốt đối với cô”. Cô trừng mắt nhìn anh ta. Khốn nỗi anh ta hoàn toàn đúng. Anh ta đang mang đến những xung động, những cảm xúc cô đã chôn chặt, cố gắng chuộc lại những tội lỗi của mình. Trong tuần anh ta đến Angel Falls cô đã được trải qua cảm giác của thèm muốn, của yêu thương, của khao khát và của những cơn giận bùng nổ, khi tất cả những gì cô từng cảm nhận là nỗi tiếc thương lặng lẽ. Gây nên thoáng sợ hãi lạ lùng trong cô. “Tôi sẽ viết séc cho anh”, cô mím môi, tận hưởng những mạch máu rần rật chảy, tận hưởng cơn phẫn nộ của mình. “Cứ thế đi. Khi tôi làm xong, cô có thể cộng thêm vào tiền công cho tôi. Sau Giáng sinh, lúc tôi chuẩn bị rời đi”. “Việc chỗ tôi không nhiều để anh bận đến thế”, cô phản đối. “ Tôi tự có thời gian biểu. Hãy trả cho tôi sau Giáng sinh ấ y ” . Cô muốn đánh anh ta. Cô, người chưa bao giờ đánh bất cứ ai trong cả cuộc đời. Cô quay phắt người lại và hiên ngang đi về phía cửa, với niềm kiêu hãnh bao quanh như một tấm áo choàng. Nụ cười ranh mãnh của bà Johannsen chỉ càng làm cô khó chịu. Đúng năm phút sau anh ta ra ngoài, với bốn túi hàng thực phẩm căng phồng. Anh ta ngâm nga hát khi xếp chúng vào sau xe, âm thanh đó nghe rất quen nhưng lại vui nhộn lạ thường. Cô giật mình hoảng hốt nhận ra. Đó là một bài thánh ca thời trung cổ được chơi với giai điệu nhanh, từng là bản ưa chuộng của Emerson MacVey trong lễ Giáng sinh. “Anh làm thế nào để trả hết tiền cho đống đồ đó?” Cô gắt gỏng hỏi. “Tôi nghĩ anh không có nhiều tiền”. “Ừ, nhưng tôi có một thẻ tín dụng vàng”, anh ta vừa đáp vừa chui vào ghế lái. “Thẻ tín dụng thì sớm hay muộn cũng phải thanh toán”. Trong thoáng ch ố c anh ta trông có vẻ b ố i r ối . Rồi anh ta khởi động xe. “Đừng lo”, anh ta lè nhè “thẻ tín dụng của tôi được đảm bảo tuyệt đối vững chắc”. “ Cài dây an toàn của anh vào ” . “Tâm trạng cô đang cáu gắt, phải không?” Anh ta vui vẻ nói. “ Tôi không tin vào chúng ” . “Trong xe của tôi thì anh phải cài dây an toàn”, cô quát. “Rõ, thưa bà”. Anh ta có vẻ hài lòng với tâm trạng rất tệ của cô. “Nhưng tin tôi đi, nó không quan trọng đâu”. “Nhưng có thể tạo nên khác biệt giữa sự sống và cái chết đấy”. “Không phải với trường hợp của tôi”. Anh ta lái xe tốt. Không quá nhanh, hai bàn tay to lớn c ủ a anh ta tì lên vô lăng. Cô cố gắng không nhìn anh ta, cố gắng tập trung vào lớp tuyết tan trên mặt đường. Cơn giận của cô dần nhạt đi, nhường chỗ cho tội lỗi nhen nhóm. Anh ta chỉ đang cố giúp cô, và cô không khác gì
một đứa ích kỷ vô ơn khi cứ cãi cọ với anh ta. “Tôi xin lỗi”. “Tôi biết ngay mà. Đừng xin lỗi, Carrie. Cứ nổi điên đi. Tôi là kẻ độc đoán, và cô thì cứ như quý cô hào phóng ấy. Nhận lại bất cứ thứ gì cũng khiến cô phát điên. Thừa nhận xem nào”. “Tôi đang cố tỏ ra độ lượng”, cô gay gắt. “Tôi thích cô thẳng thắn hơn”. “Tôi cóc cần quan tâm anh thích cái gì”. Anh ta quay sang mỉm cười với cô, nụ cười rộng, tuyệt đẹp đó có thể làm tan chảy sự kiên quyết của cả một vị thánh. “Có, cô có quan tâm”, anh ta rì rầm, rồi quay sự chú ý trở lại con đường, tiếp tục ngâm nga. “Anh đang lái hơi nhanh thì phải?” Mất một lúc cô mới mở miệng hỏi. Con đường rộng và vắng vẻ một cách may mắn, nhưng chiếc xe của cô dường như đang tăng tốc kể từ khi họ bắt đầu xuôi xuống ngọn đồi quanh co kéo dài. “Đây không phải cuộc đua Indianapolis 500 [ 5 ] , anh biết đấy”. [5] Cuộc đua xe quan trọng di ễn ra hàng năm ở Indianapolis - thành ph ố thủ phủ của bang Indiana “Tôi biết”. Giọng nói của anh ta căng thẳng, và hai bàn tay trên vô lăng không còn nắm lỏng nữa. “Vậy sao anh lái xe nhanh thế?” Anh ta không quay sang nhìn cô. Khuôn mặt anh ta trông thật dữ tợn dưới ánh nắng ngày đông. “Bởi vì, thưa Thánh Carrie”, anh ta nói với giọng bình tĩnh giả tạo, “ngài hình như không có cái phanh nào cả”. Chương 10 Quả thực gã lái xe giỏi kinh hoàng. Sau vụ việc, gã nhận ra điều đó, nhưng vào lúc gã tập trung hết mức để giữ mạng sống cho Carrie, gã không bận tâm đến điều đó. Cũng không có gì khác biệt. Emerson MacVey từng là một tay lái vụng về, bất cẩn, và thiếu lưu tâm đến chiếc Mercedes của hắn. Nếu Gabriel mất thời gian lo nghĩ thì có lẽ bọn họ đã kết thúc trong một lùm cây rồi. Carrie ngồi im lìm trong lúc gã vật lộn với chiếc xe đang đà lao vùn vụt về phía chân ngọn đồi cuối cùng ở phía trước ngôi nhà kiểu trang trại cũ của cô, và gã chỉ đủ thời gian kịp nhìn thoáng qua cô. Mặt cô tái nhợt, hai bàn tay siết chặt. Nhưng cô trông có vẻ thanh thản, mẹ kiếp! Cứ như cô đang chờ cái chết. Ý nghĩ ấy làm gã phát điên, gã giậm mạnh chân ga khi chiếc xe trượt dài theo một đường cong, tạo đủ đà để tránh được một lùm cây chết người, sau đó chiếc xe xoáy tròn trên con đường đầy băng, cuối cùng cũng rùng mình ngừng lại. Họ ngồi bất động trong giây lát, rồi gã quay sang nhìn cô. “Cô ổn chứ?” Giọng gã khàn, đầy tức giận, và gã không thèm che giấu. Cô chạm tay xuống chiếc dây an toàn, gã điên tiết nhận ra hai bàn tay cô không hề run rẩy. “Tôi ổn. Anh là tài xế giỏi”. “Cô thậm chí còn chẳng quan tâm phải không?” Gã bùng nổ. Cô ngây người, ngạc nhiên nhìn gã. “Về cái gì?” “Cô có thể đã chết. Tí nữa thì toi đời, thưa cô, n ế u chúng ta đâm thẳng về phía lùm cây”. “Nhưng đâu có đâm”, cô điềm tĩnh chỉ ra khiến gã tức điên. “Nhưng có thể đã bị đâm rồi”. Cô ra khỏi xe. “Qua dốc là tới nhà. Chúng ta cũng có thể đi bộ từ đây”. Gã cố gắng đi theo cô, quên mất gã đã cài dây an toàn. Hai tay của gã đang lẩy bẩy, một sự thật còn khiến gã cáu tiết hơn nữa, rổi gã lẽo đẽo theo sau khi cô lê từng bước kiên quyết lên ngọn đồi phủ đầy tuyết. Gã không nói một lời trên suốt nửa dặm đường về nhà. Gã không bu ồ n bận tâm xem cô có rét cóng trong chiếc áo khoác mòn xơ xác cô đang mặc hay không, thật may mắn khi cả bang Minnesota không bị n ấ u ch ả y du ớ i sức nóng từ cơn thịnh nộ của gã. Gã theo cô vào bếp đóng sập cửa lại, rồi tóm lấy cánh tay cô khi cô đang cởi chiếc áo khoác bám đầy tuyết ra. “Cô mong được chết đấy à?” Gã cay nghiệt hỏi. Cô vẫn yên lặng nhìn gã. Tuyết đã tan trên mái tóc vàng óng, làm ẩm ướt hàng mi dài của cô, và gã không thể nhầm ngọn lửa tình đang bốc lên trong gã trước khi cô dốc toàn lực để dập tắt nó, khi cô trao cho gã ánh nhìn hiểu biết như tình mẫu tử chỉ càng làm tăng cơn cuồng nộ của gã. “Tôi đủ thực tế để biết khi nào thời gian của tôi đã hết bởi
tôi biết không thể thay đổi được nhiều. Tôi không sợ cái chết”. “Không”, gã nói. “Cô chỉ sợ sự sống thôi”. Mặt cô trắng bệch, và cô giật mạnh tay ra, cố gắng giải thoát bản thân. Gã không định buông tha cô. “Tôi sợ cái gì không phải việc của anh”. “Cô sợ cuộc sống, sợ bị tổn thương, sợ mắc sai lầm. Cô tự biến mình thành vị thánh của Angel Falls, giúp đỡ những người nghèo, an ủi những người mệt mỏi, chữa bệnh cho những người ốm yếu. Quá tệ khi mặt hồ đã đóng băng, nếu không hẳn cô sẽ cho tôi m ở mang về khả năng đi trên nước của cô rồi”. Cô giật tay ra lần nữa, và điều đó chỉ làm cô đến gần cơ thể gã hơn. Người cô nóng ran, gã cũng phừng phừng, và gã tự hỏi liệu bếp lò đã được nhóm lên chưa. “Tôi có lý do”, cô hung hăng nói. “Tôi cần bồi thường cho những người tôi làm tổn thương. Tôi cần chuộc tội…” “Chuộc tội cho cái gì? Tôi không thể tưởng tượng cô có thể gây ra chuyện gì kinh khủng đến mức ấy”. “Vậy trí tưởng tượng của anh không phong phú rồi”. Trong một quãng dài suy tư gã cứ trừng mắt nhìn cô. Làn môi mềm mại của cô giờ đang run lên vì giận dữ và xúc cảm, trong khi cái chết gần trong gang tấc chỉ khiến cô bất động. “Tôi không cho là thế”, gã lẩm bẩm. “Tôi có thể hình dung đủ các thể loại chuyện khi tôi nhìn cô”. Lần thứ ba cô cố giật tay. Cô dựa lưng vào cửa tầng hầm, nhưng gã cũng ở đấy với cô, cơ thể gã áp lên người cô, và gã muốn xem gã còn nhớ mùi vị của miệng cô, nhớ cảm giác cơ thể cô mang lại không. Gã mu ố n nếm sự sống mà cô lơ đãng giữ gìn. Gã mong chờ nhiều kháng cự hơn từ cô. Gã đưa tay xuống cằm cô, hơi nâng mặt cô lên, và chiếm lấy miệng cô bằng một nụ hôn sâu và nóng bỏng. Hai tay cô đang ở trên vai gã, nhưng thay vì đẩy gã ra, cô lại níu lấy gã. Làn môi cô hé mở và cô để mặc gã hôn cô. Gã bứt môi ra và chăm chú nhìn cô. “ Thêm khoan dung nữa sao, Carrie? ” Gã nói. “Sự thánh thiện của cô có thể vươn được bao xa? Những nụ hôn thụ động à? Hay cô sẵn lòng cởi quần áo và nằm xuống nếu cần để an ủi một kẻ lạ mặt lang thang nghèo đói?” Gã đang cố chạm đến phía sau của vẻ ngoài điềm tĩnh như một thánh mẫu ấy, và những ngón tay của cô khoan sâu vào vai gã khi cô cố đẩy gã ra xa. “Anh thật kinh tởm”, cô nói. “Không, không hề. Tôi là người. Í t nhất trong lúc này. Và tôi muốn em hơn tôi từng muốn bất cứ ai trong đời. Nhưng tôi không muốn một vị thánh vô cảm hy sinh trinh tiết của bản thân. Tôi muốn người cũng muốn tôi. Tôi muốn một người đàn bà, không phải một kẻ tử vì đạo”. “Quỷ bắt anh đi”, cô bắt đầu giận dữ. “Tốt hơn rồi đó”, gã thì thầm, và lại hôn cô. Lần này cô không còn chút thụ động. Có cuồng nộ, có đam mê, tất cả những gì gã muốn từ cô. Cô vòng hai tay quanh cổ gã, nghiêng làn môi bên dưới miệng gã, và hôn lại gã. Cô vụng về, vụng về một cách đáng yêu và đầy khiêu khích, như thể mới đây thôi cô chưa được hôn cho thỏa. Gã nhớ điều đó về cô. Gã khum lấy gương mặt cô, những ngón tay vén tóc cô ra khỏi má gã hôn cô dịu dàng, như muốn dỗ dành cô, và tiếng rên khe khẽ của cô thoát ra từ sâu trong cổ họng như một phần thưởng cho gã. Gã có thể cảm nhận được bầu ngực nhỏ của cô ép vào ngực gã. Thậm chí qua những lớp vải dày gã cũng có thể cảm nhận được đôi nhũ hoa đang căng lên hưởng ứng. Gã kéo cô lại và ôm chặt hơn, muốn chết chìm trong những nhu cầu mà vài tuần ngắn ngủi trước chỉ của riêng gã. Hơi nóng, những đụng chạm, những âm thanh khuấy đảo trong đầu gã và gã biết nếu gã không ngừng lại gã sẽ chẳng còn cơ hội cứu cô được nữa, hay cứu bất cứ ai. Và ít nhất trong tất cả số đó, vô cùng nhỏ bé, là tâm hồn không chút giá trị của gã. Nhưng gã không bứt ra khỏi cô. Gã nhẹ nhàng vuốt ve cô, càng hôn cô dịu dàng hơn, rồi môi gã di chuyển lên vành tai thanh tú gã cảm nhận được cái rùng mình đáp lại của cô. Gã nếm làn da mịn màng, hít
hà mùi hương của cô và tự nhủ phải dừng lại. Gã ôm cô, tựa đầu lên cô, đợi cho đến khi hơi thở của cô chậm lại, đợi nhịp tim của gã vững vàng. Khi khoảnh khắc của đê mê qua đi, gã khẽ lui lại và nhìn cô. Nỗi kinh ngạc ánh lên trong đôi mắt xanh dương tuyệt đẹp, miệng cô mềm mại, ẩm ướt, và gã sẵn sàng đánh đổi mười năm cuộc đời để được hôn cô lần nữa. Nhưng gã không có năm nào để đổi, bởi vậy gã buông cô ra, lùi bước. “Xin lỗi”, gã nói. “Tôi không nên làm thế”. “Tại sao không?” Giọng cô nhẹ đến mức gã gần như không nghe rõ, nhưng gã hiểu chúng từ sâu trong tâm hồn. “ Bởi em không mu ố n th ế” . Cô nhìn gã, ánh mắt rất tron g trẻo. “Không đâu, tôi muốn”. Cô đi ngang qua phòng, hướng đến chỗ đặt điện thoại. “Tôi nên gọi cho Steve và hỏi xem ông ấy có thể làm gì với cái xe”. Cô kết thúc chủ đề, như thể không có gì quan trọng. Nếu tiếp tục gã sẽ lại chạm vào cô, và nếu gã lại chạm vào cô, gã sẽ không thể để cô đi. Toàn bộ chuyện này thật đáng nguyền rủa, gã nghĩ, nhìn cô nói chuyện điện thoại, lùa một bàn tay qua suối tóc vàng ánh bạc mượt mà. Ít nhất lần này tay cô cũng đang run rẩy. Chạm trán với thần chết chỉ làm cô điềm tĩnh và bất động. Chạm trán với đam mê, với cuộc sống lại khiến cô run lên đến tận nơi sâu thẳm nhất. “Ông ấy sẽ ra đây ngay khi có thể”, cô nói, gác điện thoại. “ Sao em lại cần chuộc tội? ” Gã đột ngột hỏi. “Sao cơ?” “Em nói đã gây ra tội ác và em cần bị trừng phạt. Em phải chịu trách nhiệm cho những tội lỗi nào liên quan đến thị trấn này thế?” “ Không liên quan đ ến anh ” . Cô đặt chiếc ấm đun nước lên bếp, cố tỏ ra bận rộn, không chịu nhìn vào mắt gã. “Em nói đúng. Nhưng tôi không bận tâm đó có phải chuyện của tôi hay không, và tôi hoàn toàn có ý định săn đuổi em cho đến khi em thú nhận những tội lỗi kinh khủng đó. Tôi cho rằng một khi em nói ra tất cả, em sẽ thấy chúng không tệ như em nghĩ”. Cô đứng dựa vào quầy bếp, nhìn gã. “Đây là một thị trấn nhỏ, Gabrie”, cô nhẹ giọng. “Người dân ở đây chỉ dựa vào hai thứ để sống. Một là ngành du lịch, nghề không mang lại nhiều lợi nhuận cho hơn mười hai gia đình ít ỏi, sống qua mùa hè trong những ngôi nhà dựng tạm cạnh hồ. Và nhà máy. Precision Industries không có gì đặc biệt, ở đó không sử dụng các công nghệ cao, nhưng là kế sinh nhai của hầu hết người dân trong thị trấn này. Khi nhà máy bị đóng cửa, không ai có đủ tiền trang trải cho nhà cửa, thức ăn, thuốc thang và nhiên liệu. Anh nghe nói về cơ sở hạ tầng rồi chứ? Cơ sở hạ tầng của chúng tôi đã hoàn toàn sụp đổ khi nhà máy không còn hoạt động”. “Và trách nhiệm của em ở đâu trong tất cả những chuyện đó? Em đánh bom nhà máy à? ” Cô lắc đầu, không nhìn gã. “Anh đã cáo buộc tôi là một vị thánh. Sự hoang tưởng về Chúa cứu thế đó chỉ đúng hơn một chút so với thực tế thôi. Tôi tưởng mình có thể cứu nhà máy, nhưng thay vào đó tôi khiến nó sụp đổ”. Gã không muốn nghe chuyện này sau tất cả. Gã biết những gì sắp tới, biết với thứ bản năng vượt quá những hiểu biết thông thường, và gã tự hỏi nếu gã bước ra khỏi nhà bếp, trèo lên chiếc xe tải cũ kỹ của Lars Swensen và cứ thế lái đi, liệu gã có thể vui vẻ hưởng thụ ba tuần còn lại hay không. Emerson MacVey h ẳ n sẽ hành động như th ế . Nhưng gã đang dần nhận ra gã không còn là MacVey nữa. Cũng không phải Gabriel Falconi. Gã là một sự kết hợp khác thường và khó chịu từ cả hai. Thế nên gã đợi. Bình tĩnh, kiên quyết, bởi gã biết cô sẽ buộc phải k ể với gã. Cô quay lưng lại với gã, nhìn trân trân vào cảnh vật hiu hắt bên ngoài. “Tôi đã từng là một vũ công, anh biết không”, cô mơ màng hồi tưởng. “Không may lại là một vũ công không giỏi cho lắm. Làm sao tôi biết vũ công xuất sắc nhất Angel Falls, Minnesota lại không hơn mức bậc trung ở thành phố New York chứ? Tôi không tìm được việc, nhưng đó chưa phải là điều tệ nhất. Tệ nhất là tôi dần nhận thức và
chấp nhận sự thật tôi chỉ là một kẻ tầm thường”. Cô liếc qua vai nhìn gã, và vẻ cam chịu, buồn bã ngự trị trên gương mặt cô. “Thế nên tôi đã nhận một công việc văn phòng. Không may là tôi cũng không giỏi việc đó. Tôi đã dồn quá nhiều thời gian để cố gắng trở thành một vũ công nên không chuyên tâm vào những cái khác. Tôi đã cố gắng hết sức để làm việc cho một nhà đầu tư ở New York, phải thừa nhận đó là một tên khốn lạnh lùng, vô lương tâm. Quả thực là như thế nếu tôi có nói quá đi chăng nữa. Và tôi mắc sai lầm kinh khủng khi đem lòng yêu hắn”. Câu nói đó như nhát dao đâm vào tim gã. Còn hơn cả cơn đau tim đã cướp đi sinh mạng của gã, nó vặn xoắn trong cơ thể gã đến mức gã muốn hét lên vì đau đớn. Trên thực tế gã không thể thốt nổi một âm thanh nào. “Emerson dùng tiền đ ầ u tư vào những công ty nhỏ. Hết lần này đến lần khác, hắn mua chúng rồi làm ra vẻ như đang thu về kha khá lợi nhuận. Vấn đề ở chỗ, tôi khô ng rõ cách làm của hắn. Hắn tháo tung tất cả những gì có thể, bán sạch trang thiết bị, hoặc chia nhỏ để bán cho các tập đoàn lớn hơn. Hắn quá nhẫn tâm, và tôi tự biến mình thành trò hề khi nghĩ rằng hắn đang cải tổ chúng”. “Sao em có thể làm được chuyện đó?” Gabriel cố gắng hỏi, sửng sốt khi giọng gã nghe có vẻ bất chợt quan tâm đến câu chuyện cô đang kể. “Tôi nghĩ tâm hồn hắn bị tổn thương, một người đàn ông tốt bụng ẩn dưới dáng vẻ tàn nhẫn của hắn. Tôi nghĩ hắn cần tình yêu của một người phụ nữ hiền lành, tôi nghĩ nếu có quyền lựa chọn hắn sẽ nghe theo lẽ phải”. “Và em đã làm thế? Trao cho hắn quyền lựa chọn? ” Cô lại cố gắng m ỉ m cười, nhưng nét mặt vẫn thật hoang vắng. “Tôi đã kể cho hắn nghe về Precision Industries, cho hắn thấy cơ hội đầu tư tuyệt vời thế nào với người có khả năng tổ chức như hắn. Bất hạnh ở chỗ, hắn phát hiện đây là cơ hội đầu tư béo bở hơn nữa bởi nó không khác gì một khoản lợi nhuận trước thuế. Hắn đem bán các trang thiết bị, sa thải toàn bộ công nhân, và bán cái nhà máy trống rỗng đó cho thị trấn giá một đô-la”. “Vậy thị trấn có thể bán nơi đó…” “N ơ i ấ y đang dần xuống cấp. Họ đã thử. Nhưng không một ai mảy may chú ý”. “Em không cho hắn biết suy nghĩ của mình sao? Có lẽ hắn sẽ lắng nghe nếu em giải thích với hắn…” “Tôi nghi ngờ chuyện đó. Anh thấy đấy, ngủ một đêm với tôi coi như hắn đã dính vào loại tội lỗi, và sau đó hắn không muốn nhìn mặt tôi dù chỉ một lần, chứ đừng nói đến một cuộc thảo luận”. “Nếu hai người đã làm tình…” “Bọn tôi không làm tình. Hắn quan hệ với tôi. Còn tôi thì làm tình với hắn. Một khác biệt mong manh, tôi phải thừa nhận, nhưng cũng đủ làm nên vấn đề. Hắn sa thải tôi ngay hôm sau, để không còn phải nhìn thấy tôi”. “Carrie”, gã thốt lên, sẵn sàng kể với cô tất cả. sẵn sàng thú nhận mọi tội lỗi, hứa sẽ cải thiện tất thảy, nói với cô rằng lúc ấy kẻ đó có quan tâm đến cô, nhưng chỉ vì hắn quá lạnh lùng, giận dữ và sợ hãi khi cần đến ai đó mà thôi. “Carrie à”, gã gọi tên cô, nhưng những câu chữ từ chối thoát ra. Augusta đã cảnh cáo gã. Gã có thể thực hiện những phép màu, ba điều ước, gã có thể sửa những sai lầm gã đã gây ra. Nhưng gã không thể kể với bất cứ ai sự thật về lý do ở đây của gã. Ngay cả khi Carrie cần được biết. Cô quay lại nhìn gã, gắng nặn ra một nụ cười gượng gạo. “Anh nói đúng”, cô nói. “Thú nhận sẽ khiến tâm hồn thanh thản”. “Em không phải gánh trách nhiệm”, gã bảo cô, tự hỏi gã được cho phép nói bao nhiêu. “Là thằng khốn đó”. “Ừm, hắn đã phải trả giá cho những việc làm của mình. Hắn đã chết được gần hai năm rồi. Tôi phải gây dựng lại Angel Falls từ những thiệt hại tôi gây nên”. “Thiệt hại hắn đã gây nên”. Cô nhún vai. “Sao cũng được. Chẳng gì có thể thay đổi nữa”. “Em có thể kiện công ty của hắn. Hắn hẳn đã để lại một đống...” “Không được”. Gã không muốn hỏi. Gã nghĩ mình đã nghe nhiều hơn những gì có thể chịu đựng. Không hiểu sao gã
lại cho rằng chuyện này sẽ tệ hơn tất cả. Gã cố gắng đi về phía cửa, nhưng đôi chân gã như bị cắm rễ xuống sàn nhà. “Em không thể ép bản thân đi kiện...” gã khàn giọng giả thuyết. Cô lắc đầu. “Vì thị trấn, việc gì tôi cũng có thể làm. Sau cùng, Emerson MacVey phải chịu đựng nỗi thống khổ vượt xa sự đau đớn. Nhưng công ty của hắn không giá trị”. “Không giá trị?” Gã lặp lại. “Mọi thứ được cân bằng một cách tinh vi. Với cái chết của hắn, tất cả sụp đổ như lâu đài dựng từ những quân bài. Chỉ còn lại vừa đủ cho một lễ tang tử tế”. “Làm sao em biết?” “Tôi đã từng làm việc cho hắn, anh nhớ chứ. Một đồng nghiệp cũ đã gọi và kể cho tôi. Chị ta rất chua chát. Chị ta nói đã phải chịu đựng tên khốn ấy tám năm để rồi hắn lăn đùng ra chết, bỏ lại chị ta với hai bàn tay trắng”. Megan, Gabriel nghĩ, ký ức lóe lên bất chợt. “Bởi vậy nhiệm vụ của em là vực dậy thị trấn mà hắn đã phá hủy?” Cô lắc đầu. “Tôi không còn nghĩ mình là Chúa trời thêm nữa. Nhiệm vụ của tôi là cải thiện mọi thứ, miễn còn trong khả năng. Cũng không có gì mà”. “Đồng thời tự đầy đọa bản thân”. “Tôi không đầy đọa bản thân”. Gã không muốn tranh cãi với cô nữa. Cô đã kể cho gã nhiều hơn những gì gã sẵn sàng nghe. Gã cảm giác mình hệt như lão già Scrooge trong truyện Giáng sinh yêu thương [1] , nhìn những phù thủy xương xẩu tranh cãi trên khăn trải giường của gã sau khi gã chết. Gã chết với không xu dính túi. Một cái kết xứng đáng cho kẻ chỉ quan tâm đến tiền tài và quyền lực. [1] Nguyên tác: A Christmas Carol , bộ ti ể u thu yết c ủa C harles Dickens xuất bản năm 1843. “ Tôi sẽ quay lại và l ấ y thức ăn ra khỏi xe ” , gã nói. “Trời đang lạnh hơn, chúng ta không muốn những món đồ đó đều đóng băng”. “Anh không cần…” “Tôi cần”, gã cáu kỉnh. “Em cứ cuốn chăn trên sô-pha với một tách trà, tôi sẽ trở lại trong vài phút”. Cô liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. “Tuyết đang rơi”. “Lúc nào tuyết chả rơi. Ngồi xu ốn g đi ” . *** Cô đợi cho đ ến khi nhìn thấy anh lê từng bước xu ố ng l ối lái xe qua cơn mưa tuyết, rồi buông một hơi th ở sâu, hơi th ở cô không hề nhận ra đã nín suốt nãy giờ. Hai mắt cô nhức nhối, trái tim cô quặn đau, và cô tự nhủ mình chỉ đang có dấu hiệu bị cúm mà thôi. Và cô tự nhủ Gabriel Falconi ảnh hưởng đến cô vượt xa mức đáng lo ngại rất nhiều. Ấm đun nước reo lên ngay khi cô định buông xuôi theo nỗi thương tiếc bản thân. Cô thẳng vai, tự làm cho mình một tách trà vị cam, khuấy mật ong nhiều hơn bình thường và thu mình lại trên chiếc sô-pha trong phòng khách. Anh đã sửa lò sưởi rất tốt, hơi nóng vẫn đang ngập tràn cả căn phòng, nhưng dù vậy cô vẫn kéo chăn quanh người, để bao bọc thêm độ ấm. Cô cần thứ gì đó ôm lấy bản thân, thứ gì đó giữ cho cô an toàn. Cô sẽ đ ể cho Gabriel đi. Lars hoặc Steve có th ể tìm được công việc cho anh. Cô không thể để anh trong nhà cô, không thể để đôi mắt đen huyền, ám ảnh ấy nhìn cô. Cô không thể để anh đặt đôi bàn tay thanh tú tuyệt đẹp ấy lên người cô, để anh hôn cô với chiếc miệng rộng đầy nam tính ấy. Cô không thể mặc bản thân bị giam cầm trong vòng tay anh để rồi có thể cảm nhận được nhịp đập trái tim anh, nhu cầu của anh, thứ nhu cầu hoàn toàn tương xứng với chính cô. Cô đã từng yêu một người đàn ông, và rồi không chỉ hủy hoại tương lai của mình mà còn hủy hoại cả thị trấn vì giây phút ngô nghê vội vàng ấy. Giờ cô đang đứng trên miệng vực trước khi ngã lòng trước tình yêu lần nữa, với một người đàn ông sẽ rời đi trong năm mới, và không hiểu sao lại mang cảm giác giống hệt với kẻ cô đã từng yêu. Không thể tìm được ở ai nhiều khác biệt hơn giữa Gabriel Falconi và Emerson MacVey. Một người là thiên thần thời Phục hưng lộng lẫy, và người kia là quý tộc trẻ trung và tham vọng. Một người cao, mạnh mẽ và duyên dáng, còn người kia lại gầy gò, thanh mảnh và câu nệ. Một người thuộc tầng lớp bình dân, người kia thuộc về thế giới thượng lưu. Một
người làm việc bằng đôi tay và cơ thể của mình, người kia chưa bao giờ có một ngày làm ăn lương thiện. Quá khác biệt nhưng vẫn có điểm tương đồng. Tương đồng ở một tâm hồn lạc lõng, ẩn giấu bên dưới hai đôi mắt khác hẳn nhau. Tương đồng ở nỗi khát khao khơi gợi trong cô, nỗi khát khao bùng cháy trong trái tim cô. Nỗi khát khao mà cô muốn phủ nhận. Cô uống ngụm trà nóng, lắng nghe tiếng gió gào thét quanh ngôi nhà nhỏ, làm những tấm cửa sổ cần trám lại rung lên lạch cạch, va đập vào phần kè đang rất cần gia cố. Nhưng cô sẽ phải tự mình làm những việc đó. Cô nghe thấy tiếng anh trở lại, bước vào trong bếp, chất những túi hàng lên chiếc bàn tròn bằng gỗ sồi. Cô biết mình nên đứng dậy và giúp anh, đối diện với anh, nhưng cô vẫn cứ ngồi yên, quá mệt mỏi, quá khoan khoái, nên không buồn di chuyển. Cô hẳn đang lơ mơ ngủ. Cô nghe thấy tiếng Steve trong nhà bếp, cằn nhằn về chiếc xe yêu quý của cô. “Tai nạn thứ hai trong chưa đầy một tuần thế này hả Gabriel”, ông ta làu bàu. “Cậu ước được chết hay sao đây?” “Không hẳn”, anh đáp. “Phanh xe bị hỏng. Ông có thể sửa không?” “Không vấn đề. Tôi sẽ kéo nó vào thị trấn để xử lý. Cậu không vội lấy xe của cậu chứ?” Một khoảng lặng xuất hiện, và hóa ra Carrie vẫn còn đủ sức để tự hỏi anh sẽ trả lời ra sao. Anh muốn rời đi, đột nhiên cô chắc chắn điều đó. Anh muốn rời khỏi Angel Falls cũng như cô muốn anh đi vậy. “Không vội”, anh cuối cùng lên tiếng, giọng cam chịu. Cô nên đứng dậy và nói với Steve chiếc xe của cô có thể chờ. Gabriel đã mang cho cô thức ăn đủ để cung cấp cho cả quân đội Nga, cô không cần phải đi vào thị trấn trong nhiều ngày. Nhưng cô không thể. Cô gần như không mở nổi mắt. Cô vẫn nhận biết thời điểm Steve ra về lẫn thời điểm Gabriel quay vào bên trong. Cô không thiếp đi, nhưng cô định sẽ giả vờ như thế. Anh cho thêm củi vào lò, trước khi bước đến đứng ngay phía sau cô. Cô không muốn mở mắt, nhưng bỗng nhiên không thể kháng cự. Cô muốn đọc được những biểu cảm trên gương mặt anh. Nhưng điều đó là lãng phí thời gian. Anh rất giỏi che giấu cảm xúc, một điểm chung nho nhỏ với Emerson MacVey. “Em cần ăn”, anh cộc cằn nói. “Tôi sẽ ăn”. “Tôi cần quay lại thị trân”. “ Tôi hiểu ” . Anh không di chuy ể n. Anh muốn chạm vào cô, cô biết. Cô cũng muốn anh chạm vào cô. Nhưng anh sẽ không làm thế. “Tôi có vài việc phải làm”, anh nói. “Tôi không nghĩ có thể đến đây trong vài ngày tới”. Nỗi thất vọng lẫn sự nhẹ nhõm lướt qua cô. “ Th ế cũng tốt. Mấy ngày nữa tôi sẽ rất bận. Những việc kia nếu có thể thì để đến mùa xuân cũng được”. Anh biết tình trạng hư hại cũng như cô, biết rằng không thể chờ thêm. “ Ý đó cũng được đấy”, anh đồng ý, bước xa khỏi cô. “Giữ gìn sức khỏe nhé”. Anh đang nói lời từ biệt. Dù vô lý nhưng cô biết và cảm nhận nỗi đau buồn dữ dội sâu trong mình. Nhưng cô không thể cản anh, không thể vươn tay chạm vào anh, giữ anh ở lại. Và rồi anh đi. Cô nghe thấy tiếng động cơ từ chiếc xe tải cũ của Lars khi anh lái, và chẳng còn lại gì ngoài sự im lặng bị phá vỡ bởi âm thanh của mưa tuyết đánh lên những khung cửa sổ vẫn nằm nguyên đó nhiều năm trong ngôi nhà của bà cô, của âm thanh cháy lách tách từ khúc gỗ già trong lò sưởi cũ. Cô đã hứa với anh là cô sẽ ăn. Cô cố dậy và bần thần đi vào bếp, kéo lê chiếc chăn đằng sau. Anh xếp thức ăn đâu ra đấy, người đàn ông ngăn nắp đầu tiên cô từng gặp trong đời. Không, là thứ hai. Emerson MaVey cũng là một người ưa gọn gàng. Ấy vậy mà cô từng cho đó là một thói quen xấu. Cô không đủ sức để tự đun một ít súp, nên mở một hộp sữa chua vị dâu, và dựa người vào cánh cửa tủ lạnh và cố nuốt nó xuống. Những ngày này tất cả mọi thứ đều có vị lạ lẫm, điều vô cùng hợp lý. Bởi đồng nghĩa với việc cô càng ít hứng thú với thức ăn, thì cô càng có thể dồn thêm ít tiền vào những thứ quan trọng hơn. Cô quá rã rời. Cô dùng chút sức lực cuối cùng để gọi điện đến nhà Swensen. Maggie trả
lời điện thoại, nghe có vẻ lo lắng, và lúc ấy Carrie mới nhớ ra hôm nay là ngày Lars vào rừng, làm việc trong khu khai thác nguy hiểm của Hunsicker. Cô ước có thể an ủi Maggie, nhưng lúc này cô cần giữ tất cả những an ủi đó để tự xoa dịu cho chính bản thân. “Cố giữ Gabriel không đến đây trong vài ngày chị nhé”, cô cố gắng nói. “ Tại sao... ” “ Tin em đi, Maggie. Như thế là tốt nhất ” . Cô trông mong vào lòng trung thành của Maggie. Maggie sẽ làm bất cứ việc gì cho cô, kèm theo rất nhiều câu hỏi, đương nhiên, nhưng chị ấ y cũng luôn chấp nhận việc không có câu trả lời. Giống như hôm nay. “Lars có lên kế hoạch cho công việc chiều nay. Có lẽ Gabriel sẽ giúp ” . “Thế thì tuyệt quá”, Carrie gắng hết sức nói. “Em ổn chưa? Nghe có vẻ như em không khỏe lắm”. “Chỉ mệt thôi, chị Maggie. Em chỉ cần nghỉ ngơi vài ngày. Em sẽ gặp lại chị vào sáng chủ nhật”. “Carrie này, em có chắc...? ” “ Không phải em đã bảo sẽ gọi chị ngay khi cần c ò n gì? ” Phải gom toàn bộ năng lượng sắp cạn kiệt giọng Carrie mới nghe có vẻ thực sự tự nhiên. “Ừ”. “Giữ cho anh ấy bận rộn nhé, chị Maggie”, cô thì thào “Em sẽ ổn thôi”. Cô không thuyết phục được Maggie, và cô không thuyết phục được bản thân. Cô chỉ cần nghỉ ngơi một chút. Cô quay lại phòng khách, ngồi xuống ghế sô-pha. Căn phòng quá nóng, nhưng không hiểu sao cô có cảm giác lạnh. Cô rúc vào chăn, tìm kiếm điều gì đó vừa bị lái xa khỏi cô, quay trở về nhà Swensen ở thị trấn Angel Falls. Hai mí mắt cô nặng trĩu, các khớp xương đau nhức, ngự c như bị thiêu đốt, đến răng cô c ũ ng có cảm giác đau. Cô nhận ra trước lúc cơn buồn ngủ chiến thắng cô, rằng cô ốm rồi. Thật phiền phức, cô uể oải nghĩ. Cũng may cô đã nói chuyện với Maggie, để gạt bỏ được Gabriel. Cô có th ể tự chăm sóc bản thân. Đ â y đơn giản ch ỉ là một cơn sốt. Một triệu chứng cảm cúm. Chẳng có gì lạ khi cô tự tưởng tượng mình phải lòng người lạ mặt đẹp trai mới xuất hiện. Chẳng có gì lạ khi cô bắt đầu nhìn thấy Emerson MacVey trong anh, khi hai người khác biệt như đêm với ngày. Cô cần thả lỏng, cần nghỉ ngơi và yên tĩnh. Trong vài ngày nữa cô sẽ lại là cô của ngày xưa, tràn đầy năng lượng, tràn đầy lòng trắc ẩn và không còn vết tích của thèm muốn khát khao về một thứ chỉ đem lại toàn đau đớn cho cô. Vài ngày nữa, rồi mọi việc sẽ ổn. Chương 11 Vậy là gã đã cứu mạng cô. Tại sao như thế vẫn chưa đủ? Nếu cô lái xe trong khi phanh bị hỏng, rõ ràng cô sẽ kết thúc với cú đâm vào lùm cây. Thế nên gã phải lo lắng cho trọng trách đầu tiên của gã, không phải sao? Tại sao gã lại có cảm giác gã vẫn chưa xong với Carrie Alexander? Có lẽ l à do gã không mu ốn th ế. Gabriel c ẩ n thận cho chi ế c xe t ả i của Lars lên con dốc đóng b ă ng vào nhà, đỗ vào bãi để xe và tắt máy. T rời nh á nhem t ối . Qua những khung cửa s ổ sáng rọi của n gôi nhà ki ể u Victoria cũ, gã có thể nhìn th ấ y cả gia đ ì nh h ọ đang quây qu ầ n h ố i h ả , tất cả đều tràn đầy n ăng lượng và sức s ố ng. Một cuộc đ ờ i gã ch ỉ c ó th ể đóng vai khán giả. Thật kỳ lạ. Khi gã còn s ố ng gã không h ề quan tâm về những kỳ ngh ỉ , v ề gia đình và bạn bè. Ch a mẹ gã đã ly hôn và tái h ô n quá nhi ề u l ầ n đ ế n m ứ c gã gần như lạc mất dấu v ế t ai mới thực sự là người tạo ra gã ba mươi hai năm trướ c. Gã đã ngồi xem hết tất cả những bộ phim sướt mướt v ề Giáng sinh, lắng nghe tất cả các bài hát Giáng sinh ngọt ngào, và chưa bao giờ quan tâm đến nó. Bây giờ thì ngược lại. Gã mu ố n sự ấ m áp, mu ố n gia đình. Gã muốn những chiếc bánh quế cuộn đầy bơ tan chảy, chứ không phải những món ăn Pháp cầu kỳ. Gã muốn bia Mỹ, chứ không phải rượu Pháp. Gã muốn bạn bè và gia
đình, gã muốn cuộc sống. Gã muốn quan hệ tình dục. Và gã muốn tình yêu. Có ba cuộc đời bị gã hủy hoại. Carrie Alexander là số một , và gã nên cảm thấy đã được bào ch ữ a xong. Gã đã cứu sống cô, mắng mỏ cô vì những sai l ầ m trong cách tự đ ối xử với b ả n thân và cũng vì thế gã đã nhanh chóng bị trục xuất khỏi đây. Từ giờ trách nhiệm của gã đã hết. Gã sẽ quên được cô, quên đôi mắt xanh dương sáng rực, mái tóc vàng óng, đôi môi mềm ngọt ngào cùng c ơ th ể m ả nh dẻ cần ăn th ê m thật nhiều mỳ và bánh. Quên đi khao khát lại được chạm vào cô nhiều biết chừng nào. Đã quá rõ ràng cho gã về người thứ hai. Gã đã phá h ủ y cuộc sống của toàn bộ người dân Angel Falls, thành c ô ng ngoài sức tưởng tượng với một kẻ tham vọng và hời hợt như gã. Augusta không mong gã sẽ giúp đ ỡ tất cả mọi người, nhưng gã hơi h ồ nghi lý do sống cùng Lars Sw ensen. N ế u gã có thể giúp ích cho gia đình Swensen, sửa lại phần nào sai lầm gã gây ra cho Lars, thì có lẽ g ã đ ã sẵn sàng đi tiếp. Còn người thứ ba vẫn mờ mịt trước gã, song thời điểm này gã cũng không thực sự quan tâm. Gã mệt mỏi, vẫn bàng hoàng bởi lần thoát hiểm tích tắc trong đ ố ng sắt được gọi là xe của Carrie, và căng th ẳ ng lấn át ham muốn thể xác từ nỗi tuyệt vọng mà ra. Gã muốn lên phòng, khóa cửa và đ ấ m thẳng vào tường. Nhưng kỳ hạn một tháng không cho phép gã lãng phí thời gian. Lúc gã bước vào hơi ấ m và ánh sáng của căn bếp cũ, Carrie bé ngước nhìn gã với nụ cười rạng rỡ, chưa có răng, Lars vỗ vào lưng gã, và ngay cả gương mặt phiền muộn của Maggie cũng ấ m lên trước sự hiện d iện của gã. Bất giác gã muốn hét vào mặt họ. Bọn họ thật ngu ngốc khi ngay từ đầu lại tin kẻ đã đẩy bọn họ đến bước đường cùng. Nhưng gã không thể thốt thành lời, gã phát hiện ra rằng bất cứ khi nào gã cố gắng nói với ai sự thật thì gã đ ề u phải kết thúc trong câm lặng. Gã cũng không chắc mình là ai và là cái thứ gì nữa. Gabriel Falconi đã chiếm cứ hoàn toàn, Emerson MacYey đang nhòa đi nhanh chóng, giống ph ầ n hi ể u biết còn lại về MacVey, gã không thể khóc thương cho kẻ đó n ữ a . Tên kh ố n lạnh lùng, nhẫn tâm, tốt hơn h ế t không n ên sống trên đời. Từ những điều ít ỏ i gã được chứng kiến lúc quay tr ở l ạ i trái đất, gã không còn x ứ ng với thi ê n đ ườn g . “ Tôi cần cậu giúp, Gabriel”, giọng Lars oang oang ở đầu chiếc bàn rẻ ti ề n. Thấy cốc cà phê không rời trong bàn tay to lớn của Lars, Gabriel cũng máy móc cảm ơ n khi nhận m ột c ố c từ Maggie. “Tôi đang làm một tay vịn c ầ u thang bằng gỗ gụ cần hoàn thành trước lễ Giáng sinh. Tôi k hông biết Carrie đã trả cậu bao nhiêu, nhưng n ế u cậu muố n giúp tôi một tay...” “Vài ngày tới Carrie không cần tôi làm việc ở chỗ cô ấy” gã nói, tự hỏi đó có phải một lời nói dối hay không.Gã có cảm giác, hẳn một phần cũng do khát khao của gã , rằng cô thực sự rất cần gã. “Tôi rất vui lòng được giúp đỡ”. “Đương nhiên tôi sẽ trả công cho cậu”, Lars cẩn thận nói. “Tôi không chắc lúc này có nhiều…” “Cứ trả tôi khi anh được người ta thanh toán”, Gabriel thoải mái đáp. “Giờ tôi đã có tất cả những gì tôi cần. Một nơi ấm áp để sống, những món ăn ngon, những người bạn...” Câu nói thoát ra khỏi miệng khiến gã sững người, nhưng may thay Lars quá nhẹ nhõm để chú ý đến bi ế n đổi nơi gã. Gã chưa bao giờ nghĩ gã lại có bạn bè. “Chúng ta sẽ làm việc cùng nhau”, Lars nói. “Tôi ước cậu có th ể đ ồ ng ý ở lại đây đến năm mới. Tôi đang định kinh doanh tay vịn cầu thang, và nếu chúng ta may mắn, chúng ta phần nào cũng làm nên chuyện với nó”. “ May mắn ”, Maggie nói với ti ế ng cười từ bên lò sư ở i.” Phép màu từ lễ Giáng sinh thì có v ẻ giống hơn”. C ả m
ơn bà, Augusta, Gabriel thầm lặng cảm ơn. “Các phép màu được biết đến để tr ở thành hiện thực”, gã u ốn g nốt phần cà phê đậm đặc và thắc mắc sao trước đây gã chỉ thích u ốn g trà. Những ngày tiếp theo gã thậm chí không nghĩ t ớ i Carrie. Í t nhất c ũ ng không nhiều hơn một, hai lần mỗi giờ. Và tất cả những đêm dài, trong gi ấ c mơ, khi t ỉ nh, hay l ơ mơ thiếp đi lúc nào không hay của gã. Thay vào đó gã tập trung đẽo phần đường cong kéo dài của tay vịn c ầ u thang, những thanh trụ khắc tay nằm la liệt không còn kho ả ng tr ố ng trong xưởng của Lars. Và gã cũng tập trung vào phép màu Giáng sinh của gã. Sau cùng gã sợ hãi sẽ lãng phí nó. Alexander Borodin là một triệu phú, một nhà tư bản, nhà bảo trợ nghệ thuật luôn tìm ki ế m các tài năng. Trong m ắ t Emerson MacVey, ông ta hệt một lão già ngu ngốc đ a cảm khi nghiện làm cái đám việc cổ lỗ. Borodi n chuyên đi phục ch ế các tòa dinh thự lâu năm với đ ồ trang trí gỗ tinh t ế, trong khi crôm và thép mới là sự ưa thích của MacVey. Nhưng Borodin có mạng lưới khắp th ế giới, ông ta sẽ nhìn thấy vẻ đẹp hiếm thấy trong tác phẩm c ủ a Lars, và ông ta có thể dễ dàng trả món hoa h ồ ng k ế ch sù giúp gia đình S w ensen sung sướng bước vào m ộ t thời kỳ hoàng kim đ ầ y hứa hẹn. Điều cu ối cùng Emerson nghe được là ô ng ta đang đầu tư một chu ỗ i các khách sạ n đ ộc đáo trên khắp thế giới, sửa chữa vài lâu đài nhỏ cùng những khu nhà x ây dựng theo ki ể u điền trang đang xu ố ng cấp. Tài năng của Lars sẽ là vô giá. Nh ư ng liên hệ với Borodin để thuyết phục ông ta không đơn giản. Alexander Borodin không phải kiểu người dễ gặp, phải vất vả lội qua cả đám thư ký, trợ lý, các phó chủ tịch và các nhà quản lý, và mỗi người lại có những lý do vô cùng cứng rắn ngăn chặn mong muốn nói chuyện với ông ta. Có một cái tên sẽ khai thông đường dây ngay lập tức, nhưng Gabriel không thể nói ra. Song cũng không m ấ y khác biệt. Bởi sẽ chẳng ai chịu tin gã. Ba ngày cố gắng liên lạc với ông ta là ba ngày các hóa đ ơ n điện thoại chạy dài có thể sánh với nợ quốc gia. Ba ngày cắm chốt bên điện thoại, Gabriel nhắm mắt, tập trung vào gương mặt nghiêm nghị của Augusta, lặng lẽ th ỉ nh cầu. Một lát sau giọng nói đầy trọng âm của Alexander Borodin đã vang lên đầu dây bên kia. “Tôi biết cậu đang cố liên lạc với tôi, chàng trai trẻ. Tôi có thể làm gì cho cậu?” Sau đó mọi chuyện dần tr ở nên đơn gi ả n. Không cần dùng đến phép màu nào, Gabriel phát hiện ông ta là rất thận trọng trong quá trình đàm ph á n, và B o ro d in cũng không mất nhiều thời gian để có cái nhìn chính xác với một trong các thành ph ẩ m của Lars. Lars có một chiếc máy ảnh cũ, Angel Fa ll s cũng có dịch vụ r ử a ảnh l ấ y ngay và dịch vụ chuy ể n phát nhanh đã có bưu điện Mỹ cung c ấ p. Thành công k ể như đã thành hiện thực. Xong hai người, Gabriel nghĩ, không biết gã có nên đi gặp Gertrude không. Vài ngày trước gã kiên trì tránh bà ta, chưa sẵn sàng nhìn thẳng vào cặp kính dày cộp khi thừa biết sức mạnh của một kẻ trường sinh lạnh lùng nằm bên dưới chúng. Dù sớm hay muộn gã sẽ phải đối mặt với bà ta. Còn lúc này, gã vừa lòng với việc giữ khoảng cách. Cũng kỳ quái, một người gã đã quên, ngoài Carrie, là Jeffie. Sau cuộc trò chuyện ngắn ngủi trong c ử a hàng, gã muốn gọi điện và nói chuyện với thằng bé, nhưng không tìm ra lý do nào hợp lý. Và Jeffie, người có vẻ từng hay cà kê ở nhà Swensen, đang đến thưa dần một cách đáng lo ngại. Chắc thằng bé đang hờn d ỗi sau khi bị bắt gặp định ăn cắp vặt, Gabriel nghĩ, nhưng gã không tin. Không hi ể u sao Jeff i e luôn đón nhận những chỉ trích từ gã với vẻ cảm động khá th ố ng thiết. Không một nét sưng s ỉ a thách thức như mong đ ợ i, mà chỉ là cái
nhìn tội lỗi và kh ổ sờ gần như làm tan vỡ trái tim Gabriel. “G ầ n đ â y cháu có gặp Jeffie không?” Một hô m g ã thu hết can đ ả m hỏi N ils b ằ ng giọng thật tự nhiên. Nils nhún vai. “Cháu th ấ y anh ấ y ở trường ngày h ôm trước. Anh ấy vẫn ổ n, cháu nghĩ thế. Cháu h ỏ i có muốn đến làm việc trong xưởng không, nhưng anh ấy b ả o không. Anh ấy nói chẳng có ai đ ể làm quà tặng cho nữa”. “Đứa bé tội nghiệp”, Maggie lẩm bẩm. “Lars, anh nên đi xem thằng bé thế nào”. Lars đặt giấy tờ của mình xuống. “Sau lễ nhà thờ Chủ nhật nhé, Maggie”, anh đồng ý “Chúng ta sẽ mời thằng bé đến ăn trưa, và sẽ không chấp nhận từ 'không' cho câu tr ả lời. Như vậy nó sẽ có cơ hội nói chuyện với Gabe. Nó nghĩ cậu như một dạng anh hùng”, anh vừa nói vừa cười khoái trá. Gabriel biết nên phản đ ối , nhưng lại gật đầu, xua luôn linh tính đầy điềm gở cực kỳ vô lý. Ngày lại ngày trôi qua, không một tin tức từ Carrie. Gabriel làm việc trong xưởng cạnh Lars và tự nhủ công vi ệc của gã đã hoàn thành. Gã không có lý do để gặp lại cô, k hông có lý do để nói chuyện với cô, để chạm vào cô. G ã đã cứu sống cô. Chắc chắn giờ mọi thứ đã được cân bằng. Và dù Boro d in chưa liên lạc, Gabriel vẫn tin chuyện đó sẽ ổn . Phải là một thằng ngốc m ớ i không nhìn th ấy tài năng trong tác phẩm c ủ a Lars, và Boro d in chưa bao giờ là mộ t thằ ng ng ố c. Mãi đến tận Ch ủ nhật Gabriel mới bắt đ ầ u thừa nhận sự bất an vẫn đang gặm nh ấm gã. Bất an c ũ ng hiện trên gương mặt Lars. Ca rr ie kh ô ng đến nhà thờ. “Đừng bảo với tôi cô ấ y chưa bỏ lỡ một buổi lễ nào” gã nói, không tin n ổ i khi bọn họ bước xuống những bậc thang phủ đầy tuyết. Kristin nắm chặt tay gã, việc gã từng thà chết cũng không chịu làm. “Sẽ không nếu con bé có thể thu xếp. Và không phải trong su ốt kỳ đón Giáng sinh”, Maggie nói. “Carrie sống vì lễ Giáng sinh. Tôi sẽ đến nhà con bé ngay khi chúng ta về đ ế n nhà”. “Tôi sẽ đi”, Gabriel quả quyết. Maggie nhìn cân nhắc gã thật lâu, vẻ mặt đ ầ y băn khoăn. “Tôi không nghĩ…” Một giọng nói khác vọng đến từ ngay sau l ư ng g ã. “Để Gabriel đi đi”. Gabriel đông c ứng. Gã đã c ố tránh Gertrude, nhắc b ả n thân chưa sẵn sàng đ ể đụng độ với bà ta. Gã nên biết chuyện này không thuộc quyền quyết định ở gã. Gã quay lại và nhìn dáng hình của một người phụ nữ lớn tuổi thanh m ả nh lưng còng, nhìn cặp kính dày như hai đít chai che đi đôi mắt quá mức sắc sảo, nhìn vào nét hi ề n hòa phủ trên gương mặt như luôn chỉ trích và phán xét của bà ta. “Cô ấ y ổn chứ?” Gã sắc nhọn hỏi. “Ta không biết, chàng trai tr ẻ ạ ” , Gertrude ngọt ngào nói. “Ta chỉ là một b à m ối tận tâm chút thôi” “ Đ i đi”, Lars nói, vỗ bàn tay to lớn vào lưng gã. “L ấ y chiếc xe tải, và gọi đi ệ n cho chúng tôi khi cậu tới nơi. Maggie sẽ mang một ít thức ăn trưa đ ến cho hai người”. Gã không do dự nữa. Vài ngày qua trời tr ở rét, gió từ Ca nada th ổi xu ố ng lạnh thấu xư ơn g. Tuyết ngập khắp các con đường, bao phủ như lớp cát. Gã lái quá nhanh đến n gôi nhà hư hại của Carrie, suốt dọc đường đều tự nhủ là mìn h đang lo lắng ngớ ngẩn. Gã nên để Maggie đi, hay ít ra đ ề nghị Maggie gọi một cuộc điện thoại, còn gã nên chuy ên tâm tìm kiếm linh hồn thứ ba. Gã đã xong với C arrie rồi, mẹ kiếp! Gã đã cố gắng ch ố ng cự cám dỗ, cố gắn g không tiếp tục hôn cô. Gã đã cứu mạng cô, hai người bọn họ chẳng phải đã sòng phẳng rồi sao? Dự c ả m x ấ u của gã tăng lên g ấ p ba vào khoảnh kh ắ c ngôi nhà hiện lên trong tầm mắt. Chiếc xe của Carrie đ ỗ ngay b ê n ngoài, Steve hẳn đã sửa và mang nó lại đây. Nh ưng ng ô i nhà tối đen như mực, và
như bị bỏ hoang .T hậm ch í không hề thấy có khói lò sưởi bay lên. Gã biết chắc Carrie không có nguồn dự trữ nhiệt năng nào h ế t . T ấ t cả những gì cô có là cái lò sưởi củi đ ố t trời đánh tro ng phòng khách. Và trong một ngày lạnh lẽo tháng Mười hai nếu không có khói bay lên nghĩa là không có chút hơi ấ m nào trong nhà. Gã cho xe lao rầm rầm vào bãi đỗ r ồ i nhảy ra ngoài. Cô khóa cửa trước nhà, nhưng n ỗ i sợ hãi trong g ã leo thang khiến gã bồn chồn và gã đã dùng sức mạnh đ ậ p vào khung cửa gỗ khiến nó long lên sòng sọc. “Carrie!” Gã hét toáng lên. Không có tiếng trả lời. C ă n bếp nhỏ ấm cúng giờ lạnh như băng. Gã đóng sập cánh cửa, nhưng nó bật m ở trở lại, luồng gió lạnh lùa vào. Gã tóm lấy cái ghế và chặn cánh cửa, r ồ i chạy hết tốc lực vào phòng khách. Nếu gã còn mười năm tuổi thọ, gã sẽ đánh đổi cả mười năm đó chỉ để nhìn thấy cô. Cô đang nằm trên ghế sô-pha, im lìm và lạnh lẽo, cu ốn mình trong những tấm mền c ũ kỹ, với lò sưởi chạy điện y ế u ớt gần như chỉ tỏa một khoảng hơi nóng bằng một thìa cà phê trong cả căn phòng buốt lạnh. Trong giây lát gã đông cứng, gần như chắc chắn cô đã chết. Rồi gã nghe thấy hơi th ở khò khè của cô. Gã giận d ữ chửi tục bằng ti ế ng Ý. Gã thậm chí không mất thời gian ngạc nhiên khi xông qua căn phòng và qu ỳ xuống bên cạnh thân hình đã bất t ỉ nh của Carrie. Cô nóng bừng vì cơn s ố t, và hơi cựa quậy dưới tay gã, đôi môi nứt n ẻ l ẩ m b ẩ m đi ề u gì đó gã không nghe rõ. Hộp đựng củi rỗng không, và rõ ràng cô ố m đến m ứ c không thể l ấ y th ê m củi cho vào lò. Cơn thịnh nộ lập tức l ẩ n khuất vào nơi nào đó lạnh lẽo tăm t ố i và gã đứng lê n hành động. Gã m ấ t mười giây và một câu ng ắ n gọn để nhờ Lars t ì m bác sĩ, rồi tập trung vào hộp chứa củi. Lúc những chiếc xe đến nơi gã đang cố gắng nhóm lửa cháy phừng phừng, khiến nhiệt độ ngôi nhà tăng thêm gần mười ba độ. Nhưng Carrie vẫn không nhúc nhích. Gã kh ôn g quen người đàn ông đang đi vội vàng cùng Maggie, nh ư ng chiếc túi đen của ông ta đã tạo phép màu thầ n kỳ cho tình trạng sợ hãi mất kiểm soát của gã. “Bác sĩ Bro w ning”, Maggie nhanh chóng nhỏ giọng giới thiệu. “Đây là Gabriel. Con bé đâu?” “Trong phòng khách. Tôi nghĩ cô ấ y bị viêm phổi”. Bác sĩ Browning, người đàn ông lớn tuổi luộm thuộm, nhỏ bé với đôi lông mày dài như hai búi cỏ, nhìn gã với vẻ bất ngờ. “Dù chưa thấy cô ấ y, tôi cũng phần nào chắc ch ắ n cậu đúng”, ông ta nói. “Tôi đã cảnh báo rồi mà” . Ô ng ta bắt đầu bước vào phòng khách, l ẩ m bẩm khe khẽ. ” C ô ấy cần được ti ế p nước. Pha chút trà đi ” . “ Các đường ố ng trong nhà bị đóng băng”, Gabriel n ghi ê m túc nói. “Tôi sẽ xem có thể làm gì”. Nư ớ c c ũ ng đóng đá trên chiếc ấ m đặt trên bếp ga. Gã bật tất cả đèn lên, hy vọng tạo th ê m chút ít hơi ấm cho ngôi nhà băng giá, rồi quay trở lại phòng khách. Gã d ừ ng lại bên khung cửa. Bác sĩ Bro w ning đang ngồi trên s ô-pha bên cạnh Carrie, lắng nghe nhịp th ở của cô. Ông ta đã c ở i áo cô, Gabriel có thể nhìn thấy làn da trắng nhợt, đường cong mề m mại của bầu ngực, và gã bi ết chắc chắn gã s ẽ bị ném th ẳ ng xuống địa ngục khi lại đi thèm muốn một người phụ nữ đang đứng giữa sự s ốn g và cái chết. Và so với việc đứng đây bên cạnh Carrie Alexander mà không được chạm vào cô, địa ngục chẳng là gì. “Đúng là viêm phổi”, bác sĩ Browning nói, kéo áo cô xu ốn g. “Sốt rất cao, mất quá nhiều nước, và quá gầy, tôi mu ố n đưa cô ấy đến bệnh viện”. “Ông không thể, bác sĩ”, Maggie nói. “Con bé không có bảo hiểm”. “Nếu cô ấy cần đến bệnh viện… ” Gabriel nói. “Chúng ta có
thể đợi một ngày”, vị bác sĩ mệt mỏi nói. “Tôi biết Carrie ghét cay ghét đắng khi phải chịu ơn ai đó. Cô ấy sẽ không nhận đồ từ thiện, và các bệnh viện cũng không thích tặng bừa bãi. Nếu có người ở lại, cho cô ấy u ốn g thuốc, u ốn g nước, được giữ ấm, thì tôi có thể đợi một ngày. Những bệnh ki ể u này thường phản ứng với các loại kháng sinh r ấ t nhanh chóng”. “Tôi sẽ ở lại”, Maggie nói. “Lần trước chúng t ô i đã chăm sóc cho cô ấy”. “Không”, Gabriel bình tĩnh. “Tôi sẽ ở lại”. “Nhưng con bé c ầ n một người phụ nữ lo cho...” “Tôi không nghĩ cô ấy quá x ấ u hổ trong trường hợp này đâu, Maggie”, bác sĩ Bro w ning n ó i. “Và cậu Gabriel đây kh ỏ e mạnh hơn cô r ấ t nhiều. Hơn nữa, người đó cần xử lý t ì nh trạng nước nôi. Cô thì đang cho con bú, n ế u là tôi, tôi không đời nào vào một ngôi nhà đang có người bị ố m ”. Maggie đã thua, chị biết điều đó. Chị ngoan ngoãn ch ấ p nhận. “Chúng tôi sẽ mang b ữ a tối đến”, chị nói với Gabriel. “Và Lars có thế giúp giải quyết đám ố ng nước”. Gabriel gật đầu, vẫn nhìn chằm chằm cơ thể b ấ t động của Carrie. Hai gò má cô ử ng đỏ vì sốt, trong khi phần còn lại của cô như c ẩ m thạch trắng, và gã đã phải cố hết s ứ c kìm nén cơn giận cũng như nỗi sợ hãi của mình. Cô không thể chết, mẹ kiếp! Gã không buông tha cho cô. Không phải vì lo cho sự b ấ t d iệt của gã. Gã đã chấp nhận sự thật gã xứng đáng với địa ngục và chắc chắn kết cục của gã sẽ ở đó. Nhưng Carrie lại là chuyện khác. Cô chắc chắn sẽ khô ng phải dừng chân ở trạm trung chuy ể n linh hồn. Cô sẽ ở tr ê n chuy ế n tàu cao t ố c hướng thẳng đến thiên đường, còn gã sẽ không bao giờ được gặp lại cô. Thế nên tuyệt đối gã sẽ không để cô ra đi quá sớm. Bác sĩ đang lục lọi trong túi da mang theo. “ Ban đầu tôi sẽ k ê li ề u penicillin g ấ p đôi, sau đó tùy thuộc vào quá trình hồi phục mà anh theo dõi. Sáu tiếng một lần, hãy cho cô ấy uống trà th ả o dược, nước ép trái cây, và nước gừng. Tuy ệ t đối không ca f ein, nó sẽ càng làm cô ấy háo nước hơn nữa . Anh có làm được không?” Ông ta ghim cái nhìn v à o Gabriel. “Tôi làm được”. Browning gật đầu, thỏa mãn. “Rồi cái thị tr ấ n này sẽ rơi vào tình trạng chết tiệt nào khi không có tôi ở đây?” Ông ta cảm khái thốt lên. “Ông sắp đi sao?” Gabriel hỏi. “Cả thị tr ấ n đang chết dần. Tôi không đủ khả năng làm một bác sĩ cho hàng trăm con người, tôi phải đến nơi nào đó cần tôi nữa. Trong một tháng Carrie chưa bình phục, cậu phải lái xe đưa cô ấy đến phòng cấp cứu” .Ô ng ta đứng dậy, nhìn Carrie. “Chúng tôi rất vui vì ông vẫn ở đây, bác sĩ”, Maggie nói. “Quỷ tha ma bắt!” Người đàn ông già bùng nổ. “Tôi đã cảnh cáo cô ấy. Cô ấy sẽ tự giết bản thân nếu cứ tiếp tục như thế. Chẳng chịu lo lắng cho mình, không ăn uống đủ b ữ a, không ngủ đủ gi ấ c. Cô ấy đang dần kiệt sức, gầy trơ c ả xương, và ngôi nhà này gió lùa chẳng khác nào một cái nhà hoang. Không ngạc nhiên khi cô ấy bị ố m”. “Tôi sẽ để ý ngôi nhà”, Gabriel nói. “Và để ý cả cô ấy nữa”. Vị bác sĩ nhìn g ã . Rồi ông ta m ỉ m cười, một nụ cười hơi ả m đạm. “Tôi tin tưởng cậu. Đi nào, Maggie. Chúng ta đã gửi gắm cô ấy vào một đôi tay an toàn”. Gabriel không dám đảm bảo. Khi nước trong ấ m đun tan ra và bắt đ ầ u sôi thì gã đã chất c ủ i đầy vào thùng, đ ủ duy trì lò sưởi trong vài ngày. Nhiệt độ tăng lên dễ ch ịu , và gã mang chi ế c lò sưởi đi ệ n vào nhà tắm cho đám ố ng nước trước khi pha một ấm trà táo quế. Carrie đang nóng dần lên lúc gã mang cho cô một tách trà pha th ê m mật ong. Cô đã hất những t ấ m mền ra, và khẽ lẩm bẩm. Gã quỳ bên cạnh cô trên sàn, vòng tay đỡ cô
dậy, và kê miệng tách lên làn môi khô nứt của cô. Cô nh ấ p một ngụm vô thức theo bản năng, và gã c ẩ n thận để cô không bị sặc. Cô từ từ uống hết nửa tách rồi đôi mắt choàng mở, long lanh vì cơn sốt, cứ thế đăm đăm nhìn gã trong cơn s ố c không sao t i n nổi. Cô c ố gắng nói gì đó, nhưng âm thanh không hơn một ti ế ng thì thầm. Rồi cô nhắm mắt, gã đặt cô trở lại gh ế, đắp th ê m một t ấ m chăn khác lên cơ thể mong manh của cô. Nếu cô hồi phục sức khỏe tại nhà mà không c ầ n vào viện, họ sẽ cần đến nước. Gã đứng dậy, chăm chú nhìn cô, mi ễ n cưỡng rời khỏi căn phòng. Cô giờ trông đỡ hơn m ột chút, mặc dù rõ ràng chỉ là mong muốn gã. Cô sẽ không chết. Cô sẽ ngủ, một giấc ngủ dài đ ể dưỡng bệnh, trong khi gã đưa ngôi nhà trở lại hoạt động bình thường. Rồi g ã sẽ trở lại phòng khách, ng ồ i đó và nhìn cô. Chỉ nhìn cô thôi . Gã sẽ tự chiều bản thân trong niềm vui hoàn toàn vô vọng. Biết rằng chỉ còn vài tuần ít ỏi. *** Những gi ấ c mơ thật khác thường, với những sắc màu quay cuồng, rực sáng nhảy múa quanh đ ầ u cô. Ngay kh i cô đ ầ u hàng, n ỗ i sợ hãi đã rời khỏi cô, và cô trôi như một chiếc lá trong cơn gió đ ầ y thích thú và diệu kỳ, băng qua sức nóng và cái lạnh đang qu ấ n chặt quanh người trong cái kén của sự lãng quên. Và rồi họ đến, lôi kéo cô, thúc giục cô, đổ những thứ đó xuống cổ họng cô. Cô muốn đuổi t ấ t cả bọn họ đi, cho đến khi cô mở mắt và nhìn thấy anh qua làn sương trong như pha lê. Và lần đầu tiên trong nhiều năm trời, tất cả mọi thứ lại có cảm giác thật đúng đắn. Cô muốn nói chuyện với anh. Cô muốn vươn tay chạm vào anh, nhưng cô quá yếu. Cô không mở m ắ t được lâu để kinh ngạc nhìn anh. Cô cảm thấy mình đang chìm xuống, và cô cố ch ố ng lại, lo sợ anh sẽ lại bỏ cô đi. Nhưng anh sẽ không làm th ế . Cô biết với niềm tin mãnh liệt. Anh sẽ ở đây, trông nom, chăm sóc cho cô, đến lúc nào cô còn c ầ n anh. Cô không phải tranh đ ấ u th ê m nữa. Cô đã không còn cô đơn. Cô nghe tiếng anh đi lại trong căn bếp, gõ vào các ố ng nước. Cô có th ể cảm nhận anh quanh đây. Dưới hàng mi kh é p chặt c ô cũng có th ể nhìn thấy anh cho th ê m c ủ i vào lò, ph ủ th ê m những t ấ m m ề n ấm áp lên khắp căn nhà. Cô l ạ nh th ấ u xương, và anh dư ờ ng như c ả m nhận đ ượ c đi ề u đ ó . Anh quấn thêm ch ă n quanh ng ườ i cô , gạt mái tóc lòa xòa ra khỏi gương mặt cô, và cô muốn lại nhìn anh, cô muốn nói với anh rằng cô hiểu anh. Cô mu ố n bật khóc. Nh ư ng chẳng có một giọt nước mắt, cũng không có lời nào thoát ra. Cô ngủ thiếp đi với ý nghĩ anh sẽ đến với cô lúc cô cần anh nhất. Và cô sẽ không bao giờ bị cô đ ơ n nữa. Khi cô thức giấc trời đã t ố i đen. Căn phòng ấm áp, ánh đèn trong nhà bếp lan tỏa một mảng sáng nho nhỏ đến phòng khách đang bị bóng tối bao trùm. Không có âm thanh nào ngoài tiếng củi cháy lách tách, và cô thắc mắc không biết có phải cô đang ở một mình . Anh cho cô uống thuốc hai lần và rất nhiều trà, và cô biết phải vào nhà tắm, nhưng cô không dám chắc có bò vào được không. Hệ th ố ng ốn g nước bị đóng băng, cô chợt nhớ. Cô đã cố rã đông chúng, nhưng không đủ sức, cô chỉ nằm trên ghế và ho khan. Không, cô không ở một mình. Cô có thể cảm nhận được anh trong ngôi nhà, r ấ t gần. Nếu cô quay đầu lại sẽ thấy anh đang dõi theo cô. Như một thiên thần hộ mệnh, b ả o vệ cô trong khi cô chi ế n đ ấ u với bệnh tật. Miệng cô khẽ nhếch lên như một nụ cười nhẹ trước ý nghĩ ấy, và cô nghe thấy anh di chuyển, đến bên cạnh cô. Cô
biết anh đang nhìn cô qua đôi mắt nâu đen tuyệt đẹp đó. Mắt cô h ấ p háy mở và cô mỉm cười với anh, mơ m à ng, vẫn trong cơn sốt, nh ư ng thật yên bình. “Em cứ nghĩ anh đã chết rồi, Emerson”, cô thì th ầ m, rồi thi ế p đi. ** * Gabriel không c ử động nổi. Gã đang quỳ bên cạnh cô , một bàn tay nóng bỏng của cô đang nằm trong tay gã, và gã cảm giác mình đang bị đóng băng. Sự bình tĩnh rất minh mẫn hiện hữu trong đôi mắt cô. Mặc cho c ơ n sốt đang cu ồ ng đảo cả cơ thể yếu ớt, cô đã nhìn vào đôi mắt gã và nhìn gã, thấu hiểu gã. Cái ý nghĩ ấ y đập tan gã theo cái cách gã không thể lặng yên chịu đựng. Bởi gã nhận ra gã không muốn làm Emerson MacVey, không bao giờ nữa. Vì cái quái gì cô lại yêu hắn? Thằng đàn ông từng là gã trước đây là một thằng khốn mánh l ớ i và nông cạn, đã cả gan hủy diệt cả một thị trấn chỉ vì một ý thích nhất thời, cả gan lên giường một ngư ờ i phụ nữ trẻ dễ bị tổn thương. Emerson MacVey không được khóc thương khi hắn ra đi quá sớm, và Gabriel Falconi biết lý do. Hắn là kẻ nh ẫ n tâm. Hắn xứng đáng không được nhận chút lòng thương nào hết. Nhưng Carrie yêu hắn. Carrie, người có đ ủ tình yêu cho nh ữ ng người nghèo khổ, mất mát trên trái đất này, người có đủ tình yêu cho tất cả mọi người tr ừ b ả n th â n.C ô yêu hắn. Và đó chính là điều đã cứu vớt h ắ n. Gã quỳ hẳn xuố n g, đau đáu nhìn cô trong bóng đêm mờ mịt. G ã đ ã c ố để nước lưu th ô ng trở lại. Các đường ống đã b ị vỡ bên dưới bồn rửa trong bếp nhưng gã có thể rửa bát đĩa trong bồn tắm cho đến khi gã thay được chúng. Lars và Maggie mang bữa tối đến như đã hứa và ở l ại một lúc để lo cho Carrie. Và giờ chỉ còn lại hai người: gã với sự thèm muốn tội lỗi không đúng chỗ, và cô với những cơn sốt mê sảng. Cô đang run lẩy bẩy, và gã biết đó là gì. Cơn sốt của cô dần ch ấ m dứt, để leo lên mức nguy hiểm hơn, mặc tất cả những viên aspirin gã trút xu ốn g c ổ cô. Chất kháng sinh sẽ không bắt đầu có tác dụng ít nhất trong vài giờ nữa, và mọi việc gã có thể làm là ngồi đây và bất lực nhìn cô bị thiêu trong cơn sốt. Những run rẩy dần trở nên d ữ dội. Làn da cô bỏng rát, đôi m ắ t cô trợn lên, đờ đẫn, mụ mị. Cô bắt đ ầ u lẩm bẩm những từ tuyệt vọng, mất mát khiến gã đau đớn. Gã bật dậy, và cô bấu lấy gã. “Đừng”, cô thì thào giọng khản đặc. “Đừng đi nữa”. Và gã không biết cô đang nói với Gabriel, hay Emerson. Không quan trọng. “Anh sẽ trở lại ngay”, gã khẽ nói, vuốt ve trán cô. Thời gian như dài vô tận khi gã đổ đầy nư ớ c lạnh vào b ồ n t ắ m. Gã nóng vội quay lại với cô. Cô đang quẫy đạp, những tấm m ề n b ị đá xu ố ng sàn, và chi ế c áo ngủ bằng vài b ô ng mềm quấ n quanh đôi chân dài c ủa cô. Gã b ế c ô vào nhà tắ m, đặt cô vào bồn, cùng áo ng ủ và t ấ t c ả các thứ khác. Cô giật b ắ n ngư ờ i trong vòng tay g ã trước cơn sốc đến từ nước lạnh, rồi yếu ớ t rên lên m ột tiếng đau đớn, và gã cảm giác những giọt nước mắt đ ộ t nhiên đốt cháy đôi mắt gã. Gã muốn cô đỡ hơn. Gã mu ố n cô hướng đôi mắt đột nhiên trong sáng và minh mẫn lên gã và hỏi vì sao cô lại ngồi trong b ồ n tắm đầy n ướ c lạnh với chi ế c váy ngủ trên người. Gã muốn một điều kỳ diệu. “Augusta, mẹ kiếp...”, gã l ẩ m bẩm “...lạy Chúa. Tôi không quan tâm là ai. Chỉ cần chữa khỏi cho cô ấy. H ã y làm cô ấy đỡ hơn. Ngay lập tức”. Nhưng lần này chẳng có phép màu nào tức khắc x ả y ra. Đôi mắt Carrie vẫn nhắm nghiền, và cô đang khóc, co giật giữa làn nước lạnh và cơn sốt. Bỗng dưng Gabriel không th ể chịu đựng được nữa. Gã nhấc cô lên, cởi chiếc váy ướt sũng khỏi
người cô, bọc một chiếc khăn tắm dày quanh cô và bế cô trở lại phòng khách. Gã đặt cô xuống ghế sô-pha, trùm tất c ả những tâm m ề n lên người cô. Khi cô rơi trở lại vào trạng thái lơ mơ ngủ, gã vồ lấy áo khoác rồi hướng thẳng về phía cửa. Gã sẽ bảo Maggie đến đây, gã nh ủ th ầ m khi b ầ u không khí bu ố t giá của màn đêm khoan vào hai lá ph ổ i. Hoặc Lars có thể lái xe đưa cô đến bệnh viện, và Gabriel có thể dùng cái thẻ tín dụng tuyệt vời không bao giờ ph ả i thanh toán. Gã ph ả i tránh xa khỏi cô, gã không thể giúp c ô , không thể cứu cô, và không thể sống với tội l ỗ i kh i chỉ biết nhìn c ô vật lộn với từng hơi th ở . Gã giật tung cánh cửa xe tải, trèo lên. Gã phải đi, phải chạy tr ố n , giống như thằng hèn khốn kiếp trong quá khứ, gã v ẫ n luôn là một thằng hèn. Nếu gã tự hỏi gã là Emerson hay Gabriel thì chẳng còn câu hỏi nào thêm. Carrie đã nhìn thẳng vào gã qua đôi mắt như được thanh t ẩ y trong cơn sốt và biết gã là ai. Emerson là một con rắn độc, kẻ sẵn sàng b ỏ rơi một người phụ nữ đang ốm thập t ử nh ấ t sinh giữa đêm hôm khuya khoắt. Emerson là k ẻ hèn nhát, cu ối cùng cũng chạy tr ố n khỏi tất cả trách nhiệm, tất cả sự quan tâm, và tất cả cảm xúc. Gã với tay lấy chiếc chìa khóa, bàn tay gã thõng xuống, gã tựa đầu lên vô lăng, cảm giác nhục nhã và tội l ỗ i bao trùm khắp người. “Làm ơn”, gã nói to, không biết ai sẽ l ắ ng nghe lời th ỉ nh cầu của gã, hay nội dung lời th ỉ nh cầu là gì. “Làm ơn”, gã lặp lại, giọng khản đặc và vụn vỡ. L ầ n này có câu trả lời. Đó là phép màu thứ hai của gã. Không phải phép màu cho Carrie, để khiến cô lập tức khỏ e lại. Mà là sức mạnh cho gã, để đương đầu. Những c ầ u nguyện luôn được đáp lời, mục sư đã nói th ế sáng nay, tuy vậy dường như đã hàng th ế k ỉ trôi qua kẽ từ lúc gã ng ồ i trong nhà thờ Tin lành nh ỏ bé đó, héo hon vì lo l ắ ng cho Carrie. Lúc ấ y gã nghĩ không có tâm trí lắng nghe giảng đạo. Những cầu nguyện luôn được đáp lời, nh ư ng người ta có thể không nhận được lời đáp mình mong muốn . Và đ ô i khi sẽ nhận được những cái mình đang cần, Gabriel nghĩ, yên lặng đóng cánh cửa lại phía sau và nhìn quanh gian bếp của Carrie. Thả áo khoác xuống một chiếc ghế, gã nhẹ nhàng đi vào phòng khách. Carrie đang nằm trên ghế, không cử động, hai gò má v ẫ n ử ng đỏ. Gabriel ngồi xu ố ng sàn bên cạnh chiếc sô-pha, chuẩn bị cho một đêm dài cầu nguyện. Chương 12 Ca rrie cảm thấy ấm áp. Ấm áp một cách dễ chịu và tho ả i mái chứ không phải thiêu đ ố t. Cơn đau ở ngực đã giảm bớt. Và khi cô rúc sâu hơn vào chiếc nệm mềm, một cảm giác nhẹ nhàng b ấ t chợt lan tỏa trong cô. Cô thận trọng m ở mắt, thấy ánh nắng của buổi bình minh ngập tràn phòng ngủ, và cô quay đầu lại. Gabriel đang ngủ bên cạnh cô. Trong ánh ban mai cô nhìn thấy những nét mệt mỏi trên gương mặt tuyệt đẹp của anh, cùng chiếc cằm lún phún râu. Anh mặc quần jean và áo phông, nằm choán hết không gian trên chiếc giường đôi của cô. C ô không thể kìm chế. Cô nhấc bàn tay đang run rẩy của m ì nh, chạm những đầu ngón tay vào miệng anh. Anh h ơi l ẩ m bẩm, nhưng không thức dậy. Carrie g ầ n như nghiêng người v ề phía trước, áp môi mình vào môi anh. Đúng lúc ấ y sự t ỉ nh táo trỗi d ậy, cô lùi lại, khẽ khàng r ờ i giường. Cô gần nh ư không đứng được, hai chân cô quá y ế u. Cô nhìn xuống ngư ờ i và nhận ra mình không mặc gì ngoài một chiếc áo phông cũ. Lúc trước cô không mặc chiếc áo này. Cô có những ký ức mơ h ồ , khi Gabriel đặt cô vào bồn tắm, khi anh ôm cô trong vòng tay, khi anh điêu đứng vì chiếc lò, nào trà, nào súp, nào thuốc được rót vào cô cô. Lúc bác sĩ Browning ở
đây, cô chắc chắn đã nghe được giọng nói của ông, và cả nhà Swensen nữa. Nhưng trên hết Gabriel đã lưu lại, trông nom cô, chăm sóc cô, ở bên cô trong su ố t cơn mê sảng. Cơn mê s ả ng về Emerson MacVey. Không hiểu sao hai người họ lại lẫn lộn trong đầu cô, dù trên đời không còn hai người nào khác biệt hơn. Nhưng có lẽ sau tất cả có một điều không thay đổi. Trong cả hai trường hợp, cô đều bị thu hút một cách ngu ngốc với hai người đàn ông không dành cho cô. Cô phải bám vào tường khi men theo hành lang đến nhà t ắ m. Cô nhìn vào hình ả nh trong gương và rùng m ì nh. Cô trông như vừa từ cõi chết trở về. Gương mặt y ế u ớ t, trắng bệch, mái tóc rối bời. Cô c ầ n nhà vệ sinh, cần đánh răng và gội đ ầ u. Đang tắm n ử a ch ừ ng thì cô thấy sức lực như cạn kiệt cô trượt xuống mặt b ê n bằng kim loại của phòng t ắ m. Cô quá yếu không c ử động nổi, nhưng cô gắng tắt nước. Cô hầu n hư không nghe tiếng c ử a mở, rồi Gabriel ở đó, choán hết căn phòng. “Em điên rồi”, anh nói, bình tĩnh bước vào đóng vòi nước và ôm lấy c ơ thể đang run rẩy, ướt sũng của cô. Qu ấ n cô trong khăn tắm, anh bế cô trở lại phòng ngủ, nhẹ nhàng đặt cô lên giường. Cô ch ỉ có thể thu đủ sức để gạt tay anh khi anh bắt đầu lau khô cho cô. “Tôi tự làm được”, cô cáu k ỉ nh. Anh mỉm cười. Anh cũng ướt đẫm, nước nhỏ xuống từ chiếc áo phông đen anh mặc, và đằng sau thái độ vui v ẻ của anh là một gương mặt mệt m ỏ i. Anh trông như vừa xuống địa ngục trở về. “Anh không chắc v ề hiệu quả của thu ố c kháng sinh”. Với chiếc khăn lớn phủ kín người, và anh khó mà bị cám d ỗ b ở i cơ thể gầy gò chẳng chút nữ tí nh của cô, nh ư ng dù sao cô vẫn cu ốn chặt nó quanh người. “Tôi ốm bao lâu rồi?” “Cả năm. Cả thế k ỉ ”, anh nói. “Thực sự anh cũng không biết nữa. Anh thấy em hôm Chủ nhật, và hôm nay... lạy Chúa, anh nghĩ là thứ Ba, nhưng cũng có thể anh nh ầ m”. “Anh ở lại đây suốt sao? Chăm sóc cho tôi?” “ Ừ ”. Anh đặt tay lên trán cô và h ơ i nh ă n màv. “Anh nghĩ cơn s ố t của em lui rồi, nhưng tốt hơn anh nên ki ể m tra. Đ i tắm là một việc cực kỳ ngu ngốc khi em hầu như không thể đi lại. Sao em lại làm th ế ?” Cô quá mệt để nghĩ xem mình nói gì. “Bởi vì trông em khiếp quá”, cô buột miệng. Trong một khắc anh nhìn cô đầy kinh ngạc, rồi ngửa đ ầ u ra sau phá lên cười. Carrie bò ra khỏi những t ấ m chăn, cảm thấy tổn thương. “Chả có gì buồn cười cả”, cô dỗi. Anh nghiêng người, quỳ trên giường bên cạnh cô, hai tay khum lấy gương mặt cô, những ngón tay dài lu ồ n qua mái tóc ướt của cô. “ Ừ ”, anh đ ồ ng ý, “Thế thật tuyệt. Anh nghĩ vị thánh của Angel Fa l ls cũng nên lãng phí vài giây quý giá cho bản thân mà”. “Tôi không phải thánh”. “Được”, anh nói. “Và trông em r ấ t tuyệt vời”. Rồi anh cúi xuống hôn cô. Đó là một nụ hôn dẫn đường. Dịu nhẹ, nhưng không h ề thuần khiết, miệng anh qu ấn quýt, ấ m nóng và ẩm ướt. Cô cảm giác sức nóng đang dần dâng lên trong cô. Thứ gì đó đã thay đổi khi cô bị ố m, thứ gì đó trong lòng cô không còn nữa, và cô muốn người đàn ông này. C ô đưa tay lên, nhưng anh đã bước ra xa, không hay biết đến sự khao khát của cô. “Anh sẽ pha cho em một ít tr à ”, anh cố sức nói, “và nướng bánh mì, có lẽ thêm một ít nước táo. Nếu em có thể ăn hết chúng ta sẽ chuy ể n sang trứng”. “Tôi không đói”, cô nói, cố gắng kìm nén ham muốn.” T ôi muốn cà phê”. “Quá tệ. Nếu em ăn nhiều thì anh sẽ cho em uống một chút cà phê. Còn lại thì không”. Anh nhìn cô, đôi mắt anh lóe lên kỳ quặc. “Cứ nằm yên ở đó. Nếu em muốn mặc quần áo anh sẽ giúp, nhưng em phải ăn một chút đã”. “Tôi có thể tự chăm sóc bản thân”. “Tin anh đi,
Carrie, anh đã nhìn thấy em không mảnh v ả i không biết bao lần trong mấy ngày qua”. “Tôi chắc anh có thể kiềm chế những đam mê mãnh liệt của mình”, cô lên giọng, “nhưng tôi cần được riêng tư”. Anh dừng lại bên cánh cửa, chăm chú nhìn cô. “Anh sẽ không dám chắc v ề những chuyện như th ế ”, anh nói với nụ cười đầy hàm ý. “Nằm yên đây”. Có gì đó trong nụ cười của anh. Có gì đó về cái nhìn trong đôi mắt anh, khiến cô bắt đầu tự hỏi r ố t cục liệu có một tương lai nào cho cô hay không. *** Cô không làm như gã bảo, nhưng rồi, Gabriel cũng không trông đợi nhiều. Với người khác cô là quý cô hào phóng, một vị thánh, một người tử v ì đạo, s ẵ n sàng dâng hi ế n tất cả mọi thứ cho cộng đ ồ ng. Còn với gả, cô là một k ẻ cứng đ ầ u, kiên quyết và chua ngoa. Gã tự h ỏ i phải chăng đ ó là tình yêu. Gã hy vọng không phải. Gã đã cứu sống cô hai l ầ n , vượt quá cái gọi là bổn phận. Chắc chắn lúc này gã đã thanh toán xong mọi nợ nần. Gã không nghĩ Augusta sẽ vui lòng nếu Carrie đem lòng yêu gã, khi gã sẽ biến mất sau hai tuần nữa. Gã nghĩ về cái miệng xinh xắn của cô, mùi kem đánh răng và khao khát. Gã nghĩ về đôi mắt màu xanh sâu thẳm của cô khi nhìn gã chăm chú với vẻ không yên. Gã nghĩ về cơ th ể gầy gò, tình yêu và ham muốn của cô. Và gã nghĩ cô xứng đáng nhận được những điều đó. Gã đã ở đây được nửa thời gian phân công và nhiệm vụ của gã không mấy tiến tri ển . Có lẽ gã nên chi ế m những gì gã muốn và chuẩn bị đến với địa ngục vĩnh viễn. Bởi dù sao gã cũng đã ở sát ranh giới đó rồi, gã cũng nên có chút gì để lưu giữ. Gã cũng sẽ làm thế, nếu chỉ riêng sự bất diệt của gã phải xét đến ở đây. Nhưng đã quá đủ với Carrie. Cô từng bị Emerson Macvey lợi dụng rồi vứt bỏ. Nếu Gabriel bước vào m ối quan hệ với cô, biết thừa bị c ấ m k ị ngay từ đ ầ u, thì gã xứng đáng với bất cứ số mệnh th ố ng kh ổ nào trao cho gã. G ã cố ngăn mình không bước đến chỗ cô lúc cô xuất hiện ở c ử a nhà bếp. Cô vẫn còn hơi run rẩy, yếu ớt. Gã muốn vòng tay quanh người cô, mu ố n b ế cô tr ở lại chi ế c giường, muốn làm tình với cô. Gã liếc nhìn cô, rồi quay lại bếp. “Anh biết em sẽ không chịu nằm yên”, g ã n ó i. “Anh nhóm lửa lên rồi . Hãy ra ghế sô-pha nằm ngh ỉ anh sẽ mang cho em chút gì đ ó đ ể ăn . ” “Anh vẫn luôn độc đoán thế này à?” Gã nhe răng cười. “Chỉ khi có cơ hội thôi. Còn em lúc nào cũng cáu kỉnh thế này à?” Cô cười chậm rãi đáp lại. “Chỉ khi có cơ hội thôi”. Cô ăn tất cả mọi thứ gã đặt trước mặt, rồi đòi cà phê. Chút sắc h ồ ng bắt đầu ử ng trên gò má cô. Lúc chiếc xe nhà S w ensen trườn lên l ối đi dài phủ băng vào nhà thì cô đang tranh cãi ai sẽ là người r ử a bát. “Đúng là th ầ n kỳ”, Maggie thở ra khi chị ào vào căn phòng, không kịp cởi áo khoác. “Hôm trước em đã đứng trướ c ngưỡng cửa cái chết và giờ em trông hớn h ở như con mèo vừa nu ố t chửng con chim bạch y ế n vậy”. “Anh đã bảo con bé sẽ ổ n mà”, Lars nói, đi sau vợ, m ặt anh nhăn lại vì thích thú, “Con bé được Gabriel của chúng ta chăm sóc rất kỹ càng. Vào bệnh viện hẳn đã lãng phí thời gian và tiền bạc rồi”. Gã nghe thấy cái cụm từ “Gabriel của chúng ta”, hơi ấm trong đó như một nhát dao đau đ ớ n đâm vào tim gã, s ự liên k ết với ai đó mà gã chưa từng làm khi có cơ hội. Gã cố dằn xu ống , đã quá muộn cho những lời buộc tội. “Hai người c ầ n cà phê”, g ã lấm b ẩ m. “Tôi sẽ đi lấy, và hai ng ườ i c ó thể dỗ cô bệnh nhân này hợp tác hơn một chút” . Vợ chồng Swensen ngạc nhiên quay sang nhìn Carrie “Carrie lúc nào cũng hợp tác mà”, Maggie nói. “Đương nhiên là thế”, Carrie gật
gù. “Ngoài những lúc một người chuyên áp bức như Gabriel cố chỉ huy em thôi”. Lars nhìn Maggie, và cả hai cùng cười toét miệng. Gabriel biết điều họ đang nghĩ, gã muốn hét lên cho họ ngừng ngay lại. Chẳng có gì đáng cười hết, gã xấu xa đ ố i với cô, là thằng đàn ông tồi tệ nhất. Gã có thể mời mọc cô quan hệ với gã và bỏ trốn, và cô thì xứng với tình yêu và một m ối quan hệ lâu bền. “Cà phê”, gã rầu rầu nói, biến mất trong nhà b ế p. Ngày hôm đó họ chào đón cả đoàn khách. Tất cả mọi người đều mang theo chút đ ồ . Thức ăn, hoa, những vật lưu niệm tự làm. Gabriel tự lui sang một bên, tranh thủ s ử a ch ữ a ngôi nhà gió lùa cũ kỹ ch ố ng lại những cơn gió khắc nghiệt của tháng Mười hai. Gã bịt lại cửa sổ, cố định lại ph ầ n kè ở phía tây ngôi nhà, và lúc đang đứng giữa một đ ố ng củi gã cảm nhận được cảm giác râm ran như kiến bò phía sau gáy. Gã biết đó là ai trước khi quay lại . “Anh sắp hết thời gian rồi, Gabriel”, Gertrude Hansen nói với chất giọng chuyên quy ề n của Augusta. Gã ngừng tay, tựa người lên chi ế c rìu, nhìn xu ố ng bà ta. Emerson cao bằng Augusta, nhưng ở đây, ở Minnesota này, gã là kẻ cao hơn và bà ta thấp h ơ n gã. Gã không bận tâm đến chuyện giả vờ không hiểu.”Tôi còn hai tuần nữa ” . “Anh đã làm được những gì r ồ i?” “Cứu sống Carrie. Hai lần. Th ế là đủ”. “C ó lẽ”, người phụ nữ lớn tuổi lầm bầm. “Tất cả tùy thuộc vào tình trạng anh dẫn dắt cô ấy. Cô ấy không thể tan vỡ trái tim thêm lần nữa”. “Tôi sẽ không đụng vào cô ấy”, gã quát. Người phụ nữ già chỉ nhìn gã. “Chúng ta sẽ xem xem”, bà ta l ấ p lửng, rồi đi qua gã lên hành lang ngoài nhà khi Lars và Maggie đi ra. “Chào bà Gertrude”, Lars nói. “Bà đến thăm bệnh nhân sao? Bà sẽ không tin con bé khỏe thế nào đâu. Gabriel đúng là một bác sỹ kỳ diệu”. Gertrude ném thẳng ánh nhìn ác liệt trở lại phía gã. “Vậy sao?” Bà ta lẩm bẩm với cái giọng dịu dàng d ố i trá đánh lừa vợ chồng Swensen , khác xa cả dặm so với tông giọng độc địa của Augusta. “Ta cứ nghĩ cậu ấy là típ người sẽ giữ phép màu lại cho riêng mình”. Tội lỗi nhấn chìm gã, gã lặng thinh khi Gertrude bi ế n mấ t vào trong ngôi nhà. Bà ta nói đúng, mẹ kiếp. Phép m àu của gã bị gã ích kỷ giữ làm của riêng, cho cái bản th â n hèn kém, khốn cùng của gã. “Đôi lúc bà ấy cứ như một bà già Tá c- ta ấy ” , Lars nói, đ ặ t tay lê n vai Gabriel. “Đừng để ý. Bọn tôi đ ã bi ết bà ấ y cả đời, cũng quen rồi”. C â u nói không đủ kéo gã ra khỏi sự lơ đễnh . “ Tôi tư ở ng bà ấy mới đến thị tr ấ n” “Đi ề u gì đã khi ến cậu nghĩ vậy?” Maggie n ói, hơi thắc mắc. “Bà ấy sinh ra ở đây, và theo những gì tôi biết bà ấy thậm chí chưa bao giờ rời khỏi bang này trong suốt tám mươi m ấ y năm cuộc đời.” Gabriel lắc đầu, tin mọi điều đều nằm trong tính toán của Augusta. “Chỉ đoán vậy thôi”, gã nói. “Carrie th ế nào rối? Cô ấy có mệt quá không?” “Chết tiệt, cơn bé khỏe”, Lars ầm ĩ, rồi im bặt khi Maggie đá anh. “Con bé đang đỡ dần”, Maggie chỉnh lại, “nhưng tôi nghĩ nó không nên ở một mình. Cậu không phi ề n nếu ở lại đây lâu thêm chút nữa chứ?” Đó là đi ề u cu ối cùng gã cần, và cũng là những gì gã muốn nhất. Càng ở bên cạnh cô lâu hơn, gã càng khó kháng cự được cô. Nhưng kháng cự cô là điều gã phải làm. Nếu gã còn chưa biết, thì lời cảnh cáo của Gertrude đã nh ắ c nh ở gã rồi. “Cô ấy có đ ủ thức ăn đ ể nuôi s ốn g cả quân đội Nga”, gã nói. “Cơn sốt cũng rút...” “Con bé c ầ n cậu, Gabriel”, Maggie khẽ nói. Gã muốn ph ủ nhận. Gã muốn gi ả i thích với Maggie sẽ nguy hi ể m ra sao với hạnh phúc mong manh của Carrie Alexander, nh ư ng g ã biết s ẽ chỉ l ã ng phí thời gian. “ Đương nhiên tôi sẽ ở lại”, gã nói, căm ghét
cảm giác nhẹ nhõ m dữ dội khi gã thấy mình phải đồng ý. “ Ồ , có chuyện này tôi quên chưa nói với cậu”, Lars thốt lên, “Có một người đã đến xem tay vịn cầu thang. Ông t a có lẽ sẽ quan tâm đến việc ủy nhiệm vài công việc khác”. “Ông ta có cái tên nghe như tiếng Nga. Boris Gu d onov gì ấy”, Maggie nói. “Borodin”, Lars sửa lại. “Tên ông ta là Alexander Borodin. Ô ng ta h ẳ n có rất nhi ề u ti ề n, ông ta đã dùng chiếc chuyên cơ riêng để bay đến Saint Cloud”. Gabiel nh ắ m mắt lại trong chốc lát, lặng thầm tạ ơn. “Tôi đã nghe nói về ông ta”, gã cẩn thận nói. “Nếu ông ta thích s ả n phẩm của anh thì anh thành công rồi”. “Đừng lo đếm gà của chúng tôi nữa [1] ”, Maggie nói, giọng chị nghe hân hoan hơn vài tuần trước nhi ề u. Ch ị đặt tay lên cánh tay Gabriel, đôi mắt chị đột nhiên t ố i đi vì lo lắng. “Cậu có thực sự muốn ở lại đây không Gabriel? Tôi, Gertrude, hoặc bất cứ ai cũng có thể đến và tranh cướp cơ hội được giúp đỡ Carrie, sau t ấ t cả những gì con bé đã làm cho chúng tôi”. [1] Nguyên b ả n là “Don't count your chickens before the y are hatched ” : đừng đếm có bao nhiêu con gà trước khi trứng nở, tươ n g tự thành ngữ “ đếm cua trong lỗ ” của Việt Nam. “Tôi sẽ ở lại”, Gabriel nói, đặt tay lên bàn tay chai sạn của Maggie. “Tôi muốn th ế '“. Nhưng gã không định trở vào ngôi nhà chừng nào Gertrude còn ở đó, và bà ta ở lâu đến đáng nguyền rủa. Trời bắt đầu t ối khi họ đang trải qua những ngày ngắn nh ấ t trong năm, và gã có thể cảm nhận một cơn bão tuyết khác trong không khí, dù gã là kẻ chưa bao giờ để tâm đến thời tiết. Nhiệt độ thấp dần, gã lại bỏ quên chiếc áo khoác bên trong, số củi gã chẻ và xếp lại cũng đã đủ trước khi năng lượng của gã cạn kiệt. Gã đã trải qua hai ngày trong địa ngục, hai ngày sợ hãi, đút từng thìa thuốc, thìa súp và trà vào miệng Carrie, chuy ể n cô từ giường đến nhà tắm rồi quay trở lại, khi mụ già Augusta trời đánh cùng định mệnh đặt cuộc sống của cô vào tay gã. Gã gần như không ngủ hay ăn uống từ hôm Chủ nhật, và gã chỉ muốn ng ồ i xuống cạnh lò sưởi nhìn Carrie. Không một ai quấy rầy. “Anh có thể vào trong bây giờ”. Gertrude sải bước ra cửa, chiếc áo khoác được cài nút lên đến tận cằm, cặp kính dày lóe sáng trong ánh chiều tà. “Giờ anh cư xử cho đàng hoàng vào. Cô ấy r ấ t dễ mệt mỏi”. “Tôi không định làm cô ấy mệt mỏi”. Gã chua chát nói. Nụ cười của Gertrude chẳng ấ m hơn thời tiết là bao. “Ta không tin anh, Gabriel”, bà ta nói. “Anh sẽ phải chứng minh cho ta xem”. Và trước khi gã có thể trả lời, bà ta đã b ỏ đi, nhanh chóng rồ ga chiếc sa d an cứng cáp. Gã nhìn theo bà ta. “ Í t nhất bà ta cũng gọi mình là Gabriel” , gã lớn tiếng càu nhàu. Sau lúc đó gã không muốn bị nhắc đến gã đã từng là ai, và tiếp tục trong hai tuần tới. Carrie nhanh chóng thiếp đi trên chiếc sô-pha trong phòng khách. Chắc chắn Lars đã thêm củi vào lò, và hơi ấm thật tuyệt trong bầu không khí buốt lạnh của mùa đ ô ng. Gabriel rót cho mình một tách cà phê, lấy một chiếc sô-cô-la hạnh nhân từ cái đĩa ai đó đã mang lại đây sáng nay, và ng ồ i cạnh lò sưởi. Ở đó gã có thể nhìn Carrie. Gã không biết tại sao định mệnh lại trao cho gã thêm một đê m được ở với cô. Gã biết đây sẽ là cơ hội cu ố i cùng của g ã . V à gã sẽ không bỏ lỡ. Gã chỉ ngắm nhìn cô, đơn gi ả n ch ỉ ng ắ m nhìn cô, đ ể lưu lại chút ghi nhớ trong su ố t những ngày tháng bất tận sau này, ở bất cứ nơi đâu là đi ể m kết thúc của gã. *** Rất thú vị khi khao khát một người đàn ông. Carrie có nhiều thời gian c ầ n thiết đ ể cân nhắc, v ề cái lợi, cái hại và tất cả mọi thứ. Trong hai mươi bảy n ă m cô chưa bao gi ờ quan tâm quá mức đến một người đàn ông. Những tr ả i nghiệm về tình dục của cô chỉ
là một m ố i quan hệ ng ắ n ng ủ i không mấy thỏa mãn với một anh bạn thời đại học và cái đ ê m bi ế n động bất ngờ trong văn phòng c ủ a Emerson MacVey . Ngay sau đó cô đã thề sẽ từ bỏ chuyện tình dục, từ bỏ đàn ông, những m ố i quan hệ, hẹn hò và tất cả những việc mà bất cứ một người phụ nữ khỏe mạnh, bình thường khác hứng thú. Phần lớn đàn ông, bao gồm cả Steve đi ề u hành ga-ra, cũng không nhận được một câu trả lời. Sự thờ ơ với người khác phái mà cô thể hiện ra đã trở nên thuy ết phục một cách đáng kinh ngạc. Nhưng cô không hiểu sao điều đó không thuyết phục được Gabriel. Sự xuất hiện đột ngột của anh trong cuộc đời cô đã làm cô lạc lối. Nhưng anh có cách nhìn xuyên thấu làn da cô, đến mức cô lúc nào cũng có thể nhận biết anh, như cô chưa từng nhận biết một người đàn ông nào khác. Sự thật những phản ứng của cô hoàn toàn là bình thường và cô nên cảm ơn điều đó. Gabriel là một người đàn ông quyến rũ đến ấn tượng, điềm tĩnh, mạnh mẽ với phong cách châm biếm m ỉ a mai r ấ t hợp với cô. Anh sẽ ch ỉ ở đây trong vài tuần nữa, vậy cô có gì sai khi chiều theo những khao khát bất ngờ của mình? Cô cũng đã nhận được sự ủng hộ từ người không ngờ nhất. Gertrude, một bà giáo già độc thân và là trụ cột của toàn thể cộng đồng, khi bà nhìn cô rồi lắc đ ầ u. “Đó không phải những việc sẽ làm cháu h ố i tiếc”, bà thì th ầ m, nhìn theo ánh mắt Carrie li ế c ra ngoài cửa sổ v ề phía Gabriel khi anh nhịp nhàng chất củi. “Mà ch í nh những việc cháu không làm kìa”. Ca rrie bất ngờ quay lại nhìn bà trong choáng váng.” Anh ấ y sẽ đi trong hai tuần nữa, bà Gertrude à”. “L ầ n cu ối cháu làm gì đó cho bản thân là lúc nào? Việc cháu muốn, và không thèm quan tâm đến hậu qu ả ?” “Bà đang bảo cháu nên có một m ố i quan hệ sao?” Carrie hỏi. “Bà Gertrude, bà là cô giáo dạy môn xã hội năm lớp b ả y của cháu đ ấ y!” “Ta đang bảo cháu hãy làm những gì con t i m cháu mách bảo”, Gertrude đi ề m nhiên nói. “Không hơn. Và không kém”. Nhưng đó không phải điều trái t i m nói với cô, Carrie nghĩ, nhìn Gabriel qua chiếc bàn trong khi cô đang ăn s ố lượng mì nhi ề u hơn cả năm vừa qua gộp lại. Cô quan sát tay anh, đôi bàn tay vững chãi và thanh tú đã hơn một lần đặt lên người cô. Và cô tự hỏi làm sao cô có th ể dụ dỗ anh ti ế p tục làm thế. Cô nhìn vào khuôn miệng anh. Nó thật rộng và mềm mại. Cái miệng đó đã hôn cô khi cô không ch ắ c có muốn được hôn hay không. L ầ n này thì cô chắc chắn. Nhưng cô không biết làm sao để lại được anh hôn. Và chết tiệt, anh tiếp tục giữ khoảng cách, rối rít quanh cô như gà mái mẹ, với vẻ cố tình không hứng thú mà cô từng th ể hiện. Cứ như vai trò c ủ a họ đ ã bị đ ả o ng ư ợc. Đột nhiên c ô muốn anh nhìn cô như nhìn một ngư ờ i đàn bà, chứ không phải một vị thánh b ằ ng thạch cao. Và đột nhiên anh tr ở nên giống Prancis của Assisi [2] vậy. [2] Là một con chiên của đạo Cơ Đốc Ý đã thành lập dòng Thánh Francis. Ngài rất nổi tiếng với tình yêu thiên nhiên và thường xuất hiện trong những bức tranh với chim chóc và muông thú vây quanh. “Em nên đi ngủ đi”, anh nói khi cô ăn hết chiếc bánh sô-cô-la hạnh nhân thứ ba. “Em nên lấy lại sức khỏe”. Anh bắt đ ầ u lau dọn bàn,vẫn giữ khoảng cách khá xa với cô, cứ như sợ cô sẽ v ồ lấy anh. Một ý tư ở ng rất lôi cu ốn . “Em đã nằm cả tuần trên giường”, cô phản đối, đứng dậy để giúp anh. “Em cảm thấy b ồ n chồn không yên”. Anh quay ra phía cửa và cô suýt tông vào anh. Họ th ở không ra hơi, đứng r ấ t gần nhau, đủ để cô cảm nhận hơi nóng từ cơ thể anh, nhìn thấy phản ứng bùng lên trong đôi mắt nâu tuyệt đẹp của anh, thứ ph ả n ứng anh đã xua đi quá nhanh khiến cô
tự hỏi liệu đó có phải là ảo tưởng từ sự khao khát của cô hay không. “Anh sợ em đ ấ y à, Gabriel?” Cô đột nhiên ngây th ơ hỏi. “Sao anh phải sợ?” “Tại anh cứ như đang tránh xa em”, cô làu bàu, b ắ t đầu tự lấy làm thích thú. “Anh không biết có cái gì ở đây để anh phải tránh”. Cô lấy chiếc đĩa khỏi tay anh và đ ặ t nó lên quầy bếp ngay bên cạnh. “Không có”. Anh nhìn cô. “Đừng”. “Đ ừ ng gì?” “Nếu em đã quyết định sẽ sống một cuộc đời đúng nghĩa thì anh Tạ ơn Chúa. Nhưng đừng h ồ i sinh cuộc đời với anh. Anh không phải người đàn ông cho em trải nghiệm đó đâu, Carrie. Anh sẽ đi sau hai tuần nữa, và em c ầ n ai đó ở đây trên một đoạn đường dài. Em không thể để trái tim tan v ỡ lần nữa”. Cô nao núng. “Điều gì khiến anh nghĩ trái t i m em từng tan vỡ?” Cô gặng. “Ai đó đã làm tổn thương em ghê gớm. Em sẽ không muốn tiếp tục mắc lại sai lầm đó. Em sẽ không muốn lại gặp phải loại đàn ông đó”. “Anh hoàn toàn khác biệt với Emerson”, cô bướng b ỉ nh nói. “Vậy sao? Th ế có lẽ em không hi ể u rõ anh rồi”. Cô đặt một bàn tay l ê n cánh tay anh, nhưng anh giật ra như th ể cái chạm của cô khiến anh phải bỏng. “Đừng”, anh nói với giọng kh ả n đặc. “Vì Chúa, đừng làm th ế ”. Cô trừng trừng nhìn anh, nỗi đau đớn và kh ổ s ở lộ rõ trên gương mặt. “Xin lỗi”, cô th ì thào. “Em thật ng ố c. Em cứ nghĩ anh muốn e m” . Những từ đó đã thoát ra, làm họ sửng sốt. Anh thoáng nhắm mắt, như th ể đang cầu xin được giúp đỡ. “Đương nhiên là anh muốn em”, anh nói thẳng. “Anh đâu phải là thằng ng ố c. Nhưng em cần tình yêu. Em c ầ n ai đó làm cha những đứa con của em và ở lại đây với em. T ấ t cả những gì anh có thể trao cho em chỉ là quan hệ thể xác mà thôi”. Cô gượng cười, một nụ cười nhăn nhó. “Em sẽ nhận” cô nói, di chuyển về phía anh. Anh không cử động, không dám cử động, bởi anh muốn cô quá đỗi. “Carrie”, giọng anh trầm hơn v ì cáu giận. “Anh cảnh cáo em. Vì chính bản thân em, để cho anh yên”. “Hèn nhát”, cô dịu dàng nói. Và vư ơ n tay về phía anh. Chương 13 G abriel được quyền lựa chọn. Gã luôn có quyền lựa chọn, dù gã có biết hay không. Cô đứng trước mặt gã, thẹn thùng, run rẩy và khao khát. Và gã muốn cô, muốn đến khổ s ở , muốn đến mức gã cảm giác gã là người đang bị thiêu trong cơn sốt. Nếu gã chạm vào cô, chiếm lấy cô, định mệnh của gã sẽ bị niêm phong vĩnh viễn. Chẳng có thiên đường nào đ ón chào những kẻ như gã. Gã có thể cử động. Đẩy cô ra và rời khỏi ngôi nhà trước khi gã đổi ý. Hoặc gã có thể nhẹ nhàng khi ến cô thất vọng , giải thích với cô rằng gã không thực sự muố n cô, r ằ ng cô không cần để ý đến cái thứ đang cộm lên trong quần g ã . G ã có thể làm thế, khi g ã chẳng muốn gì h ơ n l à được chiếm lấy cô. G ã có thể ch ấ p nhận niề m khao kh á t v ĩ nh hằng với cô, hình dung ra những điều tương tự. Gã có thế tự trừng phạt bản thân, khi bản thân gã quá xứng đáng bị trừng trị. Nhưng gã không thể. Nếu gã bỏ đi cô sẽ chẳng bao giờ tiếp cận gã nữa, gã biết điều đó với niềm tin tuyệt vọng. Cô mu ố n gã, muốn rất nhiều, đến mức có th ể chiến đấu để có được gã. Nhưng nếu gã từ chối, cô sẽ không bao giờ đòi hỏi thêm. Việc rời bỏ cô cũng tàn nhẫn chẳng khác gì việc chi ế m đoạt cô. Người ta đã nói thế nào? Chết tiệt nếu ngươi làm th ế, nhưng còn đáng nguyền rủa hơn nếu ngươi không làm? Đằng nào gã cũng đã bị nguyền rủa. Gã cũng có thể tận hưởng định mệnh của gã một cách phong phú nhất. Gã đưa tay ôm lấy gương mặt xanh xao của cô, hai ngón cái của gã lướt nhẹ trên làn môi cô đang run rẩy. “Em đang chuốc lấy rắc r ối đ ấ y, Carrie”, gã dịu dàng nói. Cô mỉm cười với gã, đôi mắt sáng rực trong bóng tối. “Em biết”,
cô đáp. Gã đau đáu nhìn cô, không nói một lời. Có lẽ nếu gã làm tình với cô, cô sẽ nhận ra cuộc sống này đáng để sống thế nào. Nếu cô nhận ra sự ấ m áp cùng niềm vui thích với gã, cô có th ể tìm thấy những điều tương tự nơi một ng ư ời khác, người nào đó tốt hơn. Sự hợp lý hóa ngu ng ố c, gã tự nhạo báng mình. Gả đang điên cu ồ ng biện minh. Ch ỉ b ở i gã đã đi quá xa. Khoảnh khắc hai tay gã chạm vào cô, chẳng còn đường nào quay lại . G ã đang bế cô lên chiếc giường l ớ n bên d ưới mái hiên và yêu cô, và nếu gã phải vĩnh viễn ở lại địa ngục vì đi ề u đó, cũng đáng giá. Gã đặt môi mình lên môi cô, thật nhẹ nhàng. Gã cảm nhận làn môi cô run rẩy. Emerson MacVey từng rất giàu kinh nghiệm, đó là một trong những tài năng của kẻ nhẫn tâm ấy. Gabriel Falconi chưa bao giờ làm tình trước đây, và mỗi xung động thật quá mãnh liệt, thật quá t i nh tế. Làn môi cô hé m ở bên dưới áp lực từ miệng gã, vị của cô trên lưỡi gã, tiếng thở dài run run thoát ra khi gã hôn lên vành tai cô, tiếng trái tim cô đập mạnh trên ngực gã khi gã kéo c ô sát lại, vòng hai cánh tay cô quanh c ổ gã, tất cả đều t ràn đầy khát khao, và... sợ hãi. Một lần cu ố i lương tâm của gã trỗi dậy, gã với tay ra sau cổ, nắm lấy đôi bàn tay lạnh lẽo, đang l ẩ y b ẩ y của cô, g iữ lấy cả chiều dài cánh tay cô. “Carrie”, gã êm ái g ọi . “Em không thực sự muốn thế này đâu. Em đã b ả o em không phải bạn tình một đêm hay quan hệ tình dục b ừ a bãi”. “Em đ ã nói d ố i. Em đã từng có hàng tá đàn ông, Gabriel”, cô nói, suýt nữa giấu đ ượ c sự tuyệt vọng đ ến li ề u lĩnh. “Em biết m ì nh muốn ai. Anh đã nói đúng, em có s ự ph ứ c tạp của một vị thánh. Em c ầ n chăm sóc c ả th ế gi ớ i. Nhưng em không mu ố n một mối quan hệ. Em l à một đ ứa con gái phóng khoáng, em biết khi nào em c ầ n những nhu c ầ u tự nhiên bức thi ế t cho b ả n th â n”. Những lời nói d ối của cô khiến gã sững s ờ . Và giọt nư ớ c làm tràn ly. Người có thể hôn với sự khao khát một cách ngây th ơ lại nói dố i trôi chảy đến thế thì làm sao gã có thể kháng cự. “Đã vậy thì một đêm”, gã cười. “Một đêm nóng bỏng, không ràng buộc kèm theo, phải không?” “Phải”, cô nói, với vẻ bình tĩnh trên gương mặt và nỗi tuyệt vọng trong đôi mắt. Gã khẽ lẩm bẩm điều gì đó, điều gì đó Augusta chắc chắn sẽ không tán thành. Và rồi, trước khi gã có thể đổi ý, gã bế cô và bước lên cầu thang hẹp đến tầng hai. Gã chưa bao giờ khỏe đến thế. Và cô lại nhẹ như cọng lông chim. Gã cần phải vỗ béo cô, cho cô ăn mì, bánh kem pho mát, bánh cannoli [1] và sừng bò. Nhưng cần hơn hết là yêu cô. Vì cô. [1] Loại bánh kem giàu chất béo quen thuộc của người đảo Sicil Và vì gã. ** * Ánh trăng lùa qua những ô cửa kính mờ sương trong phòng ng ủ . Gabriel không thèm bật đèn. Anh đặt cô l ê n giường, Carrie vòng tay quanh c ổ anh, kéo anh xu ốn g với cô, s ợ anh lại đổi ý. Í t nhất cô cũng đã cố gắng để thuyết phục anh rằng cô biết đ iều cô muốn, dù cô không hoàn toàn chắc chắn với chính mình. L ầ n đầu tiên trong đời cô muốn gì đó chỉ v ì bản th ân cô. Cô muốn Gabriel. Và cô muốn được cảm thấ y mình đang sống. Anh có th ể xóa đi những ký ức về Emerson MacVey. Anh có th ể khiến cô quên đi tội lỗi. Một đêm thôi, cũng là tất cả những gì cô đòi hỏi trong đời. Ngày mai cô sẽ tr ở lại với những việc tốt, trở lại cương vị của một vị thánh, đ ể ph ủ định chính bản thân. Còn lúc này cô sẽ nhận lấy những gì cô thiếu thốn. Thân hình cao, đầy cơ bắp của anh bao ph ủ lên cô, và c ô c ả m nhận được khuấy động của anh
trong sự pha trộn giữa th ỏ a mãn và hoảng sợ. Lúc này anh sẽ không rời bỏ cô. Không phải đêm nay. Chẳng còn đường quay l ại. Sau đó anh hôn cô, nỗi sợ hãi của cô biến mất. Làn m ô i anh mềm mại, ẩm ướt xát nhẹ lên môi cô, thúc giục chúng tách ra, và anh dùng lưỡi để n ế m cô, đánh thức cô. C ă n phòng ng ủ l ạ nh lẽo ở Minnesota bắt đ ầ u nhòe đi, t ấ t c ả còn lại chỉ là tấm nệm bên dưới cô cùng sự tuyệt v ờ i của miệng anh. Anh lăn tròn sang một bên, đôi chân dài quấn chặt lấy c ô , hai bàn tay trượt khắp nơi dưới làn áo len của cô, kéo n ó l ê n. Anh ngừng hôn để c ở i áo cô ra. Cô nằm đó, gầy gò, lạnh l ẽ o, tr ê n ng ư ời chỉ còn chiếc áo ngực đ ơ n gi ả n m à u tr ắ ng c ù ng một chiếc qu ầ n mềm rộng thùng th ì n h, và cô tự hỏi anh có thay đổi ý định không. Anh h ẳ n đã từng quan hệ với những người phụ nữ khêu gợi, hấp d ẫ n , anh hẳn đã từng... Anh ghé môi lên ngực cô qua làn vải cotton trắng làm cô choáng váng cong người trên giường. Anh nhanh chóng c ở i hết phần quần áo còn lại trên người cô. Cô run rẩy, tự nhủ là do hơi lạnh trong căn phòng, song thừa biết là do những gì vượt xa sức mạnh của tự nhiên. Anh nằm dài bên cạnh cô, kéo cả cơ thể cô áp vào cơ thể anh, làm ấm cô, vuốt ve cô bằng đôi bàn tay to lớn. “Anh sẽ không làm em đau, Carrie”, anh r ì rầm, giọng trầm khàn. “Em có thể nói không vào bất cứ lúc nào”. Cô tin anh. Nỗi sợ hãi của cô biến mất ngay lập tức. “Vâng”, cô nói, và cô dán miệng mình lên môi anh. Cái đêm với Emerson là trải nghiệm mơ hồ và ngạc nhiên v ề tình dục. Còn lúc này khác hẳn. Mỗi cái vuốt ve, mỗi một hương vị đều được phác họa, được khắc lại trong tâm trí cô. Anh hôn dọc xương quai xanh, vạch theo một đường xuống bầu ngực nhỏ, bắt lấy nụ h ồ ng căng cứng của cô và mút. Cô rên lên khe khẽ vì khoái cảm dữ đội. Tay cô luồn vào mái tóc dài và dày c ủ a anh, níu chặt lấy anh khi đ ô i tay anh di chuy ể n giữa hai chân cô, chạm vào cô nhẹ như tơ, và đột ngột t rở nên mãnh liệt. Cô nghe th ấ y giọng m ì nh tắc nghẹn khi gọi tên anh trong bóng t ố i . Anh nhanh chóng cởi quần áo, r ồ i quỳ xuống giữa hai ch â n c ô . Anh to l ớ n và huy ề n ả o trong màn đêm m ờ mịt . Nỗi sợ hãi thoáng chốc quay trở lại khi anh nâng hô ng cô lên và ấn vào cô. Cô vẫn còn đang run r ẩ y, nhạy c ả m t ừ nhữn g g ì anh vừa trao, thế rồi cô giật người lại, thét lên chết l ặng . Nhưng anh lại chạm vào cô, dỗ dành cô , và cô s ẵ n sàng, hơn cả sẵn sàng. Cô sẽ chết nếu cô không có đ ư ợc anh. Cô níu lấy anh, kéo anh về phía cô, và anh chìm vào trong cô, từng chút từng chút, to lớn và cứng rắn nh ư ng mượt như nhung. Cô oằn người trên giường để thích ứng với anh, hai chân qu ấ n quanh hông anh, tự hỏi liệu như vậy có thật sự hiệu quả, và cuối cùng thì anh cũng hoàn toàn ở trong cô. Đầu anh dựa vào vai cô khi họ miệt mài trong hoan lạc. Cô cảm thấy mình bao bọc lấy anh, và không biết có th ể đón nhận anh được nhiều hơn nữa không. Cô đã có khoái cảm, gi ờ đến lượt anh. Một sự trao đ ổ i công bằng, nó chỉ hơi không thoải mái, và ... “Em có nghĩ lại không, Carrie?” Anh thì th ầ m vào tai cô. Cô lắc đầu. Cô nói d ố i. Cô nợ anh, và cô sẽ s ố ng sót. Anh hơi rút ra và lại d ấ n lên trước khi cô có cơ hội sẵn sàng đón nhận. Và thật tuyệt diệu. Cô rên lên một tiếng từ sâu trong c ổ họng, những ngón tay b ấ u chặt vào vai anh. “Em không chắc em có thích nó không, phải không?” Anh thì thầm, giọng anh trầm và gợi cảm.
“Em sẽ nằm ở đây như một k ẻ tử vì đạo và chịu đựng”. Anh lại đẩy vào, v à ch ẳ ng còn gì mang dáng dấp của một vị thánh với hơi th ở g ấ p gáp đ ê mê của cô nữa. Anh kéo tay cô ra kh ỏ i vai anh, ấn chúng xuống đệm và đan chúng vào những ngón tay anh. “Đây không phải c ơ n đau, hay tội lỗi. Đây là sự sống”. Anh đặt m ô i mình lên môi cô, nóng bỏng, ướt đẫm, và rộng mở, như cơ th ể anh đang đâm sâu vào trong cô vậy. Ngay khi đó cô lại tan chảy, nhưng anh vẫn chưa đi đến cùng với cô. Anh biết cách kéo dài, cho đến khi c ô thổn thức, quằn quại, bám chặt lấy anh. Anh làm rung chuy ể n cô hết lần này đ ến lần khác. Cô đã lạc lối trong một th ế giới hoang dại và điên cuồng của ma thuật. Những chú rồng, đầy mồ hôi, thèm khát và mãn nguyện, đe dọa sẽ thiêu cô thành tro bụi. Và những giây phút đó là bất tận, kỳ diệu, vĩnh cửu mà cô không muốn r ờ i khỏi. Cu ối cùng anh cứng người trong vòng tay cô, chiếm lấy cô hoàn toàn, và cô nghe thấy giọng anh, tắc nghẹn, khàn khàn bên tai. Anh gọi tên cô qua màn sương che phủ của thời gian. Cô muốn ôm anh khi anh ngủ. Cô muốn nh ấm nháp những gì đã xảy ra, làm sống lại từng khoảnh khắc. Nhưng quá nhiều, quá l ấ n át, và cơ thể cô có những hi ểu biết khôn ngoan của chính nó. Dù cô cố vật lộn, nhưng chỉ cần nhắm mắt là cô thiếp đi ngay trước khi anh kịp ngẩng đầu. * ** Gã không mu ố n rời kh ỏ i cô. Không muốn rời khỏi cơ thể ấm áp, qu ấn quýt và nóng b ỏ ng, hay rời khỏi vòng tay mong manh nhưng mạnh mẽ của cô. Gã lại s ẵ n sàng với cô ngay lập tức , nhưng gã buộc mình phải buông cô ra. Cô ngủ ngon lành, gương mặt bị che ph ủ b ở i sự mệt mỏi v à những giọt nước mắt. Gã tự hỏi cô đã khóc lúc nào. Li ệu có phải gã đã làm cô khóc hay không. Gã kéo những t ấ m mền che phủ cho cả hai, bọc người cô chặt hơn lại với gã. Không có cách nào có thể lờ đ i sự thật gã muốn cô lần nữa, và gã hoàn toàn dự định sẽ tận hư ở ng nhu cầu đó. Đó là một phần của cuộc sống, một cuộc sống lần nữa lại sắp bị tước đoạt khỏi gã quá sớm, và gã sẽ tận hưởng tất cả mọi thứ cho đến khi chuyện đó xảy ra. Gã gạt những s ợ i tóc lòa xòa khỏi khuôn mặt đẫm lệ c ủ a cô, trong gi ấ c ngủ cô thầm thì, rúc vào bàn tay gã một cách bản năng. Gã có thể nhìn thấy những quầng thâm b ê n dưới đôi mắt cô, và gã cân nhắc đến chuyện gọi mình với mọi cái tên báng bổ xuất hiện trong cuốn sách vì đã chiếm đoạt cô khi cô đang y ế u ớt và không có một chút phòng bị. Ngoại trừ gã không h ối hận. Dù hậu quả ra sao đi nữa, những gì họ cùng chia sẻ là quý giá và bất diệt. Nó đáng giá cho dù gã phải lưu lại địa ngục đến mu ô n đời. Gã không ngủ. Gã nằm đó giữa màn đêm loang l oáng ánh tr ă ng, không rời mắt khỏi người phụ nữ đang nằm trong tay gã, uống lấy t ừ ng hình ả nh của cô, run rẩy và choáng n gợp trư ớ c những cảm xúc đang phát triển quá nhanh trong cơ thể kẻ xa lạ gã được thừa hư ở ng, kẻ giờ đ ã có cảm giác trọn vẹn như chính gã. Gã yêu cô. Emerson MacVey không biết yêu là gì, nh ư ng Gabriel Falconi thì có. Gabriel biết cách trao tặng trái tim, dù nó là một trái tim đã bị đem đi cầm cố. Một trái tim chẳng có gì ngoại trừ nguy cơ vỡ nợ. Khi gã nằm đó trong bóng t ố i, ý tưởng kỳ quặc rằng n ếu Emerson từng một lần chia sẻ trái tim th ì có lẽ nó đã chẳng nổ tan tành sau ba mươi hai năm chợt đến với gã. Một ý tư ở ng thú vị, nhưng hiện thời không còn thực sự quan trọng. Emerson đã chết. Giờ trách nhiệm cứu rỗi linh h ồ n hắn thuộc về Gabriel. Gã trượt xuống chiếc giường khi mặt trời ló dạng, vẫn còn cứng rắn một cách nhức nh ối . Cô vẫn ngủ,
nụ cười nở nhẹ trên môi, gã phủ t ấ m chăn lên người cô, qu ấ n chặt quanh cơ thể mảnh dẻ của cô trước khi lặng lẽ rời khỏi căn phòng. Lúc cô bước xuống cầu thang, thẹn thùng và ngái ngủ, g ã đã xếp đám củi m ớ i chẻ đâu ra đ ấ y, đủ đ ể d ùng cho suốt một mùa đông dài lạnh lẽo. Lò sưởi đang tỏa hơi nóng, cà phê được giữ ấm trên bếp, và gã đã làm bánh nướng xốp cho cô. Gabriel Falco ni có nhiều tài n ă ng tiềm ẩn, bao gồm c ả năng khi ế u nấu nướng. Song giữ nguyên hiện trạng tuyệt nhiên không phải tài năng gã được trao tặng. Gã cho cô ăn, làm cho miệng cô bận rộn để cô không nói được những điều cô muốn nói. Gã có thể thấy những đi ề u đó trong đôi mắt cô, và gã ho ả ng sợ. Cho đến khi cô còn chưa thốt lên, gã còn được an toàn, gã còn có một cơ hội. Một khi cô nói ra, gã sẽ bị diệt vong. Ngôi nhà đã được gia cố trước sức ép của mùa đông, những cánh cửa s ổ đã được bịt kín và buộc chặt. Chẳng còn gì gã có thể làm thêm. Nơi này không cần sửa chữa đ ồ ng bộ, nhưng bất cứ công việc nào gã bắt đầu lúc này cũng phải kéo dài hàng tháng. Và chẳng đầy hai tuần nữa gã sẽ đi. Ngoài lý do muốn ở bên cô, cần được bên cô, gã không có lý do lưu lại. Gã n ấ u mì và làm bánh mì Ý cho b ữ a trưa, sô-cô-la hạnh nhân và kem tráng miệng. Gã pha cho cô một tách cappuchino bằng những thiết bị nhà bếp lỗi thời cô được thừa hưởng từ ông bà, ngắm nhìn cô khi cô uống trà q uế v à ă n đến miếng kem tươi cu ối cùng. Và khi cô bắt đầu định nói gì đó, gã nghiêng người ngăn miệng cô lại, nếm được vị quế và cà phê. Khi gã ra ngoài mang thêm củi vào trong, cô đi theo gã, và lúc gã mong đợi điều tệ nhất xảy ra thì một qu ả cầu tu y ết đập bộp vào giữa ngực gã. Gã đu ổ i theo cô, ném cô vào đ ố ng tuyết và lăn tròn trên người cô, cho đến khi cả hai đ ề u t ê cứng, th ở hổn h ể n, phá ra cười. Rồi g ã lại hôn cô, tuyết bắt đầ u tan bên dư ớ i họ, và gã bi ế t gã s ẽ không thể ng ă n mình yêu cô l ầ n cu ối . Họ cứ thế đến chiếc ghế sô-pha trong phòng khách . Mớ quần áo đẫm tuyết của cô bị gã c ở i bỏ nằm r ả i rác khắp lối đi qua nhà bếp. Gã làm cô bận rộn đến mức cô không h ề nhận ra gã không cho cô chạm vào gã, hôn gã hay vuốt ve gã. Gã sẽ qua khỏi nếu gã có thể trao điều đó cho cô, làm điều đó vì cô. Nếu gã nhận lại bất cứ thứ gì gã sẽ bị hủy diệt. Cô vẫn đang ngước lên nhìn gã, cười không dứt. Bọn họ lọt th ỏ m trên gh ế rồi tiếng cười của cô ngưng bặt khi gã lấp đầy cô, đẩy sâu, không còn sợ làm tổn thương cô. Cô cong người lên đón nhận gã, cả cơ thể siết chặt quanh gã, hai cánh tay níu lấy gã, khuôn mặt dúi vào vai gã. Cơn bão lửa đam mê, nóng bỏng, nhanh chóng và hung dữ diễn ra ngay lập tức và kéo dài mãi không ngừng. Cả hai hổn h ể n, thỏa mãn trong sự tĩnh mịch của chiều mùa đông đang bao quanh. Thi thoảng tiếng tanh tách vọng ra từ lò sưởi phá vỡ không gian yên ả. Gã ôm cô, mắt nhắm chặt, không sẵn lòng, chưa sẵn sàng để đối mặt với những gì gã biết sắp diễn ra. Gã cứ ôm cô, và biết gã sẽ phải để cô đi. N ếu Augusta nghĩ đến chuyện trừng phạt gã, bà ta không cần phải nghĩ ra cực hình nào hiệu quả hơn. Đ ố i với gã ngay cả địa ngục cũng trở nên nh ợ t nhạt khi đem so với ý nghĩ phải rời bỏ Carr i e. Rồi gã buông cô, đ ứng hẳn dậy và bi ế n mất vào trong nhà bếp . Gã nhặt đ ố ng quần áo mà gã đã kéo khỏi ngư ờ i cô lên. Gã xốc lại chiếc qu ầ n jean, c à i c ú c c hiếc á o s ơmi bằng v ả i flannel của gã. C ô nằm thu mình trên sô-pha, một nụ cười thỏa mãn, b í
ẩ n nở trên gương mặt cô. Cô nhìn gã khi gã đặt đám q u ầ n áo bị cởi bỏ lên người cô, và cô định nói rằng cô yêu gã . Gã ngăn cô lại. “Anh sẽ làm cho em một chút cà phê”, gã nói. “Cứ ở yên ở đây”. Cô lười bi ế ng mỉm cười. “Anh có chắc không mang chút dòng máu của người Scandinavi trong người không? Anh uống cà phê như một người Thụy Đi ể n vậy”. Gã không biết loại máu nào đang chảy trong những mạch máu của gã. Bất k ể là loại gì, nó cũng chỉ là đồ đi mượn. Gã c ố đáp lại nụ cười của cô, cố gắng lùi xa khi những gì gã muốn là kéo cô vào vòng tay gã. “Trước kia anh uống trà”. Câu đó khiến cô giật mình. “Em cũng từng biết một ngư ờ i đàn ông thích uống trà”, cô trầm giọng. Chết tiệt, chết tiệt nó chứ. “Vậy sao? Chỉ có một người thôi? Anh biết hiện nay s ở thích đó cũng khá hiếm”, gã nói, cố tỏ chút bông đùa trong giọng mình. Nhưng cô đ ơn giản chỉ nhìn gã, vẻ mơ h ồ th ẫ m lại trong đôi mắt xanh to của cô. “Ch ỉ một”, cô nói. “Cho đ ến khi g ặ p anh”. Và gã biết cô không phải đang nói v ề sở thích với bá tước h ồ ng trà. Trời nhá nhem tối, chiều tháng Mười hai d ầ n khép lại quanh họ. Gã ngồi xuống chiếc bàn ăn, tách cà phê đen trong tay gã, và nhìn ráng chiều bên ngoài, cố gắng gom đủ s ứ c mạnh để rời bỏ cô. Gã có thể nghe tiếng cô lục lọi trong phòng khách, ngâm nga nho nhỏ, một bài hát mừng lễ Giáng sinh, và gã nhủ thầm khoảnh khắc nguy hi ể m v ề chủ đề các loại trà đã trôi qua. Chẳng cách nào làm cô có thể liên tưởng gã với thằng kh ố n nhẫn tâm kia, kẻ đã hủy hoại cuộc đời cô. Cô vào bếp, tiến lại gần gã từ phía sau, vòng hai cánh tay quanh cổ gã, ấn mái đầu gã vào bầu ngực mềm mại của mình khiến gã rên lên vì khoái cảm. Lần này gã không thể ngăn cô. Gã không thể hôn cô, để nh ấ n chìm ý định của cô trong im lặng. “Em yêu anh”, cô khẽ nói. “Anh thừa biết, và anh sợ hãi khi thấy em chuẩn bị nói với anh. Anh đã cố gắng ngăn em cả ngày, nhưng thực sự không có gì đáng sợ cả”. Cô hôn lên má gã, và mắt gã run run nhắm lại trong nỗi tuyệt vọng đột ngột dâng cao. “Thật kỳ lạ, nhưng dường như em vẫn luôn yêu anh. Ngay cả khi em từng phải lòng một người khác, vẫn như thể đó là anh. Thật l ố bịch, phải không anh?” Gã cứng ngắc và yên lặng trong vòng ôm của cô. “Anh tư ở ng em muốn tình dục không ràng buộc?” Gã gay gắt. “Em nói d ối ”, cô cọ mặt hai người vào nhau, theo ánh nhìn như đui mù của gã ra ngoài ánh hoàng hôn. “Em muốn anh”. Ch ế t tiệt. Chết tiệt cái đám khốn kiếp ấy đi, nhưng gã có biết . Gã đã có được tình yêu đó hai l ầ n trong đời và lần sau cùng , gã đã chi ếm đoạt một người phụ nữ đang đau đớn và yếu mềm, người sẵn sàng để được yêu. Gã đã chi ế m lấy cô, và chẳng bao lâu nữa gã sẽ bỏ rơi cô, lần này do định mệnh nghiệt ngã chứ lựa chọn không nằm trong tay gã. Gã đã có cơ hội cứu cô, và gã chỉ mang cô trở lại tình trạng bị tổn thương hệt lần trước. Quỷ tha ma bắt gã đi, gã chua chát nghĩ. Gã xứng đáng với những đau đớn dày vò đến mu ô n đời. Nhưng cô thì không. Gã c ẩ n thận kéo tay cô ra, rời bàn và nhìn cô. Gã không có lựa chọn trong việc phải rời bỏ cô, nhưng gã có thể quyết định thời đi ể m và cách ra đi. Gã có thể ở lại với cô ngay lúc này, yêu thương cô cho đến hai tuần sau, và ru ồ ng r ẫ y cô vào đêm Giáng sinh không một lời giải thích. Hoặc giờ này gã có thể hành động như một thằng kh ố n, để cô nhận ra là cô nên t ố ng khứ gã. Chẳng có lựa chọn nào hết. Lựa chọn thứ hai làm gã đau đớn, tuy sự trừng phạt đến với gã sớm h ơ n một chút, nhưng cô sẽ có hy vọng được giải thoát. “Anh tốt hơn hết nên quay về”, gã nói, lạnh lùng và xa cách. “Lars và Maggie
có lẽ sẽ thắc mắc anh đang ở đâu. Gi ờ em có th ể tự ch ă m sóc cho b ả n thân được rồi chứ?” Trong nhà bếp mờ t ối gã có thể nhìn thấy gư ơ ng mặt cô trở nên trắng bệch. Cô dè dặt lùi khỏi gã tìm ki ế m sự b ả o vệ, làm gã muốn vòng tay ôm lấy cô, làm d ịu đi nỗi đau trên gương mặt cô. Nhưng thay vào đó gã với tay lấy chiếc áo khoác treo trên chiếc móc gần cửa. “Nếu em c ầ n gì, hãy gọi điện cho Maggie”, gã vừa nói vừa mặc áo. “Tôi sẽ làm th ế ”, giọng cô nhạt đi, không còn sinh khí. Gã cố nặn ra một nụ cười vui vẻ. “Và phải ti ế p tục ăn. Em không nên đ ể bị kiệt sức nữa. Anh sẽ không ở đây nếu em lại bị viêm phổi đâu”. Cô hơi rúm người, cử động khó nhận ra trong mắt người khác. “Không, anh sẽ không ở đây”, cô nói đều đều. “Tôi sẽ không cảm ơn anh…” “Coi như anh đã nhận được phần thưởng xứng đáng”, ánh mắt gã cố ý đểu cáng. Gã có thể đã đẩy cô đi quá xa. Hai bàn tay cô siết chặt, và gã tự hỏi phải chăng cô sắp đánh gã. Và gã sẽ làm gì nếu cô thật sự đánh gã. Cô cố nở một nụ cười nhạt. “Tạm biệt, Gabriel”, cô thì thào. Còn tệ hơn c ơn đau tim đã từng bùng nổ và giết chết g ã . Tệ hơn khi những nhân viên y t ế nện lên người gã, tệ h ơ n cái ý nghĩ bị thiêu đ ố t vĩnh viễn trong l ử a địa ngục. Và đó l à tất cả những gì gã có thể làm cho cô. “Tạm biệt, bé con”, gã nói, hòa mình vào bầu không khí toàn sư ơn g gi á . Gã không dám nhìn lại. Nếu gã nhìn thấy cô khóc, gã sẽ không chịu đựng nổi. Chiếc xe của Lars nhanh chóng khởi động với tiếng ầ m ầm lỗ mãng. Gã cho xe lùi ra kh ỏ i l ối đi nhà cô, phút chót gã liếc mắt qua cửa sổ. Gã thấy cô đang đứng đó, bất động, và vô cùng kiêu hãnh. Cô sẽ làm được, gã tự nói với bản thân. Cô rất mạnh mẽ, quá mạnh mẽ đến mức khiến một con gà tây hèn nhát như Emerson MacVey có được cô hai lần trong đời. Cô sẽ sống sót thôi. Tạ ơn Chúa, còn gã thì không. * ** Không ai ngạc nhiên trước sự xuất hiện trở lại của gã ở nhà của vợ chồng Swensen. Alexander Borodin vừa mới đi, và nơi đây vẫn còn náo động. “Một gia tài, Gabriel”, Lars rộn ràng. “Người đàn ông đó đã đ ề nghị với tôi cả một gia tài”. “H ã y đ ề phòng những kẻ Hy Lạp mang theo tặng ph ẩ m [2] ” , Maggie nói, nhưng cũng không sao dập tắt hy vọng bùng lên trong đôi mắt. [2] Là một trong những câu của Laocoon trong câu chuyện về con ngựa thành Troy. “T ô i nghĩ ô ng ấy là người Nga”, Gabriel lè nhè nói. “Ông ta là người Mỹ, vì Chúa”, Lars nói. “Giống như chúng ta”. “Một người Mỹ vô cùng giàu có”, Nils ríu rít. “ Ô ng ta đang sửa ch ữ a một chuỗi các khách sạn độc nhất trên toàn thế giới, và ông ta đã đề nghị với cha công việc trang trí nội thất gỗ. Đủ công việc cho đến tận mấy năm sau và nhiều hơn thế nữa”. Gã lại gây tai hoạ, Gabriel khổ s ở nghĩ. Tất cả đều phản tác dụng. “Vậy tức là anh sẽ rời khỏi đây?” Gã cẩn thận hỏi với giọng trung lập. “Chỉ để đến thăm các công trình thôi. Chúng ta cần dựng một xưởng ngay trong thị tr ấ n, phần lớn các công đoạn sẽ làm ở đây rồi g ử i chuy ể n đ ến các khách sạn. Tôi sẽ giám sát cả hệ thống, nh ư ng tôi thích được đi du ngoạn một chút hơn. Miễn là tôi có Angel Falls là nơi trở về”. “Nghe thật tuyệt”, Gabriel nói, che đậy sự nhẹ nhõm của mình. Vậy là sau cùng gã cũng làm được một việc đúng đắn. Gã tự hỏi Augusta sẽ trừng phạt thế nào trước sự dụ dỗ Carrie của gã. “Cả núi công việc cho cậu nữa, Gabriel”, Maggie nói. “Ông Borodin đã nhìn thấy một ít sản phẩm của cậu, và ô ng ấ y nghĩ cậu có tài năng. Gần giỏi bằng Lars c ủ a tôi vậy”, chị tự hào. “Anh ấy muốn cậu giúp đỡ”. Gabriel lắc đâu. “Tôi không th ể . Tôi đã nói với mọi ngư ờ i rồi, tôi có việc ngay sau lễ Giáng sinh”.
“Cậu không biết loại tiền nào người đàn ông đó có th ể trả đâu ” , Lars nói. “Không tin nổi, cực kỳ ấn tượng, nó…” “Không hơn những gì cậu xứng đáng”, Maggie nhạy bén nói. “Cậu không thể bỏ sao, Gabriel? Hãy bảo họ có chuyện vô cùng quan trọng đã xảy ra. Liên quan đến tươn g l ai của cậu”. Còn tương lai nào cho gã nữa? Gã lắc đầu. “Xin lỗi”, gã nói. “Tôi ước mình có thể. Nhưng tôi đã cam kết rồi”. “Nhưng…” , Nils bắt đầu. “Để cậu ấy yên đi”, Lars nói, nhìn gã một cách gần gũi. “Cậu ấy biết sẽ luôn có một vị trí cho cậu ấy ở đây. Chúng ta luôn cần cậu ấy. Nếu cậu ấy muốn, và có khả năng, cậu ấ y sẽ ở lại”. “Không đ ầ y hai tuần nữa là đến lễ Giáng sinh”, Gabriel nói. “Tôi đã hoàn tất công việc ở chỗ Carrie, ít nh ấ t tôi cũng có thể giúp anh bắt đầu”. “Trước hết, tôi cần tìm một chỗ để làm việc. Chúng ta ph ả i thuê ít nhất mười hai người mới đ ủ , và tôi lập tức có thể biết ai cần việc lúc này. Chúng ta càng bắt đầu s ớ m, nh ữ ng người đàn ông đó càng sớm mang được chút tiền về”, Lars nói. Và rồi đôi mắt anh hẹp lại. “Cậu hoàn tất mọi việc ở chỗ Carrie rồi phải không?” “Đã hoàn tất”, gã dứt khoát. “Nhà máy cũ th ế nào? Nó vẫn trong tình trạng có thể s ử dụng được chứ?” “ T r ờ i ạ, cậu nói đúng. H ầ u h ế t máy móc đã bị bán đi , nhưng một vài món thật sự lớn v ẫ n ở đó, và nghe nói tòa nhà đó giá một đô la”. “Một đề nghị đầy tính tiết kiệm”, Gabriel lãnh đạm. “Chúng ta sẽ ki ể m tra vào ngày mai. Mà sao tôi không nghĩ ra nh ỉ ?” Lars gặng hỏi về công ty. “R ấ t nhi ề u lần, Gabriel ạ, tôi nghĩ cậu hẳn là thi ê n th ầ n hộ mệnh của tôi”. “Không hẳn”, gã dài giọng. “Chỉ là kẻ ghé qua thôi”. Và bên ngoài ngôi nhà cũ, gió bắt đầu gào thét, như những âm thanh săn lùng của địa ngục, đang triệu tập gã. Chương 14 Carrie đứng trong nhà bếp tối đen, nhìn anh lái xe đi, cảm giác tê tái tràn ngập tâm hồn cô. Nỗi đau sẽ đến, cô biết. Một lần nữa cô lại trở thành kẻ ngốc, dâng hiến trái tim cho người đàn ông không cần đến nó. Bây giờ cô chỉ có thế cầu Chúa phù hộ cho sự tê cóng đang bủa vây lấy cô. Carrie đợi cho đến khi ánh đèn pha biến mất trong màn đêm, rồi chậm rãi quay lại phòng khách. Cô nhìn chằm chằm chiếc sô-pha, vào làn vải nhăn nhúm, những chiếm nệm xô lệch, và thùng đựng gỗ chứa đầy những thanh gỗ mới, rồi vòng tay ôm lấy cơ thể đang run rẩy của mình. “Quỷ tha ma bắt anh ta”, cô nói to, rõ ràng và cố ngăn những giọt nước mắt. “Cầu cho linh hồn anh ta cút xuống địa ngục.”. Những lời đó khiến cô choáng váng. Đột nhiên, không hiểu vì sao, chúng trở nên rất thật. Không phải lời nguyền rủa vô nghĩa theo lẽ thường nữa, mà là một lời nguyền hoàn toàn chủ tâm. Không ai đáng bị như thế, ngay cả với người đã chạy trốn tình yêu ngay khi mới bắt đầu. “Không”, cô kiệt quệ nói. “Đừng nguyền rủa anh ấy. Chỉ cần giúp con quên anh ta”. Cô nhìn quanh phòng khách, những bức tường ốp gỗ đơn giản, những tấm rèm bao phủ, những khung cửa sổ đóng đầy tuyết. Cô chưa chuẩn bị gì để đón lễ Giáng sinh, và mùa lễ thì đã gần như ở đây rồi. Cô cần trang trí ngôi nhà, dọn dẹp lại, cô cần những hoạt động thể lực mệt nhọc để không có thời gian suy nghĩ, không có thời gian ủ ê. Cô cần xóa bỏ mọi ký ức về Gabriel Falconi từ tâm trí đến thể xác. Cô sẽ làm được, sau khi anh rời đi. Thông thường cô không hứng thú với tình trạng ngôi nhà, nhưng đêm nay và ngày hôm sau cô hẳn sẽ làm cho bà cô tự hào. Đêm nay và những ngày tiếp theo cô sẽ hoàn thành công việc dọn dẹp ngôi nhà. Cô lau chùi tất cả đồ đạc, lôi hết nến, vòng Giáng sinh, đồ trang trí và những cành linh sam thơm ngát ra. Cô thậm chí còn kéo về nhà một cây thông khá lớn, cố định nó vào một góc và trang hoàng với những chiếc đèn trắng nhỏ xíu cùng tất cả những vật trang trí bằng vải cô làm trong suốt năm qua. Trên ngọn cây cô
đặt thiên thần tự tay làm khi nghe tin Emerson MacVey chết. Đó là một thiên thần thực khôi hài với gương mặt như hề, nụ cười toe toét nghiêng nhiêng và đôi mắt buồn không sao tả xiết. Dù thiên thần đó không hề giống người đàn ông cô đã từng yêu, thì vẫn luôn nhắc cô nhớ đến MacVey. Không hiểu sao, cả Gabriel nữa. Cô lùi lại và nhìn ngắm cái cây bằng đôi mắt khó tính. Có lẽ sự thật đơn giản là cô đủ ngốc để yêu hai người đàn ông không cần tình yêu, hay cần cô. Hoặc có lẽ còn điều gì khác, điều gì đó cô chưa lĩnh hội, đã kết nối hai người họ, thay cho sự ngu ngốc từ chính bản thân cô. Cô nghe tiếng mưa rơi lộp độp lạnh buốt ngoài kia. Bên trong, mọi thứ đều ấm cúng và dễ chịu, mang hơi thở của lễ Giáng sinh. Chiếc radio trong bếp chơi những bàn nhạc hát mừng, ánh đèn trên cây nhấp nháy trước mắt cô. Ai đó đã mang cho cô một miếng thịt gà giữa cả đống đồ ngọt, và nó đang được nướng trong lò, mang hương thơm tuyệt vời lan khắp nhà, hòa lẫn với bát lá quế và hoa khô cô đặt trên mặt lò sưởi. Cô vẫn đang hồi phục sau cuộc chiến với bệnh viêm phổi, cô kiệt sức vì công cuộc thu dọn nhà cửa mệt nhọc, và bản tin thời tiết đã chuyển từ cơn bão xa đến cảnh báo cơn bão đang tiến gần, mức báo dộng cao nhất cho những ai thấu hiểu. Carrie biết r õ cô cần thu mình trước lò sưởi, ăn miếng thịt gà, đọc một chút để xoa dịu nỗi đau, và đi ngủ sớm đêm nay. Cô cũng biết mình không hề có ý định làm thế. Trong lòng cô không thoải mái, và tất c ả công việc trang hoàng quét dọn nhà cửa cũng không thể gạn lọc tâm trí cô. Cô phải từ bỏ Gabriel, coi anh như một bài học đắt giá và quay lại cuộc đời hiu quạnh của mình. Dù sao cô cũng tạ ơn Chúa khi đã không để lại cho cô điều gì đau đớn hơn. Cô tiếp tục cố gắng dồn nén cảm xúc, đẩy mình vào trạng thái cam chịu một cách bình tĩnh, nhẫn nhịn chấp nhận như một kẻ tử vì đạo. Không phải anh đang chạy trốn khỏi cô. Anh chạy trốn khỏi chính bản thân anh. Nếu anh là một kẻ lăng nhăng vô lương tâm và lạnh lùng, anh sẽ đơn giản đáp lại kiểu như “Anh cũng yêu em, bé cưng”. Thay vào đó, anh đông cứng rồi chạy mất, và cô thì cuộn mình lại như một chú chó đầy những vết thương, âm thầm chịu đựng đau đớn. Nhưng cô không sẵn sàng để chịu đựng lâu h ơ n nữa. Cô sẽ ra ngoài trong cái đêm băng giá chết người này, và cô sẽ đến giáp mặt với Gabriel Falconi. Cô sẽ chiến đấu vì anh. Và có lẽ cô sẽ thắng. *** Gabriel đứng dậy vươn vai và khẽ buông một tiếng rên rỉ khổ sở. Gã đã ở xưởng của Lars cả ngày, chăm chút từng chi tiết của cột trụ cầu thang, tỉ mỉ đến mức người cầu toàn như Lars cũng phải trêu chọc gã. Nhưng dù làm việc bận rộn gã cũng không quên được cô. Không gì có thể. Gã không muốn ở cạnh bất cứ ai. Những hân hoan sôi nổi của gia đình Swensen, khiến nơi an toàn của gã chỉ còn lại mấy góc nhà, làm gã phát điên. Nhưng sự im lìm của ngôi nhà, khi bọn họ đi, còn tệ hơn. Gã nên đi với bọn họ đêm nay. Cả nhà nhồi nhét trong chiếc pickup cùng chiếc station wagon cũ kỹ và khởi hành đến nhà máy cũ để kiểm tra khả năng sử dụng của nó. Gabriel không cần đi với họ để biết cái nhà máy đó vẫn ổn. Gã đã hoàn thành xong phần của mình, cứu nạn nhân thứ hai, và tất cả trở nên rõ ràng, gọn gàng, tạ ơn Chúa. Hơn nữa, gã cũng không muốn đi thăm 'hiện trường vụ án'. Chỉ nhìn bên ngoài nhà máy bị bỏ hoang đó cũng đã đủ dấy lên những đợt sóng tội lỗi trong gã rồi. Gã tự hỏi lúc này Carrie đang làm g ì . Gã tự nhủ gã chỉ quan tâm đến việc cô có được tính là một thành công của gã hay không, và gã biết mình đang nói dối. Maggie đã nói chuyện với cô sáng nay, và ngay đến những câu hỏi thận trọng phần lớn thuộc về Gabriel cũng không moi được thông tin. Có lẽ chẳng có gì để khai ra. Augusta - Gertrude không hề đến đây, phẩy tay gọi sét và những hăm dọa từ cơn thịnh nộ của Chúa. Có lẽ gã đã sẵn sàng tập trung vào người thứ ba trong nhiệm
vụ. Gã không có lựa chọn nào khác. Ở cạnh Carrie càng lâu gã càng làm hỏng nhiều thứ hon. Gã sẽ ngập sâu vào rắc rối, vào tình yêu với cô. Gã cần quên đi nhu cầu muốn gặp cô mà gã không sao chịu nổi. Gã cần tìm ra người thứ ba. Gã đã nghĩ đến việc h ỏ i thẳng Gertrude, nhưng gã thừa biết chi phí thì giờ. Bà ta mong kết quả tệ hại nhất từ gã, và bà ta sẽ không muốn mọi việc trở nên dễ dàng. Có lẽ gã nên rời thị trấn. Steve đã sửa xong chiếc xe. Gabriel phát hiện gã có đủ tiền để trả cho ông ta. Nếu gã lên xe và bắt đầu lái khỏi Angel Falls, có thể nhiệm vụ thứ ba sẽ tự lộ diện. Song gã không nghĩ thế. Lars và Carrie không phải trùng hợp ngẫu nhiên, sự hiện diện của Augusta cũng như tên của cái thị trấn này. Không đầy một tuần nữa là đến lễ Giáng sinh. Gã có ngần ấy thời gian để tìm người thứ ba, và sau đó gã sẽ biến mất. Gã biết nơi gã sẽ đến, và gã chấp nhận. Một nơi nào đó khác, không cần phải hỏi, là cái giá phải trả cho việc chạm vào Carrie, hôn cô, nhận lấy những gì cô liều lĩnh dâng hiến và quá sức ngọt ngào. Và nó đáng giá đến từng giây phút của sự vĩnh viễn sau này. Gã vẫn sẽ làm cái việc đáng nguyền rủa nhất là tìm ra người thứ ba. Có lẽ gã đã hết thời gian để cư xử sao cho phải phép. Có lẽ nếu gã hữu dụng cho cả hai người sau thì Augusta sẽ châm chước cho phần thất bại với Carrie. Có lẽ gã sẽ qua bài kiểm tra mà không có một lời khen thích đáng. Nhưng không công bằng! Những kẻ khác chết mà có phải trải qua mớ rắc rối chết tiệt này đâu? Những kẻ được sống lâu hơn cũng không bị cắt ngắn thời gian đẹp nhất của họ, khi có quá nhiều điều để sống. Còn Emerson MacVey đã sống vì cái gì? Tiền. Một căn hộ cao cấp lạnh lẽo, một cuộc đời thượng lưu lạnh lẽo. Ở tuổi ba mươi hai hắn gây ra nhiều tệ hại hơn người và đột ngột kết thúc cuộc đời. Quỷ thật, gã không xứng đáng được lên thiên đường. Gã chấp nhận nhưng không có là nghĩa sẵn sàng từ bỏ. Gã sẽ tìm ra người thứ ba và làm hết sức mình. Một điều gã sẽ không làm là mang thêm nỗi đau đến cho Carrie Alexander. Gã sẽ không đến gần cô nữa. Ánh đèn trong căn bếp cũ chập chờn rồi phụt tắt. Gabriel nguyền rủa trong bóng tối. Một lúc sau gã mới tìm được diêm và nến. Trong bóng tối gã có thể nghe thấy màn mưa buốt lạnh quất rầm rầm vào khung cửa sổ, và gã nghĩ đến gia đình Swensen, khi ra ngoài trong một đêm thế này. Như một tín hiệu, chuông điện thoại reo vang. Phải hơn năm hồi chuông gã mới tìm thấy nó trong bóng tối “Gabriel bọn tôi sẽ không về nhà đêm nay”, Lars tuôn một tràng, vui hơn bao giờ hết. “Cảnh sát đã phong tỏa đường chính, con đường đóng băng quá nguy hiểm. Gertrude sẽ cho bọn tôi trú nhờ qua đêm”. Tất cả ngờ vực của Gabriel bị khuấy động ngay lập tức. “Tại sao lại là Gertrude?” Gã hỏi. “Bà ấy sống ngay cạnh nhà máy”, Lars kiên nhẫn giải thích. “Cậu ở một mình sẽ ổn chứ, chàng trai? Đừng đi đâu trong thời tiết thế này. Cậu không quen, ngay cả người có nhiều kinh nghiệm cũng biết rất nguy hiểm”. “Tôi sẽ ở trong nhà. Điện bị cắt rồi”. Lars thở dài. “Phải rồi. Tôi ước gì cậu đi với chúng tôi”. “Và kết thúc với việc nghỉ đêm lại nhà Gertrude? Thôi, cảm ơn anh. Tôi thích ở một mình hơn”, gã nói. “Nếu có điện tôi sẽ làm thêm một ít việc nữa. Nếu không tôi sẽ lên giường đi ngủ”. “Cứ thế đi. Giữ ấm nhé, Gabriel. Bọn tôi sẽ gặp cậu vào sáng mai”. Gabriel bước đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài màn đêm đen đặc. Tuyết trắng xóa phủ kín con đường, những chiếc xe, những ô cửa sổ tạo nên những âm thanh nho nhỏ. Gã nhìn chằm chằm ra ngoài trong giây lát, và rồi nheo mắt lại. Ai đó đang lái xe trên đường, chính xác hơn, ai đó đang bị trượt trên đường, đèn pha lắc lư dữ dội khi họ cố kiểm soát chiếc xe. Họ sẽ ổn thôi, gã nhủ thầm, cố nén nỗi sợ hãi chợt dấy lên. Con đường này tương đối bằng phẳng. Nếu họ giảm tốc độ xe, tìm kiếm một nơi trú ẩn, họ sẽ không bị thương. Và ai lại ngu ngốc đến mức lái xe ra ngoài trong một đêm thế này
chứ? Gã nhìn theo và thấy chiếc xe táp vào lề đường. Mặc tiếng gào rít của cơn gió và sự dầy đặc của cơn bão ngoài cửa sổ, gã vẫn nghe thấy tiếng va quệt của mặt sau chiếc xe với một trong những cái cây ven đường. Gã đợi cho người lái xe di chuyển, cố gắng điều khiển chiếc xe đi tiếp. Một lát sau đèn pha vụt tắt, và chiếc xe biến mất vào trong bóng đêm cuồn cuộn. Nó đỗ ở ngôi nhà ba gian phía dưới, chỗ của gia đình Milsom. Ai đó rõ ràng đã đến thăm vào kì nghỉ, gã tự nhủ, chán chường nhìn ra ngoài. Lẽ ra mấy người đó phải có đầu óc đợi cho đến khi thời tiết khá hơn mới phải. Nhưng gã biết mình đang tự lừa phỉnh bản thân. Gã biết. Khi nghe thấy âm thanh của những bước chân leo lên hành lang phủ đầy tuyết bên ngoài nhà, khi nghe thấy tiếng gõ cửa, r ấ t to và kiên quyết, gã biết đó là ai. Gã chỉ không hiểu tại sao cô lại đến. Gã cân nhắc không trả lời, rồi xua đi. Cũng như gã không muốn nhìn thấy cô, gã không thể để cô ra ngoài trong cơn bão thêm lần nữa. Cô đã ngu ngốc gấp bảy lần khi mạo hiểm ra ngoài rồi. Gã không định để cô mạo hiểm cuộc sống của cô. Gã cầm chân cắm nến đi được nửa đường đến cánh cửa thì nó bật mở. Hầu như chẳng có ai ở Angel Falls khóa cửa nhà, hoặc đợi quá lâu để tiếng gõ cửa được trả lời. Cô đứng giữa khung cửa chằm chằm nhìn gã, tuyết phủ đầy áo choàng và tóc. Không một chút trách cứ trên gương mặt xanh xao xinh đẹp của cô. Không tuyệt vọng, không khát khao , không tan vỡ. Chỉ đơn giản là cơn thịnh nộ như muốn khẳng định cuộc đời mà thôi. Cô đóng sập cánh cửa sau lưng rồi bước về phía gã. “Anh nghĩ anh là cái chết tiệt gì hả?” Cô hét lên giận dữ. Gã không cử động. “Đó thực sự là một câu hỏi rất hay”, gã nói. “Anh cũng không chắc cho lắm”. “Đừng nói với tôi câu đó”, cô nói, giật tung chiếc áo khoác, những ngón tay run rẩy. Chúng run lên vì tức giận hay vì lạnh thì gã không biết được. Hay thứ gì đó khác, thứ gì đó đang cháy giữa hai người họ, thiêu đốt hai người họ, giống như đám cháy rừng vượt ngoài tầm kiểm soát. “Anh không có quyền ngủ với tôi rồi bỏ chạy khi tôi nói với anh rằng tôi yêu anh. Không có quyền”. Cô ném chiếc áo khoác xuống sàn nhà sạch bong của Maggie rồi tiếp tục đi về phía gã. “Em đã bảo em chỉ muốn quan hệ xác thịt”. “Tôi nói dối”, cô nói thẳng toẹt. “Và anh thừa biết”. Gã giật lui khỏi cô. Cố gắng tránh né, cố gắng cho cô cơ hội cuối cùng để tự cứu lấy bản thân. Giận dữ là thứ tốt nhât giúp được cô. Gã cần nuôi dưỡng cơn thịnh nộ của cô như muốn khẳng định cuộc đời đó của cô. “Có lẽ anh không quan tâm”. “Có lẽ” cô nói, vẫn tiếp tục đi về phía gã trong hành lang đen ở ngôi nhà cũ của gia đình S w ensen. “Hoặc có lẽ anh quan tâm quá nhiều. Em tin anh khi anh nói anh phải đi. Rằng anh không có lựa chọn nào khác. Em không tin anh khi anh bảo không quan tâm đến em. Anh không giỏi nói dối.” Emerson MacVey đã từng là một kẻ nói dối điêu luyện. Gabriel c ố vớt lấy cái tài năng thất lạc ấy, để ngăn Carrie lại. Gã cần thuyết phục cô rằng gã là điều tồi tệ nhất với cô. Không phải vì gã, gã chấp nhận những trừng phạt bản thân. Mà là vì cô. “Nghe này”, gã nói, cố tạo ra cái giọng lạnh lùng khi gã cùng đường phải dựa vào bức tường, không còn nơi nào để rút lui nữa. “Đây đơn giản chỉ là chuyện liên quan đến hoóc môn thôi. Em có sẵn, còn anh thì có nhu cầu, chúng ta đã có một khoảng thời gian tuyệt vời, miễn luôn vụ cảm xúc. Khi cảm xúc dính vào, anh nghĩ là lúc phải đi. Em không thực sự yêu anh. Phụ nữ là như vậy, thỏa mãn khi ở trên giường rồi những dạy dỗ về trinh tiết tự thuyết phục họ phải gọi đó là tình yêu. Họ không được phép tận hưởng cơ thể của chính mình. Chỉ có thế thôi, Carrie. Tình dục nó tuyệt vời thế đấy. Tin anh đi”. Gã đợi, cho đến khi nhìn thấy cơn thịnh nộ của cô héo dần, gương mặt cô nhăn lại trong sự công nhận đầy đau đớn. Nhưng cô vẫn dấn lên. “Không hiệu quả đâu, Gabriel. Thử lại l ầ
n nữa xem nào. Hãy nói với em chính sự thèm khát đã giữ anh ở bên cạnh em, bón cho em từng thìa trà, từng thìa súp, chăm sóc em”. “Có lẽ đó là tội lỗi”. Câu đó ngăn được cô, ít nhất là trong chốc lát. “Tội lỗi?” “Em là chuyên gia, không phải sao? Em tự đổ trách nhiệm cho bản thân vì tất cả những điều tồi tệ từng xảy đến với thị trấn này. Đâu phải vì một thằng tham lam nào đó thình lình cho đóng cửa nhà máy mà coi như em có tội. Em đang cố gắng hết sức, nhưng em cũng đang chơi với lửa. Ngay từ đầu, MacVey nằm ngoài hiểu biết của em và em nên sớm ngộ ra. Em đã làm những gì có thể, nhưng bị phản tác dụng. Nhà máy đã gặp rắc rối từ rất lâu trước khi MacVey đụng đến nó, việc đóng cửạ chỉ là vấn đề thời gian”. Gương mặt cô không còn chút máu. “Làm sao anh biết tên hắn là MacVey?” Khốn nạn thật, gã nghĩ. “Maggie đã nói gì đó”, gã ngay lập tức ứng biến. “Maggie không biết hắn”. Giọng cô thẳng băng, buộc tội. Gã có thể thấy mình bắt đầu đổ mồ hôi. “Gertrude...” “Gertrude cũng không biết. Em chưa từng kể với bất cứ ai về hắn. Chứ đừng nói đến tên. Anh là ai, Gabriel? Tại sao em có cảm giác như thể em biết anh?” Gã mở miệng định nói cho cô, nhưng câu chữ không thể thoát ra. Cô xứng đáng được biết sự thật, nhưng gã không thể trao nó cho cô. “Lars”, gã đột ngột nói, ý nghĩ bất chợt đó không hơn gì một điều kỳ diệu. “Em chưa từng kể cho Lars nghe...” “Không, nhưng em đã kể rằng em chịu trách nhiệm về một gã nhẫn tâm tham vọng nào đó, kẻ đã mua nhà máy rồi cho nó đóng cửa. Và Lars biết tên gã đàn ông. Hiện anh ấy đang đàm phán về việc sử dụng tòa nhà đó”. “Anh ấy sẽ không đàm phán với MacVey”. “Không”, Gabriel nói. “MacVey đã chết. Chết thiêu trong địa ngục, gần như là thế”. Cô nhìn gã chằm chằm. “Em không nghĩ vậy”, cô nói. “Nhưng chúng ta không phải đang nói về MacVey. Chúng ta đang nói về em và anh”. “Chẳng có em và anh nào hết”. “Nghĩ lại xem”, cô nói. “Hãy nhìn em và bảo với em cái đêm chúng ta ở cùng nhau ch ỉ là tình một đêm. Một cuộc lăn lộn trên đống cỏ khô. Hãy bảo với em rằng anh không cảm nhận được cái gì từ em hết”. Cô trông kiên quyết, mạnh mẽ và đầy sức sống, ngọn lửa quyết tâm cháy phừng phừng trong đôi mắt. Một người phụ nữ như Carrie không dễ dàng bị hủy diệt. Một người phụ nữ như Carrie sẵn sàng chiến đấu vì bất cứ thứ gì cô muốn. Gã đã cảnh báo cô, và giờ bị nguyền rủa vì chuyện đó. Gã chỉ có thể xuống địa ngục. “Anh không cảm nhận được thứ gì từ em”, gã nói, giọng dứt khoát và không thỏa hiệp. Ánh sáng bắt đầu nhạt đi trong đôi mắt cô. “Anh yêu em”. Khuôn mặt cô giãn ra, hân hoan với tình yêu. Nhìn cô đẹp đẽ thế này gã càng thêm đau đớn. Gã thổi tắt ngọn n ế n để cả hai chìm vào bóng tối, và kéo cô vào vòng tay. Miệng cô lạnh, có mùi vị của không khí mùa đông. Cơ thể cô đang run rẩy và gã biết chẳng liên quan đến nhiệt độ và những thứ cô làm với anh. Quá muộn, hai chữ đó nhào ra từ tận sâu trong tâm khảm và gã chặn chúng lại, b ế thốc cô lên. Gã đi qua sự đậm đặc của màn đêm với bản năng chính xác. Gã hôn cô. Họ dừng lại nửa đường trên những bậc thang, và gã để cơ thế cô trượt xuống bám lấy gã. Cô vươn tay giật tung chiếc sơ mi, hai bàn tay tham lam chạy khắp phần thân trên của gã. “Gia đình Swensen đâu rồi?” Cô thầm thì, hôn khắp ngực gã. “Đi vắng”, gã nói, giọng tắc nghẹn khi miệng cô di chuy ể n chầm chậm, xuống bụng gã, hai cánh tay quấn chặt quanh eo gã. Cô quỳ xuống bậc thang bên cạnh, ấn má vào phần căng phồng bên dưới lớp quần jean của gã, và gã không biết liệu họ có đến được căn phòng ngủ tí xíu bên dưới mái hiên không, hay gã sẽ chiếm lấy cô ngay trên bậc thang này. Họ chỉ cố gắng để đến được hành lang tr ê n gác. Gã trượt chân trên tấm thảm sờn cũ làm cả hai ngã xuống. Cô nằm trên người gã, mềm mại, ấm áp, ngát hương và cô t ìm đến miệng gã trong bóng tối, hôn gã, gạt chiếc áo khỏi bờ vai gã, trượt hai tay xuống
thắt lưng gã để tháo dây nịt. Lần này hai tay cô vững vàng, kiên quyết. Lần này tay gã bồn chồn, lóng ngóng. Gã cởi quần áo khỏi người cô, ném chúng ra xa, ấn cô xuống tấm thảm, liều lĩnh chạm vào cô, hôn cô và có được cô. Gã muốn từ tốn, nhưng cô cũng như lên cơn sốt giống gã vậy. Cô kéo gã lên giữa hai chân mình, và gã chìm vào trong hơi ấm hoan nghênh, mượt mà đó với một tiếng rên tắc nghẹn. Cô cong người đón gã, qu ấ n đôi chân dài quanh người gã, kéo gã vào sâu hơn, hai cánh tay cô bấu lấy bờ vai gã, miệng cô lần đến miệng gã bằng thứ bản năng chính xác, và mỗi cú đẩy lại mang gã gần hơn và gần hơn với thiên đường. Trời tối đen, màn đêm như nhung bao quanh họ. Gã giữ gương mặt cô trong tay, hôn lên mi mắt, lên xương gò má, lên chiếc miệng dịu ngọt, tuyệt vời của cô. Gã muốn dịu dàng với cô, muốn kéo dài mãi, nhưng gã đang chuyển động hết tốc lực theo con đường đen tối hướng thẳng đến mốc cuốỉ cùng, còn cô đang theo sát từng bước chân trên con đường ấy, hơi thở nặng nhọc, cơ thể ướt đẫm mồ hôi, bàn tay bám chặt lấy gã. Gã cảm giác cô đang siết chặt quanh gã, trái tim cô khóc lên tắc nghẹn, và rồi gã lạc lối , xô vào trong cô, đẩy cả hai đến tận bờ của bóng tối lấp lánh ánh sao vượt xa tầm lĩnh hội của gã. Gã vẫn có thể cảm nhận được cơ thể cô gợn sóng, mờ ảo quanh gã. Gã hôn lên gương mặt vương nước mắt của cô, lên mũi cô, miệng cô, và cô đáp lại nụ hôn của gã, dính sát vào gã, run rẩy và hổn hển. “Em khóc quá nhiều”, gã trầm giọng dịu dàng. “Em không khóc trong suốt hai năm qua, cho đến khi anh bước vào cuộc đời em”. Gã bắt đầu bứt ra khiến cô bám theo gã, đột nhiên trở nên liều lĩnh. “Đừng”, cô nói. “Đừng cảm thấy tội lỗi. Con người ai cũng cần khóc”. Gã chưa bao giờ khóc trong đời. Thêm một lý do tại sao trái tim gã nổ tung. “Chúng ta cần một chiếc giường”, gã nói, bế bổng cô lên, đá đống quần áo vương vãi để đi qua khoảng cách gần đ ế n vô lý với phòng ngủ của gã. Căn phòng nhỏ tối đen như mực, chỉ có chút ánh sáng thi thoảng lại lóe lên qua khung cửa sổ phủ băng. Gã hết sức cẩn thận đặt cô xuống chiếc giường sắt hẹp, nằm bên cạnh cô và ôm cô. Trên này thật lạnh, gã kéo chiếc chăn nặng phủ lên người họ, bọc cơ thể gã quanh người cô. “Anh nghĩ Lars và Maggie sẽ nói gì khi họ về và thấy em ở đây?” Cô thì thầm trên ngực gã. “Anh có nghĩ mình sẽ bị quất bằng roi ngựa không?” “Được khen ngợi là khác”, gã đáp, lùa hai tay vào mái tóc mượt mà của cô. “Anh ấy và Maggie mai mối vất vả quá còn gì”. Gã có thể cảm nhận được nụ cười của cô trong bóng tối. “Gertrude cũng vậy”. Cơ thể họ đang bện chặt lấy nhau nên cô cảm nhận được cái giật mình vì sốc của gã, nhưng thật may mắn khi cô kết luận. “Hẳn phải làm anh ngạc nhiên lắm hả? Em c ũ ng ngạc nhiên nữa. Ý em là, bà là giáo viên dạy môn xã hội của em, lạy Chúa”. “Bà ấ y mai mối thế nào?” “Bà bảo em ngủ với anh”. Gabriel nhắm mắt lại. Những động cơ của Augusta vượt ngoài tầm hiểu biết của gã. Có lẽ bà ta đang âm mưu chống lại gã. Kiểu như đưa cho gã bài kiểm tra khó khăn nhất trong tất cả, bài kiểm tra mà gã đã trượt. Bài kiểm tra gã mừng đến chết tiệt khi được trượt. “Vậy sao?” Gã lẩm bẩm. “Bà ta thông minh hơn người ta tưởng. Carrie này, anh...” những lời của gã bị ngắt quãng bởi âm thanh từ chiếc điện thoại vang khắp ngôi nhà. Cả hai đều nằm yên, cảm thấy tội lỗi một cách ngở ngẩn. “Đừng trả lời”, cô thì thầm, níu lấy bờ vai gã. “Hẳn sẽ là có rắc rối nào đó”. “Anh nghĩ em thích rắc rối”. “Giờ em chẳng thích gì ngoài anh”. Điện thoại ngừng reo, và gã bắt đầu hôn cô lần nữa, sẵn sàng cho cô, và biết rằng cô cũng sẵn sàng cho gã. Cô trở nên vô cùng dạn dĩ, bàn tay cô với xuống để bắt giữ gã, tìm hiểu gã, làm gã không thể ngăn nổi những tiếng rên vì thỏa mãn. Cả thế giới như chỉ còn lại chiếc giường hẹp bên dưới mái hiên và người phụ nữ nằm bên cạnh
gã. Cơn bão đang quần đảo bên ngoài còn hơi ấm của tình yêu đang lan tỏa bên trong. Gã chậm rãi hôn lên miệng cô, kéo dài, vạch một đường từ môi xuống cổ cho đến phần xương quai xanh của cô, rồi gã giam cầm một bên nụ hoa, hút nó sâu hơn vào miệng. Cô cũng phản ứng tức khắc, dữ dội hệt như gã, và... Điện thoại lại đổ chuông. Thế giới bên ngoài dần xâm nhập. Carrie bất động, chờ đợi. Tùy thuộc ở gã, gã biết điều đó. Cô sẽ im lặng với cả thế giới và tất cả mọi người trong đó, vì gã. Và gã biết gã không thể làm thế. Gã đã dùng ba mươi hai năm không để ý đến ai ngoài những nhu cầu và thèm muốn của bản thân. Ba mươi hai năm ích kỷ, không biết thỏa mãn. Gã không muốn mang Carrie đến cùng một chốn đơn độc như thế. “Anh phải trả lời”, gã nói, từ từ gỡ mình ra, nửa hy vọng cô sẽ níu kéo gã. Cô để gã đi. “Em hiểu”, cô nói. Ngay cả trong bóng tối gã cũng có thể nhìn thấy tình yêu rạng rỡ trên gương mặt cô. Gã va phải chiếc bàn để điện thoại khi cố tìm nó trong bóng tối và giọng nói sợ hãi từ đầu kia vọng lại là của một người đàn ông xa lạ. “Lars, tôi là Martin Baker đây. Tôi cần anh giúp”, ông ta nói với giọng khốn khổ của một người cha đang khiếp sợ. “Có chuyện gì đó với Jeffie”. Và đột ngột linh cảm cho Gabriel biết người thứ ba là ai. Không hiểu sao gã lại phá hủy cuộc đời của một thằng nhóc mười bảy tuổi. Và cứu được nó hay không tùy thuộc vào gã. Chương 15 “Có chuyện gì vậy?” Carrie ngồi dậy, chăn quấn quanh người. Với thứ ánh sáng chập chờn hắt qua những ô cửa sổ, cô có thể nhìn thấy anh đang mặc quần áo. “Anh phải ra ngoài”. Cô bò xuống giường, mò mẫm tìm quần áo của mình. “Chuyện gì vậy?” Anh thậm chí không ngừng lại. Anh cứ như một người lạ, xa cách, và cương quyết. Giống một vị thánh hơn cô rất nhiều. “Anh phải đi tìm Jeffie”. “Ai gọi điện thoại thế?” “Bố thằng bé. Ông ta đang tìm Lars. Hình như bố mẹ Jeffie bất ngờ về nhà và thấy nó đang uống rượu. Họ cãi vã, và Jeffie lấy xe bỏ đi”. “Ôi, chúa tôi”, Carrie khẽ thốt lên, “Em đã dạy nó lái xe một lần. Nó hầu như không thể điểu khiển được chiếc xe trên đường vào ban ngày, khi những con đường rõ ràng và nó còn tỉnh táo. Nó sẽ tự giết mình mất”. “Không, không đâu”, Gabriel dứt khoát. “Anh sẽ đi tìm nó”. “Tai sao lại là anh?” Cô không biết lý do cô đặt câu hỏi. Gabriel dường như là loại người luôn tránh xa khỏi rắc rối. Mạo hiểm cuộc sống của chính anh trên những con đường băng tuyết vì một đứa trẻ vị thành niên say rượu lẽ ra phải là một sự bất ngờ. Lạ một điều cô chẳng hề thấy bất ngờ. “Sao không phải là anh?” Anh phản đối. “Bố thằng bé không làm được gì, Jeffie đã lấy chiếc xe duy nhất của họ. Còn Lars có cả một gia đình phụ thuộc vào anh ấy. Anh ấy không nên mạo hiểm mạng sống khi ra ngoài trong một đêm thế này”. “Anh thì nên sao?” “Anh không có gì nhi ề u để mất”, anh nói. “Anh cần dùng xe của em”. “Tốt thôi”, cô nói. “Quần áo em đâu?” “Em cần quần áo làm gì?” “Em sẽ đi với anh, và em nghĩ hơi lạnh nếu em ở trần ra ngoài”. “Em sẽ ở lại đây”. “Em sẽ đi. Anh không quen khu vực này, em thì có. Làm sao anh có thể tự mình tìm một thằng bé trong cái đêm thế này chứ?” “Carrie...” “Em sẽ đi với anh. Đám quần áo quỷ tha ma bắt của em đâu?” Chúng rải rác khắp nơi trong ngôi nhà của gia đình Swensen. Cô tìm thấy quần jean ở đỉnh cầu thang, áo phông ở gần giữa phòng khách, quần lót lủng lẳng trên tay vịn cầu thang. Cô không tìm thấy áo lót ở đâu, và cô chỉ có thể hy vọng họ sẽ trở lại đây, khi trời đã sáng, trước khi gia đình Swensen quay về. Dù Maggie và Lars có thể đang nhiệt tình vun vén cho cô ở với Gabriel, nhưng họ sẽ vạch ra giới hạn khi thấy đồ lót của cô trang hoàng cho nhà cửa của họ. Khi cô kéo đôi bốt lên và hướng thẳng ra ngoài cơn bão, Gabriel đã ở sẵn trong xe, và nếu cô không giữ chìa khóa, cô biết anh sẽ lái xe đi một mình. Cô mà không khám phá ra anh là tài xế giỏi hơn cô thì hẳn cô
sẽ không trao sinh mạng của cả hai vào tay anh. Cô khóa mình vào ghế hành khách và chờ anh lái ra con đường phủ băng. Anh lái chậm quá mức. Và cô biết mình không làm được như anh. “Anh từng lái xe trên băng trước đây rồi à?” Cô hỏi, nhét hai tay vào áo khoác. “Anh không nhớ”. “Anh có trí nhớ lạ thật đấy”. “Ừ”, anh nói, tập trung vào con đường. Ánh đèn pha xuyên qua màn đêm lạnh giá, và cô có thể nhìn thấy bóng hình phản chiếu của anh trên ánh đèn của bảng đồng h ồ . “Chúng ta bắt đầu tìm ở đâu?” “Phán đoán của anh cũng giỏi còn gì. Em không nhìn thấy nó trên đường đến đây, nhưng em không biết nó đã đi được bao lâu. V ấ n đề ở chỗ, em không biết em đã ở bao lâu với anh đêm nay”. “Không lâu lắm”, anh nói, cẩn thận bẻ tay lái. “Không”, cô đáp lại. “Cũng khá lâu đấy chứ?” “Anh có ý này”, anh lầm bầm, và cô phải thán phục kỹ năng của anh. Mỗi lần chiếc xe bắt đầu đạt sang lề đường anh lại đi ề u chỉnh, giữ tốc độ một cách cẩn thận, và đều đặn. Nếu lúc nhìn thấy chiếc xe tải chở muối [1] họ thở phào may mắn, thì cảnh chiếc xe cảnh sát bám đuôi theo lại làm họ lo lắng, đặc biệt ánh đèn màu xanh bắt đầu lóe sáng trước chiếc xe của Carrie. [1] Loại xe cỡ lớn chở muối hoặc cát rải lên đường cho đỡ trơn trượt vào mùa đông “Anh nên tấp vào lề đi”, cô nói. “Jimmy lúc nào cũng nghĩ anh ta là Rambo [2] ”. [2] Một nhân vật trong bộ phim cùng tên, một người lính rất khỏe mạnh và hung hãn. Lớp muối mới trên đường giúp những chiếc xe có thêm ma sát, Gabriel chầm chậm cho cửa kính hạ xuống một nửa khi người cảnh sát rọi ánh đèn lóa mắt về phía họ. “Có dấu hiệu nào của Jeffie không?” “Làm sao anh biết?” Carrie nghiêng người qua Gabriel, hít vào mùi hương của anh, thầm ước bọn họ có thế vẫn còn cuộn mình trong chiếc giường chật hẹp trong phòng anh. “Bố thằng bé đã gọi cho tôi. Một số cảnh sát tiểu bang đang tìm thằng bé, nhưng chúng tôi không muốn quá nhiều người ra ngoài trong một đêm thế này. Mọi thứ sẽ càng tệ hơn. Nếu tôi là hai người, tôi sẽ quay về nhà và chờ đợi”. “Được rồi”, Gabriel nghiêm túc nói. “Đừng lo, chúng tôi sẽ cho hai người biết khi tìm thấy thằng bé”. Gabriel gật đầu, kéo cửa kính và lách chiếc xe lên trước. Carrie ngồi trở lại và nhìn anh, cố gắng kiểm soát nỗi thất vọng trào dâng. Nỗi thất vọng dần vơi khi cô thấy anh hướng vê phía trường học, thay vì quay trở lại nhà Swensen. “Em tưởng anh đã bảo chúng ta sẽ về nhà và chờ đợi “, cô nói. “Không nên tranh cãi với những người như Jimmy- Nếu em muốn anh sẽ thả em ở đó, nhưng anh sẽ đi cho đến khi tìm được thằng bé”. “Em sẽ ở lại với anh. Jeffie cần tất cả bạn bè xung quanh. Em đã sớm nhận ra cảnh sát sẽ không theo kịp thằng bé. Bố nó sẽ không kể với họ rằng nó uống rượu, và Jeffie phải đối mặt với chế tài pháp luật khi vừa lái xe vừa uống rượu”. “Điều đó có lẽ lại tốt cho nó”, Gabriel nói. “Sớm hay muộn con người ta cũng phải đối mặt với hậu quả do bản thân gây ra”. “Anh đang nói về Jeffie? Hay là về anh?” “Anh đang nói về tất cả mọi người. Gieo nhân nào sẽ gặp quả ấy”, anh nói. “Cả đời Jeffie phải gánh vác hậu quả từ sai lầm của người khác. Gồm cả anh trai và bố mẹ thằng bé”. Một tia sáng lóe lên trong mắt anh. “Baker”, anh lẩm bẩm. “Tên của anh trai nó là gì?” “Lạy Chúa, em không biết. Ý anh là tên khai sinh ấy hả? Cho đến khi anh ta bỏ trường đại học và gia nhập một tổ chức, anh ta tên là Clive Baker”. “Clive”, Gabriel thốt với giọng kì quái. “Đương nhiên rồi”. “Ý anh là sao, đương nhiên ư? Anh biết anh ta?” “Không”. “Hỏi ngốc thật. Đương nhiên anh không biết. Clive sống cả đời ở đây, cho đến khi anh ta được chấp nhận ở Harvard. Nếu không phải bọn học sinh giàu có độc ác ấy...” “Ý em là?” Cô lắc đầu với cơn tức giận bùng lên. “Một nhóm học sinh nhà giàu do thằng ngớ ngẩn nào đó cầm đầu đã bắt nạt Clive. Bọn chúng trêu chọc anh ta trầm trọng đến mức anh ta bỏ học, s ố ng vạ vật, sau đó không ai thấy anh ta nữa. Rồi sau đó gia
đình Baker cũng từ bỏ cả hai đứa con trai, em nghĩ vậy. Còn Jeffie đang phải trả giá”. “Và tất cả tội lỗi là do bọn nào đó bắt nạt Clive ở trường đại học?” “Không. Nhưng kẻ cầm đầu trong số chúng là chất xúc tác cho những thảm họa tiếp sau”. “Em có nghĩ ai đó nên bị trừng phạt vì đã trở thành một chất xúc tác không?” Gã thì thào, di chuyển với tốc độ chậm chạp, vững vàng lên ngọn đồi dài hướng về phía ngôi trường liên cấp. “Em có nghĩ bọn họ nên bị xét xử, bị phán có tội rồi kết án không...?” “Em không biết”, cô nói. “Chuyện phán quyết mọi người không phải việc của em”. “Phải”, anh nặng nề nói. “Cũng không phải của anh”. Bãi đỗ xe ngoài ngôi trường tối om và vắng vẻ, không có nổi một ngọn đèn đường. Mất điện ở khắp mọi nơi, và Carrie chỉ nhìn thấy chút ánh đèn le lói ở phía xa. “Thằng bé không ở đây”, cô không thể gạt nỗi sợ hãi và thất vọng ra khỏi giọng nói. “Có, nó ở đây”. “Gabriel, chẳng có dấu hiệu nào của thằng bé...” “Nó ở đây”, Gabriel nói, cho chiếc xe dần ngừng lại. Không có dấu hiệu của bất cứ ai trong bãi đỗ xe mênh mông tuyết phủ, nhưng Gabriel cởi khóa an toàn và ra ngoài, kéo cần về số không, giữ đèn pha của xe vẫn sáng. Ngay lập tức Carrie đi theo, gần như không thể đứng thẳng trên mặt đất đóng băng loang loáng. “Gabriel, thằng bé không...” Nhưng anh đã cách cô một quãng xa, cẩn thận đi qua mặt đất trơn trượt với quyết tâm vững chắc. Cô nhìn theo ánh mắt anh trong đường chiếu của đèn pha ô tô và nhìn thấy thứ cô đã bỏ qua trước đó. Hàng rào mắt cáo bao quanh ngôi trường đã sụp. “Ôi Chúa ơi”, cô thì thào, nhìn trừng trừng sau anh, nhưng đôi chân không nghe lời cô, cô ngã nhào đau đớn trên mặt băng. Lúc cô lồm cồm bò dậy, Gabriel đã biến mất đằng sau hàng rào, đang bước xuống con dốc. Cô ngã ba lần trước khi đến được hàng rào, và sợ hãi khi nhìn khắp mặt bên, nghĩ rằng sẽ trông thấy chiếc xe nhà Baker bẹp dúm thành một đống kim loại cùng những mảng da thịt. Nhưng cô bỗng thấy nhẹ nhõm khi nhận ra hình dáng của chiếc sedan, vẫn còn nguyên vẹn, trú giữa một lùm cây. Đèn xe đã tắt, nhưng cô có thể nghe thấy tiếng radio đang bật, một bài rap về Giáng sinh, vì Chúa, và cô nhìn thấy Gabriel đang lách người vào bên trong cánh cửa bên hông ghế lái. “Thằng bé ổn chứ?” Giọng cô run lên trong bầu không khí của màn đêm. “Ổn”, anh hét với lại, giọng anh nhẹ nhõm hẳn. “Nó bị vài vết xước đã thâm tím và đang sợ hãi, nhưng nó ổn” “Em sẽ mang xe lại gần hơn”. Lúc cô lái chiếc xe men lên theo mé đường phủ băng, Gabriel và Jeffie đã xuất hiện trên đỉnh dốc. Dưới ánh đèn pha gương mặt Jeffie tái nhợt, vệt máu loang lổ trên xương gò má. Thằng bé trông không giống một kẻ say rượu hay mới gây gổ ở đâu về, nó trông hệt như một đứa nhỏ đầy tổn thương, mất mát. Gabriel đưa nó vào ghế sau, rồi lên ngồi bên cạnh nó. “Lái đến bệnh viện đi, Carrie”. “Em tưởng anh nói thằng bé vẫn khỏe?” Cô nuốt xuống cơn sợ hãi đột ngột trước ý nghĩ phải lái trên những con đường vừa đi qua. “Nó dùng thuốc. Phải rửa ruột, cần kiểm tra và cần nói chuyện với ai đó. Một chuyên gia. Em có sắp xếp được không?” “Có”, cô nói, bởi vì cô phải làm bằng được. “Và bật radio lên được không? Jeffie và anh cần nói chuyện?” Thật điên rồ, mà cũng kinh hãi, đó là một trong những việc khó khăn nhất cô từng phải làm. Cô bật đài lên, tìm kênh nào vừa ôn hòa lại vừa vô hại, và nhanh chóng lái xe đến bệnh viện. Cô tự hỏi bọn họ đang nói gì với nhau bằng cái giọng trầm thấp, nghiêm trọng ấy. Liệu Gabriel có mắng thằng bé không? Jeffie đang thút thít, hay đang tự bào chữa? Chết tiệt, cô muốn là người thuyết giảng cho nó nghe, chăm sóc cho nó, và làm mọi thứ ổn thỏa, cả cho cô nữa. Để ai đó khác lo chuyện này là không thể. Cô cần Gabriel ở bên hơn cái cảm giác thỏa mãn vì sự bầu bạn của anh. Cô cần anh chứng minh cô không phải người luôn cần thiết. Người khác có thể nhận trách nhiệm vì sự an nguy của toàn thế giới, nhận trách nhiệm với một thằng nhóc mất phương hướng mà cô đã không thể giúp đỡ. Anh dìu Jeffie vào phòng cấp cứu
trong khi Carrie gọi điện cho bố mẹ thằng bé. Một lát sau Gabriel trở lại, anh trông cô đơn, mệt mỏi, và phiền muộn, giống hệt một người đàn ông vừa phải nhìn vào gương mặt của một con quỷ và trông thấy chính hình ảnh phản chiếu của mình vậy. “Thằng bé không sao chứ?” Cô xông lên về phía anh, muốn vòng tay quanh người anh nhưng sợ rằng anh sẽ không để cô làm thế. Anh kéo cô lại gần hơn, vùi mặt vào cổ cô, và cô bám lấy anh, tình yêu dào dạt chảy trong từng mạch máu. “Thằng bé sẽ khỏe thôi”, anh lẩm bẩm. Rồi anh ngẩng đầu, nhìn cô Vợ chồng Baker đang đi về phía họ. Martin Baker, trông bối rối hơn bất cứ lúc nào, và Carolyn, vẫn luôn là người phụ nữ ăn mặc đẹp nhất Angel Falls, với một chiếc khuyên tai, đôi tất rách và chiếc áo khoác cài xộc xệch. Đôi mắt bà sưng húp vì những giọt nước mắt, và mắt Martin thì rực lên đầy ngờ vực. “Thằng bé đâu?” Martin gặng hỏi. “Con trai tôi đâu?” Đến bây giờ mới hỏi, Carrie muốn hét vào mặt ông ta, nhưng cô nén những từ đó lại. “Nó đang ở với nhà tư vấn”, Gabriel trả lời thay cho cô. “Lát nữa nó sẽ được đưa ra”. “Tôi không biết cảm ơn hai người thế nào cho đủ”, Carolyn bắt đầu, giọng nói vẫn luôn luyến láy giờ run lên vì xúc động. “Khi tôi nghĩ có thể có chuyện gì đó đã xảy ra...” Gabriel nhìn bà ta, chẳng có buộc tội, chẳng có chỉ trích, chỉ buồn rầu và thấu hiểu. “Cuộc sống quá quý giá, không thể dễ dàng ném đi”, gã nói. “Tình yêu quá quý giá không thể lãng phí. Thậm chí từng giây từng phút”. Rồi vòng hai tay quanh vai Carrie, anh dẫn cô ra khỏi bệnh viện trong bầu không khí nửa đêm buốt lạnh. Carrie lặng thinh khi họ rời bệnh viện. Đối với Gabriel đó có thể là sự biết an sâu sắc. Những giờ vừa qua là những giờ đau đớn nhất trong bất cứ một cuộc đời nào. Gã có thể gánh tránh nhiệm cho trái tim tan vỡ cùng cuộc đời đổ nát của một người phụ nữ. Gã có thể gánh trách nhiệm cho tình trạng kinh tế suy sụp của cả một thị trấn. Nhưng số phận một thằng nhóc vị thành niên vượt quá những gì gã có thể chịu đựng. Cô đơn giản chỉ kéo chặt chiếc dây an toàn quanh người đợi gã hành động. Gã kéo cô lại, cô im lặng, tự nguvện gối đầu lên đùi gã khi gã chầm chậm lái trên con đường dài quay lại nhà Swensen. Lần này không có màn quăng vứt quần áo trên lối lên cầu thang. Lần này, họ yêu nhau trên chiếc giường chật hẹp, một cách ngọt ngào, từ tốn, để cho khoái cảm trải căng và lớn dần, tận hưởng thời gian của họ. Và lúc kết thúc gã nhìn xuống cô, nâng niu đầu cô trong vòng tay, hôn lên mí mắt cô. “Carrie, anh...” “Không”, cô thầm thì. “Đừng nói. Chúng ta chi còn hơn một tuần một chút. Đừng nói về chuyện đó. Ch ỉ cần sống thôi. Không hứa hẹn, không hối tiếc”. Và thay vì bảo với cô tất cả những điều gã không thể nói, gã nói với cô bằng đôi môi và cơ thể, khơi gọi cô hết lần này đến lần khác, cho đến khi màn đêm được khỏa lấp bằng ánh mặt trời, và hai người chìm vào giấc ngủ cùng nhau. *** Đó là một tuần của thiên đường, và cũng là một tuần của địa ngục. Một tuần để yêu, cùng làm bánh quy nướng, một tuần để vỗ béo Carrie, cả cơ thể lẫn tâm hồn. Và một tuần bồi bổ cho chính gã. Thành công hai trên ba cũng không tệ, gã bảo với bản thân, dù biết Augusta sẽ không đồng ý. Lars đã bắt đầu công việc trong nhà máy cũ, Jeffie đang tham gia cuộc gặp gỡ của những người nghiện rượu giấu tên [ 3 ] và những lời chỉ bảo từ gia đình bắt đầu khiến vẻ ủ rũ ám ảnh đó dần biến mất trên gương mặt thằng bé. Chỉ còn mình Carrie sẽ phải đón nhận đau khổ, và gã không làm được gì để thay đổi. [ 3 ] Nguyên tác AA meetings: Alcoholics Anonymous meetings Cô kiên quyết từ chối đề cập đến việc đó. Cô biết gã sắp đi, biết mọi chuyện đã được ấn định. Và rồi cô vẫn đón nhận từng ngày, từng giờ, từng giây phút với niềm vui sướng. “Chào mừng, người lạ mặt”, Lars chào gã khi gã bước vào căn bếp. “Hôm nay là đêm Giáng sinh đấy, chàng trai. Cậu sẽ đến nhà thờ với chúng tôi chứ hả?” “Đương nhiên là cậu ấy sẽ đi rồi”, Maggie ríu rít, trông thật hạnh phúc khi cho
em bé bú. “Carrie sẽ không để cậu ấy bỏ lỡ đâu. Và đừng trêu chọc người đàn ông này về chuyện khó tìm cậu ấy. Cậu ấy có những việc quan trọng hơn để làm”. “Anh than phiền lúc nào?” Lars kêu oai oái, đôi mắt xanh ánh lên lấp lánh. “Cậu ấy đến nhà máy mỗi ngày, và anh không thể tưởng tượng có thể làm gì nếu không có cậu ấy. Cậu có một tài năng cực kỳ hiếm có đấy, chàng trai”. Gã đã nghe những từ đó với nỗi tuyệt vọng đến tê tái. “Là đêm Giáng sinh”, gã đồng ý. “Tôi bận mất rồi”. Mọi người dường như có thể chạm tay vào sự im lặng đột ngột trong căn bếp. “Tôi cứ nghĩ cậu đã thay đổi ý định”, Maggie khẽ nói. Gabriel lắc đầu. “Tôi đã cam đoan với họ. Tôi chỉ muốn trả khoản thuê nhà, và nói lời tạm biệt”. “Đừng lố bịch thế!” Lars thô lỗ nói. “Tôi mới là người nợ cậu, vì tất cả những công việc nặng nhọc cậu làm ở nhà máy...” Gabriel l ắ c đầu. “Chúng ta đều đồng ý sẽ đợi cho đến khi anh nhận được khoản trả trước từ Borodin. Anh có thể gửi nó cho tôi”. “Nhưng...” “Chúng ta đã đồng ý rồi”, Gabriel nghiêm nghị, đếm tiền rồi đặt xuống bàn. “Và tôi là người giữ lời”. Gã cố nặn một nụ cười toe toét yếu ớt. “Hãy nhìn theo hướng này, anh sẽ vẫn còn thời gian để mua bộ đồ chơi tàu hỏa mà Nils khao khát”. Gã vẫn rất giỏi lôi kéo mọi người, gã lơ đãng nghĩ. Đó là phần thừa lại nhiều nh ấ t của Emerson MacVey. Vợ chồng Swensen sẽ không nhận tiền vì chính bản thân họ, nhưng sẽ nhận tiền vì những đứa con của họ. “Đồ đạc của tôi đã ở sẵn trong xe rồi”, gã nói. “Tôi chỉ muốn nói lời tạm biệt thôi”. Lars trông choáng váng. “Cậu không thể đi ngay thế được! Không ai lại chờ cậu làm việc vào đêm Giáng sinh hết”. Gabriel nở nụ cười nhăn nhó. “Anh không biết ông chủ tương lai của tôi đâu. Tôi sẽ nhớ mọi người”. “Cậu sẽ trở lại chứ?” Gã tự hỏi có nên nói dối hay không. Nếu chắc chắn gã sẽ kết thúc ở nơi gã đã nghĩ, chẳng có cách nào để có thể gặp lại gia đình Swensen. Họ là những người tốt bụng, không cần phải hỏi nơi họ sẽ dừng chân vào ngày phán xét. Không cần gửi thêm một khoản nợ vào lòng trông mong của bọn họ. “Nếu tôi có thể”, gã trì hoãn. “Cậu đã chào từ biệt Carrie chưa?” Maggie nhẹ giọng hỏi. “Tôi đang định đến đó”. “Con bé biết cậu sắp đi à?” “Cô ấy luôn biết tôi phải đi”, Gabriel trả lời. “Tôi chưa bao giờ nói dối cô ây”. Ít nhất cũng không nói dối trong cuộc đời này. Lars đứng dậy bắt tay gã, và tất cả những niềm vui Giáng sinh trên gương mặt ửng hồng đã biến mát. “Chúng tôi sẽ nhớ cậu, chàng trai. Hãy quay lại khi cậu có thể”. “Chú Gabriel sắp đi sao?” Nils lững thững đi vào phòng, miệng đang nhồm nhoàm bánh quy đường. “Nhớ không, chú ấy đã bảo chỉ có thể ở cho đến Giáng sinh”, Maggie nói. “A đúng rồi”, Harald nói. “Tiện đây, bà Gertrude bảo cháu nói với chú rằng bà muốn gặp chú. Chiều nay. Chính xác bốn giờ ba mươi”. Gã hẳn đã đến Minnesota khoảng bốn giờ ba mươi, vào lễ Tạ ơn. Chỉ là một kho ả ng thời gian ngắn, vậy mà cứ như đã cả một đời trôi qua. Gã đã ngốn nhiều đồ ăn trong những tuần qua hơn những gì gã đã ăn trong cuộc sống ba mươi hai năm trước đây của mình. Nhưng gã không định ra đi lặng lẽ đến ch ố n diệt vong, hoặc cố biện minh cho hoàn cảnh của gã. Augusta đã có phán quyết trước khi gã đến từ lâu, và bà ta thậm chí càng có nhiều âm mưu khiến mọi chuyện càng thêm khó khăn với gã. Gã cũng sẽ không khiến bà ta dễ dàng. Khi bà ta sẵn sàng mang gã trở lại thì bà ta cũng phải tự đi mà tìm gã. Những con đường đã khôi phục trở lại dáng hình tươm tất ban đầu, mấy ngày gần đây tuyết không còn rơi nữa, các đội dọn đường cũng cố gắng quét sạch đống bừa bộn do cơn bão tuyết mang lại. Có vẻ tuyết sẽ rơi tối nay, một Giáng sinh trắng, Carrie đã nói thế, khi cố gắng nở nụ cười. Gã sẽ không ở đây để nhìn thấy nó. Cô đang đợi gã. Cô mặc thứ gì đó đầy sức sống màu đỏ và đeo đôi hoa tai hình hai quả chuông. Cô trông rất vui vẻ, sự vui vẻ khiến gã khó chịu. Cô đưa cho gã một tách cà phê hạt
dẻ, liên miên nói về buổi lễ Giáng sỉnh. “Em cứ nghĩ anh phải đi trước rồi”, cô tiếp tục nói bận rộn quanh bếp. “Anh định thế”, gã nói, ngồi và dõi theo cô, cố gắng tích trữ hình ảnh của cô cho những tháng ngày vô tận sắp tới. “Tiện đây, Gertrude mới gọi. Bà ấy bảo em nói với anh rằng bà muốn anh ghé qua nhà bà trên đường ra khỏi thị trân”. “Anh nhận được lời nhắn rồi”, gã uể oải nói. “Em sẽ tiếp tục chạy trốn khỏi anh hay em sẽ ngồi đây trong chốc lát?” Cô quay lại, giật mình, và trao cho gã một nụ cười nhăn nhó. “Em sẽ ngồi lại”, cô nói, đến bên và ngồi lên lòng gã, hai tay vòng lấy cổ gã. Cô đang mỉm cười rạng rỡ, và gã muốn hôn cô để xóa đi nụ cười giả tạo ấy. Nhưng không hiểu sao gã biết cô cần nụ cười đó. Cô cần năng lượng, nụ cười, và sự dũng cảm bất cần. Điều duy nhất gã có thể làm là trao chúng cho cô. “Anh mừng vì em đã đón nhận chuyện này với thái độ tích cực như vậy”, gã nói. Gã nghe thấy chút run rẩy của những giọt nước mắt được nuốt vào trong của cô. “Đương nhiên rồi”, cô vui vẻ nói. “Em luôn biết anh sẽ phải đi. Khi anh chưa từng dối em. Đương nhiên em sẽ rất nhớ anh. Nhưng em tin dù sớm hay muộn anh sẽ quay trở lại...” “ Không”. Nụ cười trên gương mặt cô thoáng chốc héo đi. “Không ư?” “Mẹ kiếp, Carrie, anh đã bảo với em...” “Được rồi”, cô nói chắc chắn. “Anh sẽ không quay lại. Vậy em sẽ cưới Steve, có nửa tá con mà đứa nào cũng hói đầu từ hai mươi tuổi, và em sẽ nghĩ về anh mỗi đêm Giáng sinh với một hoặc hai giọt nước mắt khi uống quá nhiều rượu brandi đánh trứng [ 4 ] . Em sẽ ổn thôi”. [ 4 ] Nguyên tác brandied eggnog: trứng đánh với rượu brandi, đường, sữa thường được uống vào dịp Giáng sinh Gã đứng dậy, đặt cô xuống đất, hai tay nấn ná trên bờ hông hẹp của cô. “Anh đã gây đủ tổn thương cho em rồi”. “Chưa bao giờ”, cô thẳng thừng. “Kể tên một chuyện anh từng làm xem nào”. Gã biết gã không thể. Thay vào đó, gã hôn cô, nụ hôn dài, sâu và mạnh mẽ, hôn cho nụ cười giả dối ấy tan biến khỏi mặt cô, hôn cho hàng mi quả cảm chớp rơi những giọt nước mắt. Và rồi sự dũng cảm biến mất, cô bắt đầu nức nở tuôn rơi những giọt nước mắt. “Đừng để ý đến em”, cô thút thít trên vai gã, trong đôi bàn tay dịu dàng của gã. “Em luôn khóc mỗi dịp Giáng sinh. Và em sẽ nhớ anh, em được phép nói điều đó chứ?” “Đương nhiên rồi”, gã thì thào trên mái tóc cô. “Anh không thể nói dối em sao?” Cô ngẩng mặt lên, trông dễ bị tổn thương vô cùng, ngọt ngào vô cùng. “Cứ nói rằng anh sẽ quay lại với em được không? Ngay cả nếu anh không thực sự muốn thế, một lời nói dối nho nhỏ cũng không thể làm đau anh mà”. Gã nhìn cô, những đau đớn trong tim gã còn nhiều hơn bất cứ chuyện gì gã từng chịu đựng trong đời. Tim ngừng đập đột ngột cũng đơn giản như một miếng bánh bị bẻ vỡ dễ dàng. “Chết tiệt, Carrie...” gã nói. “Vậy cũng được, đừng nói dối”, cô nói. “Đừng nói gì nữa cả”. Và miệng cô ngăn lại những lời phản đối của gã. Gã rời đi khi cô đang ngủ. Cô nằm thu mình trên chiếc sô-pha trong phòng khách, chiếc váy đỏ tươi rũ xuống quanh người, nước mắt khô lại thành dòng trên đôi má tái nhợt. Giờ là bốn giờ ba mươi, nhưng bên ngoài trời đã tối đen, và gã biết không còn đường trốn chạy. Gã quỳ xuống bên cạnh cô, vuốt ve mái tóc cô, khẽ khàng chạm vào cô. Và rồi gã đứng lên, mang theo hình anh, hương thơm, và cảm giác về cô vào chuỗi ngày vô tận. Gã nhận ra chiếc Dodge Dart [ 5 ] cũ kỹ đang chễm chệ cuối lối lái xe vào nhà Carrie như một con bọ xanh dương xấu tính. Chiếc xe tải của gã vẫn đỗ ở đây, và gã tự hỏi chuyện gì sẽ x ả y ra nếu gã lên xe, khởi động và thử đâm vào Gertrude. Nó là một ý nghĩ không đâu, mang lại chút thích thú gượng gạo nơi gã. G ã s ả i chân xuống lối đi dài, uốn khúc về phía chiếc xe đang đợi. [ 5 ] Mẫu xe do hãng Dodge thiết kế ra đời năm 1966, với mã lực mạnh và khá tốn nhiên liệu “Lên đi”, Gertrude nói, hạ cửa kính xuổng. Gã vào
trong xe. Gã không bận tâm với cái dây an toàn, cũng không tạo nên nhiều khác biệt với nơi gã sắp đến. “Tôi phải nói, là tôi không nghĩ một sản phẩm của GM [ 6 ] sẽ mang tôi qua sông Styx [ 7 ] ”. [ 6 ] GM: hãng sản xuất ô tô lớn thứ hai thế giới sau Toyota, sở hữu rất nhiều thương hiệu nổi tiếng như Cadillac, Chevrolet.... [ 7 ] Trong thần thoại Hy Lạp có năm dòng sông chảy qua địa ngục và Styx là một trong những dòng sông ấy, nó là dòng sông chia cắt dương gian và địa ngục, tương tự suối vàng trong quan niệm của đạo Phật, những linh hồn của người chết sẽ được ch ở qua sông bởi người lái đò Charon . “Ta mừng vì anh vẫn có thể hài hước trong tình cảnh này, anh MacVev ạ”. Chẳng còn chút dấu vết nào của Gertrude trong chiếc xe cũ nữa. Augusta đang lái xe với vẻ kiêu căng thường trực, và những con đường trơn trượt buộc lòng phải vâng lời bà ta. G ã liếc mắt nhìn ra cửa sổ và phát hiện bọn họ không hề lái xe trên đường. Gã dựa lưng lên ghế với tiếng thở dài mệt mỏi. “Bà thỏa mong nguyện rồi, Augusta. Tôi đã cố hết sức, và đã thất bại”. “Đúng vậy, anh MacVey”. “Đừng gọi tôi như thế, gã nói đủ nhẹ nhàng, kiên quvết sẽ không để bà ta nắm được gã. “Sao không? Đấy là tên anh. Và chẳng có con sông Styx nào hết, ta cũng khó mà là Charon, kẻ chèo đò ma quỷ. Anh sẽ quay lại phiên xét xử. Ta đã có quyết định về chốn dừng chân cuối cùng của anh, và câu trả lời có lẽ sẽ khiến anh bất ngờ. Nhưng cũng không phải là quyết định của riêng ta”. Gã liếc nhìn bà ta. Bà ta đang rực sáng trong bóng tối, và gã nhận ra với cảm giác sốc không kém rằng gã cũng đang phát sáng. “Ý bà là vẫn còn hy vọng cho tôi?” “Ồ, lúc nào chẳng còn hy vọng cho anh”, bà ta nói. “Hãy để ý đến lối cư xử của anh, rồi chúng ta sẽ thấy chuyện gì xảy ra”. *** Carrie biết anh rời đi. Nhưng cô biết anh không muốn cô nói lời tạm biệt, nên cô giả vờ thiếp ngủ, giữ cho mình thư giãn và im lặng khi anh vuốt nhẹ gương mặt cô, thoáng hôn lên hàng mi cô. C ô lắng nghe những bước chân anh trong nhà bếp khi anh đi về phía cửa, và cô nhét nắm tay vào miệng để ngăn không gọi to tên anh. Một lát sau có tiếng xe ầm ầm nổ máy, và anh lái đi, ra khỏi đời cô, mãi mãi. Cô nhắm chặt mắt, cố nén nỗi đau. Cô sẽ sống. Cô luôn làm được, dù cho có đẩy mình vào đống hỗn độn kiểu nào đi chăng nữa, mặc cho bất kể tai họa nào cuộc sống đem đến cho cô. Cô không chắc tình trạng hiện tại có phải là lỗi của cô không, và cô cũng không thực sự quan tâm . Dù cô có nhức nhối vì anh, đau đớn vì anh, chờ anh bao lâu, những ngày được ở bên anh cũng đáng giá với điều đó. Cô vô cùng mệt mỏi. Cô đã dùng tất cả năng lượng của mình, không muốn nghỉ ngơi trong khi thời gian bên cạnh anh quá hữu hạn. Giờ cũng là lúc thời gian đã hết. Cô có thể nhắm mắt và để cho giấc ngủ kéo đến. Giấc ngủ mê man ngọt ngào, nơi cô lại có thể tìm thấy Gabriel trong những giấc mơ. *** Gã đang mặc bộ cánh dệt từ lông cừu Ý, chiếc cà vạt lụa thắt quá chặt quanh cổ. Gã mừng khi trạm trung chuyển này không trang bị gương. Gã không muốn nhìn vào hình ảnh phản chiếu và thấy gương mặt đẹp trai không sức sống của Emerson MacVey. Gã buộc phải bỏ lại Gabriel ở phía sau, như một thiên thần bị đày xuống hạ giới. Nhưng cũng không có nghĩa gã phải thích ứng. Gã ngồi đơn độc trong một phòng chờ, bị bao bọc trong chiếc kén hư vô rộng lớn. Những mùi hương đã bay mất, gã chợt nhận ra, những mùi hương của lễ Giáng sinh. Không còn quế và hương thơm c ủ a hạt dẻ, không có những cây linh sam cùng bánh gừng và sô-cô-la nóng. Gã đã trở lại với giọng nói trước đây. Trong những giây phút ngắn ngủi, bực tức gã thậm chí đã nghĩ địa ngục sẽ thích hợp hơn với gã. Và rồi gã không còn một mình. Augusta ở đó, cao, khinh khinh, nhìn chằm chằm xuống gã bằng đôi mắt xanh dương lạnh lẽo. “Đã có phán quyết”, bà ta nói. Gã thấy mình không muốn hy vọng. Thiên đường hay địa ngục cũng chẳng khác biệt với
gã. Bất cứ nơi nào không có Carrie cũng là nỗi thống khổ đến muôn đời. “Ai cũng công nhận anh đã vô cùng nỗ lực. Chắc chắn những điều ước của anh đều bị lãng phí. Một cho bản thân, một cho cuộc điện thoại, và anh có thể tìm thấy Jeffie mà không dùng đến sự can thiệp từ thiên đường. Tuy nhiên, hai trong ba trường hợp đã được anh giải quyết rất tốt, thực thế, và chúng ta hài lòng với anh”. Gã nhìn thẳng vào bà ta. “Và mấu chốt là?” “Anh đã làm trái tim Carrie Alexander tan vỡ”, Gã nhìn chằm chằm xuống những ngón tay khi chúng lười nhác gõ lên tay cầm chiếc ghế. Những ngón tay ngắn, cắt tỉa cẩn thận. Đôi bàn tay mềm mại. “Thì sao? Nó đâu mới lạ? Hình như trước kia tôi đã làm vậy rồi”. “Ta xin lỗi, nhưng lần này cô ấy còn gặp nhiều rắc r ố i hơn. Trước kia cô ấy đơn gi ả n chỉ đau đớn vì một lần cuồng dại. Còn lần này cô ấy sẽ không hồi phục được nữa. Cuộc sống hay những khúc xương gẫy nát còn có thể lành. Nhưng trái tim thì không thể. Cô ấy sẽ không bao giờ kết hôn, sẽ nghĩ đến anh từng ngày trong suốt cuộc đời còn lại”. “Không!” Gã hét lên giận dữ, đứng bật dậy. “Cô ấy rất mạnh mẽ. Cô ấy sẽ không lãng phí cuộc đời vì một thằng khốn vứt đi như tôi”. Augusta mỉm cười. “Cô ấy biết cách yêu, anh Falconi ạ”. “Đương nhiên là cô ấy biết. Thật không công bằng khi để cô ấy...” Giọng gã nhỏ dần khi nhận ra gã đang nhìn xuống Augusta. Augusta, người luôn ngang tầm mắt với Emerson MacVey. “Bà vừa gọi tôi là gì?” “Sao thế, là tên của anh, anh Falconi”, bà ta nói. “Anh không kiếm được một vị trí trên thiên đường, ta e vậy, nên chúng ta không còn lựa chọn nào khác là gửi anh đến nơi khác. Nhưng anh đã hiểu sai ý chúng ta. Không có nơi nào giống địa ngục cả. Nơi đó chính là cuộc sống”. “Cuộc sống?” Gã biết cái giọng trầm đó. Đó là giọng của Gabriel. Là giọng của gã. Gã nhìn xuống đôi bàn tay. Chúng to lớn, hấp dẫn, đầy sẹo với những vết xước vì công việc của một anh thợ mộc. “Angel Falls, Minnesota. Anh sẽ trở lại với Carrie, anh Falconi ạ. Anh sắp được trao cơ hội thứ hai. Hãy xem anh có thể sử dụng đúng đắn lần này không”. Ánh sáng xanh nổ tung trong đôi mắt gã, và gã đang rơi, rơi mãi, với cơn đau sắc nhọn, lạnh lẽo và rõ ràng. Gã muốn thét lên, nhưng khi gã cố gắng, không có điều gì xảy đến, lúc gã đưa tay ra phía trước, bàn tay gã tiếp xúc phải thứ gì đó thật cứng rắn. Gã hít một hơi sâu và nhìn quanh. Gã đang đứng trên hàng hiên nhà Carrie. Mặt trăng đã lên cao và tuyết đang rơi nhẹ. Gã ngước lên nhìn bầu trời, trong một khoảnh khắc điên rồ thoáng hiện nào đó gã nghĩ vừa nghe thấy tiếng chuông ngân vang từ chiếc xe trượt tuyết bay ngang qua đây. Ngôi nhà im ắng và tĩnh mịch khi gã đi vào trong. Carrie đang nằm ngủ trên ghế sô-pha, tấm chăn quấn chặt quanh người, và khi gã liếc nhìn chiếc đồng hổ cũ kỹ của ông cô, gã choáng váng nhận ra chỉ còn một phút nữa là đến nửa đêm. Gã tưởng gã mới đi có vài phút. Hoặc vài năm. Bàn tay gã di chuyển, chiếc đồng hồ bắt đầu điểm chuông, từng tiếng chậm rãi, đều đặn. Carrie mở choàng mắt. Cô nhìn gã kinh ngạc, không sao tin nổi. “Em đã nhận được anh thay cho than đá trong chiếc bít tất của em”, gã nói, giọng khản đặc. “Trong bao lâu?” Gã nghĩ lại vài giờ vừa mới trôi qua. Nó như một bộ phim cũ vào những năm bốn mươi, xa xôi, mờ nhạt và hầu như không nhớ nổi chi tiết. Nhưng không sao. Tất cà những cái làm nên v ấ n đề ở đây chính là tương lai. “Đến muôn đời”. Gã đáp, ôm l ấ y cô. Cô sà vào vòng tay gã với sự duyên dáng của một vũ công, và gã nâng cô lên thật cao, giữ lấy cô thật chặt. Cô là tất cả những gì quan trọng nhất của gã, với trái tim và tâm hồn, với cả cuộc đời gã. Rồi gã kéo tấm chăn, bọc nó quanh người cô, bế cô ra ngoài hàng hiên buốt cóng, đúng lúc chiếc đồng hổ kết thúc những chuỗi dài báo hiệu nửa đêm. Từ đây họ có thể nghe thấy tiếng chuông nhà thờ ngân vang đón mừng Giáng sinh, và gã mỉm cười với cô. “Chúc mừng Giáng sinh, tình yêu của em”, cô nói với gã, tình yêu
đong đầy trong mắt. Và khi nhìn xuống cô, gã biết gã đã tìm thấy thiên đường của riêng mình. THE END
EGON KRENZ MÙA THU ĐỨC 1989 ĐỨC LÊ dịch NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC LỜI NÓI ĐẦU Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Mùa thu Đức 1989 là tên cuốn hồi ký của Egon Krenz, Tổng bí thư Đảng Xã hội Chủ nghĩa thống nhất Đức, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức vào thời điểm Bức tường Berlin được mở ngày 9/11/1989, công bố lần đầu tiên vào tháng 2/2009 tại Đức đã tạo nên một tâm điểm chú ý của dư luận. Tham gia vào các sự kiện Mùa thu Đức ở cương vị nguyên thủ và chịu trách nhiệm cao nhất, ông đã thuật lại một cách chi tiết, đầy đủ các diễn biến chính trị dẫn tới việc sụp đổ của Cộng hòa Dân chủ Đức. Phân tích, lý giải các sự kiện trong Mùa thu Đức 1989, ông đồng thời lý giải nó trong bề sâu có tính lịch sử, về các nguyên do của nước Đức XHCN, Liên bang Xô viết và khối Hiệp ước Warszawa. Nhiều năm sau các sự kiện, tác giả có điều kiện chiêm nghiệm và đối sánh trong bối cảnh nước Đức thống nhất và thế giới xóa bỏ Chiến tranh lạnh nhưng tiếp tục phân rã, do đó cái nhìn phân tích của ông càng đáng lưu tâm. Là một người cộng sản, Egon Krenz không ngần ngại phê phán các sai lầm của chủ nghĩa xã hội, song ông trung thực bảo vệ lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Những gì trong Mùa thu Đức 1989 cho thấy, trước sau Egon Krenz là người cộng sản ái quốc – với ông Tổ quốc đồng nghĩa với Cộng hòa Dân chủ Đức XHCN. Thông qua cuốn sách, Nhà xuất bản Công an Nhân dân và Công ty Sách Alpha mong muốn giới thiệu với độc giả một tài liệu tham khảo có giá trị về lịch sử cách đây chưa lâu của một đất nước có quan hệ mật thiết với Việt Nam. Đồng thời bản thân các sự kiện lịch sử này cho đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa và vô cùng cần thiết cho những ai muốn suy ngẫm về chủ nghĩa xã hội. Xin trân trọng giới thiệu. NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN Tháng 11-2009 LỜI TÁC GIẢ Tôi xin tường thuật lại mùa thu Đức năm 1989. Tôi viết ra những gì đã trải nghiệm. Tôi chuyện trò với nhiều người hoạt động chính trị ở CHDC Đức và nước ngoài – cả với các tổng thống, lãnh đạo đảng và nhà nước ở nhiều quốc gia cũng như với các nhân vật thân tín hoặc đối thủ của họ. Một số người hôm nay đã mất. Những người còn sống thì phát biểu hoặc xử sự mỗi người một kiểu, có người thuật lại đã suy nghĩ và hành động ra sao, cố gắng khỏa lấp lịch sử và đóng góp của mình trong đó, những người khác chân thành muốn phục dựng lịch sử trong tính mâu thuẫn của nó – tùy vào chủ đích, hoàn cảnh sống và tư chất của họ. Ngày ấy tôi còn là người giữ nhiều bí mật. Hôm nay tôi vẫn đọc các bí mật quốc gia mà từ khi CHDC Đức thôi tồn tại thì chúng không còn gì bí mật nữa. Chúng nằm trong các văn khố của CHLB Đức. Tôi so sánh những ghi chép riêng, ghi chú trong lịch, biên bản và thư từ của mình với hồ sơ trong văn khố. Một số tài liệu mà tôi đã bỏ lại trong két sắt của mình ở Trung ương đảng SED hồi năm 1989, nay không tìm thấy ở văn khố liên bang nữa. Âu cũng là chuyện thường tình khi có biến động xã hội, đặc biệt – như trong trường hợp này – khi đó là biên bản các cuộc hội đàm bí mật giữa Honecker hay tôi với các chính khách của nhà nước Đức kia. Trên thế giới thông thường sau 30 năm mới mở các kho lưu trữ, hoặc lâu hơn, hoặc chẳng bao giờ. Cộng hòa liên bang Đức không làm thế với các hồ sơ của CHDC Đức. Tất cả đều công khai sau năm 1990. Cũng chẳng có gì đáng chê trách, duy chỉ các hồ sơ tương tự của CHLB Đức cũ, của Hoa Kỳ và cả của Liên Xô là vẫn chưa được giải mật. Theo những gì tôi biết, các hồ sơ của nhiều nhiệm kỳ chấp chính khác nhau, của các cơ quan thông tin và bảo hiến liên bang – nếu như một ngày nào đó chúng được công khai hóa – sẽ cho ta sáng tỏ nhiều điều về nước cộng hòa của Bonn, về phần đóng góp của nó trong việc chia cắt nước Đức, về các thủ pháp của nó nhằm chống phá đất nước và người dân CHDC Đức trong thời Chiến tranh Lạnh cũng như về các ngón nghề mật vụ đối ngoại và đối nội; nhiều chuyện mà hôm nay một số người không thể tin là có thật. Nếu một ngày nào đó có sự bình đẳng giữa Đông và Tây – cả trong việc công khai hóa hồ sơ – thì thế hệ kế tiếp có thể sẽ có điều kiện bàn về lịch sử hậu chiến của Đức một cách khá công tâm. Không chỉ bàn về lịch sử hậu chiến của CHDC Đức mà về cả hai nhà nước Đức. Bức tranh đen trắng hiện tại còn ngự trị sẽ phải nhường chỗ cho cách đánh giá lịch sử khách quan. Bên trái là địa ngục và bên phải là thiên đường – thực tế giữa CHDC Đức và CHLB Đức đâu có đơn giản như vậy. *** Tường thuật của tôi bắt đầu từ trước mùa thu, với trang đầu là ngày 7/7/1989, khi Ban cố vấn chính trị của các quốc gia trong hiệp ước Warszawa họp tại Bucharest. Một số chi tiết thể hiện ở đó trong quy mô quốc tế chính là điềm báo trước các biến cố sau này diễn ra ở CHDC Đức. Thời kỳ từ 8/10/1989 đến 6/12/1989 mang dáng dấp nhật ký, tuy không hẳn theo nghĩa kinh điển. Hồi năm 1989, tôi không có thì giờ viết nhật ký. Nhưng ngày nào tôi cũng ghi chép lại tất cả các sự kiện và những cuộc gặp gỡ quan yếu. Nhờ vậy tôi có thể thuật lại mọi diễn biến chính xác tới mức có thể. Tôi cố không quan sát bằng con mắt của hôm nay. Tôi thuật lại như đã từng suy nghĩ hồi năm 1989. Tôi không muốn gọi những nhận thức sau này là niềm tin của ngày trước. Tôi báo cáo lại những gì đã xảy ra, ở các chức vụ của mình tôi đã có những lĩnh hội và chủ định gì, tôi đã làm gì và phản ứng ra sao, các biến cố đã dồn thúc tôi cũng như tôi nỗ lực tác động đến chúng như thế nào. Về các cá nhân, tôi ghi lại như đã chứng kiến họ hồi năm 1989. Kể cả khi một số trong họ sau này tỏ ra thiếu chân thực về chính trị hay nhân tính. Tôi căm phẫn khi thấy nhiều bạn đồng hành ngày xưa không chịu nhận trách nhiệm của mình, khi họ làm bộ ngây ngô không biết gì chỉ để bớt chút truy bức tư pháp hoặc vớ được một công việc ấm thân, tự bào chữa cho mình bằng cách hại người khác hay thậm chí quẳng bỏ quan điểm của mình. Những người này có lẽ là minh chứng cho nhận định: điểm mạnh của kẻ yếu nằm trong tính xu thời. Tôi không độc thoại về nước Đức. Năm 1989-1990 không chỉ là thời điểm CHDC Đức tàn lụi. Ở châu Âu, mô hình chủ nghĩa xã hội mang dấu ấn Xô viết sụp đổ. Các nước XHCN ở lục địa này đã biến mất khỏi bản đồ chính trị. Điều đó có nguyên nhân lịch sử, chính trị thế giới, kinh tế, tư tưởng hệ và chủ quan sâu rộng hơn những diễn biến ở CHDC Đức nhiều. Bước ngoặt được phát động ở CHDC Đức hồi mùa thu năm 1989 đã chín dần từ lâu. Lẽ ra đây là bước dẫn đến một CHDC Đức cải tổ, một chủ nghĩa xã hội được đổi mới chứ không phải bước ngoặt dẫn đến một nước Đức thống nhất. Một số quá trình ngày ấy chỉ có thể hiểu được nếu ta biết gốc rễ lịch sử của chúng. Ở những đoạn ấy trong sách, tôi quay nhìn lại lịch sử trước năm 1989 chứ không vội nêu ra những ký ức của riêng mình. Nhiều điều tôi viết ra thể hiện tính mâu thuẫn. Nguyên nhân nằm ở thời kỳ được thuật lại trong sách hơn là trong báo cáo của tôi. Dù mọi quyết định đưa ra có chân thực một cách chủ quan và cần thiết một cách khách quan, đó là những ngày tháng ngập trong hấp tấp và hoảng loạn. Nhiều điều không được nói ra hoặc nói ra thì bị hiểu lầm, có những câu nói sai hoặc chỉ thốt ra nửa chừng. Nhiều điều không được giải trình, phân tích và định hướng. Các sự kiện chồng chất lộn xộn. Tôi càng thấy cần phải bình tĩnh đánh giá những thực tế ngày ấy một lần nữa. Chỉ khi sắp xếp các quá trình trong mùa thu năm 1989 theo đúng trình tự thời gian chính xác mới có thể hiểu được, ví dụ, từ bao giờ và do ai mà khẩu hiệu “Chúng ta là nhân dân” bị nắn thành “Chúng ta là một dân tộc”, hoặc kế hoạch cải cách ở CHDC Đức rốt cuộc biến thành sáp nhập vào CHLB Đức có nguyên nhân gì và diễn biến ra sao. Những thực tế ngày ấy quả là mãnh liệt trong tính độc nhất vô nhị cũng như trong hệ quả lịch sử. Tôi nhìn chúng với con mắt của một người hồi đó gánh vác trách nhiệm trọng đại nhất về CHDC Đức và Đảng XHCN thống nhất Đức. Hôm nay tôi hiểu nhiều điều rõ hơn, chính xác hơn, hôm nay tôi biết nhiều điều mà ngày đó tôi không thể biết hoặc cố tình không muốn thấy. Trong mười năm qua, tôi buộc
phải thu lượm những kinh nghiệm đau đớn. Trong đó có việc bị khai trừ khỏi hàng ngũ đảng là phần quan trọng nhất của đời tôi. Với tôi, việc bị CHLB Đức truy bức về mặt chính trị và tư pháp – cho dù không chỉ lấy mất danh dự mà còn cả tự do của tôi – không bi thảm bằng. Về điểm này, quả thật tôi chưa từng có ảo tưởng. Một phần cũng nhờ nhà hoạt động xã hội dân chủ Herbert Wehner trước đây hơn 25 năm. Khi tôi nói chuyện với ông hôm 30/5/1973 ở Berlin, ông truyền cho tôi một kinh nghiệm của đời mình: “Ai từng là người cộng sản, người đó sẽ bị xã hội giáo hóa tư sản truy đuổi cho đến cuối đời.” Berlin, tháng Bảy năm 1999 EGON KRENZ TRƯỚC MÙA THU 7/7 – 7/10/1989 Với tôi, mùa thu năm ấy bắt đầu giữa hè. Xung đột đã dồn ứ từ nhiều năm, nay đã bùng nổ ở các nước XHCN. CHDC Đức không phải là một hòn đảo chính trị. Những sự kiện tuôn trào trong tháng 10 và 11/1989 có tiền sử trong chính sách đối nội và đối ngoại. ỦY BAN TƯ VẤN CHÍNH TRỊ – VẪN NHƯ MỌI NĂM? 7/7: Lãnh đạo đảng và nhà nước trong Hiệp ước Warszawa gặp nhau ở Bucharest, thủ đô Romania, tại hội nghị Ban cố vấn chính trị là hội đồng chính trị tối cao của các nước chủ nghĩa xã hội châu Âu. Hiệp ước Warszawa ra đời tháng 5/1955 là câu trả lời cho sự kiện NATO trước đó thu nạp Cộng hòa Liên bang Đức. Thoạt tiên không thấy gì khác mấy chục năm nay: đại diện nước chủ nhà chào đón khách. Hôm nay chủ nhà là Nicolae Ceauşescu, tổng bí thư Đảng cộng sản Romania và chủ tịch Cộng hòa XHCN Romania. Người đầu tiên phát biểu là tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Từ thời Nikita Khrushchev vẫn thế. Mikhail Gorbachev cũng giữ nguyên truyền thống để Liên bang Xô viết được nói lời đầu tiên. Ông ấn định đường lối chính sách. Tiếp theo là các bài diễn văn đã được thảo sẵn của các lãnh đạo đảng đồng minh. Ở các nước có những vấn đề không được giải quyết và giữa họ có nhiều ý kiến bất đồng, kể cả ý kiến mang tính chiến lược, nhưng hầu như không diễn giả nào nói thẳng ra. Thay vào đó, mỗi lãnh đạo đảng khen ngợi chính sách của nước mình. Tình hình quân sự trên thế giới là một điểm đặc biệt trong chương trình nghị sự. Đại tướng Xô viết Pyotr Lushev, chỉ huy trưởng các lực lượng vũ trang hợp nhất của Hiệp ước Warszawa, trình bày trong một cuộc họp chung về hiện trạng các lực lượng vũ trang và về “các biện pháp nhằm bảo đảm sẵn sàng chiến đấu trước bối cảnh tương quan lực lượng ở châu Âu.” Cả hai phe Tây và Đông đều có hình tượng kẻ thù của mình. Ví dụ như NATO thường xuyên tiến hành tập trận ở các địa hạt chỉ cách biên giới quốc gia của CHDC Đức và Tiệp Khắc vài cây số. Chỉ huy trưởng báo cáo: “Ngày càng khó đánh giá, liệu thực sự đó là tập luyện hay là công tác chuẩn bị xâm chiếm cụ thể. Năm 1989 chúng ta vẫn phải dự đoán một mối đe dọa quân sự từ phía NATO” . Do đó nhất trí biểu quyết định hướng sẵn sàng chiến đấu cho các lực lượng vũ trang hợp nhất “theo các hoạt động chuẩn bị quân sự của khối NATO hiếu chiến” . Cuối phiên họp lại khẳng định một lần nữa tính thống nhất và đoàn kết của cộng đồng XHCN. Các cuộc họp thượng đỉnh của khối đồng minh chúng ta diễn ra theo đúng mô hình này. Từ năm 1984 tôi được tham dự với tư cách thành viên đoàn đại biểu CHDC Đức. Năm nào tôi cũng chứng kiến một trình tự giống hệt. Nghi thức ấy năm nay vẫn hữu hiệu – tuy nhiên có một số khác biệt. MÂU THUẪN TRONG KHỐI ĐỒNG MINH Trước cuộc họp năm nay của Ban cố vấn chính trị có sự chia rẽ sinh ra từ câu hỏi: Chiến tranh Lạnh đã chấm dứt? Lãnh đạo Hungary nói: “Đúng.” Gorbachev bác lại. Hôm qua, ngày 6/7, ông là khách ở Hội đồng châu Âu . Tại phiên họp nghị viện ông phàn nàn rằng sự can thiệp của NATO vào công việc nội trị của các nước XHCN đã làm Chiến tranh Lạnh căng thẳng trở lại. “Vấn đề nằm trong quan niệm của phương Tây”, ông nói, “coi vượt qua sự chia cắt châu Âu cũng là vượt qua chủ nghĩa xã hội.” Đó là câu ông trả lời tổng thống Hoa Kỳ. Tại cuộc họp thượng đỉnh của NATO cuối tháng Năm ở Brussels, George Bush đòi lôi kéo Liên bang Xô viết vào “hệ thống giá trị của phương Tây.” Ông ta muốn có một châu Âu “từ Brest đến Brest.” Trong mắt Gorbachev đó là sự công kích ý tưởng của ông về “Ngôi nhà châu Âu” trong phạm vi biên giới hậu chiến. Ông coi các nghị quyết của hội nghị NATO là biểu hiện đối đầu. Lãnh đạo nhà nước Ba Lan, Wojciech Jaruzelski, cũng không tin Chiến tranh Lạnh kết thúc. Xuất phát điểm cho quan hệ hữu hảo giữa các quốc gia, theo ông, là sự tôn trọng các thực tế đã được ấn định ở Yalta và Potsdam. Ông phê phán “tư tưởng Đại Đức của Cộng hòa liên bang Đức.” Đã đến lúc nước này phải phát triển một quan hệ với Ba Lan như hệ quả từ thực tế lịch sử của những năm từ năm 1939 đến năm 1945 đòi hỏi . Biết rõ các nội dung tranh luận trước thềm hội nghị thượng đỉnh ở Bucharest nên tôi hồi hộp đợi xem sẽ có gì xảy ra. Tôi hy vọng các nước XHCN tìm được sức mạnh nhằm chung tay thực thi các cải cách đã được Gorbachev khởi sự và giành lại thế chủ động trong chính sách đối ngoại trước NATO. Khi cùng Honecker và các thành viên khác của đoàn đại biểu CHDC Đức tiến vào phòng họp, tôi thấy gần như tất cả đã yên vị. Phòng họp rất hoành tráng. Giữa phòng là một chiếc bàn hội nghị chữ nhật dài, các đoàn đại biểu ngồi quanh bàn theo thứ tự bảng chữ cái. Honecker nói khẽ, gần như thì thầm: “Lại thế nữa!” Tôi không rõ điều gì làm ông phật lòng. Mãi đến khi ông chỉ tay vào chỗ của đoàn CHDC Đức bên bàn hội nghị thì tôi mới hiểu: đoàn CHDC Đức ngồi ngay cạnh đoàn Hungary. Honecker khó chịu vì phải ngồi gần với lãnh đạo đảng mới của Hungary, Reszö Nyers. Lý do là thế này: tờ NEUES DEUTSCHLAND trước đó mấy hôm có đăng bản báo cáo của Bộ chính trị tại Hội nghị 8 Ban chấp hành trung ương đảng SED. Trong đó nhắc đến mối quan ngại của SED về tình hình ở Hungary. Một số phần tử ở đó núp dưới bóng cờ đổi mới để rắp tâm bài trừ chủ nghĩa xã hội. Kể từ sau biến cố năm 1968 ở Tiệp Khắc, chưa bao giờ SED công khai thẳng thắn bày tỏ sự phật ý đối với một nước anh em như vậy. Người Hungary cảm thấy chúng ta xúc phạm họ. Janos Kadar, lãnh đạo kỳ cựu đảng Hungary, qua đời ngày 5/7. Trước khi ông mất, các đồng chí của Kadar đã đào mồ chôn chính sách của ông rồi. Hiện tại họ tìm đường cứu đất nước thoát cảnh nợ nần. Hungary hiện đang nợ phương Tây 17 tỉ USD. Người Hungray dự tính đến cuối năm 1989 sẽ mất khả năng chi trả. Nước này nằm gọn trong nanh vuốt của Quỹ tiền tệ quốc tế . Trừ một ngoại lệ đoàn đại biểu Hungary toàn các khuôn mặt mới. Danh chính ngôn thuận thì trưởng đoàn là chủ tịch đảng Nyers, nhưng người giật dây đằng sau là Bộ trưởng Ngoại giao Gyula Horn . Nghe nói ông ta đóng vai trò chính trong sự kiện Hungray mở biên giới qua Áo hôm 2/5/1989. Qua hành động đó Horn hy vọng phương Tây trợ giúp kinh tế cho Hungary. Hôm đó Honecker và tôi nghe tin thông tấn về vụ Hungary mở biên giới qua Áo. Đó là thời điểm rạng sáng 3/5/1989. Chúng tôi đang ngồi trên chuyên cơ Interflug bay sang thăm chính thức Tiệp Khắc. Tôi sửng sốt khi thấy Honecker điềm tĩnh đón nhận tin trên. “Erich”, tôi nói, “có lẽ ta phải nói chuyện với các đồng chí Hungary thì hơn. Anh có thể sang Hungary đi săn vào trung tuần tháng này và nói chuyện thẳng thắn với họ về mọi chuyện mà không cần chú ý đến thủ tục lễ tân cứng nhắc.” Honecker không nghĩ vậy: “Người Hungary mở biên giới hay mình mở? Vả lại Karoly Grosz đã nói với tôi là Hungary chỉ sửa sang một chút bề ngoài của hàng rào biên giới như mình làm ở bức tường Berlin thôi. Sẽ không có gì thay đổi trong quan hệ của họ với CHDC Đức. Grosz cũng hứa với tôi rằng hệ thống đa đảng ở Hungary không mang tính chất đa nguyên tư sản. Đó chỉ là sự hợp tác giữa các đảng như ta cũng có ở CHDC Đức với các đảng liên minh.” Tôi vẫn giữ đề nghị không nao núng: “Hungary là điểm du lịch quan trọng nhất của ta. Ngay bây giờ đã có phỏng đoán là trong tương lai nước ta sẽ không cho người dân đến đó du lịch nữa.” Honecker không muốn bay sang Hungary. Ông không thích phải xin xỏ. Hungary và CHDC Đức cùng một khối đồng minh. Thế là đủ. Ông viện dẫn các hiệp định đã có và nghĩa vụ của Hungary trong Hiệp ước Warszawa. Giờ đây, hai tháng sau, ở Bucharest chúng tôi đứng cách đoàn đại biểu Hungary có vài bước. Honecker không tiến đến phía Hungary. Chủ tịch đảng của hai nước anh em chẳng có gì để nói
với nhau ngoài chữ “xin chào.” Tôi thấy không ổn. Tôi vẫn tin rằng, ngay cả khi Hungary có lập trường khác CHDC Đức trong nhiều điểm thì giữa hai quốc gia vẫn không được phép có vấn đề trầm trọng đến mức không thể giải quyết bằng tranh luận hữu nghị. Tôi đau lòng nhận ra cả ở hai phe tính bảo thủ đã thắng cầu thị chính trị. Nhưng đằng sau đó còn nhiều vấn đề hơn, vấn đề sống còn. Tôi rút lui khỏi tình huống khó xử này bằng cách quay sang láng giềng bên tay trái, Ba Lan. Trưởng đoàn đại biểu là tướng Jaruzelski. Mấy năm gần đây, năm nào chúng tôi cũng gặp nhau tối thiểu một lần. Khi ông sang thăm CHDC Đức thì tôi đón ông. Tôi qua Ba Lan thì ông tiếp chuyện tôi. Những cuộc hội đàm ấy vượt xa mức thăm hỏi ngoại giao. Trong số chủ tịch đảng ở các nước XHCN Jaruzelski là một người không có tính phô trương. Ông cho tôi các thông tin về tình hình kinh tế và chính trị Ba Lan một cách thẳng thắn bất ngờ. Ông cực kỳ gắn bó với Liên bang Xô viết và CHDC Đức. Nhưng trước hết ông là một người Ba Lan ái quốc. Sự giằng xé nội tâm của ông không bao giờ qua được mắt tôi: sự kiện Ba Lan tuyên bố tình trạng chiến tranh hồi tháng 12/1981 đã khiến nhiều đồng bào của ông và phương Tây gọi ông là tay sai Liên Xô. Sự thực là qua đó ông đã bảo đảm cho nước mình quyền tự quyết và giữ hòa bình cho châu Âu. Hôm nay, vào ngày 7/7 này, có vẻ như ông nhụt chí. Ông không giấu giếm điều đó với tôi. Tình hình trong nước khiến ông bồn chồn. Các cuộc nói chuyện bàn tròn giữa những người cộng sản và phe đối lập làm suy yếu đảng ông. Công đoàn Đoàn Kết đối lập đã được hợp pháp hóa. PVAP (Đảng công nhân thống nhất Ba Lan) từ bỏ đa số trong nghị viện sắp được bầu mới, chỉ thu gọn vào con số nghị sĩ là 38 phần trăm. Bù lại, quyền hạn của tổng thống Ba Lan sẽ được mở rộng. “Bàn tròn là một cơ hội để rốt cuộc đạt được tình trạng bình thường trong xã hội,” tướng Jaruzelski giải thích cho tôi. Nhưng cho đến nay cuộc bầu cử nghị viện diễn biến bất lợi cho đảng ông. Quyền lực bị chia sẻ, nói cho đúng là nằm ngoài đường. Các đồng chí giục ông ứng cử vào vị trí cao nhất. “Tôi không muốn chứng kiến một thủ tục hèn hạ khi bầu tổng thống. Vì vậy tôi còn lưỡng lự, không rõ có nên ứng cử không”, ông nói. “Hôm nay người ta nghe suốt ngày những chữ đa nguyên, dân chủ và cải cách. Tôi ủng hộ. Nhưng chúng ta không được phép quên công việc, kỷ luật và trách nhiệm. Tôi chống lại mọi nỗ lực đưa tình trạng vô chính phủ vào sinh hoạt xã hội.” Cuộc chuyện trò của chúng tôi bị gián đoạn bởi chủ tịch Romania, Nicolae Ceauşescu. Là chủ nhà, ông đến bắt tay từng khách dự hội nghị thượng đỉnh. Ông bỏ qua đoàn Hungary. Có thể ông đã chào họ lúc trước mà tôi không để ý. Nhưng có một chuyện mà ai cũng biết: giữa Romania và Hungary có xung đột dân tộc sâu sắc. Cả hai nước đều buộc tội nhau đàn áp dân tộc thiểu số ở nước mình. Không khí ấy làm tôi bức xúc, một không khí không thể tả bằng lời, không thể nhìn thấy, và nguyên nhân của nó là thiếu mối quan tâm chung và cả sự hãnh tiến dân tộc lẫn ngờ vực. Chúng ta gọi nhau là các nước anh em nhưng hầu như không thể nói chuyện với nhau một cách thẳng thắn và đoàn kết, nói gì đến hợp tác với nhau trên tinh thần xây dựng. Đối với tôi, cho dù có mâu thuẫn và xung đột thì tình đoàn kết giữa các nước XHCN trước sau vẫn là cơ sở quan trọng nhất để tồn tại trước phương Tây. Nếu tình đoàn kết ấy mất đi thì CHDC Đức sẽ bị đe dọa. Vấn đề ở đây không phải là có một cái gọi là trục Berlin-Praha-Bucharest đối kháng với trục cải cách Matxcơva-Budapest-Warszawa-Sofia. Ở đây không xuất hiện nhóm vụ lợi của phe giáo điều chống lại phe cải cách. Cũng không ai đặt câu hỏi, ai ủng hộ Perestroika và Glasnost . Quan trọng nhất ở đây là quan hệ nền tảng giữa các nước XHCN, là khả năng sống còn khi đối mặt thế giới tư bản chủ nghĩa. Hội nghị ở Bucharest phải nhất trí làm cách nào phản ứng thực thụ với chiến lược mới của NATO chĩa mũi dùi vào các nước XHCN. Trong câu trả lời, Matxcơva và Berlin đứng gần nhau hơn Matxcơva và Budapest, Gorbachev và Honecker sát vai nhau hơn Gorbachev và Horn. Nhưng thế vẫn chưa đủ. Tất cả đều phải đồng tâm hiệp lực. Trong bài nói chuyện của mình Gorbachev cảnh báo tất cả các đoàn đại biểu: “Hiệp ước Warszawa là tài sản chung của chúng ta.” Ông đề cập đến những vấn đề đè nặng lên tất cả các nước XHCN: “Sự tụt hậu trầm trọng của các nước XHCN, đặc biệt là ở lĩnh vực công nghệ cao, suy giảm tốc độ tăng trưởng, nợ ngoại tệ cao – tất cả được phương Tây coi là minh chứng cho thất bại của chủ nghĩa xã hội.” Gorbachev nhắc đến kỷ niệm 200 năm Cách mạng Pháp. Ông nói: “Chúng ta phải phản bác những chính khách phương Tây cho rằng 1789 là khởi đầu một đường lối đưa các quốc gia Tây Âu đến dân chủ thịnh vượng hôm nay, tháng Mười năm 1917 là khởi đầu một đường lối khác chỉ đem lại ngang trái cho nhân loại.” Khi Gorbachev triết lý thì đó là đất dụng võ của ông. Tựa như muốn khẳng định rằng chúng ta đang sống trong kỷ nguyên quá độ toàn cầu tiến lên chủ nghĩa xã hội, ông nói: “Chủ nghĩa xã hội đã đem lại nhiều cho thế giới, song những thành tích chính của nó còn ở phía trước.” Ông cực lực phê phán những người gọi con đường của Cách mạng tháng Mười là một lầm lạc lịch sử. Người Liên Xô, ông quả quyết, sẽ không chấp nhận con đường quay trở lại chủ nghĩa tư bản. Một câu rõ ràng. Xuất phát điểm của Gorbachev, ngay cả khi ông nói khác trước công luận, là Liên bang Xô viết trong nội bộ cộng đồng XHCN vẫn tiếp tục nắm vai trò lãnh đạo. Tôi không phản đối quan điểm này. Theo đánh giá của tôi, CHDC Đức không có sức sống nếu thiếu hợp tác với Liên bang Xô viết và các quốc gia khác trong hiệp ước Warszawa. Gorbachev cũng đề cập đến quan hệ giữa CHDC Đức và CHLB Đức. Ở Tây Đức, nhà lãnh đạo Xô viết nói, ngày càng nhiều người ngộ ra rằng “không phải Liên bang Xô viết, và cũng không phải Hiệp ước Warszawa đe dọa an ninh đất nước.” Mối đe dọa chính là chiến lược của NATO, một chiến lược đặt châu Âu vào bãi vũ khí nguyên tử. Từ đó Gorbachev rút ra kết luận: “Chúng ta không ảo tưởng. Trước sau vẫn nhiều người ở CHLB Đức náo nức muốn thống nhất nước Đức. […] Chúng ta không để tâm chơi ‘quân bài Đức.’” Vì một lý do thời sự, tôi quan sát Honecker khi Gorbachev nói những lời đó. Từ ngày 12 đến 15/6/1989 Gorbachev thăm CHLB Đức. Các phương tiện truyền thông Tây Đức nói đến những nhượng bộ lớn của Liên bang Xô viết trước CHLB Đức mà phía chịu thiệt là CHDC Đức. Honecker tin luận điệu đó của phương Tây và ông nghi ngại Gorbachev hơn. Chuyến đi thăm CHLB Đức của Gorbachev kết thúc với bản Tuyên bố chung của Liên Xô và CHLB Đức. Ngay trong cùng ngày Gorbachev thông báo bằng văn bản cho Bộ chính trị SED về các cuộc hội đàm của ông ở Bonn. Ông bác bỏ các luận điệu của Tây Đức. Đối với Gorbachev, Tuyên bố chung ấy là là sự phát triển tiếp tục của Hiệp ước Matxcơva năm 1970 . Lãnh tụ Xô viết nhấn mạnh, chuyến thăm của ông đã củng cố thêm trật tự hậu chiến, trong đó có sự tồn tại của hai nhà nước Đức. Honecker nghi ngờ. Vì vậy trong báo cáo của Bộ chính trị tại Hội nghị 8 của Trung ương đảng SED đại ý vạch rõ, Gorbachev đã hành xử thiếu tinh thần giai cấp tại chuyến thăm của ông ở Bonn. Nói toạc ra là Gorbachev đã phản bội sự nghiệp của chúng ta. Trong lịch sử SED chưa bao giờ có nhận định tương tự về một tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Bộ chính trị cũng không tranh luận về nhận định đó mà Honecker đã tự ý viết vào bản thảo của người thuyết trình. Tuy nhiên sau đó ông cũng chỉ thị không đưa câu đó vào “Biên bản đỏ.” Rõ ràng Honecker lường được tác hại chính trị mà ông có thể gây ra nếu dư luận biết được câu đó. Ở Bucharest hôm nay Honecker không thay đổi sắc mặt. Ông chăm chú lắng nghe lời Gorbachev. Tôi không rõ Honecker nghĩ gì hay cảm nhận gì trong khoảnh khắc ấy. Thường là ông giỏi giữ kín cảm xúc của mình và không để người ngoài đoán được các suy nghĩ thầm kín nhất. Khi Gorbachev nói “các chính khách nghiêm túc đều nhất trí rằng, Đông Âu mất ổn định sẽ có hậu quả nguy hiểm cho cả châu lục” thì Honecker gật đầu tán thưởng người anh em Xô viết. Có vẻ như Honecker trong thâm tâm vừa hòa giải được với tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong giây phút ấy, sếp của tôi gần như toát ra vẻ nhân từ. Nếu Honecker đồng cảm với Gorbachev, tôi nghĩ, thì điều đó chỉ có lợi cho CHDC Đức. Chủ tịch Romania, Nicolae Ceauşescu,
công kích ý tưởng “Ngôi nhà châu Âu” của Gorbachev trong bài diễn văn của ông. “Chúng ta hãy nhìn nhận rõ thực tế”, ông nói, “là Chiến tranh Lạnh chưa kết thúc.” Ông phàn nàn, trong số các đại biểu có các chính khách không chia sẻ nhận định ấy. Khái niệm “Ngôi nhà chung châu Âu” còn mập mờ, không rõ “ở châu Âu sẽ xảy ra chuyện gì, ai quản lý ngôi nhà, nhà được xây trên nguyên tắc nào. Chúng tôi muốn có một châu Âu hợp nhất, nhưng là một châu Âu với những ngôi nhà độc lập, trong đó mỗi người được tự sắp xếp cuộc sống và tự phát triển như họ cho là tốt nhất. Vì vậy chúng tôi có một luận cứ riêng, về mặt nào đó lặp lại luận cứ của de Gaulle về một châu Âu hợp nhất của các dân tộc tự do và độc lập.” Ceauşescu nói quá thời gian quy định, nói dài hơn Gorbachev nhiều. Ông không nhận thấy qua đó làm giảm trọng lượng lời mình. Tất cả đều kiên nhẫn đợi ông vì ông là chủ nhà. Khi thấy đã quá lâu, Gorbachev lấy ngón tay gõ vào đồng hồ của mình, tựa như muốn nói: so giờ đi Nicolae, thời gian của anh đã hết rồi. Trình tự hội nghị bố trí sau hai tiếng họp lại có nửa tiếng giải lao. Giờ họp bị kéo dài quá quy định nhưng vẫn có giờ nghỉ. Ở những cuộc họp ngày xưa, giờ này được các đại biểu tận dụng để nói chuyện với các đồng chí nước ngoài. Trong khi uống cà phê, trà và ăn bánh người ta trao đổi chuyện trò. Lần này đoàn nào cũng đứng ở “bàn nước mình.” Các nước anh em không còn nhu cầu nói chuyện với nhau nữa. Có vẻ như mỗi quốc gia muốn đi một đường riêng. 100 NĂM VÀ BỨC TƯỜNG Honecker kéo tay áo tôi: “Ra chỗ Gorbachev đi”, ông nói. Chưa kịp gọi phiên dịch thì chúng tôi đã đi đến chỗ đoàn Liên Xô. Tôi dịch lại. “Mikhail Sergeyevich, chúc mừng anh đã có một bài diễn văn xuất sắc“, Honecker bắt đầu cuộc nói chuyện. Gorbachev vui vẻ nói: “Cảm ơn.” Không rào trước đón sau, Honecker lôi ngay Gorbachev vào cuộc tranh luận nguyên tắc về chính sách Đức của Liên Xô. Vừa nói ông vừa mỉm cười để làm dịu câu hỏi sỗ sàng của mình. “Bao giờ anh sa thải tay cộng tác viên Dashichev của anh?” Honecker vào chuyện. Thông thường Honecker là một người bặt thiệp nhưng giờ đây ông không nén được kích động. Tôi suýt nghẹn khi dịch lại. Giả sử kém tiếng Nga thì tôi đã hỏi lại Honecker xem mình đã hiểu đúng chưa. Tôi dịch. “Dashichev là ai vậy?” Gorbachev hỏi lại đầy vẻ ngơ ngác. “Là cộng tác viên của anh về chính sách Đức. Ở Cologne, ông ta nói, CHDC Đức cũng như các nước XHCN khác đang dần dần từ khu vực an ninh trở thành khu vực nguy hiểm và bất ổn cho Liên Xô.” Gorbachev phản ứng: “Tôi không có cộng tác viên nào đi kể chuyện vớ vẩn như vậy. Cách đây mấy hôm ở Bonn tôi đã nói rõ cho Kohl biết, bất kỳ hành vi phiêu lưu nào đối với CHDC Đức cũng đồng nghĩa với khơi lại Chiến tranh Lạnh.” Honecker vẫn giữ thái độ công kích và giải thích cho Gorbachev: “Thì anh cũng phải làm thế để cứu danh dự của mình chứ. Chả gì thì trước đây ngót ba năm Kohl đã so sánh anh với Goebbels . Hồi ấy anh đòi CHDC Đức lạnh mặt với CHLB Đức và chúng tôi đã chiều ý anh.” Honecker tức tối nhớ lại sự kiện nói trên vì hồi ấy ông thấy quan hệ của ông với CHLB Đức bị chọc phá. Phía Xô viết trách ông tự tiện tiến hành một chính sách Đức độc lập mà không thống nhất với Matxcơva và sao nhãng tình đoàn kết với Gorbachev. Giá phải trả cho chuyến thăm Bonn năm 1987 là không khí tồi tệ hẳn đi trong quan hệ giữa Berlin và Matxcơva. Từ đó trở đi, như tôi quan sát, Liên bang Xô viết chỉnh sửa chính sách của họ đối với CHLB Đức. Rõ ràng họ không muốn để CHDC Đức tự mình làm hết mọi việc. Trong khi nói chuyện, Gorbachev vẫn giữ vẻ bình tĩnh và thản nhiên đáp: “Hai chuyện không liên quan gì đến nhau cả. Hồi Richard von Weizsäcker đến Matxcơva, tôi đã nói với ông ta rằng sự tồn tại của CHLB Đức và CHDC Đức là thực tế lịch sử xuất phát từ các thỏa thuận sau Chiến tranh thế giới II và hai nước được chia rẽ bởi đường biên giới được quốc tế công nhận. Một trăm năm nữa có gì xảy ra thì lịch sử sẽ quyết định.” “Chính câu đó”, Honecker nói, “đã làm mồi cho các phỏng đoán là anh lại để ngỏ câu hỏi Đức.” “Tôi không hề để ngỏ chuyện gì cả”, Gorbachev trả lời. “Ngoài ra, tôi cũng nói về bức tường Berlin giống anh, Erich ạ . Tại cuộc họp báo cuối chuyến đi thăm CHLB Đức tôi đã phát biểu: ‘Bức tường có thể biến đi khi những tiền đề khiến nó xuất hiện không còn nữa” . Liên bang Xô viết không bao giờ cho phép bỏ qua các lợi ích của CHDC Đức.” Gorbachev cố giữ hòa khí với Honecker. Ông giải thích, ở Bonn, Kohl có hỏi ông về cải cách ở CHDC Đức, và ông đã cho thủ tướng câu trả lời chính xác: “CHDC Đức là đồng minh quan trọng nhất của chúng tôi. Những gì Liên Xô đang thực thi thì CHDC Đức đã bắt đầu trước đây 10, 15 năm rồi. CHLB Đức là đồng minh quan trọng nhất của Hoa Kỳ, nhưng cũng không vì thế mà rập khuôn Hoa Kỳ.” Tôi nghĩ bụng, Gorbachev còn biết nói gì khác? Cuộc nói chuyện về chính sách Đức giữa Honecker và Gorbachev chấm dứt khi người điều khiển hội nghị mời khách quay lại chỗ ngồi. Tôi không còn đầu óc nào tập trung theo dõi diễn biến cuộc họp. Tôi ghi lại cuộc đối thoại giữa Honecker và Gorbachev. Một mặt tôi mừng vì Honecker đã nói hết được những gì ấm ức trong lòng. Nhờ vậy mà Gorbachev trực tiếp được ông cho biết những gì đã nghe báo cáo: Honecker nhận thấy có chênh lệch trong chính sách của CHDC Đức và của Liên Xô đối với CHLB Đức. Ngược lại thì Gorbachev cố gắng xóa bỏ ấn tượng đó. Honecker đoán là tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô chơi trò gian lận sau lưng CHDC Đức. Tôi quan tâm đến sự nhất trí với Liên Xô. Tôi không quan tâm ai là người đứng đầu ở Liên Xô, Gorbachev hay Ligachev . Chỉ một đường lối chung mới có ích. Việc Honecker nghi ngờ Gorbachev có thể nguy hiểm cho CHDC Đức. HUNGARY VÀ HIỆP ƯỚC WARSZAWA Buổi tối Ceauşescu mở tiệc khoản đãi. Tôi ngồi cạnh Gyula Horn. Theo lễ tân bố trí hay tình cờ? Tôi không rõ. Tôi quen ông từ năm 1976, từ khi ông còn là vụ phó Vụ quan hệ quốc tế của Đảng công nhân XHCN Hungary. Ông tháp tùng chủ tịch đảng Kadar đến Berlin dự cuộc hội nghị của đại diện 29 đảng cộng sản và đảng công nhân mùa Hè năm 1976. Brezhnev và Tito, Berlinguer và Húsák, Marchais và Gierek, Carillio và Zhivkov, toàn những nhân vật danh tiếng của phong trào cộng sản châu Âu. Tất cả họp dưới sự bảo trợ của Honecker. Một hội nghị có ý nghĩa trọng đại, đem lại cho SED lời khen ngợi của mọi đại biểu tham gia. Quan điểm của đại diện Tây Ban Nha Carillio: “Không nghi ngờ gì, người cộng sản chúng ta hôm nay không có trung tâm lãnh đạo và không gắn liền vào một kỷ luật quốc tế.” Marchais người Pháp từ bỏ một tiên đề lý luận cách mạng của Marx: “Vì khái niệm ‘chuyên chính vô sản’ không còn phù hợp với thực tế quyền lực chính trị trong một nước Pháp XHCN mà chúng tôi phấn đấu, nên chúng tôi từ bỏ khái niệm đó”. Năm 1976 Horn và tôi là môn đệ của chủ nghĩa quốc tế XHCN. Chúng tôi tự coi mình là người theo chủ nghĩa Marx-Lenin. Chúng tôi cổ xúy quan điểm Xô viết mà theo chúng tôi nó cũng phù hợp với lợi ích của nước mình. Ông đấu tranh cùng chúng tôi và các bạn Xô viết để tư tưởng cộng sản châu Âu của các đảng cộng sản phương Tây không được đưa vào bản tuyên bố hội nghị, hoặc cũng được làm dịu bớt đi. Hôm nay, mười ba năm sau, chúng tôi lại nhận lời mời của Ceauşescu để ngồi cạnh nhau. Không có vấn đề ngôn ngữ: Horn cũng học đại học ở Liên Xô như tôi. Ngôn ngữ để chúng tôi đàm đạo là tiếng Nga. Quan điểm của chúng tôi thì khác nhau. Trước khi món xúp được bưng lên, Horn chuyển đề tài nói chuyện của chúng tôi từ thời tiết sang chính trị: “Vậy là”, ông nói, “CHDC Đức lo ngại cho Hungary.” “Vì sao?” tôi hỏi. “Các anh mở chiến dịch báo chí chống chúng tôi. Các anh có biết bút chiến công khai dẫn đến đâu không? Hy vọng Hungary một ngày nào đó không phải lo ngại cho CHDC Đức!” Tôi cố không đổ dầu vào lửa, không muốn làm cho các vấn đề đã có sẵn giữa hai bên càng nặng nề thêm. Trong mắt tôi, Horn là đồng chí và Hungary là đối tác đồng minh của CHDC Đức. Tôi không phản bác. Horn vẫn tiếp lời. “Tang lễ Janos Kadar diễn ra bốn tuần sau đại lễ an táng Imre Nagy.” Tôi sửng sốt. “Hai sự kiện có liên quan gì đến nhau?” tôi hỏi. “Chúng tôi đánh giá lại lịch sử của mình”, Horn đáp. “Vấn đề Imre Nagy là chuyện riêng của các anh”, tôi nói. “Các anh đã phê phán chúng tôi vì vấn đề đó”, Horn vẫn cố bám đề tài. Ông ám chỉ bình luận của
Alexander Kondrashov được báo NEUES DEUTSCHLAND đăng tải sau khi phục hồi Nagy. Nhà bình luận Xô viết đã kịch liệt phê phán lễ an táng cố chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Hungary giống như “chôn cất tượng trưng chủ nghĩa xã hội.” Horn nói tiếp: Nagy hồi năm 1956 chỉ làm những gì đã thống nhất trước với các đồng chí Xô viết. Việc rời Hiệp ước Warszawa đã được nhất trí trước với các đồng chí lãnh đạo Xô viết như Suslov, Mikoyan và Andropov . Bi kịch của Nagy là ông đã tin vào các đồng chí Xô viết và không hề biết đến tình trạng bất đồng ý kiến trong Bộ chính trị Matxcơva. Mới gần đây ở Hungary người ta được biết, sau nhiều xung đột dai dẳng trong Bộ chính trị Khrushchev đã thắng thế và sau đó ra lệnh cho quân đội Xô viết can thiệp vào Hungary – mà đó chính là chuyện Imre Nagy muốn ngăn cản. Ông muốn đưa Hungary ra khỏi Hiệp ước Warszawa. Giả sử nếu ông thành công thì xét về luật quốc tế Liên bang Xô viết sẽ không còn khả năng nào để can thiệp nữa. Horn liên tục quay trở lại chủ đề này và ông có lý do thời sự: cách đây mấy tiếng đoàn Hungary đòi được gặp ngay đoàn Liên Xô để bàn về chuyện rút khẩn cấp các quân đoàn Xô viết hiện đóng trên đất Hungary. Quá khứ và hiện tại gần nhau như thế đó. Thông qua việc phục hồi Imre Nagy là người định đưa Hungary ra khỏi Hiệp ước Warszawa năm 1956, Horn quảng bá chủ định thực sự của mình ở Bucharest: ban lãnh đạo mới của Hungary muốn ra khỏi Hiệp ước Warszawa. Dựa vào cuộc nói chuyện này để đoán thì Horn nung nấu một câu hỏi: chúng ta có biết rõ tương quan lực lượng trong Bộ chính trị Matxcơva hôm nay ra sao không? Các hứa hẹn của Gorbachev phỏng có giá trị gì khi ta không biết cái ghế của ông chắc chắn đến mức nào? Các quân đoàn Xô viết còn trụ lại ở Hungary bao lâu, nếu điện Kremlin có ông chủ mới? Ấn tượng của tôi là Horn quan tâm muốn biết lãnh đạo SED có rõ mối quan hệ này không. Cuộc trò chuyện của chúng tôi đột ngột chấm dứt. Ceauşescu đứng dậy trước khi cà phê kịp đem ra. Chủ tịch các đảng khác cũng theo chân ông. Bữa tiệc chấm dứt một cách tùy tiện bất thường. Không ai hiểu vì sao. Horn và tôi chia tay nhau thân mật nhưng vội vã. Cả hai cùng vội đến với sếp của mình. Erich Honecker tiến đến chỗ tôi. Trông ông nhợt nhạt và mệt mỏi. Tôi cảm thấy ông bị đau. Tôi định cất tiếng nhưng ông phẩy tay, ông đang bận bịu với chính mình. Ông nói ngắn gọn: “8 giờ đến ăn sáng. Ta có chuyện để bàn.” TRONG PHÒNG BỆNH CỦA HONECKER Tổng bí thư Erich Honecker ở một lâu đài Bucharest được chủ tịch Romania dùng làm nhà khách. Các thành viên khác của đoàn đại biểu CHDC Đức – Willi Stoph, Hermann Axen, Heinz Kessler, Günter Mittag, Oskar Fischer và tôi – được xếp ở một khách sạn trung tâm thành phố. Tối hôm ấy tôi khó chợp mắt. Quá nhiều chuyện làm tôi suy nghĩ. Chữ mà tôi được nghe nhiều nhất trong các diễn văn và trao đổi hôm nay là “cải cách”, nhưng không ai nói mục đích thực sự là gì. “Cải cách” biến thành chữ thay thế cho những dự định mù mờ. Mỗi người hiểu nó một phách. Đầu óc tôi mông lung nhiều câu hỏi: chúng ta gìn giữ các lý tưởng XHCN ra sao khi cải cách triệt để? Cải cách mang nội dung gì? Nó mang lại cho người dân các nước chúng ta lợi ích gì? Rõ ràng không nhà lãnh đạo nào từ các nước có mặt ở đây có câu trả lời mang tính thuyết phục và xây dựng. Gorbachev nói đến Perestroika, nhưng ông đã đạt được gì qua Perestroika? Ông muốn các giám đốc xí nghiệp được bầu. Tốt thôi. Nhưng bầu ai trong một xí nghiệp với tinh thần lao động kém? Có lẽ không bầu người có tinh thần lao động cao nhất! Thêm nữa, mỗi xí nghiệp bị cột vào một hệ thống kế hoạch chặt hẹp. Honecker cũng nói đến cải cách. Ông đã phân tích rõ chủ tâm của đối phương bên CHLB Đức: Bonn đòi hỏi cải cách ở CHDC Đức. Nhưng sự thật là CHLB Đức muốn thay đổi chế độ ở CHDC Đức. Trong một bài diễn văn ông đã nói: “Để đạt mục đích đó, nhà nước Đức kia can thiệp vào công việc nội trị của CHDC Đức, thóa mạ chính sách của CHDC Đức, tiến hành chiến dịch tuyên truyền chống phá bức tường và hệ thống biên giới.” Nhưng chúng ta vẫn thiếu kết luận rút ra cho công tác nội chính. Cái gì thực sự cần cải cách ở CHDC Đức thì trong Bộ chính trị không có câu trả lời. Ít nhất thì cho đến nay chưa đem ra tranh luận thấu đáo. Cuộc nói chuyện trong giờ giải lao với một cựu cán bộ Đoàn thanh niên Xô viết và hôm nay công tác trong ban tham mưu của Bộ trưởng Ngoại giao Shevardnadze cũng làm tôi bồn chồn. Anh nói với tôi: Liên bang Xô viết đang ở trong cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất từ ngày lập quốc. Qua Perestroika ban lãnh đạo Liên Xô muốn đón đầu tình huống xã hội nóng lên như ở Ba Lan. Nhưng điều kiện sống không khá lên. Thậm chí những thiếu thốn mà người dân Xô Viết đã dần quen cũng trở nên tồi tệ hơn. Không còn đảm bảo được cung cấp thực phẩm thiết yếu. Ngay cả xà phòng cũng không mua được trong các cửa hiệu bình thường. Người dân đổ hết nguyên nhân cho Perestroika. Bộ máy đảng và nhà nước lúng túng. Khác với ngày xưa, khi ban lãnh đạo nói đến các nguy cơ sống còn của nhân loại như thảm họa hạt nhân hay môi trường cũng không đánh lạc hướng nổi sự chú ý vào các vấn đề của đất nước nữa. Perestroika đã hủy hoại lòng tin ngày xưa vào các giá trị của chủ nghĩa xã hội mà không gây dựng được lòng tin mới. Công cuộc cải tổ không thể là một tình trạng kéo dài. Con người cần sự yên ổn, cần thấy cuộc sống thường nhật cải thiện trông thấy. Thời buổi của những lời kêu gọi đã qua rồi. Gorbachev hôm nay xuất hiện một cách tự tin trong phiên thảo luận các vấn đề đối ngoại. Ông hầu như không đả động đến các vấn đề nội bộ của Liên bang Xô viết. Từ Nagorno-Karabakh, Georgia, Kazakhstan, Uzbekistan và các nước cộng hòa Xô viết vùng Baltic dội đến những tin tức đầy đe dọa. Ngày càng nhiều vụ đụng độ giữa quân đội, lực lượng an ninh và những người phản đối. Có người chết và bị thương. Phương Tây thông tin về chuyện này dè sẻn một cách đáng ngờ. Cho đến giờ Gorbachev không phát biểu gì ở Bucharest về quan điểm sử dụng vũ lực chống lại người dân nước mình. Tất cả những vấn đề ấy làm tôi không ngủ được. Tôi vừa chợp mắt được một lúc thì điện thoại đổ chuông. Tôi nhấc máy: “Tôi đây.” Bên kia đầu dây là chỉ huy bộ phận cận vệ, một vị tướng của Bộ an ninh quốc gia. Ông báo cáo: “Thưa đồng chí ủy viên Bộ chính trị, tổng bí thư vừa được đưa tới bệnh viện chính phủ Romania. Ông bị đau nặng vùng bụng, có lẽ sốc mật. Tôi đề nghị đồng chí đến đây càng nhanh càng tốt. Ô tô cho đồng chí đã đợi sẵn ở cửa khách sạn.” “Bác sĩ đã có mặt cạnh đồng chí Honecker chứ?” Ông khẳng định. “Còn ai biết đồng chí Honecker không được khỏe không?” “Đồng chí Krenz, tôi chỉ báo riêng cho đồng chí thôi.” “Được, đồng chí đừng đánh thức các đại biểu khác. Cũng chẳng ai giúp được gì. Bây giờ ta không cần ầm ĩ.” Tôi đặt máy, mặc quần áo và đi ra cửa khách sạn. Ô tô phóng qua đêm đen Bucharest. Tôi lo lắng. Honecker bị chăm sóc y tế từ lâu. Sau lần khám phổi năm 1988 thậm chí ông sợ bị ung thư. Nếu cơn đau lần này liên quan đến ung thư? Nếu chuyện xấu nhất xảy ra thì sao? Tôi vừa xúc động vừa trầm tư. Không ai được chuẩn bị đón một tình cảnh như thế này. Trong một hệ thống xã hội như hệ thống của chúng ta, tổng bí thư không chỉ ấn định đường lối chính trị, mà nói cho cùng còn quyết định các vấn đề nhân sự quan trọng. Một điểm yếu trong hệ thống chính trị của chúng ta là các tổng bí thư hoặc là chết già trong chức vụ, hoặc là bị hạ bệ với sự trợ giúp của Liên Xô. Cho đến nay Honecker chưa chỉ định về người kế nhiệm, hay ít nhất là Bộ chính trị chưa bao giờ đem ra bàn bạc. Phương Tây tuy hay gọi tôi là hoàng thái tử, nhưng suy diễn ấy quá xa thực tế chính trị. Có lẽ nguyên nhân vì tôi là người trẻ nhất trong Bộ chính trị và được Honecker tin cậy. Như Honecker, tôi lãnh đạo FDJ gần mười năm. Năm 1984 tổng bí thư trao tôi quyền điều hành các cuộc họp Bộ chính trị hoặc Ban bí thư khi ông nghỉ phép hoặc ra nước ngoài. Trong thời gian đó tôi là người thay mặt ông – do Bộ chính trị quyết định trước khi ông đi vắng. Những quyết định kiểu ấy không dính dáng gì đến chuyện kế nhiệm. Chưa bao giờ tổng bí thư có một người làm phó. Mỗi tin từ truyền thông phương Tây nâng tôi lên hàng “hoàng thái tử” đều làm cho Honecker đa nghi. Ông không muốn để bất cứ ai áp đặt người thế chỗ cho mình trong tương lai. Đã thế, quan hệ giữa hai
chúng tôi từ năm 1985-1986 còn xấu đi trông thấy. Trong công tác cố vấn ông ưa chọn Günter Mittag là người có tham vọng chính trị thừa kế ông. Với Mittag trên thượng tầng thì chính sách của chúng ta không thể sửa đổi được nữa. Những ý nghĩ ấy làm tôi bận bịu trên xe. Ô tô dừng trước bệnh viện chính phủ Romania. Đồng chí Coman, ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Romania, đứng trước cửa. “Đồng chí Krenz, chủ tịch của chúng tôi muốn anh quyết định có nên phẫu thuật Honecker.” “Sao cơ?” tôi tưởng mình nghe không chính xác. Tôi là chính khách chứ đâu phải bác sĩ. Đồng chí Coman thấy tôi sửng sốt, vội giải thích: “Trách nhiệm này quá lớn đối với Romania. Các đồng chí Đức phải tự quyết định về việc chăm sóc y tế cho chủ tịch Hội đồng nhà nước của mình.” Tôi trấn an ông. Không ai muốn dồn gánh nặng lên lưng Romania. Nhưng tôi cũng cho ông rõ: ở CHDC Đức các bác sĩ là người quyết định có nên phẫu thuật hay không. Ngoài ra phải hỏi cả gia đình nữa. Tôi chỉ có thể ra ý kiến sau khi đã nói chuyện với nữ bác sĩ của Honecker. Mỗi lần Honecker lên đường là nữ bác sĩ của ông đi theo. Bà có chuyên môn xuất sắc và luôn bình tĩnh trong mọi tình huống hiểm nghèo. Chỉ có bà mới được quyết định cho Honecker bay về Berlin hay được phẫu thuật ở Bucharest. Bác sĩ đã khám xong cho người bệnh của mình. Chúng tôi trao đổi ngắn. Bà quyết định: “Bệnh nhân có thể di chuyển được. Tôi nhận trách nhiệm.” Sau đó tôi vào phòng bệnh của Honecker. Chưa bao giờ tôi gần sếp của mình đến thế. Ông nằm lả trong khi được truyền dịch. Các bác sĩ Romania thỉnh thoảng đặt túi đá chườm lên bụng ông. Thoạt tiên ông không biết tôi ở đó vì ông uống thuốc giảm đau liều cao. Tôi bắt chuyện với ông: “Erich, anh làm sao thế?” Ông quay đầu về phía tôi, im lặng nhìn tôi một lát và khẽ nói: “Egon à.” Tôi thương ông và muốn để ông yên. Nhưng một số quyết định quan trọng không thể chờ. Tôi nói chậm rãi: “Erich, các bác sĩ cho tôi năm phút để cùng anh bàn bạc vài chuyện. Tôi sẽ hỏi anh bốn câu, anh chỉ việc trả lời vắn tắt.” Ông gật. “Ai ký vào tuyên bố tổng kết hội nghị thượng đỉnh?” “Tôi.” Không được đâu, Erich, anh đang ốm. Tôi đề nghị để Willi Stoph ký.” “Nếu bắt buộc thì phải thế!” Honecker trả lời. “Ai dự cuộc thảo luận giữa các tổng bí thư và Gorbachev?” tôi hỏi tiếp. “Anh.” “Cũng không được. Tôi bay cùng anh về Berlin. Tôi không để anh một mình.” Có vẻ ông giật mình khi thấy tôi cương quyết. Nhưng ông không tỏ cho tôi biết ông thấy thế là tốt hay không. Dù thế nào thì ông cũng không phản đối. “Nếu anh không ở lại thì Stoph cũng đến dự buổi thảo luận với Gorbachev.” “Ta phải có một thông cáo báo chí ngắn về chuyện anh ốm.” “Tuyệt đối không!” Honecker phản đối. “Erich, khi các nhà báo vào phòng hội nghị dự buổi tổng kết và anh không có mặt thì có trời biết họ sẽ phỏng đoán gì.” “Vậy sẽ còn bao nhiêu phỏng đoán khi tôi ốm?” Honecker sợ dư luận có thể nghĩ là ông ốm thập tử nhất sinh. Tôi cố khuyên ông khỏi sợ. “Bệnh của anh không liên quan đến tuổi tác. Hồi bị bệnh về mật, tôi còn chưa đến 50 tuổi.” Ông không trả lời, mải suy nghĩ. Tôi đứng bốn, năm phút cạnh giường bệnh, trong thời gian đó chúng tôi không nói với nhau một lời. Có thể Honecker nhớ lại thông báo của ông năm 1985 về tình hình sức khỏe của tôi đã có hậu quả ra sao. Ngày ấy ông nói với một vị khách từ Bonn: “Krenz ốm.” Từ đó trở đi luôn có tin đồn mới về tôi. Lúc thì tôi bị tiểu đường, lúc thì phải qua Mỹ mổ tuyến tụy. Lúc thì tôi có vấn đề đau gan vì rượu. Sùng sục những tin đồn trong khi tôi khỏe như vâm. Có thể Honecker sợ sa vào cảnh ấy. Tôi được ông đồng ý ra bản thông cáo báo chí. Nhưng ông muốn đọc trước khi được công bố. Tuy tôi chưa chuẩn bị được nhưng muốn hoàn tất việc này. Trong túi áo tôi có tờ ghi chép cuộc nói chuyện hôm qua. Tôi lấy ra và giải thích cho Honecker: “Tôi đã chuẩn bị bản thông cáo báo chí khi đi trên ô tô, nhưng anh sẽ không đọc được chữ tôi đâu. Để tôi đọc cho anh nghe.” Tôi thầm lạy trời để ông không muốn xem tờ giấy – một tờ giấy đầy chữ, nhưng không phải thông cáo báo chí. Nhưng ông không có vẻ muốn kiểm tra. Tôi cố tình đọc thật chậm: “Tổng bí thư Trung ương đảng SED và chủ tịch Hội đồng nhà nước CHDC Đức Erich Honecker do bị viêm túi mật nặng nên đã rời Bucharest về nhà sáng sớm thứ Bảy.” Vẻn vẹn bốn dòng. Honecker đồng ý, nhưng ông muốn bổ sung một câu: “Tổng bí thư Đảng Cộng sản Romania và chủ tịch Cộng hòa XHCN Romania, Nicolae Ceauşescu, đã đến chia tay rất thắm thiết.” Tôi ghi lại câu này và ra khỏi bệnh viện. Thông cáo báo chí được chuyển đi ngay. Mấy phút trước lúc khai mạc ngày đàm phán thứ hai của các đại diện Hiệp ước Warszawa thì dư luận được biết Erich Honecker lâm bệnh. Nhưng ông chưa thể khởi hành. Tội lỗi do câu mà ông đọc cho tôi ghi thêm vào thông cáo báo chí. Romania chùng chình chuyện khởi hành vì chúng tôi đã ra thông cáo là đích thân Ceauşescu đến chia tay Honecker. Nhưng vị chủ tịch Romania chưa thể: ông đang đàm phán với đoàn Hungary và không thể bỏ đi vì sợ mất thể diện. Hai bên đang cố gắng một lần nữa nhằm nhất trí về vấn đề đối xử với dân tộc thiểu số ở cả hai nước. Đàm phán không thành. Cả hai bên đều không chịu thỏa hiệp. Rốt cuộc Ceauşescu cũng đến. Ông ôm Honecker và chúc chóng khỏi bệnh. Tôi nghe ông nói: “Gorbachev muốn xây ngôi nhà châu Âu. Tất cả chúng ta đang phá nhà của mình.” Rồi thì chúng tôi cũng khởi hành được. Trên đường từ Bucharest về Berlin, Honecker cho gọi tôi. Ông nằm một mình trong phòng ngủ của chuyên cơ. Tôi ngồi trên ghế kê cạnh giường ông. Ông không có ý gì nhất định, chỉ muốn chuyện trò với ai đó. “Một lũ đạo đức giả”, ông bực dọc nói mặc dù đã dùng thuốc an thần, “ngày xưa các chính khách phương Tây thi nhau nịnh nọt Ceauşescu. Mỗi bước chệch khỏi đường lối chung đều được tung hô là biểu hiện đối kháng với Matxcơva. Càng phê phán Matxcơva thì Ceauşescu càng được phương Tây khen ngợi. Lúc mình không được nhận vay tín dụng thì Ceauşescu lại được. Những cú độc diễn của Ceauşescu được phương Tây đền đáp bằng nhiều tiền. Hồi Romania tham dự Thế vận hội Los Angeles năm 1984 , các chính khách phương Tây tung hô Ceauşescu là người hùng. Giờ thì họ mặc xác ông ấy. Họ có Gorbachev rồi mà.” Tôi đã được nghe Honecker nói nhiều nhưng giờ đây mới nghe thấy những lời cay đắng như vậy về nhân vật số 1 ở Matxcơva. Tôi nghĩ lý do là ông đang ốm. Honecker thấy trong Gorbachev một người của phương Tây sao? Tôi không tin nổi. Tôi tín nhiệm lãnh đạo đảng và nhà nước Liên Xô, và đó không chỉ là một mình Gorbachev. Dù sao thì vào ngày tháng Bảy hôm ấy tôi cũng thở phào khi hạ cánh xuống Berlin và các bác sĩ đến chăm sóc Honecker. BREZHNEV, GORBACHEV VÀ HỌC THUYẾT CỦA HỌ Những người đi cùng và tôi nhìn theo đoàn xe đưa Honecker đến bệnh viện. Những gì tôi chứng kiến trong 24 giờ qua chẳng có gì để vui vẻ, vì trong cách hành xử khác nhau của các quốc gia trong Hiệp ước tại cuộc họp thượng đỉnh đã cho thấy biểu hiện tan rã của khối đồng minh. Phải chăng các lợi ích chung của chủ nghĩa xã hội không còn là sợi dây gắn kết giữa chúng ta? Khủng hoảng ở các quốc gia trong cộng đồng đã có thường xuyên: CHDC Đức năm 1953, Hungary năm 1956, Ba Lan năm 1956, năm 1970 và năm 1980, Tiệp Khắc năm 1968. Thông thường thì đó là khủng hoảng ở một hay nhiều nước chứ không bao giờ ập xuống cả tổng thể cộng đồng. Hôm nay lần đầu tiên tôi chứng kiến cộng đồng các quốc gia XHCN không hoạt động nữa. Chủ nghĩa xã hội châu Âu với hạt nhân là Liên bang Xô viết đang ở trong một cuộc khủng hoảng sống còn. Nó khiến tôi nghĩ đến nguy cơ lớn, không chỉ đối với lục địa chúng ta. Tính lưỡng cực của thế giới, cho dù Chiến tranh Lạnh có khắc nghiệt, vẫn là một cái gì đó tương tự như cơ chế điều chỉnh để bảo đảm hòa bình. Mỗi phe đều biết từ phe kia rằng họ có thể bị trừng phạt bởi đòn hủy diệt khi phiêu lưu gây chiến. Nếu các quốc gia trong Hiệp ước Warszawa thể hiện sự rã đám thì cơ chế điều chỉnh ấy không hoạt động nữa. Bây giờ cần đến khả năng giải quyết các xung đột bằng phương tiện chính trị của tất cả các đồng minh. Tôi tin vào giải pháp này. Các lợi ích chung nhất định phải mạnh hơn các dị biệt. Nhưng tôi cũng phải suy nghĩ: liệu bệnh trạng của Honecker có tệ hơn là chỉ một cơn sốc mật? Một sự suy sụp tâm lý do phản ứng với bệnh trạng tiềm ẩn của cộng đồng XHCN mà đến Bucharest ông mới thấy hết được quy mô trầm trọng? Tôi xem đồng hồ. 11 giờ
hơn. Có lẽ lúc này ở Bucharest các trưởng đoàn đại biểu đang ký tuyên bố tổng kết. Tài liệu kết thúc này chỉ mấy tiếng đồng hồ nữa thôi sẽ là cơ sở cho đủ kiểu suy diễn. Bên Tây loan tin Gorbachev rốt cuộc đã bãi bỏ hoàn toàn “Học thuyết Brezhnev“. Từ khi Gorbachev nhậm chức, tôi tham dự tất cả các phiên họp của Ban cố vấn chính trị và không nhớ đã lần nào được nghe ông nhận xét học thuyết này không phải là sự vu khống Liên Xô của phương Tây. Tôi cũng không nghe thấy Gorbachev đã bãi bỏ một “Học thuyết Brezhnev”. Đã nhiều dịp Gorbachev nói: mỗi quốc gia XHCN tự chịu trách nhiệm cho chính mình. Lời phát biểu ở Bucharest – tất cả các quốc gia đều ủng hộ nguyên tắc “độc lập và tự quyết của các đảng dân tộc, bình đẳng trong quan hệ và tự nguyện trong hợp tác” – không có gì mới. Gần như nguyên văn của phát ngôn trên có thể đọc thấy trong tuyên bố của hội nghị đại diện các đảng cộng sản và đảng công nhân hồi tháng 11/1960. Sau này tại hội nghị quốc tế năm 1969 Brezhnev có nói đến nhiệm vụ là phải kiên quyết bảo đảm “[…] các nguyên tắc về bình đẳng giữa tất cả các quốc gia của chủ nghĩa xã hội, tính tự quyết và độc lập của họ, cũng như không can thiệp vào công việc nội bộ.” Về ngôn từ, tất cả các lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đều nói thế, từ Stalin đến Gorbachev. Cũng dễ hiểu thôi. Liệu họ có thể nói “các nước XHCN khác là vệ tinh của chúng ta, và chúng ta quyết định chuyện gì xảy ra ở đó” không? Chúng ta là các nước anh em. Liên Xô là người anh cả, xét về khía cạnh nào đó là chủ gia đình. Đó là luật chơi chưa bao giờ mất hiệu lực trong chính trị thực hành trước năm 1989. Chưa bao giờ Gorbachev cả quyết, mỗi quốc gia có thể tự ý rời Hiệp ước Warszawa và khối SEV . Ngày 13/3/1985, khi vừa nhậm chức tổng bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô được hai ngày, ông mời các đồng nghiệp Đông Âu đến điện Kremlin. Quan tâm chính của ông là việc gia hạn Hiệp ước Warszawa . Ngày 26/4/1984 hoạt động đối ngoại lớn đầu tiên của ông là ký biên bản gia hạn Hiệp ước Warszawa thêm 20 năm. Tôi có mặt hôm đó ở Warszawa và chứng kiến niềm vui của ông khi gia hạn được Hiệp ước mặc dù bị Romania gây trở ngại. Ngày đó được ông sau này gọi là “lần chào đời thứ hai” của khối liên minh quân sự. Chủ nghĩa quốc tế XHCN là cơ sở cho quan hệ giữa các nước Đông Âu, đối với cả Gorbachev. Một tư tưởng hệ chung và các lợi ích chính trị chung là cái hàn gắn các nước chúng ta mãi mãi. Tại một cuộc họp nội bộ của các đảng anh em hồi tháng 11/1986 Gorbachev nói: “Không thể có thành công nếu mỗi đảng không tự quan tâm đến lợi ích riêng lẫn lợi ích chung.” Sức mạnh chung của chúng ta nằm trong “đoàn kết giai cấp.” “Học thuyết Brezhnev” theo quan điểm của Gorbachev cũng là một từ ngữ phương Tây. Nó bắt đầu được dùng từ năm 1968 sau khi các quân đoàn của Hiệp ước Warszawa tiến vào Tiệp Khắc. Theo học thuyết đó, quyền tự quyết của các quốc gia XHCN riêng lẻ phương Đông bị hạn chế. Ý tưởng này không hẳn sai, những cũng chẳng đúng. Hãy xem quyền tự quyết của các nước phương Tây ra sao! Ai sáp nhập vào một khối đồng minh – bất kể là NATO hay Hiệp ước Warszawa cũng vậy thôi – thì cũng trao một phần quyền tự quyết của mình cho khối đồng minh. Bản chất của mọi khối đồng minh là vậy. Chỉ riêng một sự việc sau đây minh chứng Gorbachev không coi tài liệu tổng kết của hội nghị thượng đỉnh ở Bucharest là chỉnh sửa chính sách của Liên Xô đối với các nước anh em khác: ngay trước thềm hội nghị, Dubček và Černik viết thư cho lãnh đạo đảng Tiệp Khắc Miloš Jakeš. Nội dung thư: đòi các lãnh đạo đảng và nhà nước trong Hiệp ước Warszawa đánh giá lại các sự kiện ở Tiệp Khắc năm 1968. Trong thời gian hội nghị Jakeš cũng thông tin cho đoàn CHDC Đức về bức thư này. Trong kỳ nghỉ phép ở Liên Xô, ông cũng nói chuyện với Gorbachev về cùng chủ đề. Tổng bí thư khẳng định với Jakeš rằng Đảng Cộng sản Liên Xô tuyệt đối không bao giờ đánh giá lại các biện pháp hồi tháng 8/1968. Lập trường này cũng được Gorbachev báo cho lãnh đạo SED. Mãi năm tháng sau, tại hội nghị Ban cố vấn chính trị ngày 4/12/1989 ở Matxcơva, Gorbachev mới có thái độ khác. Sau này Valentin Falin sẽ cả quyết rằng, từ cuối năm 1988 Gorbachev đã nhắc đến một “Học thuyết Gorbachev”. Chậm nhất là vào thời điểm ấy Liên Xô đã giã từ ý tưởng can thiệp quân sự vào các nước anh em. Nếu học thuyết ấy có thật thì nó đã được giữ bí mật trước Bộ chính trị SED, đại sứ Liên Xô ở CHDC Đức và các quân đoàn Liên Xô đóng tại CHDC Đức. Giới lãnh đạo chính trị và quân sự của CHDC Đức chưa bao giờ được nghe nói về học thuyết ấy. Đối với CHDC Đức, giới quân sự Xô viết cho đến tận năm 1989 vẫn lấy xuất phát điểm là các lợi ích chung về chính trị và quân sự. Thêm nữa, giữa Liên Xô và CHDC Đức còn tồn tại một liên kết tương trợ lẫn nhau chưa bao giờ bị chấm dứt. Ngay cả khi Liên Xô vào năm 1988 sẵn sàng trả lại toàn bộ quyền tự quyết cho Bulgaria, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary và Romania, thì với CHDC Đức chuyện đó vẫn khác. Đối với Liên bang Xô viết, CHDC Đức luôn là trường hợp đặc biệt. Nhiệm kỳ lãnh đạo nào của Liên Xô cũng chú trọng một sự thật là hơn 20 triệu công dân Xô viết là nạn nhân khi Hitler tấn công Liên Xô hoặc hy sinh tính mạng để giải phóng nước Đức. Không như đối với Gorbachev, CHDC Đức đối với giới quân sự Xô viết là một phần cuộc đời họ, là máu trong tim họ. Vai trò đặc biệt này của CHDC Đức cũng phù hợp với lịch sử của các quan hệ tương hỗ. Cho đến năm 1955, Cao ủy Liên Xô ở CHDC Đức cùng họp Bộ chính trị SED. Mọi nghị quyết Bộ chính trị đều có thể bị vô hiệu hóa bởi quyền phủ quyết của Cao ủy. Mặc dù giới lãnh đạo Xô viết trong tháng 6/1952 ra nghị quyết cho phép ở CHDC Đức bắt đầu được hoạch định xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, ngày 3-4/6/1953 – chỉ ba tháng sau khi Stalin qua đời – nghị quyết ấy bị Matxcơva sửa đổi. Người ta đã xác định SED “nhầm lẫn khi chọn đường lối tăng tốc độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Đông Đức […]” Thực tế qua đó nghị quyết của Hội nghị đảng SED thứ II bị bãi bỏ. Thông qua một hiệp định hồi năm 1955, về hình thức CHDC Đức được trao quyền tự quyết. Dù vậy Liên Xô vẫn góp tiếng nói quyết định trong mọi câu hỏi quan trọng về sự phát triển của CHDC Đức. Quyền đó sinh ra từ vai trò thế lực thắng trận trong Chiến tranh thế giới II. Theo tôi, điều đó phù hợp với thực tế chính trị hiện hành. Năm 1967 ở CHDC Đức soạn thảo một hiến pháp mới. Trước khi đem ra tranh luận công khai và lập kế hoạch trưng cầu dân ý năm 1968, theo nguyện vọng của giới lãnh đạo Xô viết Walter Ulbricht gửi bản dự thảo hiến pháp đến Brezhnev xin ý kiến. Ngày 28/11/1967 người lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô trả lời, Bộ chính trị của Đảng Cộng sản Liên Xô “đã nghiên cứu dự thảo hiến pháp mới của Cộng hòa dân chủ Đức.” Ông gửi kèm thư ba trang giấy nữa, trong đó có bảy điểm với ghi chú: các điều khoản cụ thể “cần được suy nghĩ thêm và viết chính xác hơn.” Tôi thấy biện pháp này là cần thiết, có lợi cho một chính sách được thống nhất về mặt quốc tế – Liên bang Xô viết đối với nhiều người thế hệ tôi không phải là một quyền lực ngoại bang, mà là bạn đồng hành cùng chung sự nghiệp. Nguyên tắc này cũng có hiệu lực dưới thời Gorbachev. Các phân tích và nghị quyết cơ bản của Bộ chính trị SED về chính sách đối với CHLB Đức và Tây Berlin đều được gửi sang Matxcơva để đạt sự nhất trí. Mỗi tài liệu đàm phán cho các cuộc hội đàm giữa Hermann Axen và Egon Bahr về hoạt động chung của SED và SPD phải được trình cho Matxcơva. Khi SED và SPD năm 1987 công bố tài liệu chiến lược tổng quát về an ninh chung và tranh luận tư tưởng, Matxcơva đã phê phán về nguyên tắc. Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cảnh báo SED không được “xóa nhòa các mâu thuẫn mang tính nguyên tắc giữa những người cộng sản và XHCN hoặc chấp nhận chung sống hòa bình trong lĩnh vực tư tưởng hệ.” Trung ương Đảng chỉ rõ: “Dù đã chú trọng tính chất thỏa hiệp, chúng tôi vẫn muốn nói thẳng thắn – không có gì lạ giữa hai đảng chúng ta – rằng tài liệu này cũng còn những khiếm khuyết lẽ ra có thể loại trừ được. Chúng tôi sẵn sàng cho biết lập trường của mình trong dịp trao đổi ý kiến sắp tới với các đồng chí CHDC Đức.” Trong những năm 1980, tất nhiên Liên Xô không thể đơn giản vô hiệu hóa một cách dễ dàng các nghị quyết của Bộ chính trị như trước đó
ba chục năm. Mà cũng không cần thiết. Lúc này về cơ bản Bộ chính trị SED và chính phủ đã hoàn toàn đồng tâm với Matxcơva. Những vụ tự tiện của Honecker cũng không thay đổi điều đó. Về nguyên tắc lãnh đạo Xô viết vẫn có trọng lượng trong Bộ chính trị và cả trong chính phủ thông qua cánh tay nối dài của mình. Thông thường khi xảy ra bất đồng ý kiến thì lợi ích Xô viết thắng thế. Năm 1984 Liên Xô từ chối tham dự Olympic ở Los Angeles vì bốn năm trước đó Hoa Kỳ đã tẩy chay Thế vận hội ở Matxcơva. Dĩ nhiên Liên Xô mong đợi các đồng minh đi theo quyết định của mình. Honecker không chịu. Ông vẫn muốn cử các vận động viên của CHDC Đức tới Los Angeles. Lần đầu tiên CHDC Đức có cơ hội chiếm hạng nhất trong bảng thành tích quốc gia. Khi lãnh đạo Liên Xô biết đến dự kiến của Honecker, họ liền tì lên đòn bẩy kinh tế. Họ hứa, nếu CHDC Đức tỏ thái độ đoàn kết với Liên Xô thì Matxcơva sẽ suy nghĩ khả năng dành cho CHDC Đức nhiều dầu hỏa hơn. Lúc đó lãnh đạo SED phải cân nhắc: nhận được nhiều dầu hỏa hơn từ Liên Xô hay gửi vận động viên của mình tới Los Angeles? Honecker nổi cơn lôi đình và khiếu nại với đại sứ Liên Xô những cũng chẳng có ích gì. Rốt cuộc CHDC Đức lấy dầu hỏa và làm thất vọng cả vận động viên lẫn dân chúng. Dưới thời Gorbachev giọng điệu của ông anh cả cũng đã từ tốn hơn, nhưng các phương tiện mà ông anh sử dụng để đạt được lợi ích của mình thì hoàn toàn không. Vì có tác động của Gorbachev mà kế hoạch đi thăm CHLB Đức của Honecker bị hoãn đi hoãn lại. Chuyến đi Trung Quốc năm 1986 của Honecker vấp phải lực cản quyết liệt từ Matxcơva. Nguyên nhân thường trực: quan hệ giữa CHDC Đức và Trung Quốc, mối giao hữu giữa SED và Đảng Cộng sản Trung Quốc không được phép tốt hơn quan hệ giữa Liên Xô với Trung Quốc cũng như mối giao hữu giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lần này Honecker lại cũng đi theo ngả riêng, và lãnh đạo Liên Xô không tha thứ lỗi đó. Năm 1988 lãnh đạo Romania đề nghị cải cách Hiệp ước Warszawa: tách bỏ nội dung quân sự khỏi khối đồng minh và đưa Ban cố vấn chính trị ra ngoài liên minh quân sự. Mọi vấn đề quân sự sẽ được trao cho một tiểu ban chỉ bao gồm các bộ trưởng quốc phòng. Hằng năm sẽ luân phiên thay vị trí lãnh đạo tiểu ban này. Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang chung từ nay trở đi sẽ không còn là một nguyên soái hay đại tướng Xô viết nữa. Mỗi quốc gia thành viên được chỉ huy các lực lượng vũ trang hợp nhất một năm, hằng năm luân phiên nhau. Trong trường hợp này người Hungary, Tiệp Khắc và CHDC Đức sẽ được ra lệnh cho các đơn vị quân đội Xô viết đóng trên lãnh thổ mình. Đối với lãnh đạo Xô viết, đây là một ý tưởng không thể chấp nhận được. Người Romania báo cho Gorbachev: “Cải cách này chú trọng các biến chuyển ở châu Âu. Qua đó, trong tương lai Hiệp ước Warszawa có điều kiện tập trung vào các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội.” Đầu tháng Bảy năm 1988 ở Matxcơva Bộ trưởng Ngoại giao Shevardnadze và ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô Medvedev thử khuyên đại diện cá nhân của Ceauşescu từ bỏ đề nghị đó. Người Romania không nhượng bộ. Gorbachev thông tin cho các đối tác đồng minh khác qua một thông điệp mật. Ông ngại Romania đưa những đề nghị ấy ra cuộc họp Hiệp ước Warszawa ngày 15-16/7/1988 và đã ngửi thấy mùi bê bối. Ông không rõ Honecker có đồng lòng với người Romania không. Vì vậy thông điệp mật ấy được chuyển đến lãnh đạo SED đúng lúc Honecker đang nghỉ hè. Honecker vừa rời khỏi văn phòng thì đại sứ Xô viết gõ cửa phòng tôi. Kochemassov đến trao cho tôi lá thư của Matxcơva. Ông nói không úp mở: đồng chí Gorbachev nghĩ rằng thông tin này đưa cho tôi là đúng địa chỉ tin cậy. Phải chặn không cho các đề nghị của Romania được đem ra bàn tại Warszawa. Đại sứ Xô viết cho tôi biết, đại sứ Romania ở CHDC Đức khẩn thiết muốn nói chuyện với đồng chí Honecker. Tuy nhiên ông đề nghị tôi bảo đảm cho đồng chí tổng bí thư không bị quấy rầy trong kỳ nghỉ. Tôi hiểu. Người ta cần tôi để Honecker không liên kết được với Ceauşescu. Tôi tin rằng Hiệp ước Warszawa phải được củng cố chứ không bị làm yếu đi, do vậy đề nghị của Romania là sai, và tôi ủng hộ cách làm của Gorbachev. Động lực chính là sự gắn kết nội tâm của tôi với Liên bang Xô viết và nhận định của tôi về tình huống tương quan lực lượng quốc tế. Mãi đến khi đoàn CHDC Đức bay sang hội nghị thượng đỉnh ở Warszawa tôi mới báo cho Honecker. Ông ngồi chơi bài Skat với Stoph và Mittag ở cabin phía trước trên chuyên cơ. Tôi cho ông biết là đại sứ Romania muốn nói chuyện với ông trước khi vào họp. “Tôi nghĩ là không nên làm phiền anh trong dịp nghỉ hè.” Honecker im lặng. Tôi có ấn tượng là ông đã biết tỏng sự việc. Tại hội nghị Warszawa Gorbachev phát biểu hai năm rõ mười: “Trong số các bạn đôi khi xuất hiện câu hỏi liên quan đến chuyện Đảng Cộng sản Liên Xô xem xét một số quyết định đối ngoại trong quá khứ nghiêm khắc hơn […]. Tôi muốn nói rõ là đường đi của Lenin đã vạch ra không đổi.” Như tôi biết, trước tháng 12/1989 không có bằng chứng nào để nói Liên Xô thả lỏng CHDC Đức. Lãnh đạo CHDC Đức biết rõ quyền tự quyết của mình bị hạn chế. CHDC Đức phải chung sống với tình trạng đó vì sự liên kết với Liên Xô là bảo đảm sự sống cho mình. Nhưng nếu CHDC Đức vẫn tự muốn kiếm đất vẫy vùng thì Matxcơva phản ứng tức thì – có thể thấy qua ví dụ sau: từ năm 1987 Honecker yêu cầu sửa đổi bản thỏa thuận về việc quân đội Xô viết đóng trên lãnh thổ CHDC Đức. Ông không bằng lòng nhiều điều, ví dụ như tên gọi “Nhóm lực lượng vũ trang Xô viết ở Đức.” Ông muốn đổi thành “Nhóm lực lượng vũ trang Xô viết ở CHDC Đức.” Nhưng Matxcơva có lý khi từ chối, vì nhóm này chịu trách nhiệm cho mọi vấn đề sinh ra từ Hiệp ước đồng minh về toàn nước Đức. Nhiều đồng chí trong Bộ chính trị, trong đó có cả tôi, khuyên Honecker không nên đặt câu hỏi đó ra. Tôi sợ trong lúc Hungary và Tiệp Khắc đang bàn bạc đòi rút quân Liên Xô thì đề xuất của chúng ta dễ bị hiểu lầm. Nhưng Honecker lý sự nguyên tắc: bản thỏa thuận ấy được ký sáu năm sau khi CHDC Đức ra đời, bây giờ không hợp thời nữa và không phù hợp chính sách Xô viết mới. Gorbachev nên chứng minh qua thực tế là phát biểu của ông về tôn trọng quyền tự quyết của các nước XHCN nghiêm túc đến mức nào. Cuối tháng Sáu năm 1989 – trong lúc tôi thay mặt Honecker đang nghỉ – lãnh đạo Xô viết gửi một thông báo cho Erich Honecker. Một bản tiếng Đức và một bản tiếng Nga. Không hề bàn bạc trước, Matxcơva báo cho chúng tôi biết: “Nhóm lực lượng vũ trang Xô viết ở Đức đã được đổi tên thành Tập đoàn quân Xô viết miền Tây . Vị thế của tập đoàn quân này – như đã ấn định trong Hiệp định về quan hệ giữa Liên Xô và CHDC Đức ngày 20/9/1955 và trong các thỏa ước song phương khác – cũng như quyền hạn và trách nhiệm suy ra từ các thỏa thuận và nghị quyết của Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh và Pháp trong và sau chiến tranh và hôm nay vẫn có hiệu lực, không thay đổi.” Thông báo này tưởng như không thể rõ ràng hơn nữa: Liên Xô không hề nghĩ đến chuyện từ bỏ các quyền sinh ra từ thời hậu chiến của mình. Quyền tự quyết của CHDC Đức vẫn tiếp tục bị hạn chế. Tôi thấy thế là hợp lý trước bối cảnh hiện tại. Các đồng minh phương Tây cũng không bỏ quyền hạn của mình. Thông điệp về Tập đoàn quân miền Tây hoàn toàn không phải là một “Học thuyết Gorbachev” về quyền tự quyết của CHDC Đức. Vị thế hậu chiến được khẳng định. Mọi suy diễn xung quanh bản tuyên bố Bucharest chỉ có một mục đích là gây thêm hoang mang và chia rẽ giữa các nước XHCN. Quả thật tài liệu này nửa nạc nửa mỡ. Mỗi người có thể rút ra điều gì mình muốn. Nhưng nhất định nó không là sự chấm dứt quan hệ liên minh trung thành của Liên Xô đối với CHDC Đức. Tất cả, kể cả Hungary và Ba Lan, đều tiếp tục ở lại trong Hiệp ước Warszawa. BỘ CHÍNH TRỊ NGHỈ PHÉP Chủ nhật 9/7: một ngày sau khi từ hội nghị thượng đỉnh Bucharest quay về, Willi Stoph mở tiệc mừng sinh nhật thứ 75. Bộ chính trị chức mừng ông tại nhà riêng ở Wandlitz . Đa số các ủy viên thường vụ và dự khuyết có mặt . Vắng Honecker. Ông còn nằm viện. Tôi thay mặt ông. Tôi báo cho các đồng chí khác biết ngày thứ hai Honecker sẽ ra viện và đi nghỉ phép năm. Đa số đều làm giống sếp, họ cũng đi nghỉ. Tôi, quyền tổng bí thư – ở lại Berlin. Trong mấy tuần tiếp theo thường là cả Bộ chính trị lẫn Ban chấp hành trung ương SED không có khả năng ra nghị quyết. Một số
bí thư thứ nhất các tỉnh ủy SED cũng đi nghỉ. Günter Schabowski, bí thư thứ nhất Berlin, và Hans Modrow, bí thư thứ nhất Dresden, nghỉ ở Trung Quốc. Nhiệt độ Berlin dễ chịu, nhưng xét về chính trị thì tôi trải qua một mùa hè nóng bỏng. Mỗi sáng đến văn phòng lúc bảy rưỡi là tôi lại thấy tin dữ nằm chồng chất lên nhau. Cả nước sôi sục. Nhiều người muốn rời bỏ CHDC Đức. Mỗi ngày một nhiều hơn. Thế chưa đủ. Về đối ngoại cũng có nhiều chuyện đáng sợ. Ngày 19/7, Jaruzelski được bầu làm tổng thống Ba Lan với đa số cực kỳ ít ỏi. Ông chỉ định một ứng viên trong Bộ chính trị PVAP làm người đứng đầu chính phủ. Ứng viên này nỗ lực vô vọng lập ra một “Chính phủ lòng tin dân tộc”. Phe đối lập cố đẩy Đảng công nhân thống nhất Ba Lan với bí thư thứ nhất mới, Mieczyslaw Rakowski, ra ngoài chính phủ mới. Tadeusz Masowiecki được bầu làm chủ tịch Hội đồng bộ trưởng mới. Lần đầu tiên ở một nước XHCN có một chính khách đối lập đứng đầu chính phủ. Tư lệnh Tập đoàn quân Xô viết miền Tây tại Wünsdorf gần Berlin rất lo lắng vì sự kiện này. Các tướng lĩnh Xô viết sợ các đơn vị lính Xô viết đóng tại CHDC Đức bị cắt rời khỏi “hậu phương.” Cán bộ ngoại thương của chúng ta thì ngại quá trình trao đổi hàng hóa giữa Liên Xô và CHDC Đức trong tương lai có trục trặc. Tuy vẫn còn đường nối bằng phà Sassnitz-Klaipeda được khai trương trước đây mấy năm nhờ suy tính chiến lược, nhưng ngày ấy không ai tính đến khả năng mất Ba Lan là một nước XHCN và ngay cả các nước Cộng hòa Xô viết vùng Baltic có thể nổi loạn. Tình hình Hungary cũng tiến triển ngược với ý muốn của ban lãnh đạo CHDC Đức. Đại sứ của ta thông tin cho tôi, tổng thống Hoa Kỳ Gorge Bush đến thăm Budapest. Bush nói thẳng: sẽ không có sự kết hợp “chính quyền phương Đông” với “công nghệ phương Tây.” Yêu cầu của một số người đối lập muốn Hungary được trự giúp bằng một dạng Chương trình Marshall mới cũng không được chấp thuận. Tổng thống Hoa Kỳ không để ai nghi ngờ rằng Hoa Kỳ chỉ giúp đỡ Hungary về kinh tế và tài chính, nếu chế độ chính trị ở đây tiếp tục được thay đổi triệt để. Hoa Kỳ giục Hungary ra quyết định. Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Hungary Nemeth trao cho Bush món quà tượng trưng: một mẩu dây thép gai từ hàng rào biên giới Hung-Áo đã được gỡ bỏ. Ông bày tỏ hy vọng trong tương lai mọi bức tường vật chất hay tinh thần còn tồn tại trên thế giới này sẽ sụp đổ. Chắc chắn ông không ám chỉ hàng rào biên giới Mexico-Mỹ là nơi nhiều người bỏ mạng từ năm này qua năm khác. Honecker nghỉ phép ở Drewitz, một địa phương gần vùng hồ Mecklenburg. Tôi gọi điện để thông tin cho ông về báo cáo của đại sứ CHDC Đức ở Hungary. Tôi đề nghị “sang tận nơi để lấy tin về các chủ định tiếp theo của lãnh đạo Hungary. Tôi quen Bộ trưởng Nội vụ Hungary và các cán bộ khác từ ngày cùng làm việc ở Đoàn thanh niên. Tôi hy vọng sẽ cải thiện được không khí qua các buổi chuyện trò thân tình. Ngay sau khi tôi từ Hungary về, chúng ta có thể triệu tập họp Bộ chính trị với sự có mặt của tất cả, kể cả những người hôm nay đang đi nghỉ. Tôi thấy cần bàn luận tình hình chính trị khi tất cả các ủy viên Bộ chính trị có mặt. Nếu cần, tất cả chúng tôi sẽ đến chỗ anh ở Drewitz.” Honecker không ngắt lời tôi. Khi tôi nói xong, ông còn lưỡng lự một lát. Rồi ông quyết định: “Đây là việc của Mielke và Fischer.” Honecker chỉ thị cho tôi nói chuyện với họ để họ phân tích tình hình ở Hungary. Tôi nói khá bực dọc: “Như thế không đủ. Dân chúng muốn biết có gì xảy ra và giới lãnh đạo đánh giá thế nào.” Honecker không chịu để thuyết phục: “Tạm biệt, Egon”, ông đặt máy. Giữa cuộc nói chuyện này với Honecker và cuộc điện thoại của Günter Mittag gọi đến sau đó vài phút có mối liên quan nào trực tiếp hay không, tôi chỉ biết đoán mò. Dù thế nào thì Mittag cũng gọi từ nơi nghỉ phép ở bờ biển Baltic về: “Egon, người ta rất căm phẫn vì Hungary.” “Sao anh nghĩ thế?” tôi khiêu khích. Hình như ông ta vừa đọc bản tin Tây Đức tuyên truyền Hungary là đường trốn cho công dân CHDC Đức. Ông hấp tấp kể: người ta kêu gọi công dân CHDC Đức rời bỏ đất nước một cách phi pháp qua đường Hungary. Tôi biết tin này từ tập báo hằng ngày. Do vậy mà tôi cố thuyết phục Honecker nói chuyện với người Hungary. “Günter, tôi cũng có tập báo giống anh mà. Tại sao anh kể lại cho tôi?” “Ta phải đóng biên giới qua Tiệp Khắc”, Mittag trả lời. Tôi đoán ông ta đã bàn trước với Honecker. Mittag không bao giờ dám ra một quyết định tầm cỡ này mà không có người đứng sau lưng. Tôi trả lời dứt khoát: “Nếu ta định tự làm xấu mặt với nhân dân và nước ngoài thì hãy đóng hết mọi biên giới lại. Nhưng tôi phản đối. Ta không thể nào đóng cả biên giới phía Đông và phía Nam lại. CHLB Đức chỉ rình khiêu khích ta làm việc đó. Ở đó người ta tung tin đồn từ lâu nay là ta sẽ cắt đường đi nghỉ ở Hungary. Ta không được sa vào bẫy đó. Ta phải nói chuyện với người Hungary.” Mittag tạm biệt. Tôi băn khoăn vì cuộc điện này. Học sinh vào kỳ nghỉ hè. Các gia đình đã có kế hoạch nghỉ phép, nhiều người định sang Hungary. Nếu đóng biên giới lại thì sẽ làm mọi người có lý do để giận dữ, nếu không nói là họ đã giận dữ rồi. Không thể để đề nghị của Mittag có cơ may thực hiện. Tôi đọc cho thư ký viết thư gửi Honecker. Không đả động đến cuộc nói chuyện với Mittag, tôi thông tin cho Honecker: “Từ đầu tháng Năm, từ khi chế độ biên giới của UVR thay đổi đã có 242 công dân CHDC Đức rời bỏ CHDC Đức một cách phi pháp qua đường UVR. Mặc dù con số này được truyền thông phương Tây thổi phồng cho thêm phần kịch tính, […] xét về tỉ lệ tổng số người đi Hungary trong nửa đầu năm 1989 đó chỉ là một lượng cực nhỏ. Nửa đầu năm 1989, trong khi khoảng 0,04 phần trăm những người đi Hungary rời bỏ CHDC Đức thì tỉ lệ ấy trong số người đi CHLB Đức và Tây Berlin là 0,52 phần trăm.” Tôi trình bày đề nghị của mình một cách nhẹ nhàng: “Có nhiều người hỏi về tình hình đi Hungary. Theo tôi có lẽ nên ban hành một thông báo ngắn là đường đi Hungary vẫn bình thường và không có hạn chế nào. Các tin ngược lại đều là vu khống bôi nhọ.” Tôi cho sĩ quan an ninh của mình đem thư trực tiếp đến tay Honecker. Ông trả lời ngay: “Đồng ý! E. H.” Tôi nhẹ người vì đề nghị của Mittag không được chấp thuận. LỜI TÂM HUYẾT VÌ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Trong thời gian căng thẳng ấy hầu như ngày nào tôi cũng nói chuyện với nhiều nhân vật ở các lĩnh vực khác nhau. Tôi muốn có một cái nhìn tổng quát toàn diện về tâm trạng dân chúng. Ngày 27/7/1989 tôi hẹn gặp luật sư Gregor Gysi. Chúng tôi nói chuyện ở văn phòng tôi, trong tòa nhà Trung ương đảng SED. Tôi biết ông là người nổi tiếng trong công tác luật sư và bào chữa. Trong số thân chủ của ông có cả các công dân đối kháng với CHDC Đức. Tôi muốn biết quan điểm của ông về CHDC Đức và tình hình trong ngành tư pháp. Tôi đề nghị ông phát biểu không cần giữ ý tứ. Hơn ba tiếng liền tôi chăm chú lắng nghe ông nói và ghi chép trên hai chục trang. Tôi chỉ ngắt lời ông khi đặt câu hỏi động viên ông đưa thêm nhiều chi tiết. Đến đây thì tôi phải nhảy cóc đến năm 1995 để người đọc dễ hiểu hơn. Điều mà hôm 27/7/1989 tôi không thể biết: Gysi thông báo cho bộ trưởng tư pháp CHDC Đức về cuộc gặp gỡ của chúng tôi. Bộ tư pháp CHDC Đức lưu lại một ghi chú. Thực ra chẳng có gì bất thường. Nhưng sau thời kỳ Bước Ngoặt, ghi chú này lọt vào tay một tạp chí Munich. Ở đó xuất hiện hàng tít chữ lớn: luật sư Gysi đã “bôi nhọ một đồng nghiệp với Krenz.” Gysi kiện tạp chí đó. Vậy là sáu năm sau cuộc gặp mặt nói trên Gysi, nguyên cáo trong vụ kiện tạp chí, và tôi, nhân chứng, xuất hiện trước tòa án bang ở Hamburg. Một tòa án Tây Đức xem xét những gì hai người Đông Đức – cựu đảng viên SED – đem ra nói chuyện ở CHDC Đức! Sự thật rõ ràng nghiêng về Gysi. Ông thắng kiện. Bối cảnh vụ kiện này như sau: Tháng Tư năm 1989 luật sư H. người CHDC Đức xuất bản bên CHLB Đức một tập tiểu luận với nhan đề “Nhà nước giám hộ – Bàn về thất bại của XHCN hiện thực.” Theo nhận định của các chuyên gia, cuốn sách này đặt câu hỏi nghi vấn cơ sở luật hiến pháp của CHDC Đức. Chiểu theo luật CHDC Đức hoàn toàn có thể khởi tố tác giả. Một đơn khởi tố đã trình lên thứ trưởng Bộ an ninh quốc gia Rudi Mittig. Ông hỏi ý kiến tôi. Tôi không đồng ý với biện pháp mang tính chất luật hình sự: “Bên Tây Đức chỉ đợi ta làm việc đó thôi!” tôi nói. Tôi
đề nghị Honecker không truy tố hình sự, vì ông là chủ tịch Hội đồng nhà nước và có quyền quyết định. Theo hiến pháp thì “Hội đồng nhà nước được Quốc hội ủy quyền kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của công tác Tòa án tối cao và Viện công tố.” Tôi ghi chú hôm 10/4/1989: “Chúng ta không nên làm đúng nguyện vọng của ông ta [tác giả cuốn sách – chú thích của E. Krenz] và thông qua những biện pháp bất hợp lý để biến ông ta thành người hùng báo chí của CHLB Đức.” Chuyện này loan ra trong giới luật gia. Nhưng không phải ai cũng đồng thuận. Vì vậy tôi hỏi Gysi: “Anh có thấy không truy tố hình sự luật sư H. là đúng?” Ông suy nghĩ. “Đúng”, ông nói. Và nói thêm: xuất phát từ sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật thì ông thấy không đúng, khi một công dân bình thường say rượu nói năng bậy bạ thì lại bị truy tố hình sự. Cũng có vấn đề khi các công dân đặt đơn xin rời bỏ đất nước bị đối xử một cách bất bình đẳng và qua đó cũng là bất công: ai ngoan ngoãn đặt đơn, thường là không có kết quả – trừ một số ngoại lệ. Ngược lại, ai khiêu khích gây sự để gây áp lực đạt mục đích bằng được thì thường thành công. Dĩ nhiên ông hiểu chúng ta không thể đọ được với phương Tây có nhiều thứ hấp dẫn và mặt tiền hoành tráng. Nhưng cũng chính vì thế mà chúng ta phải nhấn mạnh hơn nữa những điểm ưu việt của xã hội chúng ta và phát triển các ưu việt đó để dân chúng ý thức được. Điểm ưu việt nhất bên cạnh xã hội nhân văn là điều kiện để công dân tham gia quyết định, là khả năng tác động đến các chuyển biến tại nơi làm việc và ngoài xã hội. Khả năng ấy không có trong thế giới phương Tây. Ai có cảm giác không gây được tác động gì và không được tôn trọng, người đó dễ nghĩ rằng – nói theo lời của Jurek Becker: “Nếu đã phải câm mõm thì câm mõm trên đảo Haiti nắng ấm.” Gysi nghe nói tôi gợi ý soạn thảo bộ luật hình sự CHDC Đức mới tại một hội nghị. Ông củng cố ý tưởng đó của tôi và đề nghị phi hình sự hóa các điều khoản chính trị. Nhiều quy định trong bộ luật hình sự không cần thiết nữa, chỉ để đối phương lợi dụng công kích. Ông gợi ý nâng cao vị thế của tòa án và thẩm phán trước công luận. Về lý thuyết thì rõ ràng là tòa án độc lập, nhưng nguyên tắc đó còn bị vi phạm nhiều. Điều đó mâu thuẫn với các nguyên tắc nhà nước pháp quyền và cần được cải thiện. Gysi đòi tăng cường minh bạch và công khai trong hệ thống trại giam. Không thể chấp nhận trại giam không thuộc quyền quản lý của Bộ tư pháp. Khi chia tay nhau lúc gần 19 giờ, hai chúng tôi hài lòng với kết quả. Gysi hài lòng vì, như ông nói, lần đầu tiên được giải thích cho một ủy viên Bộ chính trị về tình hình tư pháp. Còn tôi vì nhờ ông mà biết được nhiều điều xưa nay không được biết, để sau này đưa vào chương trình hành động của SED. HOANG MANG VÀ NẢN CHÍ LAN TRÀN Đầu tháng Mười tôi nhận được thông tin tối mật “Về ý kiến nhân dân trong kinh tế, thương mại và cung cấp” từ tay Erich Mielke. Trong đó viết: nhiều người dân không tin là ở CHDC Đức có chuyển biến tích cực được nữa. Ngày càng nghe người ta nói nhiều hơn rằng chủ nghĩa xã hội đã tỏ ra bất lực, không thể giải quyết các vấn đề kinh tế của mình bằng nội lực. Nguyên tắc thành tích bị vi phạm. Nhiều vật tư đã lạc hậu về kỹ thuật và cách tân. Phải bù đắp những khiếm khuyết kinh tế bằng công việc cấp tập vào cuối tuần. Không có phụ tùng thay thế nên tiến trình sản xuất trục trặc. Cán bộ lãnh đạo nhụt chí. Đã có những dấu hiệu mệt mỏi chán chường. Sự lạc hậu về khoa học kỹ thuật so với các quốc gia công nghiệp tư bản gia tăng. Thêm nữa là CHDC Đức phải chuẩn bị tinh thần đón chờ những sự kiện khôn lường và bất ổn trong quan hệ kinh tế với các nước trong khối SEV. Chất lượng cung cấp cho dân chúng tồi tệ đi. Nhiều thứ hàng hóa trước đây mấy năm còn có trong cửa hàng bình thường, nay phải có móc ngoặc hoặc vào cửa hàng “Delikat” mới mua được. Thiếu nhiều mặt hàng cho cuộc sống hằng ngày. Tình hình cung cấp xe hơi đặc biệt khó khăn. Thời gian chờ mua xe Trabant hoặc Wartburg mới không hiếm khi kéo dài đến 18 năm. Tôi khuyên Mielke chuyển ngay cho Honecker tài liệu ấy, trong đó cũng bao gồm ý kiến của nhiều đảng viên. Nội dung tài liệu ấy phải được đưa nhanh vào chương trình nghị sự của Bộ chính trị, không thể chỉ thông báo cho một số người có đặc quyền trong Bộ chính trị. “Các đồng chí trong Bộ an ninh quốc gia viết tài liệu này sẽ nghĩ gì về anh, nếu họ không thấy phản ứng gì từ phía lãnh đạo đảng? Tôi sẽ ủng hộ anh trong Bộ chính trị”, tôi nói với Mielke. Nhưng ông ta chẳng động tay. Ông sợ có thể bị Honecker trách là MfS “khôn hơn Đảng.” Trước đây hơn 30 năm các tiền nhiệm của ông là Zaisser và Wollweber một phần cũng ngã ngựa vì bị buộc cho là muốn đặt Bộ an ninh quốc gia cao hơn đảng, và Mielke không quên chuyện đó. Trong lịch sử đã hơn một lần xảy ra chuyện người đưa tin xấu bị chém đầu vì tin xấu đó. Vì vậy tin tức trên chỉ được đưa cho Mittag. Nhân vật chuyên trách về các vấn đề kinh tế ấy không muốn Bộ chính trị nhìn thấy sự thật không son phấn. Đây không phải lần đầu tiên cộng tác viên của Bộ an ninh quốc gia thông tin sự thật trần trụi cho lãnh đạo đảng, nhưng tin tức của họ bị chặn giữa đường. Tổng bí thư không chuyển tiếp tin đó hoặc không để tâm đúng mức. Đầu tháng Tám Wolfgang Herger và tôi gặp Gs Walter Friedrich. Ông lãnh đạo Viện nghiên cứu thanh niên ở Leipzig. Ở đó tổ chức phân tích các nghiên cứu dài hạn về suy nghĩ và hành xử của thanh thiếu niên. Các công trình nghiên cứu ấy giúp suy ra tâm trạng chủ đạo của dân chúng, phản ánh thực tế không khí chính trị trong nước. Báo cáo của Friedrich khô khan, thực tế đến đau lòng. Không lòng vòng, ông dựa trên các nghiên cứu khoa học để chỉ ra rằng sức thuyết phục của giá trị, lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đang được thử lửa. Tâm lý hoang mang và chán nản lan tràn. Không còn viễn cảnh tươi sáng nào nữa. Nhiều tầng lớp trong nhân dân không còn tin tưởng giới lãnh đạo có khả năng giải quyết các vấn đề hiện tại nữa. Tuy thâm tâm đa số dân chúng còn đứng về phía chủ nghĩa xã hội, nhưng nhiều người đã nghi ngại về tính ưu việt lịch sử của nó. Vai trò tiên phong của Liên bang Xô viết đã mất. Các biểu hiện suy tàn ở Liên Xô, Ba Lan và Hungary cho thấy chủ nghĩa xã hội đang bị đe dọa sinh mệnh. Không ai muốn đồng nhất với Trung Quốc và Romania. Không có cơ hội thực thụ cho một chủ nghĩa xã hội “mang màu sắc CHDC Đức.” Lòng ham muốn sở hữu vật chất, nhất là ngoại tệ Tây Đức, đã chiếm chỗ của các giá trị đạo đức. Hơn thế nữa, người dân đòi thêm quyền tự quyết, phát triển tính cá nhân, tham gia quyết định dân chủ và rộng lượng với mọi người. Ngày càng nhiều người tin Bộ chính trị không biết rõ hoặc đánh giá thấp tình hình. Đặc biệt chính sách thông tin bị công kích. Người dân quay lưng lại với tuyên truyền thắng lợi của giới lãnh đạo. Nếu Đại hội đảng XII trong năm 1990 diễn biến như các phiên cuối của Hội nghị toàn thể trung ương đảng và Đại hội sư phạm thì tình hình căng thẳng trong xã hội còn nóng lên nữa. Không ít đảng viên lo lắng cho số phận CHDC Đức. Chúng tôi nhất trí để Walter Friedrich tóm tắt gọn các bản nghiên cứu của mình làm cơ sở để Trung ương Đoàn thanh niên tự do Đức thông tin cho Bộ chính trị về tâm trạng trong giới thanh niên. Trên bàn làm việc của tôi là bức điện khẩn của Günter Schabowski từ Trung Quốc gửi cho Erich Honecker. Trong thời gian nghỉ phép, bí thư tỉnh ủy Berlin đã hội kiến Giang Trạch Dân . Schabowski thuật lại nội dung cuộc nói chuyện. Tôi ghi lòng tạc dạ một ý nghĩ: “Theo đánh giá của các đồng chí Trung Quốc”, Schabowsi đánh điện, “lẽ ra các sự cố tháng Sáu năm 1989 tại quảng trường Thiên An Môn đã không xảy ra, nếu lãnh đạo đảng nhất trí và đánh giá tình hình rõ ràng.” Sự nhất trí trong ban lãnh đạo đảng ta ra sao? Chúng ta có hình ảnh chân thực về thực tế ở CHDC Đức không? Hoàn toàn không. Herger, một số đồng chí lãnh đạo còn ở lại Berlin và tôi biết tình hình, nhưng hiện tại không thể hành động – nghĩa là không có khả năng ra nghị quyết hữu hiệu. Đa số các ủy viên Bộ chính trị và chính phủ đang nghỉ phép. Ngay cả khi họ có mặt tất cả ở đây thì cũng không thể nói đến sự nhất trí trong Bộ chính trị được nữa. Sức khỏe Honecker kém đi. Ông không nhận thấy mức độ
trầm trọng của tình hình nữa. Mittag tìm một xuất phát điểm thuận lợi để nắm quyền sau Honecker. Herger chuẩn bị sẵn bản đánh giá. Khi Honecker đi nghỉ về, nhất định phải tiến hành bàn luận hoàn cảnh thực tế trong Bộ chính trị. Tôi nói câu đó với Honecker trên điện thoại. Ông đáp: “Đừng có cuống lên!” Tôi tuyệt vọng: còn phải xảy ra chuyện gì nữa để một số người tỉnh giấc? Tôi ý thức được ngày càng rõ hơn: sự tập trung cao độ vào một mình tổng bí thư thường ngày đã là một trở ngại, vào lúc này nó càng cản trở mạnh hơn gấp bội. Từ các tỉnh không thấy dấu hiệu mang tính xây dựng nào. CUỘC NÓI CHUYỆN DỞ DANG Trong số những người tôi tiếp chuyện có Markus Wolf . Wolfgang Herger và tôi gặp ông hôm 3/8/1989 tại trụ sở Trung ương đảng. Chúng tôi xưa nay vẫn hay gặp nhau nhưng hiếm lúc trò chuyện cá nhân. Trước khi ông đến, tôi nhớ lại hai giai thoại liên quan đến công việc của ông là Tổng cục trưởng tình báo trong Bộ an ninh quốc gia. Trong tháng Tư năm 1974 tôi bất ngờ làm nhân chứng khi con đường hoạn lộ của ông như trứng để đầu đẳng. “Người của chúng ta” trong Phủ thủ tướng ở Bonn, Günter Guillaume, bị bắt bên CHLB Đức. Cùng ngày hôm đó tôi ngồi cạnh Wolfgang Roth, cựu chủ tịch Đoàn thanh niên XHCN của SPD, trên phi cơ từ Matxcơva về Berlin. Chúng tôi vừa rời đại hội Đoàn thanh niên Xô viết Komsomol. Ngày hôm sau mới bảnh mắt Honecker đã gọi điện cho tôi. “Roth nói gì về Guillaume?” ông hỏi. Tôi kể là anh ta rất phẫn nộ. Thủ tướng Brandt có lẽ sẽ đổ vì vụ bê bối này, và điều đó sẽ làm hại đến toàn bộ chính sách Đông Âu. CHDC Đức phải chịu toàn bộ trách nhiệm về vụ này. Người ta không được phép tung gián điệp vào nhóm thân cận của một người như Brandt. Lẽ ra, chậm nhất là khi Brandt lên chức thủ tướng, CHDC Đức phải rút Guillaume về mới phải, Roth nói. Tôi sửng sốt nghe Honecker đáp lại: “Anh ta nói đúng đấy. Tôi không hề biết vụ này. Thực ra phải sa thải Mielke và Wolf mới đúng.” Tôi ngạc nhiên về thái độ thẳng thừng của Honecker. Sau này ông đổi ý. Tuy đã suy nghĩ kỹ có nên tống cổ hai người nhưng sau đó ông được nguồn bên Tây Đức cho biết, chính phủ liên minh bên Bonn và cơ quan bảo hiến đã cố tình trì hoãn vụ gián điêp bê bối này. Theo Honecker, SPD và FDP chỉ tìm cớ để lật đổ Brandt khỏi ghế thủ tướng. “Tại sao chúng ta lại phải thưởng công cho đối thủ của Brandt”, Honecker hỏi kiểu tu từ, “bằng cách hy sinh người của mình?” Mielke và Wolf được tại nhiệm. Đến nay đã 15 năm trôi qua. Honecker vẫn chưa hết cay cú vì ngày đó bị Brezhnev buộc tội cá nhân cho chuyện Brandt bị đổ. Tháng Giêng năm 1989 tôi đề nghị công bố trên báo JUNGE WELT tiểu sử tự viết của Günter Guillaume – hiện đã in thành sách lưu hành nội bộ trong Bộ an ninh quốc gia, và nhận được lời từ chối sỗ sàng. Honecker viết tay lên tờ thông tin nội bộ: “Không! Xuất bản cuốn sách đã là một sai lầm chính trị.” Khi tiếp Wolf, tất nhiên tôi biết có nhiều đồn thổi về ông trong những năm qua. Có người nói, ông ra khỏi Bộ an ninh vì có cảm tình với Gorbachev và không tin có thể cải cách CHDC Đức được nữa. Người khác thì cho rằng “hồi năm 1986 ông thực tế bị đưa về ngồi chơi xơi nước trên ghế thứ trưởng.” Một trong những chiến lược của phương Tây là kích động các chính khách CHDC Đức đấu nhau: người này là “mầm hy vọng”, người kia là “bảo thủ”, cho dù tất cả cùng đại diện một chính sách. Tôi cũng lắng nghe mấy luận điệu ấy nhưng không bận tâm. Chính trị là vậy. Theo tôi biết, Wolf không bị Bộ chính trị cho “ngồi chơi xơi nước” bao giờ cả. Việc ông rời Bộ an ninh không có lý do chính trị, mà là sự tập hợp nhiều nguyên nhân cá nhân và gia đình. Mọi chuyện bắt đầu năm 1982. Em trai của Mischa, Konrad, qua đời ở tuổi 57– một đạo diễn phim xuất sắc, chủ tịch Viện hàn lâm nghệ thuật, một người thông minh, cương quyết và điềm đạm. Ông không kịp hoàn tất đề tài nghệ thuật lớn của đời mình . Trước khi mất, ông đề nghị anh trai Mischa tiếp nhận công việc ấy. Mischa hứa sẽ làm. Năm 1983, Wolf 60 tuổi. Ông bắt đầu chuẩn bị rời bỏ công tác để bắt đầu viết văn. Thời ấy chưa ai biết đến một tổng bí thư mang tên Gorbachev. Khả năng cải cách của CHDC Đức cũng chưa phải đề tài tranh cãi. Ngày ấy Wolf xin bộ trưởng của mình, Mielke, cho về hưu để toàn tâm toàn ý chăm sóc di sản văn chương của bố và em trai. Nhưng Mielke không muốn nhả nhân vật tốt nhất bên tình báo ra. Wolf ở lại, nhưng được phép từng bước tách khỏi công tác. Nhờ quyết định của Mielke, ông có điều kiện làm việc lý tưởng để viết văn. Khi Wolf ly hôn người vợ thứ hai thì môi trường quanh ông biến đổi. Vào thời điểm ấy ở CHDC Đức ly hôn không còn là nguy cơ bị mất chức. Nhưng các cơ quan đặc vụ nước ngoài thì quan tâm đến vụ ly hôn của chỉ huy tình báo. Mielke muốn tránh vấn đề, do đó ông chấp thuận để thượng tướng Wolf thôi việc. Song trong con tính của mình bộ trưởng Mielke đã bỏ qua Erich Honecker là người không hề muốn Wolf “về hưu khi còn rất trẻ.” Honecker định mức về hưu bằng tuổi của riêng mình. Và mức “75” thì Wolf chưa đạt được. Honecker quyết định: Wolf ở lại. Giờ thì Mielke mắc nợ Wolf một lời hứa. Ông nằm nì tôi tác động tới Honecker cho thứ trưởng của ông thôi việc. Rốt cuộc Honecker chỉ thị cho Bộ chính trị quyết định: “Bộ chính trị xác nhận đồng chí Markus Wolf thôi việc vì lý do sức khỏe và cảm ơn đồng chí về công tác chính trị tích cực.” Tôi thành công khi xin Honecker tặng thưởng Huân chương Karl Marx choWolf. Honecker đòi tôi phác thảo bản thông cáo báo chí về việc tặng thưởng này. Rồi chính ông lại tự tay sửa thông cáo đó khiến tôi ngạc nhiên. Ông gạch chữ “vì lý do sức khỏe” trong dự thảo của tôi và viết tay vào: “theo nguyện vọng riêng.” “Lý do sức khỏe” luôn có hơi hướng hạ bệ. Honcker muốn cho các cộng tác viên của Bộ an ninh biết, Markus Wolf muốn ra đi theo nguyện vọng riêng, nhưng được giải ngũ trong danh dự. Ngày 26/6/1989 Wolf – lúc này là tác giả cuốn “Troika” – viết thư cho Honecker. Trong đó ông cảm ơn Honecker đã ủng hộ để cuốn sách nhanh chóng được tái bản. Ông muốn “chống lại mong muốn của phương Tây” định đẩy ông “vào một góc không phải là vị trí của tôi.” Wolf xin Honecker cho phép trả lời phỏng vấn trên các phương tiện truyền thông của CHDC Đức và phương Tây. Do Honecker đang nghỉ phép, ông trình bày nguyện vọng đó với tôi. Ông cam đoan sẽ “giữ tư thế một người cộng sản” mọi lúc và mọi nơi. Tôi không nghi ngờ điều đó và hứa sẽ xin Honecker phê chuẩn . Wolf cảm ơn và định chia tay ra về. “Đợi chút”, tôi nói. “Nhân tiện anh ở đây, tôi muốn nghe anh nhận định tình hình hiện tại của CHDC Đức ra sao?” “Thực ra tôi không được chuẩn bị”, Wolf trả lời. “Mischa, anh đi giới thiệu sách khắp nơi, có quan hệ với nhiều người. Anh hãy cho tôi biết anh có ấn tượng gì. Tôi rất muốn biết.” Wolf bắt đầu kể: “Tôi lo lắng khi nghe những tin tức tiêu cực về Liên bang Xô viết trên các phương tiện truyền thông của ta. Tự chúng ta làm hỏng hình ảnh chủ nghĩa xã hội. Chúng ta không tận dụng cho mình làn sóng cảm tình do Gorbachev tạo ra. Một điểm tệ hại lớn trong phong trào cộng sản quốc tế là chủ nghĩa chủ quan. Trung ương đảng là nơi ra quyết định chứ không phải bộ máy của nó. Quan trọng là phải đưa ra nhiều lựa chọn. Vai trò của các đảng liên minh và công đoàn ở nước ta phải được đề cao hơn. Trong các câu hỏi về chính sách văn hóa, đảng không được phép là người điều hành trong khủng hoảng. Phải nghiên cứu chính xác việc công dân rời bỏ CHDC Đức. Chúng ta phải biểu rõ vì sao mọi người quay lưng lại với chúng ta.” Tôi đồng ý và cũng nói cho ông biết tôi chia sẻ các nhận xét của ông. Sau đó ông chia tay. Đối với Wolfgang Herger và tôi, đây là một cuộc nói chuyện bổ ích và đầy tin cậy. Mãi đến năm 1991 tôi mới biết Wolf không nói ra một điểm quyết định. Trong cuốn “Nhiệm vụ tự trao” ông nói về một chuyến đi Matxcơva. Ông quay về trước cuộc trò chuyện với chúng tôi mấy hôm. Nhưng không kể cho tôi biết gì. Sau này Wolf thuật lại, ở Matxcơva ông đã nói thẳng thừng với các đồng nghiệp KGB của mình là không trông đợi gì được nữa ở giới lãnh đạo SED. Các bạn Xô viết của ông chăm chú nghe và cuối buổi hỏi ông nhận xét ra sao về “triển vọng tái thống nhất và phá bỏ bức tường theo ý tưởng của Tây Đức.” Thế đấy. Vậy Glasnost ở đâu trong cuộc nói chuyện giữa chúng tôi? Không một lời về cuộc đối thoại trên ở Matxcơva. Năm 1989 lẽ ra tôi biết được
những ý nghĩ ấy thì tốt. Năm 1991, trong sách ông cũng không đề cập đến câu trả lời của mình trước các chuyên gia về Đức của KGB. Một người với tầm cỡ như ông chắc chắn phải nhận ra rằng câu hỏi của nhân viên KGB về tái thống nhất và bức tường ở thời điểm đó – ít nhất là về ngôn từ – đi ngược lại chính sách công khai của Gorbachev chứ? Ở Matxcơva người ta đón tiếp Wolf trên tầng cao chính trị; không hẳn đặc trưng cho một nhà văn. Falin, Portugalov và Kopteltsev nói chuyện với ông về “thống nhất dân tộc.” Lẽ ra Wolf phải giật mình mới đúng, khi chính các chính trị gia về đề tài Đức của Liên Xô nói SED đã nhẹ dạ bỏ qua thống nhất dân tộc? Ngược lại, ông hiểu các suy nghĩ của Falin, cho rằng lãnh đạo CHDC Đức đã từ bỏ mục tiêu thống nhất nước Đức còn ghi rõ trong hiến pháp đầu tiên của nhà nước Cộng hòa và qua đó chấm dứt đưa ra một lựa chọn XHCN. Theo cách nhìn ấy thì SED cũng bỏ qua cơ hội xích lại gần nhau của hai đảng công nhân lớn nhất trên đất Đức. Vậy là sau lưng Gorbachev cán bộ của bộ máy Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và các nhân viên KGB không nêu tên đã nói chuyện với Wolf về bức tường và thống nhất nước Đức, thay vì cùng lãnh đạo SED tìm lối thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng chính trị, mà đó cũng là cuộc khủng hoảng của Matxcơva. Xuất phát từ niềm tin nên tôi luôn luôn bảo vệ chính sách Xô viết về nước Đức. Trong nhiều năm chúng ta đã có một lựa chọn cánh tả cho thống nhất, thậm chí còn ghi trong hiến pháp được nhất trí năm 1968. Nó được thay đổi do quy định của Matxcơva. Giờ đây khi tất cả đã tan tành thì lại chính các chuyên gia Xô viết về vấn đề Đức lại phủi tay. Họ đảo ngược lịch sử. Những gì Matxcơva rắp tâm tiến hành mà không thành công, nay họ đơn phương đổ tội cho SED. Trước khi CHDC Đức có thể chia tay với hiến pháp cũ từ năm 1949 của mình thì bản dự thảo Hiến pháp năm 1967 được đem ra bàn trong Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô. Mọi khuyến nghị của đồng minh Xô viết đều được đưa vào văn bản hiến pháp. Một thời gian ngắn sau đó, năm 1969, Brandt trở thành thủ tướng CHLB Đức. Ông vừa ra tuyên bố chính phủ xong thì Walter Ulbricht triệu tập họp Bộ chính trị tại nhà khách bên hồ Döllensee ngoại ô Berlin. Honecker ủng hộ lập trường Xô viết cho rằng bên Tây Đức tuy có thay đổi chính phủ nhưng không thay đổi quyền lực. Brandt được bầu lên cũng không chuyển biến gì cơ bản. Ulbricht bác lại: Tây Đức, theo ý ông, vẫn tiếp tục là một nhà nước tư bản độc quyền, nhưng với một chính phủ được SPD ấn định đường lối. Đây là một điều mới trong lịch sử hậu chiến Đức. Hướng công kích của CHDC Đức không được chĩa vào Brandt, mà dành cho Strauss và Thadden . Ulbricht kiên quyết muốn để ngỏ câu hỏi thống nhất nước Đức như một lựa chọn cánh tả. Ông theo đuổi mục tiêu “khắc phục sự chia rẽ dân tộc Đức do chủ nghĩa đế quốc áp đặt, từng bước đưa hai nhà nước Đức lại gần nhau cho đến khi thống nhất trên cơ sở dân chủ và chủ nghĩa xã hội.” Tiếp đến là các cuộc gặp gỡ giữa Willy Brandt và Willi Stoph ngày năm 19/3/1970 ở Erfurt và ngày 21/5/1970 ở Kassel. Sự kiện này làm lãnh đạo Xô viết sinh nghi. Sau lưng Ulbricht, Brezhnev chê trách chính sách Đức của ông ta. Brezhnev nói với Honecker như sau: “Ta hãy nói thẳng ra là Erfurt và Kassel chẳng đem lại lợi lộc gì. Đối với CHDC Đức, Brandt có mục đích khác chúng ta.” Sau khi thống nhất với Brezhnev, Honecker – ngày đó chưa lên tổng bí thư – chỉ thị thảo một tài liệu với nhan đề “Quá trình phát triển của vấn đề dân tộc trong lịch sử Đức.” Ông nộp bản dự thảo cho lãnh đạo Xô viết trước khi hạ bệ Ulbricht. Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô lập một ban do cựu Cao ủy Liên Xô ở Đức, Vladimir S. Semyonov, làm trưởng ban để tranh luận về tài liệu này với đoàn đại biểu SED trong tháng Hai năm 1971. Nhân danh lãnh đạo Xô viết, Semyonov khuyến nghị “chứng minh về lý thuyết là ở CHDC Đức đã phát triển một dân tộc Đức XHCN.” Phải tiến hành đấu tranh chống lại câu chuyện hoang đường về cái gọi là thống nhất dân tộc và những nét chung của người Đức.” Cần phải chứng minh được rằng vấn đề dân tộc – xét về bản chất – chính là vấn đề giai cấp. Dân tộc Đức bị xé nát do tội lỗi của chủ nghĩa đế quốc. Qua đó nhiều mối liên kết giữa người Đức với nhau đã bị hủy hoại . Vậy là từ sáng kiến của các chuyên gia Xô viết về chính sách Đức mà lý thuyết về “hai dân tộc Đức” được thảo ra. Đó là đường lối chia cắt, nó thống trị chính sách CHDC Đức đối với CHLB Đức từ năm 1971 đến năm 1989. Đến tận năm 1987 các chuyên gia Xô viết về chính sách Đức còn phê phán nặng nề Tuyên bố chung “Tranh chấp giữa các hệ tư tưởng và an ninh chung” của SED và SPD. Năm 1989 vẫn những chính khách Xô viết ấy lại làm ra vẻ 40 năm nay họ chỉ dạy bảo chúng tôi về thống nhất Đức và chỉ cho chúng tôi biết quy luật của một liên quốc gia Đức. Tôi không thể thẩm tra còn có những chuyện gì được nói ra sau lưng chúng ta ở Matxcơva. Tôi cũng chẳng muốn đoán mò. Nhưng tôi tin rằng chúng ta đã xoa tay kết thúc quá sớm câu hỏi Đức, thay vì để ngỏ cho một viễn cảnh cánh tả. Chúng ta từng mang tên là Đảng XHCN thống nhất Đức, từng đọc NƯỚC ĐỨC MỚI, nhưng không hát tiếp viễn cảnh được nhà thơ cộng sản Johannes R. Becher viết cho chúng ta vào quốc ca: “Nước Đức, nước Đức thống nhất.” Khẩu hiệu này lại được những kẻ khác viết thành khẩu hiệu của họ. Dù thế nào thì các chuyên gia Xô viết về chính sách Đức là người lá mặt lá trái khi họ đổ tội cho chúng ta. Chính họ là bà đỡ cho chính sách chia cắt. CÔNG LUẬN ĐÒI GIẢI THÍCH, NHƯNG BỘ CHÍNH TRỊ TIẾP TỤC IM LẶNG Thứ Sáu 11/8: Erich Honecker hết nghỉ phép. Ông ghé qua Trung ương đảng vài tiếng. Trước đó một hôm tôi nghe con trai út kể là có lẽ tuần sau Honecker được phẫu thuật, nó cũng chỉ nghe cháu Honecker kể lại. Từ năm năm nay tôi nghỉ phép khi Honecker nghỉ xong quay về. Lần này do biết ông sắp mổ nên tôi để gia đình đi Baltic một mình. Tôi bỏ nghỉ phép. Vị trí của tôi là Berlin. Tôi dự tính Honecker sẽ chỉ đạo cuộc họp Bộ chính trị vào thứ Ba tới. Herger đã cùng Vụ các vấn đề an ninh thảo ra một tài liệu, trong đó có phần phân tích lý do tại sao nhiều công dân đã hoặc muốn bỏ nước ra đi như vậy. Trong phần phân tích có kèm đề nghị các biện pháp tức thời cho công tác chính trị tư tưởng của tỉnh ủy và huyện ủy SED. Việc này rất quan trọng, nhất thiết phải đem ra bàn với sự tham dự của tổng bí thư. Tôi cầm bản phân tích đến chỗ Honecker. Ông nhìn trang bìa, đọc và hỏi: “Anh muốn đạt mục đích gì với tài liệu này?” Tôi giải thích, đảng đợi một phản ứng từ Bộ chính trị. Các lãnh đạo tỉnh ủy và huyện ủy cần thực tế và lý luận cho hành động chính trị và thực tiễn. Honecker không quan tâm tôi nói gì. Ông chỉ muốn biết: “Ai cho phép các anh tổng kết số người xuất cảnh? Để làm gì?” Tôi đáp, bên Tây Đức đưa ra những số liệu cao gấp năm, mười lần con số thực. Nó làm mọi người hoang mang. Họ cần được chúng ta cho biết số liệu thực. Honecker bực bội phản ứng: “Trước khi xây bức tường còn nhiều người bỏ đi hơn nhiều, và đó là tội của Nikita Khrushchev. Ông ta rêu rao về một thành phố Berlin tự do và Hiệp ước hòa bình với CHDC Đức khiến người ta phát hoảng.” Tôi lờ đi đoạn trích sử của Honecker. Cái tôi quan tâm là lúc này và ở đây. Và người gánh trách nhiệm là chúng ta. Tôi đề nghị Honecker đưa tài liệu này vào chương trình nghị sự của Bộ chính trị. Ông đứng dậy, cầm tài liệu, im lặng đi ra tủ sắt, đặt nó vào rồi khóa lại. Rồi ông quay lại nói với tôi: “Anh có thể đi phép được rồi. Chúc anh nghỉ ngơi mạnh khỏe!” Tôi sững người. Cả nước đứng trước khủng hoảng. Trong các sứ quán CHLB Đức ở Berlin, Budapest, Praha và Warszawa có công dân CHDC Đức ngồi đợi xuất cảnh sang phương Tây. Các đồng chí ở cơ sở đợi lãnh đạo lên tiếng. Vậy mà tôi nên đi nghỉ? “Erich, tôi không thể đi nghỉ bây giờ, nhất là khi anh vào viện. Tôi ở lại Berlin.” Có vẻ Honecker ngạc nhiên thấy tôi biết ông sắp mổ. Ông nhấn từng chữ, tựa như cảnh cáo tôi: “Đừng cho mình là quan trọng. Tôi cũng đã nghỉ phép. Không nhất thiết phải cần anh ở đây.” Người ta có thể đặt những ý định tốt nhất vào sai chỗ như thế đấy. Không ai nhất thiết phải được cần. Tôi cũng vậy. Tôi biết quá đi chứ. Tôi biết đáp lại ra sao, khi nhân vật ấn định
đường lối chính sách không sẵn lòng để ít nhất nhận ra hoàn cảnh nghiêm trọng? Khi ông đánh lộn nỗi lo của tôi về tình hình chính trị với việc tỏ vẻ quan trọng? Giờ tiếp tôi chấm dứt, tôi rời văn phòng Honecker. Ngày 15/8 tôi còn ngồi dự phiên họp Bộ chính trị. Tôi mong Honecker nghĩ lại. Biết đâu ông sẽ đưa bản tài liệu ra thảo luận, coi là ý của ông. Honecker không nói lấy một câu về điểm đáy trong tâm trạng của người dân. Trước mặt Bộ chính trị ông tước bỏ sự tín nhiệm đối với tôi. Ông chào từ biệt tôi đi phép và cho biểu quyết Mittag thay mặt ông. Qua đó ông bãi bỏ một quy định có từ năm 1985: khi ông vắng mặt thì tôi là đại diện. Người được ông tin cẩn là Günter Mittag. Tôi đi nghỉ ở Dierhagen, nhưng không đóng hẳn được cánh cửa sau lưng. Vì sao tôi để mình bị đẩy đi nghỉ? Vì sao tôi ít nhất không ở lại Berlin? Vì sao tôi không đưa bản phân tích ra Bộ chính trị để thảo luận? Liệu có thể xảy ra hậu quả gì? Tôi sẽ không bị tổn hại gì cả. Tôi cũng không thể bị cách chức. Không phải vì tôi sợ ai đó. Đơn giản là tôi nhầm lẫn giữa kỷ luật đảng và sự tuân thủ ý chí của tổng bí thư. Tôi cảm thấy mình bị đã thất bại trong tình huống quyết định này. Nó làm tôi giận mình khôn tả. Trong kỳ nghỉ, ngày nào tôi cũng chạy. Từ nhà khách chính phủ ở Neuhaus đến tháp hải đăng ở Wustrow và quay về. Khoảng 13 cây số. Để giảm bớt chán chường. Khi gặp người ở đường đi, tôi có một cảm giác khó tả. Tựa như họ réo theo sau lưng: ông ở đây làm gì? Chỗ của ông ở Berlin cơ mà? Tốt nhất là ông hãy nói cho Bộ chính trị: chúng tôi muốn biết sẽ có gì tiếp diễn. Nhưng có ai réo theo tôi đâu. Mọi người im lặng. Như thế còn tệ hơn. Wolfgang Herger thay tôi dự họp Bộ chính trị và Ban bí thư. Gần như hằng ngày ông thông báo cho tôi về tình hình Berlin. Nhờ đó tôi biết Bộ trưởng Ngoại giao Hungary Horn ngày 31/8 sẽ đến Berlin nói chuyện với Günter Mittag. Lãnh đạo Hungary muốn biết CHDC Đức liệu có giải quyết đơn xuất cảnh của công dân CHDC Đức hiện đang ở Hungary theo hướng tích cực. Nếu không, Hungary sẽ cắt các thoản thuận với CHDC Đức về giao thông du lịch, nhờ vậy công dân CHDC Đức có thể xuất cảnh qua Áo. Thời hạn đặt ra cho chúng tôi là 11/9, nghe như một tối hậu thư. Trong cuộc hội đàm với Horn, Mittag không để bị gây áp lực. Ông từ chối. Thái độ của ông phù hợp với lập trường pháp lý của chúng tôi. Công dân không thể gâp áp lực với luật để tạo lợi thế cho mình. Ngoài ra giữa CHDC Đức và CHLB Đức đã có một thỏa thuận rằng “trốn vào các đại diện ngoại giao của CHLB Đức không phải là phương thức thích hợp để xin xuất cảnh khỏi CHDC Đức. CHLB Đức sẽ hướng dẫn cho các công dân CHDC Đức đó về thẩm quyền của CHDC Đức và khuyên họ ra khỏi cơ quan đại diện.” Quy định đó, như Mittag lý luận, cũng có hiệu lực đối với công dân CHDC Đức chạy lánh vào các sứ quán phương Tây. Horn không bằng lòng với thái độ này của CHDC Đức. Ông đòi hỏi, CHDC Đức không được giải quyết các khó khăn của mình bằng cách bắt Hungary chịu thiệt. Một lát sau Alexander Schalck thông tin cho tôi về cuộc nói chuyện. Tôi gọi cho Mittag để hỏi sự việc tiến triển ra sao. Tôi đề nghị ông: “Chính chúng ta, chứ không phải người Hungary ở trong thế bí. Liệu sẽ có lợi hơn nếu Hội đồng nhà nước ra chỉ thị ngoại lệ, đồng ý giải quyết các đơn xin xuất cảnh như người Hungary đòi hỏi?” Tôi biết, đề nghị của tôi đi ngược lập trường pháp lý của CHDC Đức. Dù vậy tôi vẫn nói tiếp: “CHDC Đức quyết định cho công dân mình xuất cảnh thì vẫn còn hơn là để Hungary quyết định. Chúng ta chỉ còn được chọn giữa hai khả năng này nữa thôi.” Mittag hứa sẽ suy nghĩ. Ngày 1/9 tôi từ chỗ nghỉ quay về Berlin dự chương trình của CHDC Đức đánh dấu 50 năm sau ngày Đức quốc xã tấn công Ba Lan. Tôi cũng găp Mittag ở đó. Ông báo: “Đề nghị của anh bị từ chối.” Và nói thêm như vô tình: “Chuyện rắc rối lắm. Người Hungary đã ra quyết định chống chúng ta từ lâu rồi. Chuyến thăm của Horn hôm qua chỉ để làm bung xung. Từ nguồn tin cậy chúng ta được biết cách đây một tuần Nemeth và Horn đã bí mật nói chuyện ở Bonn với Kohl và Genscher. Nghe nói Nemeth mở đầu buổi hội đàm bằng câu sau: ‘Thưa thủ tướng, Hungary đã quyết định cho phép công dân CHDC Đức tự do xuất cảnh.’ Kohl đã đền đáp hành vi đó.” Tôi thấy thật khó có thể. Đơn giản là tôi không tin các đồng chí Hungary làm việc đó. Nhưng sau này các tài liệu công khai đã khẳng định là đúng. Nghe nói chính phủ CHLB Đức chấp thuận cho Hungary vay tín dụng 500 triệu D-Mark để Hungary cho công dân CHDC Đức xuất cảnh. Đồng thời thủ tướng Kohl cũng hứa đền bù các thiệt hại tiềm năng cho Hungary, nếu “CHDC Đức có biện pháp trả đũa.” Thông tin về thái độ này của người Hungary làm tôi choáng váng. Tôi đã không chịu tin là họ đi xa đến thế. Tuy nhiên đó cũng không phải là điều quan trọng nhất. Vấn đề chính vẫn là: chúng ta cần một văn bản luật du lịch nước ngoài cho công dân CHDC Đức. Chừng nào chưa có luật du lịch cho tất cả thì chúng ta chỉ đưa ra giải pháp tình thế từ sứ quán này đến sứ quán kia. “Đề nghị của anh bị từ chối”, Mittag đã nói cho tôi hay. Vậy tôi đoán ông đã thống nhất trước với Honecker rồi. Nhưng còn có những quan hệ sâu rộng hơn. Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô Shevardnadze gửi thư cho Oskar Fischer, nhắc đến các “sự kiện quá mức trong thời gian gần đây” mà nguyên nhân là “một số không nhỏ công dân CHDC Đức tìm cách vượt biên phi pháp sang CHLB Đức.” Liên Xô chia sẻ nhận định của CHDC Đức về vấn đề này. Nguồn gốc của các vấn đề sinh ra là yêu cầu của CHLB Đức được “quyền chăm lo cho mọi người Đức.” Yêu cầu này có thể tạo ra “căng thẳng và xung đột trong quan hệ giữa các quốc gia” trong thời điểm hiện tại, phụ thuộc vào lợi ích chính trị của nhà cầm quyền. Vì vậy câu hỏi quyết định là việc Bonn công nhận quốc tịch CHDC Đức. “Như chính những đại diện Tây Đức chứng kiến, người dân CHDC Đức trong trường hợp ấy sẽ lâm vào tình cảnh của ngoại kiều bình thường muốn xin tị nạn chính trị hoặc việc làm ở CHLB Đức, và lập tức điều đó sẽ giảm thiểu ý muốn di cư của những người rắp tâm muốn có cuộc sống đầy đủ – nhưng không nhờ lao động, mà nhờ xuất cảnh.” Shevardnadze nhấn mạnh, thái độ của CHLB Đức là “thiếu đứng đắn và không thể phù hợp với chuẩn mực chung được công nhận trong quan hệ giữa các quốc gia.” Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô khuyên đem vấn đề “CHLB Đức không công nhận quốc tịch CHDC Đức” ra thảo luận trên các diễn đàn quốc tế. “Chắc chắn cũng phải nêu ra rằng các nghị quyết của CSCE về tự do đi lại không thể áp dụng cho quan hệ giữa CHDC Đức và CHLB Đức được, vì thái độ của CHLB Đức về quốc tịch xóa bỏ các tiền đề luật quốc tế về hợp tác giữa hai quốc gia.” Shevardnadze đề nghị: “Giả sử […] người ta rỉ tai thủ tướng CHLB Đức rằng nếu còn tiếp tục chiến dịch chống CHDC Đức và các sứ quán CHLB Đức còn tiếp tục nhận người tị nạn thì nhà chức trách CHDC Đức bắt buộc giảm thiểu đáng kể số người di cư trong năm nay và năm tới, và lời cảnh báo đó trước thời điểm bầu nghị viện […] ít nhất sẽ bắt Bonn phải suy nghĩ.” Tối hôm 1/9 ấy tôi trở lại bờ biển Baltic. Bộ chính trị vẫn tiếp tục im lặng. HONECKER VÀ TÔI 12/9: tôi vẫn ở Dierhagen bên bờ Baltic. Eberhard Aurich, bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn, và Gerd Schulz, vụ trưởng Vụ thanh niên thuộc Trung ương đảng SED, đến thăm tôi. Hôm qua lãnh đạo Hungary đã thực thi thông cáo của mình và mở biên giới qua Áo cho cả công dân CHDC Đức. Trong một thời gian ngắn, 15.000 công dân CHDC Đức rời bỏ CHDC Đức qua đường Hungary. Bộ chính trị tìm các “tội đồ.” Nhiều thanh niên bỏ nước ra đi, chứng tỏ Đoàn thanh niên đã thất bại trong công tác chính trị tư tưởng. Ít nhất thì Mittag cũng phát biểu như vậy tại cuộc họp Bộ chính trị. Tôi đoán Aurich và Schulz định kêu ca chuyện đó với tôi. Nhưng họ đến vì lý do khác. “Ngày hôm qua là một nhát cắt sâu vào cuộc sống trong nước ta. Tôi phẫn nộ vì cách phản ứng của Bộ chính trị”, Aurich bắt vào chuyện. Và anh xúc động nói tiếp: “Bộ chính trị nhắm mắt trước sự thật, hành động hấp tấp và thiển cận. Chỉ cách đây một năm người ta còn có thể dựa vào uy lực của Erich Honecker. Hôm nay ông đã đánh mất hết.” Aurich nghỉ lấy hơi và nhìn tôi. Rồi anh nói: “Egon, quay về Berlin đi! Không thể tiếp tục với Honecker được nữa rồi.” Tôi
cố giữ vẻ bình thản. Quan điểm của hai người không làm tôi ngạc nhiên. Tôi cũng thấy Honecker đã kiệt lực. Chức vụ vượt quá sức ông. Tôi hiểu là phải hành động cấp thiết. Nhưng tôi do dự khi định lật đổ con người ốm đau ấy trước quốc khánh lần thứ 40 của CHDC Đức. Ông có mặt từ giờ phút đầu tiên của CHDC Đức. Trong những thất bại của chúng ta, ông không chỉ có lỗi. Cuộc đời hoạt động chính trị của tôi gắn liền với Honecker từ khi còn trẻ. Năm 1951 tôi gặp ông lần đầu tiên tại một hội nghị Đội thiếu niên tiền phong ở Rostock. Là chủ tịch Hội đồng Đội, ông lên phát biểu. Tôi mới 14 tuổi và phấn khích vì không khí trong khán phòng. Khi hội nghị kết thúc, tôi cầm thẻ đội viên tiến lên phía trước để xin Honecker chữ ký. Ký xong ông nhìn tôi và nói: “Em sẽ thành một đoàn viên tốt chứ?” Tôi hứa, và tôi cũng đạt được. Con đường của tôi thông qua nhiều chức vụ, từ năm 1974 đến năm 1983 tôi lãnh đạo FDJ do ông cùng sáng lập năm 1946. Tại Hội đồng FDJ năm 1981 ông viết vào cuốn tiểu sử của mình vừa in ra: “Tặng người bạn và bạn chiến đấu Egon của tôi, với tình đoàn kết sâu sắc. 4/6/1981. Erich Honecker.” Tôi rất mừng đón nghĩa cử ấy. Không chỉ vì ông là sếp của tôi và tôi trực tiếp nhận chỉ thị từ ông cho công tác thanh niên. Tôi kính trọng nhiều tố chất chính trị và nhân văn của ông. Sẽ quá đơn giản khi cho rằng Honecker hoàn toàn mạo hiểm khi vào cuộc: hoặc là chủ nghĩa xã hội rực rỡ mang dấu ấn riêng, hay là đống tro tàn từ di sản chống phát xít và cánh tả nếu dự án thất bại. Tôi tin tưởng sâu sắc vào sự trong sáng trong các kỳ vọng cá nhân của Erich Honecker, cho đến thời điểm ông cố bám chặt lấy những giáo điều cứng nhắc của sinh hoạt chính trị và xã hội ở CHDC Đức, nhắm mắt trước thực tế hiển hiện, trước lời cảnh báo từ các ủy viên Bộ chính trị, cán bộ đảng cơ sở, huyện ủy và tỉnh ủy, giới khoa học và nghệ sĩ, trước các kinh nghiệm của Liên bang Xô viết và các nước XHCN khác. Hôm nay lại chính tôi, người do ông nâng đỡ bao năm qua, được khắp nơi thúc giục lật đổ ông. Và không phải chỉ hôm nay, trong năm 1989 này. Mà đã trước đây năm năm. Từ ngày 12/6/1984. Trước bối cảnh: tháng 11/1983 Honecker nói về Hoa Kỳ và Liên Xô: tên lửa của các người là thứ đồ của ác quỷ. Phải quẳng chúng ra khỏi đất Đức! Không một chính khách Đức nào có đủ dũng khí công dân như ông trong chuyện này. Đối tác đồng minh Xô viết của chúng ta lo ngại vì thái độ đó. Họ cho rằng Honecker xếp tên lửa Xô viết và tên lửa Mỹ vào cùng hàng. Sự cào bằng đó vi phạm kỷ luật khối đồng minh. Trong mắt lãnh đạo Xô viết Honecker giờ đây đã quá tự lập, có thể cũng quá “Đức.” Ông đã tận dụng khoảng chân không xuất hiện trong giới lãnh đạo Xô viết khi Brezhnev lâm bệnh và ba tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô qua đời cách nhau không lâu. Từ năm 1982 ông tranh đấu để được phép sang CHLB Đức. Matxcơva lần nào cũng phản đối và buộc tội Honecker sử dụng chiến lược hai mang. Năm 1983, đúng vào ngày ông sang Matxcơva nói chuyện với Andropov, ông cũng cử ủy viên cá nhân của mình, quốc vụ khanh Schalck, sang Munich nói chuyện với Strauss. Mặc dù chuyến đi của Schalck có sứ mệnh bí mật nhưng không qua được mắt Matxcơva. Kết quả các cuộc nói chuyện ở CHLB Đức là ngay trong năm 1983 CHDC Đức nhận được khoản vay tín dụng tiền tỉ do Strauss tác động vào. Phải là người thích đùa mới tin khoản vay tín dụng ấy cứu được CHDC Đức “khỏi sập tiệm.” Tiền này được đem gửi tiết kiệm. Khoản cho vay là một biện pháp củng cố lòng tin, không hơn không kém. Nó chứng tỏ với các nhà băng quốc tế là CHDC Đức là con nợ đáng tin tưởng. Ngược lại, Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô sợ CHLB Đức có thể tống tiền chính trị CHDC Đức vì món nợ bên Tây. Khoản nợ của chúng ta tại các nhà băng phương Tây tổng cộng gần 30 tỉ Valutamark . Ngoài ra phe quân sự Xô viết cũng giật mình thấy Honecker nói chuyện cả về chế độ biên giới giữa các khối quân sự với Strauss, kẻ được coi là hiện thân của Chiến tranh Lạnh. Tuy không có sự liên quan trực tiếp nào giữa khoản vay tín dụng và sự kiện gỡ bỏ mìn ở biên giới các quốc gia vành ngoài của Hiệp ước Warszawa, nhưng Liên bang Xô viết không tin. Một thời gian dài họ từ chối kế hoạch gỡ bỏ mìn ở biên giới của CHDC Đức. Kết quả là một cuộc khủng hoảng công khai trong quan hệ giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và SED như tôi chưa từng chứng kiến trước đó. Trong tháng Bảy năm 1984 lãnh đạo các nước khối SEV họp ở Matxcơva. Honecker nhận tôi vào đoàn tháp tùng ông. Trong giờ giải lao nguyên soái Liên Xô Ustinov, ủy viên Bộ chính trị và bộ trưởng quốc phòng, tiến đến chỗ tôi. Ông mời tôi uống trà. “Đồng chí Krenz này”, nguyên soái vào chuyện, “đồng chí là người trẻ nhất trong Bộ chính trị. Một ngày nào đó đồng chí phải thừa kế. Đồng chí không thấy sếp chơi hết sạch vốn rồi à?” Tôi phật ý. Ông ta định nói gì? Nếu ông định thử lòng trung thành của tôi với Honecker thì quả là thừa. Tôi gắn bó với Honecker. Hay đây là cách bày tỏ sự tín cẩn đặc biệt giữa những người bạn? Tôi đã học ở Matxcơva, nói tiếng Nga, Liên bang Xô viết là quê hương thứ hai của tôi. Từ khi lên bí thư Trung ương đảng, tôi được Honecker trao nhiệm vụ giữ quan hệ thường nhật với sứ quán Xô viết ở Berlin. Gần như thứ Bảy nào Kochemassov cũng đến nhà riêng của tôi. Tôi thông tin cho ông về mỗi phiên họp Bộ chính trị. Matxcơva tường tận tình hình trong lãnh đạo đảng SED như lòng bàn tay. Ustinov chăm chú nhìn tôi và nhấp trà. Rồi ông hỏi: “Đồng chí không nghĩ là thời gian của tổng bí thư đã hết rồi sao? Đồng chí có định đem bàn chuyện đó trong Bộ chính trị không?” Sự đường đột ấy khiến tôi ngạc nhiên. Tôi trả lời ngoại giao: “Uy tín của Erich Honecker rất lớn. Tôi không biết ai trong Bộ chính trị hay trong Trung ương đảng mà lại không tín nhiệm Honecker cả.” Ngày đó Honecker đang trên đỉnh cao sự nghiệp chính trị. Kể cả khi muốn chăng nữa, tôi cũng không lật được Honecker. Bộ chính trị và Trung ương đảng đứng sau lưng ông. Mấy ngày sau cuộc “đàm đạo bàn trà” với Bộ trưởng Quốc phòng Xô viết, tờ PRAVDA đăng tải hai bài chống lại chính sách nước Đức của Honecker. Một cuộc bút chiến công khai như chưa bao giờ có giữa Matxcơva và Berlin. Tại một cuộc thảo luận nội bộ trong tháng Tư năm 1984 ở Matxcơva, Honecker đã thành công khi tạm thời xóa bỏ được sự bất đồng ý kiến về chính sách CHDC Đức đối với CHLB Đức. Tuy nhiên đến tận năm 1987 nhiều đối tác Xô viết đã tìm mọi cách tác động đến các ủy viên Bộ chính trị SED để ngăn Honecker sang thăm CHLB Đức. Người ta rất nghi Honecker đi đêm với Bonn sau lưng Matxcơva. Tôi không muốn bị sử dụng trong vụ tranh chấp với tổng bí thư vì chính sách của ông đối với CHLB Đức. Không có sự lựa chọn tử tế nào khác. Năm tháng trôi đi. Càng ngày Honecker càng tự mãn hơn. Phương Tây xun xoe với ông. Đó là lý do chủ yếu để Honecker tự đánh giá mình quá cao và xa rời cuộc sống thực tế. Nhưng điều đó cũng không đẩy tôi vào thế đối lập. Tôi không tụ tập bè phái quanh mình, nhưng đã bắt đầu nghi ngờ nhiều quyết định của ông. Nói một cách hình ảnh thì cho đến nay tôi là đứa “con nuôi” vâng lời, bây giờ tôi vùng ra khỏi vai trò đó. Một lúc nào đó các con nuôi cũng trưởng thành. Phương thức lãnh đạo của Honecker luôn là một đề tài giữa Siegfried Lorenz và tôi. Chúng tôi không chỉ ngồi cạnh nhau trong Bộ chính trị, mà còn là bạn nhau từ hơn 25 năm. Chúng tôi lo lắng nhận ra Honecker còn sống nhiều trong quá khứ đấu tranh giai cấp hơn là quan tâm tìm hiểu thấu đáo chiến lược xã hội của CHDC Đức. Thước đo của ông cho cuộc sống là sự so sánh giữa những thành tích đạt được ở CHDC Đức và thời quân chủ. Thế giới của ông là các lý tưởng như công việc, bánh mì và hòa bình nhân loại. Nhân vật đang tiến tới ngưỡng tám mươi ngày càng sống nhiều hơn trong quá khứ. Ông không thấy những gì sắp xảy ra. Điểm mạnh của ông không phải là dự đoán khoa học về chính trị. Siegfried Lorenz và tôi nói thẳng về các khiếm khuyết của ông trong công tác lãnh đạo Đảng. Năm 1986 Lorenz muốn đề nghị Honecker diễn thuyết về chủ đề “Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và CHDC Đức” tại buổi đại lễ cấp danh hiệu đại học tổng hợp cho Trường đại học kỹ thuật ở Karl-Marx-Stadt. Honecker từ chối. Nhiệm vụ ấy được chuyển sang tôi. Tôi nghiên cứu thâm nhập đề tài trên. Bài diễn văn long trọng của tôi ra đời với sự cộng tác của các nhà khoa học,
giảng viên đại học, sinh viên, cán bộ đảng và nhà nước. Tôi được các nhà khoa học cỡ thế giới như Gs Manfred von Ardenne tư vấn cho. Tâm điểm bài diễn văn là tư tưởng của Marx: trong kỷ nguyên đại công nghiệp việc “tạo ra sự giàu có thực sự” ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào “mức độ phát triển chung của khoa học và tiến bộ của công nghệ” . Tôi giải thích, CHDC Đức phải đương đầu với nhiệm vụ ấy và phải đào tạo nhân lực khoa học kỹ thuật để làm nhiệm vụ ấy ra sao. Bài nói chuyện của tôi được Bộ chính trị phê chuẩn và chuẩn bị đăng toàn văn trên báo NEUES DEUTSCHLAND. Sau buổi lễ ngày 14/11/1986, một cộng tác viên của thông tấn xã ADN thông báo cho Siegfried Lorenz và tôi là Berlin đã quyết định không đăng bài diễn văn của tôi và chỉ in một thông cáo báo chí ngắn về buổi lễ. Quyết định từ Berlin? Chỉ có thể hiểu là Honecker đã quyết định. Một chuyện không hay cho tôi, khi biết ở đó có nhiều khách trong nước và quốc tế tham dự. Ai thạo các cơ chế chính sách ở CHDC Đức sẽ phải đoán rằng tôi đã nói gì đó đi ngược đường lối của đảng. Thực sự là Lorenz và tôi không thuộc vào số những người thích động chạm vào thẩm quyền ấn định đường lối của tổng bí thư. Lòng trung thành của chúng tôi với ông không hề phải nghi ngờ. Tuy nhiên, việc ông đã kiêu ngạo đứng trên một nghị quyết của Bộ chính trị, áp đặt truyền thông, lờ đi một sự kiện quan trọng trong chính sách khoa học kỹ thuật của SED, xúc phạm khách khứa của buổi đại lễ bằng sự coi thường và vô cớ biến hai ủy viên Bộ chính trị thành người thừa lệnh của một cộng tác viên ADN đã khiến chúng tôi lần đầu tiên tự hỏi vào buổi tối hôm ấy, liệu Honecker đã sắp được tận hưởng những ngày nghỉ ngơi xứng đáng? Chỉ là một câu hỏi, từ hỏi đến hành động còn xa lắm. Một cố gắng nghiêm túc khác nhằm vận động tôi hạ bệ Honecker đến từ Gerhard Schürer trong tháng Hai năm 1989. Ông mời tôi đến nhà nghỉ của mình ở bờ biển Baltic .Ông dẫn tôi xuống tầng hầm được xây hoàn thiện. Mọi chuyện có vẻ như ông muốn thổ lộ một bí mật. Thổ lộ cho một mình tôi mà thôi. Không vòng vèo, ông nói: “Chúng ta phải lật đổ Honecker.” Ông nhìn vào mắt tôi, rõ ràng muốn chứng kiến trực tiếp phản ứng của tôi. Tôi hỏi: “Anh muốn làm việc đó ra sao?” “Nếu anh lên đứng đầu thì quân đội, Bộ an ninh quốc gia và cảnh sát sẽ hành xử trung thành với anh. Khi anh là tổng bí thư, tôi sẽ về hưu và qua đó tạo ra một tín hiệu cho các bô lão trong Bộ chính trị. Như vậy anh sẽ khắc phục được tình trạng già lão để xây dựng một Bộ chính trị theo lựa chọn riêng”, ông trả lời. Tôi khâm phục sự thẳng thắn của ông. Cần thay đổi ban lãnh đạo. Chúng tôi nhất trí chia sẻ nhận định đó. Nhưng kế hoạch của ông mang mầu sắc mưu phản. Đảo chính? Không, tôi không muốn. Schürer ngạc nhiên nghe tôi nói, tôi cũng tin là Erich Honecker không còn đủ sức hoàn thành nhiệm vụ của mình, cả về thể trạng lẫn tinh thần. Nhưng trước hết tôi lo khoản nợ của chúng ta gia tăng, tôi nói cho chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch nhà nước biết. Chúng ta đang sống bằng tiền của con cháu chúng ta, và đó là lý do khiến mỗi kế nhiệm của Honecker thất bại. Qua suy nghĩ của tôi, Schürer nhận thấy tôi thông thạo tình hình kinh tế của CHDC Đức. “Anh có biết chi tiết không?” ông hỏi. “Có”, tôi nói, “từ năm 1984 Alexander Schalck và Wolfgang Junker đã cho tôi mọi thông tin mà tôi cần biết về tình hình kinh tế và tài chính của CHDC Đức.” Schürer xác nhận, Honecker có lỗi cá nhân lớn về khoản nợ của CHDC Đức. Không thể trả nợ nếu còn Honecker. “Việc thay đổi ở thượng đỉnh không thể thông qua đảo chính”, tôi nói. “Trước khi thay thế tổng bí thư, phải bàn luận triệt để trong Bộ chính trị và Trung ương đảng. Muốn thế, cần một bản phân tích thấu đáo. Chừng nào các ủy viên Bộ chính trị không biết cụ thể thực tiễn chính trị và kinh tế trong tình huống nội chính của chúng ta, ta sẽ không có được đa số để hạ bệ Honecker. Chừng nào Mittag còn điều khiển được tổng bí thư thì sẽ còn khó tác động đến Honecker”, tôi giải thích quan điểm của mình. Kể cả từ bên ngoài CHDC Đức, một cuộc “đảo chính” sẽ vấp phải sự bất đồng. Danh tiếng quốc tế của Honecker quá lớn. Sau lần ông chính thức sang thăm Bonn, các đồng chí Xô viết cũng phải công nhận: “Sau thành công lớn của CHDC Đức như được thủ tướng Kohl công nhận trên bình diện quốc tế, người ta không thể thay ngựa”. Honecker được trọng vọng trong giới ưu tú của chính trường CHLB Đức. Mọi lực lượng chính trị khác nhau nhất đều phải nhắc đi nhắc lại, ông là sự bảo đảm cho tính liên tục trong quan hệ Đức-Đức. Ngay Alfred Dregger hồi năm 1987 còn chào Honecker là “người cộng sản Đức” có nhiều điểm chung với ông, một “nhà hoạt động dân chủ Đức.” Không, tôi không muốn đảo chính. Nó cũng sẽ không tăng ổn định cho CHDC Đức. Tôi ghét các kiểu âm mưu. Thêm vào đó là Honecker lâu nay rõ ràng đã nghi ngờ tôi. Có thể suy ra từ một sự việc tại Đại hội đảng XI. Trên một tấm ảnh có hình Honecker, Gorbachev, Stoph và tôi. Trong lúc Honecker đọc báo cáo của Trung ương đảng ở bục thì Gorbachev, Stoph và tôi ở bàn chủ tịch sau lưng ông chụm đầu vào nhau. Gorbachev muốn được giải thích kỹ hơn một vài đoạn trong bài nói của Honecker. Tôi dịch lại trong chừng mực có thể. Có thể tiếng tôi khá to khiến Honecker bị nhiễu. Trong giờ giải lao ông nói với tôi: “Egon, anh không nên có thói quen nói sau lưng tôi.” Tôi trả lời câu cảnh cáo hai nghĩa ấy: “Tôi không bao giờ nói xấu sau lưng anh.” Năm ngoái Wolfgang Herger và tôi hay nói về Honecker và chuyện ông ta rút khỏi chính trường. Trước đây mấy năm đã sinh ra nhiều xôn xao khi tôi đề nghị một triết gia chưa bao giờ lĩnh chức vụ trong quân đội vào vị trí Vụ trưởng các vấn đề an ninh thuộc Trung ương đảng. Ông viết bài tiến sĩ môn luân lý. Đối với tôi Herger luôn luôn không chỉ là một cộng sự, ông đã và vẫn là một người bạn. Đầu năm 1989 chúng tôi soạn một thông tin cho Bộ chính trị về du lịch. Chúng tôi cũng nói về Honecker. Herger nói: “Nếu Erich Honecker có sự thông thái của tuổi già thì bây giờ ông sẽ từ chức. Nếu ở hội nghị Trung ương đảng sắp tới ông không làm gì, tôi sẽ đề nghị ông từ chức.” Tôi không ngạc nhiên về tính thẳng thắn của Herger, mà vị sự cương quyết trong đòi hỏi. Herger không có chí hướng quyền lực. Cũng chính vì vậy mà có lẽ ông là người có thẩm quyền làm việc đó. Tôi không muốn mất ông ở vị trí cố vấn. Tôi càng tin là ở thời kỳ hậu Honecker ông cần phải nhận một chức vụ quan trọng trong Bộ chính trị. Vì vậy tôi khuyên ông không nên đơn thương độc mã làm chuyện đó. Trước sau tôi vẫn không chủ trương lừa dối Honecker. Phải tìm đường khác. Tiểu sử Erich Honecker gây ấn tượng mạnh cho tôi. Ông bị bọn Quốc xã tống vào tù mười năm vì chí hướng chính trị của mình. Ai không chịu phản bội mà sống sót ra khỏi tầng hầm của Gestapo ở phố Prinz Albrecht (Berlin) cũng như nhà tù khổ sai Brandenburg, người ấy theo tôi rất đáng được kính trọng. Với một người như thế, tôi muốn đối xử chân thành và thẳng thắn. Hôm 12/9 ấy Aurich và Schulz ngồi trước mặt tôi, hai người bạn đồng hành, họ biết giới trẻ nghĩ gì. Và họ đòi tôi: “Không thể tiếp tục với Honecker được nữa. Ông ấy phải đi khỏi. Anh hãy khởi đầu đi!” Tôi suy nghĩ: phải chăng sự nghiệp của chúng ta thực sự chỉ có thể cứu vãn bằng cách thay đổi nhân sự? Theo ý tôi, không thể làm việc ấy mà không thảo luận với Honecker. Wolfgang Herger cho tôi biết, nhiều ủy viên Bộ chính trị ở Berlin đòi tổ chức thảo luận triệt để. Mittag hoãn mọi cuộc tranh luận và quyết định khẩn cấp đến sau lễ quốc khánh CHDC Đức thứ 40, lúc đó Honecker sẽ đi làm trở lại. Tôi cũng hoãn các mong đợi chính đáng của FDJ vào thời điểm nói trên. Tôi biết như vậy là không nhất quán. Nhưng tôi muốn một giải pháp trong sáng về chính trị, một giải pháp đứng đắn. Cách hiểu của tôi về chính trị không còn mang dấu ấn của thời kỳ hoạt động bí mật hay thời Comintern . Tôi muốn có sự tranh luận công khai, lấy luận chứng làm chủ đạo. Nếu ai coi đó là sự lưỡng lự của tôi thì cũng có thể đúng. Nhưng không ai trong Bộ chính trị bị cấm không được dũng cảm hơn tôi. Vì quá thận trọng hay giữ ý, hay vì hèn nhát mà tôi không về Berlin để đối mặt với Honecker? Nhiều người muốn hiểu như thế. Tôi thì không. Từ ngày rất trẻ, tôi là một người cộng sản có niềm tin. Đảng là cuộc đời tôi. Kỷ luật đảng mà tôi tự áp đặt cho mình đã cấm tôi mọi hành động lôi
bè kéo cánh. Dĩ nhiên tôi biết, chúng tôi đã tự đánh bật vũ khí phê bình và tự phê ra khỏi tay với mệnh lệnh nghiêm khắc “Không tranh luận về sai lầm!” nhưng tôi cũng biết, các lực lượng cầm quyền bên CHLB Đức lợi dụng không thương tiếc mỗi sai lầm của chúng tôi để hại CHDC Đức. Tôi muốn bảo vệ CHDC Đức trước tình huống đó. Từ hàng thập kỷ nay, tiếc thay, có một kinh nghiệm được cuộc đời khẳng định: hạ bệ người cao nhất trong ban lãnh đạo một nhà nước XHCN luôn gây ra xáo động xã hội. VÌ MỘT CHDC ĐỨC CẢI CÁCH Trong thời gian nghỉ tôi chuẩn bị cho cuộc họp Bộ chính trị đầu tiên sau lễ quốc khánh CHDC Đức thứ 40. Tôi đọc các nghiên cứu xã hội học của Viện nghiên cứu thanh niên, một số công trình của Viện hàn lâm khoa học xã hội và Viện điều hành kinh tế XHCN, tài liệu mật của Schalck về tinh hình kinh tế CHDC Đức, đơn khiếu nại và thư của công dân, cũng như tài liệu Xô viết về ý niệm hiện đại của chủ nghĩa xã hội . Tiến thoái lưỡng nan: tôi biết tình cảnh CHDC Đức, nhưng đơn giản là tôi không tìm ra câu trả lời cho nhiều câu hỏi. Đặt câu hỏi thì rõ ràng cần thiết, nhưng trả lời còn cần hơn. Tôi vạch hướng cho lần ra mắt ở Bộ chính trị. Ba bản nháp bay vào sọt rác. Rốt cuộc ngày 22/9 thì hoàn thành. Tôi viết “Ghi chép” lên bìa. Trong thời gian này Honecker vẫn đang dưỡng bệnh ở gần Berlin. Tôi muốn một lần cuối cố gắng thuyết phục ông tự mở màn cuộc tranh luận trong Bộ chính trị về tình hình CHDC Đức. Tôi gọi điện. Giọng ông trong điện thoại yếu hơn hẳn. “Erich, tôi muốn chia tay trước khi đi Trung Quốc. Bộ chính trị quyết định tôi bay sang Bắc Kinh dự quốc khánh Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.” “Chúc thành công”, ông thì thào và định đặt máy. “Erich, tôi còn một đề nghị, tôi muốn chuyển cho anh ghi chép của tôi về tình hình hiện tại ở CHDC Đức.” “Được”, ông đáp cụt lủn và đặt máy. Tôi hy vọng sẽ cùng ông bàn về các ghi chép ấy khi tôi từ Bắc Kinh quay về. Theo ý tôi có thể lấy đó làm cơ sở cho cuộc hội ý chuẩn bị phiên họp Bộ chính trị lần tới. Ngót bốn tuần sau tôi nhận lại tập tài liệu từ ông; vào ngày ông từ nhiệm. Ông không ghi chú gì mà cũng chẳng ký tắt E. H., một dấu hiệu cho thấy có thể ông không đọc. Hoặc là ông không có sức khỏe để đọc, hay ghi chép ấy không được ông để ý tới vì ông không muốn bận bịu với thực tế nữa. Tình hình chính trị ở CHDC Đức, tôi viết cho Honecker, đã nóng lên như tôi chưa bao giờ trong đời từng cảm nhận hoặc chứng kiến. Người ta nhận ra sự hoang mang và chán nản ở nhiều người. Ngay đảng viên cũng sống trong xung đột lương tâm giữa những gì họ nhận ra, họ muốn chuyển biến, và những gì họ thực sự gây được tác động. Lý lẽ của phương Tây được người dân đón nhận, vì ở CHDC Đức không tranh luận công khai về các lựa chọn xã hội. CHLB Đức nói đến cải cách, nhưng muốn tiêu diệt CHDC Đức. Đảng phải vạch rõ là hệ thống chính trị và kinh tế của CHDC Đức cần được cải cách, nhưng không động chạm đến nền tảng XHCN. Chúng ta phải tự hỏi, nguyên nhân của phát triển lệch lạc ở CHDC Đức là gì. Nó không sinh ra trong mấy tuần vừa rồi. Một điều ngày xưa được coi là tiểu tiết, hôm nay đã thành vấn đề hệ thống: tại sao chủ nghĩa tư bản giải quyết được những vấn đề mà hàng chục năm ở CHDC Đức không giải quyết nổi – ví dụ như sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp, chế tạo ô tô, cung ứng vật tư cho xí nghiệp, liên tục cung cấp rau quả và các hàng hóa khác cho nhân dân? Dân chúng không để ta an ủi đợi một tương lai xa xôi nữa. Họ nghi ngờ các thống kê kinh tế quốc dân được công bố. Họ thấy những số liệu đó không được cuộc sống xác nhận. Nguyên tắc thành tích bị vi phạm. Không thể tránh né việc phân tích nguyên nhân làn sóng xuất cảnh được nghiên cứu xã hội học chỉ ra theo thứ tự sau đây: ảo tưởng về lối sống phương Tây, yêu cầu hưởng tự do cá nhân cao hơn, mong muốn khả năng du lịch, bất bình vì thái độ quan liêu của thủ trưởng và nhân viên các cơ quan nhà nước, cách đối xử lạnh lùng với công dân, không hài lòng vì tính cá nhân bị coi thường, ít được tham gia các quá trình đưa ra quyết định, lý do nhân đạo như thành hôn và thừa kế. Xã hội bị chia ra thàng nhóm người có tiền Tây Đức và những người không có. Nhiều người thất vọng vì chỉ có D-Mark trong túi mới ngang dọc thế giới được, và ngay cả ở CHDC Đức cũng mua được nhiều lợi thế, trong khi tiền của chúng ta mất giá. Những trải nghiệm ấy thì ngay cả du khách CHDC Đức sang các nước XHCN cũng có. Chúng ta đối đầu với sự việc là CHDC Đức phát triển như một phần của tổng thể ngày xưa. Điều đó trong thời gian qua ảnh hưởng mạnh hơn đến sự đồng nhất bản thể giữa công dân và nhà nước. Khi người Ba Lan và Hungary ra nước ngoài thì họ đến chốn lạ, khi người CHDC Đức sang CHLB Đức thì – mặc cho mọi khác biệt về hệ thống – họ chuyển sang một nước Đức với cùng ngôn ngữ và phần nào có cả quan hệ họ hàng. Người dân không hài lòng với chính sách truyền thông của ta. SPUTNIK bị cấm khiến nhiều người hỏi, công dân đã trưởng thành chưa? Người dân không muốn bị quy định được phép đọc gì, nhất là khi báo chí đó đến từ nước bạn. Một vấn đề thời sự, tôi viết cho Honecker, là cách đối xử với người bất đồng ý kiến và các nhóm đối lập. Ở những chủ đề quan trọng như xuất cảnh, chính sách truyền thông và bảo vệ môi trường, nhà thờ đã nhận vai trò dẫn dắt dư luận vì đảng không quan tâm đầy đủ đến lĩnh vực ấy. Qua đó nảy sinh ấn tượng là các nhóm dưới mái nhà thờ nhận ra vấn đề rõ hơn và thực hơn so với Bộ chính trị. Trong ghi chép của mình, tôi tin rằng chỉ có thể tìm được lối thoát ra khỏi tình cảnh này qua đối thoại nghiêm túc với tất cả các lực lượng xã hội. Chúng ta phải đối xử ân cần hơn và tế nhị hơn với các ý tưởng từ dưới đưa lên, cả với những người bất đồng ý kiến trong đảng. Phải thay đổi chương trình của đảng từ năm 1976. Phải chuẩn bị Đại hội đảng SED thứ XII diễn ra trong năm 1990 thông qua tìm hiểu dân ý thành thực, với tất cả các đề tài như an ninh xã hội và công bằng xã hội, nguyên tắc thành tích, chính sách vật giá, tự do xã hội và tự do cá nhân, dân chủ XHCN, tính tập thể và tính cá thể, đoàn kết giữa các thế hệ, tình yêu quê hương và chủ nghĩa quốc tế. Trong tương lai phải được tranh luận công khai về pháp luật. Các ghi chép trên phản ánh suy nghĩ của tôi trong những ngày ấy. Chúng không phải khuyến nghị thay đổi chế độ ở CHDC Đức. Tôi phản đối ý đó. Cũng không phải một tâm thư về thống nhất Đức. Đề tài này không thời sự trong mắt tôi. Các ghi chép ấy chỉ là suy nghĩ của tôi về các biến chuyển trong một CHDC Đức XHCN có chủ quyền. Tôi biết ở CHDC Đức có nhiều người suy nghĩ tương tự. Ví dụ nhật báo JUNGE WELT ngày 21/9 đăng trích lục một bài nói chuyện của Klaus Höpcke trình bày trước giảng viên và sinh viên Đại học mỹ thuật Berlin-Weissensee. Ông đòi hỏi suy nghĩ “điều kiện sống nào ở nước ta đã khiến người này hay người kia có nguyện vọng rời bỏ đất nước hay đầu hàng trước sức quyến rũ của cuộc sống ở nơi khác với màu sắc lung linh làm họ choáng váng.” Theo tôi biết, JUNGE WELT là tờ báo đầu tiên và Klaus Höpcke là cây bút đầu tiên từ hàng ngũ SED công khai nói đến chủ đề xuất cảnh và nguyên nhân của nó. Giờ đây không ai còn có thể giấu nhẹm đi được nữa. Cho đến nay đã xuất hiện nhiều phong trào và tổ chức chính trị mới. Họ đòi các quyền công dân được Hiến pháp CHDC Đức bảo đảm. Chương trình của họ xuất phát từ một đồng thuận xã hội: cải cách CHDC Đức và chủ nghĩa xã hội. Mục sư Friedrich Schorlemmer phát biểu: “Không xóa bỏ, mà đổi mới chủ nghĩa xã hội.” Hoặc “chủ nghĩa xã hội từ Bắc Kinh đến Berlin có thể cải cách được, hay nó biến mất.” Trong lời kêu gọi thành lập của phong trào quần chúng „Dân chủ ngay bây giờ“: “Chủ nghĩa xã hội hôm nay phải tìm được khuôn mặt thật, khuôn mặt dân chủ của mình, nếu không muốn chịu một thất bại lịch sử. Chủ nghĩa xã hội không được phép thất bại, vì nhân loại bị đe dọa trong khi tìm phương thức chung sống cần nhiều lựa chọn bên cạnh xã hội tiêu dùng của phương Tây mà sự phồn vinh của nó do phần còn lại của thế giới gánh chịu.” Neues Forum ngày 11/9 muốn có “[…] đất dụng võ cho sáng kiến kinh tế, nhưng không bị méo mó thành xã hội
cạnh tranh chà đạp lên nhau.” Phong trào này muốn “giữ gìn những thành tích đạt được nhưng vẫn có chỗ cho đổi mới […]” Mục sư Edelbert Richter ở Erfurt tin chắc rằng “không chỉ chữ ‘XHCN’ mà một số nguyên lý xã hội nhất định của XHCN” sẽ còn có sức thuyết phục đối với chúng ta trong tương lai . Ngày năm 19/9/1989 Hội nghị các nhà thờ CHDC Đức ra nghị quyết kêu gọi những người muốn bỏ đất nước ra đi: “Chúng tôi xin các bạn hãy ở lại và góp phần xây dựng một tương lai chung tươi đẹp ở nước ta.” Liệu có phải tất cả những người ấy trong thâm tâm thực sự muốn một chủ nghĩa xã hội được cải cách? Ai nhìn được thấu mọi con tim và khối óc? Nhưng Bộ chính trị còn không thèm tự đặt ra cho mình một câu hỏi như thế. Chúng tôi vẫn ngồi trên ghế chót vót. Thay vì chuyện trò với những đầu óc phê phán, chúng tôi bám chặt vào các giáo điều đã lạc hậu với thời cuộc. Bộ chính trị SED vẫn giữ im lặng. Nhưng ở các chi bộ cơ sở đã có biến chuyển. Sự bất bình gia tăng trong quần chúng. Ngày càng nhiều người bất ổn và hoang mang. Các cuộc biểu tình nổ ra đòi thay đổi xã hội XHCN. Khẩu hiệu “Chúng ta ở lại” là câu trả lời cho “Chúng tôi muốn đi.” Chỉ ít lâu sau xuất hiện một phong trào phản kháng rộng rãi chống lại lãnh đạo đương nhiệm của CHDC Đức, với khẩu hiệu “Chúng tôi là nhân dân.” THĂM TRUNG QUỐC Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mừng quốc khánh thứ 40 – sáu ngày trước quốc khánh CHDC Đức. Tôi nhận nhiệm vụ đại diện cho CHDC Đức. Đi Trung Quốc là một sự kiện đặc biệt đối với tôi, nhưng trước tình cảnh ở CHDC Đức thì sự phấn khởi cũng chỉ có hạn. Tôi ước gì được ở lại Berlin. Trước lúc cất cánh tôi nhận được một thông tin nội bộ. Tin này xuất phát từ Đại diện thường trực của Cộng hòa liên bang Đức ở CHDC Đức, đầu đề: “Về tình hình nội trị của CHDC Đức sau phiên họp toàn thể Trung ương đảng SED thứ 8.” Tất nhiên tài liệu này không viết ra cho lãnh đạo CHDC Đức đọc, mà gửi đến chính phủ CHLB ĐỨC. Tôi nhận được nó qua đường vòng – người của chúng ta ở Bonn vẫn hoạt động. Trong tài liệu của mật vụ đội danh ngoại giao nói: “Trong hàng ngũ những người kế nhiệm tiềm năng (của Erich Honecker) rõ ràng nổi bật nhất là Krenz. […] Việc ông ta bảo vệ bằng được cuộc thảm sát ở Bắc Kinh khi đến thăm Saarbrücken cho thấy ông ta sẽ quyết tâm sử dụng mọi phương tiện nhà nước trong trường hợp nghiêm trọna.” Về bất cứ phương diện nào, đây là một lời vu khống tồi tệ. Ít lâu sau nó biến thành ngôn ngữ chung trong truyền thông CHLB Đức. Nhận định trên bắt nguồn từ tuyên bố của tôi nhân dịp thăm thủ hiến bang Saarland ngày 7-8/6/1989. Tôi đến Saarbrücken tham dự một hội thảo của SPD và SED về chính sách an ninh. Các phóng viên ghi nhận là trong bài diễn văn tôi không phát biểu về biến cố trên quảng trường Thiên An Môn. Mặc dù vậy người ta vẫn viết như thể hội thảo này chỉ nói về Trung Quốc. Tôi đã phản đối sự bóp méo này. Buổi tối đầu tiên trong hội thảo, một phóng viên đài phát thanh Saarland hỏi, có phải tôi không muốn “lặp lại” luận chứng của Lafontain về Trung Quốc. Tôi trả lời đại ý là “không”, vì người ta không can thiệp vào nội bộ quốc gia khác. Ở CHDC Đức chúng tôi công bố các phát biểu chính thức của Trung Quốc như đã nhận được từ họ. Bây giờ không gì tệ hơn là tạo ra một không khí căng thẳng qua đồn đại, khẳng định vô căn cứ hay thêm bớt sự việc; chẳng có ích gì cho ai cả. Tôi nói nguyên văn: “Hôm nay chúng ta cần trước hết một không khí góp phần kiến tạo hòa bình trên thế giới.” Tôi chỉ nó đến “ổn định và trật tự” ở Trung Quốc theo nghĩa chính trị toàn cầu. Tôi không chịu trách nhiệm về tất cả những gì khác mà truyền thông Tây Đức nặn ra từ phát biểu của tôi. Tôi chia sẻ nỗi lo, chia sẻ với cả các chính khách Đông Tây, ở đất nước đông dân nhất thế giới có thể xảy ra nội chiến. Nội chiến ở Trung Quốc có lẽ sẽ sinh ra hậu quả thảm khốc cho cả thế giới. Gorbachev khi sang thăm Bonn hồi tháng Sáu năm 1989 cũng phát biểu tương tự, song chẳng ai suy diễn từ lời ông là ông sẽ sử dụng vũ lực ở nước mình. Thủ tướng Kohl sau này đến thăm các đơn vị Quân đội nhân dân Trung Quốc, và cả tổng thống Hoa Kỳ cũng dành vinh dự cho nhân dân Trung Quốc như tôi đã chúc mừng họ nhân ngày lập quốc thứ 40. Họ không thu gọn Trung Quốc vào sự cố tháng Sáu năm 1989. Họ giữ lập trường về vai trò mà Trung Quốc hôm nay đã có trên chính trường thế giới và nhất định còn gia tăng. Tôi gặp gỡ sinh viên, giáo viên và trí thức ở Bắc Kinh, gặp công nhân, nông dân, cán bộ đảng và nhà nước ở các tỉnh Tứ Xuyên và Chiết Giang. Các cuộc nói chuyện với tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và nhiều chính khách quan trọng trong nước cho thấy: đất nước này thực thi thành công chính sách cải cách bắt đầu từ năm 1979. Chính sách cải cách của họ khác với Perestroika ở một điểm chủ yếu: củng cố và phát triển kinh tế trước hết. Qua các chuyến tham quan tôi thấy các hậu quả tiêu cực của Cách mạng văn hóa được khắc phục ra sao và mức sống của người dân cho dù còn tồn tại nhiều khó khăn đã được cải thiện. Khi Giang Trạch Dân đón tiếp tôi, ông ngâm cả thơ Goethe bằng tiếng Đức. Ông nhắc đến Weimar, thành phố của các tác giả kinh điển, cả sự gần gũi với Buchenwald. Trong khi xảy ra vụ Thiên An Môn Giang Trạch Dân là bí thư Thượng Hải. Thành phố này không bị trải qua các biến cố như Bắc Kinh. Nguyên nhân trực tiếp là đường lối đối thoại của lãnh đạo địa phương dưới Giang Trạch Dân. Tối 1/10 tôi gặp Đặng Tiểu Bình. Hình như tôi là một trong những chính khách nước ngoài cuối cùng nói chuyện với ông. Ông truyền cho tôi một thông điệp rõ ràng: người Trung Quốc chúng tôi muốn hòa bình, chúng tôi cần hòa bình để tiến hành cải cách. Chúng tôi muốn sống hữu nghị với CHDC Đức, với các dân tộc. Chúng tôi cố gắng đạt được một quan hệ văn minh với tất cả các nước trên thế giới, ở phương Đông như phương Tây. Tôi chỉ có một cách giải thích, tại sao phát biểu của tôi ở Saarbrücken luôn luôn bị bóp méo: người ta muốn gây sợ hãi ở CHDC Đức bằng cách loan tin tôi ủng hộ bạo lực. TRƯỚC LỄ QUỐC KHÁNH CHDC ĐỨC LẦN THỨ 40 Tôi đang trên chuyến bay từ Bắc Kinh về Berlin. Nhân viên sứ quán CHDC Đức ở Bắc Kinh đã tập hợp tin báo chí cho tôi. Trong đó có một lời bình luận chưa công bố. Tôi hầu như không tin vào mắt mình: người tị nạn đã “chà đạp lên các giá trị đạo đức và tự đẩy mình ra khỏi xã hội chúng ta. Người ta không nên khóc theo họ lấy một giọt.” Lúc đó tôi chưa biết một điều mà xuống Berlin mới được nghe: Erich Honecker đã viết câu này vào bản tin ADN. Tôi thất vọng đau đớn về lời bình luận này. Tôi đã chứng kiến các ông bố, bà mẹ, bạn bè, gia quyến và đồng nghiệp khóc những giọt nước mắt cay đắng. Mỗi giọt là một cáo trạng chống lại chúng tôi. Lời bình luận này không còn là yêu cầu chính trị của CHDC Đức nữa. Bây giờ không thể để một ngày trôi đi mà không hành động. Cùng các cộng tác viên, tôi phác thảo ngay trên phi cơ một tuyên bố về tình hình chính trị để rút lại bình luận trên. Tuyên bố này phải trình lên Bộ chính trị nhanh như có thể. Khi tôi xuống Berlin, Wolfgang Herger đã đợi ở sân bay. Bản thân ông cũng đã thảo một tài liệu về tình hình chính trị. Tôi đưa ông dự thảo của tôi. Nhiệm vụ của ông là viết thành một tài liệu thống nhất. Tôi nói chuyện với Willi Stoph, Siegfried Lorenz và Harry Tisch về chuyện này. Họ đồng ý với nội dung cơ bản của bản tuyên bố. Họ kể cho tôi biết, trong giờ giải lao giữa một đại lễ tại Nhà hát nhạc kịch Đức (Berlin) Honecker đã gọi các ủy viên Bộ chính trị đang có mặt ở đó lại. Ông đưa ra một đề nghị mà sau này kéo theo hậu quả nặng nề: “trục xuất các công dân hiện trú trong sứ quán CHLB Đức ở Praha, chở họ bằng tàu hỏa của Deutsche Reichsbahn đi qua lãnh thổ CHDC Đức sang CHLB Đức.” Không ai phản đối đề nghị vô lý ấy. Vấn đề ở đây không chỉ là việc xuất cảnh, vì tình trạng khôn kham trong các sứ quán đã bắt buộc dẫn đến hệ quả này, mà là đường đi qua lãnh thổ CHDC Đức đầy tính khiêu khích. Đầu tháng Mười việc đó được lặp lại. Tại nhiều địa phương CHDC Đức đường sắt và nhà ga bị bao vây. Ngày 4/10/1989 trước cửa nhà ga chính của Dresden, nơi chuyến tàu từ Praha đi qua, diễn ra một cuộc đối đầu bạo liệt. Nhiều nhóm tham gia: những người muốn xuất cảnh hoặc tình cờ đi qua,
cả những phần tử quấy rối hầu như chỉ muốn đối đầu với chính quyền nhà nước. Cuộc đụng độ thể hiện các mâu thuẫn trong xã hội chúng ta đã kéo lực lượng cảnh sát nhân dân vào cuộc. Họ phải gánh chịu những xung đột do quyết định sai lầm của lãnh đạo chính trị CHDC Đức gây ra. Hôm nay 6/10 nhiều người mong chờ trong diễn văn chào mừng quốc khánh CHDC Đức thứ 40 Erich Honecker sẽ nói một lời thẳng thắn về tình hình thời sự của CHDC Đức. Tất cả đều thất vọng. Đó là bài diễn văn của một người ốm yếu về thể trạng và bảo thủ về chính trị. Tôi cảm thấy bức xúc trong buổi lễ. Bài diễn văn của Honecker được Bộ chính trị phê chuẩn. Không ai có thể thoái thác là không biết nội dung. Chúng tôi sống trong ảo tưởng là mọi xung đột xã hội sẽ ngoan ngoãn đợi hoãn đến sau lễ quốc khánh CHDC Đức lần thứ 40. Trước ngày lễ, tối 6/10, diễn ra lễ rước đuốc của FDJ trên đại lộ Unter den Linden, chính ở nơi Đoàn thanh niên dưới sự lãnh đạo của Erich Honecker ngày 11/10/1949 mừng sự kiện thành lập nhà nước Công hòa và chủ tịch đầu tiên Wilhelm Pieck. Hôm nay hơn 100.000 đoàn viên FDJ áo xanh diễu qua. Tôi nhớ lại sự phấn khởi trước đây 40 năm, khi ấy tôi mới 12 tuổi và theo đoàn Mecklenburg diễu qua trước lễ đài. Lễ rước đuốc ấy là một kỷ niệm cơ bản đầy ấn tượng thời thơ ấu của tôi. CHDC Đức đã ngự trong tim tôi. Tôi cảm thấy những người quanh tôi chân thành chào mừng ngày thành lập nước Cộng hòa mới. Hôm nay, 40 năm sau, tôi đứng trên lễ đài gần như chật cứng quý khách trong và ngoài nước. Gorbachev vẫy chào những thanh niên diễu hành từ phút đầu đến phút cuối. Tôi không cường điệu khi nói: cuộc tuần hành này cũng dành cho ông. Và cũng chẳng cần có năng khiếu ngoại cảm để nhận ra điều đó. Tiếng hô “Gorbi, Gorbi” như không muốn dứt. Ngay cả khi Gorbachev hôm nay thay đổi ý kiến, ngày đó ông tiếp nhận ý chí của thanh niên CHDC Đức muốn đổi mới XHCN như lời đòi hỏi hãy ủng hộ phương thức chủ nghĩa xã hội dân chủ trên đất Đức. Có lẽ vì thế ông nói với thanh niên: “Tôi chúc lớp thanh niên hãy tin tưởng mang lá cờ đỏ của cách mạng, tiếp bước hàng ngũ của thế hệ già và bước những bước tiến xa.” Gorbachev thấy trong cuộc rước đuốc này dấu hiệu chứng tỏ Liên Xô và CHDC Đức cộng lại sẽ có đủ sức vượt qua cơn khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội. Hy vọng vào một Perestroika Đức, một CHDC Đức thay đổi, đó là thông điệp mà ai ai trên lễ đài cũng cảm nhận được. Eberhard Aurich, bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn FDJ, đọc lời tuyên thệ truyền thống của thanh niên. Bài văn khác nhiều đoạn với những lời tuyên thệ tôi đã đọc năm 1974 và năm 1979. Không có lời tung hô Honecker. Không còn nhắc đến SED là đảng của thanh niên. Chỉ đơn giản: “Đây là nước ta. Đây là nhà ta. Ở đây ta còn nhiều dự định […]” Đó chính là ý mà lãnh đạo FDJ đã tranh luận với các thành viên đội rước đuốc trong nhiều cuộc nói chuyện: chúng tôi cảm ơn thế hệ già, các vị đã tranh đấu giành được nhiều thành quả cho chúng tôi, nhưng chúng tôi không thích để các vị đã xơ cứng vì tuổi già dạy bảo chúng tôi phải có một tương lai như thế nào, chúng tôi muốn xây dựng những kế hoạch riêng và sẽ thực hiện chúng. Khi Honecker chia tay lễ rước đuốc, ông không cảm ơn FDJ nữa. Aurich nhận lời chúc mừng từ Mikhail Gorbachev và Raissa Gorbacheva, từ Willi Stoph, từ nhiều khách nước ngoài và tất nhiên từ tôi. Hai hôm sau Honecker trách tôi: anh đã cùng Trung ương Đoàn lôi kéo các đoàn viên FDJ theo tinh thần Gorbachev. Ông không hiểu được là chẳng cần phải lôi kéo ai nữa cả. Có người muốn nhớ lại cuộc rước đuốc như một “lễ tung hô.” Những cuộc lễ lớn như thế luôn cần chút đạo diễn, hiếm khi bộc phát. Trong ký ức của tôi, cuộc rước đuốc ấy là lời bày tỏ của nhiều thanh niên với CHDC Đức của họ. Họ muốn một CHDC Đức khác, đúng thế. Họ muốn có thay đổi trong chính sách và trong giới lãnh đạo. Nhưng họ muốn CHDC Đức. Và trong ý chí đó họ muốn được Gorbachev ủng hộ. HỌP BỘ CHÍNH TRỊ CÙNG GORBACHEV Chiều 7/10 Bộ chính trị Trung ương đảng SED hội kiến Gorbachev tại tòa nhà hội nghị gần lâu đài Berlin-Niederschönhausen. Trước giờ họp đa số chúng tôi ngồi ngoài tiền sảnh. Gorbachev và Honecker còn có cuộc gặp riêng hai người. Có nhiều ý kiến không thống nhất rằng chỉ hai người hay còn thêm ai, và liệu Mittag có tham dự không. Tôi cho là có. Dù thế nào thì chúng tôi, những người tụ họp bên ngoài, cũng hồi hộp muốn biết hai “Tổng” bàn chuyện gì. Khi cánh cửa lớn mở ra và hai người từ phòng nghị sự bước ra, trông họ có vẻ phấn chấn. Rõ ràng đã không xảy ra một chuyện nảy lửa như tình hình hiện tại đòi hỏi. Không ai trong chúng tôi biết đó là cuộc chuyện trò cởi mở hay chỉ là đưa đẩy kiểu ngoại giao. Dù thế nào, Gorbachev kiến tạo một không khí thân thiện trong cuộc họp của Bộ chính trị. Ông nói, sự ra đời của CHDC Đức là bước ngoặt trong lịch sử châu Âu và sự tồn tại thực tế của CHDC Đức góp phần ổn định tại châu lục. Honecker cảm ơn người đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô đã nhấn mạnh quyền tự quyết của CHDC Đức trong bài diễn văn trọng thể. Gorbachev nói với Honecker, phương Tây không được phép can thiệp vào nội tình của CHDC Đức. Ông nhắc đến tiến trình đầy mâu thuẫn của phong trào công nhân Đức. Quốc khánh thứ 40 của CHDC Đức đối với ông là ngày lễ chung của người dân CHDC Đức và Liên Xô. “Tôi tin rằng Đảng Cộng sản Liên Xô và SED là hai đảng mạnh nhất”, ông nói. Cả hai phải củng cố hành động của mình trên cơ sở “các lý tưởng và ý tưởng đã được Tháng Mười tuyên ngôn.” Gorbachev rút kết luận từ các tiến triển ở Hungary và Ba Lan: “Ba Lan và Hungary đã thuyết phục chúng ta: nếu không phản ứng phù hợp tình hình đất nước, đảng sẽ bị lên án. Chúng tôi và các đồng chí cùng nhau nỗ lực hỗ trợ các lực lượng tích cực ở hai nước. Nhưng sẽ không phải chuyện đơn giản.” Ông phê phán việc từ bỏ vị thế của đảng ở Ba Lan và Hungary. Phương Tây đang hí hửng, rắp tâm “phục thù và thu hẹp khu vực của chủ nghĩa xã hội.” Gorbachev kể lại các kinh nghiệm cải tạo ở Liên Xô. Ông kêu gọi các đồng chí Đức: “Nói cho cùng, tất cả chúng ta đều là người cộng sản. Chúng ta không chỉ nghĩ đến chuyện hoàn tất công việc gì đó cho đời mình, mà còn nghĩ đến các thế hệ mai sau.” Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô hy vọng sẽ có “một bước ngoặt trong công cuộc phát triển đất nước” đi cùng với Đại hội XII đảng SED vào năm 1990. Trong khi nói, ông chăm chú nhìn vào cử tọa, tựa như muốn kiểm nghiệm xem chúng tôi có hiểu ông không. Tôi hiểu ý ông nói đến việc CHDC Đức lái về hướng cải tổ trong điều kiện riêng của nước mình, lái về hướng cải cách và tăng cường tự do theo ý tưởng của ông về tư duy mới vốn được lấy làm cơ sở cho công cuộc tiếp tục phát triển XHCN của CHDC Đức. So với những gì đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc, cả hai phía đều tỏ ra không nhận định được tình thế. Cả Đảng Cộng sản Liên Xô lẫn SED đều không thấy nước mình đã lún sâu vào khủng hoảng đến mức nào. Chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội thông báo cho nhau một cách cởi mở và thẳng thắn về tình hình thực tế hai nước. Thời gian quý báu trôi đi vô ích. NHƯNG NGÀY HY VỌNG VÀ QUYẾT ĐỊNH 8 – 17/10/1989 8/10 Chủ nhật đầu tiên trong năm thứ 41 của CHDC Đức, tôi lên xe công vụ ở Wandlitz lúc trời còn tối. Trên đường tới Berlin tôi nhớ lại cuộc chuyện trò với Eberhard Aurich. Hôm 6/10 tôi hỏi anh: “Đó là cuộc rước đuốc cuối cùng?” Ý tôi định nói là nếu muốn làm cuộc cải tổ thành công thì trước mắt còn nhiều công việc và nên bớt những cuộc diễn hành đi. Aurich đọc ra trong câu hỏi ấy nhiều hơn tôi nghĩ. “Tôi nghĩ là không”, anh trả lời, “cuộc rước đuốc là lễ bế mạc của FDJ cho ông ấy.” “Cho ông ấy” có nghĩa cuộc rước đuốc được coi là lễ chia tay với Erich Honecker. Tôi im lặng. Cuộc lật đổ Honecker đã có gì là chắc chắn đâu. Vừa hôm qua ông còn nhận được động lực, Gorbachev đã nói ở cuộc họp Bộ chính trị là Liên Xô quyết tâm tuân thủ nghiêm ngặt Hiệp ước về hữu nghị, hợp tác và tương trợ ký ngày 7/10/1975. Sự kiện này nhất định mở mắt cho những kẻ rắp tâm đụng chạm vào quyền tự quyết và độc lập của CHDC Đức. Với nỗ lực mang lại một chất lượng mới cho chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Liên Xô và SED có cùng lý tưởng và giá trị làm xuất phát điểm . Honecker hiểu luận cứ ấy là sự khẳng định chính sách của CHDC Đức. Như đã nói ở trên, tôi đã bàn bạc từ lâu
với những đồng chí mà tôi biết họ thấy thái độ ngoan cố của Honecker là một hiểm họa cho CHDC Đức. Trong số đó trước hết phải kể đến Siegfried Lorenz và Wolfgang Herger, Willi Stoph, Harry Tisch, Werner Jarowinsky, Gerhard Schürer, Alexander Schalck và Wolfgang Junker. Erich Mielke biết dự định của chúng tôi. Günter Schabowski cũng nhập hội vào đầu tháng Mười. Cuối tháng Chín Schalck hỏi tôi: “Có nên tin Schabowski không, có thể cởi mở hết với ông ấy không?” Tôi lưỡng lự. Tại cuộc họp đảng ở Berlin hôm 14/10 ông ta còn khen ngợi tinh thần cải cách của Honecker và biểu dương Mittag đã đại diện xuất sắc cho Tổng bí thư ra sao. Schabowski là một người phức tạp, hiểu kiểu nào cũng được. Sáng hôm ấy đường phố Berlin còn vắng tanh. Tôi nhanh chóng đến Trung ương đảng. Hôm qua có đụng độ giữa Cảnh sát nhân dân và người biểu tình. Giữa buổi lễ của chính phủ nhân dịp quốc khánh thứ 40, Schabowski và tôi ra khỏi phòng đại lễ ở tầng 4 Cung Cộng hòa để xem có gì xảy ra bên kia bờ sông Spree. Những người trẻ tuổi hát “Quốc tế ca” và liên tục hô “Gorbi, Gorbi…” Chắc những người tụ họp ở đó không ưa thấy lực lượng cảnh sát rào chắn bãi trước Cung Cộng hòa. Nhưng ở mọi quốc gia, bảo vệ khách khứa của chính phủ là chuyện thường tình. Chẳng gì thì trong Cung Cộng hòa cũng có mặt các vị lãnh đạo đảng và nhà nước từ hơn một trăm nước, trong đó có các nguyên thủ quốc gia của Khối Warszawa. Mọi chuyện rất bình yên. Không có gì mang vẻ bạo lực. Nhưng không phải: nhất định có gì đó xảy ra mà tôi chưa được biết vào lúc sáng sớm này. Các báo cáo của Bộ nội vụ mà tôi cầm đọc trên tay nhắc đến “dẫn độ”, một uyển ngữ thay cho khái niệm tạm bắt giam. Không nói đến chi tiết. Tin tức của các đài phương Tây mà tôi nghe được thì đầy kịch tính. Có lẽ sự thật nằm đâu đó ở giữa, tôi nghĩ bụng. Tôi sẽ bàn chuyện này với Bộ trưởng Nội vụ. Không thể để lực lượng giữ trật tự ra tay hành động chỉ vì các chính trị gia bất lực không nói được với dân chúng về các vấn đề thời sự. Từ hôm qua tôi được biết, ngày 22/9 Erich Honecker đã gửi công điện tới các bí thư tỉnh ủy thứ nhất. Trong đó viết: “Trong thời gian qua đã diễn ra hoạt động của kẻ thù trên nhiều bình diện, mang mục đích tổ chức các nhóm phản cách mạng theo tuyên truyền của CHLB Đức. Chúng ta đã nói đến vấn đề đó tại cuộc họp các bí thư tỉnh ủy thứ nhất và nhất trí phải bóp chết các hoạt động thù nghịch đó từ trong trứng. Do ở một số huyện chưa kịp thời đề ra biện pháp về chính sách và tổ chức, nay cần soát lại các công việc đã làm…” Có hai điểm trong công điện này khiến tôi lo ngại. Trước tiên là nhãn hiệu “phản cách mạng”. Đã đành là CHDC Đức nhất định có kẻ thù, chúng bắt mối tới các phóng viên CHLB Đức để gây sốt. Từ xưa vẫn thế. Hôm nay cũng chẳng khác. Tôi không bất ngờ. Nhưng giờ đây người dân CHDC Đức xuống đường phản đối chính sách hiện tại của giới lãnh đạo, trong số họ có nhiều đảng viên SED. Họ từ chối không tin vào chúng ta, những người lãnh đạo họ. Chúng ta không thể chụp mũ họ là kẻ thù được. Thêm nữa, Bộ chính trị quá ngạo mạn khi quy trách nhiệm cho các cán bộ đảng ở tầng huyện và tỉnh về tình cảnh do chính giới lãnh đạo gây ra. Phải khẩn trương chỉnh lại nội dung bức công điện của Honecker nếu muốn ngăn ngừa các đối đầu mới có nguy cơ tuột khỏi tầm kiểm soát. Bộ an ninh quốc gia có thông tin chắc chắn là hôm 7/10 ở Schwante gần Berlin đã ra đời Đảng xã hội dân chủ của CHDC Đức. Theo tin tổng hợp không đầy đủ của Bộ nội vụ có khoảng 160 nhóm đối lập khác nhau. Họ cố lập quan hệ chéo với nhau. Ngoài ra có những cuộc xung đột phá rối trật tự trị an hoàn toàn không mang tính phản đối chính trị. Chúng ta không được coi thường tất cả những hiện tượng ấy. Trong tổng thể, chúng là mối nguy hiểm cho CHDC Đức. Nhưng dù vậy: không được phép tái diễn sự kiện 17/6 . Trong lúc nước sôi lửa bỏng này chúng ta phải giữ đầu óc tỉnh táo. Bạo lực chống lại dân chúng CHDC Đức bất cứ lúc nào cũng là một đòn giáng vào chính CHDC Đức, vốn vẫn tự gọi là đất nước của người lao động ở thành thị và nông thôn. Chỉ một giọt máu duy nhất sẽ chôn vùi mọi ý tưởng về một đất nước CHDC Đức được cải cách. Không được để xảy ra thêm bạo lực nữa. Với ý nghĩ ấy tôi lên xe về tòa nhà của Trung ương đảng. Wolfgang Herger đợi tôi dưới sân. Chúng tôi định tham dự cuộc họp ở Bộ an ninh quốc gia, bàn về việc đưa các khách của chính phủ ra về thuận lợi và các lễ hội quần chúng nhân sinh nhật CHDC Đức, nhất là ở Berlin. Vì vậy Schabowski cũng được mời đến. Herger lên xe công vụ của tôi. Trên đường đến Bộ an ninh quốc gia ông báo cáo cho tôi biết, cho đến tận đêm khuya hàng ngàn người đã xuống đường biểu tình ở Berlin, Leipzig, Dresden và Plauen. Giọng ông xúc động: “Anh phải đề nghị Honecker ngay hôm nay gửi công điện đến các bí thư tỉnh ủy thứ nhất, nội dung là các biện pháp của chúng ta đối phó với biểu tình chỉ mang tính chính trị. Không bao giờ được phép lặp lại những gì đã xảy ra hôm qua ở Berlin hoặc cách đây mấy hôm ở Dresden. Tất cả các huyện và tỉnh phải lập tức họp bàn. Toàn bộ cán bộ đảng, công đoàn, nhà nước và FDJ phải nói chuyện với người dân ở địa phương. Các phương tiện thông tin đại chúng phải đưa thông tin công khai.” Herger đã viết bản dự thảo công điện gửi lãnh đạo các tỉnh ở nhà từ sáng sớm. Ông đọc cho tôi nghe trên xe. Tôi bổ sung một số điểm. Chúng tôi thỏa thuận là trong lúc họp ông sẽ hoàn chỉnh bản công điện. Khi cuộc họp chấm dứt, tôi sẽ gọi điện ngay cho Honecker. Xe chúng tôi đỗ trước tòa nhà Bộ an ninh quốc gia. Ra đón chúng tôi là thượng tướng Mittig, một trong các thứ trưởng của Mielke. Mittig thuộc về thế hệ trong thời kỳ thành lập CHDC Đức đã tình nguyện xin vào các cơ quan an ninh. Từ công nhân lên đến chức tướng, đó là niềm kiêu hãnh của ông. Trước sau ông vẫn là một người giản dị và có bản tính mạnh mẽ. “Rudi”, tôi hỏi, “sự thực hôm qua đã xảy ra chuyện gì? Tại sao tôi nhận được báo cáo chậm trễ như vậy?” Ông đáp ngắn gọn kiểu nhà binh: “Những gì xảy ra không nhất thiết phải xảy ra. Ai đó đã mất bình tĩnh.” Ông không nói đó là ai. Nhưng ông nói ra những điều Herger và tôi nghĩ: những cuộc đụng độ ấy lẽ ra có thể ngăn được. Điều tệ hại là ban lãnh đạo đảng im lặng trước các biến cố xã hội. Trước tình cảnh hiện tại, cuộc họp định kỳ của bộ trưởng an ninh với các cộng sự bên Bộ quốc phòng và Bộ nội vụ đối với tôi hầu như không quan trọng. Trong thời gian ấy tôi đọc lần nữa dự thảo bản tuyên bố trước Bộ chính trị. Đó là văn bản đã hiệu đính của tài liệu mà tôi đã cùng các cộng tác viên của mình viết nháp đêm 2/10 trên chuyến bay từ Bắc Kinh trở về. Tôi đẩy nó sang Schabowski ngồi kế bên. Ông đọc. Khi đọc xong, ông lẩm bẩm: “Được lắm. Nếu anh muốn, tôi có thể chỉnh một chút về nội dung và văn phong.” Tôi chấp thuận. Lúc Mielke toan bế mạc, tôi ngắt lời ông: “Tôi đã thảo một bản tuyên bố. Tôi sẽ đề nghị Tổng bí thư đem nó ra bàn trong Bộ chính trị hôm thứ Ba và muốn thảo luận cùng các đồng chí về việc này. Ai muốn ở lại thì ở lại.” Tất cả ở lại. Khi tôi đọc xong sáu trang, họ vỗ tay hưởng ứng. Tôi củng cố bản tuyên bố bằng những lời sau: “Bạo lực không đem lại gì cả.” Những người có mặt đồng tình. Đây là một giây phút quan trọng đối với tôi. Tôi đã thống nhất được với các cấp tướng chỉ huy rằng những xung đột sắp tới chỉ được dàn xếp bằng chính trị. Từ phút này trở đi sẽ không diễn ra đụng độ bạo lực nào nữa. Lập tức Rudi Mittig thông báo ngay cho các lãnh đạo tỉnh của Bộ an ninh quốc gia là các lực lượng an ninh giữ thế thủ tại mọi cuộc biểu tình chính trị. Chỉ có thể áp dụng vũ lực khi các lực lượng an ninh bị tấn công. Herger và tôi biết là chúng tôi đã vượt quá quyền hạn của mình. Chúng tôi không phải là những người có quyền ra lệnh, mà cũng chẳng được phép của Tổng bí thư. Tôi cùng Erich Mielke vào phòng làm việc của ông lúc gần 11 giờ. Qua điện thoại CT tôi gọi cho Honecker và gặp ông tại nhà riêng. “Erich”, tôi gọi, “tôi đề nghị anh gửi gấp công điện đến các lãnh đạo tỉnh. Đảng phải được vào cuộc ngay.” Honecker hỏi: “Trong đó nên viết gì?” Tôi đọc cho ông nghe dự thảo do Herger viết. Honecker đồng ý. Nhưng ông muốn sửa đổi vài chỗ. Bên cạnh chữ “biểu tình” ông viết thêm “phá
rối.” Tôi phản đối, vì theo tôi phá rối không phải là biểu tình, nhưng không được ông chấp thuận. Tôi sợ giờ đây người ta xếp chung chung biểu tình chính trị vào mục phá rối. Honecker muốn cúp máy. Tôi còn kịp nói vớt: “Tôi đã thảo ra một đề xuất nghị quyết cho cuộc họp Bộ chính trị vào thứ Ba. Do đây là các vấn đề về nguyên tắc chính sách của chúng ta nên tôi muốn anh đọc trước và đưa vào chương trình nghị sự.” Ông đáp cụt lủn: “Gửi qua đây cho tôi.” Tôi đến Trung ương đảng. Không khí ngày Chủ nhật, chỉ vài phòng ban có người. Tôi phái sĩ quan an ninh của mình đến thẳng Wandlitz để trao cho tổng bí thư bản dự thảo. Đường đi mất chừng 50 phút. Viên sĩ quan an ninh chưa quay về đến nơi thì Honecker đã gọi điện cho tôi. Giọng ông sẵng: “Tuyên bố của anh là vớ vẩn, nó chỉnh lại chính sách đã được thử thách của chúng ta. Anh còn công kích cá nhân tôi nữa. Tôi bất ngờ nhất chuyện đó ở anh. Tôi sẽ không đưa trò này vào chương trình nghị sự.” Tôi đáp lại: “Erich, tôi không chống lại anh. Với tôi, đây là sự nghiệp của chúng ta.” Honecker: “Những gì anh viết ra là một tuyên bố đầu hàng. Không thể nào cho vào chương trình nghị sự được.” Và không để tôi nói thêm một lời, ông sẵng giọng: “Sáng mai anh đến đây.” Tôi đặt máy. Ảo mộng tan tành, nhưng tôi không chịu đầu hàng. Cuộc tranh luận rất cấp thiết này phải được diễn ra tại Bộ chính trị. Trước đây mấy phút tôi còn nuôi hy vọng vận động được Honecker làm theo. Bây giờ thì ông đã chủ động cắt cầu nối giữa hai người. Tôi nhớ đến một quy luật đã nghe được trong một bài giảng sư phạm trước đây mấy năm: “Muốn biết gì ở một người, sẽ chỉ biết được sau khi bác lời họ.” Giờ đây giới tuyến đã rõ rệt trong mắt tôi. Tôi vẫn còn có thể lùi bước, nhưng sẽ phải trả giá nào? Chúng ta không còn thời gian để mất nữa. Tôi gọi điện cho Lorenz ở Karl-Marx-Stadt, cho ông biết là Honecker bác bỏ bản tuyên bố của chúng tôi. Ông động viên tôi đừng khoan nhượng. Tôi tìm đến Schabowski lúc này cũng đã tới văn phòng. Tôi thuật lại cho ông hay cuộc điện đàm với Honecker. Lần đầu tiên hai chúng tôi thực sự nói chuyện không úp mở với nhau. Sau đó Schabowski, Herger và tôi rà lại từng chữ trong bản dự thảo một lần nữa. Chúng tôi không hề nhận ra chủ tâm đầu hàng nào cả. Thậm chí so với tình hình hiện tại trong nước thì bản tuyên bố này còn khá nhẹ nhàng và kém hoàn chỉnh. Chúng tôi nhất trí: không làm gì hơn được, nếu không muốn làm tổn hại đến cuộc thảo luận trong Bộ chính trị. Chúng tôi cho rằng đa số sẽ không từ chối thảo luận. Nhưng họ sẽ xử sự ra sao khi vấp phải trở lực mãnh liệt của Honecker? Cho đến nay thì đúng là chưa ai dám qua mặt ông cả. Tôi gọi điện cho Stoph và Tisch, thông báo về thái độ phủ quyết của Tổng bí thư. Họ động viên tôi. Cả hai đều có lập trường “không rút lui.” Đối với tôi mọi việc đã rõ. Tôi sẽ trình Bộ chính trị bản tuyên bố này, kể cả khi trái ý Honecker. Tôi đọc cho thư ký viết lên bìa bản tuyên bố: “Tôi khuyến nghị xét đến đề nghị sau đây của tôi trong cuộc họp được ấn định vào thứ Ba. Egon Krenz.” Buổi chiều tôi xem thư từ đọng lại trong thời gian tôi ở Trung Quốc. Tôi thấy có một lá thư của Hans Modrow gửi Erich Honecker. Modrow sang thăm đảng SPD ở Baden-Würtemberg từ 25 đến 28/9. Tôi quan tâm đến báo cáo của ông vì một lý do nhất định: Horst Sindermann và tôi đã chuẩn bị đón một đoàn đại biểu khối SPD trong nghị viện Đức sang thăm Quốc hội CHDC Đức, và trước đó mấy hôm đọc báo thấy chuyến thăm đã bị cắt. Giờ đây từ nguồn tin trực tiếp tôi muốn biết SPD tiếp nhận sự kiện đó ra sao. Hans Modrow báo cáo với Tổng bí thư: “Trong lần gặp gỡ đầu tiên, ông Eppler đã hiện diện để thông báo, việc SPD sang thăm SED là dấu hiệu muốn duy trì đối thoại. Tôi trả lời, SED không phải là bên đã thay đổi chính sách của mình. SPD chịu trách nhiệm về việc chuyến thăm bị cắt. Văn hóa đối thoại đã được thống nhất không chấp nhận việc vận động bầu cử làm tổn hại đến CHDC Đức.” Vì muốn biết chi tiết những gì đã xảy ra, tôi gọi xuống Dresden cho Modrow. Ông kể các phương tiện truyền thông CHLB Đức xâu xé ông và không tường thuật lại chính xác ra sao. Thư gửi Honecker thuật lại những gì ông thực sự trải nghiệm và phát ngôn. Ngoài ra không có gì để nói thêm. Tôi tận dụng cơ hội này để đưa Hans Modrow vào cuộc. Tôi báo cho ông biết kế hoạch của mình chuẩn bị trình Bộ chính trị một bản tuyên bố về tình hình chính trị ở CHDC Đức, ngược ý Honecker. Tôi trích vài điểm trong văn bản: xuất cảnh, truyền thông công khai, dân chủ XHCN, đối thoại với mọi lực lượng chính trị, cung cấp và du lịch. Modrow là bí thư tỉnh ủy duy nhất ngoài Bộ chính trị được tôi thông tin về nội dung mà tôi muốn phải đem ra bàn luận trong Bộ chính trị vào thứ Ba. Tôi hy vọng ông sẽ muốn cộng tác. Trái với mong đợi, ông kiệm lời và trầm lặng. Cả Wolfgang Herger lúc đó cũng có mặt tại phòng làm việc của tôi lẫn tôi đều ngạc nhiên về sự xa cách ấy. Cũng có thể Modrow có ý tưởng khác, dù thế nào thì ông cũng không cho tôi biết. Một số ủy viên trung ương đảng trong địa hạt thanh niên đã phát động. Trong một lá thư cùng viết hôm 6/10 gửi Honecker, Hartmut König và Jochen Willerding đòi triệu tập đại hội Ban chấp hành trung ương đảng trong vòng hai tuần tới. Eberhard Aurich, Wilfried Possner và Gerd Schulz trao cho tôi bản phân tích của FDJ về tâm trạng trong giới thanh niên. Chúng tôi thống nhất, họ sẽ gửi tài liệu đó đến Honecker vào ngày mai. Thực ra ai cũng cảm nhận được là phải hành động khẩn cấp. Phải phá vỡ sự im lặng đáng sợ của Bộ chính trị. Đơn giản là nhiều ủy viên Trung ương đảng đã ngán phải đợi một lời từ miệng các ủy viên Bộ chính trị chúng tôi về cao trào đầy kịch tính của các xung đột nội chính cũng như làn sóng xuất cảnh dồn dập từ đó sinh ra. Họ cảm thấy bị Bộ chính trị bỏ rơi, thấy Bộ chính trị dạo này không hoạt động mà cũng chẳng thèm phản ứng. Tựa như chúng tôi bị thôi miên. Đòi hỏi triệu tập họp Trung ương đảng và dự thảo của tôi cho bản tuyên bố của Bộ chính trị bổ sung nhau. Nếu muốn giành lại thế tiên phong chính trị thì phải tổ chức được một buổi thảo luận toàn diện về con đường tương lai của SED trong phiên họp toàn thể. Tôi hoàn toàn nhất trí với Honecker: chúng ta không thể rập khuôn chính sách của Gorbachev. Lại càng không thể, khi không hề thấy các thành công mang tính quyết định của Perestroika ở Liên Xô. Nhưng câu “chúng ta không muốn rập khuôn những gì Liên Xô làm” không được phép dùng để rào cản các chuyển biến cần thiết ở CHDC Đức. Một đất nước cưỡng lại những cải cách khách quan cần thiết sẽ không có tương lai. Honecker đã cho ra nghị quyết tổ chức sớm Đại hội đảng XII từ năm 1991 lên năm 1990. Nấp sau nghị quyết đó không chỉ là chủ ý muốn được bầu tiếp một nhiệm kỳ năm năm nữa. Theo lời ông, ông muốn qua đó tránh cho “chúng ta phải chú trọng những trò ngớ ngẩn trong Đại hội Đảng cộng sản Liên Xô sắp tới.” Một thời gian dài tôi không thấy lựa chọn nào khác ngoài chính sách của Honecker. Trong cộng đồng XHCN, CHDC Đức là nước có mức sống cao nhất và chính thực tế đó đã che mắt tôi, không cho tôi thấy những biến chuyển ngay ở nước mình là cần thiết. Tôi cũng đánh giá quá nhẹ vấn đề thế hệ. Xưa nay lập trường của tôi là trong chủ nghĩa xã hội không có xung đột giữa các thế hệ. Bây giờ đã lộ ra rằng ở CHDC Đức – cả trên tầng lãnh đạo cho đến tầng trung và tầng cơ sở – chúng ta đã lỡ mất thời cơ kịp thời thay đổi thế hệ. Tôi là đảng viên SED đã 36 năm và đã trải qua nhiều thăng trầm trong đảng. Chưa khi nào trước đây tôi được chứng kiến không khí từ đảng bộ cơ sở cho đến Ban chấp hành trung ương chống Bộ chính trị mạnh mẽ như trong những ngày này. Chúng ta không được phép thất bại vì thủ cựu và bất lực không thể chuyển hướng theo chiều khách quan cần thiết. Với suy nghĩ ấy, tôi chuẩn bị cuộc nói chuyện ngày mai với Erich Honecker. 9/10 Tôi đến tòa nhà Trung ương đảng lúc 7 giờ, trên tầng Bộ chính trị tôi là người duy nhất có mặt. Tôi lướt qua báo mới. Tờ JUNGE WELT của Đoàn thanh niên khác biệt hẳn: không có ảnh Henecker trên trang nhất. Thay vào đó là hình thanh niên nét mặt trầm tư và hàng chữ lớn: “Hướng tới tương lai.” Rất hợp với cuộc chuyện trò sắp tới với Honecker. Còn nữa: tờ báo in thư ngỏ của Hermann Kant, chủ tịch Hội nhà văn CHDC Đức. Mấy dòng cuối thư khiến tôi
phải suy nghĩ: “Trước đây mấy tuần các bạn cũng tổ chức một cuộc trưng cầu ý kiến. […] Người được hỏi cần cho biết bằng một câu, cảm nhận cái gì là cái tốt nhất của CHDC Đức. Tôi vẫn nhớ rõ câu trả lời của mình về cái tốt nhất của CHDC Đức, cũng vì tôi nói nó ra trong một câu không hẳn chuẩn xác nhưng khó có thể ngắn hơn: ‘là CHDC Đức tồn tại’, tôi đã nói thế. Hôm nay nếu được hỏi cái gì là cái tệ nhất của CHDC Đức thì có lẽ tôi buộc phải nói rằng: là CHDC Đức tồn tại ở dạng hôm nay.” Lá thư khiến tôi lặng người. Tôi nhớ một số đồng chí ở Bộ chính trị đã gọi Kant là “chọc gậy bánh xe” – họ không ưa phản biện tích cực của ông. Năm 1986 tôi đề nghị bầu ông vào Trung ương đảng thì Mittag phản đối. Tôi chỉ có thể thành công vì trong Trung ương đảng đã có ba nhà văn là Gerhard Holtz-Baumert, Günter Görlich và Helmut Sakowski. Riêng lý do đó đã là sự hạ nhục đối với chủ tịch Kant nếu ông không được vào danh sách dự khuyết. Kỳ thực sau đó tôi phải hối hận cho đề nghị của mình mới phải, vì các phương tiện truyền thông CHLB Đức và một số đồng nghiệp cầm bút sau khi thấy ông trong Trung ương đảng đã lu loa rằng ông lãng quên lợi ích của đồng nghiệp khi ngồi cùng bàn với những người có thế lực. Thực tế thì trái lại và khẳng định đề nghị của tôi ngày ấy là đúng: Kant đấu tranh cho các nhà văn, kể cả khi họ không ở trong Hội nhà văn. Ông làm việc đó nhưng ít khi kể ra. Mỗi lần can thiệp ở chỗ Honecker, Hager hay tôi, ông không làm như các đồng nghiệp khác là thông báo cho truyền thông phương Tây trước tiên. Đối với nền văn học Đức, tác giả của “Aula” có nhiều công lao hơn hầu hết những người phê phán ông. Thư ngỏ của ông khiến một số đồng chí trong Bộ chính trị lúng túng. Những người nói chuyện với tôi thì cho là tôi nấp đằng sau việc cho in thư đó. Tôi cứ lẳng lặng để họ tin, mặc dù trước đó FDJ không hỏi ý kiến tôi. Qua đó tôi góp phần giúp JUNGE WELT tránh bị Honecker phê phán. Có chuông điện thoại. Tôi nhấc máy. Tổng bí thư yêu cầu tôi với giọng nhẹ nhàng, gần như dè dặt: “Egn, nếu được thì anh qua chỗ tôi nhé.” Giọng khác hẳn trong điện thoại hôm qua. Có gì thay đổi vậy? Honecker đã nghĩ lại? Bước vào phòng làm việc của ông, tôi thấy ông ngồi sau bàn. Ông gọi cà phê và mời tôi ngồi trước bàn. Ông thuyết phục tôi rút lại bản dự thảo tuyên bố của Bộ chính trị. Tôi trả lời ông: “Nếu tôi làm thế, tôi không chỉ mất sự tự trọng. Tình hình trong nước đã đòi hỏi hành động chính trị từ lâu. Và để làm việc đó thì cần có lập trường của Bộ chính trị. Bản dự thảo của tôi có thể chưa hoàn hảo, nhưng nó là lời mời tranh luận. Chừng nào không có đề đạt khác tốt hơn thì tôi sẽ không rút lại.” Honecker nhận ra tôi sẽ không thay đổi ý kiến nữa. Ông đổi chiến thuật. Ông trách tôi đem sự thống nhất trong đảng ra đánh bạc; hậu quả sẽ rất tệ hại. Tôi đáp: “Không phải tôi đem sự thống nhất trong đảng ra đánh bạc, mà bản thân chính sách của ta hiện nay đang làm cho ngày càng nhiều đảng viên quay lưng lại với chúng ta.” Honecker cảm thấy bị tôi bỏ rơi. Ông gây ấn tượng với tôi như một người cha vừa bị con trai mình ruồng rẫy và do đó cắt quyền thừa kế của nó. Ông đả lại luận cứ của tôi: “Rồi anh sẽ thấy, tôi không thể nâng đỡ anh nữa khi anh xử sự như thế. Không sớm thì muộn Trung ương đảng ra quyết định về nhân sự, lúc đó tôi sẽ không đề cử anh vào một vị trí có trách nhiệm nữa. Ngoài ra, đồng chí Krenz, nên nhớ rằng”, người thầy chính trị lâu năm của tôi nói, “ngày xưa tôi không bao giờ lên tiếng chống lại Wilhelm Pieck hoặc Walter Ulbrich như anh đang lên tiếng chống tôi.” Tất nhiên tôi nhận ra Honecker đang thân mật gọi tôi là “Egon” nay chuyển sang hình thức “đồng chí Krenz”. Tiếc thay, trong thời điểm quyết định vận mệnh của CHDC Đức này, ông đã thu hẹp sáng kiến của tôi thành quan hệ cá nhân giữa hai người. Tôi đáp, giờ đây cũng với giọng hình thức: “Đồng chí tổng bí thư, tôi chỉ nghĩ đến CHDC Đức mà thôi. Điều đó không nhất thiết phải ảnh hưởng đến quan hệ của tôi với đồng chí.” “Hãy làm việc gì mà anh không đừng được. Tôi không đồng ý với bản tuyên bố và sẽ không đưa vào chương trình nghị sự.” Honecker đứng dậy tiễn tôi ra cửa. Tôi cố nén xúc cảm của mình. Trông thâm tâm, tôi bị sốc. Tôi đến chỗ chánh văn phòng Bộ chính trị Edwin Schwertner. Ông phụ trách tổ chức công việc của Bộ chính trị và Ban bí thư. “Đây là bản thảo trình Bộ chính trị”, tôi nói, “do tôi ký. Đồng chí Honecker không đồng ý đem ra thảo luận. Tuy vậy tôi vẫn đề nghị anh chuyển đến tất cả các ủy viên thường vụ và dự khuyết của Bộ chính trị.” Schwertner chứng tỏ dũng khí công dân. Mặc dù Honecker là thủ trưởng trực tiếp, ông vẫn phân phát bản thảo. Giờ thì Bộ chính trị phải quyết định số phận bản tuyên bố này. Lúc quay về văn phòng, tôi gặp giáo sư Friedrich, giám đốc Viện nghiên cứu thanh niên CHDC Đức, ngồi đợi ở phòng ngoài. Hồi mùa hè ông đã tiên đoán với tôi một thời điểm khốn khó. Sáng nay ông từ Leipzig đến thẳng đây. Không chào hỏi hình thức, ông xúc động tiến ngay đến trước mặt tôi và nói giọng run run: “Egon, tối nay ở Leipzig không được phép đổ máu.” Tôi sửng sốt nhìn ông. Có chuyện gì vậy? Không ai cho tôi biết là cuộc biểu tình vào các thứ Hai ở Leipzig sẽ bị chấm dứt bằng vũ lực. Hôm qua chúng tôi đã thống nhất với tất cả những người có trách nhiệm ở các lực lượng vũ trang. Friedrich thuật lại cho tôi nghe về không khí lo sợ ở thành phố. Cảnh sát và nhóm vũ trang ở các xí nghiệp đang ở tình trạng báo động. Nói chung ai cũng thấy sợ hôm nay có thể nổ súng để chặn biểu tình vào các thứ Hai của dân Leipzig . Tôi nhấc điện thoại nối trực tiếp trong tòa nhà với Herger. Tôi cho ông biết những gì Friedrich vừa báo cáo. Herger trấn an tôi. Mọi việc sẽ diễn ra như đã thống nhất hôm qua. Các cơ quan an ninh sẽ không triển khai vũ lực nếu lực lượng an ninh không bị đe dọa tính mạng. Ông luôn nối liên lạc với Bộ trưởng Nội vụ và đã kịp thời cử thêm hai cộng tác viên trong phòng mình đến Leipzig. Họ sẽ quan sát tình hình tại hiện trường và báo cáo khẩn cấp về các diễn biến thời sự. Nói điện thoại xong, tôi nói với Friedrich: “Walter, hãy bình tĩnh, sẽ không có đổ máu đâu. Nhà nước đã chuẩn bị mọi phương án để ngăn ngừa bạo lực. Anh biết tôi mà. Anh biết là có thể tin lời tôi.” Friedrich nhẹ người. Không nói thêm câu nào, ông đẩy cho tôi một xấp 18 trang giấy mà ông đã viết trong đêm sinh nhật thứ 40 của CHDC Đức. Tôi đọc ngay trước mặt ông: “Tôi đến với anh từ tình cảm lo lắng sâu sắc cho hiện tại và tương lai của xã hội XHCN chúng ta. […] Hiện nay có vẻ như cách đánh giá tình hình thực tế và đúng đắn có ý nghĩa cực kỳ hệ trọng cho thắng thua của xã hội chúng ta, nó có nhiệm vụ – có lẽ như chưa từng có từ sau năm 1953 – thực sự quyết định số phận. Kinh nghiệm cho thấy chúng ta thường ngả về việc đánh giá thực tế từ khán đài và bàn chủ tịch […] Hôm nay, coi không khí hội hè và ấn tượng ngày lễ giống như tâm trạng thường nhật của dân chúng là một điều nguy hiểm. […] Khoảng cách giữa những sự kiện hội hè ấy và thực tế cực kỳ lớn. […] Dự đoán chừng 90 phần trăm người dân CHDC Đức không quan tâm đến các cuộc hội hè ở Berlin. Họ không theo dõi chương trinh truyền hình hoặc chỉ ngó thoáng qua (chủ yếu để thấy mặt Gorbachev). Ngay chính bài diễn văn của đồng chí Honecker cũng bị các đồng chí trung kiên coi là ‘chẳng nói lên điều gì’, ‘thất vọng’, ‘đi chệch các vấn đề của thực tại’ và ‘bài nói chuyện của một ông già.’ Tôi không nghi ngờ rằng những ngày vừa qua đã gia tăng ác cảm rất nhiều người đối với chính sách và các nhà lãnh đạo của chúng ta. […] Với thái độ im lặng, khinh mạn các vấn đề, cũng như giải thích nguyên nhân phiến diện – và vì thế mà sai lạc – chúng ta đã phạm những sai lầm cơ bản và khó tin nổi, khiến tôi chỉ có thể đánh giá cách thông tin và tuyên truyền của chúng ta là ‘có hại cho chế độ’ mà thôi.” Friedrich không phải người ưa gây không khí thất thiệt. Về chính trị, ông là người trung kiên với CHDC Đức. Ông là đảng viên. Tôi coi trọng từng câu ông viết ra. Sau khi ngồi đối diện với ông đọc từng trang, tôi nói: “Cảm ơn Walter, bài viết của anh đã trao đúng người. Tôi sẽ chú trọng các khuyến cáo của anh.” “Tôi muốn
nói thêm với anh một điều này nữa, chỉ riêng anh thôi”, ông đáp. Ông lưỡng lự nhìn lên ngọn đèn trên trần nhà. Có lẽ ông sợ chúng tôi bị nghe lén. Tôi nói: “Không ai nghe lén tôi cả. Không có chuyện ấy. Ở đây anh có thể nói những gì chứa chất trong lòng, đừng ngại.” Ông vẫn ngờ vực. Ông đẩy sang tôi mấy mẩu giấy vẫn giữ kín từ nãy. Trên đó viết: “Theo ý tôi đồng chí Honecker nên thoái vị sớm. Tôi tin chắc rằng không chỉ 50, mà khoảng 90 phần trăm các đảng viên sẽ chào đón việc này. Đồng chí Honecker đã đánh mất uy tín ngày xưa của mình trước nhân dân.” Tôi hỏi lại: “Và theo anh, ai sẽ làm việc ấy?” Ông trả lời: “Anh.” “Ngày mai chúng tôi sẽ có một cuộc tranh luận về nội dung ở Bộ chính trị. Phải đợi xem sẽ có hậu quả về nhân sự hay không. Không chỉ phụ thuộc vào tôi. Dù thế nào thì anh vẫn có thể nói với mọi người ở Leipzig: từ phía chúng ta sẽ không có vũ lực! Nếu các lực lượng an ninh không bị tấn công thì họ sẽ thủ thế. Tôi hứa với anh một lần nữa.” Walter Friedrich đi khỏi với vẻ trầm tư. Ông khẩn trương quay về Leipzig. Tôi gọi điện đến Rudi Mittig, cho ông biết những gì vị giáo sư Leipzig vừa báo cáo. Mittig nói: “Anh không phải lo. Ở Leipzig chúng ta có một lãnh đạo hành chính tỉnh đầy kinh nghiệm là tướng Hummitzsch. Ông đã bảo đảm là phía chúng ta không ai sử dụng vũ lực.” Herger và tôi ngồi ở văn phòng tôi nói chuyện về phiên họp ngày mai của Bộ chính trị. Trong lúc đó Honecker tiếp quan khách nước ngoài. Tôi bảo sĩ quan an ninh của tôi đứng gần phòng họp của Honekcer và báo ngay cho tôi biết khi nào các quan khách rời phòng, vì tôi phải là người đầu tiên thông báo cho ông biết tình hình. Honecker là tổng bí thư đảng SED và tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang CHDC Đức. Không ai được phép thông tin sai cho ông. Phải bảo đảm được sự thống nhất trong hành động, bằng không sẽ gây nguy hiểm trong hoàn cảnh này. Thêm vào đó, Honecker cũng đồng thời được tôi thông báo lần nữa về quyết định của tôi trong cuộc họp ngày mai của Bộ chính trị. Tôi không muốn ông có cớ để nói trước Bộ chính trị là tôi trình bản thảo sau lưng ông. Tôi đọc cho chép một lá thư ngắn cho Honecker để thông báo rằng tôi đã suy nghĩ kỹ mọi luận cứ một lần nữa và không thể tìm thấy trong bản dự thảo tuyên bố của Bộ chính trị một chữ duy nhất nào đi ngược đường lối của đảng. Cùng thời gian đó ở Leipzig, nhạc trưởng Kurt Masur của nhà hát Gewandhaus, tiến sĩ thần học Peter Zimmermann, diễn viên cabaret Bernd-Lutz Lange cùng các bí thư tỉnh ủy SED Ts Kurt Meier, Jochen Pommert và Ts Roland Wötzel đã ra lời kêu gọi gửi đến người biểu tình: “Nỗi lo chung và tinh thần trách nhiệm chung hôm nay đã đưa chúng tôi xích lại gần nhau. Chúng tôi suy tư về các tiến triển trong thành phố và tìm một giải pháp. Tất cả chúng ta nên tự do trao đổi ý kiến về sự phát triển tiếp của chủ nghĩa xã hội trong nước. Vì vậy những người có tên nêu trên hứa với mọi công dân sẽ dùng toàn bộ sức lực và uy tín của mình để cuộc đối thoại này không chỉ diễn ra trong tỉnh Leipzig, mà cả với chính phủ. Chúng tôi khẩn thiết khuyến cáo mọi người hãy cẩn trọng để không ảnh hưởng đến cuộc đối thoại hòa bình.” Lời kêu gọi này được truyền trên sóng phát thanh thành phố lúc 16 giờ. Khoảng 70.000 đến 80.000 người tụ họp ở Leipzig. Có một số cuộc cầu nguyện hòa bình. Tại các nhà thờ khác ở Berlin, Dresden, Halle và các thành phố khác cũng có những buổi gặp gỡ tương tự như Leipzig. Các tổ chức có liên hệ chéo với nhau. Tất cả chờ xem ở Leipzig sẽ có gì xảy ra. Một tia lửa có thể gây ra đám cháy diện rộng. Đối với Herger và tôi lại lần nữa là cớ để thay nhau gọi điện cho Bộ trưởng Nội vụ Dickel, Bộ trưởng An ninh Quốc gia Mielke và đại diện cho Bộ trưởng Quốc phòng là Streletz. Họ nói: lệnh đã ban hành rõ. Các lực lượng an ninh không ra tay, trừ phi họ bị tấn công. Gần 21 giờ thì có thông báo là đoàn biểu tình đã giải tán, không sử dụng xe vòi rồng và dùi cui, không có rối loạn mang tính bạo lực, những người từ tỉnh khác đến tham gia biểu tình đã quay về bằng tàu hỏa và xe buýt. Ngày 9/10 ở Leipzig trôi qua bình an. Nhiều lý do: lời kêu gọi của nhóm “Sáu” và của nhà thờ: “Đừng nhặt đá lên ném!”, truyền đơn của Diễn đàn mới và ý chí hòa bình của người tham gia biểu tình. Phần đóng góp quyết định đến từ các cảnh sát nhân dân, nhân viên Bộ an ninh quốc gia và lính của Quân đội nhân dân CHDC Đức. Lệnh cấm vũ lực đến từ Berlin. Giả sử có “lệnh bắn” thì ngày 9/10 đã diễn ra khắc hẳn. May mắn thay, tình trạng phi bạo lực có nhiều chủ thể: người biểu tình, đảng viên SED và lực lượng đối lập, các phong trào chính trị mới ra đời và chính quyền CHDC Đức. Tối hôm ấy Herger và tôi thở phào nhẹ nhõm. CHDC Đức đã tránh được một cuộc đụng độ bạo lực. Thiết nghĩ nên ghi lại một sự thật lịch sử cho ngày 9/10/1989 ấy: duy nhất nhà nước nắm quyền lực. Nhà nước có quyền sử dụng vũ lực. Nhà nước đã không sử dụng quyền đó. Đã sắp hết ngày. Trên đường về nhà lúc nửa đêm, đầu óc tôi ngổn ngang bao suy nghĩ. Phải chăng hôm nay vừa bắt đầu một cuộc phản cách mạng như một số người nghĩ? Tôi đánh giá các sự kiện theo hướng khác. Chứng kiến sự bất bình rộng rãi trong quần chúng, trước tiên người ta phải hỏi đến nguyên nhân. Kể cả việc nhiều đảng viên SED rời hàng ngũ đảng vì thất vọng với “đội cận vệ già” cũng không phải lý do để nói đến chữ phản cách mạng. Khi người dân xuống đường đòi đổi mới, tôi thấy không được phép đổ hết tội lỗi cho đối thủ chính trị. Nhân dân mình là kẻ thù? Đó không phải quan điểm của tôi. Có lẽ đây chính là sự khác biệt giữa tôi và Honecker. Hồi giữa tháng Tám, khi tôi trình báo cáo về tâm trạng dân chúng thì ông nói, có thể lèo lái nhân dân được. Cũng có thể, kinh nghiệm hoạt động chính trị đã dạy ông rằng các kẻ mị dân có thể quyến rũ một phần dân chúng. Nhưng trong khoảnh khắc này tôi chỉ để tâm đến câu hỏi, làm gì để kéo lại người dân về phía mình. Chẳng phải chúng ta vẫn tin tưởng rằng mình là nước Đức ưu việt hơn hay sao. Tôi nhớ lại một sự kiện tương tự từ năm 1953. Ngày đó nhà thơ Kuba sau sự kiện 17/6 đã viết trong một tờ truyền đơn: qua hành vi của mình nhân dân đã nhẹ dạ đánh mất lòng tin của chính phủ. Brecht liền đáp lại: “Vậy thì chính phủ giải tán nhân dân và bầu lên một nhân dân mới có đơn giản hơn không?” Hôm nay cộng tác viên của tôi kể một giai thoại 200 năm tuổi. Sau khi ngục Bastille bị tấn công, quan đổng lý của vua Louis XVI vội đến Versailles để tâu vua về các biến cố ở Paris. Nghe vua nói, đây là cuộc nổi loạn khủng khiếp, quan đổng lý nói: “Không, thưa bệ hạ, đó là một cuộc cách mạng.” Chắc chắn câu chuyện về cuộc Cách mạng Pháp này định nhắc nhở tôi hãy định nghĩa phong trào nhân dân chống lại chính sách của chúng ta là một cuộc cách mạng. Tôi không thể nhận định các sự kiện ấy là một cuộc cách mạng. Đúng thế: chúng ta không còn khả năng thực thi chính quyền theo cách ngày xưa, còn về phần mình nhân dân cũng không sẵn sàng muốn sống như ngày xưa. Theo Lenin, đó là một tiêu chí của tình thế cách mạng. Nhưng, làm cách mạng chống lại chủ nghĩa xã hội ở CHDC Đức? Không, tôi không thể tưởng tượng ra được. Dĩ nhiên tôi cảm nhận được một trò chơi với lửa đang diễn ra, và cũng nhận ra cải cách CHDC Đức từ đầu đến chân là cần thiết, nhưng trong suy nghĩ của tôi không có chỗ cho các cải cách làm tan rã chủ nghĩa xã hội. Tôi đã thu nhập quan điểm của Gorbachev về Perestroika là “cách mạng trong lòng cách mạng.” Quan điểm ấy đưa đến cho các nỗ lực cải cách của chúng ta một viễn cảnh XHCN, nó phải đem nhiều tự do hơn vào chính trị và nhiều hiệu quả hơn vào kinh tế. Chúng ta không được phép đem thành quả của nhiều thế hệ trong hàng thập kỷ ra đánh bạc. 10 và 11/10 Cuộc họp Bộ chính trị đầu tiên sau quốc khánh CHDC Đức thứ 40 bắt đầu vào lúc 10 giờ ngày 10/10. Không khí mang màu háo hức chờ đợi cho đến hồi hộp. Sau khi hôm qua hạ quyết tâm trình bản thảo, ngay cả khi không được Honecker đồng ý, tôi thấy trong người thanh thản hơn. Tuy nhiên tôi căng thẳng. Nào phải đây là một tuyên bố thường tình của Bộ chính trị. Hôm nay phải ra một quyết định sống còn, liệu lãnh đạo đảng có đứng trước nhân dân với những đánh giá công khai và chân thực để vạch ra các nguyên nhân khủng hoảng và chỉ ra
lối thoát. Câu hỏi đặt ra là: những gì đang diễn ra trên đường phố CHDC Đức là cuộc phản cách mạng hay phong trào nhân dân? Đảng, nhà nước và các lực lượng vũ trang của nhà nước sẽ phản ứng ra sao – phụ thuộc nhiều vào câu trả lời. Giờ này vẫn chưa quyết định, liệu đề nghị của tôi có được thảo luận hay thậm chí đem ra quyết nghị. Nếu tuyên bố này được phê chuẩn, nó sẽ là một tín hiệu đầu tiên phát đến cơ sở, cho thấy lãnh đạo đảng đang suy nghĩ cải cách. Nếu bị từ chối, chúng ta duy trì tiếp tình trạng “im lặng.” Tình thế sẽ trở nên gay cấn hơn. Trong mắt Honecker tôi là phần tử “ly khai”, là “kẻ quỳ gối đầu hàng trước đối phương.” Còn nếu dẫn đến thỏa hiệp thì trong tương lai sẽ có hai đường lối, ít nhất là chừng nào Honecker còn làm tổng bí thư. Xét tình cảnh hiện tại, tuyên bố ấy còn chưa đủ quyết liệt. Tuy vậy, trong đó đã bỏ đi câu nói tai hại của Honecker – “không một giọt nước mắt” khóc với theo những người CHDC Đức bỏ nước ra đi. Bù lại là câu khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội cần từng người một. Chủ nghĩa xã hội có viễn cảnh cho tất cả. […] Chính vì thế chúng tôi không bàng quan khi có người sống và làm việc ở đây nhưng đã quay lưng lại với Cộng hòa dân chủ Đức. […] Hành động của họ có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau. Chúng tôi phải và sẽ tìm những nguyên nhân ấy cả ở trong chúng tôi.” Ngoài ra còn một việc chỉ có thể hiểu là lời phê phán tình trạng hiện tại, đó là phác họa mục đích của một nền chính trị hữu hiệu trong xã hội: nâng cao năng lực kinh tế và lợi ích cho từng người phù hợp với thành tích, chung sống dân chủ và hăng hái cộng tác, đầy đủ hàng hóa và lương bổng phù hợp thành tích, truyền thông sát thực tiễn cuộc sống, điều kiện du lịch và môi trường trong sạch. Về tất cả những đề tài nên trên, cần tổ chức đối thoại chính trị rộng rãi giữa mọi lực lượng xã hội . Các điểm trong chương trình này chỉ ra sự thay đổi hướng đi cần thiết. Bất cứ quyết định chính trị nào cũng cần đa số. Không thể đoán trước, liệu sau buổi họp này tôi có nhận được đa số hay không. Khi Honecker khai mạc buổi họp, tôi dự tính ông sẽ nói đến cuộc biểu tình ở Leipzig đầu tiên. Tối qua tôi đã báo cáo với ông chi tiết qua điện thoại. Khi tôi nhắc đến nhóm “Sáu” mà trong đó có ba bí thư tỉnh ủy SED, ông chỉ buông lời: “Bây giờ những kẻ đầu hàng đã ngồi trong ban lãnh đạo tỉnh rồi.” Thoạt tiên Honecker coi như chuyện Leipzig không hề xảy ra. Ông cũng không bắt đầu thảo luận về văn bản tôi trình. Trước hết ông giải thích cách nhận định tình hình của ông như sau: đối phương đã tăng cường công kích. Chương trình của chúng đã đăng tải trên tờ WELT AM SONNTAG ngày 8/10 mà những điểm chính cũng được Diễn đàn mới ủng hộ. Mặc dù vậy, trong bài diễn văn nhân quốc khánh thứ 40 ông vẫn ca ngợi sáng kiến lớn chuẩn bị Đại hội XII đảng SED. Bài này là cơ sở cho công tác thời kỳ tới của đảng và nhà nước. “Đa số trong đảng và giai cấp công nhân ủng hộ chính sách đã và đang đúng của chúng ta”, Honecker nói. Công lao của SED là đã kịp thời kiến tạo một cương lĩnh xã hội. Tình hình hiện tại khó khăn. Các tiến triển ở Liên Xô, Ba Lan và Hungary đã dội ảnh hưởng đến nước ta. Thêm vào đó là các động thái của nhà thờ Tin Lành và xu hướng công khai hóa hoạt động ấy ở Dresden, Leipzig và Berlin. “Bây giờ phản ứng thế nào?” Honecker hỏi. Ông đưa câu trả lời: “Tôi không ủng hộ bản tuyên bố của Egon Krenz trình lên. Tôi đã khuyên Egon Krenz đừng đưa nó ra, nhưng đồng chí ấy vẫn làm. Sau bản tuyên bố này đối phương sẽ mở cuộc tấn công thứ hai đánh chúng ta. Bây giờ tự phê không ích gì. Nhìn nhận tương lai mới là quyết định.” Honecker bảo lưu ý kiến rằng Europicknick đã gây ra một cuộc hoảng loạn tinh thần nghiêm trọng. “Chúng ta đã từng tin cậy vào Hungary. Không ai lường trước được sự phản bội. Ngay cả khi chỉnh sửa lại tuyên bố của Egon Krenz thì chúng ta cũng không đạt được gì rõ ràng.” Honecker đề nghị tổ chức bàn bạc với các bí thư tỉnh ủy thứ nhất và chủ tịch các đảng liên minh. Nhưng bàn chuyện gì? Tháng 11 Trung ương đảng sẽ họp. Ông sẽ thuyết trình về chuẩn bị Đại hội đảng XII. Ông đòi mỗi công dân phải có hộ chiếu và được phép đặt đơn xin thị thực . Tôi giật mình nhận ra Honecker vẫn tiếp tục sống ở một thế giới khác. Lấy bài diễn văn của ông ngày 6/10 làm diễn đàn cho công tác sắp tới của chúng ta? Ông muốn quy định vấn đề du lịch bằng hộ chiếu, nhưng hộ chiếu không phải là bảo đảm để công dân được du lịch. Ông không muốn phân tích một cách nghiêm khắc công tác của chúng ta. Ông bám chặt lấy khẩu hiệu đã có từ vài thập kỷ: “Không tranh luận về sai lầm.” Những người khác có lỗi khi gây ra tình thế của chúng ta: Gorbachev, người Ba Lan, người Hungary và CHLB Đức. Ông từ chối họp toàn thể Trung ương đảng. Ông muốn đợi đến tháng 11. Bản tuyên bố của tôi bị ông đánh đồng với lời động viên cho kẻ thù. Bây giờ không còn ai không nhận thấy: không thể dàn xếp mâu thuẫn giữa tổng bí thư và những người ủng hộ bản tuyên bố của tôi được nữa. Thái độ về lời phi lộ của Honecker đối nghịch nhau. Người phát biểu đầu tiên, Kurt Hager, đã phản bác đường lối của Tổng bí thư. Phải triệu tập họp Trung ương đảng ngay. “Chúng ta phải trả lời câu hỏi vì sao hàng chục nghìn người bỏ nước ra đi”, ông nói. Stoph ủng hộ bản tuyên bố. “Giữa những trải nghiệm thường nhật của mọi người và truyền thông của chúng ta có một cách biệt lớn”, ông nhận xét. Mức nợ của CHDC Đức không thể kham nổi nữa. Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng nói, phải khẩn trương triệu tập họp Trung ương đảng, sau đó họp khối SED trong Quốc hội, rồi tổ chức thảo luận công khai trong Quốc hội. Honecker cho tôi phát biểu. Tôi bảo vệ bản tuyên bố là khởi đầu của một chương trình toàn diện. Tôi đòi đối thoại chính trị ở mọi bình diện. Điều cấp thiết là không dùng lực lượng vũ trang, mà dùng đảng để lấy lại niềm tin. Cuộc tấn công trên diện rộng của đối phương từ CHLB Đức không được làm ta lãng quên rằng ở nước ta có nhiều vấn đề và tự ta có lỗi để sinh ra nhiều vấn đề. Bước sắp tới là phải đề ra cương lĩnh về lập trường đảng cho Trung ương đảng và đem tranh luận công khai. Các phương tiện truyền thông phải đăng ý kiến thuận và chống. Honecker ngắt lời tôi ở đây. Tựa như tôi cầm đầu một nhóm địch, ông thách thức tôi: “Đồng chí nói toạc ý mình ra đi. Tôi muốn biết ai nấp sau văn bản của FDJ?” Honecker chuyển sang tấn công. Trung ương đoàn FDJ hôm qua đã gửi ông bản đánh giá tình hình chính trị trong giới thanh niên. Cho đến giờ phút này không ai trong Bộ chính trị ngoài Honecker và tôi biết đến, mặc dù vậy Honecker dùng bản phân tích của FDJ làm vũ khí bút chiến đánh tôi. Ông trích đọc từ văn bản: “Trong hàng ngũ thanh niên có sự thuyên giảm tín nhiệm trầm trọng đối với lãnh đạo đảng và nhà nước, đối với các quyết định của họ và truyền thông đại chúng[…]” Lễ hội chào mừng quốc khách thứ 40 làm gia tăng sự ngờ vực, liệu những quan ngại của thanh niên có được lãnh đạo coi trọng. Và một câu nữa: “Mong đợi thay đổi chính sách và những cá nhân thực thi chính sách trong đảng và chính phủ.” Ngoài ra còn phàn nàn là thành viên ban lãnh đạo đảng “quá già và không đủ năng động.” Các quyết định của giới lãnh đạo không minh bạch. Có một “bức tranh tô hồng về thực tế.” Cho đến nay chưa ai liều mạng trình Bộ chính trị một tài liệu như thế. Honecker hỏi ai nấp sau văn bản đó là để tấn công trực diện tôi. Trong Bộ chính trị tôi là người phụ trách FDJ. Ông cay đắng thốt lên: “Lần đầu tiên trong lịch sử CHDC Đức có chuyện ban lãnh đạo FDJ công kích chính sách và ban lãnh đạo đảng.” Günter Mittag nói xen vào, hành vi của FDJ mang tính hàng phục. Một người khác góp tiếng: chỉ thấy thái độ hàng phục này vào ngày 17/6/1953. Có vẻ như Honecker thành công khi đánh lạc hướng chú ý khỏi bản tuyên bố về thay đổi đường lối một cách thận trọng. Ông chuyển hướng sang tấn công Trung ương đoàn FDJ. Để chấm dứt chuyện này và quay lại với tình hình toàn xã hội, tôi rút lại tài liệu của FDJ với lý do phải nói về chính sách thanh niên trong một dịp riêng. Honecker không dự tính bước này. Ông buộc phải quay lại thảo luận về bản tuyên bố. Ông cho phép Axen phát biểu. Axen, một trong những người thông minh và kinh nghiệm nhất trong lãnh đạo đảng, ủng hộ đường lối của Honecker. Ông hỏi, vì sao FDJ không tấn công kẻ địch bằng luận chiến
hài hước và sắc bén, thay vì dung túng những lời hô “Gorbi, Gorbi” trong cuộc rước đuốc. Tôi sợ cuộc tranh luận sẽ đến một bước ngoặt bất lợi. Nhưng đa số ủng hộ bản tuyên bố. Alfred Neumann lên tiếng. Ông bắt đầu: “Ai phạm sai lầm, người đó phải trả giá. Cuộc tranh luận hôm nay đi chệch luồng so với nhiều thập kỷ trước đây.” Ý ông muốn nói là, cho đến nay những vấn đề thực tiễn không được tranh luận thấu đáo trong Bộ chính trị. Trong lịch sử CHDC Đức không hiếm những cao trào gay cấn. “Đảng không được chuẩn bị cho tình thế hiện tại. Trách nhiệm ấy tất cả chúng ta phải gánh. Mặc cho những tin tức thắng lợi trong truyền thông và trong diễn văn của Mittag”, Neumann nhận định, “điểm yếu của chúng ta nằm trong kinh tế.” Neumann vạch rõ hơn: “Đồng chí Mittag không nói cho Bộ chính trị biết sự thật. Khoản nợ cao, trình độ sản xuất thấp. Tôi đề nghị bãi nhiệm Günter Mittag. Trong khi thay mặt Erich Honecker đồng chí Mittag chịu trách nhiệm chính cho tình trạng rắn không đầu này.” Tisch kể là nhiều công nhân rời bỏ công đoàn. Người ta không được phép chỉ đổ tội cho giới trí thức về tâm trạng chán nản, như Honecker vẫn tin. Cả trong giới công nhân cũng có nhiều bất bình. Đã đến lúc phải ra một bản tuyên bố. Mỗi lần có người lên tiếng, tôi lại nhìn sang Honecker. Lần đầu tiên ông đối mặt với cơn gió chướng trong Bộ chính trị. Khi đã thấm mệt lúc 18 giờ, ông đề nghị họp tiếp vào thứ Tư. Rõ ràng tới lúc này ông đã tin rằng không thể chặn được bản tuyên bố nữa. Tuy nhiên ông muốn làm nó dịu đi. Ông có chủ ý câu giờ. Ông đề nghị lập một ban biên tập để chỉnh sửa bản tuyên bố theo ý ông. Mittag, Herrmann và tôi phải làm xong việc đó đến sáng sớm mai. Dễ đoán chủ tâm của Honecker: ông muốn đưa tôi vào cuộc. Những người thân cận của ông sẽ thống nhất với tôi. Tôi đề nghị lấy thêm Schabowski vào ban. Khoảng 18 giờ 15 chúng tôi bắt tay vào việc trong văn phòng của Joachim Herrmann. Mittag rút trong túi ra một tờ giấy đã chuẩn bị sẵn. Đó là bản tóm tắt diễn văn của Honecker nhân quốc khánh thứ 40 CHDC Đức. Có lẽ Mittag và Herrmann cũng mường tượng được là chúng tôi sẽ không thống nhất được điểm này. Họ không đấu tranh cho Honecker nữa, tuy nhiên họ vẫn cố làm dịu dự án của tôi và cũng thành công ở vài cách đặt câu. Tất cả hướng tới một thỏa hiệp. Không ai có thể tiên đoán buổi họp Bộ chính trị hôm thứ Tư sẽ ra sao. Honecker sẽ làm gì khi biết yêu cầu của ông không được tuân thủ? Sau khi được biên tập lại, bản tuyên bố sẽ được đem ra thảo luận tiếp trong Bộ chính trị hôm thứ Tư. Mielke lên tiếng đầu tiên. Ông tổng kết, không khí trong nước cực kỳ tệ hại, cả trong các xí nghiệp. Diễn đàn mới giành được nhiều ảnh hưởng, nhất là trong giới trí thức làm khoa học kỹ thuật. Câu nói quan trọng của bộ trưởng an ninh quốc gia: “Đường lối phi bạo lực là đúng, tôi ủng hộ.” Tôi nhẹ người. Đó chính là quan điểm chúng tôi đã bàn hôm 8/10. Siegfried Lorenz vạch rõ là Honecker sai lầm trong đánh giá tình hình. “Các biến cố ở Liên Xô, Ba Lan và Hungary tuy có làm mọi người suy nghĩ, nhưng cuộc sống hằng ngày trong nước khiến họ quan tâm hơn nhiều. Bộ máy truyền thông của chúng ta liên tục làm người dân bực bội. Lời trách cứ tô hồng bức tranh CHDC Đức ngày càng chĩa thẳng vào chúng ta là giới lãnh đạo.” Hầu như tất cả những ai còn lên tiếng đều ủng hộ bản tuyên bố. Mittag không đả động một lời tới bản tuyên bố. Nhưng ông nhấn mạnh: “Đây là vấn đề quyền lực. Phải bảo đảm tính thống nhất trong lãnh đạo. Chúng ta đã hành động trong mấy tuần qua như một tập thể.” Ông chú trọng ngăn cản chuyện người nước ngoài mua hết hàng trong các cửa hiệu. Ý ông là, việc công dân CHDC Đức bỏ sang Tây Đức liên quan đến kinh tế đang phất bên đó cho phép tiếp nhận từ hai đến ba triệu rưỡi người nhập cư. Ông kêu gọi đưa ra một chương trình chiến lược trong giai đoạn chuẩn bị Đại hội đảng, nhưng không nói chương trình đó có nội dung gì. Herrmann cũng quy hoàn cảnh ở CHDC Đức về nguyên nhân Perestroika. Chủ ý của FDJ đã rõ. Tài liệu của họ hợp với tiếng hô “Gorbi, Gorbi.” Tờ JUNGE WELT đã vượt rào chính sách truyền thông của chúng ta. Việc đăng lá thư của Kant là minh chứng rõ rệt. Schürer quy tình hình kinh tế của chúng ta vào công thức: “Hoặc là trong năm 1990 chúng ta đạt được mức trội là hai tỉ Valutamark hay Quỹ tiền tệ quốc tế sẽ có quyết định.” Cuối buổi thảo luận Honecker cố hàn gắn những gì không thể hàn gắn được nữa. Tôi ngạc nhiên thấy ông nhận định là “mọi người nhất trí.” Chỉ riêng Alfred Neumann với yêu cầu bãi nhiệm Günter Mittag là đi quá đà. “Tôi ủng hộ đấu tranh chính trị, nhưng không nhượng bộ cho một cuộc phản cách mạng”, Honecker nói. Đòi hỏi chấm dứt tuyên truyền thắng lợi là sai. Ông không chấp nhận ý kiến là trên không biết dưới có chuyện gì. Ông giữ ý tổ chức họp Trung ương đảng vào tháng 11. Từ khi ở trong Bộ chính trị tôi chưa từng chứng kiến ở đây một cuộc đụng độ dữ dội như vậy. Tôi cũng cảm thấy mình chịu trách nhiệm về việc cuộc đụng độ ấy diễn ra muộn mằn. Chúng tôi đã tranh luận hai ngày. Nhưng để rồi nhận được kết quả gì? Một tài liệu thỏa hiệp, ai muốn hiểu ra sao cho mình cũng được. Mittag đề nghị viết câu kết là “Chỗ làm việc của chúng ta là nơi đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và hòa bình.” Câu này quá đúng, nhưng trong hoàn cảnh này chỉ là một cái vỏ suông, đã thế lại mang tính kích động. Chúng tôi – Herger, Schabowski và tôi – chủ ý tránh những chữ xoa dịu và vô hồn, nhưng giờ thì nó lại có chỗ trong bản tuyên bố. Cuộc sống ngoài kia cứ thế tuột khỏi tay chúng tôi. Vẫn chưa được nêu được ra câu hỏi quyết định, bao giờ bãi nhiệm Honecker. Buổi tối tôi đến nhà Willi Stoph. Tôi hỏi ông: “Willi, chưa đến lúc đi bước tiếp theo hay sao?” Stoph chẳng cần hỏi tôi nói “bước tiếp theo” có ngụ ý gì. Ông trả lời: “Để bãi nhiệm Honecker chúng ta cần đa số. Trước đó phải nói chuyện với mọi người. Anh nói chuyện với các bí thư tỉnh ủy thứ nhất có chân trong Bộ chính trị, Harry Tisch và Erich Mückenberger. Tôi nói với những người còn lại.” Sau đó tôi thống nhất với Lorenz, Schabowski và Herger, ai sẽ nói chuyện với ai trong Bộ chính trị hoặc trong Trung ương đảng. 12/10 11 giờ 30, ở phòng họp của Bộ chính trị SED bắt đầu cuộc họp giữa ban bí thư và các bí thư tỉnh ủy thứ nhất SED. Honecker sẽ nói gì với các cán bộ đảng quan trọng nhất từ các tỉnh lên? Ông sẽ thông báo cho họ về cuộc tranh luận trong Bộ chính trị như thế nào? Ông sẽ thể hiện bản tuyên bố ra sao? Ông sẽ khuyến cáo điều gì để đối thoại với các lực lượng chính trị khác? Chúng tôi sẽ phải xem thái độ của ông hôm nay để xét, liệu ông có đi theo đường của mình hay đại diện cho Bộ chính trị. Sau khi nghe Honecker nói mười phút, tôi cúi nhìn xuống vì xấu mặt. Những lời ông nói chẳng liên quan gì đến mong đợi của các bí thư thứ nhất. Tựa như cuộc họp Bộ chính trị chưa từng diễn ra. Lời ông không phù hợp với tình hình gay cấn, lại cũng chẳng gắn kết về nội dung. Ông không đả động đến bản tuyên bố của Bộ chính trị. Thông tin duy nhất mà ông đem lại từ hai buổi họp là phiên họp thứ 9 của Trung ương đảng đến tận 15/11 mới diễn ra. Nói đến đây thì – trước đó một tuần không thể xảy ra – vang lên những tiếng hô của các bí thư tỉnh ủy xen vào: “Quá muộn” hoặc “Phải triệu tập đại hội toàn thể ngay.” Nhưng Honecker không để bị quấy nhiễu. Ông còn thông báo tiếp chương trình nghị sự xa rời thực tiễn trong đại hội toàn thể tháng 11. Khoảng 13 giờ Tổng bí thư chấm dứt bài thuyết trình của mình. Sau đó nghỉ giải lao một chút. Schabowski, Lorenz và tôi hội ý ngắn. Chúng tôi nhất trí: sẽ không bao giờ để lặp lại lần nữa một cuộc nói chuyện như vậy của Honecker. Trong giờ nghỉ tôi ra gặp Günther Jahn. Chúng tôi quen nhau gần 20 năm nay, tin cậy lẫn nhau. Từ năm 1967 đến năm 1974 ông là người tiền nhiệm của tôi, bí thư thứ nhất Trung ương đoàn FDJ. Jahn quen điểm xuyết tiếu lâm hài hước vào các bài nói chuyện của mình, ông là người học rộng và giàu kinh nghiệm. “Günther”, tôi nói, “hãy nói thẳng đi. Không thể tiếp tục thế này được nữa.” “Egon”, Jahn đáp, “nói thẳng ra là tôi thấy ông ấy nên rút lui trong danh dự.” “Đúng thế”, tôi nói. Dứt lời chúng tôi lại vào phòng họp. Honecker khai mạc tranh luận. Người đầu tiên lên tiếng là Hans Modrow. Ông ngồi cuối chiếc bàn lớn, đối diện trực tiếp với Honecker. Tất cả hồi hộp chờ đợi. Từ khi ông công du qua CHLB Đức hồi tháng Chín,
báo chí bên Tây nhìn ông như “mầm hy vọng.” Ông bắt đầu đọc từ tập bản thảo dày cộp. Sau mấy câu đầu Honecker nói ngay: “Cất bản thảo đi.” Modrow không chịu để phá ngang và đáp: “Những gì tôi sẽ nói là theo nhiệm vụ được trao của ban bí thư tỉnh ủy và các bí thư huyện ủy thứ nhất.” Ông bình tĩnh nói tiếp. Ông chỉ trích hướng phát triển kinh tế sai lạc và hiện trạng nội chính bê bối, kêu gọi đối thoại rộng rãi trong xã hội. Như vậy ông bám sát các điểm trong tuyên bố của Bộ chính trị. Do Honecker lờ hẳn không nhắc đến bản tuyên bố, Modrow đã liều dấn bước, nhưng không bước đủ xa. Ông không hề nhắc đến trách nhiệm và phong cách lãnh đạo của Honecker. Sau Modrow là Johannes Chemnitzer từ Neubrandenburg. Ông đã cùng tôi qua Trung Quốc. Hai chúng tôi đã chuyện trò cởi mở về tình hình trong ban lãnh đạo đảng khi ở Trung Quốc và trên máy bay. Ông công kích chính sách xa rời thực tiễn của Bộ chính trị. Ông lớn tiếng: “Đồng chí Honecker, còn năm phút nữa là xảy ra thảm họa!” Sau đó Günther Jahn lên tiếng. Tôi tin chắc là ông không ngần ngại. Ông đứng dậy và bắt đầu: “Đồng chí Tổng bí thư, tôi đứng dậy để nhìn vào mắt đồng chí một cách thẳng thắn và chân thực.” Trước hết ông đòi triệu tập sớm cuộc họp Trung ương đảng. “Cái mà chúng ta cần hôm nay”, ông nói tiếp, “là chính sách đối thoại hợp lý và chìa tay ra với các lực lượng đối lập.” Rồi sau đó là đòi hỏi quyết định của ông: “Trong những tháng gần đây các mặt yếu kém về lãnh đạo đã hiển hiện ở tầng cao nhất. Vì vậy tôi yêu cầu đồng chí tổng bí thư hãy rút ra kết luận cá nhân về nhân sự. Trong trường hợp Walter Ulbricht, Trung ương đảng đã chứng tỏ rằng người ta có thể làm việc đó trong danh dự và không bị mất thể diện.” Phòng họp lặng ngắt. Có lẽ mỗi người đều cảm thấy tầm quan trọng của giây phút này. Các bí thư thứ nhất khác sẽ xử sự sao đây? Họ sẽ cùng theo đề nghị của Jahn? Tôi quan sát Honecker. Bề ngoài ông không tỏ ra xáo động chút nào. Trong đầu ông đang nghĩ gì? Vừa cách đây ba hôm là cuộc đụng độ với tôi. Rồi đến yêu cầu của FDJ về thay đổi nội dung và nhân sự Bộ chính trị. Sau đó đến cơn gió chướng lạ lẫm trong Bộ chính trị, nhất là từ phía Lorenz. Bây giờ là sự xuất hiện của Jahn, cũng là một người trong nhóm cán bộ dự bị của Erich Honecker. Tôi đoán là Honecker có thể đợi nghe yêu cầu từ chức từ ai khác chứ không khi nào từ miệng Jahn. Nhưng không ai trong nhóm các bí thư thứ nhất cùng theo yêu cầu đó. Jahn trơ trọi là người duy nhất. Khi buổi họp chấm dứt lúc gần tối, tôi đề nghị Modrow và Lorenz vào phòng làm việc của mình. Trong hoàn cảnh này Lorenz và tôi muốn kéo Modrow về phía mình. Lorenz đã làm phó cho Modrow mấy năm ở Thành đoàn Berlin. Tôi hy vọng có mặt Lorenz câu chuyện sẽ cởi mở hơn khi chỉ có mình tôi. “Hans”, tôi nói, “cuộc họp hôm nay cho chúng ta điều kiện đưa chuyện bãi nhiệm Honecker vào chương trình nghị sự của Bộ chính trị hôm thứ Ba.” Modrow suy nghĩ. Ông lo ngại, liệu có nên đợi đến đại hội Trung ương đảng trong tháng 11 hãy bãi nhiệm Honecker. Ở đó Alfred Neumann có thể chỉ huy lập ra ủy ban cán sự. Ủy ban này sẽ phải đề đạt nhân sự lên Trung ương đảng. “Chắc chắn đó là phương pháp dân chủ”, tôi trả lời, “nhưng đến kỳ họp tháng 11 còn ngót năm tuần nữa, mà ta không có nhiều thì giờ như vậy. Hôm nay chính anh cũng nghe hầu hết các bí thư thứ nhất đòi họp Trung ương đảng ngay lập tức. Không, ta không thể đợi đến tháng 11 nữa”, tôi kết luận. Modrow im lặng. Ông đang vội quay về Dresden. Cuộc trò chuyện với ông bắt Lorenz và tôi phải suy nghĩ. Chúng tôi không lường đến sự dè dặt ấy. Nói chuyện xong, tôi tìm gặp Willi Stoph lần thứ hai. Tôi thông báo cho ông về cuộc họp với các bí thư tỉnh ủy thứ nhất. Hai chúng tôi nhất trí: trong chương trình nghị sự của Bộ chính trị ngày 17/10 phải bàn đến chuyện bãi nhiệm Honecker. Sau đó một ngày Trung ương đảng phải ra quyết định. Tôi đề nghị một nhóm ủy viên Bộ chính trị gặp Honecker trước buổi họp thứ Ba và yêu cầu ông từ chức. Tôi dự tính Stoph, Hager, Lorenz, Tisch, Krolikowski, Schabowski và tôi. Stoph không thích ý này. Ông xin thì giờ suy nghĩ. Tôi trở về văn phòng và gọi điện cho Honecker từ đó. Ông có kế hoạch cho cuộc họp ngày mai với chủ tịch các đảng liên minh . Không chỉ Günter Mittag và Joachim Herrmann tham gia, mà cả tôi. Tôi bất ngờ, đoán là ông muốn cột tôi vào bằng được khi ông nhắc nhở chủ tịch các đảng kia đoàn kết với chính sách của ông. Tôi nói: “Erich, tôi không tham dự được. Tôi nhất định phải đi Leipzig. Chúng ta phải quyết định rõ ràng về thái độ đối với các cuộc biểu tình thứ Hai.” Honecker chấp thuận. Lúc này đã gần 11 giờ đêm. Tôi nhấc máy CT gọi Günther Jahn ở Potsdam. Nhất định ông phải suy nghĩ khi các đồng nghiệp không ủng hộ ông. Tôi nói: “Günther, tôi khâm phục thái độ của anh hôm nay. Đó là một yêu cầu rất nghiêm túc và cần thiết gửi đến Erich. Bây giờ chúng tôi ở Berlin phải hành động.” Tôi có ấn tượng là trong khi nói chuyện Jahn thanh thản hẳn. Ông nhắc lại: “Tôi giữ quan điểm của mình, Egon, kể cả trước Trung ương đảng.” 13/10 Tôi đến văn phòng sớm hơn mọi ngày. Trước khi bay đến Leipzig tôi muốn nghiên cứu kỹ các thông tin hiện có. Theo dự tính của các lực lượng an ninh, sẽ có hơn 100.000 người ở thành phố hội chợ xuống đường biểu tình vào thứ Hai, 16/10. Chúng ta phải bảo đảm không để xảy ra xô xát giữa người biểu tình và cảnh sát. Tôi nhớ lại bản tin đầy giọng hằn học của đại diện thường trực CHLB Đức ở CHDC Đức , trong đó khẳng định tôi nhất quyết “sử dụng một phương tiện quyền lực trong trường hợp gay cấn.” Các phương tiện truyền thông của CHLB Đức vu cho tôi định lặp lại biến cố Thiên An Môn trước cửa Auerbachs Keller . Thủ đoạn hèn hạ đó rắp tâm gây sợ hãi trong dân chúng. Tôi không bao giờ suy tính đến giải pháp quân sự cho các vấn đề của chúng ta. So sánh với việc sử dụng vũ lực quân sự ngày 17/6/1953 là sai lầm về lịch sử. Ngày đó CHDC Đức chưa là quốc gia có quyền tự quyết. Ngày 17/6 đã thành lịch sử mà tôi được chứng kiến khi còn là học sinh ở thành phố Ribnitz-Damgarten. Là chính trị gia, tôi thuộc về thế hệ cán bộ đảng và nhà nước mới. Hình ảnh chủ nghĩa xã hội trong tôi mang dấu ấn của công tác thực tế và chủ nghĩa nhân văn từng trải nghiệm ở CHDC Đức. Trong đó không có chỗ cho vũ lực chống lại nhân dân mình. Egon Schmidt, tác giả sách thiếu nhi và giảng viên môn văn học Đức của tôi ở Viện sư phạm Putbus/Rügen, cách đây 35 năm viết một câu của Heinrich Mann trong cuốn sách tặng tôi: “Sứ mệnh của chủ nghĩa nhân văn là sẵn sàng chiến đấu, nhưng không vì thế mà quên bản chất của nó là hòa bình.” Nếu có phút nào nghi ngờ không giữ được bản chất hòa bình đó, tôi sẽ từ bỏ mọi chức vụ chính trị. Trong khi Honecker, Mittag và Herrmann cùng các chủ tịch đảng Götting (CDU), Maleuda (DBD), Gerlach (LDPD), Homann (NDPD) và chủ tịch hội đồng Mặt trận dân tộc họp bàn về quan điểm của Tổng bí thư đối với tình hình phát sinh, tôi lên chiếc TU 154 ở sân bay Berlin-Schönefeld đi Leipzig. Đi theo tôi có Wolfgang Herger và thượng tướng Streletz bí thư Hội đồng quốc phòng và thứ trưởng Bộ quốc phòng, thượng tướng Mittig thứ trưởng Bộ an ninh quốc gia, và thượng tướng Wagner thứ trưởng Bộ nội vụ kiêm tổng tư lệnh Cảnh sát nhân dân Đức. Chúng tôi muốn họp bàn với ban chỉ huy của tỉnh Leipzig, đơn vị trực thuộc Hội đồng quốc phòng CHDC Đức, về vấn đề đảm bảo cho cuộc biểu tình thứ Hai ngày 16/10 tiến triển hòa bình. Tướng Hummitzsch, chỉ huy an ninh quốc gia tỉnh Leipzig, đón chúng tôi tại sân bay. Ông thông báo là các cơ quan an ninh từ 8/10 đã được chỉ thị giữ thế thủ tại mọi hội họp phản đối. Khoảng 13 giờ, bí thư tỉnh ủy thứ nhất đương quyền là Helmut Hackenberg báo cáo về tình hình ở Leipzig. Ông cho biết, tuyên bố của Bộ chính trị được nhiều người chú ý đón nhận. Nhiều người cho rằng nó ra quá muộn. Đông đảo đảng viên đòi triệu tập lập tức phiên họp Trung ương đảng. Luôn được nghe câu hỏi: tại sao Bộ chính trị phải đợi đến khi nhiều người như vậy xuống đường rồi mới có động thái? Trước sau vẫn nhiều người dân sợ xảy ra đụng độ bạo lực. Một bác sĩ ngoại khoa tim công bố lời kêu gọi: “Ai sẽ chịu trách nhiệm nếu có người chết?” Lãnh đạo tỉnh ủy SED sẽ làm tất cả – nếu cuộc biểu tình diễn ra theo đúng kế hoạch – để phản ứng giống như hôm 9/10, nghĩa là không có vũ lực! Chúng tôi khẳng định quyết tâm
đó và ấn định chỉ sử dụng các biện pháp cảnh sát khi lực lượng an ninh bị tấn công. Tuyệt đối cấm dùng súng. Sau buổi thảo luận tình hình tôi nói với Helmut Hackenberg: “Bất kỳ có lệnh nào khác đưa ra, bất kỳ người muốn ra lệnh cho anh có cấp bậc quân sự hay chức vụ nào, chỉ áp dụng những gì chúng ta vừa nhất trí.” Tôi nhắc lại: “Kể cả khi có người đưa ra một lệnh khác.” Với chỉ thị đó, tôi đã đi quá quyền hạn của mình. Tôi biết thế, những người đi cùng tôi biết, và ban chỉ huy Leipzig cũng biết. Vì lệnh chính thức của Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng mới có hiệu lực. Với niềm tin ấy, chúng tôi bay về Berlin. Khi đã lên không trung tôi nói: “Không thể tiếp tục với Erich Honecker được nữa. Bộ chính trị sẽ quyết định chuyện này hôm thứ Ba.” Bây giờ thì bên quân đội cũng biết tin. Gần 16 giờ Herger, Streletz và tôi về đến trụ sở Trung ương đảng. Ở văn phòng tôi, Fritz Streletz đọc cho thư ký của tôi viết lệnh số 9/89 của Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Streletz có đem theo người giấy viết thư của Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Thư ký của tôi vừa viết vừa nín thở: bà hiểu chuyện gì phụ thuộc vào việc ký lệnh này. Khi lệnh viết xong, tôi rà lại từng chữ. Sau đó tôi gọi điện cho Honeker. Tôi xin phép được cùng Streletz đến gặp ông. Khoảng 17 giờ chúng tôi ngồi đối diện ông. Với tác phong quân sự chính xác, Streletz báo cáo về tình hình Leipzig. Erch Honecker lắng nghe chăm chú và ghi chép. Thượng tướng cả quyết, chủ yếu đây không phải là một quyết định quân sự, mà là quyết định chính trị. Erich Honecker đề nghị dựng rào chắn khu trung tâm Leipzig để ngăn dòng người tham gia cầu nguyện từ bốn nhà thờ Leipzig hợp lại. Để làm việc đó, cần cung cấp lực lượng và phương tiện kỹ thuật. Ông đề nghị Streletz cung cấp bản đồ Leipzig. Ông muốn tìm hiểu tình hình chiến thuật ở trung tâm Leipzig. Nhưng để làm gì? Streletz và tôi giải thích cho tổng bí thư biết là không thể dựng rào chắn, vì như vậy chúng ta sẽ kích động đối đầu. Sau khi tranh luận hồi lâu, Honecker ký vào lệnh do chúng tôi chuẩn bị sẵn. Nội dung như sau: “Chỉ chủ động sử dụng lực lượng và phương tiện cảnh sát và khi có lệnh của trưởng ban chỉ huy Leipzig, nếu người tham gia biểu tình gây vũ lực đối với các lực lượng an ninh hoặc với các công sở. Tuyệt đối cấm sử dụng súng khi dự đoán có biểu tình.” Ngay sau khi lệnh được ký lúc gần 18 giờ, tôi gọi điện qua mạng bí mật giữa các chính phủ cho V. I. Kochemassov, đại sứ Xô viết tại CHDC Đức. Tối qua tôi đã báo cho ông biết là tôi sẽ bay đến Leipzig để bảo đảm tại chỗ sẽ không xảy ra vũ lực. Lúc này tôi nói tiếng Đức lẫn tiếng Nga: “Vyacheslav Kochemassov, chúng tôi vừa có lệnh do Erich Honecker ký. Cấm mọi dạng vũ lực khi có biểu tình. Tuyệt đối không được sử dụng súng. Đồng chí Streletz sẽ đề nghị Tư lệnh Tập đoàn quân Xô viết miền Tây tại Wünsdorf để các đơn vị lính Xô viết ở trong doanh trại. Đặc biệt ở các thành phố như Leipzig, Halle, Magdeburg, Berlin là những nơi gần địa điểm của cuộc tập trận mùa thu, nếu quân đội rời doanh trại sẽ dễ bị hiểu nhầm. Tôi đề nghị đồng chí ủng hộ đề xuất của chúng tôi đối với đồng chí Snetkov.“ Đại sứ Xô viết đồng ý hỗ trợ. Sau đó tôi nói: “Thứ Ba, Willi Stoph sẽ đưa đề nghị trong Bộ chính trị, xin bãi nhiệm đồng chí Honecker và bầu tôi làm tổng bí thư.” Kochemassov cho biết đã nắm được tình hình. Stoph đã báo cho ông biết. Tôi gợi ý chuyển lời thỉnh cầu tới đồng chí Gorbachev cho Harry Tisch gặp hôm thứ Ba ở Matxcơva. Theo kế hoạch, Tisch sẽ đi cùng một đoàn đại biểu công đoàn sang Liên Xô. Ông sẽ thông báo cho Gorbachev biết ý định thế chân Honecker của chúng tôi. Kochemassov hứa sẽ chuyển lời thỉnh cầu rồi báo lại cho tôi quyết định của Gorbachev. Ngày 13/10 này mang ý nghĩa trọng đại. Chúng tôi đã thành công khi xuất được lệnh viết cho tất cả các cơ quan an ninh loại trừ vũ lực trong các cuộc xung đột chính trị. Quan trọng là thống nhất được với bên quân sự Xô viết. Thượng tướng Streletz liên tục giữ nóng liên lạc với Tổng tư lệnh ở Wünsdorf. 14 và 15/10 Khoảng 9 rưỡi ngày 14/10 Kochemassov gọi điện báo cho tôi là Gorbachev sẵn sàng tiếp Harry Tisch ở Matxcơva. Tôi vui mừng đã bàn được với lãnh đạo Xô viết các thay đổi mong muốn. Tôi tin tưởng chắc chắn rằng chỉ sát cánh với Liên Xô mới có thể vượt qua được cuộc khủng hoảng ở CHDC Đức. Vừa hồi đầu năm nay Honecker trao cho mỗi ủy viên thường vụ và ủy viên dự khuyết Bộ chính trị một quyển sách đóng bìa da nâu chứa các tài liệu mật từ thời kỳ sau năm 1953. Ông đề nghị từng người đọc xong các tài liệu ấy thì trả lại để đem hủy. Trong cuốn này có cả bức thư ngày 21/1/1971 gửi đến Leonid Ilyich Brezhnev. Mười ba trong số hai mươi đồng chí ở Bộ chính trị đã ký: Axen, Grüneberg, Hager, Honecker, Mittag, Sindermann, Stoph, Verner, Mückenberger, Warnke, Jarowinsky, Lamberz và Kleiber. Trong thư họ đề nghị chủ tịch Đảng cộng sản Liên Xô “nói chuyện với đồng chí Walter Ulbrich trong những ngày tới, với kết quả là đồng chí Walter Ulbrich tự mình […] xin Bộ chính trị bãi miễn […] nhiệm vụ Tổng bí thư.” Trong trường hợp Honecker thì tôi không muốn đi đường ấy. Chúng tôi đã trao đổi thẳng thắn với ông trong Bộ chính trị về nội dung. Mãi đến khi ông không chịu phục thiện các đồng chí mới nhất trí đề xuất bãi nhiệm ông. Gorbachev không cần phải làm việc ấy hộ chúng tôi. Nhưng ông biết mọi chuyện. Sau cuộc điện thoại với Kochemassov, tôi tiếp Harry Tisch ở nhà tôi. Chúng tôi bàn sẽ thông báo gì cho Gorbachev. Tôi đọc cho ông ghi vào sổ công tác: “Mikhail Sergeyevich thân mến, như đồng chí tự mắt thấy khi qua thăm Berlin, CHDC Đức hiện đang ở trong cuộc khủng hoảng lớn về chính trị và tinh thần. Trong cuộc họp Bộ chính trị ngày 10 và 11/10/1989 về thay đổi đường lối theo hướng đổi mới chủ nghĩa xã hội, đa số trong Bộ chính trị đã cố gắng thuyết phục đồng chí Honecker nhưng không thành. Mặc dù bản tuyên bố của Bộ chính trị mà đồng chí đã biết còn mang tính nửa vời và không tương thích đầy đủ hoàn cảnh hiện tại, trong buổi họp với các bí thư thứ nhất đồng chí Honecker không sẵn sàng chấp nhận đường lối mà Bộ chính trị đã quyết, mà vẫn tiếp tục bám vào tính liên tục thay cho biến đổi và liên tục. Nếu không nhanh chóng đưa ra các thay đổi về nội dung và nhân sự, sẽ sinh ra nguy cơ đối đầu bạo lực với một phần trong dân chúng. Trong trường hợp ấy làn sóng di cư qua CHLB Đức sẽ tiếp tục gia tăng. Được sự nhất trí của các đồng chí khác trong Bộ chính trị, đồng chí Krenz thông báo cho đồng chí biết kế hoạch đồng chí W. Stoph tại cuộc họp Bộ chính trị hôm thứ Ba 17/10 đề nghị bãi nhiệm Erich Honecker. Đồng thời sẽ đề nghị đồng chí Krenz nhận nhiệm vụ tổng bí thư. Nếu Bộ chính trị đồng ý, vào thứ Tư 18/10 sẽ triệu tập cuộc họp Trung ương đảng SED. Đồng chí Krenz tin chắc rằng một quyết định mang tính cơ bản như vậy không thể thiếu sự thống nhất với Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Liên Xô. Mikhail Sergeyevich thân mến, Krenz đề nghị đồng chí đừng nhìn nhận sự hiện diện của tôi chỉ nhằm chuyển tin. Chủ yếu chúng tôi muốn biết quan điểm của ban lãnh đạo Xô viết. Nếu Trung ương đảng SED bầu một tổng bí thư mới thì quan trọng trước tiên là củng cố kề vai sát cánh giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và SED, giữa Liên bang cộng hòa XHCN Xô viết và Cộng hòa dân chủ Đức, nhằm thực thi trung kiên chính sách cải tổ chủ nghĩa xã hội mà chúng tôi muốn gọi là Bước Ngoặt.” Harry Tisch, Günter Schabowski và tôi gặp nhau buổi tối tại nhà Tisch. Chúng tôi hoạch định chương trình họp Bộ chính trị hôm thứ Ba. Trước đó Willi Stoph đã cho tôi biết là ông không đồng ý đề nghị của tôi gửi nhóm bảy đồng chí trong Bộ chính trị đến Honecker trước khi họp để đòi ông từ chức. Stoph phản biện: nếu bảy người của Bộ chính trị đến Honecker và đòi ông từ chức, nhất định ông sẽ hỏi: “Ai trao nhiệm vụ này cho các anh?” Đó sẽ là cớ để ông buộc chúng tôi lập bè phái. Stoph cho rằng như vậy sẽ khó tiến hành bãi nhiệm, do đó tốt hơn hết là ngay từ đầu buổi họp Bộ chính trị đưa ra đề nghị bãi nhiệm Honecker. Stoph và tôi nhất trí, hôm thứ Ba ông sẽ là người đầu tiên lên tiếng và đề nghị đưa việc bãi nhiệm Honecker vào chương trình nghị sự. Giữa lúc Tisch, Schabowski và tôi còn đang tranh luận về việc chuẩn bị cuộc họp thì Mielke gọi điện đến và muốn nói chuyện với tôi. Vợ Tisch nói là tôi không ở đây. Tôi quên không dặn bà trước là tôi đã bảo Mielke nếu tìm tôi thì gọi đến nhà Tisch. Mielke báo là Honecker tìm tôi để nói chuyện
và hỏi Mielke tôi ở đâu. Mielke khuyên tôi về nhà để nhấc máy khi Honecker gọi đến, không nên để ông sinh nghi. Giờ thì tiếc thay sự việc đã có vẻ một âm mưu. Tôi vừa về đến nhà thì Honecker gọi điện mời tôi qua nhà. Trước mặt ông là bản đồ Leipzig. Những câu hỏi của ông làm tôi lo ngại. Ông lại quan tâm đến các hàng rào chắn ở thành phố hội chợ. Tuy tôi cũng tin là ông không muốn vũ lực nhưng ông vẫn cho rằng có thể ngăn chặn biểu tình bằng quyết định hành chính. Nhận định sai lầm ấy hàm chứa nguy cơ lớn về sự bùng nổ tiềm năng không muốn có. Tôi khuyên ông đừng suy tính thêm về Leipzig nữa. Chỉ có khả năng thay đổi trong nước theo đường chính trị. Không được phép lách lệnh cấm vũ lực. Về đến nhà, lòng tôi tràn đầy cảm xúc bất an khó tả. Honecker đến giờ vẫn là tổng bí thư. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông không thông qua bàn bạc mà ra những mệnh lệnh tăng cường cảnh sát và quân đội ở Leipzig và dựng rào chắn trung tâm thành phố? Vì thế tôi gọi điện cho thượng tướng Streletz. Hai chúng tôi thỏa thuận là ông báo tin cho tôi ngay lập tức nếu Honecker truyền chỉ thị cho ông trái với lệnh ngày 13/10. Tôi ngồi xuống bàn giấy trong phòng làm việc ở nhà và viết một bức thư cho Honecker . Tôi đề nghị ông đừng làm gì khiến “từ phía chúng ta kích động những đối đầu không thể kiểm soát nổi.” Tôi viết: “Điều đó sẽ có hậu quả trầm trọng cho đất nước, vì kết cục ở Leipzig sẽ có tác động như một tín hiệu cho những nơi khác.” Tôi còn báo cho ông biết là 16 giờ thứ Hai tôi muốn gặp các bộ trưởng Mielke và Dickel. Chúng tôi muốn cùng nhau bảo đảm không cho ai được trái lệnh cấm vũ lực. Lại hai ngày nữa trôi qua mà tôi vẫn chưa có thì giờ chuẩn bị bài thuyết trình của mình trước Trung ương đảng trong trường hợp được bầu. Các cộng tác viên của tôi cật lực viết bài dự thảo. Tôi tín nhiệm họ. Schalck cung cấp các dữ liệu cho mục kinh tế. Đồng thời ông gửi tôi các đề xuất nhằm nhanh chóng cải thiện cung cấp hàng hóa cho nhân dân. Ông xin tôi ngay sau khi được bầu làm tổng bí thư cho phép ông bắt liên lạc với chánh văn phòng Phủ thủ tướng CHLB Đức để xem xét khả năng CHLB Đức sẵn sàng góp phần đến mức nào vào việc cải thiện khả năng du lịch sang CHLB Đức và Tây Berlin cho công dân CHDC Đức. Chúng tôi thỏa thuận để ông chuẩn bị sẵn các bước. Vào hai ngày cuối tuần này, cả Herger cũng có những suy nghĩ về các hoạt động chính trị đầu tiên mà tôi cần làm với tư cách Tổng bí thư mới. Ngoài ra ông nhắc tôi xem một bài viết của nữ luật gia Rosemaria Will trong TẠP CHÍ TRIẾT HỌC ĐỨC. Bà trích một câu của Immanuel Kant: “Một chính phủ”, triết gia nói, “xây dựng trên nguyên tắc thiện chí với nhân dân như người cha với các con, đó là một chính phủ cha mẹ, vậy các thần dân là trẻ con vị thành niên không biết phân biệt cái gì lợi hoặc hại cho chúng, toàn bị ép hành xử thụ động, nếu may mắn thì họ chỉ trông đợi vào phán quyết và sự từ tâm của nguyên thủ – nếu vị nguyên thủ ấy cũng muốn – đó là chế độ chuyên quyền lớn nhất có thể tưởng tượng ra được.” Dù Herger có ý gì khi nhắc nhở tôi đọc câu này, đối với tôi điều quan trọng là thời điểm bày tỏ lòng trung thành và biết ơn với Tổng bí thư chắc chắn đã vĩnh viễn qua rồi. Herger gửi nhân viên đem cho tôi các đề nghị của ông cho bài diễn văn của tôi trước Trung ương đảng. Tôi có cả núi ý tưởng nhưng tiếc rằng không còn thì giờ nữa để từ đó phát triển ra một ý niệm tròn trịa. Đến gần 4 giờ sáng tôi ngồi đọc các tài liệu gửi tới. Nét đặc biệt của tình hình mà hồi mùa hè tôi chưa thể tiên liệu khiến hôm 18/10 không thể làm gì hơn là vạch ra hướng đi cho Bước Ngoặt. Hai, ba tuần sau chúng ta mới có thể tiến hành họp Trung ương đảng và đi sâu hơn về nội dung. 16/10 Tôi mời Herger và các Bộ trưởng Nội vụ, an ninh quốc gia, tư pháp, ngoại giao cũng như vụ trưởng Vụ kế hoạch và viện trưởng Viện kiểm sát tối cao lúc 9 giờ đến họp. Chưa bao giờ từ khi là ủy viên Bộ chính trị tôi thấy một tập thể cao cấp như vậy quanh bàn. Cũng không bình thường vì tôi không phải chủ tịch nhà nước hay chủ tịch đảng. Những người tham dự rõ ràng đã biết kế hoạch hôm thứ Ba và thứ Tư. Nội dung duy nhất để thảo luận hôm nay là chuẩn bị dự thảo về du lịch và xuất cảnh cho Bộ chính trị. Dân chúng ngày càng bất bình khi chúng tôi cho đến nay chưa giải quyết được vấn đề này. Người ta không chấp nhận nữa cách giải thích của chúng tôi là bên Tây cũng có lỗi trong vụ này. Chẳng mấy ai nghĩ đến chuyện CHLB Đức không công nhận quốc tịch CHDC Đức. Cũng không biết rằng ví dụ như Bundesbahn tính tiền D-Mark cho mỗi cây số mà công dân CHDC Đức đi qua. Tự do du lịch không hạn chế không chỉ là một vấn đề chính trị, mà còn là vấn đề tài chính nan giải. Mặc dù vậy, vì nhiều lý do mà đối với tôi một luật du lịch mới là điểm cấp thiết nhất, nếu còn muốn thực thi các dự định về đổi mới. Luật này cần được đem ra cho quần chúng thảo luận và chậm nhất trước lễ Giáng sinh được Quốc hội ban hành. Vì thế tôi phải thúc khẩn trương. Chỉ một tuần nữa là phải trình bản thảo lên Bộ chính trị. Tất cả nhất trí rằng phải đạt được quyền tự do du lịch không hạn chế. Nhưng làm cách nào đạt được? Tôi còn nhớ bí thư tỉnh ủy thứ nhất SED đương quyền của Leipzig trong buổi họp ngày 12/10 đã nêu ra con số hàng nghìn hàng vạn nhân lực thiếu hụt: thợ nướng bánh, hàng thịt, lái xe điện, nhân viên bán hàng, bác sĩ, y tá, giáo viên v.v. Nếu không cản được xu thế này, cơ sở hạ tầng của đất nước sẽ bị tổn hại lớn. Chúng tôi thấu hiểu rằng một phần công dân CHDC Đức sẽ tận dụng điều kiện du lịch mới để ở lại bên Tây. Điều đó chỉ có thể thay đổi khi nền kinh tế quốc dân và tình trạng xã hội ở CHDC Đức ổn định hơn. Một câu hỏi chưa thể trả lời: lấy đâu ra tiền cho các chuyến đi ào ạt sắp tới? Trong cuộc đàm luận này không ai trong chúng tôi thấy khả năng huy động thêm ngoại tệ. Không có một khoản ngoại tệ tối thiểu được đổi thì khó quyết định cho du lịch tự do. Tôi bức xúc khi có thể nói là chúng tôi đẩy du khách CHDC Đức, một khi họ rời khỏi lãnh thổ CHDC Đức, vào tình cảnh phụ thuộc kinh tế vào họ hàng, người quen hay nhà nước CHLB Đức. Tất cả liên quan đến việc CHDC Đức không chỉ là quốc gia nhỏ hơn, mà còn nghèo hơn trong hai nhà nước Đức và không có tiền tệ hoán đổi tự do. Sau buổi họp tôi đề nghị Schalck đưa mục ngoại tệ du lịch lên mục đầu tiên trong chương trình nghị sự ở Bonn. Hôm nay lại sẽ diễn ra một cuộc biểu tình ở Leipzig. Lệnh ra ngày 13/10 được thử thách. Chúng ta phải chú trọng hai nhân tố: Người biểu tình có khả năng ngăn chặn những kẻ khiêu khích tiềm năng tấn công cơ quan an ninh? Và đồng thời: các cơ quan an ninh có được chuẩn bị để không bị khiêu khích? Không bên nào biết rõ bên kia. Để chắc chắn chỉ được hành động như đã thống nhất khi có biến cố bất ngờ, Mielke, Dickel, Streletz và tôi ngồi cùng nhau trong phòng làm việc của Bộ trưởng Nội vụ. Chúng tôi có đường truyền hình từ Leipzig, có thể theo dõi trực tiếp cuộc biểu tình. Chừng 14 giờ 55 Honecker cũng vào phòng sau khi báo trước mấy phút cho tôi biết qua điện thoại. Trông ông kiệt quệ và bồn chồn. Bệnh tật đã để lại dấu vết. Streletz và Dickel trấn an ông. Hoạt động của Honecker thu gọn trong mấy cuộc điện thoại với Helmut Hackenberg ở Leipzig. Ông tuân thủ thỏa thuận là không tự ý ra quyết định nào khác. Chiều muộn, Tisch gọi điện cho tôi từ Matxcơva. Ông vừa rời điện Kremlin sau khi nói chuyện với Gorbachev và không biết là Honecker cũng có mặt trong phòng. Tisch chuyển lời chào thắm thiết của Gorbachev và lời chúc thành công trong kế hoạch định làm. May mà Honecker không biết gì đến nội dung cuộc gọi. Cuộc biểu tình ở Leipzig và các thành phố khác diễn ra yên bình, âu cũng là kết quả chính sách cẩn trọng của chúng tôi. Mạnh hơn mọi khi, người biểu tình đòi phải cho phép Diễn đàn mới hoạt động. Các sáng lập viên của Diễn đàn mới nhấn mạnh, họ là một phong trào công dân tán đồng chủ nghĩa xã hội nhưng muốn thay đổi hiện trạng của nó. Tuy vậy từ hai phía đều có sự nghi ngại dễ hiểu. Nếu thực sự coi trọng đối thoại thì chúng ta không thể tránh nói chuyện với họ. Lời mời của chúng ta chưa được đặt lên bàn. Tôi bị kéo khỏi luồng suy tư khi
Honecker muốn chia tay. Trước khi đi, tôi nói với Streletz: “Anh biết là mai Bộ chính trị quyết định về vấn đề bãi nhiệm Erich Honecker. Tôi đề nghị anh ở cương vị bí thư Hội đồng quốc phòng kể từ nay chỉ nhận chỉ thị của tôi.” Streletz: “Tôi đã tuyên thệ với CHDC Đức. Tôi biết bây giờ phải làm gì.” Ngày đã hết, tôi vẫn chưa thể sửa bài diễn văn. Vậy mà những ngày tới phụ thuộc nhiều vào nội dung trong đó. 17/10 10 giờ, 24 trong số 26 ủy viên thường vụ và dự khuyết của Bộ chính trị đã có mặt trong phòng họp. Heinz Kessler đang dẫn một đoàn đại biểu quân đội sang thăm Cuba và Nicaragua. Erich Honecker cũng vắng mặt. Kể cũng bất thường, vì ông vốn là hiện thân của tính đúng giờ. Khoảng hơn 10 giờ, ông vào phòng, dáng điệu vui vẻ. “Xin lỗi các đồng chí”, ông nói. “Hans Modrow vừa gọi điện muốn gặp tôi. Chúng tôi có việc cần nói chuyện.” Tôi nghĩ ngay tới cuộc nói chuyện giữa Lorenz và tôi với Modrow tối thứ Năm. Hans Modrow là một trong số ít người ngoài Bộ chính trị được biết hôm nay có gì xảy ra. Lại chính ông gọi điện cho Honecker vào giờ này, điều đó làm tôi giật mình. Tôi không có thì giờ nghĩ tiếp. Tôi phải hướng sự chú ý đến những gì đang xảy ra trước mắt. Có vẻ như Honecker không linh cảm được Stoph sẽ đề nghị gì trong vài phút tới. Ông khai mạc buổi họp Bộ chính trị tựa như tình hình ở CHDC Đức hoàn toàn bình thường, như thể từ một tuần nay không có gì xảy ra vậy. Ngay cả buổi họp với các bí thư tỉnh ủy thứ nhất SED hôm 12/10 cũng không được ông nhận xét gì. “Các đồng chí có đề nghị gì về chương trình nghị sự?” ông hỏi. Ông nhìn xuống cử tọa như mọi khi. Stoph lên tiếng. “Vâng”, ông nói, giọng không lên cũng không xuống: “Tôi đề nghị: điểm một trong chương trình nghị sự là đưa đồng chí Erich Honecker khỏi nhiệm vụ tổng bí thư và bầu Egon Krenz làm tổng bí thư.” Vẻ ngoài tổng bí thư vẫn bình tĩnh. Tôi nhìn về phía trước. Trong đầu ông đang nghĩ gì? Từ ngày còn trẻ măng ông là người cộng sản, từ năm 1945 ông có vị trí lãnh đạo trong đảng, từ hơn 18 năm nay ông là nhân vật số một của SED. Ông nhìn đăm đăm vào phòng, mắt ông bị phóng to qua cặp kính dày. Ông tỏ ra bình tĩnh và nói gần như bàng quan: “Được, vậy thì tôi khai mạc cuộc thảo luận.” Tất cả các ủy viên thường vụ và dự khuyết tán thành thay thế ông. Họ cũng ủng hộ bầu tôi lên Tổng bí thư. Hầu như ai cũng nhấn mạnh số mệnh của CHDC Đức. Honecker đã có nhiều công sức, nhưng trong mấy năm cuối ông đã đánh mất nhiều uy tín trong nhân dân. Ông gánh một trách nhiệm lớn cho cuộc khủng hoảng chính trị đang diễn ra ở CHDC Đức. Qua lập trường đối với chính sách của Đảng Cộng sản Liên Xô và Gorbachev, ông đã làm mất đi cơ sở cho quan hệ anh em với Liên Xô. Alfred Neumann, đảng viên cộng sản từ năm 1929, quy về một điểm: tình cảnh của SED chưa bao giờ tồi tệ như hôm nay. Khi Henecker lên vị trí lãnh đạo, Neumann nhận định, tài chính quốc gia còn ổn, chính phủ hoạt động tốt, đảng vững chắc và đầy tinh thần đấu tranh. Hôm nay tình thế đổi khác. Không ai ghen tị với Egon Krenz cả. Lorenz nhận thấy việc thay thế Honecker là một nhát cắt sâu trong lịch sử đảng SED. Bây giờ là lúc tính sổ với sự bàng quan của Honecker trước các vấn đề ngày càng nhức nhối. Đảng mong đợi ở tổng bí thư một chương trình rõ ràng. Kinh nghiệm từ mấy ngày vừa qua cho thấy không thể thay đổi chính sách với Honecker được nữa. Các bí thư tỉnh ủy thứ nhất trong Bộ chính trị như Böhme, Eberlein, Walde và Müller chỉ rõ, ở cuộc họp của các bí thư tỉnh ủy Honecker đã để lại ấn tượng là ông không đồng tình với bản tuyên bố của Bộ chính trị. Achim Böhme từ Halle nói: “Tôi xấu hổ vì cuộc họp với Erich Honecker và các bí thư tỉnh ủy chúng tôi.” Mielke phát biểu một bài đầy cảm xúc. Tình cảnh CHDC Đức rất nghiêm trọng. Ông ân hận vì đã im lặng quá lâu. Schabowski đề cập đến tương lai. Đường lối của Egon Krenz phải là đổi mới và liên tục. Honecker cũng nên được miễn nhiệm vụ chủ tịch Hội đồng nhà nước và Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Đòn mạnh nhất giáng vào Honecker có lẽ là lời nói của Günter Mittag. Mittag đã đợi xem cuộc tranh luận tiến triển ra sao. Ngay sau Hager, Tisch, Krolikowski và Lorenz, ông nhận ra chiều gió. Và ông quay theo chiều ấy. Ông ủng hộ đề nghị của Stoph. Và nói thêm: “Quyết định này phải có từ lâu rồi mới phải. Erich Honecker đã đánh mất lòng tin của đảng.” Không ngờ câu ấy thốt ra từ miệng một người đã dẫn Honecker đi chệch khỏi quan điểm thực tế ngày xưa, người từng cho mình là bạn và cố vấn của Honecker, người không hiếm lần thúc đẩy Honecker đến những quyết định sai lầm. Quả là một thái độ xấu xa. Lập tức có phản ứng ngay. Nhiều người lên tiếng nói chen vào. Sau khi Mittag nói xong, nhiều người bộc phát đòi hạ bệ cả ông ta và Joachim Herrmann. Lúc gần hết giờ, Honecker mới cho tôi nói. Tôi nhắc đến giai đoạn từ năm 1985 đã có nhiều dấu hiệu nghiêm trọng nhưng tổng bí thư luôn gạt đi. Đại hội đảng XI năm 1986 là tô hồng. Chậm nhất từ năm 1986, đảng ta đã bế quan tỏa cảng trước các tiến triển ở Liên Xô. Sau đại hội toàn thể của Đảng Cộng sản Liên Xô tháng Giêng năm 1987, Honecker đòi tôi làm một bản phân tích chính sách của Gorbachev. Thay vì trình lên Bộ chính trị và đem ra thảo luận, ông cho nó vào két sắt khóa lại. Lập trường tiêu cực đối với Liên Xô không thể đưa đến kết quả tốt đẹp. Không có Liên Xô thì không có CHDC Đức. Nếu chúng ta không bắt đầu ngay với bước ngoặt trong đảng thì có thể xảy ra những bùng nổ mang màu sắc nội chiến. Tôi sẵn sàng nhận trách nhiệm tổng bí thư, mặc cho tình thế phức tạp. Honecker nói cuối cùng. Ông xúc động sâu sắc khi Stoph đưa ra yêu cầu bãi nhiệm ông. Tôi cố ghi chép: “Tôi phải cảnh báo”, Honecker nói, “nếu có ai đó cho rằng bãi nhiệm tôi là giải quyết được các vấn đề bên trong. Kẻ thù vẫn sẽ hoạt động mạnh mẽ. Sẽ chẳng có gì dịu đi cả.” Sự hiện diện của Gorbachev và đông đảo quan khách trong quốc khánh thứ 40 là thể hiện cảm tình đối với CHDC Đức. Ở Hungary và Ba Lan, chủ nghĩa xã hội đã thất bại rồi. Không được động chạm đến các thành quả của CHDC Đức. “Việc thay chân tôi cho thấy”, Honecker nói, “bên ngoài có thể gây sức ép hăm dọa chúng ta. Đối phương sẽ tận dụng điểm đó. Tôi không đồng ý thay đổi nhân sự. Ở Hungary, thay chân Kadar cũng không đem lại gì.” Trong mục thảo luận có tiếng nói từ những đồng chí làm ông hoàn toàn bất ngờ. Ông nói điều đó ra không như một kẻ bại trận, mà như một đồng chí với sức khỏe dồi dào nhất. Vì rõ ràng tất cả muốn ông bãi nhiệm nên ông sẽ không gây khó dễ. Một số điểm ông nói đúng. Đối thủ chính trị sẽ không cho ta ngơi tay lấy một giây. Nhưng Honecker đã nhận định sai tình cảnh dân chúng ở CHDC Đức. Khả năng đánh giá tình hình bên trong của ông bị lệch lạc. Tôi không khinh thường tác động từ CHLB Đức. Trong mấy năm qua, chính lãnh đạo đảng đã tự đánh mất niềm tin của dân chúng. Honecker cho biểu quyết . Bộ chính trị ra nghị quyết nhất trí – nghĩa là với cả biểu quyết của Honecker – đề nghị Trung ương đảng đưa Honecker khỏi nhiệm vụ tổng bí thư. Cuộc họp Trung ương đảng lần thứ 9 sẽ diễn ra vào ngày mai, 18/10, với đề nghị bầu tôi làm tổng bí thư mới. Quyết định bãi nhiệm Joachim Herrmann và Günter Mittag cũng được nhất trí trình lên Trung ương đảng . Cuộc họp chấm dứt lúc 13 giờ 50. Một lát sau, phát điện khẩn đến các ủy viên thường vụ và dự khuyết Bộ chính trị với nội dung sau: “Kính gửi các đồng chí, phiên họp thứ 9 của Trung ương đảng SED được Bộ chính trị quyết định triệu tập vào lúc 14 giờ ngày thứ Tư 18/10/1989 tại trụ sở Bộ chính trị. Chương trình nghị sự: về tình hình chính trị. Gửi lời chào XHCN E. Honecker.” Nhất định các bí thư tỉnh ủy thứ nhất và các chủ tịch đảng liên minh giật mình. Chẳng gì thì Honecker còn nói với họ hôm 12 hoặc 13/10 là cuộc họp Trung ương đảng sắp tới mãi tận 15 đến 17/11 mới diễn ra, với chương trình nghị sự là chuẩn bị Đại hội đảng XII và chiến lược xã hội của SED cho thập kỷ chín mươi. Giấy mời mới này biến việc Honecker sắp bị bãi nhiệm thành một bí mật công khai. Sau cuộc họp Bộ chính trị, Honecker mời tôi vào văn phòng ông. “Có lẽ anh hiểu là mọi chuyện làm tôi xúc động. Anh có thể chuẩn bị cho tôi một tuyên bố ngắn để đọc trước toàn thể Trung ương đảng được không?” Tôi nhận lời sẽ làm xong một đề nghị sau một tiếng. Schabowski đã chuẩn bị một tuyên bố.
Khi tôi trao cho Honecker, ông đọc và nói: “Đồng ý. Tôi sẽ bổ sung vài điểm nhỏ nữa.” “Nhưng sớm mai anh nên nộp cho Bộ chính trị”, tôi đáp. “Được, được thôi…” Tuyên bố của ông nói đến việc từ chức vì lý do sức khỏe. Tôi suy nghĩ: Stoph đã đề nghị thẳng thừng là bãi nhiệm ông cơ mà? Tất nhiên. Trong biên bản cũng ghi thế. Tuy vậy, tôi chấp nhận lời giải thích “vì lý do sức khỏe” của ông. Không sai. Quả thực sức khỏe Honecker không cho phép ông làm việc tiếp. Nhưng riêng điều đó không phải lý do thay thế ông. Ông bị thay thế vì chịu trách nhiệm về các sai lầm chính trị trầm trọng đã đưa CHDC Đức vào khủng hoảng này. Từ chỗ Honecker về, tôi chỉ còn vài tiếng để hoàn tất bài diễn văn trước Trung ương đảng ngày mai. Ai đó vừa viết cho tôi trước đây mấy hôm: “Egon, anh phải phá vỡ thế độc quyền của SED!” Đó không phải quan điểm của tôi. Chính tôi cũng biết đảng đang khủng hoảng. Trong nhiều lĩnh vực, đảng từ lực lượng chính trị tiên phong biến thành nhà quản lý. Trung ương đảng và bộ máy lãnh đạo trực thuộc ngày càng cứng nhắc trong cơ cấu quan liêu. Vai trò lãnh đạo của SED bị nhiều người coi như chỉ huy kinh tế thuần túy. Nhưng SED còn hơn hai triệu đảng viên. Tôi tin chắc rằng đảng còn khả năng phục hồi lý tưởng XHCN và thực tế XHCN. Hàng triệu người trong và ngoài đảng phấn đấu quên mình cho đất nước chúng ta. Đó là cơ sở niềm tin của tôi. Các trợ lý riêng của tôi đã chuẩn bị xong dự thảo. Herger, Schabowski và tôi cùng họ xem lại bài viết. Chúng tôi tranh cãi, gạch bỏ, trình bày lại. Đặc biệt chữ “Bước Ngoặt” gây nhiều băn khoăn. Câu hỏi ở đây là: chúng ta muốn gì? Chúng ta định gọi tên chương trình của chúng ta trong thời Hậu Honecker là gì? Có nên tiếp nhận các chữ Nga “Perestroika” và “Glasnost”? Dù rằng mọi người không cần dịch cũng hiểu, tôi không muốn chép lại chúng. Tôi phải tìm ra một khái niệm Đức để vừa thể hiện sự trân trọng những gì đã được thử thách trong 40 năm CHDC Đức lại vừa chỉ rõ là chúng tôi quay lưng lại với những gì đã đưa nước ta vào tình cảnh hiện tại. Tôi quyết định dùng cách trình bày “Với phiên họp hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu một Bước Ngoặt” . Bài diễn văn được hoàn tất lúc đã quá nửa đêm, sớm mai tôi sẽ trình Bộ chính trị để phê chuẩn. Nó được làm vội vã, chứa nhiều cách trình bày thiếu mạch lạc, chỉ chú trọng được phần nào mong đợi của những ai xuống đường biểu tình cho cải cách ở CHDC Đức. Bộ chính trị, nơi bài diễn văn của tôi được phê chuẩn, vẫn là một cơ quan cũ, trước đây mấy tuần còn im lặng trước các sự kiện ở CHDC Đức. Chỉ phiên họp Trung ương đảng kế tiếp mới ra nghị quyết về chương trình hành động cần thiết của SED được. Trong tình thế khó khăn này, lại thêm áp lực thời gian, không thể phù phép ra ý niệm được. Trong khi ngồi đọc thư từ một mình ở phòng làm việc, tôi thấy hoài nghi: mình có là tổng bí thư thích hợp không? Trước mặt bạn bè tôi vẫn thường nói, có lẽ tôi sẽ chỉ là tổng bí thư của giai đoạn quá độ. Nhưng cũng phải làm chủ cả giai đoạn quá độ. Tôi sẽ không chấp nhận các giải pháp nào ngoài luồng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh tôi, các phương tiện truyền thông phương Tây còn nêu tên những người kế tục sự nghiệp chính trị khác của Honecker là Lorenz, Modrow, Schabowski và Wolf. Mỗi người chúng tôi có lịch sử và đặc điểm tư chất riêng. Rõ ràng tôi có bất lợi vì có chân trong Bộ chính trị và qua đó hay bị nêu trên các tít tiêu cực của báo chí phương Tây. Một khi các định kiến đã ăn sâu vào óc thì chúng cũng trào từ phương Tây qua CHDC Đức. Tôi sẽ phải chung sống với hình ảnh chủ yếu sinh ra từ những lời đồn thổi. Tôi không lạ gì chiến thuật của truyền thông CHLB Đức. Bằng cách gọi người này là mầm hy vọng và người kia là kẻ cố hữu, họ muốn gây rối ren và bất hòa trong hàng ngũ các chiến hữu. Tất nhiên phong trào phản kháng xuống đường cũng nhắm vào cá nhân, song chủ yếu nhắm vào chính sách được thực thi. Vậy từng người trong chúng tôi phải giành giật lại niềm tin. Nhiều năm qua, mỗi người trong chúng tôi – ở chức vụ và tại vị trí của mình – đã cùng nhau làm chính sách này. Cho dù khác nhau về tư chất, chúng tôi đều là người cộng sản. Ít nhất thì cho đến nay mỗi người trong chúng tôi cũng khẳng định điều đó. Chúng tôi muốn thay đổi trong CHDC Đức chứ không thay đổi chế độ như truyền thông phương Tây giờ đây trắng trợn đòi hỏi. Tôi về nhà thì đồng hồ đã chỉ 3 giờ sáng. Vợ tôi vẫn đợi, mặc dù sáng sớm vẫn phải đi làm. Tôi vui mừng nhận thấy nhà tôi đồng hành rất tế nhị trong một thời điểm quan trọng và đầy biến động, cả đối với gia đình chúng tôi. NHỮNG NGÀY SỤC SÔI VÀ NGỜ VỰC 18 – 31/10/1989 18/10 Sương mù sớm mai còn phủ lên Berlin khi tôi đến Nhà Lớn lúc 6 rưỡi. Nhà Lớn là tên gọi dân gian của tòa nhà Trung ương Đảng. Nói cho chính xác thì không phải Trung ương đảng mà bộ máy của nó hoạt động ở đây. Trong tòa nhà này gần 2.000 cộng tác viên chính trị và kỹ thuật có sứ mệnh và công việc là biến chính sách do Trung ương đảng quyết định thành thực tế. Tiếc rằng qua nhiều năm tháng bộ máy chuyên trách này đã trở nên quan trọng hơn cả Ban chấp hành trung ương đảng được bầu. Cả Bộ chính trị cũng từ nhiều năm nay không còn là diễn đàn thực sự để kiến tạo ý kiến tập thể. Từ Đại hội đảng này đến Đại hội đảng sau, Bộ chính trị ngày càng phình to. Ngày ra đời năm 1949 chỉ có bảy ủy viên thường vụ và hai dự khuyết. Đại hội XI Trung ương đảng bầu ra 22 ủy viên thường vụ và năm dự khuyết. Quá đông để tranh luận đa chiều. Thiếu tư duy theo phương án lựa chọn căn cứ vào thực tế; không phải lựa chọn về cơ chế theo hướng xã hội tư bản chủ nghĩa, mà chọn giải pháp tối ưu cho chủ nghĩa xã hội. Vị thế áp đảo gia tăng của tổng bí thư cản trở tính tập thể. Khi thế chỗ Ulbricht năm 1971, Honecker muốn “bình đẳng với tập thể” nhưng không giữ được kỳ vọng này lâu. Tôi biết rõ rằng trong tương lai sẽ luôn bị hỏi, vì sao tôi quá ít phản kháng. Có lẽ chẳng ích gì mấy khi viện dẫn niềm tin thánh thiện của tôi vào sự thống nhất và trong sạch của đảng. Hoặc lý giải là tôi đã chú trọng quá mức các công lao ngày xưa của bậc cao tuổi trong Bộ chính trị. Thẩm quyền lãnh đạo một nhà nước xã hội XHCN không bắt nguồn tiên quyết từ thành tích trong quá khứ. Những gì các nhà nước tư bản chủ nghĩa chỉ nhắc đến ngay trước kỳ vận động tranh cử thì đảng cầm quyền ở một nhà nước XHCN không giây phút nào được phép quên: phải hằng ngày giành được niềm tin. Chúng ta đã xuất bản số lượng lớn tác phẩm của Rosa Luxemburg ở CHDC Đức, nhưng lời cảnh báo của bà về chuyện này thì chúng ta đã không chú trọng. Bà viết: không thể chấp nhận vài chục lãnh đạo đảng chỉ huy phong trào cách mạng. Cần lên án việc thỉnh thoảng đưa công nhân tới các cuộc họp để vỗ tay ca ngợi diễn văn của lãnh đạo. Bà gọi đó là “lãnh đạo kiểu băng nhóm”, là “chuyên chính của một nhúm chính trị gia” chứ không phải chuyên chính vô sản. Ban lãnh đạo SED chưa bao giờ để tâm thực sự đến lời phán xét khắt khe về những người lãnh đạo XHCN của người đồng sáng lập KPD . Vì vậy đổi mới chính sách của chúng ta phải gắn bó hữu cơ với việc tìm lại các lý tưởng XHCN khởi thủy. Về văn phòng, tôi ngồi xuống bàn để bổ sung ý tưởng về vai trò của Trung ương đảng được bầu vào bài diễn văn buổi chiều. Trong tương lai tôi sẽ được đánh giá qua mức thành công phát triển dân chủ trong xã hội và trong sinh hoạt đảng. Nhưng tôi sẽ không thỏa hiệp trong hai vấn đề nguyên tắc. Thứ nhất: tất cả những gì chúng ta đem ra tranh cãi đều phải phụng sự rõ ràng mục đích phát triển chỉ nghĩa xã hội. Thứ hai: CHDC Đức đang và sẽ vẫn là một quốc gia có quyền tự quyết. Khoảng 13 giờ 20 tôi bước vào phòng đại hội của Trung ương đảng. Thường ngày tôi đi từ phòng làm việc mất năm đến mười phút. Hôm nay tôi cảm thấy như quãng đường chạy marathon. Đầu óc tôi quay cuồng quanh phiên họp Trung ương đảng. Năm 1971 tôi được bầu làm ủy viên dự khuyết Trung ương đảng. Tôi không rõ đã tham gia bao nhiêu đại hội toàn thể từ ngày đó. Trung ương đảng họp tối thiểu hai phiên mỗi năm. Phía đầu phòng kê hai bàn cho chủ tịch đoàn. Các ủy viên Bộ chính trị ngồi bàn trước, ủy viên dự khuyết ngồi bàn sau. Trong khán phòng có mười ba dãy ghế. Tám hàng đầu dành cho các ủy viên trung ương đảng theo thứ tự chữ cái,
từ hàng thứ chín trở xuống cho các ủy viên dự khuyết theo cách xếp tương tự. Hôm nay khi tôi vào phòng thì hầu hết các ủy viên thường vụ và dự khuyết Trung ương đảng đã an vị. Trước tiên tôi liếc qua bản điểm danh. 159 trong số 165 ủy viên Trung ương đảng được bầu từ Đại hội đảng XI có mặt, và 47 trong số ủy viên dự khuyết. Qua đó Trung ương đảng đủ năng lực ra nghị quyết. Không khí trong phòng tập trung và căng thẳng cao độ. Hầu hết các đồng chí đã biết tin trước khi đến họp, biết chúng tôi sắp ra quyết định gì trong mấy phút tới. Tôi không hình dung là họ nghĩ đến một “cuộc cách mạng cung điện” hay “đảo chính.” Quyết định thay thế Honecker dần dần chín muồi từ lâu. Lẽ ra phải diễn ra ở Đại hội đảng XI hồi năm 1986 mới phải. Khi Honecker bước vào phòng, mọi tiếng nói chuyện ngừng bặt. Ai cũng chìm trong suy nghĩ. Hôm qua tôi còn bàn với Stoph lần nữa để ông khai mạc phiên họp. Sau đó mới đến lượt Honecker. Nhưng Honecker không muốn thả quyền trượng khỏi tay. Ông vẫn còn là tổng bí thư. Ông vẫn có quyền ấn định tiến trình đại hội. Mặc dù thời điểm bắt đầu là 14 giờ, đúng 13 giờ 55 Honecker đứng dậy và đọc lời tuyên bố: “Các đồng chí nam nữ thân mến! Sau khi suy nghĩ chín chắn và theo kết quả cuộc họp Bộ chính trị hôm qua, tôi đi đến quyết định sau đây: do lý do bệnh trạng và sau khi phẫu thuật thành công, tình trạng sức khỏe không còn cho phép tôi đủ sức mạnh và năng lượng mà vận mệnh của đảng và nhân dân ta đòi hỏi hôm nay và tương lai. Vì lý do đó tôi đề nghị Trung ương đảng miễn nhiệm vụ tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng SED, chức vụ chủ tịch Hội đồng nhà nước và Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Nay xin đề xuất với Trung ương đảng và Quốc hội đồng chí Egon Krenz là người có khả năng và tâm huyết đón nhận trách nhiệm và khối lượng công việc như hoàn cảnh, lợi ích của đảng và nhân dân, cũng như công tác chuẩn bị Đại hội đảng XII bao quát mọi lĩnh vực xã hội đòi hỏi. Các đồng chí thân mến! Cả cuộc đời có ý thức của tôi hiến dâng cho lòng trung thành sắt đá với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và với thế giới quan Marx-Lenin về xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất Đức. Tôi đánh giá công cuộc thành lập và phát triển thành công nhà nước XHCN Cộng hòa dân chủ Đức mà chúng ta đã cùng nhau tổng kết nhân quốc khánh thứ 40 là đỉnh cao trong cuộc đấu tranh của đảng ta và của tác động riêng tôi ở cương vị người cộng sản. Tôi cảm ơn Bộ chính trị, Trung ương đảng, các chiến hữu trong thời kỳ gian khổ của cuộc kháng chiến chống phát xít, các đảng viên và tất cả các công dân trong nước đã chung tay hành động hữu hiệu hàng thập kỷ vì hạnh phúc nhân dân. Trong tương lai tôi vẫn sẵn sàng phục vụ đảng với kinh nghiệm và lời khuyên của mình. Tôi chúc đảng ta và ban lãnh đạo củng cố đoàn kết và thống nhất, chúc Trung ương đảng thành công trong tương lai.” Trong khi Honecker đọc lời tuyên bố, tôi nhớ lại quãng đường gian khó dẫn đến phiên họp này. Honecker không tự ý từ chức. Tuy ông chấp thuận bãi nhiệm trước Bộ chính trị, nhưng chỉ sau khi bị yêu cầu ép phải từ chức. Trong một điểm hệ trọng ông đã tự tiện sửa lời bản tuyên bố do Schabowski thảo ra. Trong bản chính là: “Nay xin đề xuất với Trung ương đảng và Quốc hội một đồng chí có khả năng và tâm huyết đón nhận trách nhiệm và khối lượng công việc như hoàn cảnh, lợi ích của đảng và nhân dân, cũng như công tác chuẩn bị Đại hội đảng XII bao quát mọi lĩnh vực xã hội đòi hỏi.” Nhưng Honecker đã điền tên tôi vào. Qua đó ông gây ấn tượng chính mình đã đề cử tôi làm người kế nhiệm ông. Kỳ thực Bộ chính trị đề cử tôi . Sự tự tiện này của Honecker chẳng hay ho gì cho tôi cả. Từ đó sinh ra huyền thoại là hoàng thái tử đã tiếp quản quyền lực trơn tru. Ngay tối hôm ấy một bài bình luận trong truyền hình Tây Đức đã gán cho tôi danh hiệu “Erich trẻ.” Sau khi Honecker về chỗ ngồi, Stoph điều hành hội nghị. Ông cảm ơn bài tuyên bố của Honecker. Ông hỏi, ai đồng ý bãi nhiệm Honecker? Trong phòng lặng như tờ. Hầu hết mọi người giơ tay. Có một người chống. Hanna Wolf, cộng tác viên kỳ cựu của Honecker. Bà trung thành với thủ trưởng đến tận phút này. Sau 18 năm làm Tổng bí thư, Honecker bị hạ xuống. Tôi không vì thế mà cảm thấy thỏa mãn, thậm chí còn thất vọng vì sự việc phải tiến xa đến mức ấy. Tôi không bằng lòng, vì chúng ta đã không tìm được giải pháp sớm hơn cho việc thay nhân sự lãnh đạo nhằm ngăn CHDC Đức không bị trôi vào khủng hoảng này. Stoph thông báo rằng Honecker đề nghị thông cảm khi ông rời hội nghị vì lý do sức khỏe kém. Mọi người trong phòng đồng ý. Cả chút thương hại đi kèm. Stoph cảm ơn Honecker về “sự nghiệp chính trị”, không tỏ xúc cảm nào. Các ủy viên thường vụ và dự khuyết đứng dậy. Khi Honecker đứng dậy, ông không giấu được giọt lệ trong mắt. Nước mắt cảm động khi chia tay? Cũng có thể. Nhưng hơn thế nữa là nước mắt thất vọng, cay đắng, bất đồng cảm và bất lực không chống lại nổi cú tuột dốc này. Tất cả vỗ tay vang dội tiễn ông khỏi phòng. Khi Honecker ra khỏi phòng, Stoph nói: “Bộ chính trị nhất trí đề nghị bầu đồng chí Egon Krenz làm Tổng bí thư Trung ương đảng.” Ông cho biểu quyết. Tôi được nhất trí bầu. Trong tiếng vỗ tay tôi suy nghĩ: Honecker đã rời bỏ chính trường. Đường của chúng ta sẽ tới đâu? Từng người trong phòng đều rõ là không thể tiếp tục những gì trong quá khứ. Quả lắc sẽ đánh tới đâu? Tới đổi mới hay liên tục? Tinh thần đổi mới liệu có đủ lấy lại lòng tin đã mất của các đảng viên và nhân dân? Tôi không muốn hứa hẹn. Vì lời hứa không được kinh tế làm nền tảng. Người ta mong đợi tôi táo bạo. Tôi cũng muốn táo bạo, nhưng không liều mạng. Tôi tin rằng không được phép vứt bỏ những giá trị quý báu của quá khứ. Đây là một con đường nhỏ xíu mà tôi, tổng bí thư mới, phải đi qua. Lời Stoph dứt tôi khỏi suy nghĩ miên man: “Trung ương đảng trình Quốc hội đề nghị bầu đồng chí Egon Krenz, Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương đảng SED, làm chủ tịch Hội đồng nhà nước và Hội đồng quốc phòng.” Về vấn đề này đã có đôi chút co kéo sau cánh gà sân khấu chính trị. Đại sứ Xô viết báo cho tôi biết, ông nghe nói Werner Krolikowski hy vọng kiếm được chức chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và định đề nghị Stoph làm chủ tịch Hội đồng nhà nước. Kochemassov khuyên tôi nên ngăn vụ tranh giành chức vụ vô bổ ấy. Ông cũng đã nói chuyện với Stoph và Stoph chia sẻ ý ông. Do đó tôi chủ ý đảm nhận cả ba chức vụ mà Honecker từng có. Trung ương đảng nhất trí. Không rõ tất cả các ủy viên Trung ương đảng có nghĩ giống tôi khi biểu quyết không. Ở đại hội không ai chống lại đề nghị trên. Tôi hiểu cuộc bầu ấy không phải là quyết định chống Honecker và theo Krenz, mà hơn thế, nó hàm chứa hy vọng của nhiều người, vẫn còn có thể thoát khỏi chính sách đã trở nên cứng nhắc. Việc Günter Mittag và Joachim Herrmann bị bãi nhiệm ủy viên Bộ chính trị và bí thư Ban chấp hành trung ương đảng diễn ra gần như “chơi”, nếu như không có tiếng Moritz Mebel hô xen vào. “Chuyện quy chế thì sao”, ông kêu. “Tôi muốn biết tại sao Bộ chính trị bãi nhiệm đồng chí Herrmann và đồng chí Mittag. Tôi muốn Bộ chính trị giải thích việc này.” Stoph trả lời: “Vị họ không đảm đương nổi nhiệm vụ của mình… được chưa ạ?” Ở thời điểm ấy câu trả lời chung chung của Trung ương đảng vẫn được chấp nhận. Giờ đến lượt tôi. Tôi đọc bài diễn văn được thảo trong điều kiện vô cùng phức tạp. Trong mấy ngày qua tôi phải để tâm hơn đến các cuộc nói chuyện với những ủy viên Bộ chính trị về chuyện bãi nhiệm Honecker, ít chăm chút được nội dung bài viết. “Với cuộc họp hôm nay”, tôi nói, “chúng ta sẽ khởi đầu một Bước Ngoặt.” Tôi tuyên bố, cánh cửa đến một cuộc đối thoại nội chính đã mở toang. Chúng ta phải quay mặt về với nhân dân. Tôi phát biểu niềm tin của mình: “Tất cả các vấn đề trong xã hội chúng ta đều giải quyết được bằng chính trị. […] Hơn mười vạn người, trong đó không hiếm thanh niên, đã rời khỏi đất nước. Chúng ta coi sự ra đi của họ như xuất huyết trầm trọng. Mỗi người trong chúng ta thấu hiểu những giọt nước mắt của các bậc cha mẹ.” Chúng ta có nghĩa vụ “suy ngẫm vì sao nhiều người quay lưng lại với chúng ta như vậy.” Tôi nói những lời dành cho đại diện nhà thờ và những công dân có thế giới quan tôn giáo: “Xã hội XHCN cần có và muốn có sự cộng tác của các bạn. Chúng ta có nhiều liên kết
hơn là xa cách.” Tôi nhấn mạnh nguyên tắc: “Nước Đức cộng hòa XHCN của chúng ta đang và sẽ vẫn là một nước có chủ quyền. Chúng ta tự giải quyết các vấn đề riêng”, tuy nhiên tôi kêu gọi cộng tác hữu hiệu với Cộng hòa liên bang Đức: “Chúng ta sẵn sàng xét các phương pháp và điều kiện nhằm kiến tạo lâu dài quan hệ giữa CHDC Đức và CHLB Đức chặt chẽ hơn và quy định bằng hiệp ước, cũng như phát triển các hình thái hợp tác và bền vững trong kinh tế, chính trị, văn hóa, nhân đạo và du lịch.” Điều này nằm trong truyền thống của Hiệp ước cơ sở . Tôi đặc biệt quan tâm đến một phát ngôn rõ ràng về tình hữu nghị với Liên Xô. Ở đây phải công khai chỉnh lại một sai lầm chính trị dại dột mà Erich Honecker đã mắc phải. Do đó tôi nhấn mạnh: chúng ta hiểu “công cuộc cải tổ ở Liên Xô là một quá trình tất yếu mà Đảng Cộng sản Liên Xô cùng tổng bí thư Mikhail Sergeyevich đã táo bạo tiến hành.” Tôi nhấn mạnh: “Tương lai chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào thành công cải tổ ở Liên Xô.” Tôi công bố các cải cách triệt để ở CHDC Đức và thông báo khẩn trương chuẩn bị “dự luật về du lịch nước ngoài.” Các hạn chế đã ban hành về du lịch Hungary và Tiệp Khắc sẽ được thu hồi. Tôi động viên các nhà báo hãy “tăng cường đấu tranh công khai với những hiện tượng trái nghịch với bản chất của chủ nghĩa xã hội và chính sách của chúng ta.” Bài nói của tôi kéo dài 45 phút và được đón chào nồng nhiệt. Khi Stoph định cho biểu quyết không qua phần tranh luận thì Moritz Mebel lại lên tiếng lần nữa. Ông nhảy bật dậy từ chỗ ngồi và nói: “Tôi là đảng viên SED từ 46 năm rưỡi nay, 20 năm ủy viên dự khuyết và thường vụ trong Bộ chính trị, và tôi buộc phải nói rằng, […] tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những gì tích cực hay cả tiêu cực xảy ra trên đất nước này. […] Và tôi cũng tự hỏi, […] vì sao tôi đã im lặng và không đủ dũng cảm bước lên một bước để nói: hỡi các đồng chí, như thế không phải. Tôi […] đã dũng cảm trước quân thù. Tôi đã ra mặt trận. […] Tôi đã là chiến sĩ trong quân đội Xô viết. Những ở đây tôi đã không tỏ lòng dũng cảm đó. Tôi đã tranh luận ngoài hành lang, nhưng ở khán đài này […] không ai thấy Moritz Mebel với lời phê bình và phê bình tích cực […]” Tôi rất ấn tượng bởi bài tham luận ngắn này, suýt bỏ lỡ câu cuối của ông: “Egon, những gì đồng chí vừa nói là đúng như đảng mong đợi, và tôi chỉ hy vọng là những gì đồng chí nói được công bố không cắt xén.” Lời thúc giục khẩn thiết của một người cộng sản giàu kinh nghiệm khiến tôi rất xúc động. Tôi nhìn xuống khuôn mặt các đồng chí ngồi phía trước. Họ cũng xúc động. Có lẽ câu hỏi “vì sao mình đã im lặng?” hành hạ tất cả và rõ ràng làm đa số trong phòng rối bời. Thiếu sự kiểm tra dân chủ ở Bộ chính trị bởi Trung ương đảng nên ngày càng lòi ra thêm chủ nghĩa chủ quan, bất lực khi tự chỉnh đốn và cải cách nội bộ cần thiết. Phớt lờ mọi vấn đề đã thành chuyện thường tình. Không khí này hạn chế khả năng sáng tạo và cá tính của ngay cả các đồng chí trong Trung ương đảng, dẫn đến chủ nghĩa cơ hội, thụ động và nhẫn nhục. Một số đồng chí, trong đó có Manfred Ewald và Modrow, yêu cầu hôm nay nên thảo luận nguyên tắc trong phiên họp toàn thể. Tôi thấy mình không đủ điều kiện vì chưa chuẩn bị kịp nội dung. Trung ương đảng cần biết: tình hình kinh tế thực tế ra sao? Tài chính nhà nước ra sao? Có thể tiến hành cải cách kinh tế nào? Các quy định về du lịch đã nhắc đến có nội dung gì và làm sao trả tiền được? Chúng ta chờ đợi gì ở các đồng minh? Quan hệ với CHLB Đức ra sao? Chúng ta cần một chương trình hành động sát thực tế và khả tín. Bắt buộc phải có sự trao đổi với Gorbachev. Tất cả những việc ấy không thể hoàn tất trong thời gian qua. Một cuộc tranh luận phát sinh từ tình hình thời sự có thể hại nhiều hơn lợi. Vì vậy tôi ủng hộ các đồng chí chủ trương cho quần chúng biết ngay những gì vừa nói ra trong cuộc họp. Tôi đề nghị triệu tập phiên họp Trung ương đảng tiếp theo vào thời điểm sớm nhất như có thể. Cuộc trao đổi ngắn và phần nào rất cảm tính đưa đến yêu cầu của Hans-Joachim Hoffmann: “Egon, anh phải ra trước ống kính truyền hình. […] Không phải chuyện anh, Egon, mà bây giờ là chuyện đảng phải giành lấy tiếng nói, ngay tối nay. […] Ta đã đứng ngập trong nước tới cổ rồi. Ta đứng trước các cuộc biểu tình mới và rầm rộ. […] Ta không còn thì giờ để tranh luận chi tiết nữa. […] Nếu bây giờ ta không lên tiếng, cho dù cũng đã muộn, sẽ có nguy cơ không bao giờ được phép lên tiếng nữa.” Trung ương đảng trao cho tôi nhiệm vụ đọc bài diễn văn vừa rồi trên vô tuyến . Chủ ý của tôi là chúng ta phải phá bỏ thực trạng lâu nay: một sự thực cho Trung ương đảng và một sự thực đã được sàng lọc cho nhân dân. Tối nay ai ai cũng được biết Trung ương đảng bàn luận gì. Khoảng 15 giờ 50 cuộc họp Trung ương đảng kết thúc. Ngay sau 14 giờ, khi các phương tiện truyền thông còn chưa thông báo kết quả bầu tôi, Gorbachev đã gửi điện chúc mừng. Ông nhấn mạnh “tầm quan trọng đối với tình hình ổn định ở châu Âu, đối với sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội và hòa bình, khi Liên Xô và CHDC Đức đồng lòng.” Sau khi tôi về văn phòng, đại sứ Kochemassov đến. Ông trân trọng đọc thông điệp của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. “Chúng tôi ở Matxcơva vui mừng chân thành về giải pháp xứng đáng đã tìm được trong hoàn cảnh phức tạp. Chúng tôi tin chắc qua đó đã tiến được một bước quan trọng nhằm củng cố chủ nghĩa xã hội ở CHDC Đức. Sự thông cảm lẫn nhau, tinh thần cởi mở với nhau cũng như tăng cường cộng tác ở mọi lĩnh vực nhất định giờ đây sẽ đạt tầm vóc mới.” Tôi rất hy vọng như vậy. Đại sứ chuyển cho tôi lời mời của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô “đến thăm làm việc tại Matxcơva vào thời điểm gần nhất.” Tôi biết, sau khi tôi được bầu Gorbachev đã gửi thông điệp cá nhân tới những vị đứng đầu nhà nước và chính phủ cường quốc, tới thủ tướng Đức Kohl cũng như các đảng anh em để ủng hộ “ban lãnh đạo mới của CHDC Đức.” Chỉ thị của Gorbachev gửi đến đại sứ Xô viết ở CHLB Đức toàn văn như sau: “Đồng chí hãy đến thăm ngay thủ tướng Helmut Kohl và nhân danh Mikhail Gorbachev truyền lại thông điệp miệng sau đây: ‘Như Ngài thủ tướng chắc đã được biết qua hệ thống truyền thông, ở Berlin vừa chấm dứt phiên họp toàn thể Trung ương đảng SED. Thay cho Erich Honecker, Egon Krenz nay được bầu làm tân tổng bí thư của Trung ương đảng SED. Ngoài ra còn một số thay đổi nhân sự khác. Chúng tôi không có ý định cùng Ngài bàn về công việc nội bộ của một quốc gia khác – quốc gia Cộng hòa dân chủ Đức hữu nghị và đồng minh với chúng tôi – và của một đảng khác – Đảng XHCN thống nhất Đức – vốn có bề dày đoàn kết và quan hệ giữa những người đồng chí với chúng tôi. Chúng tôi tôn trọng các biến đổi đã diễn ra là một thực tế. Các điều kiện đã dần chín muồi ngay trong đảng SED, hàm chứa cả tâm trạng trong xã hội. Chúng tôi tin chắc rằng đường lối của ban lãnh đạo mới ở CHDC Đức sẽ hướng về hoàn thiện và đổi mới xã hội, đồng thời bảo vệ những thành tựu thực tế tồn tại. Không nghi ngờ gì khi mong đợi một phong trào dần dần từng bước hướng đến cải cách. Chúng tôi thổ lộ những ý nghĩ ấy vì tin rằng CHLB Đức, như thủ tướng Kohl trong cuộc điện đàm ngày 11/10 đã cam đoan, không hề mong đợi sự bất ổn định của CHDC Đức cũng như không muốn gì xấu cho họ. Mikhail Gorbachev mong rằng, theo tinh thần lời cam đoan trên và sự thông cảm sâu sắc đã đạt được tại cuộc gặp thượng đỉnh ở Matxcơva và Bonn, Ngài thủ tướng và CHLB Đức nói chung sẽ có một quan điểm tích cực đối với những sự kiện ở CHDC Đức vốn phù hợp với tính nghiêm túc trong hành vi của các bên và yêu cầu ổn định ở châu Âu’” Trước khi đến đài truyền hình CHDC Đức ở Berlin-Adlershof tôi gọi điện cho bộ trưởng bưu điện Rudolph Schulze. Ông là đảng viên CDU. Năm 1988 ông bị đưa ra làm bung xung: Erich Honecker sai công bố là bộ trưởng bưu điện CHDC Đức ra chỉ thị không cho lưu hành nguyệt san Xô viết SPUTNIK nữa. Rudolph Schulze biết tin ấy trên báo. Hôm nay tôi xin ông thứ lỗi và khuyến nghị ông thông báo công khai là kể từ nay SPUTNIK lại được đưa vào hệ thống phát hành của CHDC Đức. Sau đó tôi đi đến đài truyền hình. Dự định thông báo ngay cho dân chúng biết về cuộc họp Trung ương đảng đã thành một cú bóng sút